You are on page 1of 421

(CAMBODIA)

SimiKtóp

CK.0000065868

r i DẤU ẤN QUÂN TÌNH NGUYỆN VIỆT NAM


ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG CAMPUCHIA

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - THÔNG TIN


CHẼN THẮNG
BIÊN GIỚI TÂY-NAM VIỆT NAM
VẢ DẤU ẤN
QUÂN TÌNH NGUYỆN VIỆT NAM
ĐOI VỚI CÁCH MẠNG CAMPUCHIA

ỊỊ^ NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - THÔNG TIN


LỜI N Ó I Đ Ầ U

ị r i ệ t Nam và Campuchia là hai quốc gia láng giềng gần gũi, có


truyền thống đoàn kết hữu nghị lâu đời, nhân dân hai nước là anh em
gắn bó, chia ngọt, sẻ bùi. Sau chiến thắng năm 1975, nhân dân Việt
N am và nhân dân Campuchia thiết tha mong muốn được sống trong hòa
bình d ể khôi phục và phát triển đất nước sau nhiều năm chiến tranh hy
sinh, gian khổ. Nhưng tập đoàn Pôn Pốt, Iêng Xa ry, Khiêu Sam-phon dã
phản bội lại nhăn dân Campuchia và phá hoại truyền thống đoàn kết
hữu nghị của nhăn dân hai nước, thực hiện chính sách diệt chủng ở
Campuchia và xâm lược biên giới Tây-Nam Việt Nam.
Trước những hành động xâm lược và diệt chủng tàn bạo của chẽ độ
Pôn Pốt, đáp lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết Cứu nước
Campuchia, của nhản dăn Campuchia anh em, Đảng, Nhà nước, nhăn
dân và Quăn dội Việt Nam đã thực hiện quyền tự vệ chính đáng của
mình, dập tan các hành dộng xâm lược, cùng với lực lượng vũ trang,
nhân dân Campuchia và sự ủng hộ của bạn bè trên thế giới đánh đổ chế
độ diệt chủng vào Ngày 7 tháng Giêng năm 1979.
S ự giúp đỡ bằng xương máu của Quân tinh nguyện Việt Nam đối với
cách mạng Campuchia là sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa, nhân dạo và
đúng đắn nhất. Tình đoàn kết chiến dấu trong sáng giữa nhân dân hai
nươc Viẹt Nam — Campuchia sẽ mãi mãi được lịch sử khắc ghi và không
một th ế lực nào có th ể xuyên tạc được.
Với truyền thống uống nước nhớ nguồn, nhằm bày tỏ lòng biết an
sâu sắc đối với các anh hùng liệt sỹ đã anh dũng hy sinh vì nền độc lập,
tự do, ui vận mệnh chung và tình hữu nghị, đoàn kết của hai dân tộc
Việt Nam — Campuchia, vì hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực
Đông Nam Á và trên thế giới; mãi mãi ghi nhớ công lao to Lớn của Quăn
tình nguyện và cán bộ chuyên gia Việt Nam đã không quản ngại hy sinh,
vượt muôn vàn khó khăn gian khổ trong cuộc đấu tranh chính nghĩa bảo
vệ biên giới Tây-Nam của Tổ quốc và cùng quân và dân Campuchia đánh
đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt tàn bạo, hoàn thành nhiệm vụ quốc tế cao
cả, nhân kỷ niệm 35 năm Ngày Chiến thắng chiến tranh bảo vệ biển giới
Tây-Nam và cùng quăn dân Campuchia Chiến thắng chế độ diệt chủng
(7/1 /1979 - 711 12014), Nhà Xuất bản Văn hóa - Thông tin quyết định

5
xuất bản quyển sách: “Chiến thắng biên giới Tây -Nam Việt N am và
dấu ấn Quân tình nguyện Việt N am đối với cách mạng
Campuchia” . Quyển sách này gồm sáu phần:
Phần I: Thông tin cơ bản về Vương quốc Campuchia và quan hệ Việt
Nam - Campuchia.
Phần II: Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác Việt N am -
Campuchia.
Phần III: Phát biểu của lãnh đạo hai nước Việt N am - Campuchia
tại Lễ m ít tinh kỷ niệm 35 năm Ngày Chiến thắng chế độ diệt chủng.
Phần IV: Đập tan hành động xâm liCợc, đánh đổ chế độ diệt chủng.
Phần V: Vun đắp tình hữu nghị và hợp tác Việt Nam —Campuchia
lên tầm cao mới.
Phần VI: Bộ đội Cụ Hồ ở các mặt trận biên giới Tây-Nam qua
những trang truyện ngắn.
Đây là tài liệu tuyên truyền rất quan trọng, có giá trị thực tiễn to
lớn, góp phần giáo dục lòng tự hào dân tộc, tăng cường quan hệ “Láng
giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hạp tác toàn diện, bền vững lâu
dài”giữa Việt Nam và Campuchia được các th ế hệ lãnh đạo và nhân dân
hai nước dày công vun đắp đang tiếp tục không ngừng dược củng cố và
phát triển tốt đẹp, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước.
Tuy nhiên, việc thực hiện tập sách này cũng không th ể tránh khỏi
những hạn chế nhất định. N hà Xuất bản Văn hóa - Thông tin mong
nhận dược góp ý chân thành của quý bạn đọc đ ể chúng tôi phục vụ quỷ
bạn đọc ngày càng tốt hơn.
Do chưa có điều kiện liên hệ trực tiếp đ ể xin phép sử dụng với các
tác giả có bài viết, truyện ngắn được in trong tập sách này, chúng tôi rất
mong các tác giả lượng thứ và vui lòng chấp thuận. Chúng tôi hy vọng
rằng, qua tập sách này đã phần nào th ể hiện được tấm lòng của chúng
tôi đối với các anh hùng liệt sỹ, các đồng chí Quân tình nguyện, cán bộ
chuyên gia Việt N am trong cuộc đấu tranh chính nghĩa.
Trân trọng giới thiệu quyển sách này với các cơ quan, tổ chức và
đông đảo bạn đọc.

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - THÔNG TIN

6
Phần I
THÔNG TIN Cơ BẢN VỀ VƯƠNG Quốc CAMPUCHIA
VÀ QUAN HỆ VIỆT NAM - CAMPUCHIA

- Tên nước: Vương quốc Campuchia (The Kingdom of Cambodia)

- Quốc khánh: 09/1Ư1953


- Diẹn tích: 181.035 km2

- Thủ đô: Phnôm Pênh (Phnom Penh)

- Các tỉnh, th ành phố lớn: Phnôm Pênh, Bắt-đom-boong


(Battam bang), Kom-pông Chàm (Kompong Cham), Xi-ha-núc Vin
(Sihanouk Ville), Xiêm Riệp (Seam Reap).

- Vị trí địa lý: Campuchia nằm ở Tây Nam bán đảo Đông Dương,
phía Tây và Tây Bắc giáp Thái Lan (2.100 km), phía Đông giáp Việt
Nam (1.137km), phía Đông Bấc giáp Lào (492 km), phía Nam giáp
biển (400 km). Sông ngòi: Tập trung trong 3 lưu vực chính (Tônlê
Thom, Tônlê Sap và Vịnh Thái Lan). Phân bố địa hình: Đồng bằng
chiếm 1/2 diện tích tập trung ở hướng Nam và Đông Nam, còn lại là
núi, đồi bao quanh đất nước.
- Dân tộc: Người K hm er (90%), gồm nhiều loại như K hm er giữa
(tiếng K hm er là K hm er Kandal), K hm er Thượng (K hm er Loeur) và
K hm er H ạ (K hm er Krom). Các dân tộc thiểu số: 10%, gồm: Người Mã
Lai, Chăm , Lào, M iến Điện, V iệt Nam, Thái Lan, Hoa.

- Ngôn ngữ: Tiếng K hm er (95%) là ngôn ngữ chính thức. Mọi


công dân Cam puchia dược gọi là người m ang “quốc tịch K hm er”. Đạo
P h ậ t (khoảng 90% d ân sô' theo đạo P h ật) được coi là Quốc đạo.

- Dân số: Xấp xỉ 13,38 triệu người (nam 6,5 triệu, nữ 6,9 triệu)
với tỉ lệ tăn g dân số 1,54%/năm (2008).

- Thu nhập bình quân đầu người: 818 USD năm 2008 (sô' liệu của
IMF)

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN

1. Lịch sử h ìn h thành:
Vương quốc Khmer ra đời vào cuối th ế kỷ thứ 9 trên lãnh thổ của
Phù Nam và Chân Lạp trước đây. Kinh đô lúc đó là Ăng-co (Angkor). Từ
cuối th ế kỷ thứ 9 đến th ế kỷ 13, Vương quốc Khmer phát triển cực thịnh.
Từ th ế kỷ 13 đến nửa đầu th ế kỷ 19, các cuộc nội chiến và chinh phục
của ngoai bang đã làm cho Vương quô”c Khnipr s u y yêu.

2. Tóm tắ t m ột số giai đ oạn lịch sử quan trọn g qua các thời


đại:
- Những năm 60 của th ế kỷ 19 thực dân Pháp vào Đông Dương.
Năm 1863, Pháp buộc Vua Nô-rô-đôm (Norodom) phải ký Hiệp ước đặt
Campuchia dưới sự bảo hộ của Pháp và đến 1884 Campuchia hoàn toàn
trở th ành thuộc địa của Pháp.

- Năm 1941, Nô-rô-đôm Xi-ha-núc (Norodom Sihanouk) sau khi lên


ngôi lần thứ nhất đã vận động cuộc đấu tranh giành lại nền độc lập cho
Campuchia. Ngày 09/11/1953, Pháp tuyên bố trao trả độc lập cho
Campuchia. Tháng 4/1955, Xi-ha-núc thoái vị nhường ngôi Vua cho cha là
Nô-rô-đôm Xu-ra-ma-rit (Norodom Suram arith) để thành lập Cộng đồng
xã hội bình dân. Trong tuyển cử 9/1955, Cộng đồng xã hội bình dân đã
giành dược thắng lợi lớn, Xi-ha-núc trở thành Thủ tướng. Năm 1960,
Quốc vương Xu-ra-ma-rit qua đời, Xi-ha-núc được Quốc hội bầu làm Quốc
trưởng.
- Ngày 18/3/1970, Lôn Nôn - Xi-ríc Ma-tắc (Lon Nol - Siric Matak),
được sự hậu thuẫn của Mỹ dảo chính Xi-ha-núc, thành lập “Cộng hoà
Khmer” (10/1970). Xi-ha-núc và Hoàng tộc sang cư trú tại Trung Quốc và
sau đó thành lập Mặt trận Đoàn kết dân tộc Campuchia (FUNK) và
Chính phủ Đoàn kết dân tộc Vương quôc Campuchia (GRUNK) đặt trụ sở
tại Bắc Kinh.

- Ngày 17/4/1975, Pôn Pô't (Pol Pot) lật đổ chế độ Cộng hoà của
Lôn Nôn, th àn h lập nước “Campuchia dân chủ”, thực hiện chế độ diệt
chủng tà n khốc n h ất trong lịch sử của Campuchia.

- Ngày 02/12/1978, Mặt trận Giải phóng dân tộc Campuchia ra


đời do ông Hêng Xom-rin (Heng Samrin) làm Chủ tịch. Ngày
07/01/1979, với sự giúp đỡ của Quân tình nguyện Việt Nam, nhân dân
Campuchia đã đứng lên lật đổ chế độ diệt chủng Pôn P ốt —Iêng Xary
(Pol Pot - Yeng Sari), thành lập nước “Cộng hoà N hân dân
Campuchia”, năm 1989 đổi thành “Nhà nước Campuchia” (SOC).

- Ngày 23/10/1991, Hiệp định hoà bình Campuchia được ký kết


giữa 19 nước và 4 phái Campuchia tại thủ đô Pa-ri (Pháp). Ngày 23-
25/5/1993, Tổng tuyển cử lần thứ nhất ở Campuchia để bầu Quốc hội
lập hiến do Cơ quan quyền lực lâm thời của Liên hợp quốc (UNTAC)
tổ chức. Kết quả Đảng Bảo hoàng FUNCINPEC (FUN) giành 58 ghế.
Uáng N hãn dân Campuchia (CPP): 51 ghế, Đảng Dân chủ Tự do P hật
giáo (BLDP): 10 ghế và Molinaka: 1 ghế. Ngày 24/9/1993, Quốc hội lập
hiến được th àn h lập và ban hành Hiến pháp mới, tê n nước đổi th àn h
Vương quốc Campuchia theo chế độ Quân chủ lập hiến, thực hiện chế
độ đa đảng và nền kinh tế thị trường. Sau đó Chính phủ Liên hiệp
CPP-FUN nhiệm kỳ I được thành lập. Nô-rô-đôm Xi-ha-núc lên ngôi
Vua lần thứ hai.

- Ngày 06/10/2004, Quốc vương Xi-ha-núc tuyên bố thoái vị; ngày


08/10/2004, Quốc hội Campuchia bỏ phiếu thông qua Luật về tổ chức
và hoạt động của Hội đồng Ngôi Vua; ngày 11/10/2004, Thượng viện
Campuchia thông qua và quyền Quốc trưởng C hia Xim (Chea Sim) ký
ban hành Luật này; ngày 14/10/2004, Hội đồng Ngôi Vua đã bầu
Hoàng tử Nô-rô-đôm Xi-ha-mô-ni (Norodom Sihamoni) làm Quốc

9
vương mới. Ngày 29/10/2004, Quốc vương N. Xi-ha-mô-ni chính thức
đăng quang.

- Ngày 27/7/2008, tạ i Tổng tuyển cử lần thứ tư, Đảng CPP giành
th ắn g lợi lớn với 90/123 g h ế (tăn g 17 ghế so với năm 2003), SRP:
26/123 (tăng 02 ghế), HRP: 03 ghế, FUN: 02 ghế, NRP: 02 ghế. Ngày
24/9/2008, Quốc hội mới đã được triệu tập và ngày 25/9/2008, Quốc hội
dã bỏ phiếu tín nhiệm C hính phủ mới nhiệm kỳ 4 do CPP lãn h đạo
(liên m inh với FUNCINPEC); C PP nắm tấ t cả 26 bộ của Chính phủ
mới.

THỂ C H Ế CHÍNH TRỊ

1- T h ể c h ế n h à nước: Theo H iến pháp năm 1993 quy định


Campuchia là quốc gia Quân chủ lập hiến. Hệ thông quyền lực được
phân định rõ giữa lập pháp, h à n h pháp và tư pháp gồm: Vua, Hội
đồng ngôi Vua, Thượng viện, Quô'c hội, C hính phủ, Toà án, Hội đồng
H iến pháp và các cơ quan h àn h chính các cấp.

2- H àn h pháp: Đứng đầu n h à nước: Quô'c vương Nô-rô-đôm Xi-


ha-mô-ni, lên ngôi ngày 29/10/2004. Nội các: Hội đồng Bộ trưởng do
Quốc vương ký sắc lệnh bổ nhiệm . H iện nay, đứng đầu C hính phủ gồm
01 Thủ tướng và 08 Phó Thủ tướng. Thủ tướng đương nhiệm là Xăm-
đéc Ạ-kẹ Mô-ha Xê-na Pạ-đây Tê-chô HUN XEN (Sam dech Akka
Moha Sena Padei Techo HUN SEN) (người của CPP).

3- L ậ p p h á p : Lưỡng viện (ngày 08/3/1999 Cam puchia sửa đổi


H iến pháp, lập th êm Thượng viện).

- Quốc hội: Chủ tịch Quốc hội Xăm-đéc Ạ-kẹ Mô-ha Pô-nhia Chạ-
kơ-rây HÊNG XOM-RIN (Sam dech Akka Moha Ponhea C hakrei
HENG SAMRIN) (người của CPP); có 123 ghế, bầu đại biểu theo chế
độ phổ thông đầu phiếu, nhiệm kỳ 5 năm . Cam puchia đã tổ chức bầu
cử Quốc hội 4 lần (1993, 1998, 2003, 2008).

- Thượng viện: Chủ tịch: Xăm-đéc Ạ-kẹ Mô-ha Thôm-mẹ Pô-thị-


xan CHIA XIM (Samdech Akka Moha Tham m a Pothisal CHEA SIM)
(người của CPP); nhiệm kỳ 5 năm ; Thượng viện có 61 ghế, trong đó 02
ghế do Quốc vương bổ nhiệm , 02 g h ế do Quốc hội chỉ định. Thượng
10
viện nhiệm kỳ I th àn h lập tháng 3/1999 không qua bầu cử, các đảng
có chân trong Quốc hội bổ nhiệm thành viên theo tỷ lệ số ghế có
tro n g Quốc hội. Bầu cử Thượng viện nhiệm kỳ II diễn ra ngày
22/1/2007 thông qua bỏ phiếu kín và không trực tiếp (indirect), kết
quả CPP giành 45/61 ghế, FUN: 10 ghế và SRP: 02 ghế.

- Tư pháp: Hội đồng Thẩm phán tối cao (được Hiến pháp quy
định, th à n h lập 12/1997); Toà án Tối cao và các Toà án địa phương.

- Các đảng chính trị: Hiện nay, ở Campuchia có 57 đảng chính


trị, trong đó có các Đảng lớn là: Đảng N hân dân Campuchia (CPP),
Đảng Xam Rên-xy (SRP) của Xam Rên-xy, Đảng M ặt trậ n đoàn kết
dân tộc vì một nước Campuchia độc lập, trung lập, hoà bình và thông
n h ấ t (FUNCINPEC), Đảng Nô-rô-đôm R a-na-rit (NRP) của Hoàng
th â n Nô-rô-đôm R a-na-rit tách ra từ Đáng FUNCINPEC. Đảng
FUNCINPEC hiện nay do Nhiếc Bun Chay (Nhiek Bun Chhay) đứng
đầu. Hiện nay, SRP của Xam Rên-xy và Đảng N hân quyền (HRP) của
Kim Xô-kha (Kim Sokha) là hai đảng đối lập chính.

- Bầu cử cấp phường xã: Campuchia dã tổ chức hai lần bầu cử xã


phường (tháng 4/2002 và tháng 4/2007). K ết quả cuộc bầu cử xã
phường lần hai: Đảng CPP giành được 1.592/1.621 xã phường, đảng
SRP giành 27/1.621 xã/phường, đảng NRP được 2 xã/phường. Đảng
FUNCINPEC không giành được xã/phường nào.
- Campuchia (ìã t.ổ chức cuộc bầu cử Hội dồng th ả đo/ũiili/thành
và quận/huyện lần đầu tiên vào ngày 17/5/2009. K ết quả đảng CPP đã
giành th ắn g lợi trong cả 2 cấp thủ đô/tỉnh/thành và quận/huyện.

KINH TỂ

Campuchia là nước nông nghiệp (70% dân số làm nghề nông)


sông phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, có nhiều tà i nguyên quý
hiếm như đá quý, hồng ngọc, vàng, gỗ... Angkor W at được xếp hạng là
m ột trong số các kì quan nổi tiếng của th ế giới.
Nông nghiệp, dệt may, du lịch và xáy dựng vẫn là những trụ cột
chính hiện nay của nền kinh tê Campuchia. Kinh tế vĩ mô, hệ thông
tài chính ngân hàng của Campuchia ổn định, tiếp tục giữ được mức
tăng trưởng cao trê n dưới 10% năm. Lượng dự trữ ngoại tệ năm 2008
của Campuchia tă n g m ạnh, đ ạ t đến 2,2 tỉ USD. Cơ sở hạ tầ n g tại
Campuchia được cải th iệ n n h an h chóng. Năm 2008, nông nghiệp của
Campuchia dạt 2,65 tấ n /h a (năm 2005 đ ạt 2,5 tấn) chứng tỏ ngành
này còn nhiều tiềm năng p h á t triể n và có sức hấp dẫn lớn. Cam puchia
là quốc gia còn nhiều tiềm năng có th ể duy trì sức cạnh tra n h như tà i
nguyên th iên nhiên, nguồn n h ân lực trẻ, n h ân công giá rẻ. Việc các
đối tác p h át triể n tiếp tục tă n g ODA năm 2009 cho Campuchia (trên
950 triệu USD) tro n g khi khủng hoảng tà i chính đang trầm trọ n g
chứng tỏ sự tin tưởng của họ đôi với Cam puchia đang được củng cố.
Thị trường xuất khẩu chính của Campuchia là Mỹ, EƯ, Trung
Quốc, Thái Lan và V iệt Nam (hiện Việt Nam là bạn hàng lớn th ứ 4
của Campuchia).
Do khủng hoảng kinh tế, tài chính th ế giới, kinh tế Campuchia
năm 2008 cũng bị ả n h hưởng: Lạm p h á t lên tới trên 20%, GDP năm
2008 chỉ tăn g 6,7%. N ăm 2009, kinh t ế Cam puchia có th ể khó k h ăn
hơn và có th ể chỉ tă n g trưởng hơn 4%.

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI

Theo quy định của H iến pháp, Cam puchia thực hiện chính sách
trung lập, không liên k ế t vinh viẽn, kliỏng xâm lược hoặc can thiệp
vào công việc nội bộ của nước khác. C hính sách p h át triể n kinh tế,
thu hút đầu tư nước ngoài, khách du lịch, tích cực hội nhập quốc tế và
khu vực đã đ ạt nhiều th à n h tựu. Campuchia là th à n h viên thứ 10 của
ASEAN (tháng 4/1999), th à n h viên chính thức thứ 148 của WTO
(tháng 9/2003), gia n h ập ASEM tại Hội nghị cấp cao ASEM 5 (tháng
10/2004) tại H à Nội; và đang tích cực vận động để tham gia APEC
trong thời gian sớm n h ất. Campuchia cũng là th àn h viên tích cực
trong hợp tác khu vực như: Uỷ hội Mê Công qu()c tế (MRC); Khu vực
Tam giác p h át triể n V iệt Nam - Lào - Campuchia (CLV); Tiểu vùng
sông Mê Công mở rộng (GMS); C hiến lược hợp tác kinh t ế ba dòng
sông Ayeyawadi-Chao Praya-M ekong (ACMECS); H ành lang kinh tế
Đông Tây (WEC)...

12
QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM

1- Về ch ín h trị:

- Hai nước th iế t lập quan hệ ngoại giao ngày 24/6/1967. Năm


2007, hai nước đã tổ chức nhiều hoạt động trọng th ể kỷ niệm 40 năm
ngày th iế t lập quan hệ ngoại giao.
- Năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, sau một thời
gian lãnh đạo đã tách ra thành 3 đảng độc lập (Đảng Lao động Việt
Nam năm 1951; Đảng Nhân dân cách mạng Lào năm 1955; Đảng
N hân dân cách m ạng Khmer năm 1951).
- Từ 1954-1970, chính quyền Xi-ha-núc thực hiện chính sách hoà
bình trung lập tích cực, từng bước có quan hệ tố t với các lực lượng
cách m ạng Việt Nam, ủng hộ cuộc đấu tran h chống Mỹ cứu nước và
thông n h ấ t tổ quốc của Việt Nam. Tháng 3/1965, Hội nghị nhân dân
các nước Đông Dương họp ở Phnôm Pênh, M ặt trậ n đoàn k ết chông
Mỹ của nh ân dân các nước Đông Dương được hình th àn h .
- Từ th áng 4/1975-7/1/1979: Chế độ diệt chủng Pôn Pốt cầm
quyền ở Campuchia. Chúng thi hành chính sách thù địch với Việt
Nam, gây ra nhiêu cuộc xuug đột ở khu vực biên giới Tây Nam và tiến
hành cuộc chiến tran h biên giới chông Việt Nam.
- Ngày 7/1/1979, nước Cộng hoà nhân dân Cam puchia ra dời. Từ
1979-1989, quân đội Việt Nam ở Campuchia giúp nhân dân
Campuchia ngăn chặn chế độ diệt chủng Pôn P ốt và giúp nhân dân
Campuchia hồi sinh. Cuối 1989, Việt Nam rú t h ế t quân khỏi
Campuchia.
- Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Campuchia đã ký Hiệp định
về Vùng nước lịch sử năm 1982, Hiệp ước về Nguyên tắc giải quyết
vấn đề biên giới quốc gia giữa hai nước năm 1983, Hiệp định về quy
chế biên giới năm 1983, Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia Việt
Nam — Campuchia năm 1985; (nhãn chuyến thăm chính thức Việt
Nam của Thủ tướng Hun Xen tháng 10/2005, hai nước đã ký Hiệp ước
Bổ sung Hiệp ước Hoạch định Biên giới Quốc gia năm 1985).

13
- Tháng 10/1991, V iệt Nam tham gia ký H iệp định Pa-ri về
Campuchia. T háng 5/1993, Cam puchia tiến hàn h Tổng tuyển cử do
LHQ tổ chức bầu Quốc hội lập hiến, sau đó C hính phủ H oàng gia
Campuchia được th à n h lập.
- Từ năm 1993 đến nay, quan hệ Việt Nam — Cam puchia không
ngừng được củng cô" và p h á t triể n về mọi m ặt. Đặc biệt, tại chuyến
th ăm Cam puchia của Tổng Bí th ư Nông Đức M ạnh th án g 3/2005, hai
bên dã n h ấ t trí phương châm p h á t triển quan hệ hai nước trong thời
kỳ mới theo hướng “láng giềng tố t đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp
tác toàn diện, bền vững lâu dài”.

2- V ề hợp tá c k in h tế , th ư ơ n g m ại, k h o a h ọ c-k ỹ th u ậ t, văn


hoá, an n in h , q u ố c p h ò n g , g iữ a h a i nước:

a. Hợp tác trê n lĩnh vực kinh tế, thương mại, văn hoá: hai nước
đã th à n h lập Uỷ ban Hỗn hợp (UBHH) về hợp tác Kinh tế, Văn hoá,
Khoa học kỹ thuật. Từ th án g 4/1994 đến nay UBHH đã tiến h àn h
được 10 kỳ họp. Tại mỗi kỳ họp UBHH, hai nước kiểm điểm việc thực
hiện k ế hoạch hợp tác trê n các lĩnh vực kinh tế, chính trị, thương
mại, quân sự, an ninh, y tế, giáo dục..., đồng thời đưa ra k ế hoạch mới
cho những năm tiếp theo. N hìn lại quan hệ hai nước trong những năm
qua đã có những bước p h á t triể n tích cực và có hiệu quả trê n nhiều
lĩnh vực. Đặc biệt kim ngạch buôn bán hai chiều giữa hai nước không
ngừng tăng, năm sau cao hơn năm trước tru n g bình 40% (năm 2006:
950 triệu USD, năm 2007: 1.181 tỷ USD, năm 2008: 1,7 tý USD). Hai
nước cũng thống n h ấ t nhiều biện pháp thúc đẩy hợp tác kinh tế,
thương mại và đ ặt mục tiêu p h ấn đấu kim ngạch thương m ại hai chiều
đến năm 2010 đ ạt trê n 2 tỷ USD.
Hai nước cũng quan tâm thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực m à
hai bên có tiềm năng, th ế m ạn h như giáo dục-đào tạo, năng lượng-
điện, y tế, giao thông vận tải, v.v...
b. Hợp tác trê n lĩnh vực an ninh, quốc phòng: Được hai bên chú
trọng đẩy m ạnh. Các ngành quốc phòng, an ninh hai nước tiếp tục
thúc đẩy hợp tác theo các thoả th u ận dã ký. Hội nghị Hợp tác và P h át
triể n các tỉn h biên giới Việt Nam — Cam puchia đã đánh dấu một cơ
chế hợp tác mới giữa các tỉn h giáp biên nhằm bảo đảm an ninh tại

14
khu vực biên giới hai nước. Đến nay, hai nước đã tổ chức Hội nghị
trê n được năm lần.
c. Biên giới: Hai bên đang tích cực triển khai công tác phân giới
cấm mốc (PGCM) và đã được hai bên quan tâm triể n khai và đ ạt dược
kết quả đáng kể, tuy nhiên tiến độ còn chậm. Cuộc họp tháng 2/2008
của Úy ban liên hợp biên giới hai nước dã thống n h ấ t điều chỉnh Kế
hoạch tổng th ể PGCM, n h ất trí phấn đấu hoàn th àn h PGCM biên giới
trên bộ giữa hai nước vào 2012 trong đó đã định ra mục tiêu cho từng
năm từ 2008-2012. Lãnh đạo hai nước tiếp tục khẳng định quyết tâm
sẽ hoàn th àn h công tác PGCM biên giới trê n bộ vào nửa đầu năm
2012, coi việc hoàn th àn h công tác PGCM là nhiệm vụ lịch sử, là di
sản mà th ê hệ lãnh đạo hai nước hôm nay để lại cho th ế hệ mai sau
nhằm xây dựng một đường biên giới chung hoà bình, ổn định, hợp tác
và p h át triển , trên cơ sở phù hợp với truyền thông, phong tục tập
quán của nhân dân hai nước.
d. Hợp tác giữa các địa phương hai nước, n h ất là các tỉnh giáp
biên và các tỉnh, th ành phô có quan hệ kết nghĩa cũng đang được đẩy
m ạnh, góp phần vào việc củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị láng
giềng truyền thống và hợp tác toàn diện giữa hai nước.
Bên cạnh quan hệ hợp tác song phương, hai bên đẩy m ạnh hợp
tác tro n g khuôn khổ ASEAN, trong các khuôn khổ hợp tác khu vực và
quốc tế như hợp tác trong ú y hội sông Mê Công (MRC), Tiểu vùng
sông M p Cíông m rộng (GMS), Chương trìn h pliát triển cacvung
nghèo liên quốc gia dọc H ành lang Đông - Tây (WEC), Chiến lược hợp
tác kinh tế ba dòng sông Ayeyawady-Chao Praya-M ekong (ACMECS),
Campuchia - Lào —Mianma - Việt Nam (CLMV), Tam giác p hát triển
ba nước Campuchia - Lào - Việt Nam (đang trong quá trìn h th ể chế
hoá và xây dựng dự án gọi vốn đầu tư).

3- Đ ịa ch ỉ Đ ại sứ quán hai nước:

Đ ạ i sứ quán C am puchia tại V iệt Nam


Địa chỉ: Sô' 71 T rần Hưng Đạo, Hà Nội, V iệt Nam.
Điện thoại: 04-39424788
Fax: 04-39423225
Email: camemb.vnm@mfa.gov.kh

15
T ổ n g L ãnh sự q u án Vương q u ố c C a m p u ch ia tạ i T h à n h p h ố
H ồ C hí M inh
Địa chỉ: Số 41 Phùng Khắc Khoan, phường Đa Kao, Quận 1,
T h àn h phô" Hồ Chí Minh.
Điện thoại: 08-38292751
Fax: 08-38222773
E-mail: cambocg@hcm.vnn.vn

Đ ạ i s ứ q u á n V iệt N am tại C am puchia:


Địa chỉ: 436 M onivong Blvd, Phnom P enh
Điện thoại: +855-23-726274
Fax: +855-23-726495
Email: vnem bpnh@ angkornet.com .kh

T ổ n g L ãnh sự q u án V iệ t N am tạ i B át-tam -b an g
(C am puchia):
Địa chỉ: Road No.3, B attam bang Province, Cambodia.
Điện thoại: +855-53-952894
Fax: +855-53-952894
Em ai: battam bang.kh@ m ofa.gov.vn; lsqvnbat@ cam intel.com

T ổ n g L ãnh sự q u án V iệ t Nam tạ i X i-h a-n ú c Vin


(C am puchia):
Địa chỉ: 310, E kareach Blvd, S angkat 3, Sihanoukville.
Điện thoại: +855-34-933466.
Fax: +855-34-933669.
Email: tlsqvn.siha@ m ofa.gov.vn: tlsqsiha@ cam intel.com
Giờ địa phương so với giờ Việt Nam: + 0 giờ.

(Nguồn: Bộ Ngoại giao cập nhật tháng 12 / 2009)

16
Phần II
HIỆP ƯỚC HÒA BÌNH, HỮU NGHỊ
VÀ HỢP TÁC VIỆT NAM - CAMPUCHIA

LỆNH SỐ 15-LCT NGÀY 26/02/1979 CỦA CHỦ TỊCH


NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Phê chuẩn Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hớp tác
giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia

CHỦ TỊCH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Căn cứ vào Điều 64 của H iến pháp năm 1959;

Căn cứ vào N ghị quyết số 438-NQ / QHK6 ngày 23-02-1979 của


Úy ban Thưởng vụ Quốc hội,

Phê chuẩn Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa N hân dân
Campuchia ký tại Nông P ênh ngày 18 th án g 02 năm 1979./.

CHỦ TỊCH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
(Đã ký)
Tôn Đức Thắng

17
QUYẾT NGHỊ s ố 438-N Q /Q H K 6 NGÀY 23/02/1979
CỦA UỶ BAN THƯỜNG v ụ QUÔC HỘI
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Phê chuẩn Hiệp ước hoà bình, hữu nghị và hợp tác
giữa Việt Nam và Cam puchia

UỶ BAN THƯỜNG v ụ Q u ố c HỘI

Căn cứ vào Điều 53 của H iến pháp năm 1959;

Theo đề nghị của Hội đồng C hính p h ủ ;

QUYẾT NGHỊ:

Phê chuẩn Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa V iệt N am và nước Cộng hoà N hân dân
Campuchia ký tạ i N ông-Pênh ngày 18 th á n g 2 năm 1979./.

TM. UỶ B A N THƯỜNG v ụ QUỐC HỘI


CHỦ TỊCH
(Đã ký)
T rư ờng C h inh

18
HIỆP ƯỚC HÒA BÌNH, HỮU NGHỊ VÀ H ộ p TÁC
giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia

Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa
N hân dân Campuchia;

Xuất phát từ truyền thống đoàn kết chiến đấu và hữu nghị anh
em Việt Nam — Campuchia đã vượt qua nhiều thử thách và trở thành
m ột sức m ạnh không gì phá vỡ nổi, bảo đảm th ắn g lợi của sự nghiệp
bảo vệ và xây dựng của mỗi nước;

N hận thức sâu sắc rằng độc lập, tự do, hòa bình và an ninh của
hai nước có quan hệ khắng khít vđi nhau và hai Bên có nghĩa vụ hết
lòng h ế t sức giúp nhau củng cố và bảo vệ những th àn h quả cách m ạng
vĩ đại đã giành được trả i qua gần ba mươi năm đấu tran h gian khổ,
đầy hy sinh;

K hẳng định rằn g tìn h đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác hữu nghị
lâu dài về mọi m ặt giữa Việt Nam và Campuchia đáp ứng lợi ích sông
còn của nhân dân hai nước, đồng thời là m ột nhân tô" bảo đảm hòa
bình, ổn định vững cliắ ử Đông Nam châu Á, phù hợp với lợi ích cơ
bản của n h ân dân các nước trong khu vực này và góp phần giữ gìn hòa
bình th ế giới;

Tin tưởng rằng th ắn g lợi hoàn toàn của nhân dân Campuchia
dưới ngọn cờ vẻ vang của Mặt trận Đoàn k ế t Dân tộc Cứu nước
Campuchia, đường lôi đúng đắn, độc lập, tự chủ và đoàn k ết quốc tế
của mỗi nước, sự tôn trọng lợi ích chình đáng của nhau là cơ sở vững
chắc dể p h át triên không ngừng quan hệ hữu nghị hợp tác giữa hai
nước;

Nhằm mục đích tăng cường tình đoản k ế t chiến đấu, sự hợp tác
hữu nghị lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về mọi m ặt để củng cố nền độc
lập, xây dựng đất nước phồn vinh và cuộc sống hạnh phúc của nhân
dân mỗi nước, góp phần giữ gìn hòa bình và ổn định ở Đông Nam
19
châu Á và trê n th ế giới phù hợp với những mục tiêu của phong trào
các nước không liên kết và H iến chương Liên hợp quốc;

Đã quyết định ký Hiệp ước này và đã th ỏ a th u ận những diều sau


đây:

Đ iể u 1

Hai Bên cam k ết làm h ế t sức m ình để bảo vệ và p h á t triể n


không ngừng truyền thống đoàn kết chiến đấu, quan hệ hữu nghị hợp
tác anh em Việt Nam — Cam puchia, lòng tin cậy và sự giúp đỡ lẫn
nhau về mọi m ặt trê n cơ sở tô n trọng độc lập, chủ quyền của nhau, tôn
trọng lợi ích chính đáng của nhau, không can th iệp vào công việc nội
bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.

Hai Bên ra sức giáo dục cán bộ, chiến sĩ và nh ân dân nước m ình
bảo vệ truyền thông đoàn k ế t chiến đấu và hữu nghị thủy chung Việt
Nam —Campuchia đời đời trong sáng.

Đ iể u 2

T rên nguyên tắc việc bảo vệ và xây dựng đ ất nước m ình là sự


nghiệp của chính n h ân dân mỗi nước, hai Bên cam k ết và h ế t lòng
ủng hộ giúp đỡ lẫn nhau về mọi m ặt và bằng mọi hìn h thức cần th iế t
nhằm tă n g cường khả năng bảo vệ độc lập, chủ quyền, thông nhất,
toàn vẹn lãnh thổ và công cuộc lao dộng hòa bình cúa nh ân dân mỏi
nước, chông mọi âm mưu và h àn h động phá hoại của lực lượng đ ế quốc
và phản động quốc tế. Hai Bên sẽ tiến h àn h các biện pháp có hiệu quả
nhằm thực hiện điều cam kết này khi m ột trong hai Bên yêu cầu.

Đ iể u 3

N hằm giúp nhau xây dựng đ ất nước giàu m ạnh, xây dựng cuộc
sông ấm no, hạn h phúc, hai Bên sẽ tă n g cường quan hệ trao đổi và
hợp tác anh em cùng có lợi và giúp đỡ nhau về các m ặt kinh tế, văn
hóa, giáo dục, y tế, khoa học, kỹ th u ật, đào tạo cán bộ và trao đổi
chuyên gia, trao đổi kinh nghiệm xây dựng đất nước về mọi m ặt.

20
Nhằm mục đích đó, hai Bên sẽ ký những Hiệp định cần thiết,
đồng thời tăn g cường tiếp xúc và hợp tác giữa các cơ quan nhà nước có
liên quan và các tổ chức quần chúng của hai nước.

D iều 4

Hai Bên cam k ết giải quyết bằng thương lượng hòa bình tấ t cả
những bất đồng có th ể nảy sinh trong quan hệ giữa hai nước. Hai Bên
sẽ đàm phán để ký một Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa
hai nước, trê n cơ sở đường biên giới hiện tại; quyết tâm xây dựng
đường biên giới này th àn h biên giới hòa bình, hữu nghị lâu dài giữ hai
nước.

D iều 5

Hai Bên hoàn toàn tôn trọng đường lối độc lập, tự chủ của nhau.

Hai Bên kiên trì chính sách đối ngoại độc lập, hòa bình, hữu
nghị, hợp tác và không liên kết, theo nguyên tắc không can thiệp dưới
b ất cứ hình thức nào vào công việc nội bộ nước khác, không chấp
n h ận bất cứ sự can thiệp nào vào công việc nội bộ của nước m ình và
không cho phép bất kỳ nước nào dùng lãnh thổ nước m ình để can
thiệp vào các nước khác.

Hai Bên coi trọng truyền thông đoàn kết chiến đấu và t.ình hữu
nghị anh em lâu đời giữa nhân dân dân Campuchia, nhân dân Lào và
nhân dân Việt Nam, nguyện ra sức tăng cường quan hệ truyền thống
đó trê n cở sở tôn trọ n g độc lập, chủ quyèn, toàn vẹn lãnh thổ của mỗi
nước. Hai Bên tăn g cường quan hệ mọi m ặt với các nước xã hội chủ
nghĩa. Là những nước ở Đông Nam châu Á, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
V iệt Nam và Cộng hòa Nhân dân Campuchia kiên trì chính sách quan
hệ hữu nghị, láng giềng tốt với Thái Lan và với các nước khác ở Đông
Nam châu Á, tích cực góp phần vào hòa bình, ổn định và phồn vinh
của khu vực Đông Nam châu Á. Hai Bên p h át triể n quan hệ hợp tác
với các nước dân tộc độc lập, các phong' trào giải phóng dân tộc và
phong trào dân chủ, kiên quyết ủng hộ sự nghiệp đấu tra n h của nhân
dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Hai Bên tích cực góp phần vào sự đoàn k ết và lớn m ạnh của phong
trào không liên k ết chông chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản

21
dộng quốc tế khác, giành và bảo vệ độc lập dân tộc, tiến tới xây dựng
một trậ t tự kinh t ế th ế giới mới.

Đ iể u 6

Hai Bên sẽ thường xuyên trao đổi ý kiến với nhau về những vấn
đề thuộc quan hệ hai nước và những vấn đề quốc tê mà hai Bên cùng
quan tâm . Mọi vấn đề trong quan hệ giữa hai nước sẽ được giải quyết
bằng thương lượng trê n tin h th ầ n hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, có
lý có tình.

Đ iể u 7

Hiệp ước này không nhằm chông m ột nước th ứ ba nào và không


liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mỗi Bên theo các Hiệp định hai
bên hoặc nhiều bên mà họ tham gia.

Đ iể u 8

Hiệp ước này có hiệu lực ngay từ ngày trao đổi thư phê chuẩn;
việc phê chuẩn sẽ làm theo thủ tục của mỗi Bên.

Đ iể u 9

Hiệp ước này có giá trị trong hai mươi lăm năm và sẽ được mặc
nhiên gia h ạn thêm từng mười nam nếu m ột trong hai Bcn ký kốt
không thông báo bằng văn bản cho B ên kia ý muốn hủy bỏ H iệp ước
một năm trước khi Hiệp ước hết hạn.

H iệp ước này làm tạ i Nông P ênh, thủ đô nước Cộng hòa N hân
dân Campuchia ngày 18 th án g 2 năm 1979, th à n h hai bản bằng tiếng
Việt và tiến g Khơ-me, cả hai văn bản đều có giá trị như nhau.

THAY M Ặ T CHÍNH PHỦ THAY M Ặ T HỘI Đ ồ N G NHÂN DÂN C Á C H MẠNG


NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘ I CHỦ NGHĨA NƯỚC CỘNG HÒA NHÂN DÂN
V IỆT NAM CAM PUCHIA
(Đã kỷ) " (Đã ký)
PH Ạ M VÃN Đ Ồ N G H Ê N G XOM -RIN
T h ủ tư ớ n g C h ín h p h ủ C h ủ t ịc h H ộ i đ ồ n g N h â n d â n C á c h m ạ n g

22
Phần m
PHÁT BIỂU CỦA LÃNH ĐẠO HAI NƯỚC VIỆT NAM -
CAMPUCHIA TẠI LỄ MÍT TINH KỶ NIỆM 35 NĂM
NGÀY CHIẾN THẮNG CHẾ ĐỘ DIỆT CHỦNG

PHÁT BIỂU CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC TRƯƠNG TẤN SANG


NGÀY 5/1/2014 tại Lễ mít tinh kỷ niệm 35 năm
Ngày Chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây-Nam
và cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng
(7/1/1979-7/1/2014)

- K ính thưa các đồng chí Lãnh dạo, nguyên Lãnh đạo Đảng, N hà
nước, M ặt trận T ổ quốc Việt Nam,

- K ính thưa Xăm-đéc Hêng Xom-rin, Chủ tịch Quốc hội Vương
quốc Campuchia,

- Thưa toàn th ể các vị khách quý Việt N am và Campuchia,

Thay m ặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, tôi nhiệt liệt chào mừng các
đồng chí L ãnh đạo, nguyên Lãnh đạo Đảng, N hà nước, M ặt trậ n Tổ
quốc Việt Nam, đại diện các cơ quan Trung ương và địa phương, đại
diện các gia đình thương binh, liệt sỹ, các đồng chí cựu chuyên gia,
cựu Quân tìn h nguyện Việt Nam đã tới dự Lễ m ít tin h trọng th ể kỷ
niệm 35 năm Ngày Chiến thắng chiến tra n h bảo vệ biên giới Tây-
Nam và cùng quân dân Campuchia Chiến th ắn g chế độ diệt chủng
(7/1/1979 - 7/172014).

Tôi xin n h iệt liệt chào mừng Đoàn đại biểu cấp cao Vương quốc
Campuchia do Xăm-đéc Hêng Xom-rin, Chủ tịch Quốc hội Vương quốc
Campuchia dẫn đầu, cùng toàn thể các bạn Campuchia đang công tác,
học tập tại Việt Nam có m ặt trong buổi lễ trọng th ể hôm nay, m ang
đến những tìn h cảm thân thiết, tràn đầy tìn h đoàn kết hữu nghị của

23
nh ân dân Campuchia anh em đối với nh ân dân V iệt Nam và các cựu
chuyên gia, cựu quân tìn h nguyện V iệt Nam đã từng làm nghĩa vụ
quốc t ế trong những năm th á n g đầy hy sinh, gian khổ tại Campuchia.

Thưa các đồng chí và các bạn!

Sau chiến th ắn g năm 1975, n h ân dân V iệt Nam và n h ân dân


Campuchia th iế t th a mong muốn được sông trong hòa bình để khôi
phục và p h át triể n đất nước sau nhiều năm chiến tra n h hy sinh, gian
khổ. Nhưng tập đoàn Pôn Pốt, Iêng Xa ry, Khiêu Sam-phon đã phản
bội lại nh ân dân Cam puchia và phá hoại truyền thống đoàn k ết hữu
nghị của nh ân dân hai nước, thực hiện chính sách diệt chủng ở
Campuchia và xâm lược biên giới Tây-Nam Việt Nam.

Ớ trong nước, chúng thực thi chính sách diệt chủng tà n khốc,
cưỡng bức lao động khổ sai, tr a tấ n h àn h hạ người dân Campuchia;
biến trường học, nhà chùa th à n h n h à tù, khắp mọi nơi đầy những hô"
chôn người tập thể... Chỉ tro n g 3 năm 8 th án g và 20 ngày, chế độ Pôn
P ốt đã giết hại gần 3 triệu người dân Cam puchia vô tội, xóa bỏ mọi cơ
sở xã hội và đẩy dân tộc Cam puchia đứng trước thảm họa diệt vong.
Tội ác của chế dộ diệt chủng Pôn Pốt ở Cam puchia đã bị cộng đồng
quốc t ế lên án m ạnh mẽ.

Đôi với Việt Nam, chúng xuyên tạc lịch sử, huy động phần lớn
sức m ạnh quân sự, hàng chục sư đoàn chủ lực và nhiều trung đoàn địa
phương tiến hành cuộc chiến tra n h xâm chiếm biên giới Tây-Nam của
Việt Nam. Đi đến đâu, chúng tà n phá làng mạc, giết hại dã m an người
dân, kể cả người già, phụ nữ, trẻ em; xâm phạm nghiêm trọng dộc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãn h th ổ của V iệt Nam. Tội ác của chúng đối
với nh ân dân Việt Nam là không th ể dung tha.

Trước những hàn h động xâm lược và diệt chủng tà n bạo của chế
độ Pôn Pốt, đáp lời kêu gọi khẩn th iế t của M ặt trậ n Đoàn kết Cứu
nước Campuchia, của n h ân dân Cam puchia anh em, Đảng, N hà nước,
nh ân dân và Quân đội V iệt Nam đã thực hiện quyền tự vệ chính đáng
của mình, đập tan các h àn h động xâm lược, cùng với lực lượng vũ
trang, nhân dân Cam puchia và sự ủng hộ của bạn bè trê n th ế giới
đánh để chế độ diệt chủng vào Ngày 7 th án g Giêng năm 1979. Chiến
thắng lịch sử này là chiến th ắn g chung, niềm vui chung của nhân dân
hai nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của

24
Campuchia và V iệt Nam, khép lại một trang sử đen tối n hất của đất
nước Campuchia, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt
chủng, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do, hoà bình, trung lập và phát
triể n của nhân dân Campuchia. Sau ngày giải phóng, hàng ngàn cán
bộ chuyên gia, hàng vạn quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục sát cánh
cùng nh ân dân Campuchia anh em thực hiện công cuộc hồi sinh dân
tộc và ngăn chặn sự quay trở lại của chê độ diệt chủng tại Campuchia.
T rong cuộc chiến đấu vô cùng gian khổ, ác liệt đó, biết bao anh hùng,
liệt sỹ Việt Nam và Campuchia đã hy sinh hoặc để lại m ột phần máu,
th ịt của m ình trê n các chiến trường.

Với truyền thống uống nước nhớ nguồn, chúng ta bày tỏ lòng biết
ơn sâu sắc đối với các anh hùng liệt sỹ Việt Nam và Campuchia dã
anh dũng hy sinh vì nền độc lập, tự do của mỗi nước, vì vận m ệnh
chung và tìn h hữu nghị, đoàn kết của hai dân tộc Việt Nam —
Campuchia, vì hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực Đông Nam Á
và trê n th ế giới. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta mãi mãi ghi nhớ
công lao to lớn của các đồng chí Quân tình nguyện, cán bộ chuyên gia
V iệt Nam đã không quản ngại hy sinh, vượt muôn vàn khó khăn gian
khổ tro n g cuộc đấu tran h chính nghĩa bảo vệ biên giới Tây-Nam của
Tổ quốc và kề vai sát cánh cùng quân và dân Campuchia đánh đổ chế
độ diệt chủng Pôn P ốt tàn bạo, hoàn thành nhiệm vụ quốc tế cao cả.
Tình đoàn k ết chiến đấu trong sáng giữa nhân dân hai nước chúng ta
sẽ m ãi mãi được lịch sử khắc ghi và không một th ế lực nào có thể
xuypn tạc được. Phicn tòa Bất thường trong hệ thống Tòa án cúa
Campuchia (ECCC) được Liên hợp quốc ủng hộ đã và đang tiến hành
xét xử những tên đầu sỏ của chê độ diệt chủng là m inh chứng sông
động, khẳng định chính nghĩa sáng ngời và sự giúp đỡ vô tư, trong
sáng của Quân tìn h nguyện Việt Nam tại Campuchia trong giai đoạn
1979-1989.

Các đồng chí và các bạn thân mến!

Chúng ta vô cùng vui mừng thấy rằng, kể từ sau chiến thắng


Ngày 7 th án g Giêng năm 1979 đến nay, Chính phủ và nhân dân
Campuchia do Đảng N hân dân Campuchia lãnh đạo, với chính sách
hòa giải dân tộc và tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, đã giành được
những th àn h tựu to lớn, toàn diện, rất đáng tự hào. Campuchia ngày
nay là m ột đất nước hòa bình, an ninh chính trị, tr ậ t tự xã hội được

25
giữ vững; k inh tế p h át triể n liên tục với tốc độ cao, là th àn h viên của
nhiều tổ chức Quốc t ế và khu vực; vai trò và vị th ế của Cam puchia
không ngừng được nâng cao trong khu vực và trê n trường quốc tế.

Chúng tôi tin tưởng chắc chắn rằng, dưới sự trị vì anh m inh của
Quốc vương Nô-rô-đôm Xi-ha-mô-ni và sự lãnh đạo sáng suốt của
Thượng viện, Quốc hội, C hính phủ Hoàng gia Cam puchia do Đảng
N hân d ân Campuchia làm nòng cốt, nh ân dân Cam puchia an h em
n h ấ t định sẽ vượt qua mọi khó khăn, giành được nhiều th à n h tựu mới,
to lớn hơn nữa để xây dựng th à n h công m ột nước Cam puchia hòa
bình, hòa hợp dân tộc, tru ng lập và p h á t triể n phồn vinh.

Các đồng chí và các bạn th â n mến!

N hìn lại chặng đường 35 năm qua, chúng ta tự hào và vui mừng
nhận th ấy quan hệ “Láng giềng tố t đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp
tác toàn diện, bền vững lâu dài” giữa Việt Nam và Cam puchia được
các th ế hệ Lãnh đạo và n h ân dân hai nước dày công vun đắp đang
tiếp tục không ngừng được củng cô" và p h át triể n tố t đẹp, m ang lại lợi
ích th iế t thực cho nh ân dân hai nước. Các chuyến th ăm lẫn nhau của
lãnh đạo cấp cao, lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương và giao lưu
nhân dân của hai nước đã góp phần vun đắp cho môi quan hệ hữu
nghị truyền thống Việt Nam —Cam puchia ngày càng p h á t triể n đi vào
chiều sâu, th iế t thực và có hiệu quả trê n các lĩnh vực.

Hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, du lịch giữa hai nước đã
phát triể n nhanh. Kim ngạch thương mại hai chiều tăn g tru n g bình
khoảng 30-40%/năm, đã đ ạt khoảng 3,5 tỷ USD tron g năm 2013 và
đang phấn đấu đ ạt 5 tỷ USD vào năm 2015. V iệt Nam là m ột tro n g 10
nước đứng đầu về đầu tư vào Cam puchia với 126 dự án và tổng vốn
đăng ký hơn 3 tỷ USD, tập trung ở một sô' lĩnh vực: Trồng cao su;
phát triể n nguồn điện; viễn thông; tài chính, ngân hàng, dầu khí,
hàng không... Hai bên đang tích cực phối hợp triển khai việc phân giới
cắm mốc trê n đất liền nhằm sớm hoàn th àn h công tác này, góp phần
xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và p h á t triển
giữa hai nước. Với tìn h cảm n h iệt th àn h , thủy chung, các cơ quan chức
năng và nh ân dân các địa phương của Campuchia đã tích cực hỗ trợ và
giúp đỡ Việt Nam trong công tác tìm kiếm, cất bốc và hồi hương hài
cốt Quân tìn h nguyện và chuyên gia Việt Nam đã hy sinh tại
Campuchia trở về Tổ quốc th â n yêu của mình.

26
N hân dịp này, chúng tôi chân thành cảm ơn sự ủng hộ và giúp đỡ
quý báu của nhân dân Campuchia anh em đã dành cho nhân dân Việt
Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tố quốc ngày nay. Trước sau như
một, Việt Nam luôn coi trọng và tăng cường mối quan hệ láng giềng
tố t đẹp, hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện với Campuchia, vì
lợi ích của nh ân dân mỗi nước, vì hoà bình, ổn định, hợp tác cùng
ph át triển ở khu vực và trên thế giới.

N hân dịp năm mới 2014, tôi trân trọng gửi đến các đồng chí
thương binh, bệnh binh, cựu chuyên gia, cựu Quân tình nguyện, các
gia đình có người th â n đã tham gia chiến đấu, hy sinh trê n chiến
trường Campuchia lời thăm hỏi ân cần nhất. Chúc các đồng chí lãnh
đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, M ặt trậ n Tổ quốc Việt Nam,
Xăm-đéc H êng Xom-rin, Chủ tịch Quốc hội Vương quôc Campuchia,
các vị khách quý và toàn thế các bạn Việt Nam, Campuchia có m ặt
trong buổi lễ trọng th ể hôm nay mạnh khỏe, hạnh phúc và th àn h
công.

Chúc quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống và hợp
tác toàn diện Việt Nam - Campuchia mãi mãi xanh tươi, đời đời bền
vững.

Xin cảm ơn các đồng chí và các bạn!

(Nguồn: http:l / www.nhandan.com.vn)

27
PHÁT BIỂU CỦA CHỦ TỊCH QUÔC HỘI VƯƠNG Quốc
CAMPUCHIA HÊNG XOM-RIN NGÀY 5/1/2014 tại Lễ mít tinh
trọng thể kỷ niệm 35 năm sự kiện Quân tình nguyện Việt Nam
thực hiện một sứ mệnh lịch sử cao cả, giúp giải phóng nhân dân
Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng Pôn Pốt
và giành đại thắng vào ngày 7-1-1979

- Kính thưa N gài Trương Tấn Sang, Chủ tịch nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt N am !

- Thưa các Quý Ngài, Quý Bà, Quý Ông và các vị đại biểu tham
dự Lễ m ít-tinh thân mến!

Chúng tôi vô cùng vinh dự và vui mừng được thay m ặt nhân dân
Campuchia th am dự Lễ m ít tin h trọ n g th ể kỷ niệm 35 năm sự kiện
Quân tìn h nguyện Việt Nam đã thực hiện m ột sứ m ệnh lịch sử cao cả,
giúp giải phóng n h ân dân Cam puchia th o át khỏi chế độ diệt chủng
Pôn P ốt và giành đại th ắn g vào ngày 7-1-1979 — Ngày sinh th ứ hai
của nh ân dân Campuchia. N hân dân Cam puchia mãi m ãi ghi nhớ việc
thực hiện sứ m ệnh của Quân tìn h nguyện Việt Nam, người anh em,
người bạn láng giềng tố t đã giúp đỡ, ủng hộ cho sự nghiệp cao cả của
nhân dân Cam puchia và được khắc ghi trong lịch sử của dân tộc
Campuchia chúng tôi.

N hân dịp kỷ niệm 35 năm Ngày giải phóng n h ân dân Campuchia


th o át khỏi chế độ d iệt chủng Pôn Pốt, tôi xin phép được nhắc lại rằng,
sau khi Đảng Cộng sản V iệt Nam do Chủ tịch Hồ Chí M inh kính yêu
lãnh đạo được th àn h lập trong th ế kỷ 20, môi quan hệ hữu nghị, đoàn
kết đặc biệt giữa hai dân tộc Cam puchia —V iệt Nam nói riêng và tìn h
hữu nghị, đoàn kết đặc b iệt Cam puchia —Việt Nam — Lào nói chung,
đã bước sang tran g mới. Chúng tôi tin tưởng rằng, trê n cơ sở đường
lối, chính sách hữu nghị, đoàn k ết đặc biệt anh em mà Đ ảng của ba
nước chúng ta thực hiện trong suốt thời gian qua đã tạo ra nền tảng
vững chắc của tìn h hữu nghị, đoàn k ết đặc biệt, coi nhau là anh em, là
láng giềng tcít và trở th à n h tà i sản vô giá m à chúng ta phải cùng nhau
quyết tâm bảo vệ vững chắc, vì sự bình yên và p h át triể n của hai dân
tộc.
28
C h ế độ diệt chủng Pôn Pô't là chê độ tà n bạo chưa từng có trên
th ế giới. Dưới sự cầm quyền của chế độ vô cùng dã m an này, n h ân dân
Cam puchia đã phải hứng chịu muôn vàn thông khổ, không khác gì súc
vật, bị cấm đoán quyền tự do, bị tàn sát hàng loạt; chúng đã đem
chính n h ân dân m ình ra làm thí nghiệm để thực hiện học thuyết
chính trị đen tối của chúng. C hế độ diệt chủng chính dân tộc m ình là
chế độ vô nhân đạo nhất, do vậy khẩn th iết đòi hỏi cộng đồng quốc tế
phải có các biện pháp kịp thời can thiệp để giải phóng người dân
Cam puchia còn sống sót thoát khỏi sự tàn sát của chúng.

Trong khi nhân dân Campuchia đang phải hứng chịu bao đau khổ
th ì có nhiều nước trên th ế giới tự cho m ình là người bảo vệ công lý,
tô n trọng nhân quyền và quyền tự do bày tỏ chính kiến nhưng họ đã
không đoái hoài, không đến giúp giải phóng nhân dân Campuchia
chúng tôi th o át khỏi chế độ dã man này. Chỉ có đất nước Việt Nam,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tự nguyện đưa con
cháu và những người thân yêu của mình đến giúp giải phóng và cứu
tín h m ạng của người dân Campuchia trong lúc vô cùng nguy nan và
kh ẩn cầu các nước đến cứu giúp.

Trong chính sách giúp giải phóng nhân dân Campuchia, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã thực hiện các quan điểm chính trị và k ế hoạch
đúng đắn, rõ ràng, đó là: Làm th ế nào giải phóng nhân dân
Cam puchia th o át khỏi chế độ diệt chủng; Giúp khôi phục và tái th iế t
đ ất nước Campuchia; Xây dựng mối quan hệ t.ốt. cìẹp với nhân dân
Campuchia.

Thực tế là sau khi đánh đổ chế độ này, Quân đội nhân dân Việt
N am đã tiếp tục sứ m ệnh cao cả của mình giúp khôi phục và tá i th iế t
d ất nước Campuchia, th àn h lập một cơ cấu Chính phủ mới non trẻ, có
cơ quan hàn h chính dân sự, có lực lượng công an và quân đội..., giúp
khôi phục cơ sở hạ tầng mà bè lũ Khơ-me đỏ dã hủy hoại, xây dựng
nền k in h tế th ị trường, tín ngưỡng tôn giáo và dưa cuộc sông của nhân
dân Campuchia trở lại bình thường.

Những gì chúng tôi nêu trên là công lao vô cùng to lớn đã được
ghi rõ hoặc cần phải được lưu giữ trong lịch sử của Campuchia, bởi vì
đó là sự th ậ t và không một ai có thế bác bỏ được.

29
Sự giúp đỡ bằng xương m áu của Quân tìn h nguyện Việt Nam là
f*ự giúp đỡ nh ân đạo và đúng đắn n h ất. Sự hỗ trợ này lẽ ra phải là
nghĩa vụ chính yếu của cộng đồng quốc tế trong việc cứu giúp m ột dân
tộc đang trong loạn lạc bởi chính sách d iệt chủng có tổ chức chính quy
từ trê n xuống dưới của chế độ diệt chủng Pôn Pốt. T hế nhưng trá i lại,
cộng đồng quốc t ế không những không quan tâm và bàng quan trước
nỗi thống khổ của nh ân dân Cam puchia m à còn không dộng viên,
không hoan nghênh, không ủng hộ đôi với các hoạt động đúng đắn,
cao đẹp của Việt Nam. Các nước này đã hùa nhau bao vây cấm vận
nặng nề đối với Việt Nam và Campuchia.

Những việc làm đó là trá i với Luật nhân đạo quốc tế cũng như
Tuyên ngôn th ế giới về nhân quyền.

Kể từ khi Tổ quốc và nhân dân Cam puchia được giải phóng và


sau khi nh ân dân Campuchia có th ể làm chủ vận m ệnh của m ình, các
chiến sĩ Quân tìn h nguyện V iệt Nam đã quay trở về quê hương vào
năm 1989.

Thưa toàn th ể các quý vị đại biểu!

Cuộc hội ngộ hôm nay là m ột sự kiện quan trọng của Đảng, N hà
nước và nhân V iệt Nam, đã hy sinh mọi m ặt vì sự hồi sinh của nhân
dân Campuchia và cũng là dịp để n h ân dân Cam puchia chúng tôi được
bày tỏ tấm lòng th àn h kính và m ãi mãi ghi nhớ công lao giúp đỡ to
lớn của Quân t.ình nguyện V iệt Nam và m ột số nước bạn bè trê n th ế
giới, đã góp ph ần sẻ chia nỗi đau thương của m ình với n h ân dân
Campuchia.

Sự th ậ t là nếu không có sự hy sinh cao cả của bộ đội Việt Nam


th ì dân tộc Campuchia chúng tôi sẽ không có cơ hội để có Ngày chiến
th ắn g lịch sử 7-1-1979. Sự hy sinh cao cả của Quân đội Việt Nam đã
m ang lại sự nghiệp th ắng lợi to lớn của nh ân dân Campuchia vào
ngày 7-1-1979 và chiến th ắn g này đã được n h ân dân Cam puchia tổ
chức kỷ niệm để chào mừng, đồng thời để ôn lại những kỷ niệm đắng
cay cùng với lòng b iết ơn mãi m ãi đôi với những người đã cứu đất nước
và nh ân dân chúng tôi.

N hân dân Cam puchia chúng tôi m ãi m ãi tri ân công lao đó và xin
khắc ghi trong lịch sử của m ình để nhắc nhở cho con cháu muôn đời
sau. Bởi nếu không có sự cứu giúp của Đảng Cộng sản Việt Nam th ì

30
nh ân dân Cam puchia chúng tôi chắc chắn sẽ không còn tên tuổi của
m ình trê n th ê giới này.

N hân dịp này, thay m ặt nhân dân Campuchia, tôi xin kính cẩn
nghiêng m ình trước vong linh của Quân tình nguyện Việt Nam đã hy
sinh vi sự nghiệp đấu tranh và giải phóng nhân dân Campuchia và
mãi ghi nhớ công ơn to lớn của những người bạn chiến đấu trong nước
và quốc t ế đã hy sinh vì sự bình yên của dân tộc Campuchia trong
thời gian qua.

Kể từ Chiến th ắn g 7-1-1979 đến nay đã 35 năm , Vương quôc


Campuchia đã th ay đổi rấ t nhiều trên tấ t cả các lĩnh vực. Những
th à n h tựu đó đã nhận được sự hoan nghênh và chúc mừng của nhân
dân các nước trê n T hế giới. Việt Nam — Campuchia luôn nỗ lực xây
dựng mối quan hệ tốt đẹp, hợp tác toàn diện và luôn ủng hộ lẫn nhau
trê n các diễn đàn quốc tế. Trong nhiệm kỳ lãnh đạo của Chính phủ
hai nước h iện nay, Campuchia và Việt Nam đã th àn h công ký Hiệp
định xây dựng đường biên giới trên bộ và xây dựng quan hệ hợp tác
kinh t ế ngày càng p h át triển, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền và toàn
vẹn lãnh th ổ của nhau.

Chúng tôi luôn coi mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt giữa
Campuchia và Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Đ ảng N hân dân Campuchia là tài sản vô cùng quý giá, đòi
hỏi đ ất nước Campuchia chúng tôi phải cố gắng gìn giữ, bảo vệ trường
tồn. Tôi xin đánh giá cao Lễ mít tinh hết sức trang trọng và tố t đẹp
này tro n g không khí vui tươi, đoàn kết, hữu nghị anh em. Sự kiện
ngày hôm nay cũng là nguồn cố vũ cho sự phát triể n của Tổ quốc
Campuchia chúng tôi.

Thưa toàn th ể các quý vị đại biểu!

Thực hiện chính sách Thắng - Thắng của Chính phủ Hoàng gia
Campuchia, có Quô'c vương trị vi làm bóng m át che chở cho toàn th ể
nh ân dân Khơ-me, cùng với sự phát triển kinh tế, quan hệ quốc tế của
cơ quan lập pháp Campuchia cũng ngày càng được nâng cao, tôi xin
phép được vắn tắ t vài n ét về sự phát triển đầy tự hào trong quan hệ
hợp tác giữa Quốc hội Vương quôc Carr.puchia và Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:

31
Quốc hội Campuchia vui mừng nh ận thấy, đến đầu nhiệm kỳ 5
này, việc trao đổi Đoàn giữa lãnh đạo cấp cao của Đảng, N hà nước,
Quốc hội, M ặt trậ n , chính quyền địa phương với nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa V iệt Nam đã bước đến một giai đoạn rấ t đáng tự hào của
hai dân tộc chúng ta. N hân dịp này, chúng tôi xin bày tỏ lời cảm ơn
chân th àn h và niềm vui mừng, tự hào đối với mối quan hệ láng giềng
tốt, anh em tốt, hữu nghị truyền thông và hợp tác bền vững giữa hai
Đảng, hai Quốc hội và C hính phủ hai nước, vì sự nghiệp cao cả và
phồn vinh của nh ân dân hai nước chúng ta.

Quốc hội hai nước đã tiến hàn h trao đổi Đoàn lãnh đạo cấp cao,
lãnh đạo các ú y ban chuyên trách và Nhóm nghị sĩ hữu nghị, mở ra
những cơ hội cho Quốc hội hai bên trao đổi kinh nghiệm , thông tin vì
lợi ích tối cao cho đ ất nước và nhân dân hai nước Cam puchia — V iệt
Nam. Trong nhiệm kỳ vừa qua, Quôc hội hai nước dã n h ấ t trí ký Thỏa
thuận hợp tác giữa Quốc hội Vương quốc Cam puchia và Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa V iệt Nam, Thỏa thuận hợp tác giữa Văn
phòng Quốc hội hai nước. Đó là những văn kiện quan trọng để hai bên
cùng nhau nỗ lực củng cố và mở rộng quan hệ hữu nghị, đoàn kết, hợp
tác bền chặt và p h át triể n bền vững, góp p h ần vào sự nghiệp gìn giữ,
bảo vệ hòa bình, an n inh xã hội trong nước cũng như ở khu vực và
trê n th ế giới.

Quốc hội hai bên đã phối hợp tổ chức các hội nghị, hội thảo, tập
trung vào những' chủ đề chung có tầm quan trọng đối với Quốc hội hai
nước và nghị viện khu vực. Đồng thời, cơ quan lập pháp của hai nước
cũng thường xuyên tăn g cường quan hệ đối ngoại nghị viện với việc
ủng hộ lẫn nhau, phù hợp với quan điểm lập trường của C hính phủ
mỗi nước tạ i các cuộc họp nghị viện tro n g khu vực và trê n các diễn
đàn quốc tế. Với vai trò là th àn h viên của các tổ chức quốc tế ở khu
vực và trê n th ế giới, Quốc hội hai nước luôn nắm vững nguyên tắc
củng cố tìn h hữu nghị, hợp tác thông qua việc tham gia thường xuyên
và tích cực vào các cơ chế đối thoại với tin h th ầ n trách nhiệm cao
nhằm củng cố và mở rộng hợp tác giữa các nghị viện trong khu vực
Đông-Nam Á, đáp ứng lòng mong mỏi và phục vụ cho lợi ích tôi cao
của nhân dân hai nước, vì sự nghiệp bảo vệ an ninh, hòa bình ở khu
vực cũng như trê n th ê giới.

32
ú y ban Đốì ngoại Quốc hội ba nước Campuchia —Việt Nam —Lào
đã luân phiên tổ chức Hội nghị về vai trò của Quốc hội trong việc thúc
đẩy và củng cố p h át triển ở Khu vực Tam giác phát triển giữa ba nước
Campuchia —Việt Nam — Lào nhằm trao dổi ý kiến, đóng góp vào quá
trìn h p h át triển bền vững, mang lại lợi ích và nâng cao đời sông, cắt
giảm đói nghèo của người dân ở Khu vực Tam giác p hát triể n giữa ba
nước. Một lần nữa, thay m ặt Quốc hội Campuchia, tôi xin bày tỏ cảm
ơn chân th àn h đôi với Quốc hội Việt Nam đã giúp đỡ cả về tin h thần,
vật chất, kỹ th u ật cho Quốc hội Campuchia như máy soi, máy phát
điện, lắp đ ặt cơ sở hạ tầng tin học, dào tạo nguồn nhân lực và nâng
cao năng lực cho cán bộ Ban Tổng thư ký Quốc hội Campuchia.

Mới đây, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
hỗ trợ 1.000 tấn gạo cho nhân dân Campuchia bị lũ lụt. Chúng tôi xin
bày tỏ lời cảm ơn chính sách nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam
kể từ khi th àn h lập đến nay luôn có chính sách đúng đắn trong việc
xây dựng tìn h hữu nghị anh em, đoàn k ết và hợp tác giữa hai nước
Campuchia — Việt Nam, đóng góp cho hòa bình, an ninh lâu dài và
phát triể n bền vững cho các nước, cho khu vực và th ế giới.

Cuối cùng, tôi xin chúc môi quan hệ đoàn kết, hữu nghị và hợp
tác giữa Campuchia - Việt Nam, đặc biệt giữa cơ quan lập pháp hai
nước ngày càng được tăng cường, củng cố và ổn định lâu dài. N hân dịp
năm mới 2014, tôi xin chúc các vị lãnh đạo, các quý vị đại biểu sức
khỏe dồi dào và th ắng lợi.
X in cảm an!
(Nguồn: http:/ / www.nhandan.com.vn)

33
Phấn IV
ĐẬP TAN HÀNH ĐỘNG XÂM Lược,
ĐÁNH ĐỔ CHẾ ĐỘ DIỆT CHỦNG

TIẾN VỀ BIÊN GIỚI Q UÉT SẠCH QUÂN DIỆT CHỦNG


KHỎI TÂY NINH

Thiếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN

Sau giải phóng m iền Nam, Trung đoàn 66, Sư đoàn 10, Quân
đoàn 3 đóng quân ở th ị xã Gia N ghĩa vừa huấn luyện, vừa truy quét
bọn phản động Fulro. Đầu th á n g 10-1977, trung đoàn được bổ sung
nhiệm vụ chuẩn bị đánh địch bảo vệ vùng biên giới Tây Nam tỉn h Đắc
Lắc, nay là tỉn h Đắc Nông. Đến giữa th án g 10 cùng năm , đơn vị lại
nhận lệnh n h an h chóng cơ động về dội hình sư đoàn chiến đấu bảo vệ
biên giới tỉn h Tây N inh trước các cuộc tấn công khiêu khích của Khơ-
me Đỏ.
C àng đi về phía biên giới V iệt Nam —Campuchia, tội ác của Khơ-
me Đỏ càng hiện rõ trước m ắt chúng tôi. N hà cửa, các công trìn h công
cộng tro n g các thôn ấp đều bị dốt cháy; những cột nhà đen nhẻm trơ
trọi vẫn còn đang bôc khói. Ruộng vườn của nh ân dân cũng bị quân
dịch tà n phá tan hoang, cây côi gẫy đổ ngả nghiêng khô héo. Thi th ể
người và xác động vật bị giết bốc mùi nồng nặc dưới cái nắng gay gắt
của m ùa khô vùng biên giới.
Toàn bộ cầu cống ở khu vực giáp biên giới đều bị kẻ thù đánh
sập. T rên các trục lộ và đường mòn, Khơ-me Đỏ tổ chức nhiều ổ phục
kích, cài dặt các loại m ìn chông tă n g và bộ binh. Chúng còn sử dụng
pháo binh và súng cối bắn vào các khu dân cư và nhiều mục tiêu khác.
Khác với công tác chuẩn bị đánh địch trong những năm kháng
chiến chống Mỹ; trước đối tượng và thủ đoạn tác chiến mới của kẻ thù,

34
đơn vị đã tìm ra cách đánh, vận dụng linh hoạt nhiều chiến th u ật và
biện pháp tác chiến để tiêu diệt địch; giành lại quyền kiểm soát tuyến
biên giới, bảo vệ tín h m ạng và tài sản của nh ân dân, h ạn chế thương
vong cho cán bộ và chiến sĩ trong đơn vị, cũng như đơn vị bạn đang
làm nhiệm vụ trụ bám đánh địch trên địa bàn. Công tác tuyên truyền
và giáo dục cần xây dựng ý chí vựơt qua khó khăn trong chiến đấu,
khắc phục sự thiếu thốn về lương thực và nước uống, tinh th ần đoàn
kết, hiệp đồng và phôi hợp tác chiến giữa các lực lượng. Đồng thời, các
lực lượng còn phải thực hiện tốt chính sách dân vận và địch vận, tù và
hàng binh, cũng như kỷ luật chiến trường trê n nước ta và nước đối
phương.
Sau thời gian ngắn làm công tác chuẩn bị, theo lệnh, Trung đoàn
66 được tăn g cường xe tăng và th iết giáp, pháo binh và phòng không...
nhận lệnh tiến công trê n hướng chủ yếu của Sư đoàn 10. B ắt đầu
chiến dịch, Trung đoàn sử dụng một tiếu đoàn bộ binh cùng xe tăng và
th iế t giáp tiến công địch theo trục lộ 22; m ột tiểu đoàn bộ binh tăng
cường vu hồi về hướng Đông vượt suối Ổng Hùng, qua xã Tân Lập,
tiến s á t biên giới đánh vào phía sau quân địch. Lực lượng còn lại làm
dự bị, sẵn sàng bước vào tác chiến khi có lệnh.

Trước sự khiêu khích và dã tám xám lược Việt Nam của Khơ-me Đỏ,
Quân dội ta dã buộc, phải đánh trả bảo vệ chú quyền. A nh m inh họa. (Anh tư liệu).

35
Sau đợt hỏa lực bấn phá m ãnh liệt vào các trậ n địa địch, các đơn
vị ta b ất đầu tiến công tiêu diệt lực lượng địch chốt giữ phía trước;
đánh chiếm địa bàn có lợi để công binh tiến lên khắc phục vật cản,
mở thông đường đưa xe tăng và th iế t giáp vào đánh địch. B ằng sức
m ạnh tác chiến hiệp đồng binh chủng, bộ đội ta đã p h át triể n tiến
công nhanh, chiếm lại các địa bàn bị quân dịch tạm thời chiếm giữ.
Phôi hợp với lực lượng tiến công của trung đoàn, các đơn vị trụ bám
chiến đấu trong lòng địch cũng nổ súng tiêu diệt quân thù.
Trước sức tiến công m ạnh, đòn đánh bất ngờ, cách đánh hiểm cả
phía trước, bên sườn và phía sau; phôi hợp chặt chẽ giữa lực lượng tiến
công ở ngoài vào, lực lượng trụ bám bên trong đánh ra, quân địch
nh an h chóng ta n rã và tháo chạy. Sau khi tru y kích tiêu diệt kẻ thù
tới tận biên giới, tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhân
dân Campuchia, đơn vị sử dụng hai tiểu đoàn phối hợp với Đồn Biên
phòng Xa M át, lực lượng vũ tran g huyện T ân Biên, lập chốt chiến đấu
bảo vệ biên giới. Các đơn vị còn lại truy quét tà n quân địch còn đang
lẩn trốn.
Sau khi giải quyết địch tại địa bàn, đơn vị đã phối hợp các đơn vị
thuộc Sư đoàn 320 tiêu diệt địch ở khu vực Lò Gò, Xóm Giữa, Đông
sông Vàm cỏ. Lực lượng vũ tran g quân khu 7 và tỉn h Tây N inh cũng
tổ chức đánh địch ở hướng Đông.
Chỉ sau m ột ngày chiến đấu, ta đã quét sạch quân địch khỏi
tuyến biên giới tỉn h Tây Ninh. “Tuy bị chết nhưng cái n ết vẫn không
chừa”, chưa đầy mười ngày sau bọn phản động Khơ-me Đỏ lại sử dụng
từng toán lính nhỏ, lợi dụng đêm tối và khoảng trống giữa các chốt
của ta, lén lút đưa quân sang đ ặt m ìn, tổ chức phục kích trê n các trục
đường và nương rẫy gần biên giới, s á t hại dân thường gây hoang
m ang lo lắng cho đồng bào ta. Trung đoàn lại phối hợp với chính
quyền, xây dựng dân quân, huấn luyện tuần tra canh gác, phá gỡ các
loại mìn, giữ vững sản xuất ổn định đời sông nhân dân vùng biên...

Thiếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN


(Nguồn: Quân đội nhân dân)

36
ĐÁNH ĐỊCH BẢO VỆ VỮNG CHAC t u y ể n b iê n g iớ i

Thiếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN

Sau đợt phản công tiêu diệt và quét sạch quân địch ra khỏi tuyến
biên giới tỉn h Tây Ninh, Trung đoàn 66 phối hợp với Bộ đội Biên
phòng, lực lượng vũ tran g địa phương, vừa chốt giữ vừa cơ động đánh
địch bảo vệ tuyến biên giới ở Đông trục lộ 22, từ cửa khẩu Xa M át tới
ngã ba công sự. Tuy bị đánh đau, lực lượng bị tổn th ấ t lớn, nhưng tập
đoàn phản dộng Pôn P ốt vẫn chưa từ bỏ âm mưu xâm chiếm lãnh thổ
nước ta. Chúng liên tục tập trung quân mở nhiều đợt tiến công, sử
dụng thủ đoạn bâu bám đánh nhiều trậ n cả ngày lẫn đêm, nhằm phá
vỡ các chốt bảo vệ biên giới xâm chiếm lãnh thổ nước ta.
Nắm được quy luật hoạt dộng của địch, chỉ huy và cơ quan trung
đoàn lập k ế hoạch, lựa chọn phương án tác chiến tiêu diệt địch, bảo vệ
vững chắc tuyến biên giới. Được sự chỉ đạo và chi viện hỏa lực của sư
đoàn, tru n g đoàn tổ chức nắm dịch, tậ n dụng những khu rừng gần
biên bí m ật ém sẵn lực lượng. Lợi dụng đêm tối, bãi cỏ tra n h và
những lùm cây xanh, các mũi tiến công của ta bí m ật tiếp cận tiến
công vào bên sườn quân địch. Trong đêm tôi quân đich cũng tập trung
lực lượng, triển khai đội hình để tiến công vào những chốt quan trọng,
chiếm giữ địa hình hiểm yếu của ta.

37
Những người dăn vô tội bị giết hại bởi quăn Pôn Pốt. (Ánh tư liệu).

Với cách đánh quen thuộc của mấy ngày trước, khi trờ i vừa sáng
quân Pôn Pô’t đã nổ súng đánh vào chốt ta. Trong lúc quân địch đang
m ải mê tập tru n g lực lượng đánh chiếm chốt ta, chúng b ất ngờ bị hỏa
lực pháo binh của ta chế áp m ạnh, chi viện cho bộ binh đồng loạt tiến
công. Bị đánh m ạnh cả trước m ặt và bên sườn, phần lớn quân địch bị
tiêu diệt, sô" còn lại bỏ chạy về phía sau. Lực lượng địch rú t chạy bị
hỏa lực pháo binh và súng côi của ta tiếp tục sát thương.

Bị th iệ t hại nặng, biết không th ể tiến công đánh bật các chốt của
ta bằng dôi đầu trực tiếp, quân Pôn Pốt thay đổi chiến th u ật, tìm cách
đánh mới với th am vọng sẽ s á t thương được lực lượng của ta. Chúng sử
dụng m ột bộ phận nhỏ để tiến công vào chốt, lực lượng còn lại “đào
hầm độn thổ” bô' trí ở hai bên, sẵn sàng đánh vào bên sườn các mũi
tiến công hòng s á t thương lực lượng ta. Tuy vậy, cách đánh mới của
địch không th ể lừa được lực lượng trin h s á t và bộ binh của ta. Thông
tin từ các đài quan sát và chốt báo về cho thấy, lực lượng địch tiến
công không m ạnh. Vì vậy, tru n g đoàn chỉ sử dụng hoả lực chi viện,
động viên các chốt kiên cường trụ bám, đánh bại các đợt tiến công của
địch. Tới gần trưa, không th ấy bộ binh ta xuất hiện, quân địch buộc
phải rời khỏi nơi “độn th ổ ” để cơ động tậ p tru n g lực lượng tiến công
vào chốt của ta.

38
T ận dụng đội hình chiến đấu của địch lộ trê n m ặt đất, không có
vít che khuất và che đỡ, ngay lập tức các trậ n địa pháo binh và súng
cii của ta khai hoả, quân địch bị thương vong lớn phải rú t chạy về
piía sau.

Tuy lực lượng bị tổn th ấ t, nhưng quân Pôn P ốt vẫn chưa từ bỏ ý


đi chiếm chốt. Chúng tập trung lực lượng, tìm ra cách đánh khác, để
đinh lừa và sát thương lực lượng ta. Để ngăn chặn lực lượng ta tiến
cing vào bên sườn, quân Pôn Pôt cài đặt khá nhiều m ìn chông xe tăng
V í bộ binh, bảo vệ các mũi tiến công về phía ta. Cách đánh mới của

đch bước đầu đã p h át huy hiệu quả. Khi bộ binh ta vận động tiến
cing vào bên sườn quân địch, vấp phải mìn, bộ đội thương vong không
tấ n lên dược. Trước tìn h huống chiến đấu diễn ra ngày càng quyết
liit, nếu ta xử trí không nhanh và thiếu sáng tạo thì quân địch sẽ
m anh chóng đánh chiếm chốt của ta, gây tổn hại về lực lượng, ảnh
híởng đến tin h th ần chiến đấu của bộ đội. Chỉ huy trung đoàn đã
m anh chóng hội ý và đi đến quyết định sử dụng hoả lực chế áp m ạnh
tring thời gian dài, không cho địch cơ động tập trung lực lượng đế
tin công. Đồng thời, động viên bộ đội trê n chốt kiên cường trụ bám,
đính địch giữ vững trậ n địa. Lực lượng cơ động nhanh chóng vòng
tr.nh sâu về bên trái, để tiến công về phía sau đội hình quân dịch. Sử
d ụ g m ột bộ phận pháo binh, súng côi của trung và sư đoàn bắn phá
k im chế các trậ n địa pháo côi của địch, bảo vệ bộ đội trong quá trìn h
vậi dộng tiến công. Sau thời gian ngắn bô sung công tác tổ chức và
h ip đồng tác chiến, pháo binh và súng côi của ta đã phát huy sức
m n h , đánh trú n g đội hình tiến công của địch, kiềm chế chặt các trận
đị pháo binh của chúng, tạo điều kiện thuận lợi để bộ đội trê n chốt,
tiú diệt và đánh ta n các đợt tiến công của địch giữ vững trậ n địa. Lực
lưng cơ động vòng trá n h qua bãi mìn, đánh vào phía sau dội hình
tièi công của chúng.

Sau hơn hai giờ chiến dấu, bộ đội ta đã tiêu diệt và đánh tan các
mú tiến công của địch. BỊ đánh m ạnh cả phía trước và phía sau, quân
đ ịa buộc phải rú t chạy, bộ đội ta chuyển sang truy kích đánh sâu vào
đị; b àn đối phương, phá huỷ sở chỉ huy và căn cứ hậu cần của địch.
S a thời gian dài tập trung lực lượng m ạnh, sử dụng nhiều chiến
th ậ t, vận dụng nhiều cách đánh và th ủ đoạn chiến đấu, tiến công
trụ tiếp vào các chốt của ta không th à n h công, quân địch lại thay đổi
ch ín th u ậ t và cách đánh mới. Chúng sử dụng lực lượng nhỏ lẻ, lợi
39
dụng đêm tôi, tậ n dụng khoảng trố n g tro n g bô' trí lực lượng để luồn
sâu vào đ ất ta hòng làm suy yếu lực lượng, tạo th ế để đánh b ậ t các
chôt của ta. Chúng tể chức phục kích và cài đ ặ t m ìn trê n các con
đường mòn chi viện, vận chuyển và tiếp t ế của ta lên chốt, nh ằm s á t
thương lực lượng, cất đứt đường vận chuyển, làm suy giảm sức m ạnh
và tin h th ầ n chiến đấu của bộ đội, sau đó tậ p tru n g lực lượng tiến
công đán h tan các chốt của ta. Âm mưu và thủ đoạn mới của dịch bước
đầu đã gây ra thương vong, cản trở tới các hoạt động chiến đấu và bảo
đảm của ta. Ngay sau đó, các đơn vị đã tìm ra biện pháp khắc phục.
H ằng ngày ta lập ra những tuyến đường mới, để vận chuyển và chi
viện cho chốt. Ban đêm các đơn vị bí m ật tổ chức lực lượng nhỏ, phục
kích trê n những đoạn đường dự đoán quân địch sẽ đi vào đ ặ t m ìn và
phục kích lực lượng ta. Nhờ đó, lực lượng trê n chốt được giữ vững. Các
đơn vị lại tiêu d iệt được địch, b ắt được tù binh và thu được vũ khí, làm
th ấ t bại thủ đoạn tác chiến mđi của chúng.

Ngăn chặn các hoạt động tác chiến của bộ đội ta không th à n h
công, quân Pôn P ốt chuyển sang tìm cách giết h ại và gây hoang m ang
cho người dân. Trong đêm chúng đưa các toán nhỏ sang bí m ật cài đặt
mìn trê n các trục đường, ngoài nương rẫy, đốt nhà, bắn phá các phun
ấp giết hại dân thường, phá hoại sản xuất. Các đơn vị trong trung
đoàn đâ phối hợp ch ặt chẽ với dân quân ở các phun ấp, tổ chức phục
kích đán h địch bảo vệ tín h m ạng cũng như tà i sản của n h ân dân, làm
cho tìn h cảm quân dân ngày thêm gắn bó. Dể đảm bảo sự bình yên
cho n h ân dân vùng biên, thực hiện nhiệm vụ sư đoàn giao, toàn trung
đoàn vừa đánh dịch, vừa ra sức chuẩn bị cho đợt tiến công mới, đánh
sâu sang căn cứ đôi phương bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc.

T hiếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN


(Nguồn: Quân đội nhân dăn)

40
THỌC SÂU ĐÁNH ĐỊCH GIÚP BẠN MỞ RỘNG
ĐỊA BÀN HOẠT ĐỘNG

Thiếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN

Trước sự tà n s á t đẫm máu của bọn diệt chủng Khơ-me đỏ đối với
dân tộc Campuchia, và sự xâm phạm trắ n g trỢn lãnh thổ nước ta của
tập đoàn phản động Pôn Pốt, đầu th án g 12 năm 1977, những người
yêu nước chân chính ở Campuchia đã anh dũng đứng lên lãnh đạo
n h ân dân vùng dậy đấu tran h , lậ t đổ chê độ diệt chủng.

Theo yêu cầu của M ặt trậ n Đoàn k ết dân tộc Campuchia, Quân
dội n h ân dân V iệt Nam phối hợp với lực lượng vũ tran g yêu nước mở
cuộc tiến công tiêu diệt địch, giúp bạn phát triể n lực lượng, mở rộng
địa bàn hoạt động.

T rung đoàn 66 được tăng cường tiểu đoàn xe tăng và th iế t giáp,


pháo binh, phòng không, công binh và ô tô vận tải làm nhiệm vụ thọc
sâu đánh th ẳn g vào sở chỉ huy và hậu phương quân khu m iền Đông
của dịch.

Sau h ai ngay khán trương lam công tác tô chức và hiệp đồng tác
chiến, đúng 4 giờ sáng ngày 21-2-1977, đội hình chiến đấu thọc sâu
của trung đoàn sẵn sàng bước vào tiến công dịch. 5 giờ 30 phút, hoả
lực của sư đoàn và quân đoàn bắt đầu bắn phá các mục tiêu của địch. 6
giờ sáng, các đơn vị trong sư đoàn nổ súng tiêu diệt địch, đánh chiếm
địa bàn có lợi. 7 giờ, nhận lệnh của sư đoàn, toàn bộ đội hình thọc sâu
của tru n g đoàn b ắt đầu hành tiến, tiến công tiêu diệt địch. P h át hiện
th ấy lực lượng ta, Sư đoàn 4 của dịch tổ chức ngăn chặn rấ t quyết liệt
trê n trục đường 22, từ Plong đến ngã ba đường Sô' 7.

41
Tinh cảm gắn bó giữa nhăn dân Campuchia và bộ đội Việt Nam. (Ánh tư liệu).

Trung đoàn ra lệnh cho tiểu đoàn bộ binh cùng xe tăng, th iế t


giáp, pháo binh và cao xạ nổ súng tiêu diệt địch, tiếp tục p h át triển
chiến đấu. Trước sức m ạnh tiế n công bằng tác chiến hiệp đồng binh
c h ủ n g củ a ta , q u â n đ ịch b ị tic u d iệ t , lực lư ợ n g cò n lạ i bị đ ẩ y ra xa bai
bên, bộ đội ta n h an h chóng tiến lên đánh chiếm ngã ba đường 22 nối
với đường 7, p h át triể n về phía Sở chỉ huy quân khu m iền Đông của
địch. Quân dịch vội vã điều lực lượng phía sau ra ngăn chặn, chúng rải
m ìn chông tăn g và bộ binh trê n các trục đường. P h á t hiện trê n đường
tiến quân có m ìn, tru n g đoàn sử dụng hoả lực và bộ binh đánh địch,
bảo vệ cho lực lượng công binh tiến lên khấc phục vật cản để phát
triể n tiến công. Thấy xe tăn g và bộ binh ta tạm dừng, quân địch tổ
chức lực lượng đánh vào hai bên sườn, nhằm ngăn chặn không cho bộ
đội ta p h át triể n chiến đấu. Trung đoàn sử dụng hoả lực chi viện cho
bộ binh và xe tă n g tiêu diệt địch, đánh ta n các đợt phản công của
chúng, sẵn sàng tiến công.
Khi công b inh khắc phục v ật cản xong, bộ binh và xe tăn g của ta
nh an h chóng thọc sâu đánh th ẳn g vào Sở chỉ huy của địch ở Bắc cao
điểm 79, phía Tây Bắc Krếch. Quân dịch dựa vào công sự và địa hình

42
có lợi trên điểm cao để ngăn không cho xe tă n g và bộ binh ta tiến
vào. Trung đoàn đã tổ chức đợt hoả lực m ạnh, bắn ngắm trực tiếp của
xe tăng, pháo binh và phòng không đi cùng, chế áp ghìm đầu quân
địch, chi viện cho bộ binh và xe tă n g xung phong đánh chiếm Sở chỉ
huy quân khu m iền Đông.
Sau 30 phút tiến công, bộ binh và xe tăng ta đã tiêu diệt và đánh
chiếm được Sở chỉ huy của kẻ thù. Gần 10 giờ sáng, lực lượng tác
chiến phía trước và lực lượng ngăn chặn của địch bị tiêu diệt, quân
phản kích và sở chỉ huy của chúng cũng bị đánh tan. Lực lượng địch
còn lại hoảng loạn tháo chạy về phía sau.
Đánh chiếm được sở chỉ huy quân khu miền Đông của tập đoàn
Pôn Pốt, trung đoàn đã nhanh chóng tổ chức lại đội hình chiến dấu,
tiếp tục thọc sâu đánh chiếm căn cứ hậu phương m ặt trậ n m iền Đông
của địch ở khu vực Đầm Be. Lực lượng m ạnh của địch ở phía trước
nh an h chóng bị đánh tan, lực lượng phía sau chông cự yếu ớt rồi rút
chạy. Bộ binh và xe tă n g ta chuyển sang truy kích tiêu diệt quân thù.
11 giờ ngày 21-12-1977, bộ binh và xe tăn g ta đã làm chủ toàn bộ
căn cứ hậu phương của địch. Trung đoàn p hát triể n tiến công sang
Chông Chếch, bất liên lạc với M ặt trậ n Đoàn k ết dân tộc Campuchia.
Thấy bộ đội Việt Nam tiến sâu vào đất nước m ình chỉ để tiêu diệt kẻ
thù, không giết hại dân thường, đốt phá nhà cửa, cướp bóc của cải như
bọn Pôn Pốt đã tuyên truyền, nhiều người dân đã t.rỏr về các phiim, sóc
đê sinh sông, loại bỏ những sợ hãi ban đầu. Bộ đội V iệt Nam còn cấp
thuốc chữa chạy cho những người dân bị ôm đau, những người bị bọn
Ãng-ca đánh đập. Sau thời gian ngắn, tình cảm giữa nhân dân
Campuchia và bộ đội Việt Nam trở nên khăng khít. Họ gần gũi, bày tỏ
tìn h cảm th ân m ật với bộ đội Việt Nam.
Thông qua phiên dịch, chúng tôi tuyên truyền, vạch rõ tội ác của
bọn Khơ-me Đỏ, khuyên người dân Cam puchia nên di theo M ặt trậ n
Đoàn k ết dân tộc, đứng lên đánh đổ tập đoàn phản động Pôn Pốt, cứu
dân tộc th o át khỏi n ạn diệt chủng; xây dựng đất nước hoà bình, th ịn h
vượng, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc hơn. Bộ đội
Việt Nam tiến quân sang đ ất Campuchia chỉ nhằm trừng phạt kẻ thù,
giúp đỡ M ặt trậ n Đoàn k ết dân tộc. Việt Nam luôn tôn trọng độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh th ể của nhân dân Campuchia và mong
muốn xây dựng biên giới hoà bình và hữu nghị.

43
Trong lúc tìn h cảm quân dân 2 nước ngày càng gắn bó, th ì chúng
tôi n h ận được m ệnh lệnh rú t quân về nước. Để đảm bảo cuộc rú t quân
của tru n g đoàn được an toàn, suốt chặng đường dài hơn 30km trê n đ ất
nước bạn, mọi công tác chuẩn bị của bộ đội diễn ra rấ t khẩn trương,
nhưng vô cùng bí m ật, quyết không cho kẻ thù n h ận b iết tổ chức phục
kích, gây tổ n th ấ t cho các đơn vị.
Chỉ huy tru n g đoàn họp bàn để tìm ra phương án rú t quân hợp lý
và an toàn n hất. Trước giờ rú t quân chúng tôi sử dụng bộ binh lùng
sục, truy quét, tiến công đẩy địch ra xa. T ận dụng tiến g súng nổ và
trời tối, một tiểu đoàn bộ binh cùng xe tăng, pháo binh và cao xạ lui
quân trước, chỉ huy, cùng hai tiểu đoàn bộ binh lui quân sau. Đội hìn h
từng khối khi rú t quân cách nhau từ 300 đến 500 m ét. Mỗi khối tổ
chức ra lực lượng đi trước, lực lượng bảo vệ hai bên sườn và lực lượng
bảo vệ phía sau. Quá trìn h rú t quân các lực lượng phải tă n g cường
quan s á t để kịp thời p h á t hiện quân địch bám theo và phục kích, sẵn
sàng chuyển sang tiến công tiêu diệt. Do tổ chức rú t quân chặt chẽ, lại
giữ được bí m ật, n ên toàn đơn vị trở về nước an toàn, trung đoàn hoàn
th àn h xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Theo lệnh của sư đoàn, trung đoàn lại tiếp tục tổ chức chuẩn bị
chiến đấu. Lực lượng bộ binh chiếm lĩnh trậ n địa, củng cố chốt bảo vệ
đường biên, các đơn vị hoả lực vào chiếm lĩnh trậ n địa, lực lượng cơ
động vào khu vị tr í ém quân sẵn sàng đánh địch bảo vệ biên giới. Chỉ
huy các cấp và cơ quan tổ chức rú t kinh nghiệm sau đựt tiến cộng, để
bổ sung kinh nghiệm tác chiến.

T h iếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN


(Nguồn: Quán đội nhăn dăn)

44
ĐƯA CHIẾN TRƯỜNG SANG ĐẤT Đ ố l PHƯƠNG,
Đ Á N H ĐỊC H BẢO VỆ VỮNG CHAC v ù n g b i ê n g iớ i

Thiếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN

Tuy bị đánh sâu đến tận hậu phương của quân khu miền Đông,
lực lượng tác chiến phía trước bị tổn th ấ t rấ t nặng, nhưng tập đoàn
phản động Pôn P ốt vẫn chưa từ bỏ ý đồ xâm chiếm lãnh thổ HƯỚC ta.
Sau thời gian bổ sung lực lượng và bố trí lại th ế trậ n , quân địch sử
dụng lực lượng nhỏ bí m ật tập kích vào các chốt bảo vệ biên giới, luồn
lách vào lãnh thổ cài m ìn giết hại dân thường và bộ đội ta. Theo yêu
cầu của M ặt trậ n Đoàn k ết dân tộc Campuchia, Quân đoàn 3 quyết
định đưa chiến trường sang đất đối phương, đánh địch bảo vệ vững
chắc vùng biên giới, hỗ trợ cho bạn p h át triển lực lượng vũ trang, đẩy
m ạnh đánh địch.

Để giành quyền chủ động và tạo th ế b ất ngờ tiêu diệt địch, Sư


đoàn 10 quyết định chuyển hướng tiến công về phía Đông, cách đường
22 hơn lOkm. Trung đoàn 66 được giao nhiệm vụ tiến công trê n hướng
chủ yếu, phôi hợp với các đơn vi ban đánh chiếm khn vi.fr phía Rắp
đường Số 7, từ Mi Mốt qua điểm cao 92 tới điểm cao 108, Phum Sâm,
Krếch.

45
Quăn tình nguyện Việt Nam và lực lượng cách mạng Campuchia
phối hợp tiến công đánh địch giải phóng Campuchứi. (Anh tư liệu).

Sau thời gian làm công tác chuẩn bị, 5 giờ sáng ngày 7-2-1978,
toàn tru n g đoàn b ắt đầu tiến công địch. P h á t hiện bộ binh và xe tăn g
của ta, quân địch dựa vào công sự và trậ n địa tổ chức chống cự. Bằng
sức m ạnh chiến đấu hiệp đồng binh chủng, bộ binh và xe tăn g của ta
dã tiêu diệt lực lượng địch phòng ngự phía trước, nhanh chóng thọc
sâu đán h th ẳn g vào Sở chỉ huy và lực lượng phòng ngự tuyến sau. Sau
gần hai giờ chiến đấu, toàn bộ quân địch phòng ngự ở khu vực Mi Mốt
và phía Bắc điểm cao 92 đã bị tiêu diệt. T hế trậ n phòng ngự của địch
bị phá vỡ, tru n g đoàn đưa th ê đội hai vào p h át triể n tiến công. Bị
đán h từ bên sườn và phía sau, quân địch vừa chông cự vừa rú t chạy.
Lo sợ khu vực địa h ình có lợi ở phía Bắc trục đường s ố 7 bị m ất, m ặt
trậ n m iền Đông của địch sử dụng lực lượng phía sau và xe tă n g ra
ngăn chặn. P h át hiện xe tă n g và bộ binh địch, tru n g đoàn sử dụng
tiểu đoàn bộ binh cùng đại đội tă n g tiến công tiêu diệt địch ở điểm cao
62 án ngữ phía N am đường Số 7. M ột tiểu đoàn bộ binh cùng đại đội
xe tă n g đánh chiếm địa h ìn h có lợi ở phía Tây điểm cao 105. T hấy xe
tă n g và bộ b inh phía sau tiế n ra, quân địch ở cao điểm 62 ngoan cố
chông cự, chúng tậ p tru n g hoả lực m ạnh để ngăn chặn bộ binh và tiêu
diệt xe tă n g của ta. Trung đoàn sử dụng pháo binh đi cùng và pháo
trê n xe tă n g bắn ngắn trực tiếp chi viện cho bộ binh tiêu d iệt quân
dịch. Bị hoả lực ta bắn rấ t m ạnh, từ địa hìn h trê n cao, lại ở cự ly gần,
công sự của địch bị phá huỷ, lực lượng bị tiêu diệt, sô" còn lại phải tháo
chạy. T hấy bộ binh và xe tăn g ta đánh m ạnh, lực lượng ở điểm cao 62
rú t chạy, bộ binh và xe tăng địch ra phản kích cũng quay đầu rú t lui.

Thừa th ắng, bộ binh và xe tă n g ta chuyển sang truy kích quân


địch, p h á t triể n tiến công đánh chiếm Phun Sâm, ngã ba đường 7 và
đường 22, phía Nam Krếch. Sau một ngày chiến đấu đầy căng th ẳn g
và quyết liệt, bộ binh và xe tăn g của ta đã tiêu diệt, làm tan rã toàn
bộ lực lượng địch phòng ngự giữ các điểm cao trê n đoạn đường 7; đập
tan ý đồ quấy phá vùng biên giới nước ta của kẻ thù, tạo thê dể lực
lượng vũ tran g bạn p h át triển tiến công.

Tiêu d iệt địch xong, Trung đoàn 66 n h ận nhiệm vụ phòng ngự giữ
cao điểm 105 và 108, đến Mi Mốt, thu hút lực lượng địch, tạo th ế để
lực lượng vũ tra n g của M ặt trậ n Đoàn k ế t dân tộc tiến công vào sau
lưng quân địch. M ất địa bàn quan trọng từ Mi Mốt đến điểm cao 105
và 108, đường chiến lược Sô" 7 chi viện cho các tỉn h m iền Đông của
địch bị cắt đứt hoàn toàn. Quân địch liên tục tổ chức phản kích đánh
chiếm lại. Sau gần hai mươi ngày chiến đấu, kẻ thù sử dụng nhiều
chiến th u ậ t và thủ đoạn tác chiến, như: Tiến công chính diện, rồi tập
kích vào bên sườn, phục kích ở phía sau, luồn lách cài xen, bu bám
đánh phá liên tục cả ngày lẫn đêm... Trung đoàn đã phải sử dụng cả
v ệ b i n h <ỈP VIlất. k í c h , t i ô u d i ộ t q u â n đ i c h l u ồ n l ú c h c ù i x e n .

N h ận th ấ y không th ể đánh b ật được các chốt của ta, quân địch


thay đổi thủ đoạn tác chiến. Chúng tập trung lực lượng lớn hơn, dùng
cách đán h hiệp đồng binh chủng để tiến công vào cao điểm 105. Ban
đêm địch sử dụng xe cơ giới đưa thêm pháo binh vào chiếm lĩnh trậ n
địa, vận chuyển gỗ làm thêm trụ cầu Phun Sâm, đưa xe tă n g vào tiến
công. Được sự chỉ đạo và chỉ huy của sư đoàn, trung đoàn gấp rút
chuẩn bị k ế hoạch và phương án tiêu diệt địch. Chỉ huy và cơ quan
tru n g đoàn lên chốt động viên bộ đội phôi hợp với công binh và vận
tả i củng cố vững chắc trậ n địa chiến đấu, bcí trí thêm v ật cản và tăng
cường hoả lực sẵn sàng đánh địch. Sử dụng hai dại đội tă n g và th iế t
giáp, cùng tiểu đoàn bộ binh bí m ật ém sẵn ở Bắc cao điểm 105, sẵn
sàng tiến công vào bên sườn quân địch.

47
Sau gần m ột tu ần làm công tác chuẩn bị, quân địch ít tiế n công
vào các chốt của ta, tạo điều kiện th u ận lợi để bộ đội tra n h th ủ củng
cố công sự, bố trí lực lượng sẵn sàng đánh địch. 6 giờ ngày th ứ 7, pháo
binh địch b ắt đầu bắn phá trậ n địa phòng ngự của ta, tập trung vào
điểm cao 105. Ngay lập tức chúng bị pháo binh của sư đoàn đánh trả ,
hoả lực bắn th ẳn g của địch trực tiếp bắn phá các chốt chi viện cho bộ
binh tiế n công. Cùng lúc đó xe tă n g của địch cũng xuất hiện, chúng
tiến theo đường s ố 7 để đánh lên cao điểm 105. Trung đoàn bổ sung
hiệp đồng, khi dội h ình xe tăn g địch qua cầu Phun Sâm, th ì xe tăn g
và bộ binh ta mới xuất kích. Không th ấ y hoả lực ta ngăn chặn, xe
tăn g địch tiến rấ t nhanh. Khi đài quan sá t báo cáo, chiếc xe tă n g đi
đầu của địch đã qua cầu Phun Sâm, tru n g đoàn thông báo để lực lượng
cơ động chuẩn bị xuất kích đánh địch. Tiểu đoàn trưởng đã ra lệnh
cho xe tă n g và th iế t giáp xuất kích. P h á t h iện th ấy xe tă n g và bộ binh
ta, xe tă n g địch quay đầu tháo chạy, trung đoàn ra lệnh cho lực lượng
cơ động chuyển sang truy kích. Một chiếc xe tă n g địch bị bấn cháy
ngay đầu cầu Phun Sâm, cản đường xe tăn g ta không tiế n lên được. Bộ
binh và xe tă n g chuyển sang tiêu diệt bộ binh địch đang rú t chạy hai
bên bờ và dưới lòng suôi.

Qua hơn ba giờ chiến đấu, kẻ thù đã bị đánh th iệ t hai r ấ t nặng.


Ngay đêm hôm đó quân địch tổ chức phá cầu P hun Sâm, ngăn chặn
không cho bộ binh và xe tă n g ta tiến công. Tập tru n g lực lượng đánh
lớ n v à đ á n h vừ a ở c h ín h d iệ n th e o đ ư ờ n g SỐ 7 k h ô n g th à n h , q u â n đ ich
chuyển hướng tiến công lên p hía Bắc, đánh vào bên sườn đội hình
phòng ngự của sư đoàn. M ột tiểu đoàn bộ binh của trung đoàn, cùng
với xe tă n g và th iế t giáp đã chuyển sang làm nhiệm vụ cơ động, để
ph ản kích khôi phục lại m ột sô’ chốt cho các đơn vị bạn. Phòng ngự
kiên cường, giữ vững địa bàn quan trọ n g ở Đông Nam tỉn h Công Pông
Chàm , đã tạo ra th ế có lợi để sư đoàn cùng các đơn vị trong quân đoàn
chuyển sang tổng tiến công, phối hợp ch ặt chẽ với lực lượng vũ tran g
và n h ân d ân nước bạn tiêu diệt địch, lậ t đổ chế độ Pôn Pốt.

T hiếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN


(Nguồn: Quán dội nhăn dân)

48
TỔNG TIẾN CÔNG GIẢI PHÓNG VÙNG ĐÔNG
SÔNG MÊ KÕNG, TẠO THẺ ĐÁNH VÀO PHNÔM PÊNH

Thiếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN

Đầu th án g 12-1978, khi đang cùng lực lượng vũ tran g của M ặt


trậ n Đoàn kết dân tộc Campuchia làm nhiệm vụ phòng ngự, giữ vững
vùng giải phóng ở Bắc đường Sô 7, Trung đoàn 66 n h ận nhiệm vụ phối
hợp với các đơn vị trong sư đoàn và quân đoàn, cùng lực lượng vũ
tra n g nước bạn tiêu diệt lực lượng của quân khu m iền Đông và m ặt
trậ n đường s ố 7 của địch, giải phóng vùng Đông sông Mê Kông, tỉnh
Công Pông Chàm, tạo th ế tiến công giải phóng Thủ đô Phnôm Pênh.

Sau khi bàn giao toàn bộ trậ n địa phòng ngự cho đơn vị bạn, toàn
tru n g đoàn rú t về tuyến sau rút kinh nghiệm sau hai năm chiến đấu,
bổ sung lực lượng chuẩn bị tác chiến. Giữa th án g 12, sư đoàn chính
thức giao Trung đoàn 66 được tăn g cường xe tăng, pháo binh, phòng
không và công binh... tiến công trê n hướng chủ yếu, tiêu diệt địch ở
khu vực Đông Bắc Xtưng, thọc sâu đánh chiếm Sở chỉ huy Quân khu
m iền Đông và M ặt trậ n đường Sô' 7 ở Mô Lu, phát triển đánh chiếm
Suông, Cliúp. P liál hiện quan dọi ta va lực lượng vũ tran g cúa M ặt
trậ n Đoàn k ết chuẩn bị đánh lớn trê n toàn chiến trường, tập đoàn
Pôn P ốt ra lện h cho quân đội tă n g cường lùng sục, tổ chức phục kích
trê n các trục dường mà bộ binh và xe tăn g ta có th ể tiến công. Cuối
th án g 12, đoàn cán bộ và trin h s á t của SƯ đoàn, trung đoàn bị quân
địch phục kích khi đang thực hiện nhiệm vụ nắm địch và nghiên cứu
địa hình. Tình huống đó cho thấy, hướng tiến công của trung đoàn đã
bị lộ, quân địch sẽ tăn g cường lực lượng, tổ chức phòng ngự bịt chặt
các con đường, không cho xe tăng, pháo binh và phòng không của ta
tiến công.

Thời gian chuẩn bị để chuyển hướng tiến công không còn, thấy rõ
khó k h ăn của tru n g đoàn, chính ủy và cơ quan sư đoàn xuông tận sở
chỉ huy, cùng cán bộ trung đoàn và cơ quan thảo luận để tìm ra
phương án khắc phục, đồng thời động viên bộ đội chiến đấu. Đêm 30-
12, chỉ huy tru n g đoàn và tiểu đoàn, cùng trin h sát tổ chức ba mũi

49
nắm địch. Một mũi, có đại đội bộ binh đi cùng để sẵn sàng chi viện
cho công binh dò m ìn, bảo đảm cho xe tă n g và pháo binh vào tiế n
công, bám ở khu vực nơi xảy ra trậ n đánh địch phục kích. M ột mũi
vòng lên phía bắc. Mũi còn lại lùi xuống phía Nam.

Mặc dù đêm tối, cán bộ và trin h s á t vẫn m iệt m ài điều tra dịch.
Quá nửa đêm chúng tôi đã tìm ra khoảng trô n g tro n g bô' trí đội hìn h
phòng ngự của chúng, bí m ật đưa bộ đội luồn sâu vào bên sườn quân
địch gần lkm . R ạng sáng ngày 31-12, trê n hướng đường chuẩn bị đưa
xe tă n g và pháo binh vào tiến công, quân địch p h á t h iện th ấ y lực
lượng ta. Chúng nổ súng, đại đội bộ binh và hỏa lực đi cùng tiế n công
tiêu d iệt địch. Trong lúc quân địch đang tập tru n g lực lượng để đối phó
ở chính diện, th ì b ất ngờ bị lực lượng ta từ bên sườn và phía sau đánh
t ạ t sang, chúng hoảng loạn rú t chạy. Công binh n h an h chóng khắc
phục v ật cản, tru n g đoàn đưa ngay bộ binh, xe tă n g và pháo binh đi
cùng vào p h át triển tiến công.

Quăn tỉnh nguyện Việt N am tiến vào T hủ đô Phnôm Pénh. (Ánh: wikipedia.org).

P h á t h iện lực lượng ta tiến công bằng sức m ạnh hiệp đồng binh
chủng, uy hiếp trực tiếp đến sở chỉ huy SƯ đoàn, sở chỉ huy m ặt trậ n
đường 7 và tiền phương quân khu m iền Đông, quân địch sử dụng hỏa

50
lực pháo binh bắn m ạnh vào đội hình chiến đấu của trung đoàn, chi
viện cho lực lượng phía sau ra phản kích, ngăn chặn r ấ t quyết liệt.
Lực lượng bộ binh và xe tăn g ta đi đầu bị thương vong không tiến lên
được.

Trước tìn h hình đó, sở chỉ huy nhẹ của trung đoàn vượt lên phía
trước nắm địch, tổ chức lại đội hình chiến đấu. Trung đoàn đề nghị sư
đoàn và quân đoàn kiềm chê pháo binh địch. Sau 20 phút tổ chức,
tru n g đoàn h ìn h th àn h hai mũi tiến công: Một mũi cùng xe tăn g phối
hợp với Sư đoàn 302 của Quân khu 7 đánh ra đường Sô' 7 để tăng
cường cho quân đoàn hình th à n h th ế bao vây quân địch; m ột mũi cùng
xe tăn g đán h th ẵn g vào sở chỉ huy của SƯ đoàn địch ử điểm cao 45.

Đúng lúc đó, không quân và pháo binh ta, đánh phá sở chỉ huy
m ặt trậ n và tiề n phương quân khu, trậ n địa pháo binh địch, tạo thuận
lợi để tru n g đoàn p h át triể n tiến công. 11 giờ, m ột mũi tiến công của
tru n g đoàn đã đánh ra đường Sô' 7, p h á t triển tiêu diệt địch ở Chrum,
Tà Hiên, Suông, b ắt liên lạc với Sư đoàn 320, chốt chặn trục đường 7
không cho địch rú t chạy. Mũi th ứ hai tiêu diệt sở chỉ huy sư đoàn
địch, đánh chiếm sân bay Krếch. Quân địch ngoan cố chống cự, xe
tă n g và bộ b inh ta phải đột phá nhiều lần. Đến gần 3 giờ chiều, trậ n
đánh mới k ế t thúc.

Ngay chiều hôm đó trung đoàn nhận lệnh của sư đoàn chuẩn bị
t iô n c ô n g , h iệ p đ ồ n g vớ i đ ơ n vi b a n đ á n li c h iế m sử c h i h u y m a t tr ạ n
đường 7 và tiề n phương m ặt trậ n m iền Đông của địch. Tối hôm dó,
tru n g đoàn đang làm công tác chuẩn bị chiến đấu, th ì bất ngờ quân
địch và sở chỉ huy của chúng ở trong vòng vây rú t chạy. Xe tă n g và
pháo binh của địch lợi dụng đêm tối, đi theo đường xe tăn g ta tiến
công để th o át ra. Xe tăng địch chạy qua đội hình h àn h quân vào triể n
khai tiến công của Trung đoàn 28, tiến vào đội hình chiến đấu của
tru n g đoàn. Đại đội DKZ bô' trí hai bên đường, tưởng lầm là xe tăn g ta
nên không bắn. Khi n h ận được lệnh, th ì chiếc xe tăng đi đầu của địch
đã chạy vào đ ến sở chỉ huy, vừa di vừa bắn sang hai bên. Chiếc xe
địch lập tức bị tru n g đội xe tăn g dự bị của ta tiến ra chặn dứng, vệ
binh và thông tin ở sở chỉ huy nhảy lên b ắt sông địch. Chiếc tă n g thứ
hai bị đại đội DKZ tiêu diệt, một sô chiếc bị Trung đoàn 28 bấn cháy.
Số xe tăn g và xe kéo pháo của địch còn lại, băng qua cánh đồng để
:hạy ra đường Scí 7. Tốp đi đầu bị lực lượng chốt chặn của trung đoàn

51
ở Tà H iên và Suông tiêu diệt. L iên tục bị chặn đ án h ở nhiều tầng,
quân địch hoảng sợ vứt to à n bộ xe pháo ở ngoài cánh đồng, bỏ chạy
th o át th ân . Bộ binh địch vòng qua th ị tr ấ n Suông, về tới Chúp lại bị
Sư đoàn 320 tiêu diệt. T oàn tru n g đoàn cả đêm vừa đánh địch, vừa
làm công tác chuẩn bị chiến đấu tiếp theo. Đ ến 6 giờ sáng hôm sau,
m ột tiểu đoàn bộ binh của tru n g đoàn cùng với xe tăng, phôi hợp với
đơn vị bạn tiến công tiêu d iệt sở chỉ huy m ặt trậ n đường 7 và sở chỉ
huy tiề n phương của quân khu m iền Đ ông ở p hía Nam Suông. 11 giờ
ngày 1-1-1979, to àn bộ quân địch đã bị tiêu diệt, địa bàn quan trọ n g ở
vùng Đông sông Mê Kông được giải phóng, tạo điều kiện th u ận lợi để
Sư đoàn 320 vượt sông giải phóng th ị xã C ông Pông Chàm.

Giải phóng to àn bộ tỉn h C ông Pông C hàm , Sư đoàn 10 của Quân


đoàn 3, đã phối hợp ch ặt chẽ với các đơn vị và lực lượng vũ tra n g của
bạn, tiế n công vào Thủ dô P hnôm P ê n h theo trục đường Sô' 6, lậ t đổ
chế độ d iệt chủng Pôn Pốt. Thê đội 1, T rung đoàn 28 và xe tă n g đã
n h an h chóng tiêu d iệt quân địch phòng ngự ở tuyến ngoài, vượt sông
Tôn Lê Sáp, thọc sâu đ án h th ẳ n g vào H oàng cung và Bộ Tổng tham
mưu quân đội Pôn Pô't. Khi sở chỉ huy và lực lượng đi đầu của Trung
đoàn 66 vào đến Phnôm P ên h , th ì quân địch kẻ đã bị tiêu diệt, kẻ rú t
chạy. Theo lện h của sư đoàn, tru n g đoàn chuyển sang đánh địch, cùng
các đơn vị bạn giải phóng các tỉn h trê n trục đường Sô' 6.

T h iê u tư ớ n g , P G S , T S . B Ù I T H A N H S Ơ N
(Nguồn: Quăn đội nhân dãn)

52
ĐÁNH ĐỊCH GIẢI PHÓNG c ố ĐÔ XIÊM RIỆP

Thiếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN

Sau khi tiến công địch giải phóng Thủ đô Phnôm Pênh, Sư đoàn
10 của Quân đoàn 3, n h ận lệnh tiế n công địch ở các tỉn h xung quanh
Biển Hồ, giúp nh ân dân C am puchia th o á t khỏi nạn diệt chủng.
Sau khi T rung đoàn 24 đán h địch, giải phóng thị xã Công Pông
Thom, T rung đoàn 66 được chuyển giao xe tăng, th iế t giáp và pháo
binh, tiểu đoàn ô tô vận tải, h àn h tiến tiế n công giải phóng th à n h phố
Xiêm Riệp, quyết không cho địch tổ chức co cụm lập căn cứ ở vùng
Tây Bắc chống lại lực lượng cách m ạng và n h ân dân Campuchia.
N hận lện h đán h địch của sư đoàn, chỉ huy trung đoàn n h ận định,
lực lượng địch ở trục đường 6 và th à n h phcí Xiêm Riệp còn đông, sức
chiến đấu còn m ạnh. Hơn nữa, khi Thủ đô Phnôm P ênh và thị xã
Công Pông Thom bị m ất, quân địch sẽ tă n g cường phòng bị. Tuy
nhiên, chặng đường từ Công Pông Thom tới Xiêm Riệp khá dài, lực
lượng địch rú t chạy chưa th ể về đến th à n h phố Xiêm Riệp để co cụm.
Do đó, tru n g đoàn cần phải k h ẩ n trương làm công tác chuẩn bị để
n h an h chóng h à n h tiến tiế n cône địch. Sau hơn 2 girr chuẩn hị chiôn
đấu, tiểu đoàn bộ binh và xe th iế t giáp đi đầu, bắt đầu h àn h tiến đánh
địch, tiếp sau là sở chỉ huy và cơ quan tru n g đoàn, lực lượng xe tăng
và pháo binh. H ai tiểu đoàn bộ binh chuẩn bị xong, tiếp tục hành tiến
chiến đấu, sẵn sàng đánh địch tiế n công vào hai bên sườn. Đội hình
tiến công của tru n g đoàn theo đường số 6, ra khỏi th ị xã Công Pông
Thom khoảng 5km, bộ phận đi đầu gặp địch nổ súng ngăn chặn rấ t
quyết liệt. Bộ b inh ta xuống xe triể n khai tiế n công, có hoả lực m ạnh
của ĐKZ trê n xe th iế t giáp đi cùng, bắn ngắm trực tiếp chi viện. Sau
30 p h ú t chiến đấu, quân dịch bị tiêu diệt, bộ đội ta lên xe hàn h tiến
đánh địch. P h á t hiện bộ đội ta tiế n công, quân Pôn P ốt dựa vào địa
h ình có lợi và các phun, sóc ở hai bên đường liên tục chặn đánh.
Qua hơn 1 giờ tác chiến chỉ huy, tru n g đoàn nhận định, nếu ta
vận dụng cách đán h này, tốc độ tiế n công sẽ chậm, quân địch càng có
điều kiện tă n g cường phòng bị liên tục chặn đánh. Trung đoàn quyết
định th ay đổi cách đánh, vừa h àn h tiến , vừa tiến công tiêu diệt địch.
53
Khi có bộ đội bị thương vong và ô tô bị hỏng, từng khôi chiến đấu để
lại m ột bộ ph ận khắc phục, đưa ngay xe dự bị lên p h át triể n tiế n công
tiếp. Sở chỉ huy của tru n g đoàn, đi cùng chỉ huy Tiểu đoàn 7 đi đầu,
sau đại đội chiến đấu phái di trước. Tuy nhiên, cách đánh này lại gây
trở ngại cho chỉ huy tiểu đoàn ô tô, bộ đội sợ không đủ người để khắc
phục hậu quả và xe để th ay thế. Trung đoàn bàn phương án khắc
phục, tạo điều kiện để an h em lái xe yên tâm sá t cánh cùng bộ binh
đánh địch. Xây dựng được lòng tin và tạo sự đồng thuận, các bộ phận
đều có quyết tâm vượt qua khó khăn, đánh địch hoàn th à n h nhiệm vụ
được giao. Bàn bạc phương án và tổ chức đội hìn h chiến đấu xong,
tru n g đoàn tiếp tục h àn h tiế n tiế n công tiêu diệt địch. Mặc dù quân
địch vẫn liên tục chặn đánh, nhưng th iế t giáp và bộ binh đi đầu đã
đánh bật quân địch sang hai bên đường để p h á t triể n tiến công. Vì
vậy, có lúc đội h ình tru n g đoàn, cùng nể súng đánh địch trê n đoạn
dường dài vài cây số.
Lợi dụng trời tối quân địch khó quan sá t p h át hiện lực lượng ta,
tru n g đoàn quyết định đẩy n h an h tốc độ tiến công. Khi tră n g sáng
tru n g đoàn ra lệnh tấ t cả các loại xe không được b ật đèn và bỏ nguỵ
trang. Bộ đội trê n xe không đội mũ, sử dụng k h ăn m ặt vắt vai hoặc
đội lên đầu để nghi binh lừa địch. K ế sách của ta đã p h á t huy hiệu
quả, quân địch ít chặn đánh, tiến g súng xa dần, đội hìn h chiến đâu
của tru n g đoàn đã n h an h chóng lọt sâu vào phía sau quân dịch. Quá
nửa đêm, một. tình huống h ất ngờ xảy ra, quân địch tưởng th ị xã Công
Pông Thom v ẫn còn đang tác chiến, chúng sử dụng đoàn xe vận tải
gần 30 chiếc chở quân và đạn dược chi viện cho chiến trường này.
Đoàn xe địch đi ngược chiều đội hìn h chiến đấu của ta. Đại đội bộ
binh và th iế t giáp đi trước p h át hiện báo cáo, tru n g đoàn ra lệnh tuyệt
đôi không được nổ súng, để tạo th ế b ất ngờ tiến sâu hơn vào đội hình
quân địch, các lực lượng chỉ được nổ súng, khi quân địch đã p h á t hiện
ra lực lượng ta. Đoàn xe của địch, ngày càng tiến sâu vào đội hình
chiến đấu của tru n g đoàn. Quân địch lại lầm tưởng là lực lượng của
m ình, chúng không hề nghi ngờ hoặc p h á t ra tín hiệu để hỏi. Gần m ột
giờ sau, chiếc xe đi cuốĩ đội hìn h chở bộ binh, đầu đội hình xe chở đạn
của địch nháy đèn, m ột tê n đứng ngoài cửa vẫy tay, ra hiệu cho xe đi
đầu của ta dừng lại. Chiếc xe ra hiệu dừng lại vừa đi qua, sợ bị lộ, xe
th iế t giáp đi đầu của ta sử dụng ĐKZ tiêu d iệt chiếc xe đi sau. Bị hoả
lực 106,7 mm bắn ở cự ly gần, chiếc xe chở đạn của địch bị h ấ t tung ra
bên đường, nổ vang.

54
T hấy tiến g nổ lớn, quân địch ở các chốt hai bên đường tiến ra
chặn cả xe của ta và địch lại để hỏi. Xe cửa chỉ huy trung đoàn cũng bị
ba người cầm súng tiến ra chặn trước cửa xe. Trời tôi không rõ lính ta
hoặc địch, tôi nói nhỏ với tiểu đoàn trưởng và lái xe: “Ngồi im để
m ình xuống.” Vừa đặt chân xuống đất, tôi bị tê n lính đi đầu chĩa súng
vào người. Anh em trê n xe lo lắng, muôn cứu tôi, nhưng do cự ly giữa
tôi và tên địch quá gần nên không th ể nổ súng được. N hận thấy đây
là lính địch, tôi bình tĩn h xua tay ra hiệu cho tên địch là không có gì
xảy ra. R ất m ay trong thời gian dài chiến đấu trê n đất Campuchia,
người tôi gầy và đen, trê n vai luôn có chiếc khăn m ặt lau mồ hôi, đêm
tốì trông giông kh ăn rằ n của địch. Tên địch tưởng tôi là lái xe của
chúng, liền hạ súng bước đi, hai tê n sau cũng quay gót bước theo. Lúc
đó tôi chỉ kịp lăn m ấy vòng, nhằm tạo ra khoảng cách để an h em trê n
xe tiêu d iệt địch. Tiếng súng từ khu vực xe chỉ huy bùng nổ, đội hình
toàn tru n g đoàn chuyển sang tiến công địch. BỊ đánh b ất ngờ trong
th ế cài xen, quân địch bị tiêu diệt, hoảng loạn bỏ chạy.
Sau gần 2 giờ chiến đấu, trung đoàn đã quét sạch các chốt của
địch ở hai bên đường, bắn cháy và b ắt sông 23 xe của địch. Đơn vị
cũng có m ột số cán bộ và chiến sĩ bị hy sinh, trong đó có anh Vũ Văn
Tài vừa được bổ nhiệm làm trung đoàn phó.
Giải quyết chiến trường xong, trung đoàn lại hàn h tiến tiến công
địch. 5 giờ sáng ngày 9-1-1979, tru n g đoàn tiến sát th àn h phố Xiêm
R iệ p , t r i ể n k h a i t h à n h h a i m ũ i t iế n côn g: MỌI m ũi c ù n g x e t a n g v a
pháo binh, tiến công th ẳn g vào th à n h phô" theo đường số 6; m ột mũi
cùng th iế t giáp vòng về bên phải tiến công vào khu đền Áng Co. Bất
ngờ bị đán h m ạnh từ hai hướng, quân địch ở trong th àn h phố không
kịp đôi phó, chúng chỉ chặn đánh ở một số dãy phố rồi rú t chạy.
Trung đoàn đưa tiểu đoàn dự bị và xe tăng vào ph át triển tiến công
đánh chiếm sân bay. Trên hướng đền Ăng Co, quân địch tổ chức
kháng cự, nhưng bị ta tiến công m ạnh đánh từ hai bên sườn nên phải
rú t chạy. 10 giờ sáng, trung đoàn giải phóng hoàn toàn th à n h phô",
khu đền Ãng Co và sân bay Xiêm Riệp, hoàn th àn h xuất sắc nhiệm vụ
chiến đấu được giao.

T hiếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN


(Nguồn: Quân đội nhăn dân)

55
PHÁT TR IỂN TIẾN CÔNG TIÊU DIỆT ĐỊCH
GIẢI PHÓNG TỈNH PÔ XÁT

Thiếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN

Sau khi hoàn th à n h nhiệm vụ tiêu diệt địch giải phóng th à n h


phố Xiêm Riệp, Trung đoàn 66 được bổ sung nhiệm vụ đánh chiếm Xi
Xô Phôn, tạo bàn đạp để đơn vị bạn triể n khai tiến công, tiêu diệt
địch, giải phóng th à n h phô' B át Đom Boong. Sau khi Trung đoàn 24
đán h địch giải phóng th à n h phô, Trung đoàn 66 n h a n h chóng p h á t
triể n tiến công theo trục đường Sô' 5, tiêu diệt địch phòng ngự ở th ị
trấ n Mong, tiến công giải phóng th ị xã Pô Xát.
N hận nhiệm vụ của sư đoàn, trung đoàn n h an h chóng bàn giao
địa b àn th à n h phố Xiêm Riệp cho đơn vị bạn, k h ẩn trương chuẩn bị
đ án h địch. Tiểu đoàn 8 được tă n g cường th iế t giáp và pháo binh b ắ t
dầu h àn h tiến chiến đấu. P h á t h iện bộ đội ta tiế n công, Sư đoàn 5 của
Pôn P ốt phòng ngự giữ Bắc đường Số 6 và Tây Bắc đường Số 5. Trước
sức m ạnh tiến công bằng hiệp đồng binh chủng của bộ đội ta, sau 4
giờ h àn h tiến chiến đấu, Tiểu đoàn 8 đã tiêu diệt địch, đánh chiếm
được Xi Xô Phôn.
Sau đó, tiểu đoàn chia làm hai mũi p h á t triể n tiến công vê hướng
đường Số 5 và Poi P ét, ra đến tậ n biên giới Cam puchia — T hái Lan,
tạo th u ận lợi để Trung đoàn 24 bước vào đánh địch. Khi Trung đoàn
24 đang còn đánh địch ở tru n g tâm th à n h phô' B át Đom Boong, sư
đoàn tăn g cường cho Trung đoàn 66 xe tăng, xe th iế t giáp, pháo binh,
phòng không và công binh, làm nhiệm vụ h àn h tiến tiêu d iệt địch
trê n trục đường Sô" 5, giải phóng thị xã Pô Xát. B iết lực lượng ở phía
N am th à n h phô B át Đom Boong chưa kịp rú t chạy, Quân khu Kăng
Đan ra lệnh cho lực lượng còn lại của Sư đoàn 101 và 104 tậ n dụng
trụ c đường tàu hoả chạy song song với đường Sô" 5 ở phía Tây liên tục
tiế n công vào bên sườn đội hình hàn h tiến chiến đấu của tru n g đoàn.
Trước sức m ạnh ngăn chặn của địch, k ế t hợp với tiến công liên tục vào
bên sườn đội hìn h chiến đấu của ta, chỉ huy tru n g đoàn quyết định
th a y đổi cách đánh. Từng tiểu đoàn bộ binh xuống xe, luân phiên tiến
công vào bên sườn kẻ th ù ở phía Tây đường tàu. Cách đánh của trung

56
đoàn đã p h át huy hiệu quả. Khi hoả lực ta bắn m ạnh để ghìm đầu
quân địch xucíng, th ì b ấ t ngờ chúng bị bộ binh ta đánh m ạnh vào bên
sườn. P hía sau quân địch là cánh đồng rộng và rấ t trống trải, lực
lượng rú t chạy tiếp tục bị hoả lực ta sá t thương. Sau hơn hai giờ hành
tiến đánh địch, đầu đội hình chiến đấu của trung đoàn đã đến bấc thị
trấ n Mong. Để hạn chế sức m ạnh tiến công của ta, quân địch cho phá
toàn bộ cầu cống, cài mìn trên các con đường, bô" trí lực lượng chặn
đánh không cho ta tiến vào th ị trấn . T rên các toà nhà cao tần g chúng
bố trí ĐKZ và 12.7mm để tiêu diệt xe tăn g và bộ binh ta.
P h á t hiện trậ n địa phòng ngự của địch được tổ chức rấ t chặt chẽ,
trung đoàn triển khai pháo binh, tiến hành đợt hoả lực m ạnh chế áp
quân địch phòng ngự trong th ị trấ n , tạo điều kiện để bộ binh ta tiếp
cận tiêu diệt quân địch, công binh tiến lên mở dường, xe tăng, th iế t
giáp tiến vào đánh địch. Sau gần 1 giờ chiến đấu, trung đoàn đã tiêu
diệt và đánh b ật quân địch ra khỏi th ị trấ n Mong, nhanh chóng tiến
về Pô Xát.
Lầm tưởng sau khi giải phóng Phnôm Pênh, quân ta sẽ tiến công
theo trục đường Số 5 từ hướng Nam đánh vào th ị xã Pô Xát, quân địch
cho phá cầu, xây dựng công sự, bố trí vật cản bịt chặt các ngả đường
và con phố tiến vào th ị xã. B ất ngờ bị ta tiến công từ hướng Bắc
xuống, chúng vội vã bô trí lại lực lượng, xây dựng công sự và bô" trí vật
cản, nhưng tấ t cả đều đã muộn. Bị đánh bất ngờ, quân địch chỉ kháng
rư m a n h cl tu y ô n n g o à i. K h i bộ b in h v à x e lă n g La liê n vào B á c th i x a ,
chúng đã vội vã tháo chạy. Sau 45 phút chiến đấu, trung đoàn hoàn
toàn làm chủ phía Bắc th ị xã. Nắm được quân địch dựa vào các dãy
phố ven sông tổ chức phòng ngự, trung đoàn hình th àn h hai mũi tiến
công, vượt sông tiến công vào phía sau quân địch.
Tuy bị đánh từ phía sau, nhưng kẻ địch vẫn dựa vào các toà nhà
có kiến trúc vững chắc chông cự m ạnh. Bộ binh và xe tăn g của ta đã
phải triể n khai đánh chiếm từng căn nhà và dãy phố, p hát triển
xuống phía Nam b ắt liên lạc với lực lượng của Quân khu 9.
Ngay sáng hôm sau, trung đoàn nhận lệnh của sư đoàn bàn giao
th ị xã Pô Xát cho đơn vị bạn, kh ẩn trương cơ động về đánh địch phản
kích ở Tây th à n h phố B át Đom Boong. P h át triể n tiến công tiêu diệt
địch đã khó, giờ quay lại đánh địch ở B át Đom Boong lại càng khó
hơn. N hận định ta có th ể tăng thêm lực lượng từ Pô Xát về để bảo vệ
th àn h phố B át Đom Boong, quân địch tổ chức ngăn chặn rấ t quyết

57
liệt. T rên trục đường 5, chúng không chỉ đánh sập toàn bộ cầu cống,
m à còn đào hào, dựng chướng ngại vật và cài đ ặt nhiều m ìn chống
tăn g và bộ binh. Lực lượng chiến đấu được bô" trí ở những địa h ìn h có
lợi dọc hai bên đường, hoả lực chông tăn g m ạnh và dày dặc hơn. Vì
vậy, đội h ìn h chiến đấu đi đầu của tru n g đoàn vừa ra khỏi th ị xã Pô
X át khoảng 4-5km đã bị quân địch chặn đánh rấ t ác liệt. Sau dợt hoả
lực từ tro n g các khu rừng và phum sóc bắn ra, bộ binh địch la h é t tiến
ra m ặt đường.
Đúng phương án tác chiến đã dự kiến, hỏa lực pháo binh và
phòng không của ta đã triể n khai ngay trê n đường, cùng xe tă n g và
th iế t giáp chi viện cho bộ binh đánh địch. Trước sức m ạn h tiế n công
của bộ đội ta, quân địch bị tiêu diệt và đẩy lùi. Qua m ột sô" lần chiến
đấu, tru n g đoàn p h át hiện ra quy luật tiế n công của kẻ thù: T rên
những đoạn đường chúng phá cầu cống hoặc dựng chướng ngại, hai
bên có các phum sóc, quân địch đều tổ chức phục kích. Trung đoàn
tă n g cường lực lượng trin h sát, cùng bộ binh đi trước nắm địch. P h á t
hiện quân địch phục kích, bộ đội ta n h an h chóng triể n khai lực lượng,
giành quyền chủ động tiế n công đánh phủ đầu tiêu diệt chúng. Cách
đán h này của bộ đội ta đã nâng cao tốc độ cơ động và hiệu quả tiến
công tiêu diệt địch.
Tiến quân đến Nam th ị trấ n Mong, chỉ huy trung đoàn nhận
định, quân địch sẽ tậ n dụng địa hình có lợi, tổ chức phòng ngự ngăn
c h ặ n r ấ t m ạ n h . V ì v ậ y , tr u n g đ o à n đã ch ủ đ ộ n g tr iể n k h a i đ ộ i h ìn h , tổ
chức lực lượng đán h địch. T ấ t cả bộ binh xuống xe, tiểu đoàn bộ binh
đi đầu vận động tiếp cận quân địch, hai tiểu đoàn bộ binh đi sau triển
khai sang hai bên, bảo vệ xe tăng, pháo binh và phòng không tiến lên
triể n khai chiến đấu. P h á t h iện bộ bin h ta tiế n đến N am suôi lớn,
quân địch nổ súng ngăn chặn. Ngay lập tức chúng bị hoả lực ta đánh
trả rấ t m ạnh, bộ binh n h an h chóng vượt qua suôi đánh sang bờ Bắc.
Xe tăng, pháo binh và phòng không của ta tiế n lên tiêu d iệt các hoả
điểm địch bô trí trê n các toà n h à cao tầng, chi viện trực tiếp cho bộ
binh p h á t triể n tiến công. Công binh tiế n lên làm ngầm cho xe tăng
và pháo binh ta qua suôi đánh địch. Qua hơn 10 giờ h à n h tiến chiến
đấu, đến 16 giờ ngày 14-1-1979, toàn tru n g đoàn đã v ề đến Tây Nam
th à n h phô B át Đom Boong.

T h iếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN


(Nguồn: Quán đội nhăn dân)

58
ĐÁNH ĐỊCH PHẢN KÍCH -
PHÁT TRIỂN GIẢI PHÓNG PAI LIN

Thiếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN

Sau gần 10 giờ vừa hành tiến vừa đánh địch từ Pô Xát về đến Bát
Đom Boong, T rung đoàn 66 được quân báo trao đổi về hoạt động của
địch. T ham mưu trưởng sư đoàn trực tiếp giao nhiệm vụ, trung đoàn
cùng các lực lượng tăn g cường khẩn trương làm công tác chuẩn bị để
bước vào đ án h địch. Trung đoàn dược lệnh tiế n công theo trục đường
sô' 10, phôi hợp với Trung đoàn 24 tiêu diệt địch phản kích ở Tây
th à n h phô B át Đom Boong.

Sau gần 1 giờ bổ sung đạn dược và làm công tác chuẩn bị chiến
đấu, tru n g đoàn đã nhanh chóng triển khai đội hình đánh địch. Sau
đợt hoả lực pháo binh của ta đánh phá các sở chỉ huy, trậ n địa hỏa lực
và đội h ìn h quân địch đang bu bám ở ven đô để đánh vào th àn h phố,
bộ binh và xe tă n g của tru n g đoàn đã đồng loạt xung phong, đánh bật
quân địch ra khỏi các địa bàn có lợi ở ven dô. T h ế trậ n phản kích của
địch bị p h á vỡ, tru n g đoàn đưa ngay tiểu đoàn bộ binh, xe tăn g và
t h i ế t g iá p , p liá o b in li và p liù n g k liổ n g vào p h a i t n ẻ n c h ie n dau.

P h át hiện lực lượng ta tiế n công theo trục đường Số 10, quân dịch
ở phía sau lợi dụng lúc trời gần tối tiến ra ngăn chặn. Hỏa lực pháo
binh, súng côi và ĐKZ của chúng bắn rấ t m ạnh vào đội hình hành
tiế n chiến đấu của bộ đội ta. Trung đoàn ra lệnh cho xe tăng, pháo
binh và phòng không hạ nòng bắn thẳng, chi viện trực tiếp cho bộ
binh và th iế t giáp tiến lên tiêu diệt địch. Bị tiến công m ạnh và bị
đán h cả ở hai bên đường, quân địch bị sá t thương lớn. Do không thể
ứng cứu, chi viện và phối hợp tác chiến với nhau, quân dịch buộc phải
tháo chạy. Súng to, súng nhỏ của địch vứt bỏ rải rác khắp cả cánh
đồng. P h á t h iện quân địch rú t chạy, bộ đội ta nhanh chóng chuyển
sang truy kích, dồn chúng về gần ba núi.

Lợi dụng các hang động trong núi và địa hìn h có lợi ở hai bên
đường, quân địch sử dụng hỏa lực ngăn chặn rấ t m ạnh. Mặc dù lúc

59
này trờ i đã tối và địa hìn h lại chưa được diều tra kỹ, chỉ huy tru n g
đoàn vẫn quyết định tiêu d iệt quân địch phòng ngự ở ba núi ngay
tro n g đêm, quyết không cho chúng lợi dụng đêm tối và địa hình quen
thuộc tổ chức tập kích vào lực lượng ta. Tiểu đoàn bộ binh đi đầu cùng
xe tă n g th iế t giáp triể n khai sẵn sàng tiế n công theo trục đường Số
10. M ột tiểu đoàn bộ binh vòng xuống p hía Nam , đán h vào bên sườn
quân địch. Một tiểu đoàn bộ binh vòng lên phía bắc, sử dụng m ột đại
đội chặn địch ở phía sau tiến ra. Lực lượng còn lại đánh chiếm ngã ba
đường, tiến công vào Bắc ba núi. Đúng như dự kiến của tru n g đoàn,
gần 2 giờ sáng, quân địch ở ba núi bí m ật tiế n ra, tậ p kích vào lực
lượng ta đã triển khai ở hai bên đường. Ngay lập tức chúng bị bộ binh,
xe tăng, pháo binh và phòng không của ta đánh trả . Do các mũi vu hồi
của ta vừa nắm địch vừa tiếp cận, nên chưa vào đến vị trí triể n khai
tiế n công. Trung đoàn ra lệnh cho tiểu đoàn vu hồi ở hướng Nam
n h an h chóng tiế n ra đánh vào phía sau đội hình phản kích của địch.
Tiểu đoàn vu hồi ở hướng Bắc lợi dụng quân địch đang tậ p tru n g lực
lượng tiến công ra phía trước, n h an h chóng vận động tiếp cận đánh
vào phía sau.

Trong đêm tối, th ấy lực lượng ta đánh m ạnh cả phía trước, bên
sườn và phía sau, quân dịch buộc phải rút chạy. Bộ binh và th iế t giáp
ta chuyển sang tru y kích địch, đán h th ẳ n g vào khu vực ba núi. Cùng
lúc đó, tiểu đoàn vu hồi trê n hướng Bắc kịp thời nổ súng. Mặc dù dã
r ấ t cô g ắ n g , n h ư n g b ộ d ộ i ta v ẫ n ch ư a t iế n được r a n g ã b a , c ắ t đứ t co n
đường rú t chạy của địch. 4 giờ sáng, tru n g đoàn đánh chiếm được khu
vực ba núi, đẩy quân địch ra xa th à n h phô' B át Đom Boong hơn lOkm.

Ngay đêm hôm đó và sáng sớm hôm sau, hàng chục nghìn người
dân bị quân Pôn P ốt ép buộc đưa di, đã chạy về với bộ đội Việt Nam.
Họ vui m ừng vì đã th o á t khỏi sự kìm kẹp và thúc ép của kẻ thù. Nhiều
người không sợ hiểm nguy còn cung cấp tìn h h ìn h địch ở th ị trấ n
Treng và mong muôn bộ đội V iệt Nam tiến công tiêu diệt chúng. Tuy
vậy, bộ đội ta vẫn phải cảnh giác, tổ chức th a n h lọc địch ra khỏi nhân
dân.

Qua phiên dịch, chúng tôi p h á t động người dân tô" cáo quân Pôn
Pốt, không cho chúng lợi dụng trà trộ n để đánh vào phía sau trung
đoàn. Vừa tổ chức đưa dân trở về phía sau, tru n g đoàn vừa tiến hành
xây dựng trậ n địa sẵn sàng đánh dịch phản kích. Thấy bộ đội ta dừng

60
lạ i ở b a núi, q u ân địch ở th ị t r ấ n T re n g sử dụng h o ả lực chi viện cho
bộ b in h tiế n qua c á n h đồng đ á n h r a b a núi. N gay lập tức chúng bị hoả
lực của bộ b in h , xe tă n g , p h áo b in h v à p h ò n g k h ô n g t a tiê u d iệt. T iến
công ở ch ín h d iện k h ô n g được, quân địch lợi dụng đêm tô i bí m ậ t vòng
lê n p h ía Bắc, đ á n h vào b ên sườn đội h ìn h p h ò n g ngự của ta. T ru n g
đoàn tổ chức h o ả lực n g ă n ch ặn , sử dụng tiể u đ o àn bộ b in h p h ía sau
cùng xe th iế t giáp tiế n công tiê u d iệ t quân địch. Trước tốc độ tiế n
công n h a n h , đ á n h m ạ n h , đ á n h đúng vào b ên sườn đội h ìn h tiế n công
của địch, n h iều tê n k h ô n g kịp th á o chạy buộc p h ả i đầu hàng.

Q ua k h ai th á c tù b in h tru n g đo àn n ắ m được, p h ía trước th ị tr ấ n


T ren g qu ân địch tổ chức p hòng ngự r ấ t m ạ n h , lực lượng bộ b in h k h á
đông, t r ê n trụ c đường 10 chúng cài đ ặ t n h iều m ìn, b ố tr í pháo b in h và
xe tă n g tro n g công sự để s ẵ n sà n g tiê u d iệ t bộ b in h v à xe tă n g của ta.
N ắm chắc tìn h h ìn h địch, k h i sư đo àn r a lệ n h chuyển san g tiế n công
tiê u d iệt qu ân địch t r ê n trụ c đường số 10, phối hợp với lực lượng của
Q uân k h u 7 g iải p h ó n g th ị t r ấ n P ai L in, tru n g đoàn đã b à n bạc tìm ra
cách đ á n h mới. M ột tiểu đo àn tr iể n k h a i tiế n công, đ á n h vào b ên sườn
quân địch, m ộ t tiểu đoàn được tă n g cường đ ại đội ĐKZ, luồn sâu về
p h ía sau th ị tr ấ n , c h ia c ắ t k h ô n g cho ch ú n g r ú t chạy về p h ía sau, cũng
nh ư đưa lực lượng p h ía sau r a tă n g v iện cho p h ía trước. 5 giờ 30 p h ú t
sá n g h ôm sau, p h á t h iệ n lực lựơng ta ra c ắ t đường, q u ân địch dưa lực
lượng từ T ren g ra p h ả n kích. N gay lậ p tức, tru n g đo àn ra lệ n h cho
p h á o b in h đ á n h p h á q u â n đ ịc h ở t r o n g t h ị t r ấ n , t i ể u đ o à n b ộ b in h từ
p h ía B ắc đ á n h vào b ê n sườn qu ân địch. Tuy bị đ á n h b ấ t ngờ, như ng
quân đ ịch v ẫ n dựa vào công sự chống cự r ấ t quyết liệt. Lợi dụng lúc
quân đ ịch đ an g tậ p tru n g lực lượng, đ ể đối phó với bộ b in h t a ở b ên
sườn v à p h ía sau, tru n g đoàn r a lệ n h cho xe tă n g , pháo b in h v à p hòng
không chi v iện cho tiể u đo àn tiế n công th e o trụ c đường sô' 10, v ậ n
động qua cá n h đồng vào tiế n công địch. T h ấy xe tă n g t a x u ấ t h iệ n
quân địch vội v ã th á o chạy. C ông b in h tiế n lê n dò m ìn đ ể xe tă n g và
th iế t g iáp, ph áo b in h và p h ò n g k h ô n g ta tiế n vào đ á n h địch.

Trước sức m ạ n h tiế n công của bộ đội ta , bộ b in h và xe tă n g dịch


vòng qua ch ố t ch ặn , r a tậ n bờ sông p h ía N am r ú t chạy về p h ía sau.
T oàn tru n g đoàn chuyển s a n g h à n h tiế n tiế n công địch. T h ấy lực
lượng ở th ị t r ấ n T re n g r ú t chạy, lực lượng địch ở p h ía sau chỉ nổ súng
n g ăn c h ặ n từ n g bước, rồ i cũng r ú t lui. T h ừ a th ắ n g bộ đội ta n h a n h
chóng p h á t tr iể n tiế n công, đ á n h th ẳ n g vào th ị t r ấ n P ai Lin. B ấ t ngờ

61
bị tiến công m ạn h , quân địch không kịp kh án g cự, bỏ cả xe pháo chạy
sang đ ấ t T hái Lan. M ột m ũi tiến công của tru n g đoàn p h á t triể n lên
phía Bắc, b ắt liên lạc với lực lựơng của Quân khu 7 hoàn th à n h nhiệm
vụ được giao.

T h iếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN


(Nguồn: Quân đội nhăn dãn)

62
TIÊN CÔNG VÀO SÀO HUYỆT cuối CÙNG

Thiếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN

H oàn th à n h nhiệm vụ tiêu diệt địch, giải phóng Pai Lin, Trung
đoài 66 n h ậ n nhiệm vụ truy quét tà n quân địch ở Bắc và Nam đường
Sô' 10, th am gia vận động quần chúng xây dựng chính quyền cách
m ạig, ổn định đời sống n h ân dân.

Do phải làm nhiệm vụ truy quét địch trê n địa bàn núi cao rừng
rậm, thời tiế t khấc nghiệt, nguồn nước sinh h o ạt cạn kiệt, đồng thời
sức khỏe giảm sút vì chiến đấu trong thời gian dài, n ên nhiều cán bộ,
chiên sĩ đã bị sốt ré t, m ột số đã bị tử vong. Trong khi đó, x e tăng và
bộ tin h địch liên tục phản kích ra đường Sô' 10. Các đơn vị vừa đánh
địch, vừa cứu chữa thương bệnh binh, vừa phải cứu đói và chữa bệnh
cho ih â n dân.

N hận th ấ y khó k h ăn của đơn vị, chỉ huy SƯ đoàn, tư lệnh và cơ


quai quân đoàn đã xuống sở chỉ huy tru n g đoàn nắm tìn h hình và
động viên bộ đội c h i ế n đấu. Tư lệnh và cơ quan quân đoàn đã ra tậ n
trận địa, nơi vừa diễn ra trậ n chiến đấu giữa ta và địch, v ề sở chỉ huy
trunỊ đoàn, tư lệnh quân đoàn nhận định, khu vực núi cao ở Tây
đườrg Số 5, N am đường s ố 10, tới giáp biên giới T hái Lan, có th ể có
căn cứ lớn của địch.

63
■ i l C l O l t BI.MI I W W I

Từ n h ận định đó, tư lệnh chỉ th ị cho cơ quan quân đoàn tổ chức


lực lượng trin h s á t của quân đoàn, sư đoàn và tru n g đoàn, luồn sâu vào
nắm địch. Tham mưu trưởng đề nghị tiề n phương bộ sử dụng không
quân trin h s á t và chụp ản h toàn bộ khu vực N am Pai Lin đến Bắc Cô
Công. Đồng thời, giao nhiệm vụ cho trung đoàn động viên bộ đội chiến
đấu giữ vững địa bàn, sẵn sàng chuyển sang tiế n công tiêu d iệt quân
dịch.
Mặc dù bị tiêu diệt nặng nhưng quân địch vẫn liên tục đưa lực
lượng ra ph ản kích n hằm chiếm lại đường Sô' 10, tiến tới tá i chiếm
B át Đom Boong. Thực hiện nhiệm vụ quân đoàn giao, tru n g đoàn vừa
trụ bám chiến đấu bảo vệ địa bàn, vừa làm công tác chuẩn bị sẵn sàng
chuyển sang tiến công địch. Qua trin h sá t đường không và m ặt đất,
tiền phương bộ và quân đoàn xác định, khu vực Tà Sanh, Xam Lốt có
căn cứ lớn của địch. Khu vực này còn có rấ t đông người dân bị địch
cưỡng ép đưa đi, lập th à n h vành đai tuyến ngoài để bảo vệ cho lực
lượng của chúng ở tuyến trong.
Từ k ế t quả nắm địch, Bộ Tư lệnh Quân đoàn hạ quyết tâm tác
chiến, đánh vào sào huỵêt cuối cùng của địch ở phía Tây Campuchia,

64
giáj> biên giới T hái Lan. Trung đoàn 66 được giao nhiệm vụ tiến công
từ tướng Bắc đánh vào bên sườn quân địch, phôi hợp với Sư đoàn 31
đárh từ hướng Đông vào, Trung đoàn 24 và lực lượng Quân khu 9
đánh từ phía Nam lên. N hận nhiệm vụ do sư đoàn giao, chỉ huy trung
đoài, tiểu đoàn và cơ quan họp bàn phương án tác chiến. Do trê n
hướig tiế n công của trung đoàn có nhiều dân, nên trung đoàn phải
tìm ra phương án đánh địch nhằm vừa tiêu diệt được kẻ thù lại bảo vệ
đưự: dân.
Qua bàn bạc, chỉ huy và cơ quan trung đoàn thống n h ấ t hình
thành hai mũi đánh địch. Cách đánh là m ột bộ phận cán bộ và trin h
sát ii trước nắm địch, bộ đội hành quân theo sau, gặp địch thì triển
kha đội hình chiến đấu. Bộ đội bí m ật tiếp cận gần địch, lợi dụng lúc
chúig sơ hở, b ất ngờ tiến công, đánh tạ t quân địch sang hai bên, cho
phién dịch dùng loa kêu gọi người dân chạy về phía ta.
Quá trìn h h àn h tiến chiến đấu, hai mũi tiến công của tru n g đoàn
đã jh á t hiện ra ba cụm nhân dân, xung quanh các cụm có lực lượng
dịch bô' trí bên ngoài để không chế, không để người dân đi lại tự do.
Lợi iụng đêm tối, bộ đội bí m ật tiếp cận gần địch, khi trờ i mờ sáng
b ất Igờ nổ súng tiến công, tiêu diệt và đánh tạ t quân địch sang hai
bên, mở đường cho người dân chạy về phía ta. Đúng dự kiến, khi bộ
đội la bất ngờ tiến công, quân địch ở hai bên không kịp chống cự, lực
lượn* ở phía sau bắn ra rấ t m ạnh, gây tổn th ấ t cho người dân. Bộ đội
ta đi n h an h chóng vòng về phía aau tiêu diộl chúng.
Theo tiến g loa kêu gọi, nhân dân Cam puchia đã chạy về phía ta.
Lúc lày, nhiều người dân bị thương, ốm yếu không đi được. Các đơn vị
vừa ;ảnh giới sẵn sàng đánh địch, vừa tổ chức khiêng cáng thương
binh và người dân bị thương nặng, m ột bộ phận dìu dắt những người
dân DỊ ố m đ a u r a k h ỏ i k h u v ự c c ó c h i ế n s ự . Người d â n b ị đ ị c h k ì m k ẹ p
đói Ih á t lâu ngày, nên sức khỏe yếu, tốc độ di chuyển rấ t chậm. Ngay
lúc dó cơn mưa đầu mùa lại trú t xuống, làm cho người dân càng thêm
đói iét. Thương dân, bộ đội ta đã nhường cả áo mưa và cơm vắt để
giúp dân.
Dưa được dân về tuyến sau, các đơn vị lại bí m ật tiến vào đánh
địch. Thấy bộ đội ta vào gần, quân địch ở phía sau phân tá n nhỏ dân
ra, b í trí lực lượng xen kẽ trong từng cụm đế khống chế. Trung đoàn
lại bm bạc để tìm ra cách đánh khác, vừa tiêu diệt địch vừa cứu được
dân. Từng tiểu đoàn trê n các mũi tiến công, sử dụng từng đại đội,
65
tru n g đội bí m ật tiếp cận từng cụm địch to hoặc nhỏ, b ất ngờ tiến
công, xung phong đán h tách địch ra tiêu d iệt để cứu dân. Do địa bàn
kiểm soát của địch ngày càng bị thu hẹp, số dân bị chúng ép đi lại
đông, binh lính địch bị đán h liên tục nên r ấ t hoang mang. Vì vậy, khi
bộ đội ta nổ súng, chúng chỉ kháng cự lúc đầu, sau đó rú t chạy. Những
cụm dân ở phía sau th ấy bộ dội tiế n công, họ bỏ chạy về phía ta. M ột
sô' con voi bị địch đưa đi để vận chuyển hàn g hoá, cũng vùng chạy ra
rừng.
T h ế trậ n ng ăn chặn của địch bị phá vỡ, tru n g đoàn lệnh cho các
mũi p h á t triể n tiế n công, đánh th ẳn g vào tru n g tâm sào huyệt của
dịch ở khu vực Tà Sanh. Cùng lúc đó, trê n hướng tiế n công chủ yếu, Sư
đoàn 31 và xe th iế t giáp cũng đán h vào. Quân địch bị đán h m ạn h cả ở
chính diện, bên sườn và phía sau, chúng vừa chống cự vừa rú t chạy ra
sát biên giới. Ngay lập tức, quân địch bị lực lượng vu hồi của Trung
đoàn 24 chặn đánh, p h ân tá n th à n h từng tốp nhỏ, vượt qua biên giới
chạy sang đ ất T hái Lan.
Sau gần m ột tu ần liên tục chiến đấu, quân địch ở căn cứ Tà Sanh
bị tiêu d iệt và tháo chạy. Chúng bỏ lại toàn bộ xe pháo và nhiều tài
liệu quan trọ n g của cơ quan tru n g ương chính quyền Pôn Pô't, trong đó
có cả hộ chiếu của Iêng Xary, cấp ngày 27-1-1979.
Hoàn th à n h nhiệm vụ tiêu dịêt địch ở Tà Sanh, trung đoàn nhận
nhiệm vụ truy quét tà n quân địch dọc theo biên giới về tới Pai Lin.
Đang làm nhiệm vụ truy quét tà n quân Pôn P ốt và giúp dân ổn dịnh
cuộc sống, tru n g đoàn n h ận được lệnh bàn giao địa bàn cho bạn,
n h an h chóng cơ động về nước làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên
giới phía Bắc Tổ quốc, hoàn th à n h nhiệm vụ bảo vệ biên giới Tây
Nam và giúp n h ân dân Cam puchia th o á t khỏi n ạn diệt chủng.
Với những chiến công đã đ ạt được, tru n g đoàn đã được Đ ảng và
N hà nước phong tặ n g danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ tra n g lần thứ
hai. Đây là sự động viên rấ t lớn đối với cán bộ và chiến sĩ trung
đoàn.

T h iếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN


(Nguồn: Quân dội nhân dân)

66
PHỐI HỢP TỔ CHỨC Lực LƯỢNG PHẢN CÕNG
VÀ TIẾN CÔNG GIÀNH THANG l ộ i

Đại tá, TS. DƯƠNG ĐÌNH LẬP

Trước bước p h át triể n mới của phong trào cách m ạng Cam puchia
và so sán h lực lượng trê n toàn tuyến biên giới Tây N am ngày càng có
lợi cho ta, đầu th án g 12-1978, Bộ C hính trị và Quân ủy Trung ương
thông qua quyết tâm mở cuộc tổng tiến công tiêu diệt quân địch, trong
đó xác định sẩn sàng phối hợp với các lực lượng vũ tra n g yêu nước
Cam-pu-chia nổi dậy đánh đổ tậ p đoàn Pôn P ốt —Iêng Xa-ri, cứu nhân
dân Cam puchia th o át khỏi n ạn d iệt chủng. Cùng thời gian này, M ặt
trậ n Đoàn k ế t dân tộc cứu nước Campuchia, do ông H êng Xom-rin làm
Chủ tịch đề nghị V iệt Nam giúp bạn đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn
P ốt - Iêng Xa-ri, giành chính quyền về tay n h ân dân.

Bộ đội tinh nguyện Việt Nam và lực lượng cách mạng Campuchia
huấn luyện hiệp đồng thông tin liên lạc trước khi vào chiến dịch. (Ánh tư liệu).

67
Theo đề nghị ch ín h đáng của bạn và căn cứ vào k ế hoạch tác
chiến chiến lược đã được Bộ C hính trị, Quân ủy Trung ương th ô n g qua,
ngày 17-12-1978, Sở chỉ huy T iền phương Bộ Quốc phòng (th àn h lập
ngày 19-7-1978), h ạ quyết tâ m sử dụng m ột lực lượng lớn Quân đội
n h ân d ân V iệt N am phôi hợp với các lực lượng vũ tra n g cách m ạng và
n h ân d ân C am puchia đ á n h địch. Thời điểm này, ta giúp b ạn xây dựng
được 22 tiểu đoàn bộ b in h và 69 đội công tá c vũ trang. Cũng trê n cơ sở
phương án tác chiến, Bộ Tổng th am mưu điều động, giao nhiệm vụ cho
các đơn vị ta phôi hợp với các lực lượng vũ tra n g cách m ạng
Cam puchia.

Khi cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây N am dang
giành th ắ n g lợi to lớn, ta tậ p tru n g lực lượng mở cuộc phản công quân
địch sớm hơn dự kiến. Để giúp bạn, từ cuối năm 1978, đầu năm 1979,
m ột lực lượng lớn Q uân tìn h nguyện V iệt N am hình th à n h , gồm các
Quân đoàn 2, 3, 4 và m ột số đơn vị của các Quân chủng H ải quân,
Phòng không-K hông quân; các Quân khu 5, 7, 9 có nhiệm vụ phối hợp
với các lực lượng vũ tra n g cách m ạn g và n h â n dân Cam -pu-chia mở
chiến dịch p h ản công, tiế n công quân địch trê n tấ t cả các hướng. Ớ
hướng tâ y bắc, sau đòn tiế n công dồn dập của các đơn vị thuộc hai
Quân khu 5 và 7, giải phóng m ột số tỉn h m iền Đông Cam puchia, đầu
th án g 1-1979, Q uân đoàn 3 phối hợp với 3 tiểu đoàn bộ binh và 6 đội
công tác vũ tra n g bạn mở cuộc tiến công giải phóng các tỉn h Kông-
pũng Thom , Xiêm Riệp, B át tam bang và Puốc-xát. T rên hướng Quân
khu 9 và Quân đoàn 2, từ ngày 1 đến ngày 3-1-1979, các đơn vị tiến
công quân địch ở các khư vực Ta-pông, Ki-ri-vông, Sê-kê, Prô-chrây,
Tun-liếp, Tô-li-ốp, Đông N am S an-tâng, các điểm cao 384, 451, 328;
Sê-kê... T rên hướng Q uân đoàn 4, các đơn vị tiế n công địch trê n đường
sô' 1 và vùng ven h ai bờ sông Mê Công, buộc chúng p hải rú t về phòng
ngự ở Sa-cách, P rây-veng, Niếc-lương. Tiếp đó, Quân đoàn 4 đánh
chiếm đường số 10 (đoạn C hân T rai) và bắc ngã ba Tà-hô (nằm trê n
trục đường sô’ 1, phía tây Pra-sốt).

Q uán tr iệ t sâu sắc chỉ th ị của Bộ C h ín h trị về nhiệm vụ giải


phóng P hnôm P ên h trước ngày 8-1-1979, sau khi ph ân tích diễn biến
trê n to àn chiến trường, Sở chỉ huy T iền phương Bộ Quốc phòng quyết
định sử dụng Q uân đoàn 3, 4 và Quân khu 9 mở cuộc tiến công vào
Phnôm P ên h . Theo k ế hoạch, 6 giờ ngày 6-1-1979, ta và bạn tổng
công kích vào Thủ đô Phnôm P ên h từ ba hướng: T rên hướng Quân
68
đoàn 4 (hướng chủ yếu) các đơn vị tiến theo trục đường số 1, đánh tan
các cụm phòng ngự địch. Sáng ngày 7-1, Sư đoàn 7 phối hợp với Binh
đoàn 1 (Cam puchia) vượt sông Mê Công đán h ta n Sư đoàn 260 địch.
Đến 11 giờ cùng ngày, Sư đoàn 7 và B inh đoàn 1 (Cam puchia) tiến
vào Phnôm Pênh, chiếm các cơ quan T rung ương, khu sứ quán và Đài
P hát t h a n h .

T rên hướng Quân đoàn 3, sáng 6-1, quân đoàn tậ p tru n g hỏa lực
chi viện Sư đoàn 320 vượt sông đánh chiếm th ị xã Công-pông Chàm,
đập ta n tuyến phòng ngự vững chắc của 2000 quân địch do Son Sen,
Bộ trưởng Quốc phòng chỉ huy, mở thông cánh cửa quan trọ n g vào thủ
đô Phnôm Pênh. S áng 7-1, được pháo binh chi viện đắc lực, Trung
đoàn 28 (Sư đoàn 10) tiến công theo trục đường Số 7, đán h tan quân
dịch ở núi Phu-chê, rồi vượt sông Tông-lê Sáp đánh chiếm các khu vực
kho xăng phía bắc Phnôm Pênh, nhà m áy xay, n h à m áy hoa quả, nhà
máy cơ khí, kho súng, kho đạn... Trong khi đó, trê n hướng Quân khu
9, ngày 6-1, tiến công các vị trí địch ở Thnốt-bấc, Ta-keo, Ta-ni... đập
ta n 4 tuyến phòng ngự của dịch, mở đường cho đội h ìn h thọc sâu tiến
vào đán h chiếm sân bay Pô-chen-tông, Bộ Tư lệnh th iế t giáp và Bộ
Tổng th am mưu địch. Đến 17 giờ ngày 7-1, các đơn vị Quân tìn h
nguyện V iệt Nam cùng lực lượng vũ tra n g cách m ạng và nh ân dân
Cam puchia hoàn toàn làm chủ th à n h phô" Phnôm Pênh.

T h ắn g lợi vĩ đại ngày 7-1-1979 đánh Hấn hưórp p h á t triể n về nghệ


th u ậ t tác chiến giữa các đơn vị Quân tìn h nguyện V iệt N am và các lực
lượng vũ tra n g cách m ạng Cam puchia, để lại nhiều bài học kinh
nghiệm , n h ấ t là phối hợp lực lượng tác chiến. Đáp lại đề nghị chính
đáng của bạn và trê n cơ sở nắm vững k ế hoạch, phương châm, hình
thức tác chiến, lực lượng ta và bạn đã phôi hợp ch ặt chẽ, linh hoạt từ
lúc b ắ t đầu mở cuộc p h ản công, tiế n công đến kh i giải phóng thủ đô
Phnôm P ên h và toàn bộ đ ất nước Cam puchia. Sự phôi hợp giữa Quân
tìn h nguyện V iệt N am và các lực lượng vũ tra n g cách m ạng
C am puchia tiếp tục được p h á t huy m ạn h mẽ tro n g những năm 1979-
1989, góp p h ần bảo vệ vững chắc th à n h quả cách m ạng, xây dựng đất
nước Ăng-co hồi sinh và p h á t triển .

Đ ại tá, TS. DƯƠNG ĐÌNH LẬP


(Nguồn: Quân dội nhản dân)

69
QUÂN ĐỘI VIỆT NAM ĐÃ ĐÁNH TAN
QUÂN DIỆT CHỦNG POL POT NHƯ THÊ NÀO?

ĐỨC TOÀN

Từ năm 1975 đến 1979, đ ấ t nước Cam puchia ngập chìm tro n g nỗi
đau tộ t cùng bởi họa d iệt chủng m à chính quyền K hm er Đỏ gây nên.
Bè lũ phản động Pol P ot đã xua quân lấ n chiếm biên giới và tà n sát
nhân dân V iệt Nam ở phía Tây Nam. Quân đội n h ân dân V iệt Nam
đã cùng lực lượng yêu nước Cam puchia chiến đấu, giúp nh ân dân
Cam puchia th o át khỏi họa diệt chủng và xây dựng nước Cộng hòa
n h ân dân Cam puchia ngày càng p h á t triển .
B ối cả n h c h iế n sự trư ớc n ăm 1979
Sau C hiến tra n h V iệt Nam (1975), Việt Nam và Cam puchia xuất
hiện nhiều m âu thuẫn. T ranh chấp và xung đột biên giới xảy ra liên
tục tro n g các năm 1977 và 1978. Ngày 4/5/1975, m ột toán quân
K hm er Đỏ đột kích đảo Phú Quốc, ngày 10/5, quân K hm er Đỏ đánh
chiếm và h àn h quyết hơn 500 dân thường ở đảo Thổ Chu. Quân đội
nh ân dân V iệt Nam đã p h ản công, giành lại các đảo này. Khi đó,
Trung Quốc đang có lực lượng cố vấn ở Cam puchia và Trung Quốc tăng
cường viện trự quăll sự cho lực lưựng vũ tran g K hm cr Đỏ.
Tiếp đó, K hm er Đỏ tiến h àn h hai cuộc xâm nhập quy mô lớn vào
Việt Nam. Cuộc tấ n công lớn đầu tiên diễn ra vào th án g 4 năm 1977,
quân chính quy K hm er Đỏ tiến sâu 10 km vào lãnh thổ V iệt Nam,
chiếm m ột số vùng ở tỉn h An G iang và tà n s á t rấ t nhiều dân thường.
Cuộc tấ n công th ứ hai diễn ra vào ngày 25/9 cùng năm , lần này 4 sư
đoàn quân K hm er Đỏ đánh chiếm nhiều điểm ở các huyện Tân Biên,
Bến Cầu, Châu T h àn h (tỉnh T ây N inh), đô’t phá 471 ngôi nhà, làm
gần 800 người dân bị giết, bị thương hoặc m ất tích.
Ngày 3Ư12/1977, Quân đội n h ân dân V iệt Nam huy động 6 sư
đoàn đánh vào sâu trong đ ất C am puchia đến tậ n bến phà N eak Luong
rồi rú t lui từ ngày 5/1/1978, m ang theo m ột số nh ân vật quan trọng
bên phía Campuchia, trong đó có cả Thủ tướng tương lai Hun Sen.
Cuộc tấ n công này dược xem là lời “cảnh cáo” cho K hm er Đỏ. P h ía

70
Việt Nam đề nghị một giải pháp ngoại giao nhằm th iế t lập m ột vùng
phi quân sự dọc biên giới, nhưng Pol Pot từ chối và chiến tra n h ở biên
giới Tây Nam tiếp diễn.
Pol Pot đã điều 13 trong số 17 sư đoàn chủ lực và một số trung
đoàn địa phương liên tục tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, có nơi vào
sâu tới 15—20 km. Trong các đợt tấ n công đó, K hm er Đỏ đã thực hiện
thảm sát đôi với người V iệt Nam, điển hình là vụ th ảm s á t Ba Chúc
vào th án g 4 năm 1978 với 3.157 dân thường bị giết hại. Từ năm 1975
cho tới năm 1978, có tới 30 ngàn người Việt Nam bị K hm er Đỏ sát hại
trong các cuộc tấ n công dọc biên giới.
V iệt Nam cô' gắng giải quyết cuộc xung đột m ột cách hòa bình
thông qua đàm phán ngoại giao nhưng phía K hm er Đỏ từ chối đàm
phán, Trung Quốc không chịu làm trung gian hòa giải, còn Liên hợp
quốc không có biện pháp gì phản hồi lại các phản đôi của Việt Nam về
các hàn h động gây h ấn của K hm er Đỏ. Việt Nam phải chuyển sang sử
dụng vũ lực để giải quyết cuộc xung đột.
Ngày 13/12/1978, được sự tra n g bị và hậu th u ẫn của Trung Quốc,
K hm er Đỏ đã huy dộng 10 trong 19 sư đoàn (khoảng 50.000 đến
60.000 quân) tiến công xâm lược Việt Nam trê n toàn tuyến biên giới.
Ba sư đoàn đánh vào Bến sỏi với mục tiêu chiếm thị xã Tây N inh, 2
sư đoàn đánh vào Hồng Ngự (Đồng Tháp), 2 sư đoàn đánh khu vực
Bảy Núi (An Giang), 1 sư đoàn đánh T rà Phô, T rà Tiến (Kiên Giang).
Tại nhffnfĩ víing rhipm ílóng, TCVimpr F)ỏ đã thưc hiện oách lược diệt
chủng đối với người Việt, như đã làm với người Khmer.
Quân đội Việt Nam đã chống trả quyết liệt và ngăn chặn địch,
đồng thời tiêu hao sinh lực của quân K hm er Đỏ. Các hướng tiến quân
của K hm er Đỏ không th ể p h át triể n được. Ngoại trừ H à Tiên bị chiếm
giữ tro n g thời gian ngắn, không m ột th ị xã nào của V iệt Nam bị
chiếm.
Quân đội Việt Nam đã tiêu diệt 38.563 quân K hm er Đỏ, b ắ t sông
5.800 tên , đồng thời dùng không quân phôi hợp với bộ binh tiế n hàn h
các cuộc không kích và giao tra n h trê n bộ, đánh vào các đơn vị quân
K hm er Đỏ dọc biên giới, nhằm làm suy yếu quân K hm er Đỏ trước khi
quân V iệt Nam b ắt đầu chiến dịch đã tiêu diệt khoảng 17 ngàn quân
K hm er Đỏ.
C h iến d ịch b iê n giớ i T ây Nam và C am p u ch ia
71
Chỉ huy trực tiếp chiến dịch là Thượng tướng Lê Trọng Tấn, Tổng
Tham mưu trưởng Quân đội n h â n dân V iệt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc
phòng.
Đầu th án g 12/1978, quân đội Việt N am được hỗ trợ bởi m ột số
tiểu đoàn K hm er th â n V iệt Nam. Đây là những đơn vị quân đội
Cam puchia yêu nước, chông lại chính quyền K hm er Đỏ, đã kiểm soát
m ột vùng đệm dọc biên giới trong lãnh th ổ Cam puchia, từ M imot đến
Snuol ở các tỉn h Kampong C ham và K ratié. ơ phía Bắc, quân V iệt
Nam cũng kiểm soát m ột vùng rộng thuộc lãnh th ổ Cam puchia dọc
theo đường 19.
Ngày 23/12/1978, sau khi được tă n g viện, với 80.000 quân, quân
đội Việt Nam đã tiến h à n h p h ản công trê n toàn bộ m ặt trậ n , đẩy lùi
quân K hm er Đỏ. Sư đoàn 2 cùng tru n g đoàn chủ lực tỉn h Tây N inh mở
cuộc tấ n công nhằm đán h b ật các Trung đoàn 23 thuộc Sư đoàn 304 và
T rung đoàn 13 thuộc Sư đoàn 221 của Cam puchia ra khỏi các vị trí dọc
theo tỉn h lộ 13 s á t biên giới.
Tuy nhiên, cuộc chiến chưa chấm dứt, quân đội V iệt Nam quyết
định mở cuộc tấ n công sâu vào đ ấ t Campuchia...
Đ á n h c h iế m b ờ đ ô n g s ô n g M ek on g
Sau khi đánh ta n sức kháng cự của quân K hm er Đỏ, các lực lượng
V iệt Nam thuộc Quân khu 5 n h an h chóng h àn h tiến theo đường 19, sư
đoàn 309 quét sạch tỉn h R atanakiri, phía Bắc tỉn h M ondolkiri và tiến
vào phía Bắc tỉn h Stung Treng. Sư đoàn 307 tiến theo đường 19, dùng
cầu phao vượt sông Serepok và sông Mekong. Tới ngày 1/1/1979, lực
lượng Quân khu 5 tiến dọc sông M ekong chiếm được Stung Treng.
Cùng thời gian này, Sư đoàn 5 thuộc Quân khu 7 tiến từ hướng
đông, cùng Sư đoàn 303 tiến theo hướng tây bắc từ Snuol cùng đánh
vào K ratié do Sư đoàn 260 và 2 tru n g đoàn địa phương của đặc khu
505 phòng thủ. Ngày 29 th án g 12, th à n h phô K ratié được giải phóng.
Cùng lúc, Sư đoàn 302 tiến về phía Tây đã chiếm được Kampong
Cham. Sau đó, hai Sư đoàn 302 và 303 cùng quay lại đánh chiếm thị
xã Chhlong. Kể từ đó, lãnh th ổ Cam puchia ở phía đông sông M ekong
đã nằm tro n g tầm kiểm soát của Quân đội n h ân dân V iệt Nam.
S áng ngày 31/12, được pháo binh bắn yểm trợ, xe tăn g và bộ binh
Quân đoàn 3 V iệt Nam tiến công và n h an h chóng đ án h ta n 5 sư đoàn

72
quân K hm er Đỏ trê n toàn tuyến phòng thủ dọc theo biên giới ở tỉnh
Kampong Cham. Tới cuối ngày, trừ sở chỉ huy quân K hm er Đỏ, toàn
bộ các cứ điểm còn lại th ấ t thủ, quân K hm er Đỏ rú t chạy về th ị trấ n
Kampong Cham ở bờ tây sông Mekong, bị quân Việt Nam truy kích
ráo riết.
Không quân V iệt Nam cũng th am chiến, tấ n công vào tuyến
phòng thủ của K hm er Đỏ và ném bom phá hủy m ột sân bay m à từ đó
máy bay T-28 của K hm er Đỏ vẫn xuất kích ném bom vào quân tiền
phương Việt Nam. Sáng ngày 1 th án g 1 năm 1979, sau khi tập hợp lại
lực lượng, Quân đoàn 3 đánh chiếm sở chỉ huy K hm er Đỏ sau m ột giờ.
Tướng Kim Tuấn h ạ lệnh cho các đơn vị dưới quyền tru y quét và tiêu
diệt các lực lượng K hm er Đỏ còn sót lại.
Tới ngày 3 th án g 1, Sư đoàn 320 (Sư đoàn Đông Bằng) dã tiến tới
bờ đông của bến phà Kampong Cham trê n sông Mekong. Tại đây, SƯ
đoàn dừng lại, rồi dùng 2 đại đội x e bọc thép mở đường, đánh về phía
nam , chiếm thủ phủ tỉn h P rey Veng.
Trong thời gian đó, ngày 28/12, ở h ạ lưu đồng bằng sông Mekong,
lực lượng K hm er Đỏ thuộc Quân khu Đông Nam mở cuộc tấ n công dọc
biên giới. Sáng ngày 31 th án g 12, sư đoàn 4 của Quân khu 9 và Trung
đoàn 9 của Sư đoàn 304 (Sư đoàn Vinh Quang) phối thuộc mở cuộc
phản công. Sau 24 giờ giao tra n h kịch liệt, quân Việt Nam đã đánh lui
quân K hm er Đỏ khỏi bờ tây kênh Vĩnh Tế.
Chiều ngày 1/1, đuọc phao binh va khong quan yếm trợ, Lữ đoàn
công binh 219 thuộc Quân đoàn 2 bắc cầu phao vượt sông. Sư đoàn
304 và Lữ đoàn xe bọc th ép 203 mở đường tiến vào đ ất Campuchia.
Tới trư a ngày 3 th án g 1, Quân đoàn 2 và Quân khu 9 đã tiêu diệt hoặc
đánh tan tấ t cả các lực lượng K hm er Đỏ ở hạ lưu sông M ekong dọc
biên giới. Sở chỉ huy Quân khu Tây N am của K hm er Đỏ phải rú t về
Takeo.
Sau ba ngày tấ n công, tạ i hướng chủ yếu Tây N inh, Quân đoàn 4
với sự yểm trợ của không quân, trực thăng, pháo binh, hải quân, th iế t
giáp... Quân đội Việt Nam đ án h b ật dược quân K hm er Đỏ khỏi các vị
trí Năm Căn, Hòa Hội dọc theo tỉn h lộ 13, và các đơn vị của các Sư
đoàn 703, 340, 221 của K hm er Đỏ phải rú t về th à n h lập một tuyến
phòng thủ mới tại Svay Rieng, tậ p trung ở cầu Don So.

73
Được 15 xe tă n g và xe bọc th ép mở đường, cùng với pháo 105mm,
155mm bắn yểm trợ , Sư đoàn 7 của Quân đoàn 4 mở cuộc tấ n công vào
quân K hm er Đỏ ở Don So. Tới đêm ngày 1/1, Thượng tướng Hoàng
Cầm h ạ lệnh cho Sư đoàn 7 tung h ế t lực lượng dự bị vào trậ n . Quân
K hm er Đỏ k h án g cự dữ dội, nhưng sau khi bị đánh thua ở Tây N inh,
quân K hm er Đỏ đã bị m ất tin h th ần ; hơn nữa, do phải chấp n h ậ n m ột
trậ n đán h quy ước với m ột địch thủ có hoả lực, quân sô" và kinh
nghiệm chiến trường trội hơn quá nhiều n ên quân K hm er Đỏ bị tan

Tuyến phòng th ủ Svay R ieng bị vỡ ngày 2/1/1979, quân K hm er


Đỏ phải rú t về P rey Veng và N eak Luong, chỉ để lại m ột số đơn vị
đánh cầm chân Quân đoàn 4.
Tới ngày 2/1/1979, quân đội Việt N am đánh ta n các sư đoàn chủ
lực của K hm er Đỏ án ngữ các trục đường số 1, 7 và 2 ở lối vào Phnom
Penh. Chiều ngày 3 th á n g 1, Sư đoàn 7 chiếm được cầu Don So và tới
ngày 4 th án g 1 đã làm chủ toàn bộ vùng phía đông sông M ekong. Tới
ngày 5 th á n g 1, Sư đoàn 7 tiến đến N eak Luong.
Đ á n h c h iế m P h n o m P e n h
Ngày 6/1, các dơn vị Việt N am vượt sông M ekong qua ngả N eak
Luong và bắc Kompong Cham. 9 sư đoàn quân V iệt Nam làm th à n h
hai gọng kìm tiến vào Phnom P enh từ phía Đông N am và phía Bắc:
Sư đoàn 7 và Sư đoàn 2 di chuyển theo quốc lộ 1, Sư đoàn 9 tiến song
song báo vệ sườn phía nam và Sư doàn 341 bảo vệ sườn phía bác.
T ại Kompong Cham , Quân đoàn 3 của Thiếu tướng Kim Tuấn
cũng chiến đấu quyết liệt với quân K hm er Đỏ để vượt sông. Quân
K hm er Đỏ th iế t lập trậ n địa phòng ngự dọc bờ tâ y sông Mekong.
Thiếu tướng Kim Tuấn quyết định dùng hỏa lực áp đảo bắn vào trậ n
địa phòng th ủ của quân K hm er Đỏ, rồi cho th ả khói mù, dùng thuyền
chuyển quân sang bờ tây. Đến 8h30 sáng, Kam pong Cham th ấ t thủ.
Ngay tro n g sáng ngày 6 th án g 1, lực lượng đột kích Phnom Penh,
gồm T rung đoàn 28 của Sư đoàn 10 và các đơn vị phôi thuộc, dẫn đầu
bởi 6 xe lội nước và m ột số xe th iế t giáp M-113 vượt sông, tổng cộng
lực lượng lên đến 120 xe quân sự. Lực lượng đột kích vừa h à n h quân
vừa chiến đấu với các ổ phục kích của quân K hm er Đỏ, tới chiều tối đã
tới bờ sông Tonglé Sap và tổ chức đánh vượt sông để tiến vào Phnom
Penh.
74
Lính K hm er Đỏ bị thương trong các cuộc giao tranh ở biên giới. (Ánh tư liệu).

T rong khi đó, ngày 6/1/1979, những đơn vị đầu tiên của Sư đoàn
ri Quân đoàn 4 chiếm được bờ phía đông của bến phà N eak Luong.

Quân Cam puchia tro n g khi rú t lui vội vã đã không kịp th iế t lập công
sự phòng thủ. Trong đêm, cách bến phà khoảng hai cây số về phía
nam, T rung đoàn 113 cùng Trung đoàn 14 của Sư đoàn 7 được tàu đổ
b5 đưa sang bên kia sông, tiến chiếm bờ phía tây của bến phà.
N gày 7/1, toàn bộ đội hìn h Quân đoàn 4 tiến h àn h vượt sông. Do
sự tan rã n h an h chóng của lực lượng phòng thủ biên giới và sự chủ
qjan của Pol Pot, quân đội Việt Nam tiến vào Phnom Penh từ Neak
Luong m à không gặp sức chống cự đáng kể nào. Trưa ngày 4/1, Quân
đoàn 4 dã có th ể b ắt tay với Quân đoàn 3 ở ngoại ô phía bắc Phnom
Pênh.
Việc quân Việt Nam tiến quá n h an h kh iến cho K hm er Đỏ chỉ kịp
sơ tá n bộ m áy lãnh đạo. Son Sen chạy xuyên qua m ặt trậ n , ngược về
phía V iệt N am để tập hợp tà n quân của các sư đoàn thuộc quân khu
miền Đông. Pol Pot, Nuon C hea và Khieu Sam phan được vài chiếc xe
Jeep chở quân bảo vệ chạy về P ursat. leng Sary chạy về B attam bang
trên m ột chuyến xe lửa đặc biệt chở vài tră m n h ân viên Bộ Ngoại
giao.

75
Việc rú t lui kh ẩn kh iến nhiều Bộ khác cùng hàn g ngàn n h ân viên
không được th ô n g báo về cuộc rú t lui. Các chuyến xe tiếp theo sơ tá n
Phnom P en h bị tắc n g hẽn bởi quá nhiều người tìm cách bỏ chạy. N hư
vậy, với việc ban lãn h dạo sơ tá n , khoảng 40 ng àn d ân chúng và binh
lính K hm er Đỏ tại Phnom Penh, cũng như các đơn vị quân phòng thủ
các mục tiêu lân cận bị bỏ mặc, tự th â n vận động.
N gày 7/1, quân V iệt N am chiếm sân bay Kam pong C honang và
bắt được 10 m áy bay A-37, 3 C-123K, 6 C-47, 3 Alouette III cùng m ột
sô" T-28. Ngoài ra K hm er Đỏ cũng bỏ lại hàng tră m xe tăn g và xe bọc
thép, rấ t nhiều đạn dược và lương thực dự trữ chiến lược.
Ngày 8/1, Hội đồng N hân dân Cách m ạng Cam puchia do H eng
Sam rin làm Chủ tịch đã được th à n h lập với sự hậu thuẫn của Việt
Nam.
Ớ phía Bắc, các sư đoàn của Quân đoàn 3 cũng tiến xuống Phnom
Penh, sau đó Sư đoàn 320 theo quốc lộ 4 xuống các tỉn h phía Nam .
Các sư đoàn còn lại theo các quốc lộ 5 và 6 tiến về hướng Tây và
hướng Bắc.
Tại m ặt trậ n phía Nam , từ An Giang, quân V iệt Nam b ắ t đầu
vượt biên giới vào ngày 3/1/1979 và tấ n công theo hai hướng. Hướng
thứ n h ất, Sư đoàn 325 (Sư đoàn B ình T rị Thiên) và Sư đoàn 8 tiế n về
phía Tây, dọc theo quốc lộ số 2. Ngày 5/1/1979, tro n g khi lực lượng
Quân khu 9 tiến đán h Takeo, sư đoàn 325 b ắt đầu h àn h tiến theo
hướng Tây Bắc. Cùng lúc đó tướng Ngiiyễn HiTu An cũng t.ung Sư đoàn
8 theo hướng Tây để đánh chiếm quận lỵ K am pong Trach, nằm ở giao
điểm với đường quốc lộ ven biển.
N ắm quyền chỉ huy trực tiếp tru n g đoàn xung kích 24, Trung
tướng N guyễn Hữu An dẫn tru n g đoàn tiến từ Tuk Meas về Chhuk.
Các xe tă n g h ạn g nặng, xe tả i và trọ n g pháo di chuyển khó kh ăn trê n
đường đ ấ t và ruộng lúa. Tới chiều ngày 7 th á n g 1, lực lượng xung kích
đã ra đến đường sô" 3 và tro n g quá trìn h tiế n công, đã đánh ta n sư
đoàn quân K hm er Đỏ phòng ngự Chhuk.
Trong hai ngày 4, 5 th á n g 1/1979, từ đảo Phú Quốc, hai phân đội
H ải quân V iệt Nam gồm m ột số tàu tuần tiễu loại lớn, hai tàu khu
trục P ety a cùng nhiều tàu chiến nhỏ chuẩn bị chuyển Lữ đoàn H ải
quân 101 và 126 đổ bộ. H ải quân cũng lập trậ n địa pháo 130mm ở mũi
đảo Phú Quốc để yểm trợ cho lực lượng đổ bộ.

76
x ẩ m tôi ngày 6/1, toán quân đặc công gồm 87 người bí m ật đổ bộ
và tấ n công chiếm m ột trậ n địa pháo K hm er Đỏ bảo vệ bờ biển; cùng
lúc, pháo 130mm b ắt đầu bắn phá các vị trí quân K hm er Đỏ. Sô' tàu
phóng lôi K hm er Đỏ chạy th o át khỏi cuộc hải chiến và các cuộc không
kích của không quân Việt Nam, đến ngày 16/1 lại bị Hải quân Việt
N am chặn đánh tro n g vịnh Thái Lan và bị tiêu diệt gần hết.
Tôi ngày 7/1, Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 tiến hành đổ bộ ở
chân núi Bokor, nằm ở khoảng giữa th ị xã Kampot và cảng
Sihanoukville.
Hướng thứ hai, Quân khu 9 phụ trách, tiến về phía Bắc đánh
chiếm hai th ị xã Tan và Takéo. Các sư đoàn K hm er Đỏ trấ n giữ quân
khu Tây N am như Sư đoàn 2, 210, 230, 250, bị ta n rã và rú t lui vào
rừng.
Cuô'i th án g 1/1979 cuộc phản công k ết thúc th ắn g lợi. Đến ngày
17/1 th ị xã cuối cùng là Ko Kong rơi vào tay quân đội Việt Nam và
chính quyền mới của Campuchia. Cho tới cuối tháng 3, quân đội Việt
Nam coi n h ư chiếm được h ế t những th àn h phố và tỉn h lỵ quan trọng
của Cam puchia và tiến s á t tới biên giới Thái Lan. Tuy nhiên tà n quân
Pol P ot vẫn tiếp tục chống cự và quấy nhiễu. Quân tìn h nguyện Việt
Nam đã có 10 năm truy quét tà n quân Pol Pot và giúp n h ân dân
C am puchia xây dựng chính quyền cách mạng, ổn định cuộc sống.
T h à n h lập ch ín h q u y ề n m ới
Ngay 5/1/1979, có 66 đại biểu Cam puchia được triệu tập họp ở
M im ot để b àn về việc th à n h lập m ột đảng cộng sản Cam puchia mới.
Đ ảng này lấy lại tê n Đảng N hân dân Cách m ạng có từ thời 1951.
N hững ủy viên thường vụ của đảng gồm Hun Sen, Bou Thoong, Chan
K iri, H eng S am rin và Chia Soth.
N gày 8/1/1979, Đài p h á t th an h Phnom Penh loan báo Phnom
P en h đã được giải phóng bởi những lực lượng cách m ạng và n h ân dân
C am puchia. M ột Hội đồng cách m ạng được th à n h lập do H eng Sam rin
làm Chủ tịch. Khoảng mười ngày sau, Hội đồng này ký một hiệp ước
với V iệt Nam, hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội V iệt Nam trê n
đ ấ t Campuchia.
Tới m ùa xuân 1981, hiến pháp mới của Cam puchia được thông
qua, sau đó là cuộc bầu cử toàn quổc để chọn ra 117 đại biểu quốc hội.
H un Sen được bầu làm Bộ trưởng Ngoại giao, Heng S am rin làm Chủ
77
tịch nước. Ba sư đoàn mới được th à n h lập và đ ặ t dưới Bộ Quốc phòng,
nhưng an n in h vẫn được duy trì chủ yếu dựa vào sự hiện diện của
180.000 quân V iệt N am m à lực lượng chủ chốt là Q uân đoàn 4 do đại
tướng Lê Đức Anh chỉ huy.
C hính quyền mới của C am puchia chỉ được m ột sô' nước thuộc khôi
xã hội chủ n g hĩa công nhận.
Từ năm 1979 đến giữa năm 1985, quân đội V iệt N am thực hiện
các chiến dịch quân sự tru y quét đán h p h á các căn cứ của K hm er Đỏ.
T háng 1/1980, chiến dịch quân sự nh ằm vào K hm er Đỏ tạ i Phnom
C h h at b ắ t đầu. Thời gian này, K hm er Đỏ b ắ t đầu tá i xâm nhập
C am puchia từ T hái L an với k h o ản g 3-4 ng àn quân. Khi m ùa mưa tới,
K hm er Đỏ đã tá i tổ chức lực lượng, chỉ huy và hu ấn luyện, b ắ t đầu các
cuộc giao tra n h qui mô nhỏ như đ án h du kích, phục kích, pháo kích
quấy rối.
Tới năm 1985, V iệt Nam huy động k hoảng 60 ngàn quân cho
chiến dịch tấ n công, cùng với h à n g chục ng àn dân công Cam puchia
xây đường và mở rộng các sâ n bay dã chiến tạ i khu vực biên giới. Cuôi
th á n g 12/1984, k h oảng 1.000 quân V iệt N am đ án h h ạ căn cứ Nong
Sam et.

Xe tăng T-54 của Việt N am rút về nước năm 1988. (Ảnh tư liệu).

78
T háng 1/1985, k h oảng 4.000 quân V iệt Nam , với hơn 30 xe tă n g
và xe bọc th é p hỗ trợ , đán h vào căn cứ Am pil của lực lượng KPNLF
với 5.000 quân phòng ngự và tr iệ t hạ hoàn toàn căn cứ này sau 36 giờ.
Quân Việt Nam và quân C hính phủ Cộng hòa nh ân dân Cam puchia
cũng mở chiến dịch tr iệ t h ạ căn cứ lớn của K hm er Đỏ tạ i Phnom
Malai. C hiến dịch m ùa khô năm 1984-1985 là chiến dịch lớn chưa
từng có của V iệt Nam kể cả về quy mô, thời gian và mức độ th àn h
công.

Kể từ n ăm 1986, các lực lượng K hm er Đỏ về cơ bản không th ể là


mối đe dọa lớn đối với C hính phủ Cộng hòa n h ân dân C am puchia được
nữa.

Năm 1989, Cộng hòa n h â n dân C am puchia đã đủ m ạnh để tự bảo


vệ. T háng 12 cùng năm , Q uân đội n h â n dân V iệt N am hoàn th à n h
nghĩa vụ quốc tế, rú t to àn bộ khỏi Cam puchia.

C a m p u ch ia h ồ i s in h m ạ n h m ẽ

Phó Thủ tướng thường trực C hính phủ H oàng gia Cam pưchia Men
Sam On từng nói: “N hắc lại chiến th ắ n g ngày 7/1, C am puchia không
th ể quên sự hy sinh to lớn của quân tìn h nguyện V iệt Nam trê n đ ất
nước m ình. M ồng 7/1 là ngày sin h th ứ h ai của C am puchia”.
Chiến th ắ n g Tập đoàn Pnl Pnt, Hân tộo Pnm puchia th o á t khỏi
họa d iệt chủng sau thời kỳ đen tối 3 năm 8 th á n g 20 ngày dưới chế độ
K hm er Đỏ. Hơn 2 triệu người dân C am puchia đã bị giết hại, mọi cơ sở
xã hội bị xóa bỏ tậ n gốc tro n g thời gian này vì chính sách lãnh đạo
cực đoan, tà n bạo, cưỡng bức người dân, b ắ t lao động khổ sai của Pol
Pot.

Nhắc lại chiến th ắ n g này, n h â n d ân Cam puchia không th ể nào


quên công ơn của các chiến sĩ cứu quốc Cam puchia, m ặt trậ n giải
phóng Cam puchia và sự hy sin h to lớn của quân tìn h nguyện Việt
N am , các chuyên gia V iệt N am trê n đ ấ t nước Cam puchia.

Trong những th á n g ngày đen tối đó, Pol Pot cũng có dã tâm phát
động cuộc chiến tra n h đẫm m áu xâm phạm chủ quyền, lãn h thổ V iệt
Nam . Đáp lại lời kêu gọi k h ẩn th iế t của M ật trậ n Đoàn k ế t Cứu nước
Cam puchia, của n h â n dân C am puchia a n h em, Đảng, N h à nước dân

79
dân và Quân đội V iệt Nam đã thực hiện quyền tự vệ chính đáng bảo
vệ Tố’ quốc th iên g liêng và giúp đỡ nh ân dân C am puchia th o á t khỏi
họa d iệt chủng, đưa đến th ắ n g lợi ngày 7/1/1979. Với th ắ n g lợi đó,
n h ân d ân Cam puchia đã khép lại m ột tra n g lịch sử đen tôi và mở ra
kỷ nguyên độc lập, hòa bình, tự do và p h á t triển .

35 năm qua, Cam puchia đang chuyển m ình m ạn h m ẽ để trở


th à n h m ột quốc gia năng dộng, đầy tiềm năng, th ô n g n h ấ t và tiế n lên
bình đẳng xã hội. Cam puchia đã góp phần vào sự p h á t triể n hòa bình,
ổn định của khu vực và th ế giới. Thủ tướng C hính phủ H oàng gia
Cam puchia Hun Sen cũng kh ẳn g định lập trường của Cam puchia về
quyết tâm tă n g cường, củng cố mối quan hệ láng giềng tố t đẹp, hữu
nghị truyền thống và hợp tác toàn diện lâu dài với V iệt Nam.

35 năm là m ột chặng đường vẻ vang rấ t đỗi tự hào của mối quan


hệ láng giềng hữu nghị, truyền thống tô't dẹp của hai nước. N hìn lại
chặng đường qua, quan hệ tố t đẹp giữa hai nước đang ngày càng đơm
hoa k ế t trái; k ết quả hợp tác trê n các lĩnh vực k in h tế, thương m ại,
đầu tư và nhiều lĩnh vực khác đã và đang m ang lại hiệu quả th iế t
thực, ngày càng đi vào thực chất. Những th à n h tựu đó không chỉ m ang
lại niềm h ạn h phúc cho n h ân dân mỗi nước m à còn vì hòa bình, ổn
định, hợp tác p h á t triể n ở khu vực và th ế giới.

Trong 10 năm (1979-1989), chuyên gia V iệt N am đã tậ n tụy đem


h ế t tà i năng, trí tuệ giúp cách m ạng Cam puchia, ho àn th à n h xuất sắc
nhiệm vụ quốc tế trọng dại với tin h th ầ n vô tư tro n g sáng cao cả chưa
có tiề n lệ trong lịch sử ngoại giao th ế giới. Qua đó, hai nước càng hiểu
rõ hơn tìn h hữu nghị, đoàn k ế t của hai dân tộc. Đó th ậ t sự là mối
quan hệ láng giềng thủy chung son sắt.

ĐỨC TOÀN (tổng hợp)


(Nguồn: PetroTimes.vn)

80
QUÂN ĐỘI VÀ NHÂN DÂN VIỆT NAM cứu NHÂN DÂN
CAM PUCHIA ANH EM THOÁT KHỎI HỌA DIỆT CHỦNG,
THựC HIỆN HỒI SINH MỘT DÂN TỘC

Đại tá LÊ LIÊN

N h ữ n g k ẻ p h ả n b ội
T háng 2-1963, tại Đại hội lần thứ Hai của Đảng Công nhân
Cam puchia (trước tê n là Đảng N hân dân Cách m ạng Campuchia), Pôn
P ốt được chọn k ế vị đồng chí Tu Sa-m út, đã bị sá t hại trước đó, trở
th à n h Tổng Bí th ư của đảng. Từ đây, việc tiếm quyền trong đảng của
Pôn Pốt hoàn tấ t. T háng 7-1963, Pôn Pôt và hầu h ết th àn h viên ủ y
ban tru n g ương rời Phnôm P ênh để th à n h lập m ột căn cứ tại tỉn h Ra-
ta-na-ki-ri p h ía Đông Bắc Cam puchia. Pôn P ốt và đồng bọn trung
th àn h từ nhóm sin h viên tạ i Pa-ri nắm quyền kiểm soát Trung ương
đảng, loại bỏ các cựu binh lớn tuổi, những người tích cực ủng hộ sự
nghiệp cách m ạng ở cả ba nước trê n bán đảo Đông Dương. Tháng 9-
1966, chúng bí m ật đổi tê n đảng th à n h Đ ảng Cộng sản Campuchia,
những đảng viên cấp th ấ p của đảng không được thông báo về điều này
và các đảng viên cũng không biết cho tởi nhiều năm sau. Trong rừng
rậm Cam puchia, chúng b át đầu thực hiện những mưu đồ m ang nặng
chủ nghĩa dân tộc h ẹp hòi, cực đoan.

Quyền lực tối cao trong tậ p đoàn phản động ở Cam puchia tập
tru n g hầu h ế t vào 5 tên : “anh Cả” Pôn P ốt (Sa-lốt Sa), Tổng Bí thư từ
năm 1963 tới khi chết; “anh H ai” Nuôn Chia (Long Bun-ruốt), “cánh
tay p h ải” của Pôn Pốt; “an h Ba” Iêng Xa-ry, anh em đồng hao của Pôn
Pôt; “anh Tư” Khiêu Xam-phon; “anh N ăm ” Tà Mốc (Chờ-hít Chờ-hun).

81
Pôn Pốt (di dầu) khi thành lập lực lượng Kha-me Đỏ. (Ảnh tư liệu).

Pôn P ốt sin h năm 1928 tạ i tỉn h Kông-pông Thom . Năm 1953, y


tham gia M ặt trậ n V iệt M inh, nhưng không chú trọ n g đến công việc
chung, chỉ mưu đồ chia rẽ nội bộ, tra n h quyền lã n h đạo trong Đ ảng
N hân d ân Cách m ạng Cam puchia. Ngày 17-4-1975, cuộc kháng chiến
chống Mỹ k ết thúc ớ Cam puchia. Tập đoàn p h án dộng do Pôn P ốt
đứng đầu lập n ên n h à nước Cam puchia Dân chủ. N gày 20-5-1975,
Thường vụ Trung ương đảng Pôn P ôt họp quyết địn h 3 chủ trương lớn:
Làm tro n g sạch nội bộ n h ân dân; xác định V iệt N am là kẻ thù sô' 1, là
kẻ th ù truyền kiếp; xây dựng xã hội mới của C am puchia không chợ,
không tiền , không trường học, không đô thị, không tr í thức, không tôn
giáo... N gày 1-2-1978, y nói rõ tro n g Hội nghị B an C hấp h àn h Trung
ương đảng của y: “C hiến tra n h giữa ta và V iệt N am là lâu dài, có tín h
chất gặm nhấm , ta không đánh nó trước th ì sẽ không thắng... Chỉ cần
mỗi ngày d iệt vài chục, mỗi th á n g diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba
vạn th ì có th ể đánh 10-15-20 năm . Thực hiện 1 d iệt 30, hy sinh 2
triệu người Cam puchia để tiêu diệt 60 triệu người V iệt Nam. Phải đưa
chiến tra n h sang đ ất nó”.

82
Nuôn C hia sin h năm 1926 tạ i tỉn h B át-tam -bang, là m ột người
gốc Hoa. Khi tậ p đoàn Pôn P ốt th àn h lập Cam puchia Dân chủ, y được
người Cam puchia b iết đến với tê n gọi “anh H ai”, “n h à tư tưởng” th iế t
k ế mô h ìn h n h à nước, đồng thời là nhà đạo diễn “cánh đồng chết”.
Nuôn C hia được Pôn P ố t giao phụ trá c h công tác đảng và an ninh
quốc gia từ năm 1960 khi y giữ chức Phó Tổng Bí th ư Trung ương
đảng. An ninh quốc gia ở đây chủ yếu là trừ khử những “th àn h phần
chông p há cách m ạng trong và ngoài đảng”. Khi tập đoàn Pôn Pốt
giành được chính quyền năm 1975, Nuôn Chia được làm Chủ tịch Quốc
hội, có lúc làm Thủ tướng trong m ột th án g khi Pôn Pô't tạm nghỉ.
C hính Nuôn C hia trực tiếp chỉ đạo quản tù tra tấn và hành quyết
những cán bộ bị tìn h nghi chông lại Pôn Pốt bị giam cầm ở nhà tù
Tuôl Sleng.

Iêng Xa-ri sin h năm 1925 tạ i tỉn h T rà Vinh, V iệt Nam. Năm
1957, y th am gia Đ ảng N h ân dân Cách m ạng Campuchia, giữ các chức
vụ chủ chốt tro n g T h àn h ủy Phnôm P ênh và Trung ương Đảng. Năm
1963, Iêng Xa-ri được chỉ định vào Bộ C hính trị giữ vị trí th ứ tư trong
đảng đã đổi tên . Từ năm 1970 đến 1975, y là “cố vấn đặc b iệt” bên
cạnh Quốc vương Nô-rô-đôm Xi-ha-núc khi ở Bắc Kinh. Sau ngày 17-4-
1975, Iêng Xa-ri giữ chức Phó Thủ tướng phụ trách đối ngoại trong
C hính phủ Cam puchia D ân chủ, cùng với Pôn Pốt, Iêng Xa-ri đã gây
ra nạn d iệt chủng k hủng khiếp đối với nhân dân Campuchia.

K hiêu Xam-phon sinh năm 1931, trong m ột gia đình nông dân,
cha là người Khơ-me, mẹ người Hoa. Sau cuộc đảo chính th án g 3-1970,
y tuyên bố ủng hộ M ặt trậ n Thống n h ấ t Dân tộc Cam puchia do Hoàng
th â n Nô-rô-đôm Xi-ha-núc đứng đầu, được cử làm Phó Thủ tướng kiêm
Bộ trưởng Quốc phòng và Tổng chỉ huy các lực lượng vũ tra n g giải
phóng tro n g C hính phủ Vương quốc đoàn k ế t dân tộc Cam puchia do
Pen N út làm Thủ tướng. Năm 1976, y là Chủ tịch Đoàn chủ tịch Nhà
nước Cam puchia D ân chủ. Khiêu Xam-phon được coi là kiến trúc sư
của Cam puchia D ân chủ.

T à Mốc, tê n th ậ t là C hơ-hít Chờ-hun, sinh năm 1926 trong một


gia đ ình nông dân tạ i tỉn h Ta-keo, m iền Nam Campuchia. Trước năm
1975, y là ủy viên Q uân ủy Trung ương, thường vụ Trung ương Đảng
của tậ p đoàn phản động Pôn Pốt. T háng 7-1975, Pôn Pốt triệu tập đại
hội các bí thư khu ủy để thống n h ấ t quân đội và phân định lại ran h

83
giới. Cam puchia được chia ra làm 7 khu và Tà Mốc phụ trách khu Tây
Nam. N ăm 1977, Tà Mốc lên nấm chức vụ Tổng Tư lệnh quân đội và
đóng vai trò chủ đạo trong m ột loạt vụ th a n h trừ n g và gây ra nhiều vụ
th ảm sát. Là “a n h N ăm ” tro n g lực lượng Pôn Pốt, T à Mốc đóng vai trò
quan trọ n g tro n g n ạn d iệt chủng k h iến h àn g triệu người chết.

Đôi với Việt Nam, tậ p đoàn ph ản động do Pôn Pốt đứng đầu đã
có những biểu h iện p h ản bội ngay khi hai nước đang tiến h à n h cuộc
khán g chiến chông Mỹ, cứu nước.

Từ cuối năm 1971 đã có những cuộc đụng độ giữa lực lượng vũ


tra n g của bọn Pôn P ốt với Quân tìn h nguyện V iệt Nam. R ất nhiều kho
vũ khí của ta bị quân của Pôn P ốt đến lấy trộm , nhiều cán bộ, chiến sĩ
đi công tác lẻ, hoặc đơn vị nhỏ đi công tác sâu tro n g đ ất Campuchia,
bị chúng bí m ật th ủ tiêu. Đến cuối năm 1972, chúng yêu cầu Quân
tìn h nguyện V iệt N am ở các vùng, các địa phương Cam puchia rú t h ết
về nước. Đến cuối năm 1973, quân ta về nước hết. N ăm 1975, kh i Việt
Nam vừa th ố n g n h ấ t đ ất nước, bè lũ Pôn P ốt đã cho quân tiến công
đánh sang các đảo, biên giới đ ất liền Tây Nam đ ấ t nước ta. Ngày 3-5-
1975, quân Pôn P ôt đổ bộ lên đảo Phú Quốc và đã bị quân và dân ta
trừng trị đích đáng, buộc phải rú t chạy. Ngày 10-5-1975, quân Pôn Pốt
lại đán h chiếm đảo Thổ Chu, b ắ t đi và thủ tiêu 500 dân thường.
Những th án g ngày sau đó, chúng tiếp tục mở rộng chiến tra n h xâm
lấn ra trê n toàn tuyến biên giới Tây Nam của ta.

Tức nư ớc vỡ bờ

Tức nước vỡ bờ, ngay từ năm 1975, trong đ ấ t nước Cam puchia đã
nhóm lên những ngọn lửa phản kháng. B ắt đầu từ chính những cán
bộ, đảng viên tro n g h àn g ngũ của Pôn Pốt, sau đó, lan dần sang các
tần g lớp công nh ân , trí thức, nông dân. Từ năm 1975 đến 1978, không
chịu nổi chế độ h à khắc của bọn Pôn Pốt, nh ân dân Cam puchia ở
nhiều vùng nổi dậy chông lại chúng. Các phong trà o tự p h át nổi lên
với các khẩu hiệu: “Đòi lậ t đổ chính quyền xã, huyện”, “Hòa bình rồi,
đừng chiến tra n h nữa” ở Kông-pông Thom, Xiêm Riệp, “Đòi cho tự lập
gia đ ìn h ”, “Bãi bỏ hôn n h ân tập th ể ”, “Cải th iện đời sông cho chúng
tôi” ở vùng Tây N am Cam puchia, “Đừng giết người C hàm ” ở Kông-
pông Chàm , “Đòi tự do đi lại”, “Đòi đoàn k ế t dân tộc”, “Đòi cứu nguy
cho Quốc vương Xi-ha-núc”, “Yêu cầu quốc t ế can th iệp ” ở Phnôm

84
Pênh... N hưng càng đấu tran h , nhân dân Cam puchia càng bị đàn áp,
giết chóc, số người ly khai ra rừng lánh nạn đến hơn 10 vạn.

T rong hàn g triệu người Cam puchia phản kháng chê độ Pôn Pốt,
sự p h ản k h án g của những người là lãnh đạo đảng các cấp, chỉ huy
quân đội, đảng viên của chế độ Pôn P ốt m ang ý nghĩa đặc biệt. Chính
họ là những người nhen lại ngọn lửa cách m ạng ở đ ấ t nước
C am puchia, những người xác định con đường cứu n h ân dân Campuchia
th o á t khỏi họa diệt chủng, lãnh đạo n h ân dân Cam puchia hồi sinh đất
nước, xây dựng xã hội mới.

T h án g 6-1977, ông Hun Xen, m ột cán bộ chỉ huy trung đoàn, ly


khai quân Pôn Pốt, dẫn đầu 16 người chạy sang V iệt Nam. Cũng t.rong
năm 1977, nhiều cán bộ Cam puchia các tỉn h Đông Bắc chạy sang Gia
Lai, Kon Tum. Đó là sô" cán bộ tậ p kết ra m iền Bắc, về nước th ấy sự
phản đảng của bọn Pôn Pốt nên chạy trở lại Việt Nam, gồm đồng chí
Bu Thoong, Xoi Keo, Đi Phin... Các ông Pen Gút, Hưu Xem, Phách
Xem, P en ú n g , đoàn của ông ú c Bun-xươn chạy sang Tây N inh; ông
C hăn Ven, ông Xim Sông chạy sang Quân khu 9. Tiếp đó là các ông
H êng Xom-rin, Chia Xim. Đến gần cuổĩ năm 1978, đã có 107 người là
lãnh đạo từ cấp tru n g đoàn tới cấp quân khu Cam puchia chống chê độ
Pôn P ố t san g Việt Nam.

Được sự giúp đỡ tậ n tìn h của Việt Nam, những người ly khai chế
độ Pôn P ố t mà hầu h ế t là đảng viên Đảng N hân dân Cách m ạng
C íu iip u cliiu tiến liànli tập họp lực lượng, xay dựng dương loi giái
phóng n h â n dân Campuchia. Từ ngày 26 đến 29-11-1978, Ban Tổ chức
Đại hội Úy ban Trung ương M ặt trậ n Đoàn k ết dân tộc cứu nước
Cam puchia tạ i Trường Công an Thủ Đức (TP. Hồ Chí M inh), có 108
đại biểu gồm: Đoàn cán bộ tập k ết ra m iền Bắc năm 1954 rồi ở lại
V iệt N am công tác có 42 người, đoàn Quân khu Đông: 35 người, đoàn
sang từ th á n g 6-1977: 16 người, đoàn Đông Bắc: 11 người, n h ân sĩ: 4
người. Đại hội đã bầu ú y ban Trung ương M ặt trậ n Đoàn k ế t dân tộc
cứu nước Cam puchia gồm 15 người, do ông H êng Xom-rin làm Chủ
tịch, ông C hia Xim làm Phó Chủ tịch và ông Rua Xa-may làm Tổng
thư ký. Ngày 2-12-1978, M ặt trậ n Đoàn k ế t dân tộc cứu nước
Cam puchia r a m ắt. Buổi lễ ra m ắt tổ chức ở vùng Snun, tỉn h Kra-chê,
vừa được giải phóng k h á rầm rộ. Có đại diện của các tiểu đoàn và đội
công tác vũ tran g của bạn, hàng tră m người Cam puchia có đại diện

85
các giai cấp, tô n giáo, dân tộc, tầ n g lớp n h â n d ân ở C am puchia đến
dự. Khi th ấy Đoàn Chủ tịch M ặt trậ n xuất hiện, có cả n h à sư mặc áo
cà sa, mọi người dự lễ đều quỳ xuống vái lạy rấ t trọ n g thị. Ai cũng tỏ
lòng p h ấn khởi có người lãnh đạo, n h ấ t định nh ân d ân C am puchia sẽ
th o át khỏi ách d iệt chủng do bọn Pôn P ốt — Iêng X a-ri gây nên.

Làm nòng cốt lãn h đạo sự nghiệp cách m ạng C am puchia trê n đất
V iệt Nam là những người đảng viên chân chính của Đ ảng N hân dân
Cách m ạng Campuchia. N gày 4 và 5-1-1979, các đản g viên cũ của
Đ ảng N h ân d ân Cách m ạng C am puchia tập tru n g về trạ m 66B, cư xá
Mỹ cạnh dinh Độc Lập, ở TP. Hồ Chí M inh để tiế n h à n h đại hội khôi
phục lại đảng, bầu ra B an C hấp h àn h Trung ương mới và công nhận
đảng viên của đảng. Cũng tạ i đại hội này, Đ ảng N h â n dân Cách m ạng
Cam puchia cử ra Chủ tịch nước và th à n h phần C h ín h phủ để về ra
m ắt n h ân dân Cam puchia ngay khi đ ấ t nước được giải phóng, tiến
h àn h Đại hội đại biểu lần th ứ III, gồm 62 đại biểu. Đ ại hội đã bầu ra
Ban C hấp h àn h Trung ương gồm 7 người: Pen Xô-van làm Tổng Bí
thư, các đồng chí H êng Xom-rin, C hia Xim làm ú y viên thường vụ, các
đồng chí Hun Xen, Bu Thoong, Văn Son, C hăn Xi làm ú y viên Trung
ương.

Từ đây, cách m ạng Cam puchia có lực lượng lã n h đạo. Đó là những


con người được tôi luyện tro n g cuộc cách m ạng dân tộc dân chủ nhân
dân, k in h qua chiến tra n h gian khổ chống thực dân Pháp, đ ế quốc Mỹ,
tru n g th à n h với lợi ích cúa dân tộc và n h ãn dãn, n ắm vứng xu th ế
p h át triể n của thời đại, có tin h th ầ n quốc tế, tin tưởng Đ ảng Cộng sản
V iệt Nam , đoàn k ế t ch ặt chẽ với n h â n dân V iệt N am . Sự đúng đắn
tron g chủ trương, đường lối của các n h à lãn h đạo cách m ạng ly khai
chế độ Pôn P ốt đã tập hợp được n h ân dân C am puchia, những người đã
sông uất h ận tro n g chế độ diệt chủng vùng lên đấu tra n h , sá t cánh
cùng quân và d ân V iệt N am lậ t đổ tậ p đoàn p h ản động Pôn P ốt cùng
chế độ quái th ai do chúng dựng lên.

N gày 3-11-1978, được sự giúp đỡ của n h ân dân, lực lượng nổi dậy
chông lại chế độ Pôn P ốt — Iêng Xa-ri tiến công căn cứ Sê-rê-ca của
quân Pôn P ốt ở phía Tây Bắc Đầm Be (Công-pông Chàm ). Sau một giờ
chiến đấu, lực lượng nổi dậy làm chủ căn cứ, tiêu d iệt hơn 100 tên, thu
m ột kho vũ khí, đạn dược và đồ dùng quân sự. P ho n g trà o nổi dậy
chông lại chế độ d iệt chủng Pôn P ốt — Iêng Xa-ri lan rộng khắp cả

86
nước, không chỉ lớn về quy mô m à còn có bước chuyển mới về tổ chức
và phương thức đấu tran h . Đã có sự phối hợp giữa các lực lượng, giữa
th à n h thị với nông thôn; đã b iết k ế t hợp chặt chẽ giữa đấu tra n h
chính trị với đấu tra n h vũ trang, giữa nổi dậy của quần chúng với binh
biến của b inh lính.

T h án g 11-1978, tạ i Quân khu Đông, lực lượng nổi dậy hoạt động
m ạnh ở các huyện Cam-chơ-rích, Tơ-nang Khơ-mun (Công-pông
Chàm ). Tại Quân khu Đông Bắc, hàng trăm nhân dân vùng Siêng-
pạng (Stung T reng) và vùng Bô-keo (Ra-ta-na-ki-ri) nổi dậy chống lại
việc b ắt th a n h n iên đi lính cho Pôn Pốt. Nhiều truyền đơn kêu gọi
n h ân dân khu Đông và Đông Bắc cùng đồng bào cả nước đoàn kết, đấu
tra n h đ án h đổ ch ế độ diệt chủng Pôn Pô't — Iêng Xa-ri, phản đối việc
chính quyền Pôn P ố t — Iêng Xa-ri gây chiến tra n h biên giới với Việt
Nam , đòi xây dựng nước Cam puchia hòa bình, độc lập, tự do, hạnh
phúc.

Cuổì th á n g 11, dầu th án g 12-1978, phong trào đấu tra n h cách


m ạng của n h â n dân Cam puchia p h á t triể n ngày càng m ạnh mẽ và
giành nhiều th ắ n g lợi. Đầu th án g 12-1978, lực lượng vũ tra n g cách
m ạng tỉn h M ôn-đôn-ki-ri đánh chiếm một căn cứ địch, diệt hơn 100
tên , th u nhiều súng đạn và lương thực. Tiếp đó, nh ân dân hai huyện
Sơ-lông và Crô-chơ-m ia (Công-pông Chàm ) nổi dậy giành quyền làm
chủ ở m ột số xã. Ớ Quân khu 203 và Quân khu Đông Bắc, nổ ra nhiều
vụ binh bien cùa binh lính.

K ề v a i s á t c á n h tr o n g h o ạ n n ạn

T h án g 1-1978, các đơn vị quân đội ta trừ ng trị quân Pôn P ốt ở


sâu tro n g đ ất Cam puchia rồi rú t về. Khi ta rú t về, nh ân dân
C am puchia ở các tỉn h Xoài Riêng, Công-pông Chàm, P rây Veng... chạy
theo xin tị n ạn ở V iệt Nam. R ất nhiều xe bò, xe trâu chở con cái, đồ
đạc, người đi bộ gồng gánh kéo theo bộ đội V iệt Nam. Những ngày sau
đó, ta th ô n g kê được số dân nước bạn chạy sang tị n ạn là hơn 4 vạn
người.

Người xin tị n ạn kể lại rằng, bọn Pôn P ốt rấ t dã man. Chúng bắt


dân bỏ th ủ đô, th ị xã, b ắt dân về nông thôn cuốc đất, cày ruộng, ai
không làm được th ì bắn bỏ. Chúng bỏ chợ búa, trường học, tiền
nong..., ai không nghe lệnh “Ăng-ka” thì giết chết. Chúng bắt ở chung,

87
ăn chung, đám cưới tậ p th ể , giết h àn g loạt, chôn người tậ p thể...
Chúng không còn coi đạo P h ậ t là quốc đạo của nước Cam puchia mà
chủ trương bãi bỏ hoàn toàn chùa chiền, sư sãi. Gặp ai mặc áo cà sa là
chúng bắn ch ết ngay.

Lực lượng vũ trang đoàn két cứu nước Cam-pu-chia ra đời ngày 12-5-1978. (Ánh tư
liệu).

D ân Cam puchia tị n ạn sang V iệt Nam được ta làm lán trạ i cho ở
theo từng gia đình, tổ chức sản xuất ở vùng T ân Châu, Bến s ắ n (tỉnh
Tây Ninh)... Ta tổ chức cho nh ân dân bạn tố cáo tội ác của bọn Pôn
Pốt. Cuộc cách m ạng dân chủ n h ân dân ở Cam puchia dường như phải
làm lại từ đầu. Đảng, N hà nước, Quân đội và n h ân dân V iệt Nam m ột
lần nữa lại phải ra tay giúp đỡ cách m ạng của nước bạn với tin h th ần
quốc tế cao cả như tro n g cuộc kháng chiến chông thực dân Pháp,
khán g chiến chống Mỹ, cứu nước trước đây.

T h án g 3-1978, khi những đảng viên chân chính Đảng N hân dân
Cách m ạng Cam puchia bày tỏ nguyện vọng m uôn xây dựng lực lượng
vũ tra n g trê n đ ất V iệt Nam để về giải phóng đ ấ t nước khỏi chế độ
Pôn Pốt, Đ ảng ta bày tỏ quan điểm ủng hộ, giao cho Quân đội thực
hiện. Quân ủy T rung ương ra nghị quyết lấy người Cam puchia chạy

88
sang lán h n ạn ở V iệt Nam để xây dựng lực lượng cách m ạng cho bạn;
đồng chí T rần Văn Quang được giao nhiệm vụ chỉ huy và Đoàn 478 là
đơn vị phụ trách việc này.

T háng 4-1978, Thượng tướng T rần Văn Trà, Tư lệnh Quân khu 7,
gặp ông Hun Xen và ông Mê-a Huôn tại Bộ tư lệnh Quân khu 7. Hai
bên thống n h ấ t sẽ giúp đỡ các đồng chí Cam puchia tổ chức xây dựng
lực lượng vũ tran g để giải phóng đ ất nước, Việt Nam sẽ giúp đỡ huấn
luyện quân sự, cung cấp vũ khí và hậu cần, còn vấn đề chỉ đạo về m ặt
chính trị là do phía các đồng chí Cam puchia chịu trác h nhiệm . Nội
dung làm việc của Thượng tướng T rần Văn T rà đáp ứng nguyện vọng
th a th iế t của toàn th ể nhân dân Campuchia, cho phép n h ân dân
Cam puchia được tị nạn ở V iệt Nam, tạo diều kiện cho các phong trào
đấu tra n h của những người đang tị nạn ở Việt Nam xây dựng và củng
cố để tiến h àn h cuộc đấu tra n h giải phóng đất nước thoát khỏi chê độ
Pôn Pốt. Lực lượng vũ tran g đoàn k ết cứu nước Cam puchia đã chính
thức ra đời ngày 12-5-1978 và th à n h lập Ban chỉ huy 578 vào th án g 5-
1978, tro n g đó ông Hun Xen là Chỉ huy quân sự và chính trị, ông Núc
Thon làm Phó phụ trác h chính trị, ông Hem Xa-min làm Phó phụ
trá c h hậu cần-tài chính, sau đó tiến tới th àn h lập đơn vị đầu tiên là
đơn vị 125 (12-5-1978). Đơn vị này có hơn 200 chiến sĩ do ông N h ất
Huôn chỉ huy.

Ngày 15-10-1978, ta liên lạc được với đoàn của đồng chí Chia Xim
ớ phía Lo Go (.Tay Ninh). Trong đoàn này có đống chí Chum, Uy viên
Thường vụ vùng 20. Đồng chí C hia Xim cho biết, vùng 20 đã có người
lên vùng 21 để liên lạc với anh Kôn Van gồm: Anh H êng Xom-rin, Sư
đoàn trưởng Sư đoàn 4, Quân khu ủy viên cũ; anh Pô (Rô Chia), Phó
Bí th ư vùng 20; anh Dôl (Át), Phó Bí thư vùng 22; anh Xa Mun,
Trưởng Ban nông nghiệp khu 203. Ta đón đoàn này về TP. Hồ Chí
Minh.

Những th án g cuốĩ năm 1978, tìn h hìn h cách m ạng Cam puchia
chuyển biến mau lẹ. N hân dân Cam puchia sau hơn 3 năm sông dưới
ách kìm kẹp của bọn Pôn Pốt — Iêng Xa-ri, đã hiểu chính sách diệt
chủng của ch ế độ Khơ-me Đỏ, lòng căm thù chúng đã dâng lên đến cao
độ, mong m uốn lực lượng cách m ạng chân chính về giải phóng cho
m ình. Số người tị n ạn sang V iệt Nam ngày càng đông đảo, sô' cán bộ
Cam puchia sang V iệt Nam từ sau ngày ký k ết Hiệp định Giơ-ne-vơ

89
năm 1954, sang tro n g cuộc kháng chiến chông Mỹ, cứu nước, đã sẵn
sàng về nước th am gia chiến đấu lậ t đổ chế độ Khơ-me Đỏ. Đ ến th án g
11-1978, ta đã giúp đỡ bạn xây dựng 21 tiểu đoàn và 100 đội vũ tra n g
công tác.

Sau khi có đảng, có lực lượng vũ tran g , có m ặt trận , bạn nhờ ta


cùng liên m inh d iệt trừ họa diệt chủng do bọn Pôn Pô't - Iên g Xa-ri
gây n ên cho n h ân dân Cam puchia và đập ta n cuộc chiến tra n h xâm
lược Việt Nam ở vùng biên giới Tây N am nước ta do bọn chúng gây ra.

C h iến d ịc h q u y ế t đ ịn h

Mở cuộc chiến tra n h xâm lược V iệt Nam từ th án g 5-1975 đến


ngày 23-12-1978, bè lũ Pôn Pốt đã giết hại hơn 5.000 dân thường nước
ta, làm bị thương gần 5000 người, b ắ t và đưa đi thủ tiêu hơn 20.000
người khác. H àng tră m trường học, bệnh viện, cơ sở y tế, n h à thờ,
chùa chiền ở vùng biên giới V iệt N am giáp với Cam puchia bị đốt phá.
H àng nghìn con trâu , bò bị cướp, giết, hàng nghìn héc-ta lúa, màu bị
phá hoại, hàn g vạn héc-ta ruộng đ ấ t và đồn điền cao su ở vùng biên
giới Tây Nam bị bỏ hoang. Nửa triệu dân vùng s á t biên giới phải bỏ
nhà, bỏ đất, bỏ ruộng để chạy về phía đông.

Trước tìn h h ình bọn Pôn P ốt gây h ấn ở biên giới Tây-N am đ ất


nước, vì lợi ích dân tộc và tìn h hữu nghị chiến đấu lâu năm , Đ ảng và
N hà nước ta đã tự kiềm chế, kiên trì thuyết phục, thương lượng giải
quyết những vấn đề cụ th ể thuộc quan hệ giữa hai nuớc, hai dân tộc.
N hưng mọi sự ccí gắng của chúng ta đều không có k ết quả, bọn Pôn
P ố t vẫn ngoan cô' thực h iện chính sách xâm lược và diệt chủng. Thực
h iện quyền tự vệ chính đáng th iên g liêng của m ình để bảo vệ chủ
quyền, to àn vẹn lãnh th ổ và an nin h của Tổ quốc, bảo vệ biên giới
Tây-Nam , tín h m ạng và tà i sản của n h â n dân, đồng thời làm nghĩa vụ
quốc t ế đôi với n h ân d ân Cam puchia, Đảng và N hà nước ta đã chủ
trương giúp đỡ những người cách m ạng chân chính Cam puchia làm lại
cuộc cách m ạng đã bị ph ản bội.

Giữa th án g 12-1978, Pôn P ố t huy dộng 10 sư đoàn, tro n g tổng số


21 sư đoàn m à chúng có, mở cuộc tiến công xâm lược quy mô lớn trê n
toàn tuyến biên giới Tây-Nam nước ta với mục tiêu đánh chiếm thị xã
Tây Ninh.

90
'9

Nhăn dân Cam-pu-chia vui mừng đón Quân giải phóng. (Ánh tư liệu).

Theo tiến g gọi của nh ân dân Cam puchia, để thực hiện sứ m ạng
bảo vệ Tổ quốc th iên g liêng, ngày 23-12-1978, Quân đội n h ân dân
V iệt N am đã mở cuộc phản công chiến lược đập ta n cuộc tấ n công toàn
tuyến biên giới Tây Nam của bè lũ Pôn Pốt. 5 cánh quân cùng với lực
lương vũ tran g của Mặt. trậ n Đoàn kpt. Hân tộc rứn niínto Oíimpuchia
chia làm 5 hướng: Các đơn vị Quân khu 5 tiến công địch ở vùng Đông
Bấc Campuchia, các đơn vị Quân khu 7 tiến công vào vùng Đông
Campuchia, Quân đoàn 1 theo đường sô’ 1 tiến th ẳn g vào Phnôm
Pênh, Quân đoàn 2 từ An G iang tiến công sang Cam -pốt rồi tiến
th ẳ n g lên Phnôm Pênh, các đơn vị Quân khu 9 tiến công vào các tỉn h
vùng Tây Nam Campuchia, lực lượng H ải quân nh ân dân ta tiế n công
vào cảng Kông-pông Xom. Ta chuyển từ phản công sang tổng tấn
công, cùng với toàn dân Cam puchia nổi dậy đánh bại tập đoàn phản
động Cam puchia xâm lược, phản bội, diệt chủng, giải phóng th ủ đô của
bạn. Ngày 7-1-1979, thủ đô Phnôm P ênh được giải phóng và đến ngày
17-1-1979, sau 25 ngày, tấ t cả các th à n h phô", th ị xã, th ị trấ n trê n đất
nước Cam puchia đã được hoàn toàn giải phóng khỏi chế dộ diệt chủng.
Một chiến dịch phản công có chiều sâu hơn 500km và chiều rộng cũng
hơn 500km, g iành th ắn g lợi nhanh gọn ấy không phải chỉ do lòng
dũng cảm và nghệ th u ậ t quân sự m à điều cực kỳ quan trọng là nhờ sự
91
ủng hộ của n h ân dân Cam puchia. Không có sự ủng hộ của n h ân dân
Campuchia, không th ể có tốc độ kỳ diệu đó, đ án h ta n lực lượng quân
sự làm cho 21 sư đoàn Pôn Pốt chạy không kịp trở tay.
T rên tấ t cả các hướng, các chiến sĩ Quân tìn h nguyện V iệt Nam
đã dược đón tiếp bằng sự vui mừng không k ể xiết của những người dân
Cam puchia giải phóng. N hững người già ở tỉn h B át-đam -boong kể:
“Chúng tôi theo đạo P h ật, chúng tôi ngày đêm cầu trời k h ấn P h ậ t cứu
giúp nhưng ngày này qua ngày khác không th ấ y ai đến. C húng tôi
nghĩ trê n cõi đời này chỉ có V iệt Nam có th ể cứu giúp chúng tôi. Quả
nhiên bộ đội V iệt Nam đã đến”. Các cán bộ, chiến sĩ V iệt Nam bàng
hoàng xúc động trước sự đau khổ cùng cực của n h ân d ân Cam puchia,
sự dã m an của ch ế độ Pôn P ốt khi tậ n m ắt chứng kiến những gì đã
xảy ra còn khủng khiếp gấp bội, ngoài sức tưởng tượng của con người.
C án bộ, chiến sĩ Quân đội n h â n dân V iệt N am cùng với lực lượng
vũ tra n g của M ặt trậ n Đoàn k ế t dân tộc cứu nước Cam puchia đi tới
đâu cũng được n h ân dân đón tiếp bằng sự vui m ừng không kể xiết.
N hiều người già có, trẻ có chưa th o á t khỏi nỗi kinh hoàng, khi gặp bộ
đội Việt Nam, họ đã òa lên khóc và sẵn sàng giúp đỡ các lực lượng
truy đuổi Pôn Pốt. Bộ đội V iệt Nam dễ dàng n h ận ra n é t m ặt hân
hoan của n h ân dân Cam puchia, những người vừa bước ra khỏi ch ế độ
diệt chủng. Điều đáng ghi n h ậ n là họ đã coi bộ đội V iệt Nam như
người nhà. Điđến đâu bộ đội V iệt Nam cũng được sự hỗ trợ n h iệt
tìn h .

Đ ại tá LÊ LIÊN
N guyên p h ó n g v iên Báo Q uân đội n h â n d â n , cựu chuyên gia
Q uân tìn h n g u y ện V iệt N a m th a m g ia giúp đỡ C am puchia
(Nguồn: Quăn đội nhăn dàn)

92
CHUYỆN ĐÁNG NHỚ ở CHIÊN TRƯỜNG CAMPUCHIA 1

Đại tá LÊ HẢI TRIỀU

H ành q u â n về p hum S ă n g Kê
Trung tu ầ n th án g 10-1978, chúng tôi được lệnh bàn giao khu vực
phòng ngự ở B ình độ 50 cho Sư đoàn 31, hành quân về hướng Săng Kê
- Cô Ta Pao đ án h địch, b ắt liên lạc với lực lượng ly khai chế độ diệt
chủng pỏn Pốt. Tiểu đoàn 8 chúng tôi là lực lượng thọc sâu xa n h ất
của T rung đoàn 66, Sư đoàn 10. Chúng tôi được tă n g cường m ột tổ
trin h s á t có nhiều k inh nghiệm của Quân đoàn và m ột tổ phiên dịch
người Cam puchia giúp đơn vị trong quá trìn h thực hiện nhiệm vụ.
Từ sau th ấ t bại nặng nề ở phía bắc đường 7, quân Pôn P ốt ở đây
không còn đủ sức mở những cuộc phản kích lớn. Chỉ huy M ặt trậ n
đường 7 đã điều tới khu vực Săng Kê - Cô Ta Pao hai tiểu đoàn lính
biên phòng - những đơn vị k h é t tiếng gian ác. Lính biên phòng liên
tục tổ chức phục kích, tậ p kích nhỏ và dựng những tuyến vật cản mới
bằng m ìn các loại. Với thủ đoạn tác chiến này, địch gây không ít khó
kh ăn cho ta. T hêm vào đó là những trậ n mưa tầm tã kéo dài, cản trở
việc bảo đảm hậu cần đối với đơn vi luồn sâu.
T rên các hướng của Sư đoàn 10, sau những bỡ ngỡ ban đầu của
nhiệm vụ đ án h dịch, đón bạn, các đơn vị cũng lần lượt lập công.
Chúng tôi được thông báo, từ ngày 10 đến 15-10-1978, Trung đoàn 24
liên lạc và đón hơn 1.000 người của lực lượng nổi dậy, Trung đoàn 28
đón gần 2.000 người. Trung đoàn 4 pháo binh và các đơn vị trực thuộc
Sư đoàn, Tiểu đoàn 7, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 66 cũng liên lạc và đón
được hàng nghìn người của lực lượng nổi dậy ly khai chế độ Pôn Pốt.
Trong khi đó, hướng thọc sâu của Tiểu đoàn 8 chúng tôi chỉ diễn ra
những trậ n đán h nhỏ giữa bộ đội ta với lính biên phòng Pôn Pốt.
Tối 22-10-1978, Sư đoàn trưởng Bùi Đình Hòe điện trực tiếp cho
tôi: “Ngày m ai đồng chí cho bộ đội khẩn trương tiến về hướng Săng
Kê - Cô Ta P ao”. Tôi bàn với anh Đào Hữu Kế, Tiểu đoàn trưởng: “Ta
phải cho nuôi quân nấu cơm ngay an h ạ, bộ dội ăn sáng và đem theo
cơm v ắt sẽ h à n h quân trước khi trờ i sáng”. Anh K ế thống n h ấ t ý kiến

93
của tôi và nói với an h T hắng - Tiểu đoàn phó, cho các đơn vị triể n
khai ngay.
Mờ sáng 23-10, tổ trin h s á t quân đoàn, tiểu đội tr in h sá t của tiểu
đoàn, tôi và anh K ế đi đầu mở đường. Tổ phiên dịch tiến g Khơ-me đi
ngay sau đó, tiếp đến là Đại đội 5, Đại đội 8 và các đơn vị v ận tải,
pháo binh tă n g cường, rồi đến Đại đội 6 và cuốĩ cùng là Đại đội 7.
Mở tấm bản đồ, tôi nói với a n h K ế và N guyễn Khắc Ngụ - T rung
dội phó phụ trá c h trin h sá t quân đoàn và N guyễn V ăn H oạch - Tiểu
đội trưởng trin h s á t Tiểu đoàn:
- Ta không đi theo đường mòn dễ bị địch phục kích m à cắ t theo
góc phương vị, đến phum Săng Kê, tuy đường khó đi, nhưng g ần hơn
và an toàn hơn. Các a n h có ý kiến gì không?
Không th ấ y mọi người nói gì, tôi nói với an h K ế cho b ắ t đầu
h àn h quân.
Từ Mé Mông, Tiểu đoàn 8 chúng tôi băng qua cánh đồng bỏ
hoang, cỏ lút đầu, rồi xuyên qua những cánh rừng dây gai chằng chịt.
Khi chúng tôi gặp những con đường mòn, đi được m ột đoạn y như
rằng, chạm địch, phải dừng lại tổ chức chiến đấu.
K hoảng 10 giờ, tôi nghe tiến g súng nổ dồn p hía sau, có cả tiến g
cối 60 ly và B40, B41 rộ lên chừng 10 phút. M ột lúc sau, chiến sĩ liên
lạc Đại đội 7 chạy lên gặp tôi: “Báo cáo Thủ trưởng, Đ ại đội 7 bị địch
tậ p kích, C hính trị viên Nguyễn Ngọc T h àn h và ba chiến sĩ hy sin h ”.
Chúng tôi cho đội hình dừng lại, triể n khai đội h ìn h chiến đấu.
Tôi bảo C hính tr ị viên phó Tiểu đoàn T rần V iết Xuân quay lại để giải
quyết an tán g những người hy sinh. K hoảng hơn m ột tiến g sau, an h
Xuân báo cáo mọi việc đã xong xuôi, chúng tôi tiếp tục h à n h quân.
15 giờ ngày 23-10-1978, Tiểu đoàn 8 đã tới phía Đông phum Săng
Kê. Đây là m ột phum lớn, những ngôi n h à sàn hầu n h ư còn nguyên,
nhưng từ lâu không có người ở. Một con đường đ ất đỏ khá to, chạy
giữa phum theo hướng từ phía Đông lên phía Tây. Tôi bàn với an h K ế
tổ chức cho Đại đội 6 triể n khai chặn con đường này và đ ặ t tổ cảnh
giới cách phum vài tră m m ét. Các đại đội còn lại bô' tr í ngoài bản.
Ban chỉ huy Tiểu đoàn chúng tôi chọn m ột ngôi n h à chếch về phía
Đông đường. T rung đội vận tả i b ắ t tay ngay vào làm vệ sinh, kê bàn
g h ế và đào hầm trú ẩn cho Ban chỉ huy.

94
Tổ trin h s á t vừa dẫn m ột tiểu đội bộ binh của Đại đội 6 lên đặt
trạ m cảnh giới, anh em p h á t hiện m ột toán người Cam puchia có vũ
tran g đang vượt đường từ phía Tây sang phía Đông liền cho người
chạy về báo cáo. Tôi đi theo người trin h s á t lên xem xét tìn h hình.
Anh em nói lại: “Trông dáng vẻ không giống lính chiến đấu Pôn Pốt
thủ trưởng ạ ”. Tôi liền lệnh cho Đại đội trưởng Đại đội 6 Nguyễn Kim
Quyết triể n khai bao vây, chặn lại. Tuyệt đôi không được bắn trước,
trừ khi họ nổ súng vào ta.
Đ ại đội 6 được trin h sá t dẫn đường chia làm hai mũi, bí m ật
khép vòng vây. Anh em ta nhẹ nhàng, khéo léo, đến khi chỉ còn cách
họ 5 m ét mới hô: “Lơk day lương” (giơ tay lên). Mấy người Cam puchia
đứng dưới căn hầm nửa chìm nửa nổi quay lại th ấ y anh em m ình liền
giơ tay. Anh em dẫn họ về Ban chỉ huy tiểu đoàn. Thấy ồn ào, tôi
chạy lên. T rong toán người Cam puchia có 2 người lớn tuổi và 5 người
lính trẻ , họ đều mặc đồ đen, cổ quấn kh ăn rằn, đeo ba lô kiểu như
quân ngụy Sài Gòn, một người giữ khẩu B40 và 3 quả đạn, 4 người còn
lại m ang súng AK. Thấy tôi, người trá n cao, m ắt sâu chìa tay ra bắt.
Tôi cũng nắm tay ông ta và chỉ hướng về tiểu đoàn.
Ô ng H ê n g X om -rin và c h iế c đ ồ n g h ồ O m ega
Việc đầu tiên chúng tôi kiểm tr a quân tư tran g của họ. Ông trá n
cao, da nâu, tro n g ba lô có m ột khẩu súng ngắn K59 để dưới đáy ba lô,
m ột kh ẩu K54 g iắt cạp quần chưa lên đạn, 3 lọ thuốc con nhộng nhãn
M ai Tong (co cá chư Trung yuôc), hộp dường glu-cô, con dao găm, một
b ật lửa và vài bộ quần áo. Một người đứng tuổi da trắ n g hơn, tóc điểm
bạc có m ột kh ẩu súng K54 g iắt cạp quần chưa lên đ ạn và 5 người lính
chân trầ n . Tôi nói:
- Các anh có ai nói được tiếng Việt Nam không?
T hấy mọi người ngơ ngác, tôi hỏi người phiên dịch:
- Anh hỏi họ, không ai nói được tiếng Việt sao?
Người phiên dịch nói lại. Họ đều lắc đầu. T hế là người phiên dịch
phải giúp tôi.
Tôi nói:
- T ấ t cả vũ khí, dao găm, b ật lửa chúng tôi thu, còn lại các anh
giữ lấy.

95
Họ cho các th ứ quân tran g đồ dùng vào ba lô. Để họ ổn định, tôi
đưa tấm bản đồ ra và bảo ông trá n cao, da nâu:
- Bây giờ tôi hỏi, ông thuộc đơn vị nào?
Qua phiên dịch, ông ta nói:
- Chúng tôi thuộc Sư đoàn 4, Quân khu 203.
- Ông tê n gì?
- H êng Xom-rin (H eng Sam rin).
- Ông chức gì?
- Tôi là Tư lệnh Sư đoàn.
Nghe đến đây tôi hơi ngạc nhiên, sợ m ình nghe nhầm . Tôi bảo
người phiên dịch hỏi lại và ông ta khẳng định làm Tư lệnh Sư đoàn từ
năm 1976. Tôi hỏi:
- Lực lượng bao nhiêu? Đi từ đâu đến?
Tôi mở tấm bản đồ đưa cho ông ta. R ất th à n h thạo, ông xoay b ản
đồ cho đúng hướng. Tôi nghĩ ông này đúng là chỉ huy sư đoàn th ậ t.
Ông ta trả lời qua người phiên dịch, đại ý: “Lực lượng của Sư đoàn 4,
vì không chịu được cảnh h à khắc đã ly khai khỏi Pôn Pcít. Lúc đầu, có
hơn 200 người, đi từ phía Tây Đầm Be, trê n đường gặp lín h Pôn P ốt
phải nổ súng, rồi giẫm phải m ìn, ta n tác mỗi người m ột hướng, tốp
của ông còn lại 7 người”.

Tôi bảo ông ta đ án h dấu những đoạn suối m ùa khô xe tă n g có th ể


qua được, những chỗ địch gài m ìn, những nơi gặp địch nổ súng... Ông
ta thực h iện đầy đủ các yêu cầu của tôi. Quay sang người có nước da
trắn g , tóc điểm bạc, tôi hỏi:
- Ông tê n gì, chức vụ?
Qua phiên dịch, ông ta cho b iết tê n là Rô Bi, làm Chủ nhiệm H ậu
cần Quân khu 203.
Tôi điện về tru n g đoàn báo cáo vắn tắ t tìn h hìn h và n h ấ n m ạnh,
đây là những cán bộ cao cấp tro n g quân đội Pôn Pốt. Lúc sau, đích
th â n C hính ủy Sư đoàn Lưu Qúi Ngữ điện cho tôi: “Triều này, cậu tổ
chức đưa những người K về ngay Sư đoàn, nhớ phải bảo đảm an to àn
cho họ”.

96
N h ận được lệnh, lúc này đã hơn 17 giờ, tôi nói công vụ sắp cơm.
Trong lúc chờ cơm, tôi hỏi ông H êng Xom-rin:
- Quê ông ở đâu? Gia đình vợ con ông th ế nào?
Tôi nh ìn th ấy ông có vẻ xúc động, m ột lá t sau ông nói: “Quê ở
Prey Veng, vợ con đến nay tôi cũng không biết ở đâu, họ còn sông hay
dã chết. Dưới chế độ Pôn Pốt không có khái niệm gia đình, vợ con.
Chúng tà n s á t người dân rấ t dã m an, chúng dùng búa đập vào đầu cho
dến chết, rồi chôn tậ p th ể...”.
Tôi hỏi:
- Ông bao nhiêu tuổi?
- Tôi sinh năm 1934, năm nay 44 tuổi rồi.
H ai m âm cơm đã sắp ra gần nhau. Ban Chỉ huy chúng tôi m ột
mâm, nhữ ng người Cam puchia m ột mâm. Tôi nói công vụ mở m ấy hộp
th ịt xay chia đều hai m âm và bảo họ ăn cơm. Tôi quan s á t người lính
trẻ r ấ t lễ phép xới cơm, đưa hai tay cho hai ông ăn trước rồi họ mới
ăn. Ông ta ăn hai lưng cơm rồi bỏ bát. Tôi nói cậu Đoàn công vụ hái
mấy quả quít ngoài vườn pha hai cốc nước đưa cho ông ta m ột cốc, một
cốc đưa cho ông Rô Bi.
Tôi giao cho Bình, Trợ lý tác chiến phụ trách m ột trung đội bộ
binh tra n g bị m ạnh, đưa họ về phía sau. Lúc chuẩn bị lên đường, ông
H êng Xom-rin chỉ vào cổ tay trá i, nói:
- Omega! Omega!
B ằng linh cảm của người nhiều năm làm chính sách, tôi biết
rằng, a n h em chắc đã giữ chiếc đồng hồ của ông ta. Tôi nói qua người
phiên dịch: “Bảo với ông ta yên tâm , chúng tôi sẽ gửi về sau”.
Lực lượng đưa những người Cam puchia đi khuất, tôi hội ý chỉ huy
tiểu đoàn và có k ế hoạch tìm kiếm chiếc đồng hồ Omega.
Tôi 24-10, C hính ủy Lưu Quý Ngữ điện cho tôi, ông nhẹ nhàng:
- T riều à, cậu trực tiếp gặp những an h em b ắ t toán người K, động
viên tr ả lại chiếc đồng hồ th ì mọi việc sẽ nhẹ nhàng. Quân đội ta,
N hà nước ta sần sàng bỏ 1 triệu đô-la đền cho họ, nhưng đây là danh
dự một đội quân cách mạng, không th ể tín h th à n h tiền được.

97
- Báo cáo th ủ trưởng, em hiểu. Em cũng đang tìm mọi cách tìm
chiếc đồng hồ này, th ủ trưởng cho em thời gian.
- Thời gian của cậu là trong ngày m ai thôi đấy.
Buổi trư a ngày 25-10, tôi th ấ y Vũ Hùng, Trợ lý bảo vệ, Chu Đ ình
Ú t, Trưởng tiểu ban C hính sách T rung đoàn 66 đến tiểu đoàn. Anh Vũ
H ùng và Chu Đ ình ú t là người quen n ên không rào đón. ú t nói:
- Cái đồng hồ Omega hiện nay là điểm nóng của tru n g đoàn và cả
sư đoàn. Ông ta là cấp to của quân dội Pôn P ốt đã ly khai. M ột người
m à ta đang rấ t cần. Nếu hôm nay an h không tìm được th ì trê n sẽ
“treo giò”, cách chức an h đấy.
Sự việc rồi cũng được giải quyết nhẹ nhàng. Chiếc đồng hồ
Omega cuối cùng cũng tìm ra. Đó là cậu M inh, Đại đội phó Đại đội 5
cất giữ.
Tôi điện cho C hính ủy Sư đoàn là đã tìm th ấ y chiếc đồng hồ
Omega. C hính ủy Ngữ còn hỏi lại: “Có đúng chiếc đồng hồ của ông ấy
không?”. Tôi quả quyết: “Thưa đúng ạ!”.
Giao chiếc đồng hồ cho Chu Đình ú t , tôi điều m ột tổ trin h sát,
m ột tiểu đội bộ binh bảo vệ đưa chiếc đồng hồ về Sở chỉ huy Sư đoàn
ngay tro n g chiều ngày 25-10-1978 an toàn.
Đầu th án g 12-1978, Báo Quân đội nhân dân đăng tin M ặt trậ n
đoàn k ế t dân tộc cứu nước Cam puchia ra đời và đăng ảnh ông H êng
Xom-rin, nguyên ú y viên Ban C hấp h àn h đảng bộ khu Đông, Tư lệnh
Sư đoàn 4 - làm Chủ tịch. Anh em Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 66, Sư
đoàn 10, Quân đoàn 3 chúng tôi n h ận ra ông đều gọi vui là “ông
Om ega”.
Đ ại tá LÊ HẢI TRIỀU

1 Hồi ký của Đại tá Lê Hải Triều —người từng trực tiếp nằm trong đội hình chiến
đâu của Trung đoàn 66, Sư đoàn 10, Quân đoàn 3 chống bè lũ Pôn Pốt ở chiến trường
Campuchia, trong đó tác giả có cuộc gặp đáng nhớ với Chủ tịch Quốc hội đương nhiệm
của Campuchia Hêng Xom-rin (Heng Samrin). (BT).
(Nguồn: Quăn đội nhăn dán)

98
BÀI HỌC XƯƠNG MÁU
TỪ CHẾ ĐỘ DIỆT CHỦNG POL POT - KHMER Đỏ

TRUNG HIẾU

Có th ể nói một điều rằn g phái “K hm er Đỏ” tại Cam puchia (tức
“Đ ảng Cộng sản Cam puchia” của Pol Pot) đã chà đạp lên lòng tố t và
sự chân th à n h của n h ân dân V iệt Nam, quân đội nh ân dân Việt Nam
và Đảng Cộng sản Việt Nam.

Bè lũ Pol Pot tro n g lúc khai th ác sự giúp đỡ của Việt Nam đã lên
k ế hoạch p há hoại và xâm lược Việt Nam. H oạt động gây rối và xâm
lấn m à tập đoàn này thực hiện từ giữa năm 1975 trở đi là có tín h toán
từ trước.

Vì tậ p tru n g vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và chân th àn h


giúp dỡ những người an h em Lào, Cam puchia nên V iệt Nam dã phần
nào b ất ngờ trước sự chuyển hóa tư tưởng và phản bội của Pol P ot có
từ đầu th ập niên 1960 và lộ rõ dần từ giữa năm 1975.

Dã thú mang hộ m ặt nffrfcfi

Được ngoại bang giúp sức, những kẻ “tâm th ầ n ” chính trị như
Pol Pot, leng Sary, Khieu Samphan... đã gây ra thảm kịch núi xương
sông máu ngay tạ i chính đ ất nước Campuchia, d ặ t dân tộc Campuchia
bên bờ diệt vong, và đẩy an ninh bán đảo Đông Dương vào chỗ bị đe
dọa nghiêm trọng.

99
Xương cốt các nạn nhăn ch ế độ d iệ t chủng Pol Pot (ảnh: katrinasblogproject)

Sau khi lên cầm quyền ở Cam puchia vào th á n g 4/1975, K hm er


Đỏ đã phạm các tội ác trờ i không dung đ ấ t không th a, g iết hại dã
m an không chỉ người Cam puchia m à còn cả người nước ngoài ở
Cam puchia và người V iệt Nam sống gần biên giới với nước này. Bọn
chúng đã thi h àn h ch ính sách d iệt chủng đốì với trí thức, người th à n h
thị, người dân tộc th iểu số, và kể cả nhiều đảng viên, công chức và
binh lín h cúa chê độ. Người dan Cam puchia dẽ dàng bị h àn h quyết vl
những lý do r ấ t nhỏ n h ặt. K hm er Đỏ vừa dìm n h â n d ân C am puchia
tro n g bể m áu vừa tiến h àn h th a n h trừ n g nội bộ m ột cách tà n bạo.

Ớ một phương diện nào đó, có th ể th ấ y lực lượng K hm er Đỏ cầm


quyền ở Cam puchia m an rợ hơn cả p h á t xít Đức bởi vì chúng tự hủy
diệt chính dân tộc m ình. Xét về tỷ lệ người bị s á t hại trê n tổ n g sô" dân
của đ ất nước th ì mức độ diệt chủng của K hm er Đỏ cao hơn hẳn. Đã
vậy chúng còn áp dụng các biện pháp h àn h h ìn h tà n bạo thời tru n g
cổ, sử dụng phổ biến các công cụ thô sơ để làm điều này (chẳng hạn,
dùng cuốc xẻng đập n á t sọ n ạn nhân). Trong khi đó, p h á t xít Đức ưa
giết người hàn g loạt bằn g súng và hơi ngạt.

Dưới chính th ể “C am puchia Dân chủ”, người dân Cam puchia


không chỉ ch ết vì bạo lực của K hm er Đỏ m à còn chết vì bị bỏ đói, bị
m ất mùa, bị ép lao động quá sức và p hải dùng thuôc tự chế tro n g dân
gian. Các chính sách của K hm er Đỏ dẫn tới cái chết của khoảng 3
triệu người dân Campuchia, chiếm gần 1/2 dân số nước này khi đó.

M ột diều trớ trêu là, những tê n đồ tể ở vị trí quyền lực cao n h ấ t


như Pol P ot và len g Sary cổ xúy việc giết hại tr í thức tro n g khi chính
chúng cũng là những trí thức có nhiều điều kiện học hành tử tế n h ất
Cam puchia. Những tê n như th ế này không bị đụng chạm đến trong
cuộc “cải tạ o ” xã hội đẫm máu do chúng p h át động.

Hôm 5/1/2014, chính đương kim Chủ tịch Quốc hội Vương quốc
C am puchia H eng Sam rin đã k h ẳn g định: “C hế độ diệt chủng Pol Pot
là ch ế độ tà n bạo chưa từng có trê n th ế giới. Dưới sự cầm quyền của
chê độ vô cùng dã m an này, nh ân dân Cam puchia đã phải hứng chịu
muôn vàn thông khổ, không khác gì súc vật, bị cấm đoán quyền tự do,
bị tà n s á t hàn g loạt. Chúng đem chính n h ân dân m ình ra làm th í
nghiệm để thực hiện học thuyết chính trị đen tối của chúng”.

Với “đồng bào” của m ình m à K hm er Đỏ còn đôi xử như vậy nên
chuyện vong ơn bội nghĩa đối với những người bạn nước ngoài là hoàn
toàn dễ hiểu. Tập đoàn Pol Pot đã thay đổi th ái độ, từ chỗ coi Việt
N am là người bạn số 1 sang coi V iệt Nam là kẻ thù sô 1.

V iệt N am không tiếc của cải, phương tiện và xương m áu giúp


K hm er Đỏ giải phóng Phnom Penh, giải phóng Cam puchia khỏi chế
độ ngụy của Mỹ. Nhưng ngay sau th ắ n g lợi này, chúng đã lập tức phản
bội, quay súng bán th ản g vao các đồng chí Việt Nam thúy chung, th â n
th iế t từng s á t cánh với chúng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc trê n
cõi Đông Dương.

K hm er Đỏ dã xua quân đánh chiếm đảo Phú Quốc vào ngày


3/5/1975, đảo Thể Chu ngày 10/5/1975, xâm phạm nhiều vùng lãnh
th ổ nước ta dọc biên giới từ H à Tiên đến Tây N inh. Sang năm 1977,
tậ p đoàn Pol Pot bên trong th ì đẩy m ạnh th a n h trừng nội bộ, bên
ngoài th ì hô hào kích động h ằn th ù dân tộc với V iệt Nam, tă n g cường
lấn chiếm lã n h thổ nước ta. Cuối năm 1978 chúng liều lĩnh huy động
tới 23 sư đoàn tấ n công đại quy mô vào Việt Nam.

B ả n c h ấ t đ ạo đứ c giả, cá c h m ạ n g giả

T hoạt tiê n người ta rấ t ngạc nh iên về việc “Đ ảng Cộng sản


C am puchia” lại có th ể phạm các tội ác tày trờ i với nh ân dân họ và

101
p h á t động chiến tra n h xâm lược V iệt Nam . N hưng n h ìn kỹ vào nhữ ng
diễn biến tro n g nội bộ phong trà o cách m ạn g C am puchia th ì chúng ta
sẽ th ấy logic của tìn h h ìn h này.

Đ ảng nói trê n th à n h lập vào n ăm 1951 (p h á t x u ất từ đảng N h â n


dân Cách m ạng K hm er) nhưng từ những năm 1960 đã b ắt đầu biến
chất ở h àn g ngũ cao n h ất, khi các đ ản g viên cộng sả n thuộc “nhóm
P a ris” từ P háp trở về và bằng n hiều th ủ đoạn, chiếm ưu th ế tro n g
Đ ảng Cộng sản Cam puchia, vượt qua đội ngũ đ ản g viên tru n g k iên s á t
thực t ế đã chịu nhiều tổn th ấ t tro n g cuộc đối dầu với thực dân P h áp
và đ ế quốc Mỹ.

Phái P aris này chịu ả n h hưởng của tư duy siêu hình, th o á t ly


khỏi chủ nghĩa quốc tế, không th ấ y được tầm quan trọ n g t ấ t yếu của
sự đoàn k ế t giữa 3 nước Đông Dương tro n g cuộc đấu tra n h chung vì
độc lập dân tộc của mỗi nước.

Chúng lộ rõ chân tướng từ giữa năm 1975 — thờ i điểm chúng lên
cầm quyền, th iế t lập chính th ể “C am puchia D ân chủ” và b ắ t dầu th i
h àn h chính sách d iệt chủng tro n g nước.

K hm er Đỏ đã cho “tá i cơ cấu” to à n bộ xã hội C am puchia theo


hướng sản xuất nông nghiệp tự túc và không còn giai cấp. C húng đã di
dân khỏi dô th ị, b ắt họ tậ p tru n g vào làm nông nghiệp. C húng xóa bỏ
mọi th ể ch ế xã hội, phá hủy chợ búa, hệ th ố n g n g ân h àn g và tiề n tệ,
các bệnh viện, trường học, đặng tiế n ngay lên chủ Iiglũa cộng aản
không cần qua các bước “tru n g g ian ” m à chúng cho là chậm chạp.

Từ năm 1963, Khieu S am phan và Hou Youn (đều là trí thức và là


lãn h đạo cao cấp sau này của K hm er Đỏ) đã n h ấ t tr í rằ n g xã hội mới
phải “trở về với th iên n h iên ” th u ần k h iết, phải dựa trê n giai cấp nông
dân còn các giai cấp khác phải bị xóa sạch.

Như vậy ngay từ đầu các lã n h đạo n ày đ ã k h ông đứng vững trê n
lập trường của giai cấp vô sản. v ề thực chất, từ những năm 1963-1964
Đảng Cộng sản Cam puchia đã đoạn tu y ệt với chủ ng h ĩa M arx.

Bọn họ cũng th ể h iện tư tưởng dân tộc cực đoan qua việc n h ấ n
m ạnh đến sự vượt trội của người K hm er so với các tộc người khác. Từ
r ấ t sớm, Pol P ot (Tổng Bí th ư Đ ảng C ộng s ả n C am puchia khi đó) đã
nuôi th am vọng khôi phục lại đ ế ch ế K hm er xưa.

102
N hằm lợi dụng uy tín của phong trào cộng sản để giành bá quyền
lãnh đạo phong trà o giải phóng dân tộc ở Campuchia, tập đoàn Pol
Pot th ậ m chí còn chủ động đổi tên đảng N hân dân Cách m ạng K hm er
(tách ra từ Đ ảng Cộng sả n Đông Dương) th à n h Đ ảng Cộng sản
Campuchia.

Có th ể nói, phong trà o của Pol Pot là một dạng chủ nghĩa dân tộc
cực đoan p h ản động. Nó khoác vỏ bọc cộng sản để tậ n diệt những
người cộng sản chân chính, tích cực sử dụng ngôn ngữ cách m ạng để
phá hoại cách m ạng m ột cách không thương tiếc.

N hững diễn biến n ày không có gì lạ. Chủ nghĩa p h á t xít Đức k hét
tiến g chống cộng và chống lại loài người cũng lấy danh là chủ nghĩa
Quốc gia Xã hội chủ nghĩa (gọi t ắ t là Quốc xã).

M ột số lực lượng th ù địch với chủ nghĩa xã hội nói chung và nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa V iệt Nam nói riêng cô' tìn h đồng nhất
K hm er Đỏ với những người cộng sả n nói chung. Trước luận diệu này,
cần p h ải p h ân b iệt rõ giữa đảng cộng sản chân chính và đảng cộng
sản giả hiệu, lừa bịp giông như đảng của tập đoàn Pol Pot.

T rên thực tế, đến năm 1981 nhóm K hm er Đỏ đã chính thức tuyên
bố từ bỏ chủ nghĩa cộng sản và tự đổi tên từ Đ ảng Cộng sản
C am puchia th à n h Đ ảng C am puchia Dân chủ! Lúc này, hìn h thức tên
gọi đã k hông còn p h ản á n h sai lệch nội dung nhiều nữa.

V ai trò c ủ a V iệ t N am

Trước các khiêu khích của quân K hm er Đỏ ở vùng biên giới từ


năm 1975 trở đi, V iệt N am đã rấ t kiềm chế và tỏ rõ tin h th ầ n thiện
chí, hợp tác hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc. Nhưng bản chất của
bè lũ K hm er Đỏ là không th a y đổi. Đáp lại lời kêu cứu của n h ân dân
C am puchia và lời kêu gọi của M ặt trậ n Đoàn k ết Cứu quốc Campuchia,
V iệt N am đã không chỉ đ án h ta n bọn xâm lược m à còn đưa quân giúp
nh ân d ân C am puchia lậ t đổ ách th ố n g trị bạo tà n của K hm er Đỏ vào
ngày 7/1/1979. H àn h động của V iệt Nam xuất p h át từ nhu cầu tự vệ
chính đáng, trá c h n h iệm quốc t ế cũng như lương tâm của m ột dân tộc
từng chịu nhiều áp bức và ngoại xâm .

“Chỉ có đ ất nước V iệt N am , dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt N am , đã tự nguyện đưa con cháu và những người th ân yêu của

103
m ình đến giúp giải phóng và cứu tín h m ạng của người d ân C am puchia
tro n g lúc vô cùng nguy n an và k h ẩ n cầu các nước đến cứu giúp”, Chủ
tịch Quốc hội Cam puchia H eng S am rin nói tạ i lễ kỷ niệm sự kiện này
vào hôm 5/1/2014. “Sự giúp đỡ bằng xương m áu của quân tìn h nguyện
V iệt Nam là sự giúp đỡ nh ân đạo và đúng đắn n h ất. Sự hỗ trợ này lẽ
ra phải là n g hĩa vụ chính yếu của cộng đồng quốc t ế tro n g việc cứu
giúp m ột dân tộc đang tro n g hoạn n ạn bởi chính sách d iệt chủng có tổ
chức chính quy từ trê n xuống dưới của chế độ Pol P o t”.

Trong khi đó, Thủ tướng Cam puchia Hun Sen vào ngày
27/12/2013 có nói: “Quân dân Cam puchia nếu không có sự giúp đỡ của
quân tìn h nguyện V iệt Nam th ì không th ể giải phóng n h a n h đến thế.
Nếu Cam puchia tự giải phóng th ì dân Cam puchia chết h ế t rồ i”.

X uất hiện kịp thời và với động cơ tro n g sáng, quân tìn h nguyện
V iệt Nam đã được n h ân dân Cam puchia gọi là đội quân n h à P hật.
N hìn n h ân dân Cam puchia bịn rịn tiễ n đưa bộ đội tìn h nguyện V iệt
Nam về nước mới th ấy tìn h cảm quý m ến của họ dành cho quân đội
V iệt Nam lớn nhường nào.

Nếu Việt N am ích kỷ th ì họ chỉ cần đán h b ật quân K hm er Đỏ


ngược trở lại lãn h th ổ Cam puchia, đóng ch ặt biên giới, không cho
người tị n ạn chạy sang, để m ặc cho “n h à h àn g xóm” tà n lụi vì hỏa
hoạn. Thực t ế vào năm 1979, kin h t ế V iệt Nam gặp m uôn vàn khó
khăn còn các th ế lực quốc tế đang nhăm nhe kiếm cớ phá hoại và can
th iệp vào V iệt Nam. X ét từ góc độ lợi ích th u ần túy th ì m ột cuộc chiến
kéo dài với nước khác tại thời điểm ấy là b ất lợi cho V iệt Nam.

T h ế nhưng lương tâm dân tộc Việt Nam không cho phép khoanh
tay ngồi n h ìn ch ế độ K hm er Đỏ diệt sạch n h â n dân và n ền văn hóa
Campuchia.

Việc Việt Nam đóng quân m ột thời gian dài sau đó tạ i Cam puchia
cũng là cần th iế t n hằm ngăn chặn ch ế độ K hm er Đỏ khôi phục trở lại
và để giúp đỡ Cam puchia hồi sinh sau khi tậ p đoàn Pol Pot đã phá
hủy gần như tấ t cả.

V iệt Nam đã chấp nhận rủi ro bị hiểu lầm và th iệ t thòi về mọi


m ặt khi đưa quân đồn trú vào Campuchia. Nếu như lúc đó V iệt Nam
tín h to án th iệ t hơn và lo trá n h “điều tiếng” th ì chắc chắn không có sự
cứu giúp này. Nói như đương kim Thủ tướng C hính phủ Hoàng gia

104
Cam puchia, vì giúp đỡ Cam puchia m à V iệt Nam đã phải hy sinh nhiều
binh sĩ tìn h nguyện, bị cô lập về ngoại giao, và bị trừ ng p h ạt về kinh
tế. Và do đó, Thủ tướng Hun Sen cũng nói, những kẻ nào không chịu
thừa n h ận vai trò của chiến th ắn g 7/1/1979 đôi với Cam puchia th ì đều
không xứng đán g làm người.

Khi các tê n đồ tể của ch ế độ diệt chủng bị xét xử tro n g các phiên


tòa quốc t ế do Liên Hợp Quốc bảo trợ, người ta càng thấy rõ tín h đúng
đắn của việc V iệt Nam tác động kịp thời vào tìn h hình Campuchia.

Tỉnh cảm quyến luyến giữa bộ đội Việt Nam và nhăn dân Campuchia
(Ánh: vnmilitaryhistory).

Sự vô tư tro n g sáng của V iệt Nam đã được n h à báo nổi tiếng


người A ustralia, W ilfred B urchett, ghi nhận. Trong cuốn sách của
m ình, n h à báo n ày đã viết rằ n g quân tìn h nguyện V iệt Nam tuyệt
n h iên không có tư tưởng “nước lớn”, rấ t nhạy cảm và tôn trọng tâm lý
của các dân tộc Lào và Campuchia.

105
Sau này, Thủ tướng H un Sen khi nói về thời kỳ sau giải phóng đã
k h ẳ n g đ ịnh rằ n g , C am puchia đi theo con đường p h á t triể n k in h t ế
khác với V iệt N am , h ai nước có đàm p h á n và tra o đổi ý kiến “nhưng
quyền quyết địn h thuộc về C am puchia. V iệt N am tô n trọng độc lập
chủ quyền, tô n trọ n g quyết địn h của C am puchia”.

Sự dung dưỡng kỳ lạ
H itle r trở th à n h tê n đồ tể k h é t tiến g m ột p h ần là vì đã được
nhiều t h ế lực tiếp tay. T ại nước Đức, H itle r trở th à n h quốc trư ở ng sau
khi được giới tư bản nước này b ậ t đèn xanh. Sau đó y xâm chiếm được
m ột lo ạt nước châu Âu vì n h ậ n được sự th ỏ a h iệp của các nước phương
T ây muôn nước Đức Quốc xã n h a n h chóng đưa quân đ án h L iên Xô.

T ìn h h ìn h ở C am puchia có m ột sô' n é t tương đồng. Tập đoàn Pol


P ot đã p hạm n h ữ n g tội ác tà y đìn h tro n g suốt 4 năm cầm quyền
(1975-1979) như ng n h iều quôc gia tr ê n t h ế giới v ẫn công n h ậ n chúng,
dửng dưng trước các tội ác đó và th ậ m chí còn ra sức hậu th u ẫ n cho
K hm er Đỏ k ể cả sau khi chúng đã bị lậ t đổ.

C h ín h vì có b àn ta y “bảo k ê” n ên dù d ân sô" C am puchia n ă m 1978


chỉ có k h o ản g 7 triệ u người so với k h o ản g 50 triệ u dân của V iệt Nam ,
K hm er Đỏ v ẫn liều lĩn h dốc gần to à n lực để đ á n h san g lã n h th ổ V iệt
N am - m ột đ ấ t nước giàu k in h nghiệm tr ậ n m ạc. Giới nghiên cứu quốc
t ế cũng ghi n h ậ n có n h iều “cố v ấ n ” nước ngoài h iện diện tro n g quân
dội K hm er Đỏ thời kỳ xảy ra chiến tra n h biên giứi Tây Nam.

Chủ tịch Quốc hội C am puchia H eng S am rin n h ậ n xét: “Trong khi
n h â n d ân C am puchia đ an g p hải hứng chịu bao đau khổ th ì có nhiều
nước trê n th ế giới tự cho m ình là người bảo vệ công lý, tôn trọ n g n h ân
quyền và quyền tự do bày tỏ ch ín h kiến nhưng họ đã không đoái hoài,
không đ ến giúp giải p h óng n h â n dân C am puchia chúng tôi th o á t khỏi
ch ế độ dã m an n ày ”.

Kỳ lạ hơn, chiếc g h ế của “C am puchia D ân chủ” tro n g Liên Hợp


Quốc v ẫn được giữ sau kh i K hm er Đỏ đã ph ạm nh iều tội ác và bị lậ t
đổ. N hiều nước tiếp tục coi ch ín h th ể C am puchia D ân chủ là đại diện
duy n h ấ t của C am puchia. Và đến tậ n nhữ ng n ăm g ần đây, việc xét xử
các trù m d iệt chủng K h m er Đỏ v ẫn diễn ra và gặp khó k h ăn do sự cản
trở của các th ế lực từng đứng đằng sau h à hơi tiếp sức cho c h ế độ giết

10Ó
người này. M ột số th ủ lĩnh h à n g đầu của K hm er Đỏ đa qua đời trước
khi bị đưa ra á n h sán g công lý.

Phó Thủ tướng, Ngoại trưởng Chính p h ủ Khmer Đỗ, leng Sary (giữa) -
“A nh 3" của chế độ này, tại 1 p hiên xét xử của Tòa án đặc biệt Quốc tế
về tội ác Khmer Đỏ à Campuchia (ECCC) tại Phnom Penh năm 2008 (ảnh: Reuters)

Sau năm 1979, lực lượng K hm er Đỏ “sống dai” ở vùng biên giới
phía Tây của C am puchia và tiếp tục chông phá ch ế độ dân chủ mới
t h à n h lậ p ở n ư ớ c n à y . N h ằ m p h á h o ạ i c á c h m ạ n g V i ệ t N a m v à c á c h
m ạng Đông Dương, m ột số quốc gia châu Á và phương Tây đã gia tăn g
viện trợ ngầm cho tà n quân K hm er Đỏ.

Phong trà o K hm er Đỏ ban dầu m ang yếu tô" nội sinh nhưng dã bị
các th ế lực ngoại quốc th ù dịch với 3 nước Đông Dương lợi dụng triệ t
để nên mới có th ể p h á t triể n và tác oai tác quái đến như vậy.

Có m ột sự th ậ t là, trước việc V iệt N am th ô n g n h ấ t vào năm 1975,


m ột số cường quốc lấy làm không vui và m uôn chia rẽ Đông Dương,
biến Lào và C am puchia trở th à n h đôi trọ n g của V iệt N am và gây
“chảy m áu” cho V iệt Nam.

B à i h ọ c lịc h sử

Chủ nghĩa sô vanh các loại (nước lớn, hẹp hòi...) luôn là môi đe
dọa đến hòa bình th ê giới và các giá trị con người.

107
M ột sô" nước lớn sẵ n sàn g vì lợi ích ích kỷ m à can th iệp vào công
việc nội bộ của nước k hác và “nhắm m ắt làm ngơ” trước các tội ác
chống lại n h â n loại.

T rong quan hệ quốc tế, K hm er Đỏ suy cho cùng cũng chỉ là m ột


con rối tro n g tay các th ế lực chống lưng nó. Đến khi không còn “p h á t
huy tác dụng”, tổ chức n ày đã bị các nước dung dưỡng nó bỏ rơi m ột
cách k hông thư ơng tiếc và ta n rã dần.

Đôl với phong trà o cộng sản, công tác xây dựng đảng rõ rà n g râ't
quan trọ n g để n g ăn ch ặn những biến th ái như đã từng xảy ra với
phong trà o cách m ạng Cam puchia.

Thử th á c h K hm er Đỏ đã m ột lần nữa n h ấn m ạn h tầm quan trọ n g


của môi quan hệ ră n g - môi giữa 3 nước Đông Dương. Liên m inh chiến
đấu tìn h nguyện, tương trợ giữa 3 nước h ìn h th à n h m ột cách tự nh iên
từ vị trí địa ch ính t r ị của các nước này và cuộc đấu tra n h chung của họ
chông thực d ân P h áp và can th iệp Mỹ. T h ế chân vạc hiệu quả của 3
nước đã và đan g là mục tiêu chống phá của các th ế lực thù địch.

H iện nay, m ột sô' lã n h đạo Đ ảng Cứu quốc Cam puchia, đứng đầu
là Sam R ainsy, ra rả nói xấu V iệt N am và tìn h hữu nghị giữa 2 nước,
r a sức kích động h ằn th ù d ân tộc giữa 2 bên và có biểu hiện di lại vào
v ết xe đổ của c h ế độ Pol P o t năm xưa.

N hưng n h â n dân C am puchia chắc chắn sẽ tỉn h táo đi theo con


đường đúng đ ắn, k iên tr ì xây dựng đ ất nước mới, và tă n g cường đoàn
k ế t với các nước lán g giềng, trá n h cạm bẫy chia rẽ th â m độc của các
t h ế lực th ù địch./.

TRUNG HIẾƯ/VOV o n lin e


(Nguồn: VOV.VN)

108
NHỮNG BỨC ẢNH Tố CÁO TỘI Ác MAN RỢ
CỦA PÔN PỐT

Với sự giúp đỡ to lớn, kịp thời, hiệu quả của Quân tìn h nguyện
V iệt Nam, M ặt trậ n Đoàn k ết dân tộc cứu nước Cam puchia đã lậ t đổ
chế độ d iệt chủng Pôn Pốt.

Lực lượng quân đội tinh nguyện Việt N am phản kích quán Pôn Pốt. (Anh: TTXVN).

109
Chị Dương Thị N iẽn (Tây N inh, Việt Nam) đau xót nhìn nhà cửa, tài sản
bị Kho-me Đỏ sang đốt phá, cướp bóc (1978). (Ảnh: L è Cương / TTXVN).

Người dăn Campuchia chạy sang lánh nạn trẽn vùng biên giới Tăy-Nam
của Việt N am đ ể tránh bị Kha-me Đỏ hành quyết. (Ảnh: TTXVN).

110
N hững hố chôn người tập th ể được khai quật ở Campuchia sau ngày 7/1/1979.
(Ảnh: TTXVN).

vẹ- / .
-,i£ £ i > ._ ^

'- Ĩ M & ' -r


: ■55' .V v -.
Ếmm
m .

GổVỉ 3 ír/ệu người Campuchia dã bị giết hại một cách man rợ


dưới chế độ cai trị của Pôn Pốt. (Ảnh: TTXVN).

111
Lực lượng vũ trang Cách mạngM2ampuchia tiến vào Hoàng cung
giải phóng Phnom Penh. (Ảnh: TTXVN).

Lực lượng Quăn đội tinh nguyện Việt N am liẽn tiếp làm nên những chiến thắng:
Giải phóng Kro chê, X tung Treng, Bát tam boong, Xiêm Riệp,
hải cảng Công pông Xom... ở Campuchia. (Ánh: TTXVN).

112
Người dân Campuchia bị đày đọa trong chế độ diệt chủng Pôn Pốt.
Hàng triệu người Campuchia đã bị giết trong những năm cầm quyền
của Kha-me Đỏ tại nước này. (Ảnh: TTXVN).

Chứng tích tội ác dã man của Khơ-me Đỏ ớ xã Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tinh An Giang.
T ừ 18 đến 301411978, 3.157 dân thường Việt N am ở xã này
đã bị chúng giết hại dã man bàng cách: Bắn, chém và chặt đầu. (Anh: TTXVN).

113
Người dăn Campuchia gặp gã Quăn tình nguyện Việt Nam
sau kh i thoát khỏi chế độ diệt chủng Pôn Pốt. (Ảnh: TTXVN).

Hàng trăm binh sĩ Khơ-me Đỏ bị quăn ta bắt kh i chúng xăm lấn biên giới Việt N am
ở 2 huyện Bảy N úi và Tịnh Biên, tinh An Giang (191111978). (Ảnh: TTXVN).

114
Phẩn V
VUN ĐẮP TÌNH HỮU NGHỊ VÀ H ộ p TÁC
VIỆT NAM - CAMPUCHIA LÊN TẦM CAO MỚI

Sự GIÚP ĐỠ CHÍ TÌNH, CHÍ NGHĨA


CỦA QUÂN TÌNH NGUYỆN VIỆT NAM
ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG CAMPUCHIA

Nguyên Tổng Bí thư LÊ KHẢ PHIÊU

V iệt Nam và Cam puchia là hai nước láng giềng, có mối quan hệ
đoàn kết, hữu nghị truyền thông lâu đời. Trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân P háp và đ ế quốc Mỹ xâm lược, theo đề nghị của Bạn,
C hính phủ V iệt Nam đã cử Bộ đội tìn h nguyện hai lần sang làm
nhiệm vụ quốc tế, sát cánh cùng nh ân dân và quân đội Cam puchia
chiến đấu chống kẻ thù chung, giành độc lập dân tộc. Lần th ứ ba,
Quân tìn h nguyện V iệt Nam làm nhiệm vụ quốc tế ở Cam puchia trong
b ôi c ả n h h o à n to à n k h á c- K h ô n g p h ả i rh ip n đấu c h ố n g q u â n x â m lược
m à giúp nh ân dân nước Bạn th o át khỏi họa d iệt chủng, thực hiện hồi
sin h d ân tộc. Với phương châm “giúp bạn là tự giúp m ình”, cán bộ,
chiến sĩ Q uân tìn h nguyện V iệt N am đã không quản ngại gian khổ, hy
sinh, dũng cảm chiến đấu đánh đổ tập đoàn Pôn P ốt - Iêng-Xary
m ang d an h cách m ạng, đưa dân tộc Cam puchia đi lên từ “cánh đồng
ch ết”. C ần th ấ y rằng, Quân tìn h nguyện V iệt Nam sang cứu giúp nhân
dân Cam puchia trong bối cảnh là chính đ ất nước m ình vừa trả i qua 30
năm chiến tra n h tà n khốc, kinh tê chưa kịp khôi phục, đời sông nhân
dân còn nhiều khó khăn, hậu phương, gia đình của cán bộ, chiến sĩ
chưa ổn định. Điều đó đã th ể hiện nghĩa cử cao đẹp, chí tình, chí
nghĩa, h ế t lòng vì B ạn, toàn tâm , toàn ý giúp Bạn của “Bộ đội Cụ Hồ”
tron g điều kiện mới.

115
Đài Tưởng niệm Quân tình nguyện Việt N am tại Campuchia. (Ánh: Chinhphu.vn).

Chúng ta đều biết, sau khi giành được độc lập năm 1975, với chủ
nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan, tập đoàn Pôn Pốt — Iêng-X ary đã thi
h à n h chính sách d iệt chủng, th a n h trừ ng nội bộ, g iết hại h à n g triệu
116
người dân vô tội của dân tộc m ình. Đồng thời, chúng đã p h á t động
cuộc chiến tra n h xâm lược biên giới Tây-Nam nước ta, gây những tội
ác dã m an khủng khiếp đôi với nh ân dân ta. Vì sao Pôn Pốt - người
m ột thời cùng chiến hào với nhân dân và Quân đội nhân dân Việt
N am chống kẻ thù xâm lược, th ậm chí đã được quân, dân Việt Nam
đùm bọc, chở che trong những hoàn cảnh khó khăn, ác liệt - lại dã
tâm xâm lược V iệt Nam? Làm rõ vấn đề này sẽ thấy được bản chất
thực của m ột kẻ “vong ân bội nghĩa”, “dân tộc hẹp hòi”, đột lốt cách
m ạng để thực h iện những hàn h động phản cách m ạng, phản bội lại
bạn bè và hủy d iệt chính dân tộc m ình. Việc Pôn P ốt xua quân tiến
công V iệt Nam chẳng qua là hàn h động mượn cớ để đẩy m ạnh th an h
trừ n g nội bộ, th a n h lọc n h ân dân, diệt sạch những người yêu nước, yêu
lý tưởng hòa bình, độc lập, trung lập, không liên kết, yêu kính đạo
P h ậ t và phẩm h ạ n h P h ậ t giáo, dể chúng dễ bề xây dựng cái gọi là “xã
hội cộng sả n ” theo kiểu “Khơ-me Đỏ”. Pôn Pôt cho rằng: Tiến công
V iệt N am là chiến lược lâu dài, có tín h chất “gặm n h ấm ”, “ta (Pôn
Pốt) không đán h nó (Việt Nam) trước thì sẽ không th ắn g ”; “Chỉ cần
mỗi ngày d iệt vài chục, mỗi th á n g diệt vài ngàn, mỗi năm diệt một
vài ba vạn th ì có th ể đánh 10 - 15 - 20 năm . Thực hiện 1 diệt 30, hy
sinh 2 triệu người Cam puchia để tiêu diệt 60 triệu người Việt N am ”.
Ngạo m ạn hơn, theo báo Le Monde (Pháp), ngày 08-01-1978, Pôn P ốt
tuyên bố trê n Đài P h á t th a n h Phnôm Pênh: “Trong đời tôi, tôi hy
vọng giải phóng Sài Gòn”. Với tư tưởng đó, Pôn Pốt đã ra lệnh mở
OI1ỘÍ* t ấ n r ô n g t r ô n t o à n tu y ổ n b ic n g iớ i T â y N a m ; g i ế t n gư ờ i, đốL p liá
trường học, bệnh viện, cơ sở y tế, n h à thờ, chùa chiền, cướp, giết trâu,
bò,... gây bao đau thương, ta n g tóc cho nh ân dân Việt Nam. H ành động
của chúng rõ rà n g là phi nghĩa, không gì có th ể biện m inh được.
Nhưng xuất p h á t từ truyền thống đoàn kết, hữu nghị giữa hai dân tộc,
Đảng, N h à nước ta đã kiên trì tìm cách cứu vãn hòa bình, nhiều lần
đề nghị đàm phán, thương lượng để giải quyết những bất đồng. Song,
tập đoàn Pôn P ốt - Iêng-Xary đã cự tuyệt mọi th iện chí của chúng ta,
đẩy m ạnh lấn chiếm biên giới, tà n s á t đồng bào, công khai thực hiện
chính sách thù h ận đối với V iệt Nam, buộc ta phải chiến đấu đánh
đuổi quân xâm lược.

Về phía n h ân dân Campuchia, những người cách m ạng chân


chính không cam chịu để đất nước và dân tộc đi đến chỗ diệt vong.
Được sự giúp đỡ của ta, Bạn đã tập hợp lại lực lượng, xây dựng các đơn
vị chiến đấu, th àn h lập M ặt trậ n Đoàn k ết dân tộc cứu nước
Cam puchia; kêu gọi n h ân dân đứng lên lậ t đổ ch ế độ Pôn P ôt và yêu
cầu Việt Nam giúp đỡ để giải phóng n h ân d ân C am puchia th o á t khỏi
họa d iệt chủng. Dưới chế độ này, người d ân C am puchia như sông
tro n g m ột trạ i khổ sai khổng lồ; con người không được nói, không
được vui, không được buồn, không được khóc, không được suy nghĩ, chỉ
b iết cúi đầu tu â n lệnh, lao động khổ sai và chờ gọi tê n m ình dưa đi
h àn h quyết. Bởi vậy, khi Quân tìn h nguyện V iệt N am vào giúp nh ân
dân Cam puchia th o át khỏi ch ế độ diệt chủng, đã được người d ân đón
tiếp bằng sự vui m ừng không k ể xiết; cho đó là m ột sự kỳ diệu, người
đã dưa họ từ cõi ch ết trở về. Việc Quân tìn h nguyện V iệt N am giúp
n h ân d ân Cam puchia đánh dể tậ p đoàn Pôn P ôt — Iêng-X ary không
phải như những lời tuyên truyền, vu cáo của các th ế lực th ù địch, m à
xuất p h á t từ tìn h đoàn kết, hữu nghị gắn bó lâu đời giữa hai nước cùng
chông kẻ th ù chung và ch ế ngự th iên nhiên; từ th iệ n chí và sự đồng
cảm của m ột d ân tộc yêu chuộng hòa bình, từ ng chịu bao th ả m cảnh
đau thương của chiến tra n h và m ột tin h th ầ n quốc t ế vô sản cao cả;
m ột chân lý “giúp bạn là tự giúp m ình”, bảo vệ bạn là tự bảo vệ m ình
theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí M inh vĩ đại. Đồng thời, việc làm đó
cũng là th ể theo tiến g gọi khẩn th iế t của n h â n d ân C am puchia, của
M ặt trậ n Đoàn k ết dân tộc cứu nước Cam puchia, kêu gọi cứu nguy của
m ột dân tộc đang rơi vào th ảm cảnh tộ t cùng của sự th a hóa, cần sự
giúp đỡ quốc tế, tro n g đó có người bạn láng giềng tru y ền th ố n g V iệt
Nam. Đây là m ột h à n h động h ế t sức cao cả và ho àn to à n chính nghĩa.
Thực hiện sứ m ệnh bảo vệ Tổ quốc t.hiêng liêng, Q uân đội n h â n dân
V iệt N am đã mở cuộc phản công chiến lược đập ta n cuộc tiế n công
xâm lược V iệt Nam của bè lũ Pôn Pốt; sau đó, cử Q uân tìn h nguyện
sang phối hợp cùng với quân và dân C am puchia đ á n h ta n lực lượng
quân sự Pôn Pốt, xóa bỏ chê độ diệt chủng. T rên m ột đ ấ t nước còn đầy
đau thương, ta n g tóc, bộ đội ta đã cùng với các lực lượng của B ạn ngày
đêm tru y kích, tiêu d iệt tà n quân Pôn Pốt; cứu giúp hàn g chục vạn
người còn bị kìm kẹp, đầy đọa tro n g các han g ổ của chúng ở biên giới,
vùng rừng núi,... trở về quê đoàn tụ gia đình, phục hồi cuộc sông bình
thường. Các đơn vị Quân tìn h nguyện V iệt Nam phôi hợp chặt chẽ với
Bạn phá ta n âm mưu, h à n h động quay trở lại ch ế độ d iệt chủng; xây
dựng chính quyền n h ân dân từ cơ sở, khôi phục sả n xuất, làm lại n h à
cửa, trường học, chùa chiền,... Lợi dụng Quân tìn h nguyện V iệt N am ở
lại giúp Bạn thực h iện cuộc hồi sinh dân tộc, xây dựng lực lượng đủ
sức tự bảo vệ m ình, kẻ địch ra sức kích dộng vấn đề d ân tộc cực đoan,

118
khơi dậy tâm lý hẹp hòi, vu cáo V iệt Nam xâm lược để lôi kéo nhân
dân Cam puchia chông lạ i Bộ đội V iệt Nam. Trước tìn h hình đó, các
đơn vị Quân tìn h nguyện V iệt Nam đã cùng Bộ đội Cam puchia đến
từng xã, ấp vừa đ án h địch, vừa làm công tác vận động quần chúng,
vạch trầ n luận điệu xuyên tạc, giúp n h ân dân nước B ạn ổn định cuộc
sông, xây dựng chính quyền vững m ạnh. Dưới sự giúp đỡ của Quân
tìn h nguyện V iệt Nam, nh ân dân Cam puchia đã dấy lên m ột cao trào
quần chúng rộng rãi đứng lên tự giải phóng m ình; thực hiện hồi sinh
từng người, từng gia đình, từng thôn, ấp và hồi sinh toàn dân tộc.

Để giúp n h â n dân C am puchia vượt qua khó khăn, xây dựng cuộc
sông mới, Quân tìn h nguyện V iệt Nam đã làm tố t chức năng đội quân
chiến đấu, đội quân công tác, hòa m ình, gắn bó với nh ân dân, giúp đỡ
dân, bảo vệ d ân và cũng được n h ân dân Cam puchia tin cậy, ủng hộ.
Mặc dù cuộc sống còn nhiều khó khăn, tâm trạ n g chung của cán bộ,
chiến sĩ ta là sau khi giúp B ạn đánh đổ chế độ diệt chủng, sớm được
trở về Tổ quốc, nhưng trước yêu cầu của n h ân dân Campuchia, Quân
tìn h nguyện V iệt N am dã xác định đúng đắn nhiệm vụ, yên tâm ở lại
giúp B ạn truy quét tà n quân Pôn Pôt, củng cố, xây dựng lực lượng, giữ
gìn an n in h chính trị, t r ậ t tự, an toàn xã hội trê n địa bàn cả nước.
Đồng thời cũng xác định rõ, việc đánh ta n tập đoàn Pôn P ốt — Iêng-
Xary, cứu n h ân d ân Cam puchia th o át khỏi họa diệt chủng và hồi sinh
cho đ ấ t nước C hùa T háp tươi đẹp là hai nhiệm vụ cấp bách như nhau.
Từ đó, đề cao tin h th ầ n trá c h nhiệm , lòng dũng cảm, không quản ngại
gian khố, hy sinh, vừa chiến đấu, vừa khôi phục cuộc sông của nhân
dân, chia sẻ với n h ân dân từ những việc làm nhỏ nhất. C án bộ, chiến
sĩ Q uân tìn h nguyện V iệt N am đã p h á t huy tố t phẩm chất cao đẹp của
“Bộ đội Cụ Hồ” trê n đ ấ t Bạn; đồng cam cộng khổ với nhân dân nước
Bạn như đối với người th â n của m ình. Được sự hỗ trợ của Quân tìn h
nguyện V iệt Nam, n h ân dân Cam puchia đã đứng lên thực hiện quyền
làm chủ của m ình; bầu Quốc hội, chính quyền các cấp, cử ra người
lãn h đạo đ ất nước. Các đoàn th ể quần chúng, như: Đoàn T hanh niên,
Đội Thiếu niên, Hội Phụ nữ, Công đoàn, các tổ đoàn k ết sản xuất được
th à n h lập. Lực lượng vũ tra n g Cam puchia được xây dựng, ngày càng
p h át triển : Bao gồm 3 th ứ quân; có hệ thông lãnh đạo, chỉ huy tập
trung, th ô n g n h ấ t từ tru n g ương đến cơ sở; có đội ngũ cán bộ được rèn
luyện, th ử th ách qua chiến đấu, công tác. Đây chính là cơ sở chính trị,
lực lượng chính tr ị vững m ạnh của m ột nước Cam puchia mới đang hồi
sinh. Việc lãn h đạo, điều h àn h của chính quyền non trẻ ở Cam puchia
119
được thực h iện th ô n g suốt, từng bước vững chắc, bảo đảm mọi quyền
lợi thuộc về n h ân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đ ảng N h ân dân
Cam puchia, đ ất nước Cam puchia từng ngày “th a y da, đổi th ịt”: K inh
tế, qucíc phòng, an n in h không ngừng được p h á t triể n ; đời sông văn
hóa - xã hội được cải th iện; hệ th ố n g chính trị được củng cố; vị th ế của
Cam puchia trê n trường quô’c t ế ngày càng được k h ẳ n g định; mối quan
hệ với các nước láng giềng ngày thêm gắn bó; lực lượng vũ tra n g
Cam puchia từng bước trưởng th àn h , tự m ình bảo vệ được th à n h quả
cách mạng. Bởi vậy, khi Quân tìn h nguyện V iệt N am rú t về nước, Pôn
P ôt dồn sức ph ản công hòng g iành lại chính quyền, quay trở lại ch ế độ
cũ, nhưng lực lượng của B ạn vẫn đủ sức chiến đấu, làm th ấ t bại mọi
âm miíu của dịch, buộc chúng phải chấp n h ậ n ngừng bắn, đi vào giải
pháp chính trị.

T rong 10 năm (1979-1989) làm nhiệm vụ quôc t ế ở Cam puchia,


cán bộ, chiến sĩ Quân tìn h nguyện V iệt N am đã th ể h iệ n rõ ý chí
chiến đấu kiên cường, h ế t lòng vì sự nghiệp cách m ạng của n h â n dân
nước Bạn, vượt qua những th ử th ách h ế t sức gay go, quyết liệt, hoàn
th à n h xuất sắc mọi nhiệm vụ. Vì m ột đ ấ t nước Ảng-co tươi đẹp, vì sự
hồi sin h của m ột d ân tộc, b iết bao cán bộ, chiến sĩ ta đã ngã xuống
hoặc để lại m ột ph ần xương m áu trê n đ ấ t B ạn. D ân tộc Cam puchia
biết rõ và khắc sâu tro n g tâm trí sự hy sinh lớn lao, tro n g sán g đó.
H ình ả n h cao đẹp của Quân tìn h nguyện V iệt N am m ãi m ãi đọng lại
tro n g trá i tim người d ân Cam puchia. T hắng lợi của Q uân tìn h nguyện
V iệt Nam giúp n h ân dãn C am puchia th o á t khói họa d iẹt chủng dã
đán h dấu bước p h á t triể n mới trong b ản ch ấ t cách m ạng và tru y ền
thô n g vẻ vang của Quân đội ta. Yếu tố quyết địn h th ắ n g lợi đó, trước
h ế t là đường lối, chủ trương đúng đắn của Đ ảng và tư tưởng Hồ Chí
M inh “giúp bạn là tự giúp m ình”; là tru y ền th ô n g đoàn k ế t của n h ân
dân V iệt Nam với n h ân dân C am puchia; là tin h th ầ n chiến đấu, hy
sin h của Quân tìn h nguyện V iệt Nam , sự giúp đỡ có hiệu quả của n h ân
dân và các lực lượng vũ tra n g Cam puchia tro n g cuộc chiến đấu chung
chông tập đoàn Pôn P ốt - Iêng-Xary. T hắng lợi n ày cũng k h ẳn g định
vai trò lãn h đạo của Đ ảng N h ân dân C am puchia tro n g xây dựng lực
lượng, tập hợp quần chúng, đề ra được cương lĩnh, đường lối đúng đắn
xây dựng đ ất nước. Đây cũng là cơ sở để p h ản bác lại những quan
điểm sai trá i, thù địch hòng phủ n h ận vai trò của Đ ảng N h ân dân
Cam puchia và Quân tìn h nguyện V iệt Nam tro n g sự k iện ở C am puchia
cách đây 35 năm ; đồng thời, tiếp tục củng cô', vun đắp tìn h hữu nghị
120
truy ền th ô n g lâu đời giữa nhân dân hai nước. C hế độ diệt chủng Pôn
P ốt dã lùi xa. Điều còn đọng lại trong trá i tim mỗi người dân
Cam puchia về Quân tìn h nguyện V iệt Nam là lòng b iết ơn, tìn h hữu
nghị, h ìn h ả n h về ưiột “Đội quân nhà P h ậ t” về cứu giúp. Gây tội ác sẽ
phải đền tội. Tập đoàn Pôn Pôt - Iêng-Xary đã bị Tòa án Quốc tê đưa
ra x ét xử về tội d iệt chủng. Việc làm này đã làm nức lòng người dân
Cam puchia và dư luận th ế giới; đồng thời, là tiến g chuông cảnh tỉnh
cho những ai cô tìn h đi ngược lại đạo lý, coi thường dư luận, chà đạp
lên dan h dự của cả m ột dân tộc để thực hiện mưu đồ đen tối của mình.

N gày nay, đ ấ t nước Cam puchia đang th ay dổi từng ngày, p h át


huy được tiềm năng, lợi th ế trong quá trìn h xây dựng và p h át triển.
Chê độ Quân chủ lập hiến - biểu tượng về lòng yêu nước, tìn h hữu
nghị với b ạn bè lán g giềng, về chính sách hòa bình, tru n g lập, không
liên k ế t được khôi phục. Điều đó đã th ể hiện sự sáng tạo trong chiến
lược p h á t triể n của cách m ạng Cam puchia tro n g tìn h h ìn h th ế giới,
khu vực có nhiều biến động. Dưới sự lãnh đạo của C hính phủ Hoàng
gia, n h ân d ân C am puchia đang tă n g cường đoàn kết, lao động cần cù,
sáng tạo, g iàn h n h iều th à n h tích to lớn trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; có n h iều đóng góp vào sự nghiệp đấu tra n h vì độc lập,
phồn vinh của d ân tộc và đoàn kết, hợp tác quốc tế. Hệ thống chính
trị tro n g nước ngày càng được củng cố vững chắc. N ền kinh tế
Cam puchia từ con số không, sau 35 năm , đã hồi sinh và p h á t triển
vượt bậc trê n các lĩn h vực. Cam puchia đã trở th à n h nước xuất khẩu
gạo lớn tro n g khu vực. T ính chung từ tám th án g đầu năm 2013, tổng
lượng gạo xuất khẩu đ ạ t 237.000 tấn , tăn g 108% so cùng kỳ năm
ngoái và tă n g khoảng 15% so với cả năm 2012. Dự kiến đến năm
2015, C am puchia có th ể xuất khẩu được 01 triệu tấ n lương thực. Các
ngàn h k in h t ế mũi nhọn, như: Xuất khẩu hàng dệt may, du lịch, nông
nghiệp và xây dựng,... đã có sự khởi sắc, đóng góp tích cực vào tăng
trưởng của n ền k in h tế. Mặc dù cuộc khủng hoảng kinh t ế th ế giới và
khu vực vẫn chưa được khắc phục, nhưng nền kinh t ế của Cam puchia
không ngừng p h á t triể n , đời sống của nh ân dân Cam puchia được nâng
lên m ột bước. Theo N gân hàng P h á t triể n châu Á (ADB), dự đoán tăng
trưởng k in h t ế của Cam puchia năm 2013 là 7,2%; năm 2014 có th ể lên
đến 7,5%. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng, th ể hiện được uy tín,
trá c h n hiệm của C am puchia trê n trường qucíe tế. Mốì quan hệ giữa
Việt Nam và Cam puchia đã trả i qua bao bước th ăn g trầm của lịch sử,
nhưng tìn h hữu nghị, đoàn kết, chia ngọt, sẻ bùi, luôn giành cho nhau
121
sự giúp đỡ chí tìn h , chí nghĩa m ãi m ãi là tà i sả n vô giá, được n h â n
dân hai nước quý trọ n g và p h á t huy. Sau H iệp ước Hòa bình P a-ri
năm 1991 và cuộc Tổng tuyển cử n ăm 1993, C am puchia đi vào th ể ch ế
chính trị đa đảng, quan hệ hai nước chuyển san g giai đoạn p h á t triể n
mới. Với phương châm “L áng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống,
hợp tác toàn diện, bền vững lâu d à i”, tro n g nhữ ng n ăm qua, quan hệ
hữu nghị giữa V iệt Nam và C am puchia không ngừng được củng cố,
p h á t triể n sâu rộng trê n mọi lĩn h vực, m an g lại hiệu quả th iế t thực
cho n h â n dân hai nước, sự ổn định của khu vực và trê n to à n th ế giới.

Kỷ niệm 35 năm ngày Quân tìn h nguyện V iệt N am giúp n h ân


dân Cam puchia th o á t khỏi họa d iệt chủng là dịp để chúng ta ôn lại
những kỷ niệm tố t đẹp tro n g mối quan hệ th ủ y chung, gắn bó giữa
nhân dân hai nước; đồng thời, là cơ sở để tiếp tục n ân g môi quan hệ
lên tầm cao mới: Cùng hựp tác và phát triển, cùng giàu lên,
m ạ n h lê n tr o n g b ố i c ả n h h ộ i n h ậ p q u ố c tế .

LÊ KHẢ P H IÊ U
Nguyên Tổng Bí thư
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
(Nguồn: tapchiqptd.vn)

122
CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ TÌNH HỮU NGHỊ
VIỆ T NAM - CAMPUCHIA

Trung tướng PHÙNG KHẮC ĐẢNG

Cách đây 38 năm về trước, những người lính chúng tôi đang trà n
ngập niềm vui về chiến th ắ n g 30/4/1975. Đ ất nước đã hòa bình, chiến
tra n h đã chấm dứt, bao nhiêu ấp ủ được mọi người sẻ chia nào chuyện
gia đình, chuyện tương lai và ký ức tồn lại sau chiến tra n h , trong
quân ngũ thời bây giờ từ sĩ quan đến binh sĩ chỉ mong sớm được trở về
sum họp gia đình.

Lúc đó, Sư đoàn chúng tôi được diều động về đóng chân tạ i Tuần
Dưỡng, các đơn vị lầ n lượt được bố trí trê n địa bàn tỉn h Quảng N am
và Đà Nẵng. N hiệm vụ được giao là vừa xây dựng doanh trạ i, huấn
luyện, vừa th am gia chiến đấu tru y quét Fulrô, lực lượng phản cách
m ạng vẫn còn trụ bám ở rừng núi Tây Nguyên chống lại chính quyền
non trẻ của ta. Mọi việc đang diễn ra bình thường, đột ngột chúng tôi
được lệnh toàn đơn vị chuẩn bị sẵ n sàng cơ động làm nhiệm vụ chiến
đấu ở biên giới Tây Nam.
V ồ đ ô n T à y N g u y ô n c ấ p t r c n m ớ i c h í n h t h ứ c t h ô n g b á o c lio cliúng
tôi biết.

Bộ m áy lãn h đạo của C am puchia đứng đầu là Pol Pot, leng Sary,
Ta Mok, Nuon C hea đã có h à n h động phản bội lại tìn h hữu nghị V iệt
Nam —Campuchia.

Ngay từ th án g 4 năm 1975 tro n g khi quân dân ta đang dồn sức
cho công cuộc tổng tiế n công nổi dậy toàn m iền Nam giành th ắn g lợi
cuối cùng, ngay từ ngày đầu th á n g 5/1975, Pol Pot đã lợi dụng cơ hội
đó đem quân tấ n công hòng chiếm đảo Phú Quốc của ta. Bằng tinh
th ầ n cảnh giác cách m ạng quân d ân đảo Phú Quốc đã đánh bại quân
địch g iành lại đảo. Sau đó 7 ngày, bọn Pol Pot lại xua quân đánh
chiếm đảo Thổ Chu, g iết hại 500 d ân thường trê n đảo.

123
Cùng với các h à n h động tá c chiến bọn Pol P ot, le n g S ary đã dùng
bộ m áy tu yên tru y ền nói xấu V iệt N am , nói xấu những người đ ã từng
chia lửa với họ tro n g công cuộc đấu tra n h g iàn h độc lập cho
Cam puchia.

Họ tu n g ra chiến dịch tuyên tru y ền rầ m rộ rằ n g V iệt Nam là kẻ


thù của C am puchia. Họ kích động th ù h ậ n V iệt N am tro n g binh sỹ của
họ với kh ẩu hiệu “V iệt N am là kẻ th ù lâu dài n ê n p hải giết sạch, phá
sạch, đốt sạch và cướp sạch .”

B inh lín h của họ được nhồi n h é t tư tưởng cực đoan như đối với
người V iệt N am ta m uốn g iết lúc nào cũng được, n h à V iệt N am ta
muôn đốt lúc nào cũng được, cùng với tuyên tru y ền bọn phản động Pol
Pot, len g S ary đ ã tă n g cường q u ân số, xin v iện trợ quân sự của nước
ngoài để quyết tiêu d iệt V iệt N am . N hớ lại hồi th á n g 8, th á n g 9 năm
1977, bọn Pol P ot, le n g S ary đã xua quân tấ n công toàn d iện trê n
l.OOOkm đường biên giới với V iệt Nam.

N hững cuộc th ả m s á t d ân là n h ở B ến c ầ u , C hâu T h àn h , T ân


Biên, Tây N in h d iễn ra thường xuyên. N gày 25/9/1977, quân Pol Pot
đã tà n s á t r ấ t dã m an người d ân ở T ân Lập, T ân B iên với các h ìn h
thức như c h ặ t dầu, moi gan, mổ bụng. Đặc biệt, cuộc th ảm s á t th á n g
4/1978 ở Ba Chúc với hơn 3.157 d ân thường của chúng ta bị bọn chúng
s á t hại dã m an.

C u ộc c h iô n tr a n h c h ổ n g M ỹ v ừ a ohâVn H ứ t, V iệ t. N a m lạ i p h ả i
buộc lòng bước vào cuộc chiến mới chông kẻ thù p h ản bội. Đau thương,
uất h ận d ân g trà o tro n g mỗi người lín h trậ n khi th ấ y đồng bào m ình
bị tà n s á t dã m an. Dưới sự lã n h đạo của Đ ảng, những người lính
chúng tôi đã p h ân b iệt rõ ch ín h tà , p h â n b iệt r ấ t rõ nỗi thống khổ của
người dân C am puchia và k h á t vọng hòa bình, sự trâ n trọ n g tìn h hòa
hiếu với bọn p h ả n động cầm đầu điên cuồng chông p h á V iệt Nam .

Sư đoàn chúng tôi được cấp trê n giao n h iệm vụ trê n hướng Tây
Nguyên, rồi lại được tă n g cường phối hợp với quân đoàn 4 ở hướng
Tây N inh.

H àn h quân cơ động xa, tra n g bị còn th iế u th ố n nhiều, nhưng với


quyết tâm ch iến đấu bảo vệ Tổ quốc và cứu n h â n d â n C am puchia khỏi
bọn d iệt chủng, chúng tôi lại lên đường.

124
N hớ lại nhữ ng tr ậ n đ án h với quân đội C am puchia do Pol P ot cầm
đầu, lúc đầu là vô cùng khó k h ăn và quyết liệt, binh sỹ của họ được
nhồi n h é t tư tưởng h ận th ù bộ đội và n h â n dân V iệt Nam , họ p h á t
huy sở trường đ án h nhỏ, đán h du kích, lén lú t tro n g dân, gây nhiều
khó k h ă n và th iệ t h ại cho ta, song với phương châm dựa vào nhân
dân, tin n h ân d ân và vận dộng n h â n dân, đơn vị chúng tôi đã d ần dần
tìm ra cách đ án h vây ch ặ t nhiều vòng, d iệt gọn từng đơn vị địch,
không để chúng co cụm, bảo vệ an to à n cho dân.

Hồi đó, th eo yêu cầu của C hính phủ C ách m ạng lâm thời
Cam puchia kêu gọi quân dội V iệt N am giúp đỡ giải phóng đ ấ t nước,
chống lại tập đoàn Pol Pot, le n g Sary. Đơn vị chúng tôi được điều
động qua các tỉn h n h ư M ondulkiri, R atan a k iri, K ratie, Svay R ieng làm
nhiệm vụ.

Đến đâu, chúng tôi cũng được chứng kiến nỗi khổ ải của nhân
dân C am puchia. Họ lo sợ, họ hoảng loạn vì tội ác g iết người của Tập
đoàn p h ản động Pol Pot. Người dân chỉ cho chúng tôi những cánh
rừng gỗ tếch có hàn g tră m hố chôn người, mỗi hô" là m ột gia đình, chỉ
cho chúng tôi nhữ ng giếng nước ăn của d ân m à chúng đã dùng làm mồ
chôn tậ p th ể h à n g chục người dân.

Hồi ấy, chúng tôi cũng không th ể tưởng tượng được tạ i sao họ lại
thú tín h , lại mù quáng dùng chính quyền quân đội, công an đ àn áp
giết h ại dân thường của chính nước họ m ột cách m an rợ đến vậy. Vì
sao họ lậ t lọng và p h án bội Việt Nam và căm th ù V iệt N am đến vậy.

N h ận rõ bộ m ặt th ậ t của T ập đoàn Pol P ot, le n g Sary, th ấ y rõ


nỗi th ô n g khổ của người d ân C am puchia. N hận rõ trá c h n hiệm bảo vệ
đ ấ t đai, và n h â n d ân của m ình. T inh th ầ n cán bộ, chiến sỹ tro n g sư
đoàn và đơn vị tôi lúc bấy giờ lên rấ t cao, ai cũng m uôn được ra trậ n ,
ai cũng m uốn đóng góp sức lực xương m áu của m ình để bảo vệ Tổ quốc
và cứu n h â n d ân C am puchia th o á t khỏi cảnh địa ngục tr ầ n gian.

Có những kỷ niệm không bao giờ quên khi p h ải chiến đấu xa quê
hương, xa đ ất m ẹ, n h ấ t là vùng Đông Bắc C am puchia, đời sống của
chúng tôi thiếu th ô n vô cùng, có lúc gạo không, muôi không, chỉ còn
vài lá t lương khô chia xẻ với nhau.

Người dân C am puchia r ấ t khó k h ăn , th ậ m chí có nơi không còn


gì để ăn, nhớ lời dạy của Bác Hồ, a n h em đơn vị chúng tôi vẫn san sẻ

125
khẩu p h ần ít ỏi của m ình để giúp n h â n d ân qua cơn đói k h át. Có
những bà mẹ Cam puchia quá xúc động trước tấ m lòng của bộ đội V iệt
Nam đã th ố t lên lời nói: “Bộ đội n h à P h ậ t,” “K ông tóp V iệt N am tố t
quá.”

38 năm đã qua, chiến tra n h b iên giới Tây-N am k ế t thúc, chính


quyền đã về tay người d ân C am puchia, g ần đây tôi có dịp đến lại cửa
khẩu Đức Cơ, được th ả bộ bình yên tr ê n vùng đ ấ t m à cách đây 38 năm
là m ột bãi chiến trường. Tôi đã đi m ột quãng đường qua dòng suôi
O krieng, nơi m à trước đây các đồng đội của tôi đã p h ải chiến đấu hy
sinh để bảo vệ biên giới quốc gia.

Tôi đã đến N ghĩa tra n g Đức Cơ, nơi chôn cấ t các binh sỹ của
Quân đội n h ân d ân V iệt Nam hy sin h tro n g cuộc chiến tra n h biên giới
Tây-Nam , cuộc chiến chông lại quân đội T ập đoàn Pol Pot, len g Sary.
N ghĩa tra n g liệt sỹ Đức Cơ cũng như n hiều n g h ĩa tra n g liệ t sỹ dọc
biên giới V iệt Nam — Cam puchia sừng sững n h ư m ột tượng đài b ấ t tử
của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và ng h ĩa vụ quốc t ế cao cả về sự cứu giúp
dân tộc Cam puchia khỏi họa d iệt chủng.

Ngày nay, h ai nước V iệt N am và C am puchia đã có hòa bình, hai


n h à nước, hai dân tộc đã có quan hệ chiến lược trê n nhiều lĩnh vực,
song đâu đó vẫn còn có những kẻ ngáng đường, họ tuyên tru y ền xuyên
tạc về tìn h hữu nghị giữa hai nước, họ tr iệ t để lợi dụng vấn đề dân tộc
dể kích động h ận thù, tuyên tru y ền hòng làm sai sự t h ậ t về sự giúp đỡ
chí tìn h , chí n g hĩa cúa tíán g , n h à nước, n h â n d ân vã quân dội Việt
N am tro n g công cuộc đấu tra n h loại bỏ T ập đoàn p h ả n động, p h ản bội
Pol Pot, len g Sary, cứu cả dân tộc C am puchia khỏi bị d iệt chủng.

Chủ tịch Quốc hội C am puchia H eng S am -rin đã nói tro n g Lễ m ít


tin h kỷ niệm 35 năm C hiến th ắ n g chiến tra n h bảo vệ biên giới Tây-
N am và cùng quân dân C am puchia ch iến th ắ n g c h ế độ d iệt chủng,
ngày 5/1/2014 tạ i Thủ đô H à Nội là: “N ếu không có sự giúp đỡ của
V iệt N am th ì dân tộc C am puchia không còn trê n b ản đồ th ế giới.”

126
N hân dăn Thủ dô Phnom Penh tiễn đưa quân tình nguyện Việt Nam về nước.
(Nguồn: TTXVN)

C húng tôi, những cựu chiến binh đã từng có m ặt tro n g cuộc chiến
cách đây 38 năm về trước, vẫn trà n ngập tin tưởng về tìn h đoàn kết
hữu nghị của hai quốc gia, hai d ân tộc Việt N am —Campuchia.

Lịch sử ngày càng sán g tỏ hơn sự thủy chung tro n g sáng của Việt
Nam với đ ấ t nước C am puchia a n h em./.

Trung tướng P h ù n g Khắc Đăng,


Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam,
Nguyên Phó Chính ủy Trung đoàn 368 Sư đoàn 2, Quân khu 5
(Nguồn: TTXVN)

127
TINH THẦN QUỐC T Ế VÔ SẢN
CỦA QUÂN TÌNH NG UYỆN VÀ CHUYÊN GIA V IỆ T NAM
ĐỐI VỚI Sự HÓI SINH ĐẤT NƯỚC CAM PUCHIA

PGS, TS. NGUYỄN MẠNH HÀ


và TS. TRẦN TRỌNG THƠ

Cuộc kháng chiến chống đ ế quốc Mỹ xâm lược của ba nước Đông
Dương th ắn g lợi (năm 1975), nh ân dân V iệt N am và n h â n dân
Cam puchia m ong muốn được sống trong hòa bình, p h á t triể n , quan hệ
hữu nghị tru y ền thống, hợp tác xây dựng đ ấ t nước. Song, ngay sau
ngày chiến th ắn g , tậ p đoàn Pôn P ốt — Iêng-X ary đã p h ản bội sự
nghiệp cách m ạng của n h â n dân Cam puchia, th i h àn h đường lối và
chính sách cực kỳ p h ản động về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,...
gây nên th ảm họa d iệt chủng đối với n h ân dân tro n g nước, “nhuộm
đ ất nước Cam puchia bằng m áu và nước m ắt”1, với gần 3 triệu người
chết. Về đôi ngoại, với tư tưởng dân tộc cực đoan, chúng phá hoại tìn h
hữu nghị, khôi đoàn k ế t và liên m inh chiến đấu ba nước Đông Dương,
p h á t động chiến tra n h xâm lược Việt Nam, gây n ên những tổ n th ấ t to
lớn, tội ác không th ể dung thứ. Trước h àn h động đó, Việt Nam kêu gọi
chính quyền “Cam puchia Dân chủ” đàm phán, chấm dứt h à n h động
x â m lư ự c , b ả o v ệ q u a n h ộ h ữ u n g h ị g iữ a h a i n ư ớ c . S o n g t h i ệ n c h í c ủ a
V iệt Nam đã bị Pôn P ốt — Iêng-Xary khước từ; hơn thế, chúng còn tiếp
tục leo th an g xâm phạm lãn h th ổ và liên tiếp gây tội ác m an rợ với
n h ân d ân V iệt Nam , buộc V iệt N am phải giáng tr ả thích đáng.
Trước hiểm họa tà n lụi của dân tộc, thực hiện quyền tự vệ chính
đáng, M ặt trậ n Đoàn k ế t dân tộc cứu nước Cam puchia kêu gọi “Hãy
cứu giúp chúng tôi, không phải chỉ cứu giúp m ấy vạn người tị n ạn m à
phải cứu giúp cả d ân tộc”2, Quân tìn h nguyện V iệt N am cùng với lực
lượng vũ tra n g yêu nước Cam puchia thực h iện cuộc phản công và tổng
công kích b ắ t đầu từ ngày 23-12-1978, giải phóng P hnôm -Pênh ngày
07-01-1979 và giành được th ắ n g lợi quyết định trê n cả nước vào ngày
17-01-1979. Bộ m áy th ông trị của tậ p đoàn Pôn P ốt — Iêng-Xary bị
xóa sổ từ T rung ương đến cơ sở; Cam puchia được giải phóng khỏi chế
độ tà n bạo, người dân th o á t khỏi họa diệt chủng; Hội đồng nh ân dân

128
cách m ạng được th à n h lập, chính th ể Cộng hòa nhân dân Cam puchia
r a đời.
T h ắn g lợi to lớn đó, trước h ế t là k ết quả của sự phối hợp chiến
đấu giữa Quân tìn h nguyện V iệt Nam với lực lượng cách m ạng
C am puchia, sự ủng hộ, giúp đỡ và th am gia chiến đấu của n h ân dân
C am puchia; n h ấ t là, tin h th ầ n khắc phục khó khăn, chiến đấu anh
dũng của Quân tìn h nguyện V iệt Nam, được nhân dân Cam puchia ca
ngợi, tô n vinh, gọi là “Quân đội n h à P h ậ t”. Lịch sử Cam puchia mở ra
m ột tran g mới, kỷ nguyên hồi sinh và p h át triển; tìn h đoàn k ết chiến
đấu, tìn h hữu nghị truyền thông Cam puchia - Việt Nam được khôi
phục.
Đề bảo vệ th à n h quả cách m ạng và n h an h chóng ổn định đời
sông n h ân dân, ngày 18-02-1979, hai nước Việt Nam — Cam puchia ký
H iệp định “H òa bình, Hữu nghị và Hợp tá c ”. Thực hiện các điều khoản
tro n g H iệp định, V iệt Nam để lại m ột bộ phận Quân tìn h nguyện và
n h an h chóng cử chuyên gia kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, văn
hoá,... sang giúp n h ân dân Cam puchia. Đến cuối năm 1980, đã có 22
đoàn chuyên gia Trung ương, 20 đoàn chuyên gia tỉnh, th à n h phô cùng
với Quân tìn h nguyện h ế t lòng giúp hồi sinh và p h át triể n đ ất nước
C hùa T háp với tin h th ầ n “h ạ t gạo cắn đôi, cọng rau bẻ nửa”.
N hờ sự giúp đỡ của Việt Nam, Lực lượng vũ tra n g yêu nước
C am puchia được xây dựng trong năm 1978 không ngừng lớn m ạnh về
số lượng3, tổ chức, trìn h độ chính trị và tác chiến. Crí quan Tiền
phương Bộ Quốc phòng và Đoàn chuyên gia Quân sự 478 V iệt Nam
giúp B ạn xây dựng bộ m áy cơ quan Bộ Quốc phòng, lực lượng vũ tran g
3 th ứ quân; th à n h lập các trường sĩ quan; trước m ắt, mở các lớp giáo
dục chính trị, bồi dưỡng nghiệp vụ. Các quân khu: 4, 5, 7 và 9 trực
tiếp giúp Quân đội Cam puchia xây dựng, huấn luyện lực lượng vũ
tra n g địa phương trê n các địa bàn đứng chân; đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ từ cấp tiểu đội đến tiểu đoàn,... N ăm 1983, sau khi Bộ C hính trị
B an C hấp h à n h Trung ương Đ ảng N hân dân cách m ạng Cam puchia
ban h à n h N ghị quyết 39/NQ-TW “Về điều chỉnh tổ chức xây dựng lực
lượng vũ trang (1983-1986)”, xác định ba mục tiêu chiến lược: Tiêu
diệt, làm ta n rã địch, làm cho chúng không th ể gượng dậy được; xây
dựng thực lực cách mạng; đoàn k ế t liên m inh Cam puchia — V iệt Nam.
Theo đó, lực lượng vũ tra n g yêu nước Cam puchia từng bước lớn m ạnh,

129
vươn lên đảm n h ậ n n h iệm vụ chiến đấu chống địch, giữ vững vùng
giải phóng, bảo vệ n h ân dân.
Hệ th ô n g ch ín h quyền cách m ạn g C am puchia k hông ngừng được
xây dựng và củng cô", bảo đảm thực h iệ n các chủ trương, ch ín h sách
của Đ ảng và N h à nước từ T rung ương xuống địa phương. Quốc hội (cơ
quan quyền lực cao n h ấ t của N hà nước C am puchia) đã p h á t huy vai trò
ngày càng lớn tro n g xây dựng đ ấ t nước; các đoàn th ể ch ín h tr ị - xã hội
và tổ chức quần chúng, như: M ặt trậ n , Đoàn T h an h niên, Hội Phụ
nữ,... đã p h á t huy tố t vai trò , chức năng, n hiệm vụ, đoàn k ế t n h â n dân
xây dựng, p h á t triể n đ ấ t nước. N ăm 1987, lợi dụng việc V iệt Nam
tuyên bô' rú t Q uân tìn h nguyện vào năm 1990 và B ạn b an h à n h chính
sách H oà hợp d ân tộc, tà n quân Pôn P ô t và lực lượng Khơ-me đỏ
chống p h á quyết liệt, đẩy m ạn h chiến tra n h tâ m lý, tấ n công vào m ột
số th ị xã, huyện lỵ, vô hiệu hoá ch ín h quyền xã, ấp. Do có m ột hệ
thốn g ch ính quyền đủ m ạn h từ T rung ương đến địa phương, B ạn
không nhữ ng vẫn đứng vững m à còn tiếp tục p h á t triể n . Đây là th à n h
công lớn n h ấ t, th ắ n g lợi có ý nghĩa to lớn của cách m ạng Cam puchia,
m inh chứng h ù n g hồn cho sự giúp đỡ đầy hiệu quả của Đảng, N hà
nước, n h â n d ân V iệt N am , n h ấ t là Q uân tìn h nguyện và đội ngũ
chuyên gia.
Hơn th ế , ta còn tích cực giúp B ạn tro n g công tá c xây dựng Đảng.
Đảng n h â n dân cách m ạng C am puchia được xây dựng ngang tầm ,
k h ẳn g đ ịnh được vai trò , sức m ạn h của m ình, đề ra đường lôi lã n h đạo
đúng đ án tro n g cõng cuộc hồi sinh, p h á t triể n đ ấ t nước. Thực h iện chủ
trương trê n , V iệt N am giúp B ạn n h a n h chóng h ìn h th à n h hệ th ố n g tổ
chức đản g từ T ru n g ương xuống cơ sở (cả d ân sự và quân sự). N hờ đó,
lực lượng đản g viên p h á t triể n m ạnh m ẽ, tạo ra h ạ t n h â n lã n h đạo ở
các n gành, các cấp, các địa phương và các đơn vị vũ trang,... Nếu đầu
năm 1979, Đ ảng N h â n d ân cách m ạn g C am puchia có khoảng 200
đảng viên th ì đ ến năm 1983 đã có gần 2.000 đ ản g viên. T ấ t cả 20
tỉn h , th à n h của C am puchia có T ỉnh ủy, T h àn h ủy lâm thời. T hành
công của sự nghiệp xây dựng Đ ảng N h â n dân cách m ạng C am puchia
(sau này đổi tê n th à n h Đ ảng n h â n d â n C am puchia) có ý n g h ĩa quyết
định th ắ n g lợi của 10 n ăm hồi sin h đ ấ t nước. T rong thời gian ngắn,
C am puchia k h ô n g n hữ ng đ ã ổn định đời sông n h â n dân, m à còn từng
bước p h á t triể n k in h t ế - xã hội, bảo đảm cho cách m ạng vừa chiến
dấu, đập ta n các cuộc tậ p kích, lấn chiếm của Pôn P ô t và các t h ế lực

130
thù địch, vừa tạo th ế và lực đứng vững, bảo vệ chính quyền, bảo vệ
n h â n dân trước những th ử thách k h ắc n g h iệt, ng ăn chặn việc quay trở
lại v à tá i diễn ch ế độ d iệt chủng.
C h ế độ d iệt chủng đã để lại đông tro tà n với b iết bao th ả m họa:
T hiếu đói trầ m trọng, dịch bệnh tr à n lan, hơn 1 triệ u người dân phải
sông cảnh “m àn trờ i, chiếu đ ấ t”; nền kin h t ế bị tà n phá k iệ t quệ:
K hông tiề n tệ, không thương nghiệp, không tà i chính, ngân hàng,
không có sả n xuất công nghiệp, “có tới 80% n h â n d ân không sản
xuất,... Muốn sản xuất nông nghiệp cũng làm k hông được vì đang là
mùa khô không có nước. Nơi có nước có th ể làm được th ì th iếu giông,
th iếu phương tiện,...”4.
Trước tìn h h ìn h đó, Quân tìn h nguyện và chuyên gia V iệt Nam
đã cùng Đảng, N h à nước, nhân d ân C am puchia n h a n h chóng ổn định
đời sống, giải quyết những nhu cầu bức th iế t của cuộc sông, n h ấ t là
cứu đói hơn 4 triệu người; tham gia chiến dịch chuyên chở, ph ân p h át
lương thực viện trợ cứu đói, thóc giống, thuốc m en, h àn g tiêu dùng
th iế t yếu và nông cụ5. Đồng thời, giúp chính quyền các cấp tổ chức,
vận động n h â n dân k hắc phục khó k h ăn , k h ẩ n trươ ng làm m ùa và đẩy
m ạn h trồ n g các loại rau màu, cây lương thực để giải quyết n ạ n đói.
H àng ngàn cán bộ, chiến sĩ Quân tìn h nguyện, chuyên gia V iệt Nam
trực tiếp xuống và n ằm lại tạ i các làng, bản, phum sóc, phố, phường
để th am gia sản xuất, ngăn chặn dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe, vừa
giúp sức lao động, vừa th ắ t chặt mối quan hệ với n h â n d ân nước Bạn.
£)ến CUÓ1 n ăm 1979, n h â n dân C am puchia đã vượt qua n ạn đói; cuối
năm 1987, sản lượng lương thực đ ạ t 2 triệ u tấ n , công nghiệp đã sản
xuất được m ột khối lượng lớn hàng hoá, m áy móc, th ậ m chí có m ột số
ít m ặt h àn g xuất khẩu. Cùng với đó, Quân tìn h nguyện còn sử dụng
h àn g ngàn xe quân sự giúp Bạn vận chuyển đưa h àn g chục vạn người
dân trở về quê cũ làm ăn.
Ghi n h ậ n sự giúp đỡ chí nghĩa, chí tìn h đó, Xăm đec H un Xen
cảm động viết: “T rong hoàn cảnh gay go này, sự giúp đỡ của n h â n dân
V iệt Nam là vô cùng quan trọng. Đ ảng, C hính phủ V iệt N am đã kịp
th ờ i viện trợ lương thực thuốc m en và h àn g tiêu dùng để ph ân phát
cho dân khi th iếu thốn. Ngoài viện trợ của C hính phủ, chúng ta còn
th ấ y viện trợ của n h â n dân, thông qua từ ng gia đình. H àn g chục vạn
gói quà được gửi qua các tỉn h kết n g h ĩa với các tỉn h C am puchia,... v ề
p h ầ n Quân tìn h nguyện V iệt Nam tạ i C am puchia cũng đóng góp m ột

131
phần lớn vào việc giải quyết n ạn đói ở Cam puchia. Các đơn vị Q uân
tìn h nguyện dù có lệnh hay không có lệnh của cấp trê n đều đem các
khẩu ph ần lương thực thuốc m en của m ình chia cho nh ân dân
Cam puchia, th ậm chí còn n h ậ n nuôi toàn bộ tro n g m ột thời gian đối
với những người d ân vừa chạy khỏi hàn g ngũ Pôn P ốt trước khi trở về
quê hương, n h ậ n nuôi người già, yếu không th ể đi đâu được và nuôi các
trẻ mồ côi cho đến khi chúng ta th à n h lập được các trạ i trẻ em mồ
côi,... C hấm dứt n ạn đói cần được tín h vào th à n h quả cách m ạng
chúng ta đã giành được”6.
Nếu như những th ắ n g lợi trê n m ặt trậ n kin h t ế đã góp p h ần
quan trọ n g vào việc đưa đ ất nước và dân tộc Cam puchia hồi sinh, tạo
nên th ế tấ t th ắn g không th ể đảo ngược, th ì tín h ưu việt của c h ế độ
mới, kết quả khôi phục, p h á t triể n giáo dục, y tế, văn hóa được nh ân
dân th ế giới n h ìn n h ận và đánh giá cao, trở th à n h bệ đỡ để
Cam puchia tiếp tục xây dựng đ ấ t nước và mở rộng quan hệ đối ngoại.
Từ m ột đ ấ t nước không có trường học, tr í thức, giáo viên bị tà n sát,
được sự giúp đỡ của V iệt Nam, sự nghiệp giáo dục của C am puchia hồi
phục và p h á t triể n n h an h chóng. Đ ến năm học 1985-1986, tạ i
Cam puchia, n g àn h m ẫu giáo có trê n 4 vạn cháu với 1.500 giáo viên,
tiểu học có khoảng 1,5 triệu, tru n g học cơ sở hơn 316.500, tru n g học
phổ th ô n g trê n 14.000 học sinh. N gành Y t ế có 90 bác sĩ và 476 y sĩ
ra trường. Cùng với đó, các th iế t chế văn hóa, như: Báo chí, p h á t
th an h , tru y ền hình, th ư viện, bảo tàng,... được khôi phục và th iế t lập
đã k h ô n g n gừ n g cả i th iệ n đời sô n g n h â n dân .

Từ m ột đ ấ t nước bị cô lập, Cam puchia vươn lên p h á t triể n quan


hệ với nhiều nước trê n th ế giới, không ngừng n ân g cao vị t h ế trê n
trường quốc tế, chủ động tìm kiếm giải ph áp to àn diện cho vấn đề đặt
ra đôi với đ ấ t nước m ình. N gày 28-4-1986, Đ ảng N h â n dân cách m ạng
C am puchia ra nghị quyết về Phương hướng công tác đôi ngoại: T ranh
thủ giảm dần, đi đ ến chấm dứt đối đầu quân sự, giành m ột giải pháp
chính trị có lợi. Tiếp đó, ngày 27-8-1987, C am puchia công bô' chính
sách Hoà hợp dân tộc, nêu rõ: Mọi người dân đều có th ể cùng nhau
hợp tác thực sự, xây dựng m ột nước Cam puchia độc lập, hòa bình,
không liên k ế t và hữu nghị với các nước láng giềng,... Đ ạt được kỳ tích
đó là sự nỗ lực của Đảng, N hà nước, n h ân dân Cam puchia và sự hỗ
trợ, giúp đỡ của Đảng, N hà nước, nh ân dân V iệt Nam , n h ấ t là Quân
tìn h nguyện và chuyên gia.

132
Có th ể thấy, tro n g 10 năm giúp B ạn lậ t đổ ch ế độ diệt chủng, xây
dựng lại đ ất nước về mọi m ặt, trong đó, nổi b ật là xây dựng thực lực
cách mạng, p h á t triể n kinh t ế - xã hội, V iệt Nam đã giúp Cam puchia
với tấ t cả khả năng của m ình, tấ t cả những gì có th ể trê n mọi phương
diện. Quân tìn h nguyện và chuyên gia V iệt Nam nỗ lực thực hiện tót
chức trách, nhiệm vụ theo phương châm: Cam puchia làm, Việt Nam
giúp; ta và B ạn cùng làm, tiến tới Bạn tự làm , tự đảm đương nhiệm vụ
của cách m ạng nước m ình. Sự giúp đỡ có hiệu quả của Việt Nam được
thực tiễn lịch sử đ ất nước Chùa Tháp kiểm nghiệm trong những
tháng, năm hồi phục, p hát triển .
Toàn bộ hoạt động giúp hồi sinh và tái th iế t đ ất nước C hùa Tháp
th ể hiện tin h th ầ n quốc tế vô sản, trong sáng của Đảng, N hà nước,
nh ân dân V iệt Nam, m à trực tiếp n h ấ t là Quân tìn h nguyện và đội
ngũ chuyên gia. Đồng thời, th ể hiện sự quán triệ t sâu sắc tư tưởng và
nguyên tắc đối ngoại Hồ Chí Minh: “Giúp bạn là tự giúp m ình”. Chặng
đường 10 năm trực tiếp giúp Bạn hồi sinh đ ất nước của Quân tìn h
nguyện, chuyên gia V iệt Nam là m ột kỳ tích, m ột dấu mốc lịch sử
tron g quan hệ đôi ngoại của Việt Nam ở những th ập niên cuối th ế kỷ
XX.
PGS, TS. NGUYỄN MẠNH HÀ
Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng,
Học viện CT-HC Quốc gia Hồ Chí Minh
và TS. TRẦN TRỌNG THƠ

1 Tuyên bố của Mặt trận đoàn kết dăn tộc cứu nước Campuchia, Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ưcng Đảng, Phòng 82, ĐVBQ 2295.
2 D ẫn thso: Ban Liên lạc cựu chuyên gia Việt Nam giúp Campuchia, Kỷ yếu 8 năm hoạt
động của Ban Liên lạc cựu chuyên gia Việt Nam giúp Campuchia (1998-2006), Nxb
GTVT K. 2007, tr. 397.
3 Tính đín tháng 4-1979, quân số lực lượng vũ tran g tập trung của Campuchia có hơn
1,1 vạn, zắc đơn vị được trang bị vũ khí bộ binh khá đầy đủ và được huấn luyện về quân
sự, chính trị; sò' lượng dân quân du kích lên tới gần 3 vạn người, trong đó, khoảng 6.000
người đưíc trang bị vũ khí.
4 Hun Xen - 10 năm quá trình Campuchia (1979-1989). Người dịch Nguyễn Văn Đảm,
Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, tr. 79 - 80.
5 Trong năm 1979, Nhà nước Campuchia đã nhận được hơn 200 ngàn tấn lương thực của
các nước (Việt Nam khoảng 45 ngàn tấn). Quân tình nguyện tham gia vận chuyển, phân
phôi đến tay nhân dân khoảng 150.000 tấn.
6 Hun Xen - 10 năm quá trình Campuchia (1979-1989). Người dịch Nguyễn Văn Đảm,
Ban Đối tigoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, tr. 81.
(Nguồn: TC QPTD)

133
GIÚP BẠN VƯỢT QUA NẠN ĐÓI

Đại tá PHẠM HỮU THẮNG

Sau ngày 7-1-1979, C am puchia cơ b ản được giải phóng khỏi ch ế


độ d i ệ t chủng Pôn P ốt — Iêng Xa-ri, song tìn h h ìn h đ ấ t nước vẫn còn
vô cùng khó k h ăn , phức tạp. Tuy th ấ t bại như ng lực lượng Pôn Pô't còn
k h á lớn, lại được các th ế lực p h ản động qucíc t ế “h à hơi tiế p sức” nên
ra sức tìm cách tiếp tục chống phá cách m ạng. T rong khi đó, hậu quả
của ch ế độ diệt chủng để lại h ế t sức n ặn g nề, đẩy đ ấ t nước vào tìn h
trạ n g rối ren , n h â n d ân lâm vào cảnh th iế u đói, b ện h t ậ t trầ m trọng.
Quân tìn h nguyện V iệt Nam cùng chính quyền cách m ạng mới th à n h
lập phải giải quyết n h iều nhiệm vụ cấp bách để ổn địn h tìn h hình.
Một tro n g những nhiệm vụ cấp bách h à n g dầu tro n g những ngày đầu
sau giải phóng là cứu đói, ổn định đời sống n h â n dân.

Thời kỳ đầu, việc giúp d ân ổn địn h đời sông, khôi phục sản xuất
chủ yếu do các đơn vị quân tìn h nguyện đ an g làm n h iệm vụ tru y quét
tà n quân Pôn P ốt thực hiện. Trước th ả m cản h người d ân đói nghèo,
bệnh tậ t, gia đ ình ly tá n , các đơn vị bộ đội đã sẻ cơm, nhường áo, giúp
dân bước đầu ổn định đời sông, chuẩn bị sả n xuất vụ mùa. Các đơn vị
quân tìn h nguyện đã huy động nh iều phương tiệ n đưa bà con về quê
cũ. Chỉ tro n g m ột th ờ i gian ngắn, hơn 1.000.000 người dân bị xáo
trộ n , hoặc bị lùa theo khi quân Pôn P ố t rú t chạy đã được đưa về quê
cũ; được giúp đỡ m ột phần lương thực, thuốc m en, dụng cụ sản xuất.
Một số nơi, các đơn vị bộ đội V iệt N am , C am puchia còn tổ chức sinh
hoạt văn hóa, văn nghệ, mở lớp học, tổ chức cho d ân đi lấy các kho
lương thực của địch cất giấu tro n g rừng, tổ chức d ân gieo trồ n g rau
m àu và lúa ngắn ngày...

134
Bà m ẹ Campuchia rót nước cho các chiến sĩ Quản tình nguyện Việt Nam. (Ảnh tư liệu)

Một vấn đề cấp bách nảy sinh sau giải phóng là giúp Cam puchia
giải quyết n ạn đói. Do đường lôi cực đoan của Pôn Pốt — Iêng Xa-ri,
tìn h h ìn h sả n xuất lương thực của Cam puchia rơi vào tìn h trạ n g sút
kém , năng su ất th ấp , trong khi đó, bọn phản động cầm quyền thu vét
th ẳ n g tay n ên n ạn đói ở C am puchia diễn ra r ấ t nghiêm trọ n g và kéo
dài tư năm 1976. Sau giái phóng, từ những th á n g giữa năm 1979, tìn h
h ìn h n ạn đói ở Cam puchia b ắ t đầu lan rộng và ngày càng nghiêm
trọng. Theo báo cáo của các địa phương, th án g 7, th á n g 8-1979, sô"
người th iếu đói có th ể lên tới trê n dưới 3 triệu và số lương thực cứu trợ
mỗi th án g lên tới 2 vạn tấn.
Bộ C hính trị Đ ảng Cộng sả n Việt N am và các đồng chí lãnh đạo
Cam puchia r ấ t quan tâm đến việc cứu đói cho n h ân dân, đ ặ t vân đề
cứu đói như cứu hỏa, quyết tâm không để n h ân dân bị chết đói. Từ chủ
trương trê n , C hính phủ V iệt N am đã mở chiến dịch vận chuyển cứu
đói và phục vụ sản xuất nông nghiệp trước m ắt ở Campuchia. C hiến
dịch bắt đầu từ giữa th á n g 6-1979, do Phó Thủ tướng Đỗ Mười trực
tiế p chỉ đạo, có nhiệm vụ huy động, chuyên chở lương thực cứu đói và
thóc giông cùng m ột sô thuốc m en, hàng tiêu dùng th iế t yếu, nông cụ
hỗ trợ, giúp đỡ nh ân d ân Cam puchia.

135
Tại C am puchia, Q uân tìn h nguyện V iệt N am không chỉ tậ p tru n g
vận chuyển cứu đói, tậ p tru n g giúp ch ín h quyền các cấp tổ chức, vận
động n h â n d ân làm m ùa và trồ n g các loại ra u m àu, cây lương thực
ngắn ng ày để giải quyết n ạ n đói, m à còn trự c tiế p th a m gia sả n xuất
cùng n h ân d ân, vừa giúp giải quyết được sức lao động, vừa tạo điều
kiện th ắ t ch ặ t m ối quan hệ giữa bộ đội với n h â n dân. Được sự hỗ trợ
h ạ t giống của V iệt N am , sự giúp sức của chuyên gia và bộ đội tìn h
nguyện, đ ến ng ày 28-7-1979, tr ê n to àn lã n h th ổ C am puchia đã gieo
trồ n g được 167.000ha cây lương thực, tro n g đó có 120.000ha lúa,
47.000ha màu..., góp p h ầ n quan trọ n g giải quyết n ạ n đói vào dịp cuối
năm 1979.
Các lực lượng vũ tra n g Q uân khu 9 đã đưa 7.700 gia đ ìn h trở về
quê cũ làm ăn, huy động lực lượng và v ậ t liệu xây dựng n h à ở giúp
1.600.000 d ân C am puchia ổn đ ịn h nơi ăn ở. Lực lượng hậu cần cấp
quân khu tro n g n hữ ng th á n g cuối n ăm 1979, đầu n ăm 1980 đã vận
chuyển 10.000 tấ n lương thực, 1.000 tấ n h ạ t giống, gần 2.000 con
giống (gồm trâ u , bò, lợn), 20 m áy cày, bừa, hơn 13.000 công cụ cầm
tay, h àn g v ạn dụng cụ gia đìn h giúp n h â n d ân C am puchia khắc phục
n ạn đói, phục hồi sả n xuất.
Q uân khu 7 đã giúp đỡ vận chuyển 55.825 người d ân từ biên giới
C am puchia — T hái L an trở về các địa phương; huy dộng h à n g nghìn
tấ n gạo, h àn g v ạn cây, con giông, công cụ sả n x u ất từ các đơn vị và
các tỉn h tro n g quân khu gửi san g giúp đỡ n h â n d ân các tỉn h Công
Pông C hàm , C ông P ông Thom , B át-tam -bang, X tung T reng, Xiêm
Riệp.
T rên địa b àn 4 tỉn h đông bắc C am puchia, các đơn vị thuộc Quân
khu 5 tậ p tru n g phương tiệ n v ận chuyển (chủ yếu bằng ô tô), hai đợt
dân (290.536 người) về quê cũ làm ăn. Các tiểu đoàn địa b àn k ế t hợp
chặt chẽ với n h ân d ân địa phương xây dựng 386 ban tự quản, cứu đói
cho 114.644 người. N h â n d ân về đến đâu được bộ đội giúp đỡ ổn định
nơi ăn chôn ở, được cứu đói, hỗ trợ công cụ, cây, con giông p h á t triể n
sản xuất...
T rong 6 th á n g dầu năm 1979, Q uân đoàn 4 dã giúp đỡ đưa hơn
83.000 lượt người về quê cũ làm ăn; b àn giao cho quân đội cách m ạng
C am puchia m ột khối lượng lớn chiến lợi ph ẩm gồm: 5.000 tấ n lúa, 100
tấ n muôi, 117 xe ô tô các loại, hơn 100 tấ n đường, 70.000 hộp sữa và

136
hơn 30.000m vải. Với tìn h cảm quốc t ế tro n g sáng, cán bộ, chiến sĩ
Quân đoàn 4 đã tiế t kiệm , giúp đỡ n h â n dân C am puchia 247 tấ n gạo,
góp 271.000 ngày công lao động xây dựng và sửa chữa 186 trườ ng học,
1 trạ i trẻ mồ côi; 32 bệnh xá, 9.181 n h à ở, kh ám bệnh và cấp thuốc
cho gần 120.000 lượt người.
Với sự nỗ lực không ngừng của N hà nước V iệt Nam cũng như của
bộ đội tìn h nguyện đã góp p h ần quan trọ n g giúp C am puchia từng bước
đẩy lùi n ạn đói, ổn định đời sông n h â n dân ngay tro n g những ngày
đầu, th á n g đầu được giải phóng.
Cứu đói, chữa bệnh, cấp cây, con giông giúp d ân p h á t triể n sản
xuất tưởng như là việc bình thường nhưng ở vào thời điểm m à mọi sức
lực của người d ân C am puchia đã cạn k iệt, khi m à kẻ thù ra sức gieo
rắc tâm lý hoang m ang, th ù địch và tìm mọi cách chia rẽ, th ủ tiêu cán
bộ, chiến sĩ Quân tìn h nguyện V iệt Nam , th ì n h iệm vụ giúp dân của
các đội công tác vô cùng n ặn g nề và nguy hiểm . Đã có h àn g nghìn cán
bộ, chiến sĩ Q uân tìn h nguyện V iệt Nam hy sinh, nhiều người m ang
thương tích suốt đời tro n g khi thực h iện nhiệm vụ cứu đói, cứu đau,
giúp n h ân d ân C am puchia p h á t triể n sả n xuất, ổn địn h cuộc sống.
Nhớ về việc này, đồng chí Lê Đức Anh, nguyên Tư lện h Quân
tìn h nguyện V iệt N am tạ i C am puchia k ể lại: “Sau giải phóng, nh ân
dân C am puchia r ấ t sung sướng vi được tự do nhưng lại lâm ngay vào
cảnh đói. Họ đã bị đói dài ngày rồi, p h ần lớn lại bị số t ré t, rách rưới...
A n h om bộ đ ộ i q u â n t ìn h n g u y ệ n c ủ a t a t h ì c liắ n g n ề Hà g ì c ả , cứ x ồ n g
vào cứu họ. Người còn đi được th ì a n h em dìu đi. Người không đi được
th ì anh em cõng họ về doanh trạ i, bón cháo, cho uống thuốc, rồi tắm
g iặt cho họ... Có th ể nói, cứu đói, cứu đau là m ột thờ i kỳ đã đi vào lịch
sử. Chúng tôi đi sang đó đều cảm n h ậ n rấ t rõ rằng, nếu chậm giải
phóng th ì sự d iệt chủng sẽ m ang tín h lây lan r ấ t lớn với tốc độ cao.
Sự d iệt chủng không chỉ dừng lại ở sự bắn giết m à ở chỗ dân bị kiệt
sức, ốm đau, bện h tậ t m à ch ết hàn g loạt...”1.
Sự giúp đỡ vô tư, tro n g sáng, h ế t m ình của toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân ta đối với C am puchia tro n g công tác cứu đói, cứu đau, ổn
định đời sống n h â n dân tro n g thời gian đầu sau giải phóng m ãi mãi
được nh ân dân C am puchia ghi nhớ. Đúng như Thủ tướng Cam puchia
Xăm-đéc Hun Xen đã v iết về việc khắc phục n ạn đói: “N hà nước đã sử
dụng mọi k h ả năng, biện pháp tổng hợp để giải quyết vấn đề khó

137
k h ă n này, nhưng chúng ta đã b iết, n h à nước ta k hông có cơ sở v ậ t
ch ất, n g ân quỹ ngoài sô" lương thực ít ỏi lấy được của bọn Pôn Pốt để
lại... T rong ho àn cản h gay go này, sự giúp đỡ của n h â n dân V iệt N am
là vô cùng quan trọ n g . Đ ảng, C h ín h phủ V iệt N am đ ã kịp thờ i viện
trợ lương thực, thuốc m en và h à n g tiêu dùng để p h â n p h á t cho n h â n
dân k h i th iếu th ô n . N goài v iện trợ của C h ín h phủ V iệt Nam , chúng ta
còn th ấ y viện trợ của n h â n d ân V iệt N am th ô n g qua từng gia đình.
H àn g chục vạn gói quà được gửi qua các tỉn h của V iệt N am k ế t nghĩa
với các tỉn h C am puchia. T rong sô" viện trợ này, chúng ta th ấ y có cả
nhữ ng gói gạo lk g , gói muối lk g , th ậ m chí có cả quần áo. Điều đó cho
chúng ta th ấy , đó là quà viện trợ của từ ng gia đìn h V iệt Nam gửi cho
từ n g gia đ ìn h người d ân C am puchia. v ề p h ầ n Q uân tìn h nguyện V iệt
N am tạ i C am puchia cũng đóng góp m ột p h ầ n lớn vào việc giải quyết
n ạ n đói ở C am puchia. Các đơn vị quân tìn h nguyện đã có lện h hay
không có lện h của cấp trê n đều đem các khẩu p h ần lương thực, thuốc
m en của m ình ch ia cho n h â n d ân C am puchia, th ậ m chí, còn n h ậ n nuôi
to à n bộ tro n g m ột th ờ i gian dài đôi với nhữ ng người dân vừa chạy
khỏi h àn g ngũ Pôn Pốt, n h ậ n nuôi những người già yếu và trẻ mồ côi...
C hấm dứt n ạn đói cần được tín h vào th à n h quả cách m ạng chúng ta
đã g iành được”2.

Đ ại tá PHẠM HỮU THANG


Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam

1 K huất Biên Hòa. Đại tướng Lê Đức Anh. Nxb QĐND, H 2005, Tr. 166.
2 Hun Xen. 10 năm quá trìn h Campuchia (1979-1989). Người dịch Nguyễn Văn Đảm,
Ban Đối ngoại TƯ Đ ảng CSVN, năm 2003, tr.74. TLLT tại Viện LSQS VL3411.
(Nguồn: Quân dội nhăn dăn)

138
XÂY DựNG MỐI QUAN HỆ ĐOÀN KẾT, HỮU NGHỊ
VÀ HỢP TÁC TRÊN TUYẾN BIÊN GIỚI TỈNH TÂY NINH

Đại tá ĐỖ VĂN BẢNH

Thực h iện đường lối đôi ngoại của Đ ảng và xuất p h á t từ môi quan
hệ tru y ền th ố n g với n h ân dân Cam puchia, những năm qua, tỉn h Tây
N in h luôn chú trọ n g xây dựng tuyến biên giới quốc gia hòa bình, hữu
nghị và hợp tác cùng p h á t triển .

T ỉnh Tây N in h có đường biên giới với C am puchia dài 240 km,
tro n g đó có 20 xã, thuộc 5 huyện biên giới. Đốì diện với biên giới Tây
N inh có 22 xã, thuộc 7 huyện biên giới của 3 tỉn h : Công-pông-Chàm ,
Prây-veng và Svay R iêng của Vương quốc Cam puchia. T rên tuyến biên
giới của T ỉnh có 2 cửa khẩu quốc t ế Mộc Bài và Xa M át, 14 cửa khẩu
phụ và nhiều đường m òn,... Trong k h án g chiến chống Mỹ, cứu nước,
nh ân d ân các tỉn h tiếp giáp với T ây N inh đã phôi hợp với bộ đội Việt
N am cùng nhau chiến đấu giải phóng đ ấ t nước Cam puchia. Đầu năm
1979, với sự giúp đỡ của Bộ đội V iệt Nam, n h â n dân C am puchia lại
đứng lên chiến đấu th o á t khỏi họa diệt chủng của tậ p đoàn p h ản động
Pôn P ô t — Iêng-X ary, tạo n ền tả n g vững chắc cho môi quan hệ lâu bền
giữa hai d ân tộc. T rong những năm gấn đây, các mối quan hệ kin h tế,
văn hóa, xã hội và quốc phòng - an ninh giữa hai nước ngày càng gắn
bó ch ặt chẽ, tác động và thúc đẩy lẫn nhau cùng p h á t triể n . Với
phương châm: “L á n g g iềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác
toàn diện, ổn đ ịn h lâu d à i” và căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được
giao, Đ ảng ủy Q uân sự và Bộ Chỉ huy Q uân sự tỉn h Tây N inh chủ
trương: “G iữ vững mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị với chính quyền,
lực lượng vũ trang các tỉn h thuộc Vương quốc C am puchia giáp biên
giới; giải quyết tốt các vấn đề nảy sin h bằng đối thoại trên cơ sở tôn
trọng độc lập, chủ quyền và đoàn kết, hữu nghị; thực h iện n h iệm vụ
g iú p Bạn theo chỉ đạo của Quân k h u 7 và T in h ủy Tây N in h ; g iữ vững
biên giới hòa bình, ổn định, hợp tác và p h á t triển" .

Để thực h iện chủ trương đó, Đảng ủy Quân sự và Bộ C hỉ huy


Quân sự T ỉn h đã tích cực tham m ưu cho T ỉn h ủy, ú y ban nhân dân
139
T ỉn h về xây dự ng và quản lý các hoạt động trên địa bàn biên giới; nêu
cao tin h th ầ n đoàn kế t quốc tế, giúp đỡ lẫn nhau, góp p h ần xây dựng
m ôi quan hệ hợp tác, hữu nghị, láng giềng th â n th iệ n với n h ân dân và
Q uân dội H oàng gia Cam puchia. H ằng năm , Bộ Chỉ huy Quân sự T ỉnh
dã th a m mưu giúp T ỉn h ủy, ú y ban n h â n dân T ỉn h b an h à n h các văn
b ản lã n h đạo, chỉ đạo công tác đôi ngoại. Đồng th ờ i, xây dựng k ế
hoạch tổ chức đón tiế p các đoàn công tác đến th ă m và làm việc; tổ
chức các đoàn cán bộ của T ỉnh sang th ăm và làm việc với lực lượng vũ
tra n g C am puchia, k ể cả các huyện có biên giới tiếp giáp với Tỉnh;
th a m mưu cho ú y b an n h â n dân T ỉnh giúp B ạn về v ậ t ch ất và tin h
th ầ n th eo sự chỉ đạo của Q uân khu 7, n hằm giữ vững môi quan hệ
đoàn k ế t, hữu nghị tru y ền th ô n g lâu đời giữa n h â n d ân và lực lượng vũ
tra n g h ai nước. T rong quan hệ ngoại giao với Q uân đội H oàng gia
C am puchia, lực lượng vũ tra n g T ỉnh có nhiều h oạt động phong phú,
th iế t thực, góp p h ầ n củng cố mối quan hệ đoàn k ết, hữu nghị, làm
th ấ t bại mọi âm mưu, th ủ đoạn chống phá của các th ế lực thù địch,
phản động. Ngoài ra, Bộ Chỉ huy Quân sự T ỉnh còn chỉ đạo các huyện
biên giới tă n g cường quan hệ hữu nghị, láng giềng, th â n th iện với lực
lượng vũ tra n g C am puchia, đẩy m ạnh hợp tác kin h tế , giao lưu giữa
các đ ịa phương có biên giới tiếp giáp với Tỉnh. T rong dịp lễ, Tết, các
huyện, xã biên giới đều tổ chức mời đoàn cán bộ quân đội của Bạn
san g th ă m và làm việc. Đồng thời, tổ chức các đoàn cán bộ sang th ăm ,
làm việc và tặ n g quà cho lực lượng vũ tra n g các địa phương có đường
biên giới tiếp giáp với đ ịa phương.

N ăm 2012, Bộ Chỉ huy Quân sự T ỉnh đã th am gia cùng T ỉnh ủy,


Uy ban n h â n d ân T ỉn h đón tiếp các đoàn của ch ín h quyền và lực
lượng vũ tra n g các tỉn h B ạn giáp biên giới sang th ăm , làm việc tạ i Bộ
Chỉ huy Q uân sự T ỉnh. Các huyện biên giới, ngoài việc tổ chức hàn g
chục cuộc giao b an đôi ngoại, còn tích cực tuyên tru y ề n và làm tô't
công tác d ân vận; hỗ trợ cho các cơ quan, đơn vị B ạn đối diện biên
giới củng cố, xây dựng doanh trạ i, trụ sở làm việc, đường sá, mua sắm
b àn ghế, th ă m hỏi, tặ n g quà, kh ám chữa bệnh,... tr ị giá hàn g chục tỷ
đồng. Chỉ tro n g 6 th á n g đầu năm 2013, Bộ Chỉ huy Q uân sự T ỉnh đã
th am mưu và phục vụ T ỉnh ủy, ú y ban n h â n dân T ỉn h đi th ăm và đón
tiếp ch ính quyền, lực lượng vũ tra n g các tỉn h đôi diện và Quân khu 2
của B ạn san g th ăm , chúc T ết và làm việc với lãn h đạo v à lực lượng vũ
tra n g T ỉnh; th a m mưu cho ú y ban n h â n dân T ỉnh hỗ trợ xây dựng

140
tuyến đường Phước Chỉ — C hăn-tơ-ria; phôi hợp với tỉn h P rây-veng tổ
chức Lễ khởi công xây dựng công trìn h cầu và đường T ân N am qua lại
2 b ên biên giới,... Cơ quan quân sự T ỉnh và các huyện biên giới đã
th am mưu cho lãnh đạo địa phương tổ chức được 18 cuộc giao ban định
kỳ. Các huyện và m ột số xã biên giới đã tổ chức, chủ trì đón hàn g
chục đoàn lãn h đạo các huyện Rồ Mi Hec, Rùm Đuôi, Svay Tiếp; các
xã Choam , Kravien, Ta Riếc (quận Mê Mốt), xã Ruông, Choam (huyện
C hăn Mun) và chỉ huy m ột số đồn biên phòng B ạn san g giao ban đối
ngoại. Các hoạt động đối ngoại trê n địa bàn T ỉnh luôn giữ đúng
nguyên tắc, chấp hàn h nghiêm các quy định của Bộ Quô'c phòng và của
Quân khu 7. Quá trìn h tổ chức thực hiện, T ỉnh luôn quản ]ý ch ặ t chẽ
các đoàn đi, đoàn đến. Nghi thức, lễ tâ n bảo đảm tra n g nghiêm , đúng
quy định, gần gũi, th ể hiện rõ tin h th ầ n đoàn k ết, hữu nghị, để lại
nhiều ấn tượng và tìn h cảm tố t đẹp đôi với các đoàn Bạn.

X uất p h á t từ thực t ế và yêu cầu của công tác đối ngoại, tỉn h Tây
N inh và các địa phương dối diện của B ạn thống nh ấ t thực hiện ch ế độ
luân p h iên giao ban đối ngoại để đánh giá tìn h h ìn h các m ặ t h o ạt
động, th ô n g báo và thông n h ấ t giải quyết những vấn đề liên quan đến
an n in h ch ính trị, t r ậ t tự, an toàn xã hội trê n tuyến biên giới; ngăn
chặn những luận điệu tuyên truyền, kích dộng gây h ận thù, chia rẽ
dân tộc hai nước và bàn phương hướng, biện pháp phối hợp h o ạt động.
Theo đó, Tỉnh và các huyện, xã biên giới đã chủ động tiế n h à n h các
hoạt động giao lưu, gặp gỡ với 3 cấp của C am puchia, thực h iện cả 4
nội dung và h ìn h thức đối ngoại là: Đối ngoại của Đảng, đối ngoại
chính quyền, đối ngoại quân sự và đối ngoại nhân dân, nh ằm tă n g
cường mối quan hệ đoàn kết, hợp tác, hiểu biết lẫn nhau. Với sự th am
mưu của cơ quan quân sự, công an, biên phòng, ch ính quyền các cấp
(tỉnh, huyện, xã) đã duy trì thường xuyên các cuộc gặp gỡ, giao ban
định kỳ h ằn g th án g , h ằn g quý đối với chính quyền và lực lượng vũ
tran g B ạn ở các địa phương đối diện để thông tin cho n h au tìn h h ìn h
kinh t ế - xã hội của mỗi bên và th ăm hỏi, động viên n h â n những ngày
lễ, T ết tro n g tìn h đoàn kết, hữu nghị. N ăm 2012 và 6 th á n g đầu năm
2013, T ỉn h và các huyện biên giới đã tổ chức h àn g chục cuộc giao ban,
họp m ặt để trao đổi tin định kỳ, nắm tìn h h ìn h ngoại biên, b iên giới
và nội địa; h o ạt động của các đối tượng phản động lưu vong. T rong đó,
có nhiều thông tin quan trọng về các toán cướp có vũ tra n g người
Cam puchia h o ạt động trê n tuyến biên giới, góp p h ần cùng các lực

141
lượng k hác bảo vệ an n in h chính trị và t r ậ t tự, a n to àn tuyến biên
giới của T ỉnh. Nội dung giao ban còn tập tru n g kiểm điểm việc thực
hiện Quy ch ế biên giới; sự phôi hợp phòng, chống tội ph ạm và bàn bạc
thố n g n h ấ t các b iện p h áp giải quyết những vụ việc n ảy sin h trê n biên
giới, góp p h ầ n xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn địn h và p h á t
triển . T hông qua ch ế độ giao ban, họp cụm biên giới, các địa phương,
đơn vị đã chủ động tu y ên tru y ền chủ trương, chính sách đổi ngoại của
Đ ảng và N h à nước ta, tìn h hữu nghị láng giềng th â n th iệ n giữa n h ân
dân h ai nước; dồng th ờ i, vạch trầ n âm mưu, thủ đoạn p h á hoại của các
th ế lực th ù địch, xuyên tạc H iệp định, H iệp ước về biên giới đã được
ký k ế t giữa ch ín h phủ h ai nước, nhằm chia rẽ tìn h đoàn k ế t, hữu nghị
giữa V iệt N am và C am puchia. K hông những th ế , lực lượng vũ tra n g
hai nước còn phôi hợp tu ầ n tra , quản lý đường biên, bảo vệ mốc giới;
phôi hợp dấu tra n h n g ăn chặn các h oạt động buôn lậu, vận chuyển m a
tuý, văn h oá p h ẩm độc hại, chông buôn bán phụ nữ, tr ẻ em qua biên
giới, tru y b ắ t tội p hạm và chống các h o ạt động tìn h báo, gián điệp.
Đồng thời, chủ động phôi hợp với các lực lượng chức năng, bảo vệ an
toàn cho các Đội p h ân giới cắm mốc của T ỉnh và Đội p h â n giới cắm
mốc của C am puchia, bảo vệ mốc dấu và cọc phương vị đã được xác
định, bảo vệ tu y ệt đôi an toàn cho người và phương tiệ n kỹ th u ậ t
tham gia p h ân giới cắm mốc.

T rong quá trìn h tổ chức thực hiện, Đ ảng ủy Q uân sự và Bộ Chỉ


huy Q uân sự T ỉnh tậ p tru n g lãn h đạo, chỉ đạo lực lượng vũ tra n g thực
hiện tốt việc p h ố i hợp VỚI các Lực lượng trẽn dịa bàn, g ia vang biên
giới hòa binh, Ổn đ ịnh, hợp tác và p h á t triển. Tuyến b iên giới trê n địa
bàn T ây N in h có m ột p h ần lớn đang tro n g quá trìn h thương thảo,
hoạch đ ịnh, p h â n giới cắm mốc quốc giới, có nơi chưa có lực lượng tạ i
chỗ để bảo vệ. T ình trạ n g xâm canh, xâm cư, tra n h chấp đ ấ t đai, các
hoạt động do th ám , g ián diệp, vượt biên, buôn lậu,... diễn biến phức
tạp , dễ bị kẻ địch lợi dụng gây m ất ổn định. Vì vậy, tr ê n cơ sở quán
tr iệ t và thực h iện ng h iêm túc Quy ch ế “Về tổ chức và quản lý các hoạt
động đôi ngoại quân sự tro n g Quân đội” của Bộ Quốc phòng, sự lãn h
đạo, chỉ đạo của Đ ảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 7, Bộ Chỉ huy Quân
sự T ỉnh đã chỉ đạo lực lượng vũ tra n g chủ động phối hợp ch ặ t chẽ với
lực lượng Công an, Bộ đội Biên phòng theo Nghị định 77/2010/NĐ-CP
của C h ín h phủ, tích cực nắm tìn h hìn h địa b àn b ằn g nhiều phương
thức; thường xuyên tu ầ n tra , kịp thời p h á t hiện, đấu tra n h , ngăn chặn

142
và xử lý có hiệu quả các hành vi vi phạm Quy ch ế biên giới. Đồng
thời, đẩy m ạnh tuyên truyền về Luật Biên giới Quốc gia, Quy chế biên
giới, góp ph ần nân g cao n h ận thức của n h ân dân đốì với chủ quyền an
n in h biên giới và những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng,
N hà nước ta tro n g giải quyết những b ất đồng, tra n h chấp chủ quyền
biên giới quốc gia. Bên cạnh đó, Đội K71 của T ỉnh làm nhiệm vụ cất
bốc hài cốt liệ t sĩ bên đ ấ t Bạn còn chủ động phôi hợp với các đơn vị
B ạn làm tố t công tác dân vận. C án bộ, chiến sĩ của Đội luôn chấp
h àn h nghiêm H iệp định và K ế hoạch h àn h động của Uy ban chuyên
trá c h hai chính phủ; giữ vững tìn h đoàn k ết, hữu nghị giữa hai dân
tộc, được các cấp chính quyền, Quân đội H oàng gia và nhân dân
Cam puchia đồng tìn h ủng hộ. Điều đó cho th ấy , các h o ạt động đối
ngoại trê n địa bàn Tỉnh đã được p h át huy tốt, luôn giữ đúng nguyên
tắc, chấp h à n h nghiêm các quy định của Bộ Quốc phòng về xuất, nhập
cảnh, để lại nhiều ấn tượng tố t đẹp; ta và B ạn càng hiểu nhau hơn,
sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ lúc khó khăn, xây dựng đường biên giới hoà
bình, hữu nghị, đoàn k ết và p h át triển.

Đ ại tá ĐỖ VĂN BẢNH
Chính ủy BCHQS tỉn h Tây N inh

1 Nghị quyết Đại hội dại biểu Đảng bộ Quân sự tỉn h Tây N inh lần thứ X (nhiệm kỳ
2010-2015)
(Nguồn: TC QPTD)

143
QUAN HỆ VIỆT NAM - CAMPUCHIA:
LỊCH SỬ MÃI KHẮC GHI

ÁNH HUYỀN - HƯƠNG GIANG

Cách đây đúng 35 năm (7/1/1979-7/1/2014), quân và dân


Cam puchia với sự giúp đỡ của quân tìn h nguyện V iệt N am đập ta n chế
độ K hm er Đỏ, giải phóng đ ất nước khỏi th ảm họa d iệt chủng. C hiến
th ắ n g 7/1/1979 đã đi vào lịch sử như mcíc son của tin h th ầ n đoàn k ế t
quốc t ế tro n g sáng, thủy chung của tìn h hữu nghị đặc biệt giữa hai
dân tộc V iệt Nam — Campuchia. T hắng lợi này đưa đ ấ t nước
Cam puchia th o á t khỏi họa d iệt chủng, bước vào m ột kỷ nguyên mới
độc lập, tự do, đồng thời mở ra m ột tra n g mới tro n g quan hệ láng
giềng giữa hai nước.

35 năm qua, tấ t cả người dân C am puchia k hông th ể nào quên


chương đen tối n h ấ t m à đ ấ t nước trả i qua dưới ch ế độ d iệt chủng, m ột
tội ác chưa từng có tro n g lịch sử Cam puchia cũng như n h â n loại.
T rong khoảng 4 n ăm cầm quyền ở Cam puchia, tậ p đoàn Pol P ot đã
g iết hại gần 3 triệu người tro n g số 8 triệu người dân Cam puchia.
Không chỉ tiế n h à n h chính sách diệt chủng tà n bạo, xóa bỏ tậ n gổc
mọi cơ sở xã hội ở Cam puchia, tậ p đoàn Pol P ot còn xâm phạm chủ
quyền lãn h th ổ V iệt Nam, gây n ên những tội ác tà y trờ i đối với n h ân
dân V iệt Nam.

T h ắ n g lợ i c ủ a s ự n g h iệ p c h ín h n g h ĩa

Trước sự gây h ấn ngày càng trắ n g trợ n của C hính quyền K hm er


Đỏ, do Pol P ot cầm đầu trê n toàn tuyến biên giới giữa V iệt N am và
Cam puchia, trước th ả m họa d iệt chủng của quốc gia lá n g giềng, hưởng
ứng lời kêu gọi “H ãy cứu giúp chúng tôi, không phải chỉ cứu m ấy vạn
người tị n ạn , m à phải cứu giúp cả m ột dân tộc” của M ặt trậ n Đ oàn k ế t
dân tộc cứu nước Cam puchia, V iệt N am đã quyết đ ịn h cử lực lượng
quân đội san g giúp nước bạn C am puchia, đồng thờ i cũng là để ngăn
chặn h à n h động xâm lược V iệt N am ở khu vực biên giới Tây-N am của
quân Pol Pot. Quyết định của V iệt N am không chỉ thực h iện quyền tự

144
vệ chính đáng, bảo vệ Tổ quốc th iê n g liêng của m ình, m à còn giúp đỡ
n h â n dân Cam puchia đánh đuổi chế độ d iệt chủng Pol Pot, th o á t khỏi
th ả m họa d iệt chủng, đưa đến th ắn g lợi ngày 7/1/1979. C hiến th ắn g
n ày cũng là th ắ n g lợi của sự nghiệp chính nghĩa của tìn h đoàn kết
chiến đấu giữa hai dân tộc.

G iúp b ạ n h ồ i sin h

Sau khi giúp nhân dân Cam puchia đánh đổ chê độ diệt chủng Pol
Pot, theo đề nghị của M ặt trậ n đoàn k ết dân tộc cứu nước và C hính
phủ cách m ạng lâm thời Cam puchia, tro n g 10 năm , từ năm 1979 đến
năm 1989, Đ ảng và C hính phủ V iệt Nam đã cử hàn g vạn cán bộ sang
làm chuyên gia để giúp Cam puchia thực hiện công cuộc hồi sinh dân
tộc. Vừa giúp bạn chống đói, chống bện h tậ t, vừa giúp bạn xây dựng
lại bộ m áy ch ín h quyền, đoàn thể. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn M ạnh
Hà, Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện C hính trị H ành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh, cho rằng: Sau 4 năm cầm quyền của lực lượng
Cam puchia d ân chủ, đất nước C ampuchia gần nh ư là con sô' 0 trong
tấ t cả các lĩn h vực. Một xã hội bị tàn p h á nặng nề. Người dân bị tàn
sát, kinh tế bị kiệt quệ. Trong 10 năm giúp đỡ nhân dân Campuchia,
quân tìn h nguyện Việt N am giúp chính quyền và quân đội Campuchia
ổn đ ịn h cuộc sống, chống lại hoạt động quấy phá của lực lượng Pol
Pot.

35 năm qua đã chứng kiến sự hồi sinh kỳ diệu của đ ất nước


Cam puchia tư m ánh d át cùa sự chết chóc, chiẽn tra n h , chia rẽ và bạo
lực th à n h m ột đ ấ t nước hòa bình, ổn định, đoàn kết, dân chủ và p h át
triển .

Q uan h ệ hỢp tác đ ặc b iệ t

Quan hệ hữu nghị truyền th ô n g tố t đẹp và hợp tác toàn diện giữa
hai nước không ngừng p h át triể n trong suốt 35 năm . V iệt Nam luôn
dàn h cho Cam puchia sự giúp đỡ vô tư từ ngày đầu giải phóng đ ấ t nước
đến giai đoạn p h á t triển hiện tại. Ông Khun Chhy, Nguyên Bộ trưởng
Bộ Giao th ô n g vận tải C hính phủ Hoàng gia Cam puchia, cố vấn Phó
Thủ tướng C hính phủ Hoàng gia Cam puchia, khẳng định: Chúng tôi
không bao g iờ quên những công lao to lớn, sự giúp đỡ chí tinh chí
nghĩa của Việt Nam. Người Cam puchia chúng tôi gọi tình cảm đó là
bất tử và p h ả i có trách nhiệm truyền từ đời này sang đời khác. Mặc

145
dù đ ấ t nước ch ú n g tôi đã được giải p h ó n g 35 năm nay như ng C hính
p h ủ V iệt N a m vẫn hết sức quan tâm và giú p đỡ chúng tôi cho đến tận
hôm nay. S ự hợp tác toàn diện giữa hai nước vẫn không ngừng p h á t
triển và ngày càng m ở rộng. Tôi tin rằng sự hợp tác này ngày càng
được củng cố và p h á t triển trên m ọi mặt.

V iệt N am đã giúp đỡ Cam puchia tro n g thời điểm khó k h ăn n h ấ t


m à k h ông p h ải nước nào cũng làm được n h ư vậy. Đó là những lời nói
từ đáy lòng m ìn h của Thủ tướng Cam puchia Sam dech H unS en n h ân
m ột lầ n đ ến th ă m V iệt Nam. Cũng chính Thủ tướng Sam dech H unSen
n h ấ n m ạnh: “Tổ quốc và n h ân dân Cam puchia đã k h ắc sâu vào trá i
tim m ình, lịch sử đ ấ t nước Cam puchia sẽ m ãi mãi khắc b ằn g chữ vàng
công ơn to lớn của các chuyên gia, cán bộ chiến sĩ quân tìn h nguyện
V iệt N am đã ho àn th à n h th ắn g lợi nghĩa vụ qucíc t ế cao cả trê n đất
nước C am puchia. H iếm có m ột nước nào lại có sự giúp đỡ chí tình, chí
n g h ĩa n hư V iệt N am ”. Điều này k h ẳn g định chân lý: Dù th ế giới có
nhiều biến chuyển nhưng tìn h đoàn k ế t giữa hai dân tộc V iệt Nam —
C am puchia là k hông th ể nào chia rẽ./.

ÁNH HUYỀN - HƯƠNG GIANG


(Nguồn: VOV5)

146
CHIẾN THẮNG 7-1-1979 - MỘT B iể u TƯỢNG CAO Đ ẸP
VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM - CAMPUCHIA

Đại tá, TS. DƯƠNG Đ ÌN H LẬP

Dưới sự lãn h đạo của Trung ương Đ ảng và Q uân ủy T rung ương,
từ cuôl năm 1978 đầu 1979, Quân tìn h nguyện V iệt N am bao gồm các
Quân đoàn 2, 3, 4 và m ột số đơn vị của các Quân chủng H ải quân,
Phòng không-Không quân; các Quân khu 5, 7, 9 thực h iện n h iệm vụ
phôi hợp với các lực lượng vũ tra n g cách m ạng và n h â n dân
C am puchia mở cuộc phản công, tiến công quân Pôn P ố t trê n nhiều
hướng. Ớ hướng Tây Bắc, sau đòn tiến công dồn dập của các đơn vị
Quân khu 5 và Quân khu 7, giải phóng m ột số tỉn h m iền Đông
Cam puchia, từ ngày 31-12-1978 đến ngày 3-1-1979, Q uân đoàn 3 phôi
hợp với 3 tiểu đoàn bộ binh và 6 đội công tác vũ tra n g b ạn mở cuộc
tiế n công th ắn g lợi, lần lượt giải phóng các tỉn h C ông-pông Thom ,
Xiêm Riệp, B át-tam -bang và Pucíc-xát.

Cùng thời gian này, trên hướng Quân khu 9 và Q uân đoàn 2, các
đơn vị của ta tiến công tiêu diệt địch ở các khu vực Ta-pông, Ki-ri-
vông, Sê-kê, Prô-chrây, Tun-liếp, Tô-li-ốp, Đông N am S an-tâng, các
đ i ể m c u o 3 8 4 , 4 6 1 , 3 2 8 , g i ả i p h ú n g C ỏ iig -p O n g T r ạ c h , C ain -p C Íl v à c ả n g
Công-pông Xom. Trong khi đó, ở hướng Quân đoàn 4, từ ngày 1 đến 3-
1-1979, các đơn vị tiến công địch trê n đường số 1 và vùng ven hai bờ
sông Mê Công, buộc chúng phải rú t về phòng ngự ở các khu vực Sa-
cách, Prây-veng, Niếc-lương. Tiếp đó, Quân đoàn 4 tiế n công đánh
chiếm đường số 10 (đoạn C hân Trai) và bắc ngã ba Tà-hô (nằm trê n
trụ c đường số 1, phía Tây Pra-sôt). T rên hướng biển, các đơn vị H ải
quân ta làm nhiệm vụ ở vùng biển cực Nam của Tổ quốc được lệnh sẵn
sàn g chi viện cho các lực lượng chiến đấu trê n biển khi cần th iế t.
Thực hiện chỉ th ị khẩn cấp của Bộ C hính tr ị về nhiệm vụ giải
phóng Phnôm P ênh trước ngày 8-1 (trước khi Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc họp bàn về vấn đề Campuchia), sau khi p h ân tích tìn h h ìn h
trê n toàn chiến trường, Tiền phương Bộ Quôc phòng quyết định giao
nhiệm vụ cho Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 và Q uân khu 9 tổ chức lực

147
lượng mở cuộc tiến công vào Phnôm Pênh. Theo k ế hoạch, 6 giờ ngày
6-1-1979, T iền phương Bộ Quốc phòng ra lện h cho các đơn vị của ta và
bạn mở tổ n g công kích vào th ủ đô P hnôm P ên h từ ba hướng: T rên
hướng Q uân đoàn 4 (từ hướng phôi hợp chuyển th à n h hướng chủ yếu),
sau khi vượt qua khu vực dường lầy, các đơn vị tiế n công đ án h ta n các
cụm phòng ngự địch trê n trục đường số 1. S áng 7-1, Sư đoàn 7 phối
hợp với B inh đoàn 1 (Cam puchia) vượt sông Mê Công đ án h ta n Sư
đoàn 260 địch. P h á t huy th ắ n g lợi, 11 giờ ngày 7-1, Sư đoàn 7 và B inh
đoàn 1 (Cam puchia) tiế n vào Phnôm P ênh, lần lượt đ án h chiếm các cơ
quan T rung ương, khu sứ quán và Đài P h á t th an h .
T rên hướng Quân đoàn 3 (hướng phôi hợp), sán g 6-1, Quân đoàn
tập tru n g hỏa lực chi viện Sư đoàn 320 vượt sông đ á n h chiếm th ị xã
Công-pông C hàm , đập ta n tuyến phòng ngự vững chắc của 2000 quân
địch do Son Sen, Bộ trưởng Qucíc phòng chỉ huy, mở th ô n g cánh cửa
quan trọ n g tiế n vào Phnôm P ênh. S áng 7-1, được pháo b in h chi viện
đắc lực, T rung đoàn 28 (Sư đoàn 10) tiến công theo trụ c đường sô' 7,
đán h ta n quân địch ở núi Phu-chê, sau đó vượt sông Tông Lê Sáp tiến
công đ án h chiếm các khu vực như kho xăng p h ía Bắc P hnôm P ênh,
nhà m áy xay, n h à m áy hoa quả, n h à m áy cơ khí, kho súng, kho đạn
và p h á t triể n sang phía Đông phôi hợp với các dơn vị Q uân khu 9
đán h chiếm Bộ Tổng th am mưu địch. Trong khi đó, trê n hướng Quân
khu 9, ngày 6-1, các đơn vị tiến công địch ở các vị t r í T hnốt-bấc, Ta
Ni, Ta-keo,... đập ta n 4 tuyến phòng ngự của địch, mở đường cho đội
h ì n h t h ọ c s â u t i ế n v à o đ á n h c h ip m s â n h a y P ô - e h p n - t .ô n g , R ộ t ư l ệ n h
th iế t giáp và Bộ Tổng th am mưu quân Pôn Pô"t. Đ ến 17 giờ ngày 7-1,
các đơn vị Quân tìn h nguyện V iệt N am cùng lực lượng vũ tra n g cách
m ạng và n h â n dân Cam puchia hoàn to àn làm chủ P h n ô m Pênh. Tiếp
đó, từ ngày 12 đến 17-1, Quân tìn h nguyện V iệt N am và các lực lượng
vũ tra n g cách m ạng Cam puchia tiếp tục phôi hợp tiế n công giải phóng
tấ t cả các th à n h phô', th ị xã, th ị trấ n và vùng nông th ô n rộng lớn. Từ
đây, n h â n d ân C am puchia th o á t khỏi họa d iệt chủng v à bước vào kỷ
nguyên độc lập, tự do.
C hiến th ắ n g ngày 7-1-1979 có ý nghĩa lịch sử đặc b iệt to lớn đối
với vận m ệnh của đ ấ t nước Cam puchia. Ngày 8-1, Hội đồng N hân dân
cách m ạng C am puchia được th à n h lập do ông H êng X om -rin làm Chủ
tịch, tuyên bố xóa bỏ hoàn to àn ch ế độ d iệt chủng của Pôn Pô't — Iêng
Xa-ri, th à n h lập ch ế độ Cộng hòa N h ân dân C am puchia. T hắng lợi vĩ

148
đại ngày 7-1-1979 m ột lần nữa th ể hiện quan hệ truyền thông gắn bó
th ủ y chung, trọ n n g h ĩa vẹn tình giữa hai dân tộc “tối lửa tắ t đèn” có
nhau. Đây là th ắ n g lợi chung mà nhân dân hai nước đã đoàn k ết cùng
nhau lậ t đổ chế độ d iệt chủng Pôn Pốt tà n bạo, cứu đất nước và n h ân
dân Cam puchia th o á t khỏi thảm họa diệt chủng, m ang lại sự hồi sinh
cho đất nước và n h â n dân Campuchia. Công lao và sự hy sinh của hai
d ân tộc tro n g cuộc đấu tra n h cao cả đó, đặc b iệt là sự giúp dỡ hào
hiệp, vô tư của V iệt Nam, trực tiếp là Quân tìn h nguyện V iệt Nam, có
ý nghĩa đặc b iệt quan trọng. Đề cập đến ý nghĩa sự kiện lịch sử trọng
đại này, Cựu Quốc vương Xi-ha-núc từng k h ẳn g định: “Nếu họ (Việt
N am ) không đán h đuổi bọn Pôn Pốt thì tấ t cả mọi người (Campuchia)
có th ế đã bị chết. K hông chỉ riêng tôi mà là mọi người, chúng (Khơ-me
Đỏ) đã có th ể g iết ch ết tấ t cả chúng ta, ít n h ấ t th ì chúng ta cũng đã
dược sông sót và ch ính vì điều này mà chúng ta có th ể nói rằng, Đảng
N h ân dân Cam puchia đã không mắc sai lầm (khi đề nghị V iệt Nam
giúp đỡ chông Khơ-me Đỏ), bởi vì nếu chúng ta không được giải phóng
khỏi bọn Pôn P ốt th ì toàn dân tộc có th ể đã bị tiêu diệt”.
Với th ắ n g lợi ngày 7-1-1979, quan hệ hai nước Việt Nam —
Cam puchia chuyển san g thời kỳ mới, thời kỳ của tìn h hữu nghị và hợp
tác toàn diện giữa hai nước dựa trê n nguyên tắc hòa bình, tôn trọng
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh th ổ của nhau, tôn trọng lợi ích
chính đáng của nhau vì sự p h át triển và phồn vinh của mỗi nước. T rân
trọ n g về mối quan hệ láng giềng tố t đẹp, hữu nghị tru y ền thông hào
h ù n g , c h ú n g t a t i n t ư ở n g r ằ n g , t r o n g t ì n h h ì n l i m ớ i, m ố i q u a n l i ệ c ủ a
Đảng, N hà nước, Quân đội và nhân dân hai nước ngày càng p h á t triể n
sâu rộng, vì h ạ n h phúc phồn vinh của n h ân dân hai nước, vì hòa bình,
ổn định, hợp tác và p h á t triể n trê n bán đảo Đông Dương, Đông N am
Á và trê n th ế giới.

Đại tá, TS. DƯƠNG ĐÌNH LẬP


Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam
(Nguồn: Quán đội nhăn dẫn)

149
QUAN HỆ HỮU NGHỊ, H ộ p TÁC TOÀN DIỆN
V IỆ T NAM - C A M PUCHIA TRO NG GIAI ĐOẠN MỚI

TRẦN ĐÌNH ANH

V iệt N am v à C am puchia là h ai quốc gia láng giềng gần gũi, có


quan hệ hữu nghị tru y ền th ô n g lâu đời, được Chủ tịch Hồ Chí M inh và
lãn h đạo Đ ảng, N h à nước hai nước dày công vun đắp. Ngày 24-6-1967,
hai nước ch ín h thức th iế t lập quan hệ ngoại giao. 46 năm qua, sau
H iệp đ ịnh H òa b ìn h P a-ri về C am puchia được ký k ết năm 1991 và
cuộc Tổng tu y ển cử năm 1993, quan hệ h ai nước chuyển sang giai đoạn
p h á t triể n mới.

Với phương châm “L áng g iềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống,
hợp tác toàn diện, bền vững lâu d à i”, quan hệ giữa hai Đảng, hai N hà
nước V iệt N am - C am puchia đã không ngừng được củng cố và p h á t
triể n sâu rộ n g trê n mọi lĩnh vực, m ang lại hiệu quả th iế t thực cho
n h â n d ân h ai nước. H ai bên tiếp tục duy t r ì trao đổi các đoàn cấp cao
của Đ ảng, C h ín h phủ, Quốc hội cũng n h ư giữa các bộ, ngành, địa
phương và giao lưu n h â n dân. Qua các chuyến th ăm , lãn h đạo cấp cao
hai nước đều k h ẳn g đ ịn h quyết tâm cùng n h au vun đắp cho mối quan
hệ đoàn k ết, hữu nghị tru y ền thõng, hợp tãc to àn diện giưa hai nước
và coi đây là n h â n tô' quan trọ n g đảm bảo th ắ n g lợi cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước. C huyến th ăm Việt Nam của
Quốc vương Nô-rô-đôm Xi-ha-m ô-ni th á n g 6-2010 cũng như chuyên
th ăm C am puchia của Chủ tịch nước N guyễn M inh T riế t th án g 8-2010
và đặc b iệt chuyến th ă m hữu nghị của T ổng Bí t h ư Nguyễn Phú Trọng
(từ ngày 6 đến 8-12-2011) có ý nghĩa to lớn, đưa quan hệ hai nước lên
m ột tầ m cao mới. T rong dịp này, Thái Thượng hoàng Nô-rô-đôm Xi-
ha-núc k h ẳ n g định: “C am puchia và V iệt N am là hai nước không th ể
tách rời, mốì quan hệ quý báu giữa hai nước cần được p h á t huy tro n g
giai đoạn xây dựng và p h á t triể n đ ấ t nước”.

Q uan hệ hữu nghị, hợp tác ch ặt chẽ giữa hai Đảng, hai N hà nước
được thực h iện qua các cơ ch ế như ủy ban hỗn hợp về kinh tế, văn
hoá, kh o a học - kỹ th u ậ t, Hội nghị Hợp tác p h á t triể n các tỉn h biên

150
giới V iệt N am - Cam puchia, Hội nghị Xúc tiến đầu tư được tổ chức
hằn g năm , đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy quan hệ hữu nghị
và hợp tác trê n mọi lĩn h vực. Đặc biệt, một số tỉn h , th à n h phô" của hai
nước tuy không có chung biên giới, nhưng cùng nhau k ế t nghĩa, ký các
thỏ a th u ận hợp tác, điển hình như T hành phố Hồ Chí M inh - Phnôm
P ênh, H ải Phòng - Xi-ha-núc-vin và gần đây có th êm nhiều tỉnh,
th à n h của hai nước đang đi theo hướng hợp tác tích cực này.

Hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư giữa hai nước p h á t triển
n h an h chóng. Từ năm 2005, kim ngạch thương m ại h ai nước tăng
tru n g bình khoảng 30-40%/năm. Cụ thể là năm 2007 đ ạ t hơn 1,2 tỷ
USD, 2008 đ ạ t 1,6 tỷ USD, 2009 đạt 1,33 tỷ USD, 2010 đ ạ t 1,8 ty
USD, 2011 đ ạt 2,83 tỷ USD. Hai nước phấn đấu đưa kim ngạch
thương m ại hai chiều đ ạt 5 tỷ USD trong 5 năm tới. H iện nay, Việt
N am đã có hơn 100 dự án được cấp phép đầu tư tạ i C am puchia với
tổn g số vô'n trê n 2,2 tỷ USD, tập trung vào các lĩn h vực viễn thông,
ngân hàng, n ăn g lượng, trồ n g cây cao su, chế biến nông sản...

Cùng với sự p h át triể n của tình đoàn kết hữu n ghị giữa hai Đảng,
hai N hà nước, các cơ quan, lực lượng chức năng và các địa phương biên
giới hai nước đã và đang tích cực phối hợp ch ặt chẽ triể n khai công
tác phân giới cắm mốc biên giới trên bộ để sớm hoàn th à n h công tác
này theo tin h th ầ n chỉ đạo của lãnh đạo cấp cao hai nước. Việc Thủ
tướng C hính phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Chính
phủ H oàng gia Cam puchia Hun Sen cùng dự Lễ kh án h th à n h cấp nhà
nước cột mốc số 314, cột mốc biên giới trên bộ cuối cùng (thuộc tỉnh
K iên G iang của Việt Nam và tỉnh Kam Pốt của Cam puchia) vào đúng
ngày kỷ niệm 45 năm quan hệ ngoại giao Việt N am — C am puchia (24-
6-2012) th ể hiện quyết tâm cao của lãnh đạo Đảng, N hà nước và mong
muốn của n h ân dân hai nước trong việc xây dựng đường biên giới hoà
bình, hữu nghị, hợp tác và p h át triển bền vững.

Quan hệ giữa M ặt trậ n Tổ quốc, Hội phụ nữ, T h an h niên, Liên


hiệp các tổ chức hữu nghị, Hội Hữu nghị Việt N am — C am puchia ngày
càng được tă n g cường với nhiều nội dung hoạt động th iế t thực, góp
ph ần vào việc nân g cao n h ậ n thức cho các tần g lớp n h â n dân, dặc biệt
là th ế hệ trẻ về truyền th ố n g đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, qua đó góp
sức vào việc giữ gìn, vun đắp cho quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn
diện. H ai nước vẫn dàn h cho kiều dân của nhau nhiều th u ận lợi nhằm

151
ổn định cuộc sông, tạo điều k iện bìn h đ ẳn g dể họ tham gia đóng góp
nhiều hơn nữa vào công cuộc xây dựng đ ấ t nước nơ! họ sinh sông. Giao
lưu n h ân dân, n h ấ t là ng àn h du lịch giữa hai nước ngày càng p h á t
triể n . Năm 2011, V iệt Nam trở th à n h nước đứng đầu về lượng du
khách đến Căm -pu-chia với số lượng k hoảng 600.000 lượt người.

Hợp tác về giáo dục, đào tạo v ẫn luôn là ưu tiê n cao tro n g quan
hệ giữa hai nước. H ằng năm , V iệt N am và C am puchia d àn h cho nhau
h àn g tră m su ất học bổng dài h ạ n v à ngắn h ạ n cho sin h viên, ng h iên
cứu sinh, cán bộ của các bộ, n g àn h và địa phương của hai nước. Trong
lĩn h vực y tế, m ặc dù còn nh iều khó kh ăn , như ng n g àn h Y t ế V iệt
N am vẫn d àn h cho người dân C am puchia sông dọc biên giới được
hưởng chê độ k hám chữa bệnh như đôi với người V iệt N am . N gành Y
t ế V iệt Nam thường xuyên cử các đoàn bác sỹ san g khám , mổ m ắt
m iễn phí cho người Cam puchia. Các h o ạt động giao lưu văn hóa, tro n g
đó có việc tổ chức “Tuần V ăn h ó a” của hai nước theo h ìn h thức luân
phiên thường niên đã p h á t huy vai trò là “cầu nối” giúp tă n g cường
hiểu b iết lẫn nhau giữa n h ân d ân hai nước.

Không chỉ tro n g khuôn khổ song phương, hai nước hợp tác và ủng
hộ lẫn nhau tạ i các diễn đàn quốc t ế và khu vực n h ư hợp tá c b a nước
Cam puchia — Lào — V i ệ t Nam , hợp tác n ăm nước C am puchia — Lào —
M i-an-m a - T hái Lan - V iệt N am (ACMECS), C hiến lược hợp tác
kin h t ế ba dòng sông Ayeyavvady - C hao P h ra y a - M ê Kông, Hợp tác
tiểu vùng Mê Kông mở rộng (GMS), H iệp hội các Quốc gia Đông N am
á (ASEAN), D iễn đàn hợp tác á - Âu (ASEM), L iên hợp quốc (UN)...
Q uan hệ hợp tác giữa Bộ N goại giao V iệt N am và Bộ Ngoại giao và
Hợp tác quốc t ế Cam puchia cũng có những bước p h á t tr iể n tích cực.

Tiếp tục k h ẳn g đ ịn h duy trì mối quan hệ hữu nghị, hợp tá c to àn


diện giữa hai Đảng, hai N hà nước, ngày 28-3-2013, tạ i H à Nội, Chủ
tịch nước Trương T ấn Sang và đồng chí Lê H ồng A nh, ú y viên Bộ
C hính trị, Thường trực Ban Bí th ư đã tiếp đoàn đại biểu cấp cao Đ ảng
N h ân d ân Cam puchia (CPP) do đồng chí Xim Ca, ú y viên B an thường
trực Ban Thường vụ T rung ương Đ ảng, Thượng nghị sĩ, Trưởng Ban
Tài chính T rung ương Đ ảng d ẫn đầu. H ai bên đ án h giá cao môi quan
hệ hữu nghị tru y ền thông, hợp tác to àn d iện giữa h ai Đ ảng, hai n h à
nước tro n g thời gian qua, k h ẳ n g đ ịn h mổì quan hệ V iệt N am —
C am puchia ngày càng p h á t tr iể n đi vào chiều sâu, th iế t thực và hiệu

152
quả. Đồng chí Xim Ca bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự ủng hộ giúp dỡ
to lớn, quý báu, kịp thời, có hiệu quả m à V iệt Nam đã dàn h cho
Cam puchia tro n g sự nghiệp giải phóng dân tộc, cứu nhân dân
Cam puchia th o á t khỏi chê độ d iệt chủng cũng như trong sự nghiệp tái
th iế t, xây dựng, bảo vệ đ ấ t nước; khẳng định công lao to lớn đó sẽ mãi
m ãi được khắc ghi tro n g lịch sử dân tộc Campuchia. Đảng, N hà nước
và n h ân dân Cam puchia sẽ làm h ế t sức m ình để giữ gìn, vun đáp cho
mối quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai Đảng, hai N hà nước và
n h ân dân hai nước p h á t triể n lên tầm cao mới. Hai bên khẳng định
tiếp tục phối hợp ch ặt chẽ để triể n khai các thỏa thuận, hiệp định đã
ký và tuyên bô" chung giữa hai Đảng, hai N hà nước. Với lịch sử giàu
tru y ền th ố n g đoàn kết, hữu nghị, hợp tác, quan hệ hai nước sẽ có
nhiều tiềm năn g để p h á t triể n toàn diện, m ạnh mẽ trê n tầm cao mới.
Các cơ ch ế hợp tác đa dạng góp ph ần đưa môi quan hệ giữa hai nước
p h á t triể n theo hướng tích cực, hiệu quả, phù hợp với lợi ích của n h ân
dân hai nước, đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định, hợp tác p h á t
triể n tro n g khu vực và trê n th ế giới.

N hìn lại chặng đường lịch sử 46 n ăm qua, chúng ta tin tưởng mối
quan hệ m ật th iết, gắn bó, tương trợ lẫn nhau giữa hai nước ngày
càng được củng cố và p h á t triển .

T R Ầ N Đ ÌN H A N H
(Nguồn: http:Ị / www.xaydungdang.org.vn)

153
NHỮNG N G À Y THÁNG NHỚ MÃI

LÊ QUÝ HOÀNG

B a mươi lăm n ăm , thờ i g ian trô i đi như chớp m ắt. N gày ấy chúng
tôi - nhữ ng ch àng tra i mới 21, 22 tuổi, chưa từ ng có nhữ ng chuyến đi
xa n h ư t h ế bao giờ. C húng tôi được đi “k h ẩ n cấp” bằn g đường h àn g
không tr ê n chuyến bay AH 24B sô hiệu VN 230B từ Phú B ài (Thừa
T hiên-H uế) vào T rà Nóc (C ần Thơ) rồi cơ động b ằn g ô tô sang nước
bạn. Sở dĩ đi k h ẩ n cấp là vì đội h ìn h Q uân đoàn 2 đã ở m ặt trậ n
chiến đấu rồi, chúng tôi vừa mới rời Trường Sĩ quan C h ín h trị, được bổ
sung về quân đoàn n ên mới được ưu tiên đi bằn g m áy bay như vậy.
Qua Ba Chúc (An G iang), mùi thuốc súng dường như chưa ta n hẳn.
T rê n n hữ ng bức tường còn sót lại ở chùa Ba Chúc, những v ế t máu
th â m đen in tr ê n tường cao h à n g m ét đến rỢn người. N hững giếng
nước tro n g khuôn v iên chùa đầy ắp nước nhưng k hông sử dụng được,
bởi lín h P ôn P ố t đã c h ặ t đầu, ném xác những người d ân vô tội xuống
đây. Qua k ê n h V ĩnh Tế, n h ìn nhữ ng cánh đồng hoang trắ n g xóa,
không m ột bóng người, th ỉn h th o ả n g còn nhữ ng bộ xương người nằm
rả i rác. Đã hơn 12 giờ trư a ngày 2-1-1979, xe đi từ sán g chưa nghỉ,
T ru n g tá N guyễn V ăn T ăng, Chủ nhiệm C h ín h trị Sư đoàn th ô n g báo
da sa n g đ ấ t bạn hưn 7 cây sổ v à c lio p h é p d ộ i h ì n h h à i i l i q u â n d ừ n g
lại ă n trư a tạ i chỗ. Mỗi người có m ột chiếc b án h mì đã khô cứng và ít
nước tro n g bi-đông cá nh ân . C ánh lín h trẻ chúng tôi ào xuống, tra n h
th ủ tìm chỗ rử a tay, chân. M ấy đứa chạy r a ven đường, p h á t h iệ n ra
m ột hô" sâu có ít nước giữa đám lau cỏ um tùm . M ải tra n h n h au đứa
nào cũng m uốn xuống trước n ên cả đám bị trư ợ t xuống gần đáy hố.
M ột cản h tưựng k in h h oàng làm chúng tôi đứng như trờ i trồng, những
m ảng đất, cát bong th eo v ệ t giày trư ợ t xuống, lộ r a n h iều xương, th ịt
người chưa tróc hết. C húng tôi h é t lên, vụt chạy khỏi m iệng hÔL C ảnh
tượng về đ ấ t nước C am puchia với tôi ban đầu là n h ư thế!
Tôi còn nhớ, cái đêm nhóm chúng tôi n ằm ở K i-ni-vông (Túc-mía)
để sán g hôm sau đi tiếp . Xung quanh các đơn vị v à cơ quan ch ín h trị
sư đoàn đã rú t về p h ía cảng Công-pông-som . Đ êm vắng lặn g đến
k hô n g ngờ. C húng tôi p h â n công nhau cảnh giới. M ột đồng đội tê n là

154
An quê ở N inh B ình ngồi tro n g công sự cá n h â n còn cẩn th ậ n cầm
tro n g tay quả lựu đ ạn mỏ v ịt với 2 b ăn g đ ạn AK. A nh bảo, nếu lính
Pôn Pốt đến, sẽ chiến đấu h ế t 2 băng đạn và quả lựu đạn sẽ dành
riên g cho m ình. T h ế m à đêm ấy, lín h Pôn P ốt mò đến th ậ t, đến cũng
n h an h và rú t cũng n h an h . C húng đến để tìm gạo. Thực ra, khi bọn
chúng tới chúng tôi không p hải không b iết, nhưng a n h em có 12
người, chưa rõ tìn h h ìn h địch th ế nào nên chưa nổ súng.
Sáng hôm sau, cả đoàn chờ xe h à n h quân về phía cảng Công-
pông-som. Qua ngã ba C ông-pông-trạch, chúng tôi có m ột đêm ngủ “dể
đời”. Ảy là lúc n h á n hem tối, chúng tôi tìm được căn n h à bỏ hoang 2
tần g ngay ngã ba đường. B ên cạnh đó có m ột cánh đồng bí ngô. Đã
m ấy tu ần không có ngọn rau nào vào bụng, th ế là chúng tôi đ án h liều
vào hái m ột ít rồi nấu với mì ăn liền bằng hăng-gô. Cả nhóm xì xụp
ăn, ai cũng th ấ y ngon. T rên n h à có ba, bôn chiếc giường còn k h á chắc
chắn và có cả chiếu trả i sẵn. M ấy an h em th ấ y th ế lăn ra ngủ vì cả
tu ần nằm võng, xem ra khoan khoái lắm! A nh Hữu (sau này về Tổng
cục Hậu cần, nay cũng đã nghĩ hưu) bảo tôi: “Giường lâu ngày không
có người nằm , khéo đầy rệp đấy ông ạ!”. N ghe th ấ y th ế , tôi và an h
Hữu liền trả i ni-lông ra đ ất n ằm ngủ. Vậy m à sán g dậy, hai a n h em
lại an toàn n h ấ t vì m ấy a n h n ằm trê n giường đã bị lũ rệ p cắn khắp
người. Chưa h ế t, chúng tôi ra cái ao nhỏ múc nước rửa m ặt, n h ìn
những vết m áu và th i th ể người chưa rã h ế t b ên m ép nước, bấy giờ
mới th ấy rợn người vì bữa mì tối qua, a n h em đã múc nước từ ao này
đổ nâu ăn.

Sau khi th ủ dô Phnôm P ên h được giải phóng (7-1-1979), Sư đoàn


304 ở lại khu vực cảng Công-pông-som làm nhiệm vụ. M ột bộ phận
của SƯ đoàn đảm n h iệm B an quân quản do T rung tá H oàng V ăn
C hính, Phó tư lện h sư đoàn làm Chủ tịch (sau này là Đại tá, Chỉ huy
trưởng tỉn h đội H à Bắc, đại biểu Quốc hội-đã m ất). H ằng ngày, ngoài
việc cùng các an h H ùng (quê ở T h an h Hóa), a n h T oán (H ải Dương) đi
kiểm tra , bảo vệ các kho tà n g m à sư đoàn quản lý để tra o tr ả bạn, tôi
còn được giao n h iệm vụ lấy sơn kẻ vẽ các k h ẩu hiệu treo ở các công sở,
doanh trạ i các đơn vị và cả ngoài đường bằng chữ Cam puchia. Khổ
nỗi, tôi chỉ bập bẹ được m ấy câu xã giao, còn chữ th ì chịu. R ất may,
anh Bùi T hiện C hinh, Trưởng b an Tuyên huấn sư đoàn (sau n ày là
Phó Cục trưởng Cục Tư tưởng-Văn hóa TCCT- nay là Cục Tuyên huấn),
dẫn về hai người vốn là th ầy giáo dạy học của b ạn để cùng th am gia.

155
H ai th ầ y giáo tê n là Sờ-vai và Pòn-ti cùng m ột đội viên nữ tê n là Ka-
hai, v iết chữ C am puchia, tôi theo đó m à v iết r a to hơn. Hôm nào
không v iết, chúng tôi lại m ay cờ của b ạn (lúc đó là cờ m àu đỏ, ở giữa
có 5 ngọn th á p vàng) rồi đem treo ở những nơi đã treo khẩu hiệu. Nội
dung khẩu hiệu tôi được hiểu là kêu gọi b in h lính Pôn P ố t quay về với
n h ân dân và M ặt tr ậ n Đoàn k ế t D ân tộc Cứu nước C am puchia; kêu gọi
n h â n d ân đoàn k ế t xung quanh M ặt t r ậ n để xây dựng đ ấ t nước
C am puchia hòa b ình, độc lập, tru n g lập và d ân chủ.
Ở cảng Công-pông-som , chúng tôi có nh iều đêm không ngủ, trong
đó có đêm Giao th ừ a T ế t Kỷ Mùi (1979). C húng tôi ngồi nghe Bác Tôn
chúc T ết m à lòng nhớ n hà, nhớ quê hương, bè b ạn da diết! Tôi nao
nao tro n g lòng vì giờ n ày ở quê, chắc mẹ tôi buồn lắm , m ột m ình lủi
th ủ i giữa m ấy g ian n h à trô n g vắng. Bô' m ấ t sớm , m ấy chị em tôi lớn
lên mỗi người mỗi ngả... N hưng có m ột đêm m ấy a n h em chúng tôi
không ngủ thực sự, đó là đêm 17-2 kh i buổi thờ i sự 21 giờ 30 phút của
Đài T iếng nói V iệt N am th ô n g báo chiến tr a n h b iên giới p h ía Bắc nổ
ra, tôi lại càng b àn g hoàng vì gia đìn h chị và em gái đan g ở vùng
chiến sự C am Đường (Lào Cai). K hoảng 22 giờ, chúng tôi được trê n
th ô n g báo, p h ía b ắc-tây bắc đảo Dừa có m ột số tà u lạ, cả đơn vị lao
vào vị trí ch iến đấu. C húng tôi ôm c h ặ t súng thức trắ n g đêm trong
tiến g pháo 130m m ùng oàng b ắn cầm can h ra biển...
Cứ ngỡ sẽ ở lại đ ấ t nước C hùa T háp lâu hơn. Đ ùng m ột cái, chúng
tôi n h ậ n lện h h à n h quân gấp về V iệt N am và r a Bắc. Cuộc chia tay
th ậ t bịn rịn , n h â t là m ấy người bạn da cùng tôi v iết khẩu hiệu, may
cờ. Tôi n hớ n h ư in nhữ ng cánh ta y của các b ạn , của người dân
Cam puchia vẫy m ãi và cả những giọt lệ trê n m á tiễ n chúng tôi ở
Prây-núp ngày 4-3-1979.
G ần chục n ăm sau (1987), tôi được san g Thủ đô P hnôm Pênh,
được di th ă m chùa V àng và n h à tù Tuôl Sleng, lúc ấy cả t a và bạn
kinh t ế còn đan g khó k h ăn do bao vây, cấm vận từ bên ngoài, nhưng
nhữ ng gương m ặ t người dân v ẫn to á t lên vẻ cương nghị, tin chắc sẽ
vượt qua khó k h ă n xây dựng cuộc sống mới.
T h án g 4-2011, tôi được Ban Biên tậ p Báo Q uân đội n h â n dân
giao n h iệm vụ đi cùng m ột số báo, đài th á p tù n g Thủ tướng C hính phủ
N guyễn T ấn D ũng san g th ăm , làm việc tạ i C am puchia và đồng chủ trì
Hội nghị Xúc tiế n Đầu tư V iệt N am — C am puchia lầ n th ứ hai. Trước
giờ bay, tôi gặp Đ ại tá Say-sô Van, Tùy v iên quân sự và cô" vấn quân
156
đội bên cạnh Đại sứ quán Vương quốc Campuchia tạ i V iệt N am ở S ân
bay Nội Bài. Qua trò chuyện, biết tôi đã từng ở đ ấ t nước C hùa T háp
những năm th á n g b ạn đang còn khó khăn, Đại tá Say-so V an và tôi
nói chuyện như những người th â n lâu ngày gặp lại.
Chuyến đi tuy ng ắn ngủi, nhưng đối với tôi sau hơn 20 n ăm trở
lại, được chứng kiến sự th ay đổi th ầ n kỳ trê n đ ấ t nước C hùa Tháp.
T h ậ t vui mừng, quan hệ hai nước anh em ngày càng g ắn bó. Đặc biệt
là p h á t triể n k inh tế, văn hóa, xã hội. Từ năm 1994 đến nay, V iệt
N am đã có 126 dự á n đầu tư tạ i Campuchia với tổng sô" vốn hơn 3 tỷ
USD, đứng th ứ 5 tro n g tốp những nhà đầu tư lớn tạ i đây. Do những
th u ậ n lợi về quan hệ hữu nghị truyền thống cũng như về m ặ t địa lý,
những năm gần đây, ngày càng nhiều doanh nghiệp V iệt N am quan
tâm , san g tìm hiểu th ị trường và tìm kiếm cơ hội đầu tư, kinh doanh ở
Cam puchia, đặc b iệt là các lĩnh vực du lịch, tà i chính, ngân hàng,
thương m ại, viễn thông, trồ n g cao su, nông nghiệp, khai th ác khoáng
sản... T rong số các n hà đầu tư của Việt Nam vào C am puchia, có nhiều
người thuộc th ế hệ chúng tôi vốn đã từng giúp bạn tro n g những năm
1979-1989.
N hững th á n g ngày ở Cam puchia là những ngày đáng ghi nhớ
tro n g cuộc đời quân ngũ của tôi. Cho đến bây giờ, chúng tôi vẫn luôn
tự hào là đã đóng góp m ột phần nhỏ bé vào sự hồi sin h của dân tộc
Cam puchia. Tôi nhớ m ãi lời hai anh Sờ-vai và P òn-ti nắm tay tôi,
nhắc đi nhắc lại trước lúc chúng tôi chia tay: “V iệt N am là người bạn
thúy chung n h â t cúa C am puchia, bộ đội Việt Nam, Bộ đội Cụ Hồ là đội
quân n h à P h ậ t đôi với d ân tộc chúng tôi. V iệt N am — C am puchia Xa-
m a-ki, xa-m a-ki”.

LÊ QUÝ HOÀNG
(Nguồn: Quăn đội nhăn dân)

157
CÁCH MẠNG CAM PUCHIA VÀ DÂU ẤN
QUÂN TÌNH NGUYỆN VIỆT NAM
TR ÊN ĐẤT NƯỚC CHÙA THÁP

Đại tá, TS. DƯƠNG ĐÌNH LẬP

Đáp lời kêu gọi k h ẩn th iế t của ú y ban T rung ương M ặt trậ n


Đoàn k ế t dân tộc cứu nước và n h ân d ân C am puchia, cuối n ăm 1978,
Quân tìn h nguyện V iệt N am lên đường làm ng h ĩa vụ quốc t ế cao cả,
giúp lực lượng vũ tra n g cách m ạng C am puchia mở cuộc tiến công tiêu
d iệt ch ế độ Pôn Pôt, cứu n h â n dân Cam puchia th o á t khỏi họa d iệt
chủng. T iếp đó, theo đề nghị của Hội đồng n h â n d ân cách m ạng
Cam puchia, Đảng, N h à nước V iệt N am quyết địn h để m ột bộ ph ận
Quân tìn h nguyện ở lại Cam puchia, cùng với lực lượng chuyên gia d ân
sự giúp cách m ạng và n h â n dân nước B ạn bảo vệ th à n h quả cách
m ạng, xây dựng lại đ ất nước. Hơn 10 năm làm n h iệm vụ quốc t ế ở
C am puchia, Q uân tìn h nguyện V iệt N am đã vận dụng sán g tạo đường
lối, phương châm , nguyên tắc giúp B ạn của Đ ảng và N hà nước V iệt
Nam, hoàn th à n h th ắ n g lợi nhiệm vụ giúp cách m ạn g và n h â n dân
Cam puchia, được n h ân dân Cam puchia yêu m ến, gọi là “Bộ đội n h à
P h ậ t”. N hững việc làm đó được th ể hiện ở m ột sô' lĩn h vực chủ yếu sau:

1. Đ ánh đ ổ ch ế độ d iệt chủng Pôn Pốt —Iẽng-X ary, cứu nhân dân
C am puchia thoát khỏi họa diệt chủng. Sau th ắ n g lợi của cuộc k h án g
chiến chông Mỹ (17-4-1975), n h â n dân C am puchia h y vọng sẽ được
sống tro n g độc lập, hòa bình và hòa hợp dân tộc, cùng nhau xây dựng
đ ất nước. Nhưng th à n h quả cách m ạng và nguyện vọng chính đáng
của n h â n d ân Cam puchia đã bị lực lượng Khơ-me Đỏ, do Pôn P ôt —
Iêng-X ary cầm đầu tước đoạt. Hơn thế, chúng còn tiế n h à n h th ả m sát,
gây ra n ạn d iệt chủng khủng khiếp, k h iến hàng vạn người d ân cùng
những người cách m ạng phải lá n h sang V iệt N am và k h ẩ n th iế t đề
nghị V iệt Nam cứu giúp.

158
N hân dân Campuchia lưu luyến tặng quà
Quăn tình nguyện Việt Nam (năm 1989). (Nguồn:sggp.org.vn)

Đáp lại lời kêu gọi cứu giúp của M ặt trậ n Đoàn k ế t dân tộc cứu
nước C am puchia và khắc sâu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí M inh “giúp
n h ân dân nước bạn tức là m ình tự giúp m ình”, Quân tìn h nguyện Việt
N am dã san g giú p lực lưựng VQ tran g và nh an dan Cam puchia danh dò
chê độ Pôn Pôt, giải phóng Thủ đô Phnôm Pênh, giải phóng đ ất nước.
Sự có m ặt của Quân tìn h nguyện V iệt N am tại Cam puchia là niềm hy
vọng duy n h ấ t của người dân Campuchia: “Chúng tôi theo đạo P h ật,
ngày đêm cầu trờ i, k h ấn P h ậ t cứu giúp, nhưng ngày này qua ngày
khác không th ấ y ai đến. Chúng tôi nghĩ trê n cõi đời này chỉ có Việt
N am có th ể cứu chúng tôi. Quả nhiên Bộ đội V iệt N am đã đến”1. Và
“Nếu họ (Việt N am ) không đánh đuổi bọn Pôn P ốt thì t ấ t cả mọi người
(Cam puchia) có th ể đã bị chết. Không chỉ riên g tôi (Quốc vương Xi-ha-
núc) m à là mọi người. Chúng (Khơ-me Đỏ) đã có th ể giết chết tấ t cả
chúng ta, ít n h ấ t th ì chúng ta cũng đã được sống sót và chính vì diều
này m à chúng ta có th ể nói rằ n g Đ ảng N hân dân Cam puchia đã
không mắc sai lầm (khi đề nghị Việt Nam giúp đỡ chống Khơ-me Đỏ),
bởi vì nếu chúng ta không dược giải phóng khỏi bọn Pôn P ôt th ì toàn
dân tộc có th ể đã bị tiêu d iệt”2. Điều dó khẳng định, Đ ảng và N hà
159
nước V iệt N am quyết định đưa Q uân tìn h nguyện V iệt N am sang giúp
lực lượng vũ tra n g cách m ạng và n h â n d ân C am puchia lậ t đổ c h ế độ
diệt chủng là việc làm chính nghĩa, th ể h iệ n sâu sắc tru y ền thông, đạo
lý của dân tộc V iệt N am trước sự sông còn của m ột d ân tộc.

2. C ùng quân và dân C am puchia từ ng bước đ á n h bại m ọi âm


mưu, th ủ đoạn quân sự của Pôn P ôt hòng kh ô i p h ụ c c h ế độ d iệt
chủng. Với th ắ n g lợi vĩ đại ngày 07-01-1979, các lực lượng vũ tra n g và
n h ân dân Cam puchia được sự giúp đỡ của Q uân tìn h nguyện V iệt Nam
đã đ án h đổ bộ m áy th ông trị của tậ p đoàn P ôn P ôt — Iêng-X ary từ
T rung ương đến cơ sở. T h ế nhưng, tà n quân Pôn P ố t còn k h ỏ an g 4 vạn
quân do bọn đầu sỏ chỉ huy, rú t chạy về ẩ n náu ở các vùng biên giới
phía Tây, Tây Bắc và m ột sô' nơi tro n g nội địa C am puchia. C húng dựa
vào sự giúp đỡ của bên ngoài tiếp tục chông p h á cách m ạn g
Cam puchia; đẩy m ạn h các h o ạt động ch ín h trị, ngoại giao, hòng tạo
sức ép đẩy Quân tìn h nguyện V iệt N am ra khỏi C am puchia tro n g lúc
lực lượng cách m ạng của B ạn còn yếu, hy vọng p h ả n công chiếm lại
thủ đô Phnôm P ên h với ảo tưởng lập lại ch ín h quyền.

Trước tìn h h ìn h đó, bảo vệ vững chắc th à n h quả cách m ạn g vừa


giành được là n h iệm vụ cấp th iế t h à n g đầu của n h â n d ân Cam puchia.
Ngày 18-02-1979, C hính phủ Cộng hòa n h â n d ân C am puchia và
C hính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa V iệt N am ký H iệp địn h Hòa
bình, hữu nghị và hợp tác. H ai bên tiếp tục k h ẳ n g địn h tă n g cường
đoàn k ế t chiến đấu, hợp tác hữu nghị lâu dài và giúp dỡ lẫn nhau về
mọi m ặt để củng cô' n ền độc lập, xây dựng đ ấ t nước phồn vinh và cuộc
sống h ạn h phúc của n h ân dân mỗi nước.

Thực h iện những cam k ế t ghi tro n g H iệp định, V iệt N am đã để


lại m ột bộ ph ận Quân tìn h nguyện, đồng thờ i, cử các đoàn chuyên gia
sang giúp cách m ạng và n h â n d ân C am puchia. Đ ây là việc làm phù
hợp nguyện vọng của Đảng, N hà nước, n h â n d ân C am puchia, th ể hiện
sâu sắc tin h th ầ n quốc t ế cao cả, tro n g sán g của Đ ảng, C h ín h phủ,
n h â n dân V iệt Nam , phù hợp với lu ậ t p h áp quốc tế. C ùng việc giúp
Bạn xây dựng, củng cố chính quyền n h â n dân, từ n ăm 1979-1982,
Quân tìn h nguyện V iệt N am giiip các lực lượng vũ tra n g cách m ạng
Cam puchia vừa xây dựng lực lượng, vừa phối hợp chiến đấu tru y quét
tà n quân Pôn P ôt ở các vùng biên giới p h ía Tây, T ây Bắc và nội địa.
N hờ dó, lực lượng cách m ạng C am puchia dần lớn m ạn h , từ ng bước

160
gánh vác được công việc của m ình. Đến năm 1983, Bạn đã tự bảo vệ
được Thủ đô Phnôm P ênh, cảng Kông-pông Xom; năm 1984 quản lý
thêm 4 tỉn h : Svây-riêng, Prây-veng, Kông-pông Chàm , K an-đan và
m ột số huyện ở các tỉn h khác. N ăm 1985, B ạn dã quản lý, làm chủ
được m ột p h ần trê n tuyến biên giới phía Tây Campuchia, cùng Quân
tìn h nguyện V iệt N am mở nhiều cuộc tiến công tiêu diệt, triệ t phá các
căn cứ ở biên giới, ngăn chặn h àn h động phá hoại của địch. Nhiều
trậ n đán h , lực lượng của B ạn là nòng cốt, Quân tìn h nguyện V iệt Nam
phôi hợp, hoặc làm lực lượng dự bị sẵn sàng cơ động hỗ trợ khi cần
th iết. N hờ tố’ chức phối hợp chiến đấu và vận dụng cách đánh hợp lý,
Quân tìn h nguyện và B ạn đ ã tiêu diệt, làm ta n rã nhiều đơn vị của lực
lượng Pôn Pôt, đ án h bại k ế hoạch “chiếm đất, giành dân” của chúng,
bảo vệ vững chắc công cuộc xây dựng, hồi sinh đ ất nước Chùa Tháp.

3. G iúp nhân dân C am puchia khôi phục sản xuất, ổn địn h đờ


sống, hồi sin h và p h á t triển dắ t nước. C hế độ Pôn Pốt đã bị đánh đổ,
nhưng hậu quả gần 4 năm th ô n g trị của chúng để lại vô cùng nặng nề.
N ền k in h t ế nước b ạn bị đẩy đến bờ vực thẳm ; cơ sở vật chất, phương
tiện và công cụ sản xuất bị p h á hoại, sức sản xuất bị tổn th ấ t nghiêm
trọng, các phương thức canh tác quen thuộc bị xóa sạch,... Đảng, N hà
nước C am puchia dự tín h p hải p h ấn đấu nhiều năm mới khôi phục
dược. Song, với sự giúp đỡ chí nghĩa, chí tìn h của Đảng, C hính phủ và
n h â n d ân V iệt Nam , trực tiếp là Q uân tìn h nguyện và đội ngũ chuyên
gia giỏi ở t ấ t cả các lĩnh vực: K inh tế, chính trị, y tế, giáo dục,... đã
giúp n h ân d ân C am puchia d àn vượt qua kho khan, thach thửc.

Trước h ế t, Q uân tìn h nguyện V iệt N am xác định đánh địch và


cứu n h â n d ân C am puchia th o á t khỏi n ạn dói là hai việc cấp bách như
nhau. Ngay sau k h i giành được chính quyền, Đảng, N hà nước
C am puchia p h ải tậ p tru n g cứu h à n g triệu người đang bị đói và bệnh
t ậ t đe dọa nghiêm trọng. Trong 6 th án g đầu năm 1979, cả nước
C am puchia có 2,4 triệ u người đói th ì m ột th án g sau, n ạn đói đã đe dọa
3,2 triệu người (60% dân số). M ặc dù, vào thời gian này, V iệt Nam
cũng đang gặp r ấ t n h iều khó kh ăn , nhưng vì m ột đ ất nước Cam puchia
hòa bình, ổn d ịnh và p h á t triể n , Đảng, N hà nước và n h ân dân Việt
N am , n h ấ t là chính quyền và n h â n dân các tỉn h ven biên giới đã
nhường cơm, sẻ áo với Bạn. N hững chuyến hàng nặng trĩu nghĩa tìn h
ngày đêm nôi đuôi nhau sang cứu đói và phục vụ sản xuất nông
nghiệp. Cùng với đó, Quân tìn h nguyện còn giúp Bạn mở cảng biển

161
K ông-pông Xom và khôi phục tuyến đường s ắ t từ cảng đến Phnôm
P ên h , góp p h ần vận chuyển hơn 200 n g àn tấ n lương thực do các nước
viện trợ (trong đó V iệt Nam giúp k h o ản g 45 ngàn tấ n ) về phân phôi
đến từng người dân. Vì thế, đến cuối năm 1980, dầu năm 1981,
C am puchia cơ bản đã ngăn chặn được nạn đói.

M ột tro n g những vấn đề cấp bách cũng cần k h ẩ n trương giải


quyết là đưa người d ân chạy n ạn trở về quê hương. Giúp Bạn thực
h iện n h iệm vụ này, Quân tìn h nguyện đã sử dụng mọi phương tiệ n
v ận chuyển, đưa hơn 1 triệu dân đang chịu cảnh m àn trờ i, chiếu đất,
xáo trộ n chỗ ở trở về quê cũ - nơi m à ch ế độ Pôn P ố t đã buộc họ phải
rời bỏ trước đây - sớm ổn định cuộc sống. Đôi với những nơi chưa có
điều k iện, ta động viên bà con tạm ở lại làm ăn, kh i tìn h h ìn h cho
phép sẽ đưa họ trở về. Quân tìn h nguyện đã đóng góp công sức, vật
liệu giúp xây dựng lại n h à cửa, trường học, bện h xá, p h â n p h át dụng
cụ gia đình, công cụ sản xuất, h ạ t giông, con giống để n h â n dân B ạn
khôi phục sản xuất. Được sự giúp đỡ tậ n tìn h h ế t lòng, h ế t nghĩa của
V iệt N am , trực tiếp là công sức, xương máu, trí tuệ của Quân tìn h
nguyện và sự nỗ lực cô" gắng vươn lên của n h â n dân C am puchia, cuối
năm 1979, m ột số nơi đã có lúa gặt, góp ph ần quan trọ n g đẩy lùi n ạn
đói.

Đ ể khắc phục dịch bệnh đang h o àn h h à n h k h ắp nơi ở


C am puchia, các đơn vị Quân tìn h nguyện n h a n h chóng cử đội ngũ
quân y cùng chuyên gia y t ế V iệt N am sang, giúp b ạn từ ng bước khôi
phục hệ th ô n g chăm sóc sức khoẻ, tổ chức kh ám chữa b ện h cho n h ân
dân; dồng thời, giúp n h ân dân vệ sin h th ô n , bản, làng, xã, phố,
phường thực h iện phòng, chông dịch bệnh,... B ằng các h o ạ t động hiệu
quả tro n g chiến đấu bảo vệ dân, giúp đỡ d ân từng bước ổn định đời
sông, Q uân tìn h nguyện V iệt Nam đã để lại ấ n tượng tô't đẹp trê n đ ất
nước C hùa T háp xinh đẹp. “Bộ đội n h à P h ậ t” đã giúp nhân dân
C am puchia thực h iện cuộc hồi sinh d ân tộc vĩ đại, góp p h ần củng cố
và p h á t triể n tìn h đoàn k ế t tru y ền th ố n g giữa hai d ân tộc V iệt N am -
Cam puchia.

4. G iúp Đ ảng N h â n dân cách m ạng C am puchia xây dựng chính


quyền, lực lượng vũ trang và các tổ chức đoàn thể. Từ th án g 5 đến
th á n g 12-1978, các quân khu 5, 7, 9 của V iệt Nam giúp B ạn xây dựng
được 22 tiểu đoàn bộ binh, 69 đội công tác. Sau khi đán h đổ c h ế độ

162
d iệt chủng, nh ân dân Campuchia r ấ t lo quân Pôn P ố t trở lại tà n sát
nếu bộ đội V iệt Nam rú t về nước. Theo yêu cầu của Bạn, Quân tìn h
nguyện V iệt Nam ở lại giúp xây dựng lực lượng vũ tran g cách m ạng
C am puchia theo phương châm: Lúc đầu đưa B ạn vào các đơn vị của ta
tổ chức hỗn hợp để kèm cặp, dìu dắt; sau dó, tách Bạn ra th à n h các
đơn vị độc lập được tran g bị vũ khí m ạnh, huấn luyện về mọi m ặt;
đồng thời, giúp Bạn xây dựng lực lượng dân quân du kích ở cơ sở. Đến
th án g 01-1989, Bạn đã xây dựng được lực lượng vũ tra n g ba th ứ quân,
gồm các sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn chủ lực, các đơn vị binh chủng
với tổ n g quân sô' khoảng 130 ngàn người; trong đó, bộ đội chủ lực hơn
48 ngàn, bộ đội địa phương hơn 80 ngàn người... Không chỉ giúp Bạn
xây dựng lực lượng vũ trang, Quân tìn h nguyện còn cùng với đội ngũ
chuyên gia giúp Bạn xây dựng hệ thông chính quyền cách m ạng từ
T rung ương xuống địa phương và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ các cấp ở 21 tỉnh, th àn h phố, 169 huyện, thị trấ n , hơn 1.500
xã, phường và trê n 12 ngàn ấp; đồng thời, xây dựng các tổ chức công
đoàn, phụ nữ, đoàn th à n h niên từ Trung ương đến cơ sở, góp phần bảo
vệ và xây dựng đất nước.

Hơn 10 năm giúp cách m ạng và n h ân dân Cam puchia là quá


trìn h ph ấn đấu, chịu đựng biết bao khó khăn, thiếu thốn, gian khổ;
tro n g đó, h àn g vạn cán bộ, chiến sĩ Quân tìn h nguyện đã hy sinh. Ghi
n h ận những đóng góp to lớn đó, N hà nước Cam puchia đã tặ n g Quân
tìn h nguyện V iệt Nam 25 Huân chương Ảng-co, 116 H uân chương Bảo
vệ TỔ q u ố c liạng N hất, 3 Huân chương Bảo vẹ Tổ quốc hạng Nhi cho
các đơn vị; 183.090 H uân chương Bảo vệ Tổ quốc các hạng cho cán bộ,
chiến sĩ cùng nhiều phần thưởng cao quý khác3.

Thực h iện đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng, Quân tìn h
nguyện V iệt Nam đã giải quyết hài hòa giữa nhiệm vụ dân tộc và
nhiệm vụ quốc tê cao cả, m ang ý nghĩa n h ân văn sâu sắc: Giúp cách
m ạng và n h â n dân Cam puchia th o á t khỏi chê độ diệt chủng (1979),
thực h iện hồi sinh và p hát triển đ ất nước, k ết thúc nhiệm vụ giúp
cách m ạng Campuchia, rú t quân về nước (1989). Hơn 10 năm trê n đất
nước Chùa Tháp, Quân tình nguyện dã ghi dấu ấn sâu sắc về bản chất
cách m ạng và truyền thống vẻ vang của Quân đội nh ân dân Việt Nam,
góp phần tô th ắm tình đoàn kết chiến đấu giữa quân đội và n h ân dân
hai nước V iệt Nam — Campuchia.

163
Ngày nay, cách m ạng V iệt Nam và cách m ạn g C am puchia đã
chuyển sang giai đoạn mới có nhiều th u ậ n lợi, như ng cũng đứng trước
những khó kh ăn , th ách thức, đòi hỏi cần tiế p tục tă n g cường hơn nữa
mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị, hợp tác giữa quân đội và n h â n dân
h ai nước tro n g công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của m ỗi nước,
góp p h ần giữ vững ổn định, củng cô" hòa bình, hợp tá c và p h á t triể n
trê n bán đảo Đông Dương, Đông Nam Á và trê n t h ế giới./.

Đ ại tá, TS. DƯƠNG ĐÌNH LẬP

1 Quăn dội nhăn dăn Việt N am với sự nghiệp dổi mới xây dựng và bảo vệ T ổ quốc, Nxb
QĐND, H. 2004, t r 146.
2 Tin Kinh doanh - Báo Campuchia, ngày 08-9-1995.
3 Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Lịch sử Quân tinh nguyện và
chuyên gia Quán sự Việt N am giúp cách mạng Campuchia (1978-1989), Nxb QĐND, H.
2010, tr. 422.

164
35 NĂM NHÌN LẠI “Sự KIỆN LỊCH s ử 07-01-1979”
TRONG QUAN HỆ VIỆT NAM - CAMPUCHIA

PGS, TS. HỒ KHANG

Cùng nằm trê n bán đảo Đông Dương, cùng uông chung dòng nước
ngọt ngào của sông Mê Kông, cùng tựa lưng vào dãy núi Trường Sơn
hùng vĩ, có những n é t lịch sử - văn hóa tương đồng, Việt N am và
Cam puchia sớm có môl quan hệ m ật th iế t, m áu th ịt. H ình th à n h tro n g
những th án g , năm gian nan dựng nước và giữ nước, trả i qua những
th ăn g trầ m lịch sử, như “lửa đã th ử vàng”, quan hệ V iệt N am —
Cam puchia là môi quan hệ chiến lược, gắn bó bền chặt m ột cách tự
nhiên.

1. Do vị trí địa lý đặc thù, cùng là mục tiêu xâm lược, nhòm ngó
của nhiều kẻ th ù từ bên ngoài; ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau vừa là nghĩa
vụ, vừa là trá c h nhiệm , lương tâm của hai dân tộc V iệt N am —
Campuchia. T rong sự nghiệp đấu tra n h giải phóng dân tộc, tro n g điều
kiện Đông Dương là m ột chiến trường, n h ân dân hai nước V iệt Nam,
Cam puchia đã s á t cánh cùng nhau chung m ột chiến hào để bảo vệ nền
độc lập vô giá. T rong hai cuộc kháng chiến chông thực dân Pháp và đê
quốc Mỹ xâm lược, C hính phủ V iệt N am đặc biệt chú trọ n g đoàn k ết
với n h ân d ân Cam puchia. T rên quan điểm “giúp bạn là tự giúp m ìn h ”,
Đ ảng Lao động V iệt N am chủ trương củng cô' liên m inh chiến đấu với
n h ân dân Cam puchia để kháng chiến giành độc lập và thông n h ấ t
th ậ t sự1, đứng trê n lập trường lợi ích chung m à hợp tác lâu dài trong
kh án g chiến và sau k h án g chiến2.

C hiến th ắ n g Đ iện B iên Phủ năm 1954 và việc ký k ết H iệp định


Giơ-ne-vơ không chỉ mở ra vận hội mới đôi với cả hai dân tộc Việt
N am — Cam puchia, m à còn là dấu môc quan trọ n g trong quá trìn h
củng cố, p h á t triể n quan hệ Việt Nam — Campuchia. Thực h iện chính
sách hòa bình, mở rộng quan hệ đôi ngoại với các nước láng giềng,

165
năm 1960, C h ín h phủ V iệt N am d ân chủ cộng hòa tuyên bô': “C húng ta
hoan n g h ên h và ủng hộ đường lốì h ò a bình tru n g lậ p của C am puchia
và sẽ tă n g cường hơn nữa quan h ệ hữu nghị với Vương' quốc
C am puchia”3. T rên thực tế, C hính phủ và n h â n d ân V iệt N am luôn
ủng hộ sự lựa chọn con đường tru n g lập v à cuộc đấu tra n h bảo vệ độc
lập của Vương Quốc C am puchia do Quốc vương Nô-rô-đôm Xi-ha-núc
đứng đầu.

Đáp lại th iệ n chí và tìn h cảm của n h â n dân V iệt N am , th á n g 3-


1964, C h ín h phủ C am puchia tu y ên bố cắ t đứt các quan hệ ngoại giao
với C h ín h quyền Sài Gòn. T iếp đó, th á n g 6-1967, C hính phủ
C am puchia n â n g cấp đại d iện thường trự c C hính phủ V iệt N am dân
chủ cộng hòa th à n h cơ quan Đ ại sứ quán. Đây là sự ủng hộ có ý nghĩa
to lớn, quan trọ n g của C am puchia dối với N hà nước và n h â n d ân V iệt
N am đan g gồng m ìn h chiến đấu với đ ế quốc Mỹ. Từ năm 1970, cuộc
k h á n g ch iến chông đ ế quốc Mỹ xâm lược của n h â n dân C am puchia
p h á t triể n n h a n h chóng, lực lượng vũ tra n g lớn m ạnh, vùng giải
phóng không ngừng mở rộ n g cùng hòa chung vào nhịp p h á t triể n sôi
động, m ạn h mẽ của cuộc đấu tra n h g iàn h độc lập tr ê n bán đảo Đông
Dương. Trước tìn h h ìn h đó, V iệt N am ủng hộ, tiếp sức cho Đ ảng N hân
d ân C am puchia đấu tra n h chông đ ế quốc Mỹ, chống chính quyền Lon-
non. g iàn h vị t r í hợp pháp. Sự cố gắng nỗ lực và hy sin h xương m áu
của n h â n dân Đ ông Dương đã được đền đáp xứng đáng: M ùa Xuân
1975, Đông Dương được hoàn to àn giải phóng. Đ ây là “th ắ n g lợi của
tìn h đoàn k ế t ch iến đấu không gì lay chuyển nổi của n h ân dân ba
nước V iệt Nam , Lào và C am puchia, của mối quan hệ đặc b iệt đã có từ
lâu tro n g lịch sử và được th ử th á c h tro n g ngọn lửa cách m ạng”4.

2. Bước ra khỏi khói lửa chiến tra n h , các d ân tộc trê n b án đả


Đông Dương có cùng m ục tiêu tiế n lên trê n con đường xây dựng đất
nước, xây dựng Đ ông Dương h ò a bìn h , tiế n bộ và th ịn h vượng. Trong
bôi cản h lịch sử mới, Đ ảng, N h à nước V iệt N am k h ẳ n g địn h quyết
tâ m “làm cho ba nước Đông Dương vốn đã g ắn bó với nhau tro n g cuộc
đấu tra n h giải p h ó n g d ân tộc sẽ m ãi m ãi gắn bó với nhau tro n g sự
ng h iệp xây dựng và bảo vệ đ ấ t nước, vì độc lập và phồn vinh mỗi

166
nước”5. Tuy n h iên, khi cơ hội và k h ả n ăn g p h á t triể n đang mở ra
trước các dân tộc Đông Dương, n h â n d ân C am puchia lạ i p h ải hứng
chịu những th ử th ách khắc nghiệt: T ập đoàn Pôn P ốt - Iêng-X ary
dựng lên m ột chê độ d iệt chủng kỳ quái, phi n h á n tín h có m ột không
hai tro n g lịch sử, lạ n h lùng biến ốc đảo th a n h bình với n ền văn m inh
Ăng-ko rực rỡ th à n h đống đổ n á t, hoang tà n , u ám , ch ế t chóc. Dưới
bàn ta y tà n bạo của tậ p đoàn Pôn P ố t — Iêng-X ary, dấu ấn của m ột
đ ất nước hiền hòa, th â n th iệ n đã hoàn to àn biến m ất. Đ ất nước C hùa
T háp x inh xắn, h iề n hòa bị biến th à n h m ột trạ i khổ sai khổng lồ, b iệt
lập, đầy rẫy những hô" chôn người với những khuôn m ặt câm lặng, hóa
đá vì sợ hãi.

K hông chỉ h à n h xử m an rợ với đồng bào m ình, d ân tộc m ình, tậ p


đoàn Pôn P ố t — Iêng-X ary còn h ế t sức hiếu chiến. Với nước lán g giềng
V iệt N am đã từng “sớm tôl có n h au ”, C h ín h quyền Pôn P ố t tiế n h à n h
các cuộc xâm lấn, đ án h chiếm biên giới tro n g thời gian dài với cường
độ, tầ n su ất ngày càng gia tăng. H àng lo ạ t các cuộc tà n sát, th ả m s á t
dọc biên giới V iệt Nam — C am puchia do tậ p đoàn Pôn P ôt gây nên
không chỉ để lại m ột v ết đen tro n g quá khứ đau thương của n h â n dân
Cam puchia, m à còn ả n h hưởng trự c tiếp đến hòa bình, ổn địn h trê n
toàn cõi Đông Dương cũng như tro n g khu vực.

Du mọi h an h dọng cúa C hinh quyèn Fon f o t dá vượt quá giới


hạn, song vì mục tiêu gìn giữ hòa bình, gìn giữ quan hệ láng giềng hòa
hiếu, gìn giữ tìn h hữu nghị V iệt N am — C am puchia, Đ ảng, N hà nước
V iệt N am không dưới m ột lần đề nghị p hía C am puchia thực hiện
nguyên tắc “b ình đẳng, tô n trọ n g độc lập, chủ quyền và to à n vẹn lã n h
th ổ của nhau, tô n trọ n g lợi ích ch ín h đ án g của nh au ”6, đàm ph án , giải
quyết bằng con đường thương lượng hòa bình. Đảng, N h à nước V iệt
N am m ong m uốn “h ai bên gặp nhau càng sớm càng tố t ở b ấ t cứ cấp
nào để cùng nhau trê n tin h th ầ n hữu nghị a n h em giải quyết v ấn đề
biên giới giữa hai nước”7, song mọi nỗ lực của V iệt N am đều rơi vào vô
vọng. C h ín h quyền Pôn P ôt liên tục khước từ và không ngừng mở rộng
phạm vi đ án h phá, tiế n công các điểm dân cư dọc biên giới hai nước.
N gày 31-12-1977, C hính quyền Pôn P ôt chính thức cắt quan hệ ngoại

167
giao với V iệt N am , rú t Đại sứ quán Cam puchia ở H à Nội và yêu cầu
tấ t cả cán bộ ngoại giao của V iệt N am ở P hnôm -P ênh về nước.

Cùng lúc, ở Cam puchia, trước sự áp bức tà n bạo của Khơ-me Đỏ,
n h ân d ân C am puchia đã không th ể ngồi im chờ chết, nổi dậy h à n h
động quyết liệt, bạo lực giáng tr ả bằng bạo lực. Các cuộc phản kháng
nổ ra ở n h iều vùng m iền và trước đòi hỏi cấp bách của tìn h th ế, th á n g
12-1978, M ặt trậ n Đoàn k ế t dân tộc cứu nước Cam puchia ra đời. Đại
hội th à n h lập M ặt trậ n thông qua Cương lĩnh chính trị 11 điểm, ra lời
kêu gọi n h ân d ân C am puchia đoàn k ế t đấu tra n h đánh đổ ch ế độ d iệt
chủng Pôn P ốt. N gày 26-12-1978, Bộ Chỉ huy Quân đội cách m ạng,
M ặt trậ n Đ oàn k ế t d ân tộc cứu nước Cam puchia quyết định p h á t động
phong trà o nổi dậy của quần chúng, đồng thời kêu gọi n h â n dân Việt
N am giúp dỡ tiêu d iệt ch ế độ diệt chủng. Đáp lời kêu gọi của M ặt trậ n
đoàn k ế t d ân tộc cứu nước C am puchia — lời kêu gọi cứu giúp của m ột
dân tộc, quân tìn h nguyện V iệt N am đã phối hợp ch ặt chẽ với các lực
lượng vũ tra n g của M ặt trậ n đoàn k ế t dân tộc cứu nước Cam puchia
tiến h àn h các chiến dịch quân sự, đánh ta n lực lượng của chính quyền
Pôn Pốt. N gày 07-01-1979, Thủ đô Phnôm P ênh được giải phóng,
nh ân d ân C am puchia th o á t khỏi họa d iệt chủng, đ ất nước Cam puchia
được sin h ra lần th ứ hai. B ằng th ắ n g lợi của m ình, “n h ân dân
Cam puchia góp ph ần th ủ tiêu họa xâm lăng từ đ ấ t Cam puchia; th iế t
thực góp p h ần giúp đỡ n h ân dân V iệt Nam tro n g sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc”8.

3. Sự k iện lịch sử 07-01-1979 có ý ng h ĩa đặc b iệt to lớn đối với


nh ân dân và vận m ệnh đ ấ t nước Cam puchia. Cuộc “cách m ạng làm
lạ i” đã ch ính thức khép lại m ột tra n g bi thương đầy m áu và nước m ắt
tro n g lịch sử d ân tộc Cam puchia. T hắng lợi ngày 07-01-1979 m ột lần
nữa th ể h iện sự gắn bó, thủy chung nghĩa tìn h giữa hai dân tộc “tối
lửa tắ t đ èn ” có nhau, mở ra thờ i kỳ mới của quan h ệ đoàn k ết V iệt
Nam - C am puchia, thời kỳ của tìn h hữu nghị và hợp tác toàn diện.
T hắng lợi ấy k h ẳn g đ ịnh m ột t ấ t yếu khách quan: củng cô', tă n g cường
quan hệ đặc b iệt V iệt N am — C am puchia là đảm bảo chắc chắn cho sự
tồn tại của hai nước, là quy luật p h á t triể n của hai dân tộc. Đó cũng là

168
nhân tố đảm bảo cho việc giữ gìn độc lập của V iệt Nam và Campuchia,
đồng thời, cũng là n h ân tô' đảm bảo hòa bình, ổn định ở khu vực Đông
Nam Á.

Sau khi tập đoàn d iệt chủng Pôn P ôt bị đập tan, M ặt trậ n đoàn
kết dân tộc cứu nước Cam puchia th à n h lập nước Cộng hòa N hân dân
Campuchia, quan hệ V iệt Nam — Cam puchia bước vào giai đoạn p h át
triể n mới. Ngày 18-02-1979, Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác
giữa Việt Nam và Cam puchia được ký k ế t với tin h th ầ n cốt yếu: “Cam
kết làm h ế t sức m ình để bảo vệ và p h á t triể n không ngừng truyền
thống đoàn kết chiến đấu, quan hệ hữu nghị hợp tác an h em Việt
Nam - Cam puchia”9.

Mặc dù th ấ t bại, nhưng lực lượng tà n quân Pôn P ôt vẫn không


chịu từ bỏ ảo m ộng quyền lực, tiếp tục tiến h àn h chiến tra n h du kích.
Thực hiện cam k ết “h ế t lòng và ủng hộ lẫn nhau về mọi m ặt và bằng
mọi hình thức cần th iế t nhằm tă n g cường k h ả năng bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thông n h ất, toàn vẹn lãnh th ổ và công việc lao động hòa
bình của nh ân dân mỗi nước”10, sau khi giúp Cam puchia giải th o át
khỏi họa d iệt vong, n h ân dân V iệt N am tiếp tục “chung lưng đấu cật”
với nh ân dân Cam puchia trong những th ử thách mới, gửi quân tìn h
nguyện và chuyên gia dân sự giúp bảo vệ th à n h quả cách m ạng, xây
dựng d át nươc. Nhưng cuọc tién cống dôn dập cúa quân dân
Cam puchia phôi hợp với quân tìn h nguyện V iệt Nam đã n h a n h chóng
đẩy tà n quân Pôn P ốt vào th ế khó khăn, ta n rã.

Vượt qua những th ử thách, gian lao, trằ n m ình nếm m ật, nằm gai
cùng với cán bộ, chiến sĩ nh ân dân Campuchia, đại đa sô' chuyên gia
Việt Nam đã sông m ẫu mực, chiến đấu dũng cảm, không quản ngại hy
sinh, gian khó, chia ngọt sẻ bùi với đ ấ t nước Cam puchia, có m ặt tại
các vùng tà n quân Pôn Pốt hoạt động, giúp cán bộ C am puchia nắm
tìn h hình, kịp thời tư vấn, đề xuất các ý kiến phục vụ th iế t thực việc
xây dựng các tổ chức quần chúng, m ạng lưới cơ sở của Đ ảng N hân dân
cách m ạng Cam puchia, xây dựng lực lượng an ninh — quốc phòng và
ổn định sản xuất. Với sự nỗ lực cao độ, với sự giúp đỡ của V iệt Nam và

169
cộng đồng quốc tế, từ tro tà n , đổ n á t, từ những “cánh đồng c h ế t”, nh ân
dân Cam puchia đã n h a n h chóng xây dựng lại đ ấ t nước. Cũng như
những th án g , n ăm trước đây, tro n g công cuộc hồi sinh, tro n g từng giờ,
từng ngày đ ấ t nước Cam puchia th ay da, đổi th ịt, bên cạnh n h ân dân
Cam puchia luôn có n h ân dân V iệt N am kề vai, s á t cánh, “m iếng cơm
sẻ nửa, h ạ t muối cắn đôi”. Lúc này, dù n h â n dân V iệt N am đang h ế t
sức khó kh ăn , nhiều nhu cầu tối thiểu như lương thực, thực phẩm ,
h àn g tiêu dùng th iế t yếu thiếu th ô n trầ m trọng, song những chuyến
h àn g viện trợ nặng ân tìn h từ V iệt Nam vẫn ngày đêm nối đuôi nhau
đến với n h ân dân Cam puchia, hy vọng san đỡ những khó khăn, sẻ
chia những nhọc nh ằn , bù trừ phần nào những m ất m át.

4. Sự k iện 07-01-1979 đã lùi xa vào lịch sử và xung quanh sự kiện


này đã có và h iện có những quan điểm , những ý kiến đ án h giá khác
nhau, th ậm chí trá i ngược nhau. T h ế giới đang đổi th ay n h a n h chóng,
lịch sử đầy ắp các sự kiện, các th ă n g trầ m khó đoán định trước, tuy
nhiên, lịch sử luôn có điểm khởi nguồn và hệ quả; đồng thời, h ế t sức
khách quan và công bằng. Trong dòng chảy liên tục của lịch sử, hiện
thực th o á t khỏi lưỡi hái tử th ần , hồi sinh, p h á t triể n của d ân tộc, của
đ ất nước Cam puchia có điểm b ắt đầu và là k ế t quả của những giá t ộ
đích thực, chân chính không dễ gì phủ n h ận — k ế t quả của tìn h đoàn
k ế t gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau V iệt N am - Cam puchia. Chủ tịch M ặt
trậ n Đ oàn k ế t dân tộc cứu nước Cam puchia H êng Xom -rin từng p h á t
biểu: “Chúng tôi đ án h giá cao th á i độ tru n g th à n h , h ế t tìn h , h ế t nghĩa
của V iệt Nam , luôn lấy tìn h hữu nghị lâu dài giữa n h ân d ân hai nước
làm trọ n g ”11. Thủ tướng C hính phủ H oàng gia C am puchia Xăm-đéc
H un Sen k h ẳn g định: “Nếu không có ngày 07-01-1979, n h â n dân
Cam puchia chúng tôi cũng không th ể có được những gì tro n g ngày
hôm nay. Đây là chân lý lịch sử không m ột th ế lực phản động nào có
th ể phủ n h ậ n ”12.

35 năm đã trô i qua, nh ìn lại sự kiện lịch sử 07-01-1979 dể khẳng


định những chân giá trị, củng cô niềm tin và có th êm sức m ạn h xây
dựng h iện tạ i — xây dựng, p h á t triể n quan hệ V iệt N am — Cam puchia
ổn định, lâu dài trê n cơ sở những tru y ền thông tố t đẹp và trê n nguyên

170
tấc mới, phù hợp với lợi ích chính dáng của nhân dân mỗi nước cũng
như sự ổn định, hòa bình tro n g khu vực, trê n th ế giới. T rân trọ n g quá
khứ, trâ n trọ n g lịch sử, n h ân dân hai nước V iệt Nam, Cam puchia có
đầy đủ những điều kiện để cùng nhau đi tiếp và đi tới m ột tương lai
tốt đẹp, bền vững.

PG S, TS. HỒ KHANG
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam

1 ĐCSVN - Văn kiện Đăng toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 148.
2 SdcL, tr. 441 - 442.
3 Sdd, Tập 21, H. 2001, tr. 940.
4 ĐCSVN - Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần r v , Nxb. Sự thật, H. 1977, tr. 11.
5 Sđd, tr. 76 - 77.
6 Sđd, tr. 113.
7 Dẫn theo Lưu Văn Lợi: Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam, Tập II (1975-1995), Nxb
Còng an nhân dân, H. 1998, tr. 110.
8 Trường Chinh: “Vấn đề Campuchia”, Báo Quán đội nhăn dăn, tháng 12-1979.
9 Học viện Quan hệ quốc tế: Thắng lợi có tính thời dại và cuộc đấu tranh trên m ặt trận
dối ngoại của nhân dăn ta, Nxb Sự thật, H. 1985, tr. 106.
10 Kỹ nguyên mới cúa đoàn kèt hợp tác Việt N am - Campuchia, NxbSự thật, H. 1979,
tr. 43.
11 Ký nguyên mới của đoàn két hợp tác Việt N am - Campuchia, Nxb Sự thật, H. 1979,
tr. 12.
12 Diễn văn của Xăm-đéc Hun Sen, Thủ tướng Chính phủ Hoàng gia Campuchia tại
buổi chiêu đãi của Thủ tướng Phan Văn Khải (10-10-2005),
http://www.vietnamembassy.
(Nguồn: TC QPTD)

171
N G H ĨA CỬ CAO Đ Ẹ P CỦA “ BỘ Đ Ộ I cụ Hồ”
TRONG THỰC H IỆN N H IỆ M v ụ Quốc T Ế TẠ I CAM PU C H IA

T hiếu tướng, PGS, TS. v ũ QUANG ĐẠO

V iệt N am và C am puchia là hai nước lán g giềng, có n hiều điểm


tương đồng. T ro n g sự nghiệp đấu tra n h cách m ạng, quân dội và n h â n
dân hai nước d ã kề vai, s á t cánh chống kẻ th ù chung, bảo vệ chủ
quyền mỗi quốc gia, d ân tộc. Đ iểm n h ấ n tro n g m ối quan hệ đó là
Quân tìn h nguyện V iệt N am đã giúp n h â n d ân C am puchia th o á t khỏi
th ảm họa d iệt chủng, m ang lại sự hồi sin h cho đ ấ t nước.

Quán tinh nguyện Việt N am rút về nước (năm 1989)


trong tình cảm lưu luyến, biết ơn của người dẫn Campuchia.

T rong giai đoạn cuối của cuộc k h á n g chiến chông thực d ân P háp,
theo yêu cầu của Đ ảng N h â n dân cách m ạn g C am puchia, Đ ảng, N hà
nước và Q uân đội n h â n d ân V iệt Nam đ ã đưa Q uân tìn h nguyện san g
giúp n h ân d â n C am puchia. Đầu năm 1954, trước nhữ ng chuyển biến

172
mau lẹ của tìn h h ìn h cách m ạng ba nước Đông Dương, B an C hấp
h àn h T rung ương Đ ảng Lao động V iệt N am chủ trương đẩy m ạn h tác
chiến ở vùng Đông Bắc C am puchia để phối hợp với các chiến trường,
n h ấ t là chiến trư ờ ng T ây Bắc V iệt Nam và Thượng Lào. Theo đó,
th á n g 4-1954, T rung đoàn 101 (Đại đoàn 325) cùng với Đại đội 200
Quân tìn h nguyện V iệt N am ở H ạ Lào đã tiế n xuống, phối hợp với các
lực lượng vũ tra n g của B ạn ở Đ ông Bắc C am puchia, mở cuộc tiế n công
trê n quy mô lớn, góp p h ần đ án h bại chiến tra n h xâm lược của thực
dân P h áp ở C am puchia.

Sau H iệp đ ịn h Giơ-ne-vơ, C hính phủ Vương quốc C am puchia do


Nô-rô-đôm Xi-ha-núc làm Thủ tướng (từ n ăm 1960 là Quốc vương)
tuyên bố đi theo con đường hòa bình, độc lập, tru n g lập. Tuy nhiên,
với ý đồ không để cho C am puchia thực h iện được mục tiêu đó, ngày
18-3-1970, đ ế quốc Mỹ hậu th u ẫ n Lon-non - X i-rích - M a-tắc — những
th à n h viên tro n g C h ín h phủ Vương quốc C am puchia — tiế n h à n h đảo
chính lậ t đổ Quôc vương Nô-rô-đôm Xi-ha-núc. Trước sự th a y dổi
n h a n h chóng của tìn h hìn h , ngày 04-4-1970, Bộ C hính tr ị B an C hấp
h à n h T rung ương Đ ảng Lao động V iệt N am gửi Đ iện sô' 99 cho Trung
ương Cục m iền N am , yêu cầu lã n h đạo, chỉ huy các chiến trường
ng h iên cứu tổ chức, bô" trí lại lực lượng, đẩy m ạn h tiế n công ở m iền
N am ; đồng thời, giúp cách m ạn g C am puchia khắc phục khó khăn,
p h á t triể n m ột cách chủ động, vững chắc và lâu dài. Quán t r iệ t chủ
trương này và th ể th eo yêu cầu của B ạn, m ột số đơn vị Q uân tìn h
nguyện V iệt N am đã phối hợp với lực lượng vũ tra n g cách m ạng
C am puchia tiế n công địch, giải phóng nh iều vùng nông th ô n thuộc các
tỉn h K ra-chi-ê, Tà-keo và C am -pốt. T rong n ăm 1970, các đơn vị Quân
tìn h nguyện V iệt N am đã phối hợp với B ạn đ án h bại cuộc h à n h quân
C henla 1; n ăm 1971 mở C hiến dịch p h ản công Đông Bắc C am puchia
và đ án h bại cuộc h àn h quân C henla 2. Với sự giúp đỡ của Q uân tìn h
nguyện V iệt Nam , tro n g n ăm 1974, lực lượng vũ tra n g cách m ạng
C am -pu-chia lần lượt bẻ gãy các cuộc h à n h quân M enben Rum Chây,
Đ en ta 28, Rôlut Xiêm R iệp của địch, sau đó bao vây P hnôm -Pênh.
N gày 17-4-1975, quân giải phóng C am puchia tiến công làm chủ hoàn
to àn Thủ đô P hnôm -P ênh, k ết thúc cuộc k h á n g chiến chông Mỹ, cứu
nước trê n đ ấ t B ạn. N hư vậy, tro n g nhữ ng n ăm chông thực d ân P háp

173
và đê quốc Mỹ x ârr lược, xuất phát, từ nhiệm vụ đấu tra n h giải phóng
dân tộc và theo yêu cầu của B ạn, Q uân tìn h nguyện V iệt N am đã thực
h iện tố t n g h ĩa vụ quốc t ế cao cả, đoàn k ế t chiến đấu với quân và dân
C am puchia chống kẻ th ù chung, g iàn h độc lập d ân tộc ở mỗi nước.
T rên ch ặn g đường đấu tra n h đầy hy sin h , gian khổ ấy, ph ẩm ch ấ t “Bộ
đội Cụ H ồ” của Q uân tìn h nguyện V iệt N am luôn được tỏa sáng. Điều
đó k h ô n g chỉ góp p h ần giúp n h â n d ân C am puchia hoàn th à n h sứ
m ệnh đấu tra n h giải p hóng d ân tộc, m à còn tá c động trực tiếp đến
th ắ n g lợi của cách m ạn g V iệt Nam .

Sau th ắ n g lợi của cuộc k h á n g chiến chông Mỹ, cứu nưởc, cũng như
các d ân tộc k hác tr ê n t h ế giới, n h â n d ân C am puchia luôn ước vọng
được sông tro n g hòa bình, hòa hợp d ân tộc và cùng nhau xây dựng,
p h á t triể n đ ấ t nước. T h ế nhưng, lực lượng Khơ-m e Đỏ, do P ôn P ố t —
Iêng-X ary cầm đầu, đã chà đạp lên nguyện vọng ch ín h đ án g đó và
th à n h quả cách m ạn g của n h â n d ân C am puchia đã bị lợi dụng, chiếm
đoạt. Sau khi n ắm quyền, với chủ trương xây dựng cái gọi là “chủ
n gh ĩa cộng sản độc đáo kiểu C am puchia”, T ập đoàn P ôn P ốt — Iêng-
X ary d ã tiế n h à n h p h á hủy cơ sở k in h tế , x ã hội, gây ra n ạ n d iệt
chủng có m ột k h ô n g hai tro n g lịch sử C am puchia và t h ế giới. Không
chỉ gây ta i họa đôi với n h â n d ân C am puchia, ngay sau ngày V iệt N am
hoàn th à n h sự ng h iệp giải phóng m iền N am , th ô n g n h ấ t Tổ quồc,
chúng đã trắ n g trợ n đưa quân xâm lược V iệt N am . Trước tìn h h ìn h đó,
ngày 06 và 07-12-1978, Bộ C h ín h trị, Q uân ủy T ru ng ương V iệt N am
th ô n g qua quyết tâ m mở cuộc tổ n g tiế n công tiêu d iệ t quân địch, hoàn
th à n h cuộc chiến tra n h bảo vệ Tổ quốc trê n tuyến b iên giới Tây Nam
Tổ quốc; đồng th ời, sẵ n sàn g phương á n hỗ trợ các lực lượng vũ tra n g
yêu nước C am puchia nổi dậy đ á n h đổ T ập đoàn Pôn P ố t — Iêng-X ary,
g iàn h ch ín h quyền về ta y n h â n dân. T heo đó, từ ngày 23 đ ến 31-12-
1978, b ằn g các đòn p h ả n công, tiế n công quyết liệt, quân và dân V iệt
N am đ ã ho àn th à n h x u ất sắc n h iệm vụ đ á n h đuổi quân Pôn P ốt, thu
hồi to à n bộ chủ quyền lã n h th ổ của Tổ quô'c bị kẻ th ù lấ n chiếm , k ế t
thúc th ắ n g lợi cuộc ch iến tr a n h bảo vệ Tổ quốc ở b iên giới T ây Nam,
tạo điều k iệ n th u ậ n lợi cho các lực lượng cách m ạn g và n h â n dân
C am puchia đ á n h đổ ch ế độ d iệ t chủng, xây dựng lại đ ấ t nước.

174
N gay sau khi quân và dân V iệt N am b ắ t đầu mở cuộc p h ản công
đán h đuổi quân Pôn P ốt, ngày 23-12-1978, M ặt trận Đoàn k ế t dân tộc
cứu nước C am puchia n h ậ n định: “S inh lực địch n h ấ t định sẽ bị quân
và d ân V iệt N am tiêu diệt hoặc kìm chân tạ i chỗ. Đây là th ờ i cơ tố t
n h ấ t dể các lực lượng vũ tra n g cách m ạn g đoàn k ế t cứu nước
Cam puchia cùng với n h ân d ân và binh sĩ khởi nghĩa trê n toàn quốc và
đán h vào đầu não của bè lũ Pôn P ố t — Iêng-X ary, đập ta n ch ế độ độc
tài p h á t x ít k h á t m áu của chúng”1. Tiếp đó, ngày 26-12-1978, ủ y ban
Trung ương M ặt trậ n Đoàn k ế t dân tộc cứu nước C am puchia đã p h á t
động to àn dân tậ n dụng thời cơ và sự giúp đỡ của Quân tìn h nguyện
V iệt Nam, tậ p tru n g lực lượng đứng lên đ án h đổ ch ế độ d iệt chủng
Pôn P ốt — Iêng-X ary, g iành chính quyền về tay n h â n dân; đồng thời,
đề nghị Đảng, N h à nước, quân đội và n h ân d ân V iệt Nam giúp đỡ
nhân dân C am puchia th o á t khỏi th ảm họa d iệt chủng. Đáp lại đề nghị
đó, dưới sự lãn h đạo của T rung ương Đ ảng và Quân ủy T rung ương, các
đơn vị Quân tìn h nguyện V iệt N am b ấ t chấp mọi hy sin h , gian khổ,
tiếp tục s á t cánh chiến đấu cùng với n h â n d ân Cam puchia, đem lại
th ắn g lợi to lớn, đ án h đổ ch ế độ bạo ngược của Pôn P ốt. Ngày 07-01-
1979, Thủ đô P h n ôm -P ênh được giải phóng2. Ngày 08-01-1979, Hội
đồng n h â n dân cách m ạng C am puchia được th à n h lập, do ông H êng
Xom-rin làm Chủ tịch đã ra tuyên bố xóa bỏ hoàn to àn chế độ diệt
chủng của Pôn Pcít — Iêng-Xary, th à n h lập ch ế độ Cộng hòa nhân dân
CampuchLu. N hư vậy, bự giúp dỡ hào hiệp, vo tư của V iẹt N am , trực
tiếp là các đơn vị Q uân tìn h nguyện có ý ng h ĩa đặc b iệt quan trọ n g
đối với dân tộc C am puchia tro n g cuộc đấu tra n h xóa bỏ ch ế độ d iệt
chủng tà n bạo, cứu nguy cho đ ấ t nước B ạn khỏi họa d iệt chủng. Xúc
động về nghĩa cử cao đẹp của bộ đội V iệt Nam , người dân ở tỉn h Bát-
đam-boong, C am puchia nói: “C húng tôi theo đạo P h ậ t, ngày đêm cầu
trời k h ấn P h ậ t cứu giúp, nhưng ngày này qua ngày khác không th ấy
ai đến. C húng tôi nghĩ trê n cõi đời n ày chỉ có V iệt N am có th ể cứu
chúng tôi. Quả n h iên bộ đội V iệt N am đã đ ến ”3.

Sau ngày 07-01-1979, các lực lượng quân sự của Pôn P ốt còn k h á
lớn. C húng rú t chạy về vùng biên giới p hía Tây, Tây Bắc và ẩ n náu ở
m ột sô khu rừng, núi tro n g nội địa C am puchia. Pôn P ô t đã trố n chạy
ra nước ngoài, nhưng vẫn tiếp tục chỉ đạo lực lượng Khơ-me Đỏ chống

175
p h á ch ín h quyền và n h â n d ân C am puchia. Với sự giúp đỡ của bên
ngoài và dựa vào n h ữ n g căn cứ ở p h ía T ây C am puchia, chúng tậ p hợp
lực lượng đưa vào nội địa tổ chức quấy rối, tiêu hao lực lượng cách
m ạng. Cùng với các h o ạ t động quân sự, P ôn P ố t — Iêng-X ary ra sức
dẩy m ạn h các h o ạ t động ch ín h trị, ngoại giao, hòng tạo sức ép đẩy lực
lượng V iệt N am ra khỏi C am puchia, tro n g lúc lực lượng của B ạn còn
non yếu, với hy vọng p h ản công chiếm lại Thủ đô P h n ô m -P ên h và lập
lại ch ính quyền p h ản cách m ạng, v ấ n đề đ ặ t ra lúc này là, Q uân tìn h
nguyện V iệt N am n ên rú t về nước hay ở lạ i giúp B ạn th ê m m ột thời
gian? C ăn cứ vào thực tế, lã n h đạo Đ ảng N h ân dân cách m ạng
C am puchia và C h ín h phủ Cộng h ò a n h â n d ân C am puchia ch ín h thức
yêu cầu Q uân tìn h nguyện và chuyên gia quân sự V iệt N am ở lại.
Trước tìn h h ìn h đó, “Đ ảng ta có quyết định r ấ t đúng đắn để lại m ột bộ
p h ận lớn Q uân tìn h nguyện tro n g m ột thờ i gian để giúp bạn. Đó là vì
lợi ích sống còn của n h â n d ân ta cũng n h ư lợi ích sông còn của n h ân
dân b ạn, là sự k ế t hợp c h ặ t chẽ n h iệm vụ d ân tộc và n g h ĩa vụ quốc
t ế ’4.

Đ ể tă n g cường hơn nữa tìn h đoàn k ế t gắn bó giữa h ai nước, ngày


18-02-1979, tạ i P h n ô m -P ên h đã d iễn r a Lễ ký H iệp ước hòa bình, hữu
nghị và hợp tác giữa nước C ộng hòa xã hội chủ n g h ĩa V iệt N am và
nước Cộng hòa n h â n d ân C am puchia. H ai b ên k h ẳn g đ ịn h tiếp tục
tă n g cường tìn h đoàn k ế t chiến đấu, sự hợp tá c hữu nghị lâu dài và sự
giúp đở lẫ n nhau về mọi m ặt đ ể củng cố n ền độc lập, xây dựng d ất
nước phồn v inh và cuộc sống h ạ n h phúc của n h â n d ân mỗi nước. Việc
Q uân tìn h nguyện V iệt N am ở lại giúp cách m ạng C am puchia tro n g
tìn h h ìn h mới là sự tiế p tục k ế t hợp ch ặ t chẽ giữa n hiệm vụ d ân tộc
và n g h ĩa vụ quốc tế. T rả i qua m ột th ậ p kỷ thực h iệ n nhiệm vụ quô'c t ế
tạ i C am puchia (1979-1989), với ng h ĩa cử cao đẹp của m ình, Q uân tìn h
nguyện V iệt N am dã v ận dụng sán g tạo đường lối, nguyên tắc giúp
b ạn của Đ ảng v à N h à nước V iệt N am , đặc b iệt là phương châm “giúp
bạn là tự giúp m ìn h ” của Chủ tịch Hồ Chí M inh; k hông quản ngại hy
sinh, gian khổ, cùng quân và dân C am puchia đ á n h đổ bè lũ Pôn P ốt —
Iêng-X ary, đưa d ân tộc C am puchia th o á t khỏi h ọ a d iệt chủng, xây
dựng m ột c h ế độ xã hội mới tố t đẹp, vì cuộc sông ấm no, h ạ n h phúc
của n h â n dân. Với th ắ n g lợi đó, Q uân tìn h nguyện V iệt N am đã làm

176
nên m ột kỳ tích tro n g lịch sử quan hệ tru y ền th ố n g giữa hai nước; tô
th ắm th êm bản ch ất của “Bộ đội Cụ Hồ” tro n g thờ i kỳ mới. Sự giúp đỡ
của Quân tìn h nguyện V iệt N am đ ã m ang lại k ế t quả: M ột là, cùng
quân và dân C am puchia từng bước đ án h bại mọi âm mưu, th ủ đoạn
quân sự của địch n hằm khôi phục ch ế độ d iệt chủng ở C am puchia. H ai
là, giúp n h â n d ân C am puchia khôi phục kin h tế , ổn định đời sông, đ ất
nước hồi sin h và p h á t triể n . B a là, giúp Đ ảng N h ân dân cách m ạng
Cam puchia xây dựng lực lượng vũ tra n g , xây dựng chính quyền cách
m ạng và các tổ chức đoàn th ể , đủ sức vươn lên từng bước tự đảm
đương nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đ ấ t nước của m ình.

Quá trìn h giúp cách m ạng C am puchia, Q uân tìn h nguyện V iệt
Nam luôn tô n trọ n g độc lập, chủ quyền và các quyết định của Bạn;
nắm vững đường lối, chính sách, n h ấ t là đã cùng B ạn thực h iện ba
mục tiêu chiến lược của cách m ạng do Bộ C hính trị B an C hấp h à n h
Trung ương Đ ảng N h ân d ân cách m ạng C am puchia đề ra. Đồng thời,
ph át huy cao độ bản chất, tru y ền th ô n g của “Bộ đội Cụ Hồ”- m ột đội
quân chiến đấu, đội quân công tác, luôn gắn bó m ật th iế t với quân đội
và n h ân d ân nước B ạn; không quản ngại khó kh ăn , luôn bám địa bàn,
bám cơ sở để thực h iện chức năng, n h iệm vụ của m ình, ơ nhiều địa
phương trê n đ ất Bạn, cán bộ, chiến sĩ các đơn vị Quân tìn h nguyện
V iệt Nam còn giúp n h â n d ân xây dựng nếp sống sinh h o ạt văn hóa
tiến bộ, áp dụng kỹ th u ậ t th â m canh tă n g n ă n e su ất lúa. bỏ dần tậ p
quán canh tác lạc hậu và xây dựng những công trìn h lưu niệm có ý
nghĩa k in h tế, văn hóa, xã hội để lại cho n h â n d ân và ch ín h quyền dịa
phương, góp p h ần làm th a y đổi bộ m ặt C am puchia tro n g thờ i đoạn
khó k h ăn n h ấ t của công cuộc hồi sin h đ ấ t nước. Dù quân Pôn Pô't đã
giết hại đồng bào ta h ế t sức dã m an, nhưng Quân tìn h nguyện V iệt
Nam không có b ất cứ h à n h động tr ả th ù nào đối với tù, hàn g binh;
ngược lại, các đôi tượng đó còn được đối xử n h â n đạo. Việc làm này
khiến người dân C am puchia - vốn h ế t sức căm th ù quân Pôn P ố t - rấ t
đỗi ngạc n h iên và có lúc không đồng tìn h . Tuy n h iên , tín h n h â n văn
tron g từng cử chỉ, h à n h động của bộ đội V iệt N am đã giúp n h ân dân
Cam puchia hiểu rõ nghĩa cử cao đẹp và tín h ch ấ t chính nghĩa của “Bộ
đội Cụ Hồ” tro n g quá trìn h thực h iện nhiệm vụ quốc t ế tạ i C am puchia.

177
T rên đà th ắ n g lợi và trưởng th à n h của cách m ạn g Cam puchia,
chấp h àn h Chỉ th ị của Bộ C hính trị Trung ương Đ ảng Cộng sản Việt
Nam, ngày 26-5-1988, Bộ Quốc phòng ra T hô n g báo về việc rú t h ế t
Q uân tìn h nguyện V iệt N am khỏi C am puchia tro n g n ăm 19895. N hân
dịp Bộ Tư lệ n h Q uân tìn h nguyện (Bộ Tư lệ n h 719) và Đoàn chuyên
gia quân sự V iệt N am (Đoàn 478) chuẩn bị thực h iệ n đợt đầu của k ế
hoạch rú t quân năm 1988, ngày 29-6-1988, tạ i P hnôm -P ênh, H ội đồng
toàn quốc M ặt trận đoàn k ế t xây dựng và bảo vệ T ổ quốc C ampuchia
tổ chức trọ n g th ể Lễ tra o tặ n g H uân chương Ảng-co cho Bộ Tư lệnh
719 và Đ oàn 478. T h ay m ặt Đảng, N hà nước C am puchia, đồng chí
Chia-Xim, ú y viên Bộ C hính trị, Chủ tịch Quốc hội C am puchia dã ghi
nh ận và biểu dương công lao to lớn của Q uân tìn h nguyện và chuyên
gia quân sự V iệt N am tro n g sự nghiệp giải phóng và bảo vệ đ ấ t nước
của n h ân d ân C am puchia; đồng thời n h ấ n m ạnh: Đ ảng, N hà nước,
quân đội và n h â n d ân C am puchia m ãi m ãi khắc sâu tin h th ầ n quôc tế
cao cả của Q uân tìn h nguyện và chuyên gia quân sự V iệt N am trong
việc giúp đỡ quân đội và n h â n dân C am puchia hồi sinh, bảo vệ và xây
dựng đ ấ t nước.

N gày 30-6-1988, Lễ tiễ n Bộ Tư lệnh 719 về nước d iễn ra trọng


th ể tạ i sâ n bay P hn ô m -P ênh. N h ân ngày này, báo Prochiachuôn
(N hân dân) - cơ quan ngôn luận của Đ ảng N h â n d ân cách m ạng
C am puchia đ ã viết: “T rong những năm cực kỳ bi th ả m dưới ch ế độ
d iệt chủng Pôn Pô't, trê n th ế giới này không b iế t bao nhiêu là kẻ
m ạnh, kẻ giàu, như ng duy n h ấ t chỉ có người b ạ n láng giềng nghèo
V iệt N am đ ến cứu sông d ân tộc chúng ta m à th ô i”6. Thực t ế đó chỉ rõ,
dưới sự lã n h đạo tu y ệt đôi, trực tiếp về mọi m ặ t của Đ ảng Cộng sản
V iệt Nam , với phương châm chiến lược “giúp bạn là tự giúp m ình” của
Chủ tịch Hồ C hí M inh và trê n tin h th ầ n quốc t ế vô sả n tro n g sáng,
Quân tìn h nguyện V iệt N am đã vượt qua m ọi khó k h ăn , gian khổ, hy
sinh, ho àn th à n h xuất sắc chức năng, nhiệm vụ của m ình. T h àn h tựu
to lớn m à Q uân tìn h nguyện V iệt Nam đ ạ t được tro n g thực hiện
nhiệm vụ quốc t ế tạ i C am puchia cũng như n hữ ng bài học kin h nghiệm
để lại đã ghi th ê m dấu ấ n sâu sắc về bản c h ấ t cách m ạng và truyền
thôn g đoàn k ế t quốc t ế cao cả của Quân đội n h â n d ân V iệt Nam , góp

178
phần tô th ắm tìn h đoàn k ết chiến đấu giữa quân đội và n h ân dân hai
nước.

T rong tìn h h ìn h mới, những bài học kinh nghiệm lịch sử được đúc
k ết, những nghĩa cử cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” tro n g thực hiện
nhiệm vụ quôc t ế tại C am puchia sẽ tiếp tục được các th ế hệ cán bộ,
chiến sĩ Q uân đội n h ân dân V iệt Nam p h á t huy, tô th ắ m th êm truyền
th ô n g hữu nghị giữa hai nước, làm th ấ t bại âm mưu của các th ế lực
th ù địch chia rẽ tìn h đoàn kết Việt N am — C am puchia, xứng đáng với
lịch sử hào hùng m à hai dân tộc đã trả i qua.

T h iế u tư ớ n g , P G S, TS. v ũ QUANG ĐẠO


Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam

1 Tuyên bồ' cùa Tổng thư ký ủy ban Trung ươngMặttrận đoàn kết dăntộc cứu nước Campuchia -
. Báo N hân dân, số 8930, ngày 08-01-1979.
2 Đến ngày 17-01-1979, t ấ t cả các th à n h phố,thị xã, thị trấ n trê n đ ấ t nước Cam puchia đượcgiải
phóng khỏi chế độ diệt chủng.
3 Bộ Quốc phòng - Quân đội nhân dân Việt N am với sự nghiệp dổi mới, xây dựng và bảo vệ T ổ
quoc, Nxb QĐND, H. 2004, tr.146.
4 Quân đội nhân dân Việt Nam 65 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành , Nxb CTQG, H.
2009, tr.l*37.
5 Việc rú t Quân tìn h nguyện diễn ra sớm hơn một năm so với thỏa th u ận th á n g 8-1985 giữa Cộng
h ò n n h â n cỉân C a m p u c h ia v à C ộ n g h ò a X IIC N V iệ t N a m .

6 Bộ Quốc phòng - Quân đội nhăn dân Việt Nam với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tẩ
quoc, Nxb QĐND, H. 2004, tr. 160 - 161.

(Nguồn: TC QPTD)

179
ĐẨY MẠNH HỢP TÁC Quốc PHÒ NG V IỆ T NAM - CA M PUCHIA
LÊN TẦM CAO MỚI v ì HÒA BÌN H , TH ỊN H VƯỢNG
VÀ TÌNH HỮU NGHỊ CỦA HAI DÂN TỘC

Thượng tướng NGUYỄN CHÍ VỊNH

V iệt N am và C am puchia là hai nước lá n g giềng núi liền núi, sông


liền sông, có quan hệ hữu nghị tru y ền th ô n g lâu đời. T rả i qua những
th ă n g trầ m của lịch sử, tìn h hữu nghị của h ai d ân tộc ngày càng vững
bền và p h á t triể n . Trong đó, quan hệ về quôc phòng giữa h ai nước đã
và đang góp p h ần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đ ấ t nước
của mỗi quốc gia; đồng thời, là n h â n tô' quan trọ n g đóng góp vào hòa
bình, ổn định, hợp tác, p h á t triể n ở khu vực và tr ê n t h ế giới. Vì vậy,
thúc đẩy và n ân g cao hiệu quả hợp tá c giữa hai nước nói chung, quan
hệ hợp tác quốc phòng (HTQP) V iệt N am — C am puchia nói riê n g lên
tầ m cao mới có ý n g hĩa quan trọ n g đôi với mỗi nước và cả khu vực,
n h ấ t là tro n g xu th ế toàn cầu hóa và hội n h ậ p quốc tế.
N hìn lại lịch sử quan hệ h ai nước cho th ấy , hai d ân tộc V iệt N am
và C am puchia luôn g ắn k ế t ch ặt chẽ, kề vai s á t cá n h b ên nh au tro n g
công cuộc đấu tra n h chông chủ nghĩa thực dân, đ ế quốc, g iàn h độc lập
dân tộc cũng như tro n g sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi
bên. Đặc biệt, hai d ân tộc lại có cliung nhữ ng n ă m th án g đau Ihưưng
khi Pôn P ốt — Iêng-X ary chiếm quyền ở đ ấ t nước C hùa T háp, xâm lấn
biên giới V iệt N am và tiế n h à n h h à n g lo ạt cuộc th a n h trừ n g nội bộ
tà n bạo. Trong những năm th á n g đó, trước nguy cơ cả dân tộc
Cam puchia bị họa d iệt chủng; đáp lại lời kêu gọi k h ẩ n th iế t của ú y
ban T rung ương M ặt tr ậ n đoàn k ế t dân tộc cứu nước C am puchia,
th á n g 01-1979, Q uân tìn h nguyện V iệt N am phôi hợp với lực lượng vũ
tra n g cách m ạng Cam puchia mở cuộc ph ản công - tiế n công chiến lược
đ án h đổ ch ế độ Pôn Pốt, cứu n h ân dân C am puchia th o á t khỏi họa diệt
chủng. Đồng thời, theo yêu cầu của Hội đồng n h â n d ân cách m ạng
Cam -pu-chia, V iệt Nam đã cử chuyên gia quân sự san g giúp B ạn bảo
vệ th à n h quả cách m ạng và xây dựng lạ i đ ấ t nước, đem lại đời sông
hòa bình, độc lập, tự do và h ạ n h phúc cho n h â n d â n 1. Sự giúp đỡ, hy
sinh của Q uân tìn h nguyện V iệt Nam đã được Đ ảng, N h à nước và

180
n h â n dân C am puchia đ án h giá cao và coi đó là biểu hiện rực rỡ n h ấ t
của tìn h hữu nghị tru y ền thông giữa hai dân tộc.
N gày nay, m ặc dù tìn h h ìn h quốc tế, khu vực đã có nhiều thay
đổi, nhưng tìn h hữu nghị giữa hai nước V iệt Nam - Cam puchia vẫn
trư ờ ng tồ n với n hữ ng giá trị mới. Đó là, hai nước có cùng quan điểm
cơ b ản về lợi ích quốc gia là độc lập, chủ quyền, thông n h ất, toàn vẹn
lã n h th ể của mỗi nưởc; cùng tô n trọ n g độc lập, chủ quyền, thông nhất,
to àn vẹn lãn h th ổ của nhau; thực h iện giải quyết mọi b ất đồng bằng
biện pháp h òa bình, dựa trê n luật pháp quốc tế. Sự hiểu b iết và tôn
trọ n g lẫn nhau đó ch ính là bảo đảm quan trọ n g cho lợi ích qucíc gia
của mỗi nước, cũng n hư tìn h hữu nghị của hai dân tộc an h em. B ất kể
lời nói, h à n h động nào đi trá i những nguyên tắc trê n đều không chỉ
ả n h hưởng đến tìn h hữu nghị giữa hai dân tộc m à còn đi ngược lại
ch ín h lợi ích quốc gia của từng nước. M ặt khác, Việt Nam và
C am puchia là hai nước cùng n ằm tro n g cơ ch ế hợp tác ASEAN, luôn
gắn k ế t với nhau và cùng chia sẻ những chuẩn mực, lợi ích to lớn
tro n g quá trìn h xây dựng Cộng đồng ASEAN. Vì vậy, hợp tác của hai
nước tro n g khuôn khổ ASEAN cũng nh ằm tă n g cường hợp tác vì hòa
bìn h , ổn định, p h á t triể n , th ịn h vượng tro n g khu vực và là m ột trong
nhữ ng nội dung quan trọ n g tro n g quan hệ hai nước hiện nay cũng như
nhữ ng năm tiếp theo. Hơn th ế nữa, tro n g xu th ế toàn cầu hóa và hội
n h ập quốc tế, cả hai n h à nước đều thực hiện chính sách đối ngoại rộng
mở, tă n g cường hợp tác với các quốc gia ngoài khu vực, n h ấ t là đôl với
c á c c ư ờ n g q u ố c t r c n thô* g i ớ i. C á c m ô i q u a n h ộ n à y s ẽ m a n g l ạ i n l i iề u
th u ậ n lợi, lợi ích cùng những th ách thức đốì với sự p h át triể n của từng
bên. Song, cần k h ẩn g đ ịn h rằng, không có quan hệ nào khác có th ể
th a y th ế được quan hệ giữa hai nước, hai dân tộc Việt Nam —
C am puchia, bởi đây là quan hệ đặc biệt. Quan hệ V iệt Nam -
C am puchia k hông đơn th u ầ n là quan hệ láng giềng mà là quan hệ anh
em từ lâu đời; không chỉ “Tối lửa tắ t đèn có nhau” m à là hai quốc gia
đã cùng chia sẻ sô" p h ận với nhau tro n g nhiều thời khắc lịch sử quan
trọ n g n h ất. N h ân dân và Q uân đội V iệt N am luôn coi trọng quan hệ
hai nước và sẽ đem h ế t sức m ình cùng với n h ân dân và Quân đội
C am puchia tiếp tục giữ vững và p h á t huy các giá trị của tìn h hữu nghị
tru y ền th ô n g giữa hai dân tộc, dưa mối quan hệ này lên m ột tầm cao
phù hợp với nhữ ng giá trị mới, đáp ứng với những yêu cầu ngày càng
to lớn của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của hai quốc gia anh
em cũng như lợi ích, hòa bình, th ịn h vượng trong khu vực.

181
Q uan hệ qucíc phòng (QH QP) V iệt N am — C am puchia cũng có
tru y ền th ô n g từ lâu. H T Q P tro n g chiến tra n h giải phóng d ân tộc của
hai nước là quy lu ật sin h tồ n và là n h ân tố quan trọ n g bảo đảm th ắ n g
lợi cho sự ng h iệp g iàn h độc lập của mỗi d ân tộc. N gày nay, HTQP
giữa hai nước lại chia sẻ với nh au những giá t r ị mới của tìn h hữu nghị
và sự hợp tác của hai d ân tộc, hai quốc gia có độc lập, chủ quyền trê n
các lĩn h vực, n h ấ t là tro n g đôi phó với th á c h thức a n n in h phi truyền
thông, như: th iê n tai, lũ lụt, biến đổi khí hậu, an n in h nguồn nước, tội
phạm xuyên quốc gia cùng các th á c h thức đang nổi lên ở khu vực. Do
đó, H TQ P với C am puchia luôn có vị t r í đặc b iệ t quan trọ n g tro n g
chính sách đôi ngoại của Đ ảng và N h à nước V iệt N am , n h ằm thực
hiện chủ trương của lã n h đạo hai nước là xây dựng quan hệ V iệt Nam
— C am puchia th à n h quan h ệ “lán g giềng tố t đẹp, hữu nghị tru y ền
thông, hợp tác to à n diện, b ền vững lâu d ài” vì độc lập, tự do, sự th ịn h
vượng của mỗi nước; đồng thời, góp p h ầ n th ú c đẩy xu th ế hòa bình, ổn
định, hợp tác p h á t triể n của khu vực.
V iệt N am chủ trư ơ ng p h á t triể n Q H Q P với C am puchia dựa trê n
nguyên tắ c tô n trọ n g độc lập, chủ quyền, th ố n g n h ấ t, to à n vẹn lãn h
th ổ của nhau, k h ô n g can th iệ p vào công việc nội bộ của nhau, hợp tác
cùng có lợi, k hông n h ằm mục đích chống lại bên th ứ ba. H TQ P giữa
hai nước n h ằm vào các mục tiêu cụ th ể là tă n g cường k h ả n ă n g quốc
phòng của mỗi nước, hợp tác giải quyết hiệu quả các vấn đề an ninh
phi tru y ền th ô n g có liên quan đ ến quốc p h òng của h ai nước. Do vậy,
t h ờ i g i a n t ớ i , q u a n h ộ H T Q P V i ệ t N a m — C a m p u c h i a c ẩ n được p h át,
triể n lên m ột tầ m cao mới để xứng đán g với nhữ ng giá t r ị mới trong
quan hệ đoàn k ế t, hữu nghị, hợp tá c to à n d iện giữa h ai nước, góp phần
củng cô’ và p h á t tr iể n các m ối quan hệ về quốc phòng tro n g ASEAN
cũng n h ư giữa ASEAN với các đôi tác ngoài khu vực vì lợi ích chung
của n h ân d ân hai nước và của to à n khu vực.
Để thực h iệ n các mục tiêu nêu trê n , h ai b ên cần coi trọ n g và tăn g
cường tra o đổi ở tầ m chiến lược; tro n g đó, việc tra o đổi đoàn các cấp
phải được tiế n h à n h th ư ờ ng xuyên, n h ấ t là các đoàn cấp cao của Bộ
Quôc phòng hai nước. Qua đó, n â n g cao hiểu b iết về chính sách quốc
phòng của nhau, củng cố lòng tin giữa quân đội và n h â n d ân hai nước;
đồng thời, tạo ra các cơ c h ế hợp tác chiến lược giữa h ai bên, n h ằm đẩy
m ạn h và n ân g cao hiệu quả hợp tác. Đ ây là cơ sở đ ể hai b ên cùng
nhau th ả o luận và đưa ra các quyết sách hợp tá c phù hợp; tă n g cường
hỗ trợ lẫn nh au n â n g cao k h ả n ăn g quốc phòng của mỗi nước trong
182
giải quyết tố t các vấn đề an n in h phi tru y ền th ô n g có liên quan và đẩy
m ạnh hợp tác tro n g ASEAN cũng như giữa ASEAN với các nước dối
tác. G ặp gỡ của lã n h đạo cấp cao hai nước cũng là cơ hội quan trọng
để h ai bên xem x ét những b ấ t đồng, trở ngại có liên quan đến HTQP
giữa hai nước, n h ằm n ân g cao n h ậ n thức chung và tìm ra cách thức
tốt n h ấ t để vượt qua khó kh ăn , đưa mối quan hệ hợp tác này ngày
càng p h á t triể n sâu, rộng.
H ai b ên cần xây dựng k ế hoạch p h á t triể n Q H Q P dài hạn để làm
sâu sắc th êm quan hệ hợp tá c sẫn có; đồng thời, mở ra những lĩnh vực
hợp tá c mới. T rong đó, cần chú trọ n g đổi mới h ìn h thức và biện pháp
hợp tác phù hợp với nhu cầu, k h ả n ă n g và tìn h h ìn h cụ th ể của mỗi
bên, làm cơ sở để n ân g cao hiệu quả hợp tác. Trước m ắt, trê n cơ sở
n h ận thức chung, hai bên sớm xúc tiế n việc ng h iên cứu, xây dựng các
k ế hoạch và cách thức hợp tác cụ th ể, bảo đảm hiệu quả cao, trá n h
lãng phí.
Bộ Quốc phòng hai nước cần thúc đẩy các h o ạt động cụ th ể theo
hướng ưu tiê n tă n g cường n ăn g lực quốc phòng và k h ả n ăn g hợp tác,
giải quyết có hiệu quả các v ấn đề an n in h có liên quan đến cả hai
nước. Trước h ết, hai bên cần ng h iên cứu, n ân g cao hiệu quả hợp tác
tro n g bảo đảm tra n g bị, phương tiệ n , vũ kh í đáp ứng yêu cầu xây dựng
quân đội, củng cố n ền quốc phòng của mỗi nước. T rong lĩnh vực đào
tạo, các n h à trường quân đội của V iệt N am cần đẩy m ạn h hợp tác; đổi
mới phương pháp, n â n g cao ch ấ t lượng đào tạo cán bộ và nguồn nh ân
lực quốc phong cho Q uan dọi H oang gia Uampuchia. hloi V Ơ I cac vấn dê
an n in h phi tru y ền th ô n g liên quan đến hai nước, hai b ên cần tích cực
chia sẻ th ô n g tin, tậ p tru n g vào nhữ ng v ấn đề ả n h hưởng trực tiếp
đến nhiệm vụ quốc phòng - an n in h của mỗi nước; đồng thời, duy trì
và mở rộ n g các h ìn h thức hợp tác hải quân, như: lập đường dây nóng,
tiến h àn h tu ầ n tr a chung trê n biển, góp p h ần n ân g cao hiệu quả phôi
hợp bảo vệ an n in h trê n các vùng nước lịch sử và các khu vực giáp
ran h . T rên tuyến b iên giới đ ấ t liền, hai nước cần đẩy m ạn h hợp tác
thực h iện th à n h công các th ỏ a th u ậ n đã ký về p h ân giới, cắm môc để
có th ể ho àn th à n h vào thời gian sớm n h ấ t. Lực lượng chức năng của
hai bên cần tă n g cường phôi hợp tổ chức các h o ạt động tu ầ n tra chung
cả trê n b iển và trê n bộ; n ân g cao hiệu quả tro n g các h o ạt động cứu hộ,
cứu nạn; tru y quét các loại tội phạm xuyên bièn giới..., bảo đảm giữ
vững an n in h ch ín h trị, t r ậ t tự, a n to àn xã hội tr ê n tuyến biên giới

133
hai nước, góp p h ần quan trọ n g vào xây dựng biên giới V iệt N am —
Cam puchia hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tá c và p h á t triể n .
Cùng với đó, hai bên cần tiếp tục phôi hợp c h ặ t chẽ tro n g giải
quyết các vấn dề do chiến tra n h dể lại, như: Xử lý, r à p h á bom m ìn;
tẩ y trừ ch ấ t độc; cất bốc, quy tậ p h ài cốt liệ t sĩ Q uân tìn h nguyện V iệt
N am trê n đ ấ t Campuchia,... tạo điều k iện p h á t tr iể n k in h tế, đem lại
cuộc sống bìn h y ên cho n h â n dân, n h ấ t là ở các khu vực chịu h ậu quả
n ặn g nề của chiến tra n h để lại, góp p h ần xoa dịu, h àn gắn nhữ ng m ất
m át cho n h ân d ân h ai nước.
Để n ân g cao hiệu quả H TQ P hai nước, các cơ quan, đơn vị, n h ấ t
là các quân khu, tỉn h , th à n h phô' và đơn vị có chung biên giới với nước
Bạn, phải chủ động làm tố t việc quán tr iệ t, thực h iệ n n ghiêm túc,
sáng tạo chủ trương, đường lối của Đ ảng, N h à nước và Q uân đội ta
tron g QHQP V iệt N am — Cam puchia. T rê n cơ sở đó, đề cao trác h
nhiệm của từng tổ chức, từng cấp ủy và của cán bộ, chiến sĩ tro n g
khắc phục khó k h ăn , xây dựng và thực h iệ n tố t k ế hoạch H T Q P giữa
hai nước hướng tới các mục tiêu lâu dài và bền vững.
H iện nay, tro n g xu th ế hội nhập, hợp tác quôc tê ngày càng sâu,
rộng, những diễn biến của tìn h h ìn h th ê giới, khu vực cũng n h ư những
biến động về chính trị, kin h t ế - xã hội ở m ỗi nước có th ể sẽ đem đến
th u ận lợi cùng những khó khăn, th á c h thức cho quan hệ hợp tác toàn
diện V iệt Nam — Cam puchia. Trong điều k iện đó, H TQ P hai nước giữ
vai trò h ế t sức quan trọ n g tro n g việc củng cô" và tă n g cường tìn h hữu
nghị và phục vụ các lợi ích chiên tược lâu dài cúa cá hai bên. Cùng
chia sẻ những giá trị mới của tìn h hữu nghị và sự hợp tác giữa hai
nước, quan hệ HTQ P V iệt N am — C am puchia n h ấ t đ ịn h sẽ p h á t huy
hiệu quả m ặt th u ận lợi, vượt qua mọi khó k h ăn , th ử th á c h để phục vụ
đắc lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đ ấ t nước; đồng thời, vun đắp
cho tìn h hữu nghị của hai dân tộc ngày càng x an h tươi, đời đời bền
vững.
Thượng tướng NGUYẺN c h í v ịn h
Uỷ viên BCHTƯ Đảng, ú y viên Quân ủy Trung ương,
Thứ trưởng Bộ Quôc phòng

1 T háng 01-1989, Quân tìn h nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam hoàn th àn h nhiệm
vụ quốc tế và rút về nước.
(Nguồn: TC QPTD)

184
45 NĂM QUAN HỆ HỮU NGHỊ,
HỢP TÁC TOÀN DIỆN VIỆT NAM - CAMPUCHIA

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao PHẠM BÌNH MINH

V iệt Nam và C am puchia là hai quốc gia láng giềng gần gũi, có
quan hệ hữu nghị tru y ền thông lâu đời, nh ân dân hai nước là anh em
g ắn bó, chia ngọt, sẻ bùi. T hiên nhiên n h ân hậu đã cho dòng sông Mê
Công chảy qua hai nước, tưới m át cho những cánh đồng lúa b át ngát
dọc đôi bờ, m ang cá tôm nuôi dưỡng con người, làm nên cuộc sống trù
phú của n h â n d ân hai nước V iệt Nam và Campuchia. Dòng Mê Công
cũng chứng kiến môi tìn h hữu nghị đoàn k ế t keo sơn giữa n h ân dân
hai nước V iệt N am — C am puchia ngày càng p h á t triển .

Ngược dòng th ờ i gian 45 năm trước, ngày 24/6/1967 đã đán h dấu


sự kiện quan trọ n g h ai nước chính thức th iế t lập quan hệ ngoại giao,
khi n h â n d ân V iệt N am còn dang tro n g giai đoạn đấu tra n h khôc liệt
chông giặc ngoại xâm . Đ ây là sự ủng hộ có ý nghĩa cao cả của
C am puchia đối với N h à nước và n h ân dân V iệt N am trong sự nghiệp
giải phóng và th ô n g n h ấ t đ ấ t nước dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ
Chí M inh. Sự k iện n ày cũng khẳng định sự ủng hộ chân tìn h của
n h a n d an Viẹt N am dõi V Ơ I cuộc dãu tra n h báo vệ độc lập, nên tru n g
lập của Vương Qucíc Cam puchia do Cựu Quốc Vương Norodom
Shihanouk đứng đầu. C hào m ừng sự kiện có ý ng h ĩa quan trọ n g này,
tro n g chuyến th ăm hữu nghị cấp nhà nước tới Cam puchia từ ngày 6-
8/12/2011 của Tổng Bí th ư B an Chấp h àn h Trung ương Đ ảng Cộng
sản V iệt N am N guyễn Phú Trọng, L ãnh đạo cấp cao hai nước đã n h ấ t
trí lấy năm 2012 là N ăm Hữu nghị V iệt Nam — Campuchia. Các cấp,
các ngành, các địa phương và n h â n d ân hai nước đã tích cực hưởng
ứng n ăm hữu nghị, đã và đang tổ chức nhiều h o ạt động phong phú,
th iế t thực, đặc b iệt là Lễ M ít tin h trọ n g th ể kỷ niệm ngày th iế t lập
quan hệ ngoại giao hai nước.

45 năm kể từ khi hai nước th iế t lập quan hệ ngoại giao là thời kỳ


lịch sử đặc b iệt của quan hệ V iệt Nam - Cam puchia, khi n h ân dân hai
nước an h em đã đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, hợp tác và giúp

185
đỡ lẫn nhau, vì sự n g h iệp giải phóng d ân tộc, vì quyền được sông
tro n g tự do, h ạ n h phúc và xây dựng đ ấ t nước phồn vinh.

Sau nhữ ng n ăm th á n g cùng kề vai s á t cánh, đồng cam, cộng khổ


b ên n h au tiế n h à n h cuộc k h án g chiến trư ờ ng kỳ g ian khổ chông thực
d ân, đ ế quốc, lẽ ra n h â n d ân hai nước cùng được hưởng hòa b ìn h để
xây dựng cuộc sống ấm no, h ạ n h phúc, như ng tậ p đoàn Pôn P ố t đã
tiế n h à n h ch ín h sách d iệ t chủng tà n khô’c, g iết h ạ i h à n g triệ u người
d ân C am puchia, xoá bỏ đ ến tậ n gốc m ọi cơ sở xã hội, đẩy d ân tộc
C am puchia vào th ả m h ọa bị d iệt chủng. T ập đoàn P ôn P ố t còn tiến
h à n h cuộc chiến tr a n h đẫm m áu, xâm ph ạm chủ quyền, lã n h th ổ V iệt
N am , gây n ên n hữ ng tội ác tà y trờ i đôi với n h â n d ân V iệt Nam. Trước
tìn h h ìn h đ ấ t nước C am puchia nguy vong, các lực lượng cách m ạng
yêu nước chân ch ín h của C am puchia đã vùng dậy, lập n ên M ặt trậ n
Đ oàn k ế t d ân tộc cứu nước C am puchia đ ể tiế n h à n h cuộc đấu tra n h vũ
tra n g chông lại bè lũ d iệ t chủng. Đ áp lạ i lời kêu gọi k h ẩ n th iế t của
M ặt tr ậ n Đoàn k ế t d ân tộc cứu nước C am puchia, đồng thờ i cũng để
thực h iện quyền tự vệ ch ín h d án g bảo vệ Tổ quốc th iê n g liên g của
m ình, các ch iến sỹ Q uân tìn h nguyện V iệt N am đã không quản hy
sin h , s á t cánh cùng M ặt tr ậ n Đ oàn k ế t d ân tộc cứu nước C am puchia
tiế n h à n h cuộc chiến tr a n h tự vệ th ầ n tốc, cứu n h â n dân C am puchia
th o á t khỏi th ả m họa d iệt chủng, đưa đến th ắ n g lợi ngày 7/1/1979 của
C ách m ạng C am puchia. Với th ắ n g lợi lịch sử này, n h â n dân
C am puchia dã k h ép lạ i m ột tra n g sử đen tối, đau thương của d ân tộc
m i n h , Lliực h i ệ n c ồ n g c u ộ c h ồ i s i n h d â n t ộ c v à m ở l a k ỷ n g u y c n đ ộ c
lập, h oà bình, tự do và p h á t tr iể n cho đ ấ t nước C am puchia, đồng thời
tạo điều k iệ n th u ậ n lợi cho quan hệ hữu nghị và hợp tá c giữa h ai nước
p h á t triể n lên m ột giai đoạn mới, gắn bó, tin cậy lẫ n nhau. Sau sứ
m ện h lịch sử vô tư, tro n g sáng, nhiều Đ oàn chuyên gia và Q uân tìn h
nguyện V iệt N am dã h o àn th à n h n h iệm vụ quốc t ế cao cả của m ình
đối với n h â n d ân C am puchia và về nước.

Sau H iệp đ ịn h H òa b ìn h P a ris n ăm 1991 và cuộc Tổng tuyển cử


n ăm 1993, quan hệ hai nước chuyển san g giai đoạn p h á t triể n mới.
Với phương châm “lá n g g iền g tốt đẹp, hữ u ng h ị tru yền thống,
hợp tác toàn diện, bền vững lâu dà i ”, tro n g nhữ ng n ăm qua, quan
h ệ hai nước đã k h ông ngừng được củng cố và p h á t triể n sâu rộ n g trê n
m ọi lĩn h vực, m an g lại h iệu quả th iế t thực cho n h â n d ân hai nước.

186
Hai bên tiếp tục duy trì tru y ền th ố n g trao đổi các đoàn cấp cao
của Đảng, N hà nước, C hính phủ, Quốc hội cũng như giữa các bộ,
ngành, địa phương và giao lưu n h â n dân. Qua các chuyến th ăm , L ãnh
đạo cấp cao hai nước đều k h ẳn g địn h quyết tâm cùng nhau vun đắp
cho mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị truyền thống, hợp tác tố t đẹp giữa
hai nước và coi đây là n h â n tô' quan trọ n g đảm bảo th ắ n g lợi cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước. C huyến th ă m V iệt
N am của Quốc vương Norodom S iham oni th á n g 6/2010 cũng như
chuyến th ăm C am puchia của Chủ tịch nước Nguyễn M inh T riế t th án g
8/2010 và đặc b iệt chuyến th ă m hữu nghị N hà nước C am puchia mới
đây của Tổng Bí th ư Nguyễn Phú T rọng (6-8/12/2011) có ý nghĩa to
lớn, đưa quan hệ h ai nước lên m ột tầ m cao mới, th ắ t ch ặt quan hệ
láng giềng tố t đẹp, tìn h đoàn k ết, hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa
hai nước. Trong dịp này, T hái Thượng hoàng Norodom S hihanouk đã
nói rằ n g “C am puchia và V iệt N am là hai nước không th ể tách rời, môi
quan hệ quý báu giữa hai nước cần được p h á t huy tro n g giai đoạn xây
dựng và p h á t triể n đ ấ t nước”.

Hợp tác ch ặ t chẽ giữa hai nước được thực h iện qua các cơ ch ế như
Uỷ ban H ỗn hợp về Hợp tác kin h tế, văn hoá, khoa học kỹ th u ậ t, Hội
nghị Hợp tác P h á t triể n các tỉn h biên giới V iệt N am — Cam puchia,
Hội nghị Xúc tiế n Đầu tư được tổ chức hàn g năm , đóng góp quan trọ n g
vào việc thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác trê n mọi lĩnh vực. Đặc
biệt, m ột số tỉn h th à n h của hai nước tuy không có chung biên giới,
nhưng cũng lích cực thúc dẩy quan h ẹ k ế t nghía, ky cac th ó a th u ặn
hợp tác, điển h ìn h như các cặp quan hệ T h àn h phố Hồ Chí M inh -
Phnom P enh, H ải P hò n g - Sihanouk Ville và gần đây có th êm nhiều
tỉn h th à n h của h ai nước đang đi theo hướng hợp tác tích cực này.

Hợp tác k in h tế, thương m ại, đầu tư giữa hai nước cũng đã p h á t
triể n n h an h chóng. N ăm 1997-1999, kim ngạch thương m ại h ai chiều
mới chỉ đ ạt khoảng 130-150 triệ u U SD /năm , nhưng từ năm 2005, kim
ngạch thương m ại hai nước tă n g tru n g b ìn h khoảng 30-40% /năm. Cụ
th ể là năm 2007 đ ạt hơn 1,2 tỷ USD, năm 2008 đ ạ t 1,6 tỷ USD, năm
2009 đ ạt 1,33 tỷ USD, năm 2010 đ ạ t 1,8 tỷ USD, năm 2011 đ ạ t 2,8 tỷ
USD. Hai nước p h ấn đấu đưa kim ngạch thương m ại hai chiều đ ạ t 5 tỷ
USD tro n g 5 năm tới. H iện nay, V iệt Nam đã có hơn 100 dự án được
cấp phép đầu tư tạ i C am puchia với tổ n g sô' vốn trê n 2,2 tỷ USD, tập

187
tru n g trê n các lĩn h vực viễn thông, ngân bàng, n ă n g lượng, trồ n g cây
cao su, ch ế b iến nông sản.

C ùng với sự p h á t triể n tố t đẹp của mối quan hệ chung giữa hai
nước, các cơ quan, lực lượng chức n ăn g và các địa phương biên giới
V iệt N am và C am puchia đã và đang tích cực phối hợp ch ặ t chẽ triể n
k hai công tác p h â n giới cắm mốc biên giới trê n bộ để sớm hoàn th à n h
công tác n ày th eo tin h th ầ n chỉ đạo củaL lãnh đạo cấp cao hai nước.
Việc T hủ tướng C h ín h phủ V iệt N am N guyễn T ấn D ũng và Thủ tướng
C hín h phủ H oàng gia C am puchia S am dech Techo H un S en cùng dự Lễ
K h án h th à n h cấp n h à nước cột mốc sô' 314, cột mốc cuối cùng trê n
đường biên giới tr ê n bộ (thuộc tỉn h K iên G iang của V iệt N am và tỉn h
K am P ố t của C am puchia) vào đúng ng ày kỷ niệm 45 n ăm quan hệ
ngoại giao V iệt N am - C am puchia (24/6/2012) th ể h iệ n quyết tâ m cao
của L ãnh đạo và lòng m ong m uôn của n h â n d ân hai nước tro n g việc
xây dựng đường biên giới V iệt N am — C am puchia th à n h đường biên
giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác và p h á t triể n bền vững.

Q uan hệ giữa M ặt trậ n , Hội phụ nữ, tổ chức th a n h n iên , Liên


hiệp các Tổ chức Hữu nghị, Hội Hữu nghị V iệt N am — C am puchia cũng
ngày càng được tă n g cường với nhiều nội dung h o ạ t động th iế t thực,
góp p h ần vào việc n ân g cao n h ậ n thức cho các tầ n g lớp n h â n dân, đặc
b iệt là th ế hệ trẻ về tru y ền th ô n g đoàn k ế t, giúp đỡ lẫ n nhau, qua đó
góp sức vào việc giữ gìn, vun đắp cho quan hệ hữu nghị tru y ề n th ô n g
và hợp tác to àn d iện giữa h ai nước. H ai nước vẫn d à n h cho kiều dân
của n h au n h iều th u ậ n lợi n h ằm ổn địn h cuộc sống, tạo điều k iệ n bình
đẳn g cho họ th a m gia dóng góp nhiều hơn nữa vào công cuộc xây dựng
đ ấ t nước nơi họ sin h sông. Giao lưu n h â n d ân , n h ấ t là n g àn h du lịch
giữa h ai nước ngày càng p h á t triể n . N ăm 2011, V iệt N am trở th à n h
nước đứng đầu về lượng du k h ác h đến C am puchia với số lượng khoảng
600.000 lượt người.

H ợp tác về giáo dục dào tạo vẫn luôn là ưu tiê n cao tro n g quan hệ
giữa hai nước. H àn g năm , V iệt N am và C am puchia v ẫn d à n h cho nhau
h àn g tră m s u ấ t học bổng dài h ạ n và n g ắn h ạ n cho sin h viên, nghiên
cứu sin h , cán bộ của các bộ, n g àn h và địa phương của hai nước. Trong
lĩn h vực y tế, m ặc dù còn n h iều khó k h ă n , n hư ng n g à n h y t ế V iệt
N am v ẫn d àn h cho người dân C am puchia sống dọc biên giới V iệt Nam
được hưởng ch ế độ k h ám chữa bệnh Ưu dãi như đôi với người V iệt

188
Nam. Ngoài ra n g àn h y t ế còn thường xuyên cử các đoàn bác sỹ V iệt
Nam sang khám , mổ m ắt m iễn phí cho người Cam puchia. Đó là những
việc làm cụ th ể, r ấ t có ý nghĩa của tìn h hữu nghị giữa hai nước láng
giềng a n h em. Bên cạnh đó, các h o ạt động giao lưu văn hóa, tro n g đó
có việc tổ chức “T uần Văn h ó a” của hai nước theo h ìn h thức luân phiên
thường n iên đã p h á t huy vai trò là “cầu nối” giúp tă n g cường hiểu b iết
lẫn nhau giữa n h ân dân hai nước.

Không chỉ tro n g khuôn khổ song phương, hai nước cũng ngày
càng hợp tác, gắn bó và ủng hộ lẫn nh au tạ i các diễn đàn quốc t ế và
khu vực như hợp tác ba nước C am puchia — Lào - V iệt N am (CLV), hợp
tác bốn nước C am puchia — Lào —M yanm ar - V iệt N am (CLMV), C hiến
lược hợp tác k inh t ế ba dòng sông Ayeyawady - Chao P h ray a -
M ekong(ACM ECs), Hợp tác tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS), H iệp
hội các Quốc gia Đông N am Á (ASEAN), ASEM, Liên Hợp Quốc
(UN)... H iện nay, C am puchia đang đảm đương vai trò là Chủ tịch
ASEAN năm 2012, V iệt N am sẽ tiếp tục phôi hợp ch ặ t chẽ và chân
th à n h chúc C am puchia hoàn th à n h trọ n g trá c h của m ình. B ên cạnh
đó, quan hệ hợp tác giữa Bộ Ngoại giao V iệt N am và Bộ Ngoại giao và
Hợp tác Quốc t ế C am puchia cũng có những bước p h á t triể n tích cực.
H ai bộ vừa tiế n h à n h Cuộc Giao lưu lần th ứ 3 và th ỏ a th u ận sẽ tiếp
tục duy trì tru y ền th ô n g tố t đẹp này.

Với lịch sử giàu truyền th ô n g đoàn kết, hữu nghị, hợp tác, giúp đỡ
lẫn nhau vô tư. tro n g sáng như vậy, quan hệ hai nitớc RP ró nhiồu tiềm
năn g để p h á t triể n m ạnh m ẽ, toàn diện trê n tầm cao mới. Điều th u ận
lợi cơ bản là n h â n dân hai nước trả i qua th ă n g trầ m của lịch sử đã kề
vai s á t cánh bên nhau trê n tin h th ầ n tin cậy. L ãnh dạo cấp cao hai
nước k h ẳn g đ ịnh quyết tâm tiếp tục cùng nhau vun đắp cho mối quan
hệ hữu nghị, hợp tá c V iệt N am - C am puchia p h á t triể n nh ằm m ang
lại lợi ích cho n h â n d ân hai nước. Sự tra o đổi thường xuyên các
chuyến th ă m của L ãnh đạo cấp cao hai nước đã tạo tiền đề và đường
lối đúng đắn cho mối quan hệ giữa các cấp, các ngành, địa phương và
n h ân dân hai nước. Các cơ ch ế hợp tác đa dạng góp p h ầ n đưa quan hệ
hữu nghị giữa hai nước p h á t triể n theo hướng tích cực, hiệu quả, phù
hợp với lợi ích của hai nước. C hính vì lẽ đó, hợp tá c về k in h tế , thương
m ại, đầu tư giữa hai nước đang p h á t triể n th u ậ n lợi. N hững chính
sách Ưu đãi về thương m ại, đầu tư hỗ trợ m ạn h mẽ mối quan hệ buôn
bán và đầu tư giữa hai nước. Các dự án cơ sở h ạ tầng, k ế t nối giao

189
thông, hệ thống chợ biên giới... đang được triể n khai sẽ là n ền tả n g
quan trọ n g cho việc p h á t triể n kin h t ế vùng biên giới hai nước nói
riên g và tă n g cường hợp tác về kinh t ế giữa h ai nước nói chung. N ền
v ăn hóa đặc sắc của hai nước đã là động lực m ạ n h m ẽ cho giao lưu
giữa n h ân dân hai nước tro n g thời gian tới. Số lượng du lịch của V iệt
N am tới Cam puchia gia tă n g sẽ góp p h ần thúc đẩy n g àn h du lịch của
đ ất nước bạn C am puchia p h á t triể n hơn nữa. T rê n cơ sở những th u ậ n
lợi cơ b ản đó và với quyết tâm của L ãnh đạo cấp cao, sự nỗ lực của các
Bộ, ngành, địa phương và n h â n dân hai nước, chúng ta tin tưởng chắc
chắn rằ n g môi quan hệ láng giềng tố t đẹp, hữu nghị tru y ền th ô n g và
hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài giữa V iệt N am và C am puchia sẽ
tiếp tục p h á t triể n lên tầm cao mới, m ang lại nhữ ng lợi ích th iế t thực
cho n h ân dân hai nước, đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định, hợp
tác p h át triể n tro n g khu vực và trê n th ế giới.

N hìn lại chặng đường lịch sử gắn bó, p h á t triể n , n h ấ t là giai


đoạn 45 năm qua, chúng ta vui m ừng về nhữ ng th à n h tựu m à n h â n
dân hai nước đã đ ạt được, về môi quan hệ m ậ t th iế t gắn bó tương trợ
lẫn nhau giữa hai nước ngày càng được củng cô' và p h á t triể n . Dòng
Mê Công vẫn hàn g ngày m ang nặn g phù sa m àu mỡ chăm bón cho
mùa m àng của n h ân d ân hai nước tố t tươi. D òng sông hòa bìn h sẽ m ãi
m ãi chứng kiến mối tìn h hữu nghị bền ch ặt, s ắ t son giữa n h â n dân
V iệt N am và n h ân d ân Cam puchia ./.

P IIẠ M H ÌN II M IN II
Úy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
(Nguồn: Chinhphu.vn)

190
Phân VI
BỘ ĐỘI CỤ HỒ ở CÁC MẶT TRẬN BIÊN GIỚI
TÂY-NAM QUA NHỮNG TRANG TRUYỆN NGAN

ANH ẤY KHÔNG ĐƠN ĐỘC

VÃN LÊ

Vất vả lắm tổ trin h sát của Hoán mới chui ra khỏi rừng cây ô rô đầy
gai sắc. Hoán cho đơn vị dừng lại thay quần áo. Họ chuẩn bị luồn sâu vào
hậu phương địch. Khi làm nhiệm vụ họ được phép dùng trang phục của
địch.

Trời sáng hẳn. Trước m ặt Hoán là một trảng cỏ đầy sương ẩm ướt.
Không th ể cắt rừng khi sương còn đẫm và trời sáng rõ ràng. Hoán bàn
với Lợi, nghĩ lại xem động tĩnh ra sao, rồi sẽ chờ đến tối đi tiếp. Lợi
đồng ý. Cả hai cùng chui vào trong bụi cây cỏ hôi bịt mùng nằm nghỉ.
Tuy rấ t mệt, Hoán vẫn không sao chợp m ắt được. Trong khi Lợi gối đầu
lên bao xe đan ngủ ngon lành Gần về t,rơa, Hoán mrt hồ nhií ró t.iếng
người chặt cây vọng lại. Hoán nhỏm dậy, dỏng tai nghe. Đúng là tiếng
người chặt cây. Nhưng không phải là tiếng chặt của nhiều người mà chỉ
có một người. Hoán đánh thức Lợi. Cả hai người cùng chui ra khỏi bụi
cây và ngồi xuống bên một gốc xăng lẻ lớn. Tiếng chặt cây mỗi lúc một
gần. Họ đã nghe được cả tiếng cây đổ và cả tiếng người huýt sáo sẽ sàng.
Tự nhiên Hoán nảy ra ý định bắt tù binh. Anh nói nhỏ với Lợi ý định ấy.
Lợi gật đầu một cách lưỡng lự.

- Câu cho rằng mạo hiểm phải không? Bất giác Hoán hỏi.

Lợi khẽ mỉm cười:

- Đúng như vậy... Nhưng không sau đâu... Tôi đã nghĩ rồi.

Hoán nắm chặt tay và trình bày kế hoạch của mình. Lợi gật đầu.
Xong, cả hai cùng lặng lẽ cắt về phía có tiếng chặt cây. Hoán dang đi,

191
bỗng anh ngồi thụp xucíng, bình th ả n lấy trong th ắ t lưng ra một cuộn dây
m ìn ngồi gỡ. Lợi ngạc nhiên trước hàn h động ấy, anh vội đến bên Hoán.
Vừa ngồi xuống, Lợi đã nghe Hoán nói nhỏ:

- Pol Pot đấy. Bình tĩnh. Nó đã p h á t hiện ra m ình.

Từ xa, m ột tên địch đang cầm dao từ từ tiến lại. Hoán và Lợi vẫn
cúi dầu th ản nhiên ngồi gỡ dây m ìn với vẻ say sưa.

Sau những phút rụ t rè, tên địch m ạnh dạn bước tới gần hai người.
Nó nhoẻn miệng cười. Hoán cũng cười th ân m ật rồi anh lại cúi xuôĩig tiếp
tục công việc. Tên dịch bước đến phía sau họ đứng xem.

- Bị rối à? Tên địch hỏi.

Hoán khẽ xoay người gật đầu. Bằng m ột cú đánh b ất ngờ, anh quật
tê n địch ngã ngửa. N hanh như chớp, Lợi chồm lên bịt m iệng tê n dịch lại.

- Ta đi thôi! - Hoán nói trong hơi thở gấp.

Tên địch vẫn chưa hết bất ngờ. Cách đây chừng nửa phút đồng hồ
hắn vẫn nghĩ rằng những người b ắt hắn là đồng đội. Đưa tên địch đi th ậ t
xa, đến một quả đồi um cỏ, Hoán cho dừng lại và b ắt đầu hỏi cung.

- Mày nghĩ gì về chúng tao? - Hoán hỏi.

Tên địch ngồi im một lát, môi khẽ động đậy:

- Các ông là trin h sá t Việt Nam.


- Đúng, chúng tao là trin h s á t Việt Nam. Bởi vậy chúng tao muốn
biết tấ t cả những gì mày biết. Mày phải khai rõ, khai th ậ t và khai hết
những điều chúng tao hỏi. Lấy danh dự là người lính, tao sẽ bảo vệ tính
m ạng cho mày. Mày hiểu không?

- Dạ. Tên địch run run trả lời.

- Trước hết, mày cho biết họ tên.

- Thưa. K hăn Đuôn Chia.

- Đơn vị?

- Tiểu đoàn bảo vệ quân khu Tây Bắc.

- Cấp bậc?

192
- Trung dội trưởng.

- Đơn vị có bao nhiêu người? T rang bị?

- Dạ, một trăm hai mươi người. Chia làm ba đại đội. Trang bị mỗi
tiểu đội có bốn B.40, còn lại là AK có lắp thêm phụ tùng để bắn AT.

- Đơn vị đứng chân?

- Dạ, cách chỗ các ông b ắt tôi hơn một kilômét về phía tây.

- Rồi! Bây giờ mày sẽ vẽ sơ đồ chúng tao xem.

Tên địch tỏ ra là người hiểu biết khá rõ về quân sự. Hắn nám được
tấ t cả địa hình, th ế bố trí lực lượng, bãi mìn, tổng đài, phòng giao ban và
cơ quan chỉ huy. Vừa vẽ, tên địch vừa giảng giải những chỗ cần th iế t để
minh họa thêm những điều Hoán thấy nghi ngờ. Lợi ngồi nghe một cách
chăm chú. Chỗ nào Hoán chưa khai thác sâu, anh hỏi lại để nắm rõ.

Sau khi biết được tấ t cả những điều cần thiết. Hoán thấy cần phải
kiểm tra lại lời khai của tên địch một lần nữa bằng cách bắt nó dẫn
đường. Để trấ n tĩn h tên địch, Hoán nhắc lại điều anh đã hứa là sẽ đảm
bảo tín h m ạng cho nó. Tên địch nhận lời. Đêm hôm ấy, Hoán và Lợi đã
đến được tấ t cả các mục tiêu cần th iết cho nhiệm vụ.

Gần về sáng, công việc đã hoàn tất. Cả căn cứ đầu não của quân khu
Tây Bắc địch đã nằm gọn trên tấm bản đồ tác nghiệp trong óc Hoán. Giữ
đúng lời hứa, anh quyết định th ả tên địch.
- Như vậy là mày đã khai đúng sự thật. Hoán nói - Bây giờ chúng
tao trả tự do cho mày. Đi đâu tuỳ mày định liệu.

Nghe nói, Khăn Đuôn Chia bàng hoàng cả người. Gương m ặt hắn
luôn tái m ét vì lo sợ bỗng đỏ lên vì xúc động. Mồ hôi hắn vã ra. H ắn sụt
sùi:

- Các ông bảo tôi bây giờ đi đâu được? v ề đơn vị ư? Ngừng một lát
dể suy nghĩ, Khăn Đuôn Chia kết thúc - Không. Tôi không thể trở về
sống với Pol Pot. Chúng nó sẽ giết tôi... Chúng nó sẽ giết vì sự vắng m ặt
một ngày trời của tôi... Còn trở về quê hương? Tên địch lấc đầu - Quê
hương... Tôi không còn ai thân thuộc. Chúng nó đã giết hết những người
thân trong gia đình tôi... Bây giờ tôi sẽ đi đâu? Tôi sẽ sống ở đâu cho hết
phần đời còn lại?... Khăn Đuôn Chia nấc lên.

193
Sự đau xót th àn h th ậ t của tên địch đa làm cho Hoán xúc động. Sẽ
phải h àn h động như th ế nào đây để có th ể cứu được con người này?

- Nếu các ông đã không giết tôi - Tên địch nói - thì các ông hãy cứu
lấy tôi... Hãy cho tôi đi theo, được không? Tên địch nài nỉ.

Tình th ế đã đưa Hoán vào con đường khó xử. Cho tên tù binh đại
đội theo th ì tự m ình gây thêm khó khăn, còn bỏ h ắn lại th ì không đành
lòng. Nếu đã không giết h ắn thì phải cứu lấy cuộc đời của hắn. Nếu
không, anh sẽ bỏ rơi m ột con người...

Hoán đưa m ắt n hìn Lợi. Lợi cũng nh ìn H oán phân vân. Dường như
Lợi cũng đang trô n g chờ ở sự quyết định của Hoán.

- Cậu th ấy th ế nào, Lợi? Để h ắn đi theo có khó kh ăn gì không?

- T ất nhiên là có khó k h ăn cho chúng ta. Nhưng về lâu về dài có thể


h ắn sẽ giúp chúng ta được nhiều việc.

Ngẫm nghĩ m ột lần nữa. H oán quay sang nói với K hăn Đuôn Chia:

- Chúng tao đồng ý để m ày đi theo. Như th ế được chưa?

Tên địch mỉm cười, nước m ắt lã chã:

- Xum dâng cun chia à t ế pạ rừ Mal (Xin muôn ngàn lần biết ơn các
ông).

Suốt đêm ấy, họ bươn rừng theo hướng sao trờ i m à đi. Hoán chỉ cho
dừng lại nghỉ m ột lá t để ăn m ột chút lương khô còn lại rối tiếp tục di
tiếp. Gần về sáng, họ đã tới được thượng nguồn con suối Chlông Đan gần
bình độ 170. Khu vực này, Hoán đã qua lại nhiều lần. Mùa khô năm
ngoái, anh đã cho bộ đội ngủ đêm tại đó. Đêm ấy, H oán đến vào lúc mười
m ột giờ. Sáng ra thức dậy, an h h ế t sức ngỡ ngàng vì đang ở m ột rừng
ban đỏ. Hoán sung sướng ngây ngất ngắm nh ìn cánh rừng suốt hàng
tiến g đồng hồ. Trở lại đây lần này, kỷ niệm say mê, rạo rực bỗng sông
lại trong lòng anh.

Một tiếng động nhỏ ở phía trước làm Hoán dừng lại. Vừa kịp nép
m ình vào m ột gốc cây gần n h ấ t th ì anh đã nghe th ấ y tiếng quát gọn lỏn:

- Đứng lại.

- Địch. H oán vừa kịp th ố t lên theo phản xạ thì từng luồng đạn địch
đã bay tới tấp quanh anh. H oán xiết cò. Lợi cũng kịp thời chi viện cho

194
anh. Bọn địch rấ t đông, thấy có hai khấu súng nổ, chúng vừa rúc còi, vừa
hét ầm ĩ bằng tiếng Việt.

B iết khó có th ể cầm cự được với dịch. Hoán vừa bắn, vừa ra ám hiệu
cho Lợi rú t đi. Hiểu ý, Lợi đưa Khăn Đuôn Chia bươn nhanh về hướng
nam, nơi vòng vây địch còn sơ hở. Chờ cho Lợi và K hăn Đuôn Chia đi xa.
Hoán b ắt đầu rút. Nhưng không kịp nữa rồi, cả tiểu đoàn địch đã bọc kín
lấy anh. Hoán ra sức vùng vẫy. Một m ình m ột súng, lúc ẩn lúc hiện,
Hoán kiên quyết không cho quân địch bám sát mình. Nhưng rồi vòng vây
chúng vẫn cứ co dần lại.

- Đừng chạy nữa! Tiếng bọn dịch vẫn la ó om xòm xung quanh anh.

Hoán lẩn vào bên một gò mốì chờ địch. Những tên địch dàn hàng
ngang đã cách anh chừng khoảng ba chục m ét. Hoán đợi cho chúng vào
sâu thêm chút nữa, Hoán đứng th ẳn g dậy, xiết cò. Anh chĩ kịp nhận thấy
ba tên địch trúng đạn ngã nhào, còn những tên khác nằm thụp xucíng.
Trong lúc chúng đang tìm chỗ ẩn nấp thì Hoán vọt chạy. Anh đạp qua
chỗ ba tên địch vừa trúng đạn rồi biến đi th ậ t nhanh.

Bọn địch bắn như tưới đạn về phía Hoán, Hoán vừa bắn vừa chạy.
Một quả B.40, hai quả, rồi ba, bốn quả nổ tứ tung phía trước, phía sau
anh. Hoán cứ chạy. Bọn địch lại phong toả cao điểm. Vòng vây quân dịch
khép lại dần. Hoán chỉ còn lại băng đạn cuối cùng. Đến lúc này, anh biết
m ình khó thoát. Nhưng Hoán vẫn ra sức xé vòng vây địch, cỏ mọc đến
tận th ấ t lưng đã cản bước Hoán. Giữa cuôc sống và cái chết đã thôi thúc
anh, gìn giữ cho anh được tỉn h táo và tăng sức cho anh chạy. Lên tới cao
điểm, Hoán bị trúng đạn. Anh lảo đảo ngã xuống bên m ột hòn đá. Bọn
địch chạy đổ xô về phía anh. Hoán mím môi, dùng chân còn lại đạp th ật
m ạnh vào hòn đá. Hòn đá lăn xuống chân đồi. Theo vết đá lăn, bọn địch
đổ xô xuống. Hoán đã đánh lừa được địch. Anh lấy h ết sức đứng dậy chạy
ngược về phía sau. Bị đánh lừa, bọn địch vừa tức, vừa bắn, vừa chạy lên
đồi. Hoán chạy xuống. Bất ngờ, anh vấp ngã. Cả người anh đổ nhào rồi
cứ th ế lăn đi. Hoán không biết m ình dã lăn như th ế bao lâu, đến lúc tỉnh
dậy, anh lại th ấ t bọn địch h é t từ trê n đỉnh đồi. Không còn súng, Hoán
chỉ còn lại một quả lựu đạn duy n h ấ t trong th ắ t lưng. Hoán rú t chốt lựu
đạn cầm trong tay tiếp tục chạy xuống dốc. Vòng vây bọn địch lại toả ra.
Hoán không hiểu tại sao chúng lại chừa cho anh một con đường để chạy.
Đến chiều, chúng đã dồn anh về một góc rừng. Bọn địch không còn hăm
hở nữa. Chúng đi lững thững và bắn lẻ tẻ về phía Hoán. Chạy được một

195
đoạn, Hoán đụng nhiều tấm biển m ang ký hiệu nguy hiểm , anh mới hiểu
bọn địch đã cố ý lừa anh vào bãi mìn. Hoán chần chừ trong giây lát... Vì
lòng khao k h á t sống, anh quyết định bươn qua. Chạy được m ột đoạn, anh
vẫn chưa th ấy quả m ìn nào nổ. Hoán ngoái lại, đằng sau anh, bọn địch
vẫn tiếp tục bám theo, c ầ m quả lựu đạn trong tay, H oán nghĩ m ình
không nên chạy nữa. Anh linh cảm có nhiều quả mìn ở phía trước đang
chờ anh. Lại phải đánh lừa địch. Hoán nghĩ... Anh th ậ n trọ n g bò vào một
bên gốc cây cụt và th ảy nhẹ quả lựu đạn. Một tiếng n ể trùm lên, kéo theo
một tiếng nổ rùng rợn nữa. Đ ất đá bay tung toé, rơi lụp bụp vào người
Hoán. Hai đụn khói đen trùm lên những cây lè tè, xơ xác. Bọn địch chỉ
chờ có tiếng nổ ấy. Đến lúc này, chúng đứng lại, nhìn về phía anh, nói
với nhau điều gì đó rồi quay về. Hoán cứ nằm bên gốc cây như th ế suốt
hai tiếng đồng hồ. H oán không hề nghĩ tới vết thương ở chân m ình đang
rỉ máu. Trong thâm tâm anh lúc này chỉ còn một ước muốn duy n h ấ t là
mong sao Lợi đưa được tên tù binh an toàn trở về đơn vị... Anh đặt niềm
tin rấ t nhiều ở Lợi. Được nghỉ ngơi sau m ột thời gian dài chạy giặc. Hoán
thấy người đỡ mệt. Đến lúc này, anh mới nhẹ nhàng bò đi. Anh thận
trọng dùng hai tay để dò mìn. Đúng như đã dự kiến, rấ t nhiều mìn nằm
trê n con đường anh đi. Hoán gỡ liền m ột hơi năm quả, th ấy chân tay
m ình run lên. Anh nằm nghỉ trấ n tĩn h lại. Xong, lại tiếp tục gỡ. Anh đã
gỡ được hơn hai chục quả.

Hoán b ắt đầu th ấy đói, thấy khát. Cái đói và cái k h á t giằng co


trong ý nghĩ của anh. Ớ giữa rừng m ột m ình, trong tay không có m ột tấc
sát, lại bị thương. H oán không có cách nào Um ra tliức ăn đưực. Trời về
tốì. Rừng âm u tiến g muỗi. M ệt, H oán không th ể tiếp tục đi nữa. Anh
buộc phải nằm lại ở đây. Hoán bẻ lá cây làm chỗ nằm . Quên cả muỗi đốt,
Hoán ngủ thiếp đi.

Hoán thức dậy trong khi trời đang chuyển gió. Rừng cây vật vã, ngả
nghiêng. Những cành khô bị gió bẻ rơi lụp bụp xuống m ặt rừng. Sấm nổ
ầm ầm trong không gian... Gió vẫn rít và những h ạ t mưa đã bắt đầu rơi
xuống. Rừng trắ n g xoá mưa bay. Hoán ngồi co ro. Mưa đã thấm ướt hết
bộ quần áo rách trê n người anh và chảy th àn h dòng xuống bụng. Hoán
h ét run lên. H àm răn g đập vào nhau lập cập. H oán cứ ngồi chịu trậ n
trong cơn mưa rừng tầm tã như thế.

Gần sáng, trời tạ n h mưa. Chim rừng líu lo hót. Hoán vịn đầu gối
đứng dậy nhưng không nổi. Anh vịn vào m ột th â n cây nhỏ đứng lên.

196
Hoán chóng m ặt. Anh lảo đảo chực ngã. Hoán nhắm m ắt lại để trấn tĩnh.
Chờ cho cơn chóng m ặt qua đi, anh bắt đầu khởi hành. Đi được một
đoạn, Hoán phải bẻ cây để chống. Cứ thế, anh túc tắc bước. Nghĩ tới đơn
vị, anh th ấy m ình khỏe hẳn lên, những bước chân trở nên vững chắc lạ
kỳ. H oán đã vượt qua cánh rừng đại ngàn. Anh b ắt đầu tiến vào khu rừng
lau trùng điệp. Trời nổi gió. Lau cọ vào nhau xào xạc. Hoán phải bỏ lại
cây gậy chông ở dọc đường. Anh vịn vào từng cây lau, dóng hướng để
bước. Những cây lau già, lá sắc như dao cứa vào da th ịt anh. Hoán không
nghĩ gì tới chuyện ấy nữa. Toàn tâm trí anh chỉ tập trung vào việc làm
thê nào để có th ể cắt về đến căn cứ mà không bị chết ở dọc đường.

Trời chiều, gió nổi càng lớn. Cả rừng lau rung lên, vặn mình, vật vã
như những cồn sóng trắng. Hoán có cảm giác đang bơi giữa biển đúng
hơn là đang bươn trong rừng.

Vừa nhô ra khỏi đường mòn, bất ngờ Hoán đứng sững lại. Trước m ặt
anh chừng hai m ét, m ột toán địch đang ngồi quây trò n ăn mía, súng để
bên cạnh. Những tên địch nhìn thấy anh tròn xoe m ắt giật m ình hoảng
hốt. N hanh như cắt, Hoán phóng tới chộp khẩu súng của một tên địch
gần n h ấ t và nhả đạn. Rõ ràng sự việc diễn ra quá b ất ngờ để các tên
địch có th ể có được những phản ứng tự vệ cần th iết. Chúng chỉ còn biết
ngồi kéo lê đít trê n nền đất. Tới khi kịp hoàn hồn thì những tên còn
sống sót mới quờ lấy súng và chạy. Chúng không bắn trả lại anh một
phát nào. Hoán bước lại, anh dùng chân lật xác những tên địch bị giết.
Đến lúc nàv Hoán mới thấy hànK hoàng. Rự viện Hiễn ra và kết. t.hiìr
không đầy một phút đồng hồ. Anh không th ể giải thích được vì sao phản
xạ của m ình lúc đó lại mau lẹ đến thế. Nhưng anh hiểu rằn g trong những
tích tắc có tín h quyết định ấy anh là người nhanh hơn và anh đã chiến
thắng.

Hoán thu được năm khẩu súng và tám chiếc bồng của địch. Anh soát
xét mấy cái bồng của chúng thì thấy có ba phong lương khô cùng vài nải
chuôi xanh. Đói. H ắn bẻ th an h lương khô bỏ vào mồm nhai ngấu nghiến.
Anh ăn ngon lành như m ột đứa trẻ. Hoán không còn nghĩ gì đến sự nguy
hiểm khi quân địch có th ể quay trở lại. Vừa ăn, Hoán vừa dùng lê đâm
thủng bằng h ết những chiếc nồi nhôm đen nhẻm , méo mó.

- Duôl, cứu tôi với!


Hoán g iật m ình, quờ vội khẩu súng, dáo dác nhìn quanh, phát hiện
tiếng người.
197
- Duôl, cứu tôi với!

Lần này thì Hoán đã thấy rồi. Cách an h chừng ba chục m ét, m ột cô
gái bị trói cả chân tay đang quằn quại bên m ột gò môi. Hoán xách súng
bước tới. Thấy anh, cô gái ngửng m ặt lên cầu khẩn:

- Cứu tôi với! Duôl...

Cô gái chừng hơn hai mươi tuổi, có vóc người khỏe m ạnh, da đen. Cô
bận xăng đen và chiếc áo màu lá m ạ viền đăng te n trắng. T rán cô có m ột
vết bầm to, má bên trái bị một vết sước sâu, máu chảy đã khô đen.

Qua lời lẽ của cô gái, Hoán hiểu rằ n g cô chưa hề gặp bộ đội ta bao
giờ, bởi lẽ cô đã dùng từ “Duôl” m à bọn Pol Pot vẫn gọi để m iệt th ị V iệt
Nam.

Hoán quỳ xuống. Đôi bàn tay cô gái đã tím lạnh. Để mở trói cho cô,
Hoán phải dùng tới cả răng. Khi môi dây cuốĩ cùng đã được cắn đứt, cô
gái rùng mình. Máu dồn xuống đôi bàn tay cô đỏ ửng. Cô nắm lấy tay
Hoán nhưng đôi bàn tay cô cứ rời ra. Hoán mở tiếp dây trói chân cho cô
gái và vực cô đứng dậy. Vừa đứng lên, cô gái đã ngã dúi xuống. H oán vội
đỡ cô và đặt cô nằm xuống. Nhưng cô gái cố gượng dậy. Cô tựa lưng vào
vai anh. Ngồi như th ế được một lúc, cô gái quay lại n h ìn anh khẽ nói:

- Duôl, cho tôi ăn bánh đi! Tôi đ ó i.

Hoán trao miếng lương khô ăn dở cho cô. Cô gái rụt rè đưa lên
m iệ n g c ắ n m ộ t m iố n g n h ỏ v à n h a i t h ậ t lâ u , tự a h ồ n h ư cô k h ô n g muôYi
nuốt vội di miếng ăn quý giá đó.

- Tôi bị chúng bỏ đói đã ba ngày nay rồi Duôl ạ. Tôi bị chúng b ắt


được trên đường đi thăm gia đình. Cô gái nói rồi quay sang hỏi Hoán -
Duôl bị thương à?

Hoán gật đầu. Có tiếng động, Hoán ngoái lại. Tên địch bị an h bắn
chưa chết đang bò đi. Hoán mở khoá an toàn, đứng lên chĩa súng vào tên
địch. Tên địch không bò nữa. Nó ngồi nhổm dậy, nhìn anh. Đôi m ắt nó
bỗng nhiên trào nước. M ắt Hoán căng ra. Đầu anh nóng bừng.

- Duôl ơi! Nó khóc kìa. Cô gái nói - Nó có vợ con rồi đấy... Tội nghiệp
nó...

Hoán vẫn đứng im như tượng. K hẩu súng trong tay anh từ từ h ạ
xuống. Cô gái nhìn Hoán. Sự cảm phục dạt dào trong đáy m ắt của cô.
198
Cô gái nắm chặt tay Hoán.

- Duôl tố t lắm.

Hoán không nói. Anh ôm năm khẩu súng thu được của địch đến chỗ
cô gái. Anh chọn m ột khẩu đưa cho cô:

- Cô b iết bắn không?


Cô gái lắc đầu:

- Tôi sợ. Trông th ấy súng, tôi sợ.

Hoán mỉm cười thông cảm. Anh nhìn xuông đất, nói nhỏ:

- Bây giờ tôi phải đi... Tôi phải đi, cô gái ạ.

- Duôl đi à? Cho tôi đi theo với... cho tôi đi được không?

Không cần nhìn cô gái nhưng Hoán biết là cô đang nhìn anh cầu
khẩn.

- Tôi đi khó cho Duôl à? Cô gái lại hỏi.

- Không khó... Nhưng thôi được... Đi đi - Nói rồi. Hoán trao khẩu
súng cho cô gái - Cô cầm giúp tôi.

Cô gái đỡ lấy khẩu súng. Hoán dạy cô cách khoác, còn m ình thì
m ang theo bốn khẩu.
- D u ô l m a n g n h iồ u th ô ? B i th ư ơ n g, m a n g n ă n g , k h ô n g đi được x a
đâu.

Nói xong, cô gái giành lấy khẩu súng từ tay Hoán. Buộc lòng anh
phải trao lại cho cô.

Khó kh ăn lắm họ mới cắt được tới suối Ođa. Chính tại con suôi này,
mới cách đây hai đêm. Hoán và đồng đội đã vượt qua. Trời mới mưa hồi
đêm, nước đỏ ngầu, chảy rấ t m ạnh. Hoán đi dọc suối một đoạn khá xa
mới tìm được một bến để vượt. M ang nhiều súng nặng, Hoán quyết định
ném bớt xuông suối, còn giữa lại mỗi người một khẩu. Nhìn những khẩu
súng sủi tăm dưới lòng suối, cô gái tiếc rẻ:

- Sao lại vất đi? Tôi mang được mà.

- Cô không sợ súng nữa à? Hoán hỏi lại.

199
Cô gái mỉm cười e thẹn. Hoán lội xuống dòng nước. Anh cố gắng h ế t
sức để bơi sang bên kia nhưng không sao vượt qua dòng nước đang chảy
xiết được. Biết Hoán vướng khẩu súng, cô gái nói:

- Để súng lên dây, Duôl.

Hoán ngoảnh lại. Thì ra cô gái đã cởi xâng làm phao từ lúc nào. Cô
dã đặt khẩu súng của m ình lên đấy. Hoán nghe theo cô gái. Cả hai người
dùng h ết sức lực vùng vẫy, m ãi tới sẩm tối họ mới vượt được sang bờ bên
kia. Bước lên bờ. Hoán th ấy người ré t run lên. Cả cô gái cũng thế. Môi cô
tím bầm. Cô co ro tìm chỗ khuất để vắt quần áo... Trời tối sầm, không th ể
đi tiếp được nữa, H oán quyết định nghỉ lại, sáng mai đi tiếp. Cô gái vui
vẻ đi bẻ lá rừng về làm chỗ ngủ. Hoán nằm nghỉ cho tới lúc cô gái ôm về
một đống lá lớn, rải ra làm th à n h một m ột chiếc ổ chung cho cả hai
người. Hoán ngồi lên nệm lá, còn cô gái thì ngồi đối diện với anh. Cô gái
vuốt tóc rồi kéo xâng phủ kín gót chân đầy đặn. H oán tháo băng ở chân
ra. Cô gái giúp anh làm việc ấy. Sau khi vắt khô tấm băng, cô gái th ận
trọng băng lại.

- Duôl đã có vợ chưa? B ất ngờ cô gái hỏi.

- Có rồi... Hoán trả lời. Anh chợp hạ th ấp giọng - Em đừng gọi tôi là
Duôl nữa nhé. Tôi là Hoán. Nguyễn Hoán. V iệt Nam.

Cô gái nhắc lại tên anh. Nhưng cô không th ể nào nói chuẩn được.

- Anh Hoán, có mấy con rồi?


- Chúng tôi đã có một cháu. T hế còn em? Hoán hỏi.

- Tôi tên là M alini. Tôi ở phum Bàvel. Tôi chưa có chồng đâu anh
Hoán à...

- Rồi tới đây em sẽ có, M alini ạ. N h ấ t định em sẽ có.

T h ắt mối băng cuối cùng, cô gái khẽ lắc đầu:

- Không, M alini không lấy chồng đâu... Những người tốt, Pol Pot giết
h ết cả rồi.

- Chúng không th ể giết h ế t người tố t được. Rồi đây em sẽ tìm được


người vừa ý, em sẽ h ạn h phúc. Em cứ tin lời tôi đi.

Malini khẽ thở dài. Trong đêm tối dày đặc, Hoán thấy cô đưa tay
chùi nước mắt. Sự xúc động của M alini lây cả sang Hoán. Anh b iết rằn g

200
Malini dã từng trả i qua nhiều đau khổ như dân tộc của cô. Sự đau khổ ấy
sẽ luôn bị khơi dậy mỗi khi có người chạm đến. Hoán đặt tay lên vai cô
gái, an ủi:

- Đừng buồn M alini ạ. N hất định rồi em sẽ có h ạn h phúc.

Malini ngồi im m ột hồi lâu ròi quay sang hỏi Hoán:


- Có không, Việt Nam?

- Có. N hất định có.

Đêm ấy có lẽ do xúc động nên M alini đã không ngủ được. Còn Hoán,
anh thấy m ình ớn lạnh nhưng vẫn cố gắng để chợp m ắt. Những lần tỉnh
giấc, anh đều thấy M alini trở m ình thở dài, tay cầm cành lá xua muỗi
cho anh.

Gần về sáng, Hoán bỗng thấy người nóng ran lên. v ế t thương ở
chân như lớn dần, căng ra, nhức nhối. Hoán lên cơn sốt. Rồi anh thiếp đi
mê man.

Giữa trạn g th ái ấy Hoán cảm giác có người ghì chặt tay mình. Anh
vùng th ậ t m ạnh. Một lúc lâu lắm Hoán mới mở được m ắt, Malini đang
lay anh, giọng cô lạc đi:

- Hoán, Pol Pot đến đấy.

Hoán ngồi bật dậy, anh quờ ngay lấy súng, hỏi:
- Nó đâu?

- Chúng đang ở bờ sông... Em định xuống tắm th ì nghe tiếng chúng


nói với nhau.

- Em có nhìn th ấy chúng không?

- Em không nhìn thấy nhưng em tin chắc chúng ]à Pol Pot. Hoán
xách súng nhẹ nhàng lách ra bờ sông. M alini cũng xách súng chạy theo
anh. Cả hai người cùng ém m ình vào một gốc cây to chờ đợi.

Từ phía bờ sông bên kia, tiếng bọn địch vang lên:

- Có đúng chúng đi hướng này không?

201
- Tôi tin chắc chúng đi hướng này. Tên Duôl bị thương vào chân. Tôi
giả vờ chết nên nó không nhìn thấy. Nó lấy h ế t lương khô ăn rồi bắt con
M alini đi. Trời tối, tôi nghĩ chúng chưa đi xa đâu...

- Đây rồi, đúng là chúng đi qua chỗ này, có dấu chân chúng đây này,
đúng không. Một tên địch reo lên.

- Đuổi... Đuổi theo ngay. Có thể chúng đang ngủ cách đây không xa.

Hoán muôn nổ súng vào trong bụi cây có tiếng nói của tên địch kia
quá chừng. Đã mấy lần ngón tay anh đụng đậy định lẩy cò nhưng sau
cùng anh lại tự chế ngự được. Anh không muốn bắn kẻ thù khi chưa nhìn
rõ m ặt. Anh tự dặn m ình phải nhẫn nại chờ chúng. Anh muôn sao cho
khi chết, kẻ thù phải m ang theo cả sự khiếp đảm, kinh hoàng. Hoán
thấy m ình tự tin và thư thái vô cùng. Anh cũng không hề th ấy hốĩ hận
về việc đã không giết tên lính Pol Pot bị thương kia.

Anh sẽ chờ...

Và bây giờ thì bọn địch đã nhô cả th â n hình ra khỏi vòm lá. Chúng
ùa xuống dòng nước chảy xiết. Thì ra chúng có ba tên, trừ m ột tên bị
thương nằm lại. Hoán không bắn, mặc dù anh và địch cách nhau chừng
bôn mươi mét. Anh phải chờ chúng tới gần bờ bên này mới nổ súng, s ố
phận chúng sẽ được quyết định khi chúng chạm đến bờ của sự bình yên.
Cả ba tên địch đã đến quá gần giữa dòng, Hoán nén lòng chờ đợi. Bọn
địch đã bơi vào sâu được một chút nữa, rồi chút nữa. Bất ngờ Hoán đứng
v ụ t d ậ y , a ii li la u ngư ời r a ch ỗ t r ố n g , c h ĩ a t h ẳ n g s ú n g v à o b ọ n d ịc h .

Hoán chưa bắn, hai tên địch vì quá sợ hãi đã buông súng chìm
nghỉm. Tên thứ ba cố sức vẫy vùng. Đến lúc dó Hoán mới n h ả đạn. Một
dòng máu phun lên trê n m ặt nước, rồi hai dòng máu. Súng nổ, Malini
không sợ. Cô cũng bắn. Cô không biết m ình bắn có trúng không, song cô
cứ bắn. Cô bắn để cho tiếng súng của Hoán không đơn độc.

- Nó kìa! Malini trỏ theo tên địch đang bị nước cuốn trôi, cách họ
một đoạn dài. Hoán nhìn theo một hồi lâu, cho tới lúc tên địch chìm hẳn.
Sau đó anh bước đi những bước nặng nề, đau nhói. Malini bước theo anh.
Có nhìn anh ái ngại:

- Anh đau lắm à?

Hoán gật đầu:

202
- v ế t thương hành hạ tôi, M alini ạ. Tôi sốt rồi. Người tôi yếu lắm.

M alini đặt bàn tay lên trá n Hoán. Hơi nóng từ làn da ập vào tay
làm cô méo xệch đi. Malini nhìn anh lo âu. Bỗng nhiên đôi lông mày của
cô chau lại. M alini nói nhỏ:

- Chờ em nhé! Nói xong, M alini chạy đi. Một lát sau, cô trở về với
một nắm lá rừng. Malini bỏ lá vào miệng nhai rồi cởi băng ở chân Hoán
ra. Cô lấy lá đã nhai rịt vào vết thương ấy. Cô băng lại rồi dìu anh đi.

Hoán vẫn lên cơn sốt. Cái sốt đã làm anh vô cùng m ệt mỏi và khó
chịu. Mỗi bước anh đi, trời đất như quay cuồng. Anh bước đi th ậ t khó
nhọc, nặng nề, nhưng đầy tự tin. Mỗi bước anh đi lúc này có một ý nghĩa
rấ t lớn. Nó sẽ rút ngắn lại khoảng cách mà sự nguy hiểm có thể gây tác
hại cho anh:

- Ta nghỉ một lát, Malini. Nó rồi, Hoán tìm chỗ ngồi xuống, Malini
ngồi s á t bên cạnh anh. Cỗ đỡ cho anh nằm vác gác chân cho anh gôi đầu.
Sự săn sóc tận tìn h của M alini làm anh cảm động:

- Cảm ơn em, Malini ạ. Anh cảm ơn em rấ t nhiều. Sau này, trở về


được đơn vị, anh sẽ đi tìm em. Anh sẽ đưa em về thăm đơn vị anh. Em đi
nhé!

- Dạ. Malini sung sưđng nhận lời.

Không. Chính cô phải cảm ơn anh mới đúng, M alini nghĩ. Nếu
k liô n g có a n il li li k liô n g b i ê l cuộc đừi cô s ẽ b i đ á l n liư l l i ế n à o .

- Hoán m ệt lắm phải không? M alini hỏi.

Hoán khẽ gật đầu. Đôi m ắt của anh lúc này không còn mở to, linh
lợi và dữ dội như lúc gặp giặc nữa. Đôi m ắt ấy bây giờ chỉ le lói với một
chút sáng sáng như sắp lụi tàn.

- Bây giờ anh không được đi nữa. Em sẽ cõng anh. Em cõng anh,
Hoán ạ. Malini nói.

- Cảm ơn em. Anh vẫn còn đi được.

Nói rồi Hoán đứng dậy bước đi. v ế t thương ở chân anh đau thốn lên
tới tậ n đỉnh đầu. Hoán cắn chặt môi ghìm nỗi đau lại. Hoán đi được một
đoạn xa, anh thấy người dễ chịu đôi chút. Sự dễ chịu ấy chỉ được một lát.
Bỗng nhiên trời đất lại quay cuồng đảo lộn trong m ắt anh. Hoán từ từ

203
khuỵ xuống. Anh cô' gượng dậy toan bước đi nhưng lại ngã. Lần này anh
hoàn toàn b ất tỉnh. M alini xốc anh lên vai, cõng an h đi. Đôi với cô th ì
đây là lần đầu tiên cõng một người khác phái. Sự việc ấy sẽ làm cho
người con gái chưa chồng thẹn thùng b iết bao. Nhưng sự th ẹ n thùng có
hề gì cho dù có nhiều người biết đến. Cõng H oán lúc này, cố cảm thấy
hãn h diện, tự hào vô cùng. Nêu gặp ai có hỏi, cô sẽ nói rằn g cô đang cõng
một người chiến sĩ, người đó đã cứu cô ra khỏi cái chết... Vừa đi, M alini
vừa nghĩ mê mải. Cô không còn cảm thấy sức nặng đè trê n lững m ình
nữa. Ngược lại, cô thấy rằng anh đang làm cho cô m ạnh lên, khỏe lên
gấp bội. Gần về trưa, Hoán tỉnh lại. Anh đã nói chuyện được với Malini
mặc dù còn rấ t mệt. Thấy anh hồi sức được phần nào, M alini rấ t vui. Cô
kể chuyện cho anh nghe... Cô kể rằn g gia đình cô đã bị Pol Pot giết h ế t
không còn ai cả... Cô là người duy n h ấ t sống sót trong số mười bốn người
của gia đình. Cô kể cho anh nghe về phong tục tập quán ở quê cô và về
những điều mà cô ưa thích.

Con đường ngấn dần đi sau những câu chuyện như vậy. Malini đã
đưa Hoán vượt qua nhiều cánh rừng ngút ngàn, qua những trản g cỏ mùa
mưa thơm hoa lầy lội, qua hàng chục con suối cạn xăm xấp nưởc, qua
những vạt rừng lúp xúp chằng chịt dây leo và đến trưa, hai người đã tới
m ột đám ruộng bỏ hoang. Lúc này, H oán thấy M alini cũng không còn đủ
sức để cõng anh di tiếp được nữa. Hơn m ột giờ sau này, cô bước đi có vẻ
chuệnh choạng và mồ hôi của cô đã thấm uớt sũng ngực anh. Tới cái chòi
coi rẫy đổ nát, Hoán bảo M alini để anh xuống. N ằm trê n chiếc sàn tre ọp
ẹ p , x a n h r ê u , H o á n n h ìn lê n m á i Iilià lõ c liõ h iệ n l ê n n h ữ n g m ả n g trờ i
xanh rung rinh.

- M alini, Hoán nắm lấy tay cô, anh nói - Hãy để lại cho anh khẩu
súng rồi em đi đi... Em biết bắn rồi đấy. H ãy đi về hướng tây nam, em sẽ
gặp đường lớn. Nếu gặp bộ đội Việt Nam hay Cam puchia thì hãy nói vởi
họ... Bây giờ em di đi. Em đi một m ình nhanh hơn.

Malini nghe lời anh nói nhưng cô không muốn hiểu bởi vì cô" không
muốn xa anh. Cô không muôn bỏ anh lại m ột m ình trong ngôi n h à dột
n át giữa rừng. Cô không đành lòng bỏ anh lại m à đi khi không có ai
chăm sóc. Hoán phải nói lại một lần nữa ý định của m ình. Lần này,
Malini b ật khóc.

- Em không th ể bỏ anh ở lại một m ình được đâu. Em không bỏ đâu.

204
- Không phải bò mà là vì anh... Cõng anh, em sẽ không đi được
nhanh. Em đi một m ình lẹ hơn. Em có hiểu không, Malini?

Sau một hồi suy nghĩ, Malini đồng ý. Cô sẽ phải làm một điều mà
lòng cô không muốn. M alini xốc lại xâng, khoác khẩu súng lên vai, rồi
đứng nhìn anh m ột lúc th ậ t lâu. Hoán nằm đấy, bình thường như mọi
người. Gương m ặt anh nhợt n h ạt trông như hòn than dã bắt đầu tắ t lửa.
Anh nằm dấy với khuôn m ặt dịu dàng th ân yêu biết bao. Malini muôn
ôm lấy gương m ặt ấy quá chừng nhưng cô ngại, trái tim cô trở nên nghẹn
ngào. Lòng cô đau th ắ t lại. Malini nắm chặt lấy bàn tay anh không muốn
rời ra nữa.

- Đi đi, Malini. Đừng chần chừ. Hoán giục.

Malini sực tỉn h như vừa qua cơn mê ngủ. Cô quay người bước đi th ật
nhanh. Cô đi như chạy. Cô không biết được m ình đi hay chạy nữa.

Bạt-đầm-boong, tháng 12-1981


Thành phô Hồ Chí Minh, tháng 1-1982

VÃN LÊ

205
ÁNH LỬA

TRẦN ĐÌNH THẾ

Đ ã bước sang ngày thứ ba - kể từ khi bị b ấ t và bị giam vào trại: E


Pi vẫn ngồi lặng ở cái góc trong cùng của căn nhà (Nói là trạ i giam
nhưng thực ra nó chỉ là một cái khung nhà cũ kĩ, được lợp tạm bằng
những tàu lá chuối khô che nắng. Bên phải là con suối cạn, hai bên suôi
cây cối um tùm. Bên trái, xa xa thấp thoáng m ột vài v ạt trảng, loang lổ
những thửa ruộng bỏ hoang, một cái phum nắng trơ bên cạnh đường,
vắng lặng). E Pi dựa lưng vào cột nhà, lơ đãng nhìn lên những tàu lá
chuôi khô. Xung quanh E Pi rộ lên tiếng nói của m ấy cô gái: Họ đang
giục nhau kiếm củi, nấu cơm. Họ là ai, E Pi biết rõ: M ột sô' thuộc lực
lượng th an h niên, một số là dân thường - sau ngày th ấ t thủ Phnôm Pênh
bọn tà n quân đã lùa họ vào trong núi.
- Ông ở đơn vị nào? - Người tù binh già ngồi bên cạnh hỏi.
- Đoàn 203! - E Pi m ệt mỏi trả lời. M ắt không nh ìn người hỏi.
- Ông đã khai báo gì chưa?
- Rồi!
- K h a i sao?

- Khai hết!
- Ông không sợ bị đập m ột xỏ cuốc vào gáy ư?
- Sợ! - Tiếng E Pi dằn trong cổ họng. Đôi m ắt lờ đờ của hắn bỗng
vằn lên những tia m ắt đỏ nọc. Cái gân xanh trê n th ái dương dật dật.
H ắn quay sang. Người tù binh già biết m ình lỡ lời vội rít m ạnh một hơi
thuốc rê, rồi cúi xuống.
- Sợ - Tiếng E Pi m ột lần nữa lại vọt ra qua kẽ rằ n g sin sít - “Bọn
chúng m ày chỉ là một lũ đốn mạt. Mày mà ở đơn vị ông thì ông đã cho
mày m ột xỏ cuốc từ lâu rồi!”. E Pi vừa nghĩ, vừa buông người trê n lớp cỏ
khô... Cuộc gặp gỡ giữa E Pi và anh cán bộ địch vận ba hôm trước đây
hiện lên:
- A nh tên gì? - Người cán bộ hỏi.

206
-E Pi! - E Pi trả lời, cái m iệng nhằng ra hai bên gò má hóp tọp. Đôi
m ắt nhỏ, dài, nheo nheo đầy vẻ thách thức.
- Anh ở đơn vị nào?
- Đoàn 203!
- Anh làm gì ở đó?
- Đại đội trưởng!
- Từ bao giờ?
- Đầu năm bảy chín!
- Trước đó anh làm gì?
- Trại trưởng trạ i tù!
- Ở đâu?
- Công Pông Chơ Năng.
- Anh đã tham gia hành quyết bao nhiêu tù nhân?
- Ba trăm bốn mươi bảy người! - E Pi nói rành rọt từng con số.
- Họ có những tội gì?
E Pi nhếch mép, họ có tội gì ư? “Đ... mẹ cái bọn man rợ” E Pi định
chửi tục, nhưng đã kịp kìm lại được.
- Nhiều lắm... Lười biếng, ăn cắp gạo của công xã, lăng mạ chế độ...
- Ớ tù cũng phải lao động?
- Không lao động thì có mà ăn... - E Pi định chửi tục nhưng cũng đã
lại kìm được.
Như đoán được tâm địa th ằn g tù binh, anh cán bộ cười: Nụ cười vừa
như giễu cợt, lại vừa như khinh bỉ. E Pi giận tím m ặt, hắn bíu hai tay
vào th àn h bàn. Máu đao phủ bốc lên trong đầu y. Quên m ình là m ột
thằng tù binh, E Pi rít lên:
- Đối với chúng nó thì tốt hơn hết là cho mỗi đứa một xỏ cuốc càng
sớm, càng đỡ tốn gạo!
- Anh thích giết người lắm, phải không E Pi?
- Lúc đầu cũng sợ! - giọng E Pi bỗng nhỏ xuống, m ặt nhợt nhạt. H ấn
đã thay đổi chiến th u ật - Nhưng làm nhiều, thành quen! Dừng lại vài
giây, hắn nói tiếp.
207
- Vả lại, tôi có ăn m ật người.
- Sao? - Một nét ngạc nhiên vương trên m ặt anh cán bộ. Anh vội
trấ n tĩn h lại. E Pi nhận ra điều đó. Hắn cúi xuống. “T hế đấy, đừng tưởng
tao phải sợ. Tao không sợ đâu! Sa vào tay bọn mày là chết, tao biết,
trước sau gi thì rồi cũng chết. Bởi vậy, tao phải chuẩn bị m ột cái chết cho
th ậ t oai... Cái th ằng xâm lược giả nhân, giả nghĩa kia! Mày m à rơi vào
tay tao thì: Không phải hỏi han gì hết, tao sẽ đập vỡ sọ m ày ngay”. M ắt
E Pi trừng trừng nhìn anh cán bộ, rồi quét sang cô phiên dịch... A, còn
mày nữa! Cái con đĩ m ất máu kia. Mày không biết nhục nhã ư? Chúng
mày... Tao phải cho chúng mày biết: Khi cần, tao sẽ ăn gan, uống m ật
chúng mày mà không hề ghê sợ.
Anh cán bộ nhìn th ẳn g vào m ắt E Pi. Đôi m ắt h ắn đỏ ngầu như
m iếng tiết. Anh vẫn nhìn nó, im lặng. Sự thản nhiên bên ngoài khác hẳn
với những gì đang diễn ra trong đầu anh... Cái sẹo chạy dài, từ th ái dương
xuống đuôi m ắt trái. Anh cán bộ vẫn nhìn thẳng vào đấy.
T hằng tù binh không hiểu anh cán bộ đang nghĩ gì? Nhưng ánh
m ắt, vẫn cái ánh m ắt giễu cợt, khinh bỉ... Trời ơi! Muốn điên lên mất.
Máu trong tim E Pi như đang sôi lên. Phải bình tĩnh, có bình tĩn h mới
sáng suốt được... Phải rồi: Ta sẽ kể cho nó nghe là cái đầu này sẽ có
những viên dạn xuyên qua. Tốt, như vậy còn tốt hơn nhiều khi phải
nghe, phải nói và n h ất là cứ phải nhìn thấy cái ánh m ắt chết tiệ t kia của
nó.
... Một hôm: Mấy th ằng “C hệt” đến thăm trại tù. Trong m ột bữa tiệc,
vừa nâng côc rượu đó sâm lên ngang m ặt, mấy thàng “Cố vấn” vưa CƯƠ1 ,
vừa nói với E Pi:
- Chúc mừng đồng chí trại trưởng!
- Chức mừng!
- Chức mừng!
Một th ằng ghé s á t vào tai E Pi:
- Công việc của các anh nên ăn m ật người! Ha! Ha! Có như vậy, các
anh mới có đủ sức hoàn tấ t sứ m ệnh “vĩ đại”. Ha ha!
“M ật người” E Pi rùng m ình nhưng hắn chợt nghĩ: Các ngài cố vấn
nói không sai đâu, thử xem!
Hôm sau, E Pi cho bắt hai đứa con gái Hoa kiều đến nhà. H ắn trói
chặt một người vào cột nhà, một người nằm tên h hênh trê n chiếc giường

208
sắt. Hai người con gái tưởng rằng: Họ sắp bị thằng trại trưởng làm nhục.
Nhưng không! Tấm th ân nõn nà và bộ ngực căng tròn của cô gái không
mảy may làm xao động tâm hồn E Pi. E Pi mở tủ, lấy ra một chai rượu.
H ắn ngửa cổ tu một hơi rồi quẳng cái chai vào xó nhà. Đôi m ắt hắn nhìn
chòng chọc vào cái bạng dưới người con gái không quần áo dang nâng
lên, hạ xuống dồn dập. E Pi với con dao trên nóc tủ xăm xăm đi tới. Hắn
ngồi xuống th àn h giường, lòng hắn phút se lại trước cái miệng rấ t xinh
và ánh m ắt van lơn của người con gái. Nhưng nó chỉ thoáng qua. Men
rượu đang bốc lên trong đầu. Hắn cúi xuống, đặt mũi con dao mỏng như
lá lúa, sáng loáng lên bụng người con gái. H ắn thoáng thấy đôi m ắt cô
gái trợn ngược lên.
- Xoạch! - E Pi m iết m ạnh mũi dao xuống. Người con gái th ét lên
một tiếng rồi quặn quại. Máu tươi phụt ra. E Pi tìm bới một hồi trong
đống gan ruột, lôi ra một cái m ật. Hắn ngửa cổ. Cái m ật trôi xuống còn
mắc trong cổ họng. Đoạn hắn lăn ra giường. Đầu gối lên bụng người con
gái, lim dim. Trước khi thiếp đi, hắn còn kịp nhận thấy: Đứa con gái bị
trói ở cột nhà: Đầu rũ xuống như một cái xác.
Xế chiều, khi tỉnh rượu, E Pi lại uống và hạ nốt cô gái đã trói ở cột...
Vừa kể, E Pi vừa theo dõi những diễn biến trên gương m ặt người
cán bộ. Khuôn m ặt anh lúc căng ra, lúc co lại. Đôi môi anh mấp máy, run
rẩy... Biết mà: E Pi mừng thầm . Hắn chợt dừng khi thấy khuôn m ặt anh
cán bộ đanh lại. Hai hàm răng anh nghiên chặt vào nhau. Anh đứng bật
dậy, cùng tiến g quát:
- Thôi im đi, đô súc vật!
“T hế chứ!” E Pi đắc thắng. Còn bây giờ thì tao đã sẵn sàng, sẵn
sàng chết, th ằn g “Duôn” ạ. Tốt hơn h ết là mày hãy cầm lấy khẩu súng
trong tay con phiên dịch kia, nâng lên, chĩa thẳng vào cái đầu thằng E
Pi này, rồi... Kìa, làm đi, làm đi cái thắng “mắc dịch” kia. E Pi vênh cái
m ặt dài ngoẵng lên.
Một phút, rồi hai phút trôi đi. Im lặng. Khác với hắn tưởng và chờ
đợi: Chẳng có khẩu súng nào chĩa vào hắn, cũng chẳng có tiếng nổ nào
p h át ra. E Pi nghe rõ nhịp thở của hắn, cũng chẳng có tiếng nổ nào phát
ra. E Pi nghe rõ nhịp thở của người hỏi cung. Toàn thân anh cán bộ
nhũn ra, từ từ rơi bịch xuống ghế. Im lặng. Anh cán bộ gục đầu xuống
bàn. “T hế này là th ế nào?” E Pi tự hỏi và hắn chưa kịp trả lời, anh cán
bộ đã ngẩng lên:
- Đưa nó vào trại, chú ý canh gác!
209
Trước khi bước đi, E Pi còn nghe trộm m ột câu nói yếu ớt:
- Chúng nó đã biến th ằn g E Pi th à n h con thú m ất rồi!
- Dậy, ăn cơm đi! - Người tù binh già vừa nói, vừa đưa tay kéo E Pi.
E Pi choàng dậy hấp tấp đi lại phía bếp - E Pi vẫn không hiểu vì sao hắn
không bị trói. E Pi dừng lại trước hai dãy bàn dài, trê n đã đ ặt sẵn những
chậu cơm đầy ắp. Thức ăn chỉ có cá khô nướng. E Pi theo mọi người ngồi
vào bàn... Khác với ba, bốn hôm trước đây: Mọi người vừa ăn vừa nói
chuyện. T rên khuôn m ặt khô héo của họ, xuất hiện những nụ cười. Cách
đây mấy hôm, khi bộ đội cách m ạng đánh vào trong núi, trông họ không
còn ra người nữa. Người nào cũng gầy đét, bẩn thỉu. N hiều người không
lê nổi đôi chân sưng phù. Những em nhỏ vồ lấy những con nhái, ăn ngon
lành. Cả đoàn người bị bọn tà n quân bỏ lại cứ tập tễn h , lang th an g trong
rừng. Số phận của họ sẽ ra sao? Nếu không gặp bộ đội cách mạng... Từ
hôm về đây: Được ăn uống, tắm giặt, họ đã lại sức, khuôn m ặt mỗi người
dần dần tươi tỉn h . Đến ngày thứ ba, họ đề nghị với trạ i cho họ được tự
nấu cơm. Công việc làm cho họ vui. Họ tíu tít xung quanh bếp lửa: Người
chẻ củi, người vo gạo, bắc nồi. Không khí của trạ i cứ ấm dần lên.
Không th am gia vào công việc của mọi người, suốt ngày E Pi ngồi
bẹp ở góc nhà. Không ngủ được! E Pi để m ắt vào tấ t cả những diễn biến
hàng ngày tro n g trạ i. Xung quanh trạ i, không có hàng rào, cũng không
có vật gì che chắn, chỉ vẻn vẹn có một tiểu đội bộ đội cách m ạng canh
giữ. “Trốn!”. P hải rồi, có như vậy m à không nghĩ ra, E Pi vỗ m ạnh bàn
tay vào đầu. Ý nghĩ bỏ trô n như m ột dòng điện chạy k h ắp người E Pi.
T o à n th â n E P i ru n lê n . F)ôi m ắ t n h ìn đan đ á u v ề p h ía hòr suối

- Ông đau sao? - T hấy E Pi ngồi yên, người tù binh già hỏi. “Quái lạ,
cái lão già, h ình như lão ta đoán biết được những ý nghĩ đang diễn ra
trong đầu m ình”.
- Không! - E Pi ngập ngừng rồi vốc m ột nắm cơm, đưa lên miệng.
Cơm nước xong, những người tù rủ nhau ra suôi tắm . Anh bộ đội
cách m ạng dẫn m ột tốp dân binh đi hái rau về cải thiện. E Pi trở lại góc
nhà, hắn quay sang xin người tù binh già m ột điếu thuốc rê. H ắn vấn
thuốc, châm lửa, rít m ột hơi th ậ t sâu. Đôi m ắt hấn lờ đờ nhìn theo làn
khói thuốc trắ n g mỏng. Đột nhiên, h ắn xoay người lại, nhìn xoáy vào
m ắt người tù binh già. H ắn túm lấy tay người tù binh già nói nhỏ, nhưng
rít lên:
- Bỏ trôn!

210
Đôi m ất ướt nhèm của người tù binh già căng ra.
- Ông điên rồi sao? Ông còn hy vọng gì cái đám lính chết tiệ t trong
núi ấy! - Giọng người tù binh già bỗng dịu lại - Tôi tín h kỹ rồi: Đằng nào
cũng chết, chết ở đây tốt hơn.
E Pi bã người, nỗi th ấ t vọng trà n ngập trong lòng. H ắn bỗng nhớ lại
những ngày qua.. Cả đại đội hấn chỉ còn lai sáu thằng. Suốt một tuần
không có một hột cơm vào bụng: Xoài xanh, củ chuối rừng, rau dại vớ
được cái gì ăn cái ấy! Đi đến đâu, chúng cũng đụng tiếng súng truy quét
của lực lượng cách mạng. Vừa đói, vừa m ệt, sáng th ứ sáu, cả bọn tìm thấy
một hô'c sấn bên bờ suôi. Như con thú vớ được mồi chúng xúm lại đào bới,
rồi tran h nhau. Tiện tay, th ằn g đại đội trưởng rút súng bắn chết hai
thằng. Vừa lúc đó, có tiếng súng nổ gần. E Pi dẫn ba th ằn g còn lại đạp
lên xác đồng bọn, chạy.
Đến ngày thứ tám thì đôi chân E Pi không th ể lê khỏi m ặt đ ất được
nữa. Hắn ngồi bệt xuống m ột gốc cây. Người hắn bủn rủn. H ắn sờ tay vào
mạng sườn, những chiếc xương như trồi ra khỏi làn da, lung lay. Đầu óc
hắn quay cuồng, ran ran tiếng súng. Đôi m ắt hắn mờ dần, thỉnh thoảng
lại tung ra những đốm lửa. Xung quanh im lặng. H ấn chợt nhận ra mấy
thằng lính của hắn... C hết rồi, hắn phều phào, rồi chẳng còn biết gì mình
nghĩ gì nữa.
E Pi tỉn h dậy trong m ột chiếc lều b ạt giữa rừng. H ắn biết m ình bị
bắt khi thấy xung quanh thấp thoáng những người của phía bên kia. Một
chiến sĩ còn rấ t trẻ bưng đến cho hắn một ca nước. “Không! Tao sẽ chết
khát. Như vậy tôt hơn là được sống đế phải chấp nhận sự nhục hình của
chúng mày. Tao không uống”. Ca nước vẫn trê n tay anh chiến sĩ. E Pi đã
nhìn thấy màu nước đỏ hồng, sóng sánh. Cơn k h át bóp nghẹt lấy cổ họng
hắn. Hắn run run đỡ ca nước, uống cạn m ột hơi. Ca nước đường làm cho
hắn tỉnh lại. Sau đó, h ắn được ăn cơm và đi tắm . Ay là cái ngày trước
khi hắn được đưa về đây.
E Pi rùng m ình. Bỗng hắn thấy lạnh ở sống lưng. Cái lạnh lan ra
khắp người. Ôi, sao th ế này, rét! Toàn thân run lên, hắn cắn chặt hàm
rằ n vào môi. Vô hiệu! H ắn xoay nghiêng người, hai chân co lên như con
tôm nướng, m ặt tái mét... T hế rồi đầu h ắn tê đi, hai tay hắn cào cấu,
chân đạp lung tung, m iệng tuôn ra hàng tràn g những tiếng lảm nhảm , ú
ớ: “B ắn.. chạy... mau..!”.
Chập choạng tối, hắn tỉnh - Toàn th â n đau ê ẩm.

211
H ắn cảm tưởng như có ai cầm cái sống dao m à dần m ột lượt khắp
người. C ánh tay, sao nặng th ế nàv? H ắn cô' sức m à không nâng nổi cái
cánh tay lên. Đau quá! Lại còn cái gì đây? H ắn vừa mở m ắt, vừa kéo tấm
chăn xuống. Dưới ánh sáng của chiếc đèn pin, E Pi n h ận ra anh cán bộ
hỏi cung đang ngồi bên cạnh. Người hắn bỗng nóng ran.
- Đã đỡ nóng chưa E Pi?
E Pi ngước m ắt lên. H ắn m ấp máy đôi môi khô rá t định nói, lại
thôi, anh cán bộ bảo đồng chí y tá m ang ca sữa lại. A nh đưa ca sữa về
phía E Pi, giọng dịu dàng:
- Uống đi, ở rừng lâu ngày nên sốt ré t đấy!
Giọng anh cán bộ nhẹ nhàng như người mẹ chăm chiều đứa con trai
cưng khi nó bị ốm. E Pi chợt nhớ tới một người đàn bà: Mẹ! Ngày còn
nhỏ, mẹ cũng chăm, chiều E Pi lắm . Có hôm, m ải đá bóng giữa trưa
nắng. E Pi bị cảm, mẹ đã ngồi suốt đêm bên giường E Pi... Không! Hắn
không th ể giông mẹ được... A nh cán bộ vẫn dịu dàng nhìn E Pi. Cái bụng
E Pi đang nghĩ khác m à bàn tay hắn đã chìa ra đỡ ca sữa.
Đồng chí y tá tiêm thuốc, cho E Pi ăn cháo, rồi đắp chăn cho E Pi.
Đêm ấy, h ắn ngủ ngon lành.
M ặt trời lên. Những tia nắng vàng rực thi nhau chạy dài trên các
vạt rừng. Chúng dừng lại đùa giỡn trê n những chiếc lá “khọc” to như bàn
tay, màu xanh n hạt. Đàn chim liếu tiếu tran h nhau hót. Những con chim
chào mào sà xuống cây duối. Chúng mổ những quả duối vàng mọng vừa
ân, vừa tra n h nhau chi chới... Một ngày mới, E Pi tliấy lòng trông trải.
H ắn lim dim m ắt n hìn vào cây duôì. Đàn chim chào mào ăn no, đã kéo
nhau bay đi. T rên cái cành cây khô, hai con chim chính uỷ đang gù gù
cái mỏ vào nhau. E Pi thoáng buồn... Vậy là đã ba mươi tuổi đầu. Nhưng
chưa lúc nào E Pi có những suy nghĩ nghiêm chỉnh về m ột người vợ.
C hiến tran h : E Pi tự dằn lòng lại để tấ t cả tâm lực vào cái “trách nhiệm
tốì cao”. Vả lại, ở chỗ nào chả có con gái. Ngày trê n chiến hào cũng
không bao giờ thiếu thôn. Vậy, còn cần gì, còn muôn gì? T ất cả chỉ có
đánh nhau, b ất cần sống, chết.
A nh cán bộ lại đến. Anh m ang cho E Pi m ột hộp sữa. Anh khuyên E
Pi đừng nằm nhiều, rán g ă n và đi lại cho khỏe. E Pi im lặng.
T rại tể chức học tập chính trị. Gần trăm người vừa tù binh, vừa dân
binh, im lặng, họ đổ dồn tấ t cả án h m ắt vào cái bàn con kê ở góc nhà.
Anh cán bộ nói chuyện: Anh nói về cương lĩn h 8 điểm và 11 điểm chính

212
sách của M ặt trận cứu nước Campuchia. Anh nói về tôi ác diệt chủng của
bọn Pol Pot - leng Sary, về cuộc cách mạng của nhân dân Campuchia và
về một chế độ mới đã được th iế t lập. Giọng anh nhẹ nhàng, khúc chiết.
Càng nói, càng ấm áp, ôn tồn. Mọi người im lặng. Họ nghe rồi sửng sốt:
Một chế độ mới ư?... Sáu th án g qua, họ bị lùa vào trong núi: v ẫ n Ãng-ka,
vẫn bọn lính và những ngày lao động khổ sai. C hết đói, chết bệnh, chết...
Kìa, anh cán bộ đang nói gì? Ớ Phnôm Pênh, nhân dân đã trở về th àn h
phố. Ớ một số nơi đã có chợ dể mua bán. Trời ơi, lặng im nghe anh nói:
N hân dân đang trở về quê cũ để bất đầu m ột cuộc đời mới. Người ta đốt
lửa múa lâm thôn thâu đêm, mừng cho đôi vợ chồng trẻ, mừng cho mình
thoát khỏi hoạ diệt chủng, mừng cho mùa xuân hồi sinh của dân tộc này.
Những người ngồi nghe, khuôn m ặt mỗi lúc một rạn g rỡ. Họ chưa hiểu,
nhưng tin, niềm tin vừa được nhen lên sau hơn ba năm tắ t lịm... Ngay
buổi đầu tiên, khi chiếc xe dừng lại ở cái bãi ngoài kia, người ta đã nghĩ
là chết và họ chờ đợi cái giây phút tấ t cả mọi người bị đổ xuông một cái
hô" chôn tập thể. Nhưng chẳng bao lâu, cái ý nghĩ ấy đã tan đi... Cho đến
bây giờ, và có lẽ không bao giờ họ có thể quên cái buổi ấy và hình ảnh
những người bộ đội cách mạng...
Xế chiều, thêm m ột chiếc xe chở tù binh và dân binh về trại. Các
chiến sĩ ra tận đường cái giúp họ xuống xe. Người chạy đi, người chạy lại:
Khi thì b ế một em nhỏ xuống, khi thì đỡ cụ già đi. Các đồng chí anh nuôi
vội xuống bếp lo cơm cháo cho những người mới đến. Hai anh bộ đội cách
m ạng khiêng từ trê n xe xuống một người phụ nữ. Họ đ ặt chị nằm xuống
lớp lá chuối khô giữa nhà. Người phụ nữ gần như bất động. Khuôn m ặt
c lii x a n h m é t n h ư tàu lá , n iiệ u g m é o x ệ c li, c liiế c á o đ e n lộ n g lliù n g tliìu h
phủ lên tấm thân gầy đét. Chân chị sưng đẫn, tím ngắt: Ớ chỗ bụng
chân, ruồi nhặng bu quanh một đám lở loét to bằng nắm tay. Thỉnh
thoảng chị thở h ắ t ra m ột hơi, nhưng chị lại vội nghiến chặt hai hàm
răng vào nhau. Hai bàn tay chị cào cấu khắp người. Bỗng chị túm được
một vạt áo kéo ngược lên.
- Trời ơi, chị đang có thai! - Anh cán bộ gọi đồng chí y tá lại.
Chị phụ nữ: Đôi m ắt nhắm nghiền, toàn th ân th ỉn h thoảng lại giật
lên. Những người đứng xung quanh lắc đầu.
Đồng chí y tá vội nói với anh cán bộ:
- Chị ấy sắp sinh, nhưng gần như kiệt sức rồi. Bây giờ đưa về bệnh
xá sư đoàn thì không kịp, anh ạ. Theo tôi, ta cứ để lại đây. Trước hết tập
trung hồi sức cho chị.

213
- Và bằng mọi cách, cho cháu bé ra đời!
Anh cán bộ nói xong, mọi người lao vào công việc. Người phụ nữ
được đ ặt trê n chiếc bàn kê nghiêng ở giữa nhà. Đồng chí y tá mắc dây
truyền dịch, m ấy người khác rửa vết sâu ở chân rồi băng lại cho chị.
Người nào cũng lo lắng, m ong sao mẹ trong, con vuông... Công việc quá
sức đối với đồng chí y tá, an h luôn luôn ở bên cạnh chị. Anh rấ t mừng
khi th ấy áp huyết của chị đang tă n g lên.
- Một đêm trôi qua. Đến gần sáng th ì người ta nghe thấy tiến g khóc
của đứa trẻ. Ai nấy thở phào như vừa trú t được một gánh nặng. Một điều
th ậ t may m ắn là: Mặc dù phải m ang th ai trong những ngày th án g cơ cực,
nhưng với sức lực vốn sẵn có của m ột cô gái quanh năm p h át rừng trồng
rẫy, đứa con của chị vẫn ra đời. Trời vừa sáng th ì mọi việc cũng hoàn tất.
Suốt đêm E Pi không ngủ, h ắn phải vật lộn với biết bao nhiêu những ý
nghĩ dằng xé. Khi người ta tiêm mũi dầu tiên cho người phụ nữ, E Pi lơ
đễnh nghĩ: Chắc chúng nó chích thuốc để giết người ta thôi, chứ cứu chữa
gì? Đến m ình đây cũng thế, trước sau rồi cũng ăn một xỏ cuốc... Mà mặc
chúng nó E Pi quay m ặt vào tường. Khi người phụ nữ được đưa lên bàn,
hai chiếc đèn bão cùng m ột lúc thắp sáng, E Pi quay lại, và suốt từ đó
đến sáng, đôi m ắt E Pi không bỏ qua m ột động tác nào của mấy người bộ
đội. Chúng nó đang cấp cứu, ôi sao lại th ế được? Hay là, chúng nó đang
làm một th í nghiệm gì trê n th ậ n th ể người phụ nữ này! Trời!... Nếu vậy
thì... bình tĩn h đã, chờ xem. E Pi tự nhủ. Nhưng nếu quả th ậ t như vậy... E
Pi thấy người nóng ran lên, m ắt h ắn như dán chặt vào bàn tay người y
tá... Đến lúc đứa trẻ oa oa khóc, E Pi không còn tin vào m ắt m ình nữa,
m ắt hắn mờ dần đi, rồi khép lại.
Tiếng khóc của đứa trẻ bỗng đập vào nơi sâu kín nhất trong lòng E
Pi. E Pi thở dài nghĩ tới những người con gái đã đi qua tay hắn. B iết đâu,
hắn chả lại có những đứa con và mẹ chúng cũng phải chịu đựng những
cơn đau khủng khiếp như người phụ nữa kia, tự nhiên, hắn thấy người
nhão ra chân tay bủn rủn, rồi rét... H ắn lại lên cơn sốt rét.
Bữa cơm trưa được dọn ra. Anh cán bộ ngồi vào bàn với E Pi. Anh
không ăn m à nói chuyện với mọi người. Nửa bữa, E Pi đứng dậy. Anh cán
bộ kéo E Pi ngồi xuống.
- Ráng ăn chút nữa E Pi. Không ăn nhiều là lại sốt đấy!
E Pi m ỉm cười từ chối. Anh cán bộ không chịu, anh ép E Pi ăn. E Pi
đành ngồi xuống, gượng ăn thêm . Người tù binh ngồi đối diện vởi anh
cán bộ, ngẩng lên n h ìn an h rồi ngập ngừng nói:

214
- Ông lớn... Mấy ông không phải gác cho m ệt, tụi tôi không trốn đâu.
Anh cán bộ cười:
- Trốn hay ở là tuỳ mọi người. Có điều là: Cứ lang thang mãi trong
rừng, rồi cũng đói chết m ất thòi. Đ ất nước đã được giải phóng, tôi khuyên
mọi người nên trở về quê cũ m à làm ăn.
Nghe anh cán bộ nói, E Pi giật Iĩiình khi nhớ tới cái ý định bỏ trốn
cách đây mấy hôm. Anh cán bộ đứng dậy, đi lại phía người phụ nữ mới
sinh. Chị vẫn đang được truyền dịch, người đã tinh tỉnh. Đứa con của chị
tạm thời phải ăn sữa bò, đồng chí ý đang ôm nó.
Sau mười ngày học tập, ngày ra trạ i đã đến. Buổi chiều, đơn vị bộ
đội p h át cho mỗi người một bao gạo, một gói muôi. Trẻ em được phát
thêm đường, sữa và vải. Sô ít tù binh được đưa về trạ i cải huấn phía sau
đế’ học tập thêm . Ngày mai, tấ t cả lên đường.
Anh cán bộ đến gần E Pi. Anh vỗ vai E Pi nói:
- Mai E Pi về phía sau học tập thêm , nhưng nếu E Pi cần thì tôi để
E Pi về nhà.
E Pi xúc động nhìn anh cán bộ...
Những ngày qua, E Pi đã hiểu anh. B iết anh là Luyện, lòng hắn
th ắ t lại vừa sửng sốt, vừa đau đớn...
E Pi mồ côi cha, mẹ từ sớm. Cha E Pi đạp xích lô ở thủ đô Phnôm
Pênh. Cuối năm bảy mốt, ông bị thằng quan hai Lon Nol bắn chết trong-
một đêm lúc hắn say rượu. Mẹ E Pi mắc bệnh suyễn, bà m ất từ năm E Pi
lên sáu tuổi. E Pi phải đi ở cho một công chức... Cực quá năm bảy hai E
Pi trốn khỏi Phnôm Pênh lên Công Pông Chàm rồi đi tu. Một hôm, có
một đơn vị du kích “Miên đỏ” đến đóng trong phum. Họ mắc võng nghỉ
trong vườn cây của chùa. Họ vào thăm chùa và trong câu chuyện của họ.
E Pi biết họ là lực lượng cách mạng. Họ tổ chức đánh Lon Nol, đánh Mỹ.
Ba hôm sau, họ lên đường. Phum E Pi ở, có hai mươi thanh niên
tình nguyện đi theo họ. Không hiểu sao, E Pi đã cởi áo cà sa, bỏ chùa, đi
theo đơn vị du kích. Họ h àn h quân ròng rã bôn ngày đường. Trưa ngày
thứ năm thì đến vị trí tập kết. Đó là một cánh rừng già có son cuối lớn.
E Pi được bổ sung về một đơn vị ĐKZ: Đơn vị E Pi có sáu mươi người, hai
phần ba là người Campuchia. Một phần ba là người Việt Nam, cán bộ có
bốn người thì hai người Campuchia và hai người Việt Nam.

215
Tại đây, E Pi được học chính trị và tập bắn pháo. Lần đầu tiên E Pi
trông th ấy một khẩu súng to, quả đạn bằng cái ống đựng nước Thốt nốt.
E Pi sướng lắm , anh hăm hở học tập. C hính trị viên Luyện mỗi lần
xuống thăm khẩu đội đều kiểm tra E Pi. Anh khen E Pi sáng dạ. Anh
động viện E Pi gắng học tập để trở th àn h pháo thủ giỏi. E Pi cười. Đôi
m ắt trẻ trung án h lên m ột niềm vui sung sướng.
C hẳng bao lâu, e trở th à n h m ột khẩu đội trưởng. T háng chín năm
1973, đơn vị E Pi nh ận lệnh tập kích vào sân bay Xiêm Riệp. Giữa bốn
bề lửa cháy, đạn nổ, được lệnh rút, cả đại đội nhanh chóng vượt hàng
rào, băng ra ngoài. Ra đến cửa mở, E Pi bị m ột m ảnh pháo văng vào thái
dương ngất đi. C hính trị viên Luyện đã cõng E Pi chạy bộ bảy kilôm ét về
hậu cứ...
Cuối năm bảy tư, các chiến sĩ V iệt Nam chia tay các bạn chiến đấu
Campuchia trở về giải phóng Tổ quốc. Các đơn vị M iên đỏ cũng được tổ
chức lại rồi tiến về giải phóng thủ đô... Tháng tư năm bảy lăm... những
ngày sau đó... E Pi không còn nhớ nữa.
- Anh Luyện! - E Pi nh ìn anh cán bộ bằng cặp m ắt van lơn - Anh cứ
để em về trạ i học tập. Em hứa sẽ học tập tốt! E Pi nói rồi cúi xuống,
những ngón tay vẽ vẽ cái vạt áo còn dính m ấy giọt máu khô.
Theo đề nghị của mọi người: Cái sân ở đầu trạ i được dọn dẹp sạch
sẽ. Người ta khuân về những khúc củi khô cứng, ch ất th à n h đống giữa
sân. Mọi người t ấ t b ật chuẩn bị cho đêm liên hoan ra trại. Quên cả bữa
cơm chiều, m à cũng chẳng ai th ấy đói nữa, có m ột cái gì cứ rộn lên, rạo
rực trong long họ... t)ẽm nay, họ lại được múa lâm Ihôn. Ba năm rồi, khéo
không quên... nghĩ vậy, m ấy cô gái kéo nhau ra sân n h à tập thử. Thỉnh
thoảng họ lại cười rộ lên.
Khi ngọn lửa h ắ t á n h sáng lên cành cây, mọi người kéo nhau lại: Họ
sắp th àn h vòng tro n g xung quanh đống lửa. Không có trống. Họ mượn cái
thùng gánh nước của n h à bếp ra gõ. Bôn cô gái bước ra. Họ múa. Chưa
được m ột vòng m à hàn g đã rối loạn. Cô gái đi đầu buông tay xuống nói:
- Vỗ trông sai rồi!
- Ai b iết vỗ?
- Múa bằng h á t dễ hơn!
- Ai biết hát?

216
Mọi người im lặng nhìn nhau. Bỗng từ phía sau, một chị phụ nữ
bước ra. Chị hát, tiếng chị khàn khàn không cất lên dược. Chị dừng lại,
lấy giọng, h á t tiếp. Tiếng h át của chị trong dần, vang lên. Những người
đứng trong hàng đã b ắt đầu nhấp nhỏm. Người ta bước ra sân. Càng lúc,
càng đông. Họ múa. Đêm sâu dần. Tiếng h á t mỗi lúc một vang xa. Gương
m ặt mỗi người mỗi lúc một rạng rỡ.
Họ dừng lại khi những tia nắng đầu tiên của ông m ặt trời hoà vào
đống lửa. Hai chiếc xe của bộ đội đã nổ máy ngoài đường cái chờ họ. Mọi
người quay vào, chuẩn bị hành lý lên đường. Người nào cũng lóng ngóng.
Cho đến khi vắt bao gạo lên vai, người ta như chợt nhớ ra điều gì, họ
dừng lại, nhìn vào cái nhà lợp lá chuối, cái bếp, hai dãy bàn ăn, những
người bộ đội cách mạng... Một góc rừng hoang sơ, vắng vẻ, bỗng trở nên
th ân thương ấm cúng như gia đình của họ. Có người cúi xuống, vội kéo
vạt áo lên chùi mắt.
Nấn ná mãi, nhưng rồi cái giây phút ấy cũng đến - Giây phút chia
tay. Chị phụ nữ có m ang và cháu bé được ưu tiên ngồi trong ca bin. Xe nổ
máy. Người ta không nói được, đành phải giơ bàn tay lên. Họ cười, nụ
cười nở ra, có vị m ặn của giọt nước m ắt vừa lăn xuống.
- Gắng học tập cho tố t nhé. M ình sẽ về thăm E Pi luôn đấy! Anh
cán bộ nói và thoáng thấy giọt nước lăn ra ở đầu con m ắt E Pi.
Uran-1980-2000

T R Ầ N D ÍN H THR

217
BÀ MẸ u ĐÔN

LÊ QUỐC PHONG
Tặng Đức và đồng đội

Lần nào cũng vậy, hễ cứ thấy Đức đến là bà mẹ Cam puchia ấy cứ


nhìn anh chằm chằm rồi nói:

- T hằng P ia-rết với m ày giống nhau như hai giọt nước, nhìn mày mẹ
nhớ nó quá.

Những lúc đó Đức không dám nhìn th ẳn g vào m ắt mẹ. Anh sợ mẹ


xúc động không cầm được nước m ắt. Mà để mẹ khóc lên th ì phiền muộn
quá, cháu C hia-tai, con tra i Pia-rết sẽ ôm chầm lấy mẹ la lên có trời m à
dỗ được. Đức cố lãng di, nhắc lại cái câu an ủi chung chung thường ngày
vẫn nói:

- Đừng buồn mẹ ạ! Rồi anh ấy sẽ trở về thôi!

- Về! Liệu có còn m à về không con?

Mẹ th ấ t vọng th ỏ dài, đưa m ắt nhìn xa xăm. Trời chiều, nắng vàng


như m ật, những chú chim sâu trán h nắng đuổi nhau ríu r ít dưới tá n cây
cuối vườn. Bàn tay mẹ vẫn vuốt đều trên mái tóc quăn của Chia-tai.
- Ra ngoài kia chơi con, dể bà nói chuyện.

Chia-tai cúi dạ rồi chập chững bước đi, mẹ quơ tay lên bàn thờ lấy
lá trầu đựng tro n g chiếc đĩa sứ, đưa con dao sắc như lá m ía bổ đôi m iếng
cau, bỏ vào m iệng vừa nhai vừa nói:

- Con à! T hằng P ia-rết hắn hiền khô vậy đó. T h ế m à hắn cũng bị
b ắt đi làm lín h cho Pol Pot... từ ngày giải phóng đến nay, đêm nào mẹ
cũng không ngủ được, cứ nhắm m ắt một lúc là thấy th ằn g P ia-rết hiện ra
đứng trừ n g trừng n hìn mẹ ngoài cửa sổ. Mẹ chạy đến thì không thấy hắn
đâu nữa..

Mấy giọt nước m ắt của mẹ trào ra. Mẹ vội vàng đưa mốĩ khắn cà-ma
quệt n h an h m ột cái. T h ế m à Chia-tai vẫn nhìn thấy được, nó bỏ lăn mấy

218
cục đ ất nặn hình con bò, con trâu đồ chơi nằm ngổn ngang trê n cát, chạy
đến ôm chầm lấy mẹ.

- Bà! Bà... Chia-tai vừa lay vừa gọi - Bà khóc à?

- Đâu! Bà có khóc đâu. Cháu ra chơi đi.

- Hư! Hư... Chia-tai ngúng ngoắng đầu nũng nịu - Bà đừng khóc nữa
nghe.

Và b ất chợt nhớ ra điều gì. Chia-tai mở căng đôi m ắt nhìn cây


Chăm phương án nở hoa đỏ rực.

- Bà ơi! Sao chưa thấy ba về?

Mẹ chưa kịp trả lời thì Chia-tai đă bước đến nằm gọn trong lòng
Đức.

- Pu con-tóp à! Sắp đến tết Chô-chơ-nam thơ-mây chưa?

- Mười ngày nữa cháu à.

- T ết vui nhiều pu con-tóp há. Bà bảo tế t ba Chia-tai về. Ba về cho


Chia-tai quần áo đẹp nè. Kẹo nè. Dẫn Chia-tai đi chơi nè. Đi lên phô
chụp ảnh đẹp nữa..

C hia-tai vẫn liến thoắng nói về ngày vui của em bằng tấ t cả sự ngây
thơ trong sáng và hồn nhiên của cái tuổi được nuông chiều. Em đâu biết
rằng mỗi lời nói của em vô tình làm cho lòng người lớn buốt đau. Me cúi
xuống vờ n h ặ t một hòn đất để giấu đi sự xúc động. Còn Đức, khuôn m ặt
anh trở nên ưu tư và có cái gì đó day dứt trong lòng. Anh cắn chặt vành
môi, cúi xuống đ ặt lên trán Chia-tai một cái hôn, rồi cụng đầu nó day
qua, day lại.

Mẹ chỉ có mỗi m ình Pia-rết là con trai độc nhất. Năm bảy lăm Pol
Pot — leng Sary lên nắm quyền. Ãng-ca đến nhà gọi chồng mẹ đi học, vì
trước kia ông là du kích m ật, nuôi giấu cán bộ trong nhà để đánh Lon
Nol. Mẹ tưởng chồng di một hai tháng sẽ về. Thời gian cứ dài mãi ra, mà
chồng mẹ vẫn không tin tức. Phum mẹ có lệnh phân tán mỗi người một
nơi, ở tập trung theo tổ sản xuất. Mẹ và Thơ-mây vợ Pia-rết gặp may là
được ở cùng một đội. Còn Pia-rết thì ở đội khác cách mẹ bốn vườn thốt
not, m ắt nhìn có thế thấy, th ế nhưng gia đình mẹ th ỉn h thoảng mới được
gặp nhau.

219
Vào đầu năm bảy sáu người ta m ang đến cho mẹ m ột cái tin: Chồng
bà bị g iết ở rừng O-ran cùng ba trăm người khác. Mẹ đã nhiều lần tận
m ắt chứng kiến cảnh bọn lính Ãng-ca giết người bằng búa, bằng dao chỉ
vì người ta kêu đói kêu khổ, đến xin thuốc khi ốm đau, hoặc m ột câu
chuyện vô tìn h nào đó phảng phất đôi nỗi buồn phiền... Nhưng mẹ chưa
bao giờ nghĩ rằ n g chồng mẹ bị giết. Suốt cuộc đời ông lam lũ, h ế t trèo
thốt n ố t thuê, cuốc mướn, lại ở đợ cho bọn n h à giàu trong sóc. Kiếm được
đôi đồng “riên g ” lại để dành nuôi cán bộ trong m ấy năm “cách m ạng” gặp
khó khăn.

Cái tin đau đớn đó đến với mẹ đột ngột quá. Mẹ chỉ biết kêu lên
được m ột tiếng rồi gục đầu xuống chiếc áo cũ của chồng, trong đó có
vương lại hơi ấm mồ hôi. Mẹ thiếp dần trong tiến g nấc. Bên ngoài, ánh
chiều hấp hôi vàng n h ạt, bầu trời trở nên 11 ám lạ thường và âm vang
tiếng khóc loãng vào không gian... Chỉ có nước m ắt là chưa dễ khô. Nước
m ắt trào ra còn đọng lại trê n khóe m ắt. Lồng ngực già cỗi của mẹ chưa
vơi những cơn buốt tê đau đớn. Thì chính hắn, chính tên Ăng-ca trước
kia nằm h ầm tro n g n h à mẹ, chính cái th ằn g mẹ đã bớt đi những m iếng
ăn nuôi nấn g nó, bớt đi những giấc ngủ tuổi già canh cho nó được trọn
đêm, nó đang đứng dang chân trước m ặt mẹ. Ngày đó nó có vẻ h iền lành
chứ không như bây giờ. Té ra thời gian trê n đ ất này đã cho con người
nếm những câu tr ả lời th ậ t cay nghiệt.. Có phải h ắn đó không? H ắn đến
đây làm gì? Để nói với mẹ những lời an ủi? Không! Mẹ không cần những
lời nói ngọt ngào đặc sán h như m ật, m à khi uống vào có vị đắng cay.
H a y x é o di! T ao k h ổ n g c ầ ll g ì h ế t. M ẹ đ ịn h h é t lư ứ n g lẽ n , c h ồ m lạ i vả
vào cái m ặt vô ân, vô nghĩa của hắn. Nhưng mẹ kịp kìm lại, đưa m ắt
nhìn h ắn , h ắn vẫn dứng trâ n trâ n trước m ặt mẹ, chiếc gậy ba toong
nhiẹp lên, nhịp xuống.

- Khóc hả! Im đi! Khóc là có tội với đảng, có tội với lãnh tụ Pol Pot
Chồng bà chống Ăng-ca. Đáng lẽ cả gia đình bà cũng bị trừng trị, nhưng
tôi nghĩ hồi trước bà có nuôi tôi, tôi th a cho bà... nhưng muốn vậy thì
ngay bây giờ, th ằn g P ia-rết phải ra tập trung ở trụ sở để ngày mai nhận
súng.

T h ế là dù muốn hay không P ia-rết cũng không th ể không bận bộ


quân sự lín h Pol Pot m àu đen. Chúng bắt P ia-rết đi. Mẹ chạy theo khóc
lóc van xin. Chúng hét: Cút về không lại cho ăn đ ất bây giờ. T hằng lính
áo đen bằng con mẹ, phang mẹ m ột gậy, vai mẹ sà xuống. Mẹ ngất đi.

220
Trong mơ m àng mẹ thấy trước m ắt mọi cái quay vù vù. Thốt nốt xanh
tươi b ật gốc, những khuôn m ật quen biết từng hàng, từng hàng, trên con
dường đất m ịt mùi bụi lũ lượt kéo đi. Họ đi bằng hai tay... Chồng mẹ đứng
đó, nhìn mẹ cười, khóc. Họ đinh chạy đến với mẹ nhưng đôi chân như bị
chôn chặt trong đất... và máu... ôi máu nhiều quá! Máu nhòe hết mọi
khuôn m ặt, nhoà h ết mọi màu xanh, máu như m ột cơn mưa đột ngột từ
trong những cụm mây đen đặc rơi xuống, máu từ dưới đất phụt lên. Nào
biển, nào sông, tấ t cả đổ máu cuồn cuộn chảy... Từng đoàn người bi trói
tay, trói chân đứng chật ních trước sân chùa. Những tiếng khóc, tiếng
th ét nổi lên. Bọn lính cột mọi người th àn h một hàng dài, lột hết quần áo,
rồi đứng cười hô hố, chỉ trỏ, khoái trá. Chúng lấy từng hòn đá cuội to thi
nhau nhằm đầu, ngực, bụng những người bị trói m à ném tới tấp. Tên
Ãng-ca nhìn đau đáu cô con gái có th ân hình thon thả, trầ n truồng đứng
trước m ặt. H ắn cười han h hách. H ắn thét:

- Bắn!
T h ế là tiếng reo ầm ầm th o át ra từ cửa m iệng của bọn lính loắt
choắt. Súng nổ đồng loạt, những cái đầu gục xuô'ng rông như bò. Máu trào
ra từng tia nhỏ nhỏ li ti bắn lên cao tưởng như thấy m ặt trời, m ặt trời
cũng đỏ màu máu, máu như m ột thứ ánh sáng lân tinh kỳ quặc soi chập
chờn những khuôn m ặt dã thú của bọn lính đang reo hò nhảy nhót và soi
cả những khuôn m ặt đau đớn của những người đang trú t giây thở cuối
cùng...
- T rơi ơi!

Mẹ bật kêu th àn h tiếng rồi vùng dậy ngơ ngác nhìn quanh, hớt hải
chạy khắp công xã, vừa chạy vừa la, chửi bới khóc than. Kêu chán mẹ lại
cười, quần áo rách tả tơi, đầu tóc rối bù xù tấm th â n rũ rượi. Chạy mệt,
mẹ dừng lại bên những cây thốt nốt cụt ngón ôm ghì lấy nó, vuốt ve nó,
nói với nó những lời âu yếm như nói với chính đứa con mình. Dân phum
ra đưa mẹ về. Mẹ cào cấu, chửi bới họ...

Mấy hôm sau sức khỏe của mẹ dần dần hồi phục. Ãng-ca vẫn không
để cho mẹ yên. Chúng b ắt gia đình mẹ rời sâu trong rừng. Ớ đó một thời
gian, Thơ-mây sinh được đứa con trai. Thằng C hia-tia kháu khỉnh, đó là
niềm vui duy n h ấ t làm dịu một phần nỗi đau triền miên trong lòng mẹ.
Mẹ cứ tưởng tượng rằng sẽ được sống mãi với riiềm vui ít ỏi mong manh
còn lại đó. Nhưng, hạnh phúc đến muộn m ằn và bao giờ cũng dễ bay đi,
cả đời mẹ trải qua vẫn thế. Còn khổ đau thì lởn vởn vây quanh lấy mẹ,
221
chập chờn nhập cuộc và bao giờ h ắn ta cũng thắng. Thơ-mây, con dâu mẹ
bỗng chốc bị bọn lính Pol Pot kéo đến b ắ t đi. Đi về đâu? Sông hay chết.
Mẹ làm sao biết được.

Rừng núi vẫn im lặng, th ả n nhiên trước nỗi đau xé ruột của mẹ. Mẹ
định chạy lên nhà tên Ãng-ca túm lấy cổ nó cào cấu cho h ả giận. Nhưng
nghĩ lại cũng chẳng ích gì. Nó có súng. Nó có quyền. Nó cho mẹ ăn thì
mẹ được ăn. Nó b ắt mẹ chết thì mẹ phải chết. Nó đuổi mẹ th ì mẹ phải
xéo đi. Dù nơi ấy là rừng, là núi, hay han g cùng. Mẹ lặng yên xua ta n ý
nghĩ rồ dại bất chợt đó và ngày ngày lại thui thủi bên đứa cháu nội. Đi
đâu mẹ cũng bế nó di, không bao giờ lơi nó ra dù trong phút chốc. Bọn
Ảng-ca như lũ quạ đen đang rìn h rập đâu đó chờ giật cướp những niềm
vui nhỏ nhoi của mẹ.

Cuộc sống ấy của mẹ kéo dài mãi đến đầu năm bảy chín. Bỗng một
tốp người có súng xộc vào rừng nơi mẹ ở. Họ nói gì vậy? Con-top Việt
Nam đánh Pol Pot, cứu n h ân dân Campuchia.. Họ chắp tay chào mẹ
“Xóc-xơ-bai”, nói đi nói lại câu đó... T hế rồi mẹ được đưa về phum cũ. N hà
bị bọn Pol Pot đập phá tan hoang, m ột chiếc b át ăn cơm cũng không còn
nguyên. Bộ đội Việt Nam dựng lại cho mẹ một căn nhà tre và thỉnh
thoảng Đức đến thăm mẹ, anh gánh nước, xới rau, cho mẹ thuốc sốt, hoặc
làm một việc gì đó mẹ cần. Cứ mỗi lần nhìn th ấy Đức là mẹ lại nhắc đến
Pia-rết:

- Con ạ! Hắn cũng như con vậy đó, mái tóc quăn, th â n hìn h to cao,
c h ả n g k h a c ch i ngươi c ầ m Lạ, d á n g di Ih o ã ii lliu á l n h ư COI1 cá B iể n Hồ...

Còn Chia-tai thì nằm gọn trong lòng anh.

- Sao chưa thấy ba cháu về Pu-con-tóp?

Lần chia tay cuối cùng với mẹ, mẹ vẫn chỉ nói với Đức một câu:

- Con à! Hắn cũng như con vậy đó. Thương mẹ thì nhớ tìm về giúp
mẹ, con à...

Mùa khô.

Trung đoàn của Đức nhận lệnh cùng các đơn vị quân đội cách m ạng
Campuchia truy quét ở núi O-ran. Trên suốt dọc đường h àn h quân Đức
bắt mười mấy tù binh, có tên ngay từ đầu gặp bộ đội đã bỏ súng đầu
hàng, có tên tìn h nguyện dẫn ta đến cứ điểm của bọn chúng. Nhưng cũng
có tên ngoan cố bắn đến viên đạn cuối cùng. H ình như lúc nào Đức cũng
222
nhớ đến lời mẹ dặn và cố đảo m ắt tìm xem trong đám đông kia, có người
nào giông với Pia-rết không? Không thấy. Anh chợt nghĩ: Sau mấy năm
cầm súng cho Pol Pot, liệu Pia-rết còn giữ được những gì đẹp đẽ trong
tâm hồn mà người mẹ đau đớn kia đã bồi đắp cho Pia-rết không? Hình
ảnh chúng giết cha, đánh đập mẹ còn đọng lại trong trí nhó Pia-rết hay
đã bị giũa mòn rồi? Khi đám lính áo đen cầm trong tay con dao, cái búa
nện vào đầu những người dân mà Pia-rết cũng thừa biết họ không có tội,
hoặc khi chúng cầm đứa trẻ con trong tay, mặc cho nó khóc, nó giãy giụa
cứ th ế mà quẳng xuống lòng giếng, những lúc ấy liệu lòng Pia-rết có quặn
đau, có rơm rớm máu không? Đức thấy có cái gì đó cộm trong lòng. Anh
cảm thấy nỗi hy vọng kia mong manh quá đỗi. Có lúc Đức lại nghĩ: Giả
sử Pia-rết trở th àn h m ột tên đao phủ khét tiếng. Vậy trong tâm hồn hắn
liệu có th ể còn sót lại chút ít lương tri bất chợt thức tỉnh làm cho hắn
bỗng nhớ đến cha, đến mẹ, đến vợ, đến con. Biết đâu trong trậ n đánh
sắp tới, trong đoạn đường mà Đức sắp đi qua, ở các lùm cây vi-lơ lúp xúp,
P ia-rết ẩn núp chĩa súng vào người Đức. Hoặc là trong một trận đánh
gặp gỡ, giữa rừng buộc lòng một viên đạn từ nòng súng tấn công của Đức
lao vào ngực Pia-rết, h ấn ngã xuống sau đó Đức mới nhận ra những nét
hao hao trê n gương m ặt hắn. Nghĩ đến đây lòng Đức bỗng quặn đau.
Giữa bao nhiêu người lính áo đen mà Pol Pot xua bắt, tha hoá lừa phỉnh,
đẩy đến hố vực tội ác liệu có th ể tìm nhận và gọi về Pia-rết được không?

Thời gian cứ mải m iết trôi. Ớ gần các rừng dày, cây xốc-lơ mấy dạo
nở hoa. B iết bao người dã theo tiếng gọi của lương tâm và đất nước
(Jampuchia th an yeu trờ vê, nhưng trong những khuôn m ặt i)ức gặp, anh
không tìm th ấy Pia-rết. Anh vẫn cùng đồng đội hành quân. Biên giới
Thái càng xích gần trước m ặt, hạnh phúc của nhân dân lại lởn thêm mãi
ra phía sau lưng. Mỗi lần nhớ tới lời bà mẹ lòng anh bỗng cồn cào...

Ngôi nhà th ấp lè tè mới dựng của mẹ bên cạnh những ngôi nhà sàn
to có đầu rắ n Na-ga. Chiếc phản kê tạm mấy tấm ván chát xám loang lổ
mà mẹ thường ngồi kể chuyện. Mấy cây thốt nốt xoè lá ở trước sân. Tất
cả hiện rõ trước m ắt anh cùng với lời mong của mẹ.

Hơn m ột năm Đức trả i qua bao nhiêu gian khổ. Những ngày k hát
chát mùa khô, không có nước tắm. Những cuộc truy kích m ệt lả, cơm
không đưa được vào miệng. Những cơn sốt ré t rừng... hình như chính lời
mong ấy tựa một cái mốc cắm vội ở dâu xa lắc, đang gọi Đức, thúc giục

223
Đức vượt qua nhưng gian lao, những khó khổ m à người lính ở sát biên
giới Thái này đang chịu đựng.

Cuốĩ m ùa khô, địch hoạt động tăn g dần. Đơn vị đóng gần sát biên
giới. Lại một trậ n đánh nữa, trậ n đánh bọn Pol P ot từ đ ất Thái vượt biên
giới luồn vào. Đức lại nghĩ đến mẹ. Lẽ nào P ia-rết lại bị bọn chúng dẫn
qua đất Thái nhơ nhuốc, xấu xa và bây giờ P ia-rết đang bị bọn chúng xua
trở về quấy rối.

T rận đánh bọn luồn rừng sắp kết thúc. Những tê n tà n binh bị bắt đi
ngang qua trước m ặt Đức, kéo th àn h m ột hàng dài lếch thếch đen xỉn từ
quần áo đến m ặt mũi, cắm đầu lặng lẽ lê từng bước chân. Đức nhìn chằm
chằm vào đoàn tù, đến người cuối cùng an h vẫn không n h ận ra ai có
dáng như mẹ kể... Hay P ia-rết đang ở điểm Pốc-cơ? Có th ể lắm.

Đó là m ột căn cứ phía trước của bọn Pol Pot. Đơn vị Đức dược lệnh
đánh chiếm cứ điểm ấy. Từ nửa đêm, đơn vị anh đã chiến đấu suốt mười
giờ ròng. Ban đầu địch chông cự quyết liệt, nhưng cuối cùng không chịu
nổi sự tấn công ồ ạ t của cánh quân binh đoàn bạn phôi hợp nên tháo
chạy tán loạn, đứa chết, đứa bị thương, đứa bị b ắt làm lầm lì bước đi. Đội
quân y băng bó cho những tên còn sống. Chỉ còn lại m ột cái hầm được
xây dựng kiên cố, chốc chốc đạn xối ra từng loạt, mặc cho các đồng chí
trong đội địch vận bắc loa khàn tiếng kêu gọi. Đại đội trưởng bò đến
công sự Đức. Anh nói:

- Cậu phải chỉ huy trung đội đánh xốc lên m à hốt gọn.
Trước m ặt Đức biên giới mờ đi trong khói. Mới gần mười giờ mà
nắng đã gay gắt. Cũng là ngọn gió lùa từ dưới xuôi lên mà buổi sáng thì
rười rượi m át lành, còn bây giờ thì khô chát, bụi khói cuộn bô'c.

- Trung đội 9 xung phong!

Sau m ệnh lệnh ấy các chiến sĩ lao lên. Từ trong công sự cố thủ địch
vẫn bắn đại liên ra từng điểm xạ dài. Trung đội Đức mới vượt được ba
mươi m ét thì chững lại vì địa hình quá trông. Khẩu đại liên địch vẫn ăng
ẳng sủa, đạn găm phầm phập vào th â n cây tung đất.

Đức h ét to, giọng anh lẫn trong tiếng súng:

- Trinh! - D iệt hoả điểm.

224
T rinh không trả lời chỉ gật đầu nhè nhẹ rồi cứ thoăn thoắt bò lên
sau th ân cây bị pháo phạt gãy. T rinh giương súng lấy đường ngắm chưa
kịp bóp cò thì Đức gọi giật trở lại:

- Đừng bắn trúng. Bấn cảnh cáo.

T rinh quay người mở to m ắt nhìn Đức ngạc nhiên. Môi anh mấp
máy như muốn nói điều gì đó nhưng chợt nhận ra đây là trận địa. T rinh
lặng lẽ quay nhanh về phía trước. Anh bóp cò. Quả B.40 nổ sát nách công
sự địch. Chúng hoảng hốt nhào lên chạy dạt về đoạn hào phía sau. Đức
bỗng khựng lại khi nhìn thấy thằng địch có mái tóc quăn, thân hình to
cao như hộ pháp đang chạy sau cùng kia... chính nó sao? Chính nó. Nó là
con trai của bà mẹ U-đôn rồi. Đức hạ lệnh:

- Khép chặt vòng vây bắt sống.

Anh khum hai bàn tay làm loa dõng dạc gọi từng tiếng:

- Hãy ra hàng di. M ặt trậ n và Việt Nam không giết.

Bọn địch vẫn xô nhau chạy dạt về phía sau, vừa chạy vừa quay súng
bắn lại. Đức cắn chặt vành môi nén cơn giận. G iết chúng không khó, chỉ
cần một trái B.40 nữa là tan xác hết. Nhưng cái khó là gọi chúng ra
hàng, b ắt sông chúng, cứu dược chúng, và đôi với anh, anh còn có lời
mong của một người mẹ mà anh chưa đáp lại. Đức tiếp tục cho đại liên
bắn kiềm chế,
- R a h à n g (li. M ạ i trậ n và V iệ l N am khOng g iế t .

Chưa dứt câu đạn đã vèo vèo cắm phập trước m ặt. Một chùm cúc dại
xác xơ. Một tiếng nổ đến long óc của quả M.79 cách đây gần đó. Đức thấy
mu bàn tay m ình buốt đau, máu trào ra thấm đỏ m ặt đất. Đức chưa hết
bàng hoàng thì một tiếng nổ nữa tiếp theo. Anh cúi người xuống vừa
trá n h m ảnh vừa nhìn vết thương. Đức không ngờ anh bị thương vào
những phút này, những phút mà trận đánh có th ể không cần đổ một giọt
máu mà anh đang đổ. Bọn giặc kia anh muốn cứu nó thì chính nó lại bắn
anh. Nỗi bực dọc nén lại giờ đây bật lên làm cổ Đức tức nghẹn. Anh
muốn h ét to hạ lệnh cho đồng đội xông lên tiêu điệt ngay chúng. Nhưng
chợt nghĩ đến một lời giục gọi nào đó, anh lại thôi. Cuộc chiến đấu mà
đồng đội Đức và các bạn Campuchia đổ máu đã m ang lại xiết bao hạnh
phúc vì đ ất nước này, phải, nhưng vượt lên những điều ấy, còn có m ột cái
gì đó lớn lao hơn nữa, lâu dài hơn nữa, nhân loại hơn nữa..

225
- Anh Đức bị thương!

Một cậu chiến sĩ trẻ ở tiểu đội ba thét:

- Cứ cho tiêu đi! C hính sách gì, lắm chuyện.

- Không được, Đức thét! - B.40 bắn cảnh cáo hai quả! Đại liên bắn
chặn. Đề nghị tiểu đoàn cho cối dập chặn đường rú t ở mé rừng phải. Tiểu
đội hai vòng bên trá i đánh từ phía sau lên.

Quả thế. Khi súng nổ từ p hía sau lưng, bọn địch nhốn nháo, chúng
hò h ét nhau quay nòng đại liên bắn trả. Nhưng chỉ được m ột lúc rồi yếu
dần. Trung đội Đức ào ạ t xông lên:

- Đầu hàng đi! Không giết đâu!

Một thằng, hai th ằng, bốn thằng... vẫn chưa thấy tên lính ấy đâu.
Đức hồi hộp chờ đợi. N ăm thằng, sáu thằng... dưới công sự im phăng
phắc. Tại sao vậy? T hằng tóc quăn m à Đức nh ìn th ấy chết rồi sao?
Không, Đức không tin như vậy. Anh đưa m ắt hỏi tên tù binh sau cùng.

- Còn ai không?

- Dạ, thưa., h ế t rồi. H ắn lẩy bẩy trả lời ngập ngừng.

Đức bước đến chĩa súng xuống m iệng hầm kéo m ột loạt, phía dưới có
tiến g động:

- Lên đi, M ặt trậ n và Việt Nam không giết đâu.


Đức gọi rồi cắp súng lùi lại m ột bước. Tên địch lom khom chui lên.
C hính h ắn rồi, mái tóc quăn bồng bềnh, th â n hình cao vạm vỡ. H ắn cầm
lấy cái gì trong tay vậy? À, m ột quả lựu đạn. Đức vừa quay súng thì bên
trá i, T rinh từ xa co người với m ột động tác võ, anh lao đến đánh rớt quả
lựu đạn tro n g tay tên lính và rấ t nh an h nhẹn chụp ném ra xa. Tên lính
hoảng hốt lùi người bỏ chạy.

- Đứng lại!

Nó vẫn chạy. Đức giương súng bắn găm. Tên địch loạng choạng chúi
xuống, viên đạn cắm vào chân. Bây giờ Đức mới trông rõ khuôn m ặt hắn,
cái cằm của hắn bạnh ra, hai con m ắt trắ n g lộ dã lộ những tia máu đỏ,
đôi môi khô đét lấm lem bụi đất, Đức cúi người, lấy chiếc bình tông còn
lại những giọt nước cuốĩ cùng đổ lên môi hắn. H ắn m ấp m áy m ột cách
thèm thuồng, thoáng nở nụ cười khó hiểu rồi trừng trừng nh ìn Đức.

226
- Sao không giết ta đi?

- G iết mày làm gì. M ặt trậ n và Việt Nam không giết người đầu
hàng.

- Hừ! Không giết. Hắn nói lại một cách lạnh lùng - Ăng-ca không
bao giờ nói sai.

Đức ngỡ ngàng trước câu nói của tên giặc. Cho đến bây giờ m à hắn
còn nghĩ như vậy lí? T h ật không gì khủng khiếp bằng khi tâm hồn con
người bi nhuốm đen.

Anh nhìn nó. Nó vẫn lạnh lùng. Anh hỏi:

- Tên là gì?

- Pia-rết.

Ôi! T hằng P ia-rết của người mẹ đau đớn kia là tên này ư? Anh đã
tìm ra được nó. Anh đã đáp lời mong của bà mẹ ấy. Ôi, th ế nhưng liệu
người mẹ mòn mỏi chờ đợi có chịu được nỗi đau tươi rói mới rọi này
không, khi biết đứa con của mẹ, trong những năm cầm súng cho Pol Pot
đã trở th àn h một tên tử thù của nhân dân.

- Tên gì? Pia-rết à? Đức hỏi lại.

- Đúng! Pia-rết.
- Quê đâu?
- Công Pông Xpư.

- Sóc nào?
- U-đôn.

Thôi đúng nó rồi! Chính nó.

- Cha mẹ bây giờ ở đâu? Có biết không?

- Cha không biết ở đâu. Mẹ chết từ hồi chưa biết nói.

Đức trố m ắt nhìn hắn.

- Mẹ chết từ lúc chưa biết nói?

- Phải.

227
- T h ật không?

- T hật. K hông ai nói dối làm gì cái ấy.

À th ế thì không phải... Ôi, trong đội lính áo đen m an rợ bị bọn Pol
Pot lừa phỉnh và xua b ắ t di giết người có biết bao cái tên Pia-rết. Đức thở
phào đứng dậy, anh bàn giao số tù binh b ắt được cho đơn vị bạn rồi lên
đường. Biên giới ngơi tiếng súng, trả lại cho rừng cái yên tĩn h vốn có.
Hoa cúc dại trê n đồng cỏ vàng rực dưới nắng đã sang trưa. P h ía trước
đoàn quân là con đường ngoằn ngoèo dẫn lên đỉnh núi m út tầm m ắt,
thoang th o ản g hương cau từ thung lũng Pu-xin đưa tới ngạt ngào.

M ột th án g sau Đức ra viện. Trước khi trở lại đơn vị Đức xin phép
đồng chí viện trưởng tạ t qua trạ i tù hy vọng b iết đâu có th ể tìm được tin
gì về Pia-rết.

Những ngôi n h à lợp lá th ố t nốt của trạ i tù binh nằm dài theo con
dường đất. Những bụi hoa Pơ-lin trước sân nở đỏ rực. Từng tốp, từng tốp
người từ ngồi túm tụm trê n các chiếc ghế được ghép tạm bằng th ân gỗ
rừng, rì rầm về m ột chuyện vui nào đó và th ỉn h thoảng họ lại cười rộ lên.

Đức bước qua chỗ họ, anh đến th ẳn g văn phòng nhờ người quản lý
xem hộ danh sách. Sau khi cắm cúi dò từng tê n tro n g tập hồ sơ dày, anh
ta ngẩng đầu lên nh ìn Đức trả lời:

- Chỉ có tên P ia-rết mấy anh đã b ất m ấy hôm đó thôi...


Q ua đ i p h ú t h ồ i h ộ p , Đ ức th ấ y lò n g m ìn h n ặ n g n ồ v à tr ô n g tr ả i. Pin-
rế t còn không? Còn, không biết sao Đức tin như vậy. Một con người hiền
làn h và khổ đau như người mẹ U-đôn kia đã bú mớm, h á t ru cho con
m ình khôn lớn, ôi! Trong m ột giọt máu m à mẹ đã dưỡng sinh khó lòng
m ột lúc m ất đi những gì quí giá m à mẹ vun trồ n g từ tấm bé.

Đức chào người quản lý rồi lững thững dạo trong sân. Bỗng anh gặp
m ột th ằn g bé th â n h ìn h loắt choắt, có lẽ mới mười ba, mười bốn tuổi là
cùng. Đức bước lại gần nó, ô, nó cũng là m ột tê n lính áo đen Pol Pot hay
sao?

- Vào trạ i lâu chưa? Đức hỏi.

H ình như không nghe tiếng Đức, nó vẫn nín thở lò dò bước, đưa hai
ngón tay như hai gọng kìm, tiến đến con chuồn chuồn rồi bất th ầ n kẹp

228
lại. Con chuồn chuồn chỉ đập cánh rèn rẹ t rồi nằm im. Ánh m ắt th ằn g bé
lộ rõ vẻ sung sướng. Bây giờ nó mới ngẩng đầu lên nhìn Đức:

- Chào On. Đức chào và hỏi: Vào lâu chưa?

- À, mới thôi. Nó trả lời.

- Tên là gì vậy?

- Campuchia thôi.

Đức nhìn nó ngạc nhiên. Anh hỏ lại:

- Tên cơ mà?

- Ờ, tên đó, Campuchia thôi.

- Bô" mẹ ở đâu?

- À, để nhớ đã.. Nó nhíu mày đứng nghĩ ngợi - á, nhớ rồi. Bố là lãnh
tụ Pol Pot vĩ đại, mẹ là đ ất nước Campuchia anh hùng.

Nó trả lời một thôi như dã học thuộc lòng.

Bây giờ Đức chợt hiểu. Té ra chúng nó đầu độc sự cuồng si bất đầu
như th ế này đấy. Anh lại hỏi:

- G iết được nhiều người chưa?

- í t ít thôi, hai người. Vừa trả lời nó vừa đưa m ắt nhìn đi đâu xa
lắ m .

Ngày P ia-rết bị bọn Pol Pot b ắt đi chắc lớn hơn tên lính loắt choắt
này.

Đức lùi ra m ột bước, tần ngần nhìn nó. Bỗng dưng Đức thấy nó dừng
m ắt lại nhìn đoàn người ở chợ về. Các chị, các em cười vui ríu rít. Đi sau
cùng là m ấy bà mẹ đội rợ đựng đầy bánh Kờ-lam trê n đầu, đôi tay đánh
đằng xa bước nhanh trên con đường cái có hai hàng th ố t nốt toả bóng
râm . Một bà mẹ ngoảnh m ặt vào trại, không biết bà trông thấy thằng bé
hay thấy tốp người ngồi ở phía góc sân, bà dừng lại.

T hằng bé đứng yên lặng, hai tay buông thõng nhìn ra chằm chằm.
Trong đôi m ắt th ằn g bé đang dấy lên m ột điều gì đó khác lạ. Một lúc sau
Đức hỏi:

- Mẹ on đó à?

229
Nó không trả lời, hai vành môi cắn chặt lại với nhau, rồi tự nhiên
nó oà khóc, nước m ắt nó giàn giụa, tuôn xuống hai gò m á, đọng lại trong
hô' m ắt sâu. Bây giờ thì trê n n ét m ặt nó to át lên m ột cái gì khác hẳn với
lúc ban đầu Đức gặp. H ình như người mẹ ngoài đường kia là ngọn gió
lành thổi bay lớp tro đen m à Pol P ot đã phủ lên đầu óc bé thơ của hắn.
Và trong tiếng khóc ấy có một cái gì thơ dại tựa như tiếng khóc của đứa
trẻ chưa biết lậ t đang còn nằm ngửa trong nôi...

Phải rồi, nó cũng có cha, có mẹ, cũng có một vành nôi, cũng được
nghe tiếng ru ầu ơi dưới bóng rợp vườn th ố t nốt, cũng có m ột nóc n h à đầu
rắn na-ga sàn lá t gỗ dầu, đêm đêm nó vẫn lăn người trê n đó, nó cũng đổ
mồ hôi trê n đồng ruộng và cũng có những cái tế t Chô-chơ-ma-thơ-mây,
cũng cùng cha mẹ với bạn bè tuổi thơ luyện dôi cổ tay uốn người trong
điệu Xúc-tép. Và nó cũng có m ột quả tim ở đó chảy những giọt máu màu
hồng như bao nhiêu con người khác.

Đức chợt hiểu: Bằng những cuộc tấ n công ào ạ t và chớp nhoáng,


dồng đội Đức và các chiến sĩ Cam puchia đã đổ máu đem lại cho Đông Bắc
này những đêm rôm-vông, những m ái nhà buổi chiều quyện khói bếp,
đám cưới hội hè cho các lứa dôi, những m ái trường mới cho trẻ con ê a
học, một m ùa g ặt bội thu và trả lại cả những ngôi chùa với màu áo cà sa
vàng tươi cho các vị sư sãi.

Nhưng niềm vui ấy chưa trọ n vẹn, như ở U-đôn bây giờ xa Đức hàng
trăm cây số, có m ột người mẹ vẫn chờ, vẫn đợi, vẫn mỏi mong một điều
g ì b in h Ih ư ờ n g m à dữ đ ội. A n il c ả m n h ậ n c ô n g v iệ c h ô m n a y , n g à y m a i,
ngày kia là làm sao g ạt đi lớp tro dày đang phủ lên làm tắ t cục th a n vẫn
cháy trong những con người nạn nh ân b ất h ạn h như th ằn g bé mười ba
tuổi kia vẫn cầm trong tay con chuồn chuồn chết cứng, tr ả lại cho nó tình
thương và những suy nghĩ của con người.

Công việc ấy dẫu còn là công việc đổ máu, và xiết bao gian lao,
nhưng nếu từ nan nó, thì chính ở trong Đức niềm vui lẫn nghĩa cả tình
yêu cũng không th ể nào trọn vẹn.

Không chắc là P ia-rết vẫn còn. Đức tin như vậy, mơ hồ, xa xăm,
nhưng anh vẫn tin , dù không th ể cắt nghĩa rạch ròi ra được. Anh sẽ tìm
Pia-rết, ở trậ n địa này, hay ở mỏm núi đá chênh vênh chắn ngang biên
giới, hay ở nơi bãi lầy cuối rừng cả ngày lẫn đêm muỗi vây lấy da th ịt
Đức, hay ở nơi nào đó nữa, khổ sở, hy sinh, thầm lặng còn dày hơn cả
đây.
230
Anh sẽ tìm , anh sẽ trả lời và chính anh sẽ dẫn P ia-rết ngày xưa về
cho mẹ.

Thằng bé đã thôi khóc, nó trở lại cái trò chơi bắt chuồn chuồn, v ẫn
nín thở đưa hai ngón tay như hai gọng kìm, vẫn tiến đến đuôi con chuồn
chuồn và bất th ần kẹp m ạnh, con chuồn chuồn đập cánh rèn rẹ t nằm im
trong tay nó. T hằng bé lại cười...

Đức ra cổng trở về. Gió chiều phả vào làn da anh m át rượi, hương
lúa từ cánh đồng Xi-sốp-ni-ta được mùa, dịu dàng quyện lấy anh làm anh
nhớ Ư-đôn da diết.

T hành phố Hồ Chí Minh


T háng 5-1981

LÊ QUỐC PHONG

231
BÀI THƠ CỦA ANH

CHU LAI

Đứng giữa những dải lụa màu xanh gió đánh dập dờn, cô gái b ắt đầu
cất tiếng hát. Hàng ngàn con m ất đổ dồn lên sân khấu dìu dịu ánh đèn.
Riêng Chu Thom lại lơ đãng nhìn về phía cô gái như nhìn về một điểm
vô định ở khoảng không trê n cao. Anh vừa xong m ột ca mổ dẳng dai và
không th àn h công. Nếu không có sự bắt ép vừa rắn đanh vừa mềm mỏng
của bà y sĩ thì anh đã bỏ ra phô" tợp một ly cà phê đặc chát rồi có thể
lang th ang trê n đó chẵn đêm và sáng mai khăn gói xuôi về huyện cho
sớm. Thương binh là một sĩ quan m à anh có quen biết. Những người lính
trê n điểm chốt biên giới đã tìm thấy anh nằm sấp m ặt trong lòng một
con suối khô, trên m ình hầu như không còn quần áo. Người ta diện cho
anh và anh lên đây. v ế t thương anh đội trưởng không nặng lắm, song
gần cả tuần quẩn quanh lê lết trong rừng, bắp chân an h bị nhiễm trùng
cấp tính... Lạy trời, nếu anh ấy tìm về được sớm chừng m ột ngày, không!
Chỉ cần nửa ngày thôi... Chu Thom thấy tai m ình kêu bùng bùng. Tiếng
đàn tiếng h á t trên kia chỉ gợi cho anh cái âm th an h nhức nhối của dao
kéo khua nhau trong phòng mổ. Có phải đó là tiếng h á t m à bà y sĩ đã lấy
làm cái cớ thuyết phục anh rằng nếu chịu khó ra bãi với mọi người đêm
n a y , a n h eõ được n g h o m ộ t g iọ n g h á t t h ậ t tu y ệ t, n h ấ t đ ịn h đầu óc s ẽ n h ẹ
nhõm đi? Ờ... H ình như cũng có vẻ hay th ậ t đó vì m ấy người ngồi cạnh
anh cứ ngây phỗng ra. Nhưng lúc này... Anh chỉ thấy thương bạn bào ruột
bào gan! Có con đom đóm từ đâu bay tới lập loè, chạm chùm sáng đen, nó
tự lặn đi rồi lại nhấp nháy tinh nghịch ở ngoài vòm đen m ênh mông như
m ột ngôi sao th ậ t xa.

Giọng cô gái vẫn trải ra thoai thoải. Ẩn náu trong trăm ngàn tiếng
nhạc, giọng h á t ấy êm đềm như m ột dòng xanh chảy giữa Biển Hồ gỢn
sóng.

... Mùa hè năm 80

Biên giới Campuchia còn giặc

Chúng tôi còn đi

v ẫ n hành quân trong nhòe nhoẹt sương khuya


232
v ẫ n hàn h quân tro ng hoàng hôn túa máu...”

“Mùa hè năm 80!” Chu Thom chợt thấy ngực m ình nhột nhạt. “Mùa
hè năm 80” câu h á t của ai? Anh chuyển m ắt xuống và đứng lại săm soi
trên khuôn m ặt người con gái hát. Khuôn m ặt vừa lạ vừa quen... Cái mũi
xinh xinh, hơi hếch, con m ắt có cái đuôi dài vừa táo bạo vừa rụt rè, cái
m iệng nữa: môi trên cứ cong lên hờn trách... Chả lẽ lại là..

... Mùa khô năm 80

Đường hàn h quân b ất chợt gặp một làn hương m ảnh

Chưa ai b iết đó là hương Rùm Đuôn

Cái hương vị không dễ để gọi tên

Mà chúng tôi chỉ nhận biết bằng cảm giác...

Tới đây thì bác sĩ Chu Thom không còn nghe được gì nữa. Những
làn sóng âm th an h đang lan toả không ngừng bủa vây chằng chịt lấy đầu
óc anh...

Năm ngoái. Những ngày mưa đầu tiên.

Vào lúc nửa đêm, Chu Thom bị tiếng gõ cửa dựng dậy.Bà y sĩ trực
ban ùa vào, cái áo Bơ-lu-dơ chưa kịp cài hết khuy:

- Thưa bác sĩ! Tạm xá Tà Sơn báo lên có người trở dạ đẻ.Nghe đâu
là vợ của ông xã đội trưởng.
- T h ế thì sao? - Anh chau mày - Đêm nào chả có hàng chục người
đẻ.

- Dạ! Chị ấy đẻ ngược.

- Hả? - Anh m iết m ạnh bàn tay vào trá n như xua đi sự m ệt nhọc -
Lại đẻ ngược! Thôi được, bác sửa soạn giúp tôi túi đồ mổ.

- Bác sĩ đi bằng gì ạ.

- T ất nhiên không th ể bằng ô tô. Còn cái xe đạp nào ở nhà không
bác?

- Dạ còn. Nhưng... bác sĩ đi không nổi đâu. Phải đạp trên hai chục
cây sô' hầu như toàn đường rừng ngoằn ngoèo...

- Tôi biết.

233
- Và... Gần đây đoạn đường này không được an toàn. Cách đây ba
ngày chúng nó đã mò ra bắn cháy một chiếc xe của tiểu đoàn địa phương,
lại còn bọn trôn tù, bọn vượt biên...

- Tôi biết - N ét m ặt anh hơi sa sầm xuông - Tôi biết, biết hết.

- Tôi e rằng...

- Nếu vậy th ì bác gọi tôi dậy làm gì?

- Nếu bác sĩ cho phép tôi xin đi theo... Nguy hiểm lắm!

- Chính th ế tôi mới cần đi một mình.

- Nhưng... Chí ít cũng cần có một người phụ mổ. Có ca đẻ ngược nào
mà không cần phải mổ đâu ạ!

- Cám ơn bác. Nếu ráng sức, tôi có thể tự làm một m ình được.

Đã biết tín h anh, bà y sĩ khẽ thở dài rồi lặng lẽ dắt giúp an h chiếc
xe phượng hoàng đen cũ kỹ ra cổng.

Dõi theo cái dáng gầy gầy của anh m ất hút ở đầu phố dốc, bà chép
miệng. Con người như th ế m à cuộc đời chẳng ra sao! Thời Pol Pot thì bị
tù đầy hành hạ thừa sống thiếu chết. Được cứu th o át ra khỏi nhà tù, vết
cứa bằng sống lá th ố t nốt trên cổ chưa th ậ t lành đã lặn lội tìn h nguyện
lên đây. Cả cái bệnh viện huyện m iền núi này chỉ có m ình anh là bác sĩ,
bác sĩ đa khoa. Việc nhiều người ít, có thấy anh được nghỉ ngơi thoải mái
m ột ngày nào đâu. Tuần trước, bọn tà n quân dám liều m ạng mò tớibên
kia sông pháo kích vào huyện đội. T hế là những người bị nạn được ùn ùn
khiêng tới. Khiêng cả những tê n phá hoại máu me đầy người bị đồng bọn
bỏ lại bên bờ sông nữa. Đang như th ế thì m ấy ngày vừa rồi lại có tin cô
vợ chưa cưới của anh biến m ất khỏi Xiêm Riệp. Nghe đâu cô ta đã bỏ đi
theo một ai đó tìm đường sang đ ất Thái. Chưa thấy m ặt nhưng bà nghe
người ta bảo cô ấy đẹp lắm và có giọng hát rấ t hay nữa. Khổ! Mấy hôm
nay m ặt mũi anh trông bơ phờ hẳn ra. Ngoài giờ làm việc, anh hay tìm
vào chỗ tĩn h ngồi m ột m ình. N hân viên ít người biết đến tâm sự của anh,
họ chỉ tỏ th ái độ dè dặt và kín h trọng những giây phút nghỉ ngơi hiếm
hoi của đồng chí bác sĩ bệnh viện trưởng. Vậy m à vừa rồi... Bà tự trách
m ình vô ý nói cái chuyện vượt biên, chuyện trốn tù ra với anh. Người
thâm trầm càng hay dễ chạnh lòng. Bà biết, mọi điều uẩn khúc anh chỉ
có th ể trò chuyện với người bạn Việt Nam rấ t th â n th iế t tên là Hoà. Mỗi
lần thấy Hoà gọn gàng trong bộ quân phục màu xanh rêu đi công tác ghé
qua là con m ắt trũng sâu của anh lại ánh lên sự ấm áp. T hế nào hôm ấy

234
hai người cũng thức gần trắng đêm chuyện trò rồi hứng lên đọc cả văn
thơ, thậm chí h át hỏng cho nhau nghe nữa. Anh Hoà thích làm thơ, còn
anh ấy thì lại ưa âm nhạc. Họ lúc thì nói tiếng Việt, khi lại nói tiếng
Khơ-me cứ đan chéo rồi nhằng vào nhau nghe cũng vui lây. Vậy mà non
một th áng nay bà không thấy anh bạn người Việt ấy tới chơi. Bà mong
lắm. Mong cho anh. Có lần anh vui vẻ nói với bà: Chính bộ phận cùa Hoà
đã cứu anh và hơn một trăm nạn nhân khác thoát khỏi lưỡi cuốc của bọn
Pol Pot khi chúng kinh hoàng rút chạy. Qua Chu Thom bà biết Hoà trước
kia là sinh viên Văn khoa Sài Gòn. Và vì những bài thơ phản chiến gì
đó, anh đã từng vào tù ra tội. Rồi khi đất nước anh im hẳn tiếng súng, là
lớp người dầu tiên xung phong vào bộ đội... Cùng cảnh ngộ, thảo nào gặp
nhau một cái là họ thân nhau ngay.

Tuổi già một khi đã thức dễ đâu ngủ lại được. Người y sỹ chắc sẽ còn
đứng mãi như thê nếu không có chuông điện thoại đang réo lên trong
phòng trực ban. Trong đêm thanh vắng, cánh cổng sắt nặng nề đóng lại
phát ra những tiếng rin rít.

Đã lâu lắm Chu Thom chưa có dịp được một m ình dong duổi đường
xa trong trời đêm thê này. Bầu trời không có một ánh sao nhưng gió lại
rấ t nhiều. May sao gió thổi xuôi theo đường, đến đoạn th ả dốc, hai bánh
xe như bay là là m ặt đất. Hàng ngày đã đi lại nhiều trên đoạn đường này
nên anh cứ để mặc cho xe bon theo đà gió. Gió ép cứng vào ngực, gió lùa
rờn rợn vào từng chân tóc, gió thổi vi vút qua tai và bánh xe lăn ràn rạ t
trê n đất pha cát. Thỉnh thoảng anh mới trẹo bánh chúi xuống một cái rồi
lạ i ch ồm lê n p h ổ n g ào ào Có đoạn đường h ằ n g , a n h g h ìm xo xo hơi
chậm lại, ngây ngất h ít một hơi cho căng lồng ngực cái mùi của mạ mới
cấy. Lạy trời! Liệu năm nay có còn đói nữa không?

Sự phấn khích do công việc khẩn cấp tạo nên một phần, phần khác
sao anh say mê cái cảm giác được tiếp xúc toàn thân, được tan ra trong
th iên thiên đến thế! Nguy hiểm lí? Có thể có đấy, nhưng th ế thì đã sao!
Một thách thức táo bạo vừa cụ thể vừa vô cớ nung cháy sự suy nghĩ của
anh. Ngày trước, cái thời còn là sinh viên y khoa học ở Sài Gòn, anh vốn
thích những cuộc di chơi xa mạo hiểm bằng xe đua th ế này. Càng tiến
sâu vào đêm anh càng cảm thấy m ình nhẹ bỗng đi. Mọi cái lởn bởn về
Mươn Thèn, về tình đời, về trăm ngàn nỗi bết hạnh tủi cực cứ được gió
trời xua cho tan dần. Và ngay cả đến cái chết rấ t có thể làm náu m ình ở
phía trước, ở hai bên đường cũng có chẵng hề làm cho anh phải bận tâm.
Đáng ra anh đã chả bao lần nếm trải cái chết rồi là gì. Anh chỉ nghĩ tới
người mẹ đang quằn quại trên giường dẻ và ẩn bên trong là cái tâm

235
trạn g yêu th iên nhiên, yêu cuộc sống tới ngẩn ngơ, tới mụ mị cả lòng.
L át nữa đây, khi đứa bé đã tách ra khỏi th â n th ể mẹ nó như m ột chủ thể
độc lập, sau cái p h át đầu tiên vào đít, nó mở m ắt, sau cái p h át thứ hai,
nó cất tiếng khóc chào đời, th ế là cái kỳ quan vĩ đại n h ấ t của loài người
đã hoàn thành. Chỉ mới nghĩ th ế anh đã thấy lòng dạ nôn nao rồi.

Đêm mùa mưa nơi đây thường có nhiều đom đóm bay. N hiều đến nỗi
dễ lầm tưởng mùa khô đang quay lại với vòm trờ i không còn sũng nước
và lốm đốm những vì sao. Có con bám theo xe m ột đoạn rồi đuối sức rơi
lại đằng sau. “Em giống con đom đóm làm sao! Cứ lúc tắ t lúc sáng để anh
phải dò dẫm suốt đời. Nhưng anh lại thích em cứ làm đom đóm...” Có
phải một lần nào đó tôi đã nói với em câu đó không? Mồ hôi đã rịn ra
hai bên th ái dương, Chu Thom guồng m ạnh chân...

Anh cho xe đi chậm lại. Đã đến đèo Me rồi kia à! N hanh th ật. Bây
giờ là ba giờ, chỉ một tiếng nữa là đến nơi. Anh đã th ấy th ấm m ệt. Trời
mỗi lúc một tối xầm xì. Con đường nhỏ vẫn luồn trong cây rừng hun hút.
Trước m ắt bịt bùng không còn phân rõ mọi vật nữa. T hỉnh thoảng xe lại
nảy bật lên, càng lái đánh cả vào sườn.

Chợt một luồng gió phả vào gáy anh sắc lạnh. Chu Thom th o ắt rùng
mình: Chả lẽ lại dông ư? Lạy P hật.. Một tia chớp ngang câu k h ấn của
anh. C hết rồi! Nó mà mưa xuống bây giờ thì bánh xe chỉ còn cách vùi
trong cát ướt, đi th ế nào được. Anh nhổm hẳn người lên dồn toàn sức
xuống đôi chân. Rẹt! Một cành cây búng vào m á an h thốn tới óc. Không
sao! Anh càng ghì cứng lấy tay lái. Một tia chớp nữa phóng th ẳn g vào
m át anh loá sáng. Và nó cũng làm sáng xanh lẽn cái trá n g trống ớ trươc
m ắt. Đó là trản g Kà Keo. Anh biết rõ ở góc bên trá i trản g , sá t con suối
có nhiều cây rùm-đuôn, là cái hốc đá đập khá rộng và kín đáo. Ngày
trước bọn Pol Pot hay mang người ra đập đầu rồi vứt xác luôn tại đấy.
Ánh chớp cũng giúp anh nhận biết m ột đoạn đường k h á dài, có th ể bươn
nhanh di được. Nhưng chậm m ất rồi: Nhè vào tấm lưng Chu Thom vừa
nhổng lên lấy đà, những giọt nước rấ t to cũng tức thì đập xuống. Đập xối
xả như đã được chuẩn bị kỹ càng từ lâu. Bánh xe lạn qua lạng lại m ấy cái
rồi nghẹn lại. Anh đành xuống dắt bộ. D ắt cũng không được nữa, đ ất đá
cứ nhằm vào vỏ chắp bùn mà nhồi m à nhét. Không cần suy nghĩ, anh đặt
khung xe lên vai vác luôn. Cái xe nặng gấp hai lúc thường. Giẫm nhịp
nhẹp trong đất nhão, bàn chân anh bỗng nặng như chì. Kiểu này chắc
không ổn rồi! Tới sáng bảnh cũng chưa chắc đã tới nơi. Lạy phật! Sao
người ta cứ thích đẻ ngược trong những đêm mưa gió th ế này! Và gió thì
lại chuyển hướng thổi nữa chứ. Anh có cảm giác m ình đang giậm chân

236
tại chỗ một cách hài hước và lô' bịch. Nhưng cũng th ậ t kỳ lạ! Cùng với sự
oán trách vô cớ, cái ý tưởng được một mình vật lộn với đất trời đang nổi
giận lại trỗi dậy trong anh. Những năm sông chui rúc trong trạ i tập
trung nhìn mưa rơi qua vòng rào gai anh thèm cồn cào một phút được ra
tắm m ình, ra vùng vẫy. Vậy mà bây giờ. Nào! Cứ mưa to nữa đi! Cứ trút
nước xuống cho trà n trề vào m ặt vài miệng cái sinh vật bé nhỏ vô cùng
so với mi này đi! ơ i thiên nhiên! Hãy cứ việc gầm gào. Ta có run rẩy
đâu. Ta đang là người tự do nhất trên đời này. Ta đang độc quyền
khoảng không gian cuồng loạn của người đây. Và thích thú như cái thủa
còn tra i trẻ, cái thủa m à đất nước này chưa hề biết th ế nào là bom đạn là
chết chóc, anh ngửa cổ liếm một dòng nước mưa có hương vị thơm ngai
ngái đang dàn xuống m iệng rồi chạy băng băng. Chiếc xe trên vai anh
tho ạt nhiên nhẹ di tựa một cái khung bằng giấy.

Bỗng nhiên Chu Thom dừng phắt lại. Qua ánh chớp, hình như anh
thoáng thấy có những bóng đen di động trên trảng? Không phải! Những
lùm cây biến ảo dưới ánh sáng đó thôi. Một tia chớp nữa giật thấp hơn:
Những vệt đên cóm róm đó đã nhích lẽn được một đoạn về phía hốc đá.
Bóng người rồi! Tim anh đập loạn xạ. Vốn đã nằm chung cùng xác người
cụt dầu, m ất cổ cả một đêm với cái cổ bị cứa nát, anh không tin có loài
quỷ sứ hiện hình, nhưng giữa con đường rừng hoang vắng này, cái đám
hình n h ân ngọ nguậy kia làm cho anh nổi gai người. Câu nói của bà y sĩ
chợt loé lên trong đầu anh. Anh lại thoắt rùng mình. Không! Chắc mình
bị lạnh thôi. Nhưng... Bọn phiến loạn đó chăng? Như người đột nhiên bị
phá đi giấc mơ tuyệt đẹp, anh chau mày dằn m ạnh cái xe xucíng đất. Anh
thấy bỏng rã t nơi cđ, tướng như nếu sờ tay len se thãy mau thỊt bầy
nhầy. Vết ngạnh lá th ố t nốt cứa năm xưa lúc này nạo m ạnh trong ngực
anh. Bọn phiến loạn! Đám tàn quân! Bọn trốn tù! Quân ăn th ịt người!
Những bàn tay Pol Pot, những cái đầu Ảng-ca.. Như có nội lực của sự uất
nghẹn xô đẩy, anh đ ặt chiếc xe sâu vào lề đường. Nhưng khi cầm đến cái
túi đồ mổ, anh thoáng ngần ngừ... Người mẹ có đôi m ắt bạc đi vì th ất
vọng, vì đau đớn đang đau đáu nhìn ra cửa chờ anh... Một người mẹ khác
còn trẻ lắm, bụng bị phanh ra như con gà mới mổ và đứa bé bò lê la trên
gan ruột mẹ nó... Cái hình ảnh mờ chồng đó xốc anh đứng hẳn dậy. Anh
không muôn cái đứa bé anh sắp cho ra đời sớm mai phải kinh hoàng
khóc th é t trê n thi th ể mẹ nó. Chờ cho một ánh chớp nữa loé lên, Chu
Thom th ận trọng bám theo những hình người in mỏng trên nền sáng.

Chu Thom tiến về phía hốc đá không cần gượng nhẹ bước chân.
Thậm chí đạp phải cành khô gẫy gục, anh cũng phớt lờ không cần dừng
lại nghe ngóng. Sấm chớp ầm ào thê này có vừa chạy vừa gọi chúng nó
237
cũng chẳng nghe thấy nữa là... Chỉ khi nào có ánh sáng rực lên anh mới
vội vàng hụp xuống. Bất giác anh thấy vui vui. Mới ngày này nào trên
đoạn đường này, anh bị đuổi chạy khốn khổ khốn nạn, bây giờ anh lại
th àn h người đi đuổi. T hật may! Mới có m ột chút suy nghĩ vẩn vơ mà tí
tẹo nữa anh đâm sầm vào lưng đám người đang th ầm lặng nối nhau đi
hàng dọc nếu ngay lúc đó không có tia sáng của th ầ n lin h chém xuống.
Lạy Phật...

Anh đã nghe tiếng chúng nó thở hổn hển. A nh cũng thở. Đến lúc
này anh mới thấy ớn lạnh sông lưng. Rút cục m ình trầ n th â n trụi không
có một tấc sắt trong tay. Anh tiếc không đem theo m ột con dao mổ. Biết
đâu đấy... Tuy vậy anh vẫn đặt chân êm ái như đi tro n g phòng phẫu
thuật.

Tới trước hốc đá, cái đám đen chụm lại nghe ngóng m ột chút rồi
thàn h thạo như những tên ăn trộm đêm, từng người m ột chui tọt vào cái
m iệng đá đen ngòm. Như có sức hút th ầ n bí, Chu Thom cũng nép người
chui tụ t vào theo.

Cái tối trong hốc đá đặc sệt, trá t quánh vào m ắt. Mặc kệ cho ngoài
kia gió mưa lồng lộn, trong này vẫn yên tĩn h như m ột th ế giói riêng, th ế
giới của người mù. Yên tĩn h tới ù tịt cả tai. Chu Thom ngồi thu m ình giữa
hai lưỡi đá chìa ra b ất ngờ mà anh đã quen thuộc... Một lá t có tiếng nói
nhỏ cất lên, rồi tiếng bẻ cành khô, tiếng hộp gì b ật nấp reng reng... Anh
lách người lết ra khỏi lưỡi đá một chút... Bỗng anh bưng vội lấy m ặt và
th ụ t nhanh người lại: góc hang, một ngọn lửa bất ngờ bùng lên hồng rực.
Nó cung VƠI nhưng bong den in vao vách da méo mó, rung rin h gựi lên
cái bí hiểm của một cõi th án h th ần hay m ột chốn địa ngục. Khi Chu
Thom định th ầ n lại thì tốp người đã hiện ra rõ ràn g trước m ắt anh. Anh
đếm được tấ t cả là năm người. Họ đều ăn vận như những người dân đi
làm ăn bình thường. Kẻ quấn xà-rông, kẻ bận quần... Toàn những màu vải
gắn với đ ất đai lam lũ. Khuôn m ặt người nào cũng ra chiều m ệt mỏi và
chai lì. Anh chú ý tới một người có vuông ngực trầ n vạm vỡ nhưng n ét
m ặt thì tiều tuỵ ngồi hơi lui ra sau mọi người một chút, đang tỉ mẩn lau
khẩu súng ngắn nhỏ xíu bằng chiếc khăn tay trắn g bong. Người này trạc
gần bốn mươi tuổi, cặp m ắt nhìn vừa lạnh lẽo vừa u uẩn sau đôi kính
trắng. Những người khác đang hốì hả hong quần áo, th ỉn h thoảng lại
nhìn lên anh ta với vẻ rụt rè. Anh ta khẽ h ất cằm. Một người tóc tai
dính bết lấy trá n vội vàng xách AK đứng dậy móc tấm dù ở th ắ t lưng ra
che kín cửa hốc, và đứng gác luôn. T hế là anh bác sĩ lọt thỏm vào giữa.

238
Anh phân vân: Có đúng Nó không hay là m ột tổ dân quân đi tuần đêm
gặp trời mưa tới trú chân?

Chợt người đeo kính lên tiếng hỏi bằng cái giọng cô' tỏ ra dịu dàng:

- Em có lạnh lắm không?... Ngồi gần vào lửa cho ấm.

Không nghe tiếng trả lời, Chu Thom tò mò đưa m ắt về phía người
được hỏi. Người này từ đầu vẫn ngồi nhỏ nhoi trong tấm áo vải dày quá
khổ, chắc là của người đeo kính vừa khoác cho, lúc này mới từ từ ngẩng
đầu lên để lộ khuôn m ặt xanh xao và con m ắt mở to run rẩy. Chu Thom
tái m ặt đi! Một chút nữa thì anh buột m iệng kêu lên. Trời! Mươn Then! ...
Sao em lại ở đây? Không! ... Sao tôi lại phải gặp Mươn Then ở đây? Anh
ghì ch ặt răng vào vách đá.

Cô gái uể oải đón từ tay gã đeo kính điếu thuốc ố nhoè nước mưa.
Mới hút được nửa hơi cô đã quẳng vào lửa và con m ắt nhìn theo đó đăm
đăm.

Chu Thom chợt hiểu tấ t cả...

Nghe tin Mươn Then bỏ ra đi, anh chỉ đau buồn nhưng không lấy gì
làm lạ. H àng ngày th iên hạ cũng có người bỏ đi đấy thôi. Nhưng sao cô
không nói với anh m ột câu? Anh đối xử với cô th ế nào mà cô nỡ nhẫn
tâm như thế? Cái hồi anh bị nhốt vào trạ i tập trung của bọn Pol Pot,
không biết sống chết ra sao, Mươn Then đã chờ anh như cô đã chờ suốt
những ngày anh theo học trường y khoa ở Sài Gòn. Những tháng năm cả
đ ấ t nước C a m p u ch ia c h ìm n g ậ p tr o n g âm th a n li g h ê rơn củ a bao c liu y c n
xe đêm m ang xác người đi đổ sông đổ khe, với giọng h á t trời cho và với
tài khéo léo của người mẹ hiền có sạp vải to n h ất chợ Phnôm Pênh, cô đã
được sống k há yên ổn trong đoàn h á t thuộc dinh Bí thư th àn h uỷ Phnôm
P ênh th ay vì phải giơ đầu cho lưỡi cuốc của bọn quỷ mặc đồ đen bổ
xuống.

Khi Chu Thom may m ắn sống sót trở về, cô đã khăn gói đi tìm được
anh và hôn mãi vào vết thẹo mới lên da non còn phập phồng trên cổ
anh. Những cái hôn đầm đìa nước mắt. Lúc ấy Chu Thom tự cho m ình là
người hạn h phúc n h ấ t trê n th ế gian này. Anh được sống, được tự do, được
yêu hơn ngàn lần trước. Niềm vui kéo anh trở lại tuổi sinh viên. Anh lại
chong đèn làm thơ tặng cô mỗi tuần đều đặn, lại viết những bản nhạc
tìn h theo th ể “A-pê” dân gian mà cô ưa thích. Nhưng công việc bộn bề
của một dân tộc còn chưa hoàn hồn sau cơn huỷ diệt đã lại khắc khoải
trong cái đói triền miên, cái nhức nhôi trước những con m ất dòm ngó vằn

239
lên sự thèm k h á t và đểu cáng của các loại kẻ thù, không cho phép anh
được chong đèn đắm đuôi nỗi riêng tư. Một m ản h đ ấ t xa xôi cần có thầy
thuốc. Anh xin đi luôn, v ắ n g anh, Mươn T hen th ỉn h thoảng theo mẹ ra
chợ ngắm nghía các m àu vải cho đỡ buồn. Lâu dần th à n h quen, ngày nào
người ta cũng th ấy cô có m ặt ở chợ. Cái đói m ột bên và cái giầu có phù du
từ đ ất Thái trà n về cũng chê ngự m ột bên. Cô gái chạnh lòng... Cô ít dần
những lần lên th ăm anh. Còn anh? A nh bận quá! M ột buổi nọ, người ta
lại th ấy cô xuất h iện ở phô' nối dẫn xuống bệnh viện với n é t m ặt không
vui. Nửa tiến g sau cô đi ra với vẻ th ấ t th ần , tới đầu phố cô bước nhanh
như người bỏ chạy và từ đó không ai thấy cô trở lại nữa..

Cô gái vẫn không rời m ắt khỏi đống lửa dang lụi tàn. Cái nhìn của
cô như đang trôi lênh đênh đi đâu? Ngọn lửa đã làm cho khuôn m ặt cô
dần dần hồng hào lên. Cô mỉm cười và khẽ ngả đầu lên bờ vai tròn trịa
của gã đeo kính.

- Em lo quá, Pôn Xin! Sao an h nói chỉ cần ra khỏi th à n h phô' là có


trực th ăn g tới đón?

T iếng nói p h át ra b ất ngờ ấy khiến Chu Thom choáng váng. Gã đàn


ông khẽ vỗ vào b àn tay nhỏ n h ắn của cô, nói giọng mơn man:

- Em ngủ m ột chút đi! Tỉnh dậy là mọi việc sẽ tố t đẹp như lời thỉnh
cầu chân th à n h n h ấ t ngay thôi. Lúc nào anh cũng ở bên Mươn Then, sẽ
là th ầ n hộ m ệnh cho Mươn Then.

Cô gái nghe lời từ từ nhắm m ắt lại. Chu Thom bỗng th ấy ruột gan
m ình quặn lên. Trời P hật! Có phái nó dấy khõng, cái th àn g SI quan tinh
báo n h ân dân đã trả i qua đủ các loại trường lớp ở Ha-oai, ở Sài Gòn và
cả ở các nơi m à bỗng dưng h ắn biến m ất ba tháng, đến khi trở về, trong
các câu chuyện th ỉn h th oảng h ắn lại đá vào vài câu ngạn ngữ Tàu? Cái
th ằn g m à chuyên đứng đầu các trò chơi độc ác, các đám đánh lộn với tụi
học sin h n hà nghèo cái hồi nó học trê n anh và Mươn Then hai lớp ở
trường tru n g học Tung-sleng? Cái th ằn g m à có m ột lần anh đã nghe
Mươn Then vừa cười vừa kể lại rằn g suốt những ngày th án g căng thẳng
đợi chờ anh, nó đã không ngớt theo đuổi chinh phục cô? Có phải chính
nó đấy không? Nếu đúng thì tại sao bây giờ em lại ngả đầu dựa vào nó
th ế kia? H ả Mươn Then?... Chao! Những buổi chiều ngồi với nhau bên
biển hồ Tông Lê Sáp, em cũng néo dựa vào tôi th ế này m à khe khẽ hát
khúc “A-pê” ngợi ca cuộc đời sóng gió như truyền thuyết của những người
dân chài. Tôi lại gọi em là con đom đóm hay đổi m àu để cho phải dò dẫm
cả đời... Chao ôi! Thì ra sự vắng m ặt của em bấy lâu nay được giải thích

240
như th ế này đây. Bỏ tấ t cả chạy theo một th ằn g sĩ quan tàn quân, một
thằng tội phạm chiến tran h , m ột tê n ác ôn chuyên ký những chỉ th ị giết
người... Chua chát chưa! Những ngón tay của Chu Thom bấu chặt bào
nhau nhớp nháp mồ hôi. Lạy Trời Phật! (Anh trở nên có thói quen hay
buột m iệng khấn trời p hật kể từ khi cái đầu anh một chút nữa thì rời
khỏi mình). Giá mà m ình có một cây súng? Cái thẹo nơi cổ giật giật
khiến anh sa sầm m ặt mày.

Cô gái lại mở m ắt ra, nhích người ngồi th ẳn g dậy:

- Anh bảo liệu có th o át không? Ôi! Sao m à đi đâu cũng toàn đụng
họ! Em không muốn ngồi tù đâu.

- Thôi đi Mươn Then! Em đừng gở mồm. Em tín h muôn ngồi tù thực


sao mà cứ một giọng trêu trời ấy nói m ãi thế?

Cô gái cong đôi môi lên tỏ vẻ bướng bỉnh:

- Em không muôn trêu trời trêu đất gì cả nhưng... Nhưng biết đâu họ
đã chẳng vòng trong vòng ngoài đông nghịt ở ngoài trản g rồi?

Có vẻ run sự thực sự trước chính câu nói của m ình. Cô gái càng co
rúc người lại. Gã đeo kính đột nhiên gằn giọng:

- Thôi chứ! Ngồi lì cả đây m ãi sao? Các anh chịu khó tản bớt ra
ngoài m à lo cánh gác đi.

H ấn quay lại định nói với cô gái một câu gắt gỏng gì đó nữa nhưng
lliấ y cô đ ả 1111 lặ ỉig Ìiliắ m m ắ t, b è n b u ôn g xu ôi.

- Ngủ đi! Cô' ngủ đi! Chúc em mơ được những giấc mơ vàng bạc ở
bên kia biên giới. T ạnh mưa ]à chúng m ình sẽ đi ngay khỏi cái nơi đã
gây cho em nhiều suy nghĩ sợ hãi này.

Bác sĩ Chu Thom bỗng sực tỉnh. Tạnh mưa là đi ngay khỏi nơi này
à? Không! Lạy Phật! Không dễ dàng đến nỗi ấy đâu Pôn Xin ạ! Các
người đã cứa vào cổ ta m ột lần nhưng chưa đứt, nay định sang bên kia rủ
thêm bè thêm cánh trở về cứa cổ ta m ột lần nữa cho đứt h ẳn ư? Không...
Anh nhổ mấy vụn đá trong m iệng ra.

Với tấ t cả sự th ậ n trọng và khéo léo vốn có của một bác sĩ phẫu


thuật, lợi dụng khoản khắc lộn xộn của bọn người lạ m ặt tả n ra tìm địa
th ế ẩn nấp, Chu Thom dính s á t người vào vách đá lẻn ra ngoài...

241
Tới bìa rừng, anh chỉ kịp vơ quàng lấy túi đồ mổ rồi co chân chạy
luôn. Phải tới kịp Tà Sơn trước khi trời tạnh... Quân ăn th ịt trẻ con ấy
không th ể th o át vô lý như vậy được. P hải tới Tà Sơn trước khi trời sáng...
Người sản phụ đang quằn quại trê n giường... Cả hai sự khẩn cấp dồn vào
anh m ột lúc. Anh quăng m ạnh đôi dép nhựa vào rừng. Nhưng... Anh
thoáng ngần ngừ. Còn cách nào khác được nữa, gấp lắm rồi! Thôi thì
Mươn Then coi như đã chết rồi! C hết th ậ t sự trong anh rồi! Ôi! Giá mà
hồi nãy anh được nói với cô một câu, được ra hiệu cho cô m ột chút thôi...

Chạy được mấy bước, một cái rễ cây bò nổi lên trê n m ặt đường quật
sấp ngực anh xuống đất, túi đồ mổ văng vào bụi... Kiểu này không kịp rồi!
Đột nhiên anh chạy lộn trở lại. Đâu đây có lối tắ t gần được nửa đường,
chỉ cần gắng sức lội qua được cái bưng vừa rộng vừa sâu. Con đường tắ t
này anh nhớ rõ lắm. Lần ấy chính an h đã bị chúng rượt đuổi khi anh
quyết định chạy trốn. Anh chạy trố n chỉ với lý do an h là bác sĩ! Tới giữa
bưng, m ột con chó to tướng ngoạm vào được vai anh... Cả đến con chó của
chúng cũng không ưa loại người có chữ trong đầu.

Tới chân dốc, anh dừng lại đắn đo m ột chút rồi ngoặt người sang
trá i rừng. Rừng đêm vội vàng nuốt chửng lấy con người nhỏ bé. Mưa vẫn
ào ào đổ xuống để phô phang cái sức m ạnh hoang dã ngàn đời của mình.
Trong nhà xã đội trưởng Tà Sơn, mặc dù Hoà đã cố ghìm nhưng cái tiếng
nói th an h khàn khàn như tiếng gái giả tra i của anh vẫn cứ rung lên.

- Khổ lắm Săm Đi ạ! Tôi đã nói chỉ có m ấy th ằn g ác ôn vượt trại


cùng dăm ba khẩu súng quèn, để m ột m ình tôi đi với anh em là được rồi,
anh cứ ớ nhà, chị ấy đang... Đang - T hinh thoáng vấp phải m ột chư khó,
anh thường dừng lại lục lọi trí nhớ rấ t vất vả - Đang... Hả? Đang trở dạ
đẻ.

Săm Đi vò đầu bắt tai khiến cho những ngọn tóc xoăn của anh ngóc
cả dậy như những con rắn đen. Săm Đi nhìn cặp môi xám ngoét của Hoà
ái ngại:

- Biết thế, nhưng... Thôi được! Tôi ở n h à m ột lần vậy. Mà không!


Không đâu - Anh nhăn nhó như chính m ình đang đau đẻ - Các an h đến
hiệp đồng công tác, th ằn g xã dội tôi sao có th ể ở n h à vì m ột mụ vợ sắp
đẻ được. Mà anh... Anh lại vừa dứt cơn sốt rét! Tôi đi thôi.

Hoà gật gù cái đầu húi cua nhòn nhọn như đầu con rắ n hổ m ang sấn
tới trước m ặt Săm Đi.

242
Nhưng m à này! Anh có biết thê nào là đẻ ngược không hả? Cái ngữ
đàn ông ào ào như anh làm sao mà biết được. Đẻ ngược là đẻ... đẻ không
xuôi, là... Là mọi thứ cứ ngược lung tùn cả lên hiểu không? Trường hợp
này rấ t có thể... Mà thôi! Mải tran h cãi y học ở đây, chúng nó lại thót qua
biên giới bầy giờ. Quân lính của anh vẫn rải đều trên đường đấy chứ? Cái
thằng sĩ quan tìn h báo này ma m ãnh lắm chứ khống vừa đâu.

- Đồng chí HoàL. Tôi... Tôi...

- ơ hay cái anh này! Vào với chị ấy đi! Chỉ m ột lát nữa là bác sĩ tới
thôi. Không hiểu giông bão th ế này...

Săm Đi há m iệng định nói thì bằng cả hai tay, Hoà ấn m ạnh vào
vai bạn cho ngồi hẳn xuông ghế.

Vừa lúc đó Chu Thom ập vào, toàn th ân lạnh băng như một cây
nước đá. Anh gần như ngã dúi vào hai cánh tay dài nghêu của anh đội
trưởng công tác.

- B iết ngay m à - Hoà ghì chặt lấy người bạn bác sĩ, nói cứ xoe xoé -
Tôi đoán n h ấ t định là anh. Và đã là Chu Thom thì bao giờ cũng biết lộ
m ặt đúng lúc khi người ta cần. Hoan hô! Giông bão th ấ t bại rồi! Thôi tôi
phải đi đây. Anh Chu Thom ở lại, chúc cho mẹ tròn con vuông nhé!

Chu Thom xua xua tay yếu ớt, tiếng nói anh p hát ra thều thào:

- Đừng đi... Chúng nó năm thằng... Thằng đeo kính là... T ất cả ở hốc
đá trản g Kà Keo... N hanh lên!... Trời tạnh là không còn ai đâu. Trời còn
mưa không? - Anh hỏi ngẩn ngơ rồi chắp hai tay lên ngực - Tin tôi đi...
Tôi đã cùng ngồi sưởi lửa với chúng nó... Hoà nhảy phắt người lên:

- T ất cả ở hốic đá Kà Keo? Có đúng th ế không? Hoàn toàn chính xác


chứ? T hế th ì chết mẹ bọn dã thú rồi Săm Đi ơi! Đừng đòi bỏ vợ ở nhà đẻ
m ột m ình nữa nhé! Cám ơn Chu Thom, xong việc hãy chờ tôi cùng về
đấy. - Cặp m ất m ột mí của Hoà loé lên vẻ ran h m ãnh - Lâu lắm không
gặp nhau. Tôi có bài thơ đang ngoáy dở, mê li ra phết. Mùa hè năm 80 -
Rừng khô như tờ bánh tráng. Sáng về tôi đọc cho m à nghe. Tạm biệt.

- Anh Hoà! Trong đám ấy có... - Không nói h ết câu, Chu Thom mím
chặt môi ngồi xuống.

Nhìn theo cái bóng của Hoà chìm nghỉm trong đêm tôi ướt át, xã đội
trưởng Săm Đi ngồi không yên. Ngó trước ngó sau một chút, anh cũng

243
xách súng chạy ra theo. Ra tới cửa anh lại chạy vội vào chụp tay Chu
Thom nói hối hả:

- Bác sĩ... Bác sĩ giúp tôi! Mọi sự trông nhờ cả ở cái bụng của bác sĩ.
Vợ tôi nó mong con mười năm rồi... Nó đâu còn trẻ nữa.. Nếu nó hỏi, bác
sĩ cứ bảo tôi đang đun nước nóng ở sau nhà. Tôi muốn cho nó yên cái
bụng m à đẻ. Cám ơn... Cám ơa..

Anh nhìn nhanh vào cửa buồng vợ m ột cái rồi chạy ào đi.

Còn một m ình, Chu Thom khép kín cửa lại rồi xách túi thuốc tới cửa
phòng người đẻ. Chân tay anh rã rời, m ắt nhìn mọi vật cứ dính nhằng
vào nhau. M ảng da ở cái thẹo trên cổ anh vẫn cứ phập phồng. Phập
phồng như sắp sửa rách bung ra. Đỡ tô chè th ố t nốt của người mẹ an h xã
dội trưởng bưng từ bếp lên, mấy ngón tay an h cứ quăn quít lại cầm
không vững nữa. Thoáng thấy con m ắt già nua của người mẹ đang ngước
lên anh lo lắng, Chu Thom cố gượng m ột nụ cười làm méo xệch khuôn
m ặt nhợt nhạt. Anh nói bà mẹ đun giùm m ột siêu nước nóng...

Khi những người lính trở về cũng là lúc cánh cửa của phòng đẻ được
mở ra. Nắng sớm rọi vào khuôn m ặt người mẹ đang nhắm m ắt thiêm
thiếp những tia sáng tin h khiết. Trên tay bà nó, đưa bé có cái mũi xinh
xinh đáng ngủ êm đềm.

Săm Đi đứng sững ở cửa phòng với bàn tay quấn băng xanh. T rên gò
má nhem nhuốc bùn đất của anh, người ta thấy có m ột giọt nước m ắt to
tướng lăn ra. Con m ắt anh nhoà đi nhưng cái m iệng anh lại cười. Cười
mêu máo.

N hà ngoài, đội trưởng Hoà sau khi ngửa cổ tu sạch m ột gáo nước
mưa, anh đang xoa xoa tay vào ngực với vẻ cực kỳ khoan khoái. Anh đội
trưởng tín h tìn h vô tư không để ý thấy an h bạn th ầ y thuốc đã tựa lưng
đứng bên cửa tự lúc nào và đang mở to đôi m ắt vừa th ẫ n thờ vừa dò hỏi
nhìn mình. Anh quảng vù đôi giầy vải há mõm dính b ết đất vào cái vũng
nước đầu hè rồi mấy cái răng vổ nơi cửa m iệng an h b ắ t đầu chìa ra nom
th ậ t nhộn.

- Muộn tí xíu nữa thì hỏng ăn Chu Thom ạ! Bọn m ình chưa đến nơi,
trời đã tạnh m ất rồi.

Chu Thom im lặng, anh nhướng m ắt lên. “Cái lúc ấy tôi biết. Khi đó
tôi bắt đầu ấn vết dao đầu tiên. Thấy mưa thôi gõ trê n m ái tôn, tay tôi
sượng lại tưởng rằng không tài nào mổ được nữa”.

244
- Khi chúng tôi xộc vào, hộc đá vắng tanh - Hoà nói sôi nổi - Đông
củi chúng nó sưởi chì còn là m ột vũng nước lềnh bềnh tro than. Du học ở
Tàu về có khác, thâm nho đến tận nước cờ cùng. Nhưng thằng Tàu lại
không dạy nó cách thức ngoại lệ khi xoá dấu trên cát ướt nên anh em
mình cứ việc rà đèn pin sát đất mà bám theo. Tang tảng sáng, khi con
chim k à keo đầu tiên b ắt đầu cất tiếng hót... Bậy! Mình lại tả cảnh văn
thở nữa rồi! - Hoà bật cười ngượng nghịu - Tảng sáng người đi đầu thấy
chúng dúm vào nhau ở bìa rừng như gà mắc mưa. Trước m ặt chúng là
trản g trông. Bên kia trản g là đất Thái. T hật giống cái tình cảnh đi săn
vịt giời, chỉ động khẽ một cái là mẹ con nó vù mất! Đúng lúc đó, trời đất!
Săm Đi hàng ngày trông hiền khô mà lúc ấy coi đầu óc sáng láng dữ, ông
đòi dẫn một tổ vòng phải, luồn sát đất sang đón lõng ở bìa trảng bên kia.
Hoan hô!... T h ế là bên này m ình cứ ung dung từng sải một sáp tới... Khi
tới sát lưng, nghe chúng nói chuyện lào phào, m ình rủa thầm : Đồ ngu!
Mang nhau đến được đây rồi mà lại còn chuyện với trò. Cứ chạy tuốt luôn
có phải chúng tao đành chịu không. Chúng nó vẫn nói. Mà ủa! Sao lại có
cả tiếng con gái nữa Chu Thom? Mình nghe rõ rành rành tiếng cô ta nói:
“Anh không được nói năng với tôi như thế. Cho đến bây gìơ anh vẫn chưa
là gì với tôi hết. Tôi chán cuộc sống nhạt nhẽo đói nghèo ở đây thì tôi đi,
tự ý đi chứ không phải tôi đi theo anh...” Đại khái là như thế. Nói năng
nghe cũng được đấy chứ. Thấy hay hay, m ình bò xích lại chút nữa. Một
giọng đàn ông cất lên rấ t khẽ nhưng nghe tinh như thấy có kim khí va
chau ở bên trong. Đó! Lại văn chương này nọ nữa rồi. Y nói: “Đàn bà trở
mặt!... Tôi không cần biết vì sao cô đi và đi theo kiểu gì, nhưng ở đây,
n h ất là lúc này, xin cô nghe tôi một chút, nếu khôngr thì phiền lắm! Tóm
lại là cô phải tiếp tực đi”. Rồi m ình lại nghe hắn năn nỉ: “Nào, đứng dậy
đi em. Sang đến bên kia em có bướng bỉnh đến đâu anh cũng xin chiều..”.
Và cái khỉ cái cò gì nữa nghe m ệt lắm. Hà! Té ra chúng còn cụm lại vi ba
cái vụ mèo chuột này đây. Chắc một cô tiểu thư nhẹ dạ nào đó định đi
tìm thiên đường nhưng đến điểm chót cuối cùng lại ngập ngừng. Kỳ cục
thật! Cô ta còn khóc th ú t th ít nữa chứ.

Chu Thom nhắm nghiền m ắt lại như bị chói nắng.

Hoà sửng sốt:

- Chết! Anh đuối lấm phải không? Đường đất giông bão lại mổ suốt
đêm như th ế mà tôi cứ th ia lia mãi... Thôi, anh đi nằm nghỉ một chút đi!

Chu Thom mở bừng m ất ra, cái nhìn như thầm nói: “Không! Anh kể
tiếp đi!... Cứ kể tiếp đi! Tôi đang nghe đây. Cô ấy... Khóc phải không?

245
Tảng sáng... Để tôi nhớ xem nào? Có lẽ lúc ấy th ằn g bé đã lọt ra khỏi
lòng mẹ nó. Nó khóc. Khóc mới khiếp chứ!”.

- Thôi được rồi - Hoà quăng nô't cái mũ dúm dó xuống đất - Tron
khi chờ Săm Đi ra, mà ông này mới ghê chứ, công việc vừa xong là chạy
như ma đuổi th ẳn g một mạch về nhà, tôi kể nốt cho an h nghe. Đáng lẽ
mọi việc xảy ra sẽ rấ t êm thấm nếu anh chàng nằm sau tôi kềm được
tiếng nhểu mũi của mình. Lính trán g bây giờ th ế đấy: Mới gội mưa có
một đêm mà đã... đã... cái gì? Tiếng Campuchia gọi là gì? À, cảm cúm om
sòm. T hế là chúng bắn. Bắn như kẻ bị nấc cụt. Vừa bắn vừa lùi ra trảng.
Để bắt sống, anh em m ình chỉ nố súng vào sương. Lại nữa!... Cái tật!
Nôm na là anh em mình... nòng bắn chỉ thiên. Trong khói mù mờ, tôi
thoáng th ấy cô gái bưng chặt lấy hai tay chạy xà quầy xà quầy. Thằng
đàn ông đeo kính, đúng là có deo kính anh ạ! - Vì có lúc kính tuột xuông,
nó lại quáng quàng n h ặt lấy đeo lên m ắt - Vội xông tới bế xốc lấy cô ta
định vác chạy, nhưng cô ấy cứ nhoài xuống đất, m iệng th ì kêu th é t lên
đòi chết ngay tại đây cho đỡ khổ. Vừa khi đó cánh tập hậu của Săm Đi
bất th ần đánh tới. Bọn này có một nhúm nhưng chông trả mới ghê chứ:
Kêu th ế nào cũng n h ấ t định không hàng. Bỗng th ằn g đeo kính khẽ giật
người lên rồi nhủn lưng xuống ôm chặt lấy bắp đùi. Viên đạn này là của
Săm Đi. Đó là ông ấy còn đang rối trí vì chuyện vợ con chứ nếu không
thì th ằng đeo kính có khi chỉ bị bứt di m ột cái tai. Trong giây phút
hoảng loạn, nó chĩa luôn súng về phía cô gái đang co rú t người lại như
lên cơn động kinh. Thú thực Chu Thom ạ! Tôi chưa bao giờ nghe thấy
m ột giọng nói vừa cay đời vừa bi thảm đến thế: “Tôi không muôn giết em
nhưng tổi niuỏ'11 cấn chết cái giọng h á t của em. Nó đã làm tôi khôn khổ
khốn nạn!... Thà tôi phải chết trăm lần còn hơn sống m à nhìn em h á t cho
thằng bác sĩ và dồng bọn của nó nghe... Đừng oán tôi...” Chát! Chát! Cùng
với p h át súng của nó, tôi cũng lẫy cò. Nó bị thêm m ột viên đạn vào tay,
vùng chạy được một đoạn thì người khuỵu xuống. Nhưng cô gái cũng reo
lên một tiếng đau đớn, máu ở cánh tay rỏ cả xuống tấm xà rông màu
vàng. Và lạ chưa! Đến lúc ấy tôi vẫn nghe tiến g th ằn g đàn ông đeo kính
gằn lên: “Con quỷ Thét-sô-la (Loài thuỷ quái dưới nước hay quyến rũ tàu
bè qua lại) kia! Tao nguyền rủa mày. Nếu tao không quay lại chợ tìm
mày thì...”.

M ình tháo vội cuộn băng nhảy tới chỗ cô gái. Nhưng nhìn quanh
quất th ấy không có một vật gì gọi là cưng cứng m ột tí để buộc ga-rô cả.
Trường hợp dạn vào động m ạnh tay như th ế dứt khoải phải ga-rô mới
cầm được máu phải không bác sĩ? (Chu Thom nhúc nhắc cái đầu có mớ
tóc lượn sóng rấ t đẹp không ra gật, không ra lắc. Nếu lúc khác th ì anh
246
bạn người Việt của anh đã lại nói: “Sao m ắt ông toàn thấy sương khói
th ế cả th ế này?” rồi). Như tôi đã nói, xung quanh toàn là cỏ le non búng
cả, thử ngắt một ngọn m ập nhất, chưa kịp băng nó đã nát nhoét ra tay.
Chạy vào bìa rừng kiếm cây thì xa, đạn lại bắn rát. Tôi quờ tay lên túi
tìm cây viết Bic. Không thấy chạy nhảy rơi đâu rồi? ... Nhưng tôi lại đụng
phải một vật gì cồm cộm? Chà! Tuyệt quá! - Nói đùa, cái thói rởm sinh
thơ phú của tôi cũng có lúc được việc ra trò - tôi rút tờ giấy gai có chép
bài thơ mới sáng tác ra gấp th ậ t nhỏ như dám con nít thường gẫp giấy
làm đạn bắn dàn thun rồi đặt nhẹ cái Mùa hè năm 80 đó lên vết thương
cô gái và quấn ch ặt lại. Cô ta cũng có kêu rên chút đỉnh theo kiểu con
nhà giàu được cưng chiều, thậm chí còn đẩy tôi ra nữa mới sốt ruột chứ.
Nhưng rồi cuối cùng cô nàng cũng ngoan ngoãn ngồi yên, lại còn táy máy
đưa tay sờ vào cái bài thơ đang gác lên vết thương, có vẻ lạ lùng lắm.

Khi tôi ngẩng lên thì cả tốp tàn quân đã bị trói gọn như đống bao bì
rách ở dưới đất. T hằng đeo kính lúc này không còn kính cứ gục mãi đầu
xuống làm như cả trậ n mưa đêm qua chỉ trú t vào có một m ình nó... T hế là
đi tong m ất phân nửa bài thơ có câu mở đầu nghĩ tới sưng óc mới ra:
Rừng khô như tiếng mõ trâu - ấy bậy! Đêm khô như tiếng mõ trâu - Rừng
khô như tờ bánh trán g - Mùa hè năm 80... Thôi! Tôi vào với thằng nhỏ
một chút đây. Cái tật! Không sửa được, vợ thì chưa có nhưng m ình cũng
có kha k há bạn gái, cô nào cũng kêu: “Nói chung anh cũng... được dấy
nhưng phải cái... cái... Tiếng của ông gọi là gì nhỉ? Đúng rồi! Phải cái
huyên thuyên quá! Cứ gọi là ế vợ cả đời”. Chà! Săm Đi mừng phải biết
nhé! Coi chừng ông ấy sướng quá lại la hú chạy cùng rừng bây giờ. À, mà
khỉ quá! M inh chưa biết co áy ten là gì, ở dâu nưa mơi chet chư.

Chu Thom m ấp máy môi định nói một cái gì đó song anh chỉ lặng lẽ
đến bên Hoà nắm lấy cánh tay bạn xiết chặt. Hoà nhoẻn cười hồn nhiên,
anh nghĩ rằng người bạn ít nói đang thắm th iế t biểu lộ sự khen ngợi
trước năng khiếu y tế đặc biệt của mình. N ăng khiếu quá đi chứ, băng ga-
rô bằng thơ thì lịch sử chiến trận của loài người đã dễ có mấy ai. Anh
bật cười khà khà rồi đi vào.

Chu Thom từ từ đi ra cửa. Nắng chiếu qua những tán lá sô-do non tơ
phả vào cặp m ắt trũng sâu của anh một màu xanh dịu. Sau đêm giông
bão, bầu trời bao giờ cũng có cái vẻ yên ả kỳ lạ th ế này. Anh cứ đứng thế
ngửa m ặt nhìn lên như người tắm nắng.

Và giờ đây, sau nửa năm, Mươn Then đang ở trước m ặt anh dưới
ánh đèn rực rỡ trong đêm hội được mùa của bà con toàn xã. Một Mươn

247
Then mà anh quen từng hơi tóc, từng độ ấm ngọt đôi môi, từng cái chau
mày nũng nịu và quen đến cả những sợi tóc tơ m àu hung hung sau gáy...
T rên sân khấu nom cô hơi gầy và già đi. Nhưng như th ế lại càng đẹp,
đẹp đến xa lạ, đẹp đến huyền ảo xa xôi của những giấc mơ đang bồng
bềnh trong anh.

Hình như ban đầu người ta có giới thiệu đây là buổi biểu diễn của
đội văn nghệ thuộc trạ i phục hồi n h ân phẩm nào đó, và tới giữa chừng
cái loa trên cành cao lại đọc lên m ột cá tên Mọ Len hay Crươm Đen gì
nữa mà vì nhức đầu quá anh không ngó m àng tới. Nửa năm... Gần hai
trăm ngày qua anh đã có đôi bận đi tìm cô nhưng người ta không th ể chỉ
đích xác cho anh biết bây giờ cô đang ở đâu. T hế rồi công việc lại cuốn
anh đi. Lạy Phật! Có d ân tộc nào bị hàn h hạ đến nỗi nghề thầy thuốc
bỗng trở th àn h th ầ n th á n h như dân tộc này không!

Sau một tràn g vỗ tay dai dẳng, không từ chối được, cô gái phải trở
ra sân khấu h á t lại lần thứ hai. Ngay từ đầu giọng h á t của cô đã buông
ra đằm thắm như một lời tâm tình. Con m ắt có cái đuôi dài tưởng chừng
dõi nhìn vào trong chính tâm hồn cô, dẫn dắt người nghe tới những
khung cảnh mới lạ, những điều thầm kín m à chỉ m ột m ình cô biết, m ình
cô giữ gìn...

Mùa hè năm 80

Đêm khô như tiến g mõ trâu

Rừng khô như tờ bánh trán g


Trời không một tia gió thoảng

Đau đáu nhìn vào lòng thung

B ắt gặp tiếng dao đêm

Của bầy chim mời nhau tả n g đá...

Dàn nhạc khuất bóng ở đâu, lúc hoà vào nghe có tiếng gió tiếng
chim, lúc tách ra nghe gầm gào th ắn g trận , lúc lại thoải xuống dể lấy đà
cuộn sóng cuộn bão, động rừng biển nâng bổng tiếng h á t của cô lên cao...
Cao mãi. Nhưng Chu Thom thấy lòng m ình chùng xuống, mềm ra.. Bài
thơ của anh ấy! Anh run người lên trong m ột cảm xúc ùa tới choáng
ngợp
Đêm, cái nóng làm mềm m ặt đá

248
Con m ắt mưng lên đỏ máu nhìn trời

Bỗng hiện về một dòng sông xa xôi

H iện về một lu nước hoa cau rơi lấm chấm...

H át tới đây giọng cô lắng đi... Nhỏ dầa.. Rồi dừng hẳn lại. Khẽ
khàng chắp hai tay lên ngực, cô nhìn về một điểm thẳm xa của trời đêm
mà có lẽ lúc ấy gió vẫn m ài m iệt dưa tới cái vị thơm nồng của cánh đồng
sau vụ gặt, cô nói như th ì thầm với chính mình:

- “Thưa bà con, thưa các anh các chị!... Bài thơ mà tôi dang h át là
của một người lính... Người ấy đã cứu tôi. Nhờ người ấy một phần mà đêm
nay tôi được h á t trước bà con, trước các bạn, trước các em... Người lính đó
tôi không biết tên, không nhớ m ặt, hiện nay ở đâu. Tôi hát bài này trước
h ết xin tặn g người chiến sĩ ấy, sau nữa hát tặng bà con...”.

Một sự im lặng bao trùm lên tấ t cả mọi người. Tiếng h á t cô gái lại
trả i ra. Cô h á t mà vẫn như đang nói tiếp những tâm sự của mình.

... Mùa hè năm 80

v ẫ n nằm ngoài ký ức

Chúng tôi nằm mê mùa mưa

Thấy sấm nổ ran trong từng thớ th ịt

Ngày phục giặc nằm im trên đất


Gió thổi lá bay như những tờ lịch rơi

Phủ vàng áo lính...

Những làn sóng âm thanh và những làn sóng lụa toả lan xung
quanh cô gái, tưởng như cô dang đứng trước m ặt biển cuộn sóng. Một
lượng sóng lớn n h ấ t đã trào vào lòng Chu Thom. Anh ngồi đó, không
nghe th ấy tiếng h á t trê n kia, chỉ nghe âm diệu bài thơ ngân vang trong
đầu mình.

Con đom đóm kia có vẻ đã m ệt mỏi, đang quay trở về, nó lại vụt
sáng vụt tắ t khi bay qua luồng sáng đèn. Khi cô gái hát tới đoạn cuối:

... Mùa năm 80

Rồi sẽ qua mau

249
Mùa hè năm 80

Sẽ không quên vội

Mùa hè năm 80

Cho đồng đội thêm thương đồng đội

Và cho tôi hiểu th êm rõ về tôi.

Thì nó chấp chới bay xuống khoảng không lộng gió trê n đầu mọi
người và không th ấy nó bay trở lại nữa. Cô gái dứt tiếng h á t nhưng ánh
m ắt vẫn bay tới xa xăm như cố đẩy đưa tiếng h á t của m ình tới những
điểm chốt heo h ú t m ịt m ùng m à cô gái nghĩ chắc sẽ có anh.

Như mơ ngủ, Chu Thom đứng dậy định len mọi người đi lên nhưng
bàn tay dịu dàng của bà y sĩ đã kéo anh ngồi trở lại. N hìn vào m ắt bà,
anh th ấy rơm rớm nước...

Đã lâu lắm rồi bác sĩ Chu Thom mới lại thấy ngực m ình ngột ngạt.
Anh th ẫ n thờ đưa tay nới khuy áo... Không! Mươn T hen ơi! Bài thơ ấy
chưa h ết đâu. P hần còn lại, đêm qua người ta đã tìm th ấy trong túi áo
khô máu của anh... A nh ấy không còn dịp nghe em h á t lên bài thơ của
m ình nữa!... Lạc tro n g rừng lâu quá, vết thương của an h bị nhiễm trùng
cấp tính... Nhưng bạn bè của anh ấy sẽ nghe em h á t và sẽ hiểu em. Và cả
anh nữa.. Mươn Then!
Tháng 6 năm 1981
C HU LAI

250
CÂI CH ET CÜA BUN THON

LÈ HUY KHANH

T rân dânh dâ kéo dài gân hai gicf. Bon dich chô'ng cif ra t ngoan cô'.
Nhifng cuôï cùng quân câch mang dà lot diiçic vào cû diëm cüa dich. Tù
binh b ât diiOc khâ nhieu. On-kun cho trôi tùng tên m ot và dong ngay vê
phia sau. Anh tiep tue dân dai dôi thoc sâu vào khu trung tâm . On-kun
và dong dôi chay bàng bâng trê n nhüng dong gach vüa n â t k h ét let.
Không côn thay bông dâng mot tên dich nào câ, On-kun hcfi ngac nhiên:
nhiing anh vân cho dôi hinh vüçft lên bao vây cân n h à cûa bon chï huy
nâm chinh giüa hai ciî diëm. Càn nhà này cô mot bô tüông dat bao quanh
cao dën ngang cüa so. Bông mot loat dan dai lien xôi xâ quét m ot vêt dài,
làm cho dôi h inh cüa dai dôi On-kun phâi chüng lai. On-kun vôi và nép
m înh vào mot m âng tüông nham nhtf và diia m ât quan sât: câc chien sï
cüa anh dâ nam câ xuô'ng sau nhüng vât che dS. Lai m ot loat dan dai lien
nüa quét sat trên dàu anh. Dan gàm xuô’ng triidc m ât anh chiu chiu, bui
mù. On-kun dâ phât hiên diiçrc luông dan cüa dich bân ra tù khe hd cüa
m ot biîc tiferng do nghiêng, mot dâu côn ghéch lên m ot biic tiioing khâc,
trông van vât nhii mai nhà. Anh khoât tay ra hiêu cho dong dôi cüa m înh
ticp côn dich. Anh cüng lçii dung mot mâng tLfông du triïiîc m al dé tiôp
tue triiôn lên. Dan dich vân gàm tfing loat ra t ngân, chüng bân khâ
chinh xâc. C6 the vi dich sâp het dan, nên chüng phâi bân dè sên.
Nhiing nô cüng chüng tô rân g bon này sê chông cii dê'n cùng, và dâ cô
kinh nghiêm tac chien. Vî bi che khuat không nhin thay tui dich or trong
nhiing On-kun dif doân; cô côn nhièu lâm cüng chi vài ba tên. Anh cho bô
dôi khép chat thêm vông vây và goi dich ra hàng. On-kun bân m ot loat
AK vào bê canh khung cüa so cô chân song sat dâ sum xuong, cong queo.
Süng dich im b ât mot lât. Anh goi vong vào:

- Bon quan thay Trung Quôc dâ cuon goi. Pol Pot — Ieng Sary dâ
thâo chay roi. Hây tror vê vüi nhân dân!

Mot loat dai lien tù trong khe tiiông bân vut ra dê’ trâ lôi anh. On-
kun bînh tîn h và thâm nghï: bon này dinh lofi dung dia hinh de co thü
dây! Bô dôi vân tiep tue âp sât mue tiêu. Dich bân lien tiep tùng châp dü
251
dội hơn. On-kun h ạ lệnh cho một chiến sĩ đang trườn bên cạnh an h ném
hai trá i lựu đạn vào chân tường, ngay dưới cái khuôn cửa sổ bẹp dúm để
uy hiếp địch, tạo thời cơ cho từng mũi có th ể p h át triể n thuận lợi. Súng
địch bỗng im bặt. Chúng đã bị tiêu diệt, hay chúng giả vờ h ế t đạn để chờ
cho ta đến th ậ t gần rồi bất ngờ phản công? Dù sao chăng nữa, On-kun
vẫn phải th ận trọng cho bộ đội triệ t để lợi dụng các m ảng tường tiến lên.
Vừa trườn đi, On-kun vừa kiên trì gọi:

- Ngoan cố là tự giết m ình, ra hàng đi. M ặt trậ n và n h ân dân sẽ cho


về sống với gia đình!

Tiếng anh vừa dứt thì một loạt đạn đại liên lại nổ rền. Nhưng lần
này đạn vãi bừa bãi và bay rấ t cao, chứng tỏ bọn chúng dã hoảng hốt.
Điều kiện đã cho phép đại đội anh tiêu diệt cụm hoả lực cuối cùng này
của địch một cách dễ dàng. Chỉ cần hai trá i B.40 th ì căn nhà xiêu vẹo dó
sẽ bốc cháy và sụp đổ hoàn toàn. Bọn địch sẽ không còn đường nào chạy
tho át nữa. Mặc dù cơn giận dữ đang sôi sục trong lòng, nhưng On-kun
vẫn cố nén lại. Anh đưa tay lên làm loa định gọi tiếp th ì có ba tên lính
Khơ-me Đỏ mặc quần áo đen xịt, đeo túi, xách AK, từ tro n g khe hở của
bức tường đổ lao ra. Cả ba tên đều nhớn nhác và chạy thục m ạng về phía
căn nhà chỉ huy. Vì h ết dạn chúng phải vứt bỏ cả súng đại liên. On-kun
cùng đồng dội lao lên đuổi theo bọn chúng. Cả trậ n địa vang dậy tiếng
hô:

- Đứng lại! Giơ tay lên!

Và từng loạt đạn AK nổ giòn bao lấy ba tê n địch để uy hiếp chúng.


Bỗng On-kun phải chững lại, nhanh chóng nép m ình vào m ột m ảng
tường thấp lè tè, lở loét. Tên lính “K đỏ” có bộ tóc ngắn lợp cợp, th ân
hình cao lớn với cái lưng gù đã quay lại, giương súng lên bắn anh. Nó vừa
giật lùi vừa bắn, mấy viên đạn quét s á t đầu anh, gạch vừa rơi lốp bốp.
On-kun đứng nghiêng người, quay đầu nhìn tê n địch trừ ng trừng. Anh
cũng giương súng lên định bắn m ột băng để b ắ t chúng dừng lại. Thốt
nhiên mũi súng của anh chúi xuống và ngón tay an h không xiết vào vòng
cò nữa. On-kun th é t lên, giọng lạc h ẳn đi:

- Bun-thon! Đứng lại, Bun-thon!

Tên lính cao lớn, lưng gù có cái tên là Bun-thon cũng chững lại
ngẩng đầu lên. Hắn và On-kun nhìn nhau. Bun-thon đưa m ột bàn tay huơ
huơ lên trời trông ngỡ ngàng và vụng về. Rồi đột nhiên hắn quỳ xuống

252
bắn như điên dại vào m ảng tưừng mà On-kun đang đứng nép m ình ở đó
để nhìn hắn. Sau đó hắn đứng dậy lảo đảo, loạng choạng chạy bổ về phía
sau. On-kun thoáng có một cảm giác vừa tức giận vừa thương hại ba cái
bóng đen đang cố tìn h chạy trôn trước inắt anh. Anh bật dậy, hô lớn:

- Xung phong! Đồng đội theo anh ào lên. Ba tên địch đã tụt vào một
căn hầm cố thủ bằng bê-tông cốt sắt nửa chìm nửa nổi. Từ trong đó
chúng lại bắn ra để cản đường tấ n công của đại dội On-kun. Nhưng vòng
vây đã khép chặt rồi. Từ chỗ On-kun nằm tới cửa hầm ba tên địch vừa
chui vào chĩ cách nhau một khoảng rấ t gần, đến nỗi anh có thể nhẹ
nhàng tung từng trá i thủ pháo vào đó mà không sợ rơi chệch. Nhưng On-
kun vẫn không muốn tiêu diệt chúng. Anh muốn cứu vớt chúng. Vả lại,
theo dự đoán của anh đây là những tên chỉ huy, có thể sẽ có rấ t nhiều
điều cần khai thác. Từ lúc gặp Bun-thon thì ý định ấy càng được củng cố
trong đầu anh. On-kun nói to để nhắc nhở đồng đội của mình:

- Toàn đại đội bao vây chặt, gọi địch ra hàng, chú ý trán h đừng để
thương vong vô ích.

Các chiến sĩ làm theo m ệnh lệnh của anh. Mấy tổ xung kích vận
động lên chiếm căn hầm và b ắt tù binh nhưng đều bị chúng cản lại. On-
kun ném một trá i thủ pháo vào sát miệng hầm , làm cho súng địch câm
bặt. Khói thủ pháo chưa tan h ết On-kun đã gọi:

- Bỏ súng xuống ra hàng sẽ được đối xử tử tế... Bun-thon ơi, ra hàng


đ i! N gư ờ i đ a n g go i m à y là O n k u n đ â y , m à y có n h ậ n r a lth ô n g ?

Bun-thon nhô đầu lên khỏi công sự. Một lần nữa hắn lại nhìn On-
kun trừng trừng, đôi m ắt hắn lấc láo và long lên dữ tợn, nét m ặt hắn cau
có, lộ vẻ tức tối, nghi ngờ và tuyệt vọng. On-kun đưa tay vẫy:

- Bun-thon! Ra đi, sẽ không ai giết mày đâu. Mày bị lừa dối đấy,
mày có b iết không? Mày còn tin tao không?...

Bun-thon cấn chặt vành môi một lúc, rồi m iệng hắn mấp máy như
muốn nói một điều gì đó. On-kun giục nó:

- Còn chần chừ gì nữa, ra hàng đi, vợ con mày đang đợi mày dấy!

Bun-thon nắm tay đấm lên trán, đấm lên ngực mấy cái nghe bồm
bộp. M ặt h ắn lắc qua lắc lại mấy lần. Hắn tụ t xuông, giương khẩu AK lên

253
nhả đạn điên dại hơn lần trước về phía On-kun. M ột chiến sĩ nằm bên
cạnh anh nói:

- Nó không chịu ra hàng đâu, cho tiêu diệt thôi, đại dội trưởng ơi!

- U. Nhưng điều đó thì dễ quá rồi...

Câu nói của an h bị cắt ngang bởi tiếng thủ pháo nổ ầm phía trước
mặt. M ảnh gang bay rào rào, khói xộc vào làm m ắt an h cay sè,m iệng và
mũi an h đấng ghét. Người chiến sĩ bên cạnh anh lại hỏi:

- Tên địch ấy, đại đội trưởng biết tên nó à?

- ừ . Nó ở cùng quê với tôi đấy.

- Tôi th ử gọi nó m ột lần nữa xem th ế nào, đại đội trưởng nhé!

On-kun xua tay ra hiệu cho người chiến sĩ để anh gọi. Anh lại đưa
tay lên khum khum làm loa gọi vào. Giọng anh đã run lên vì tức giận:

- Lần cuôì cùng M ặt trậ n Đoàn kết dân tộc cứu nước mở đường sông
cho chúng mày... Có ra h àn g không?

Từ trong công sự cố thủ đạn địch lại bắn toả ra bốn phía. Ba, bốn
trá i thủ pháo của địch nổ liên tiếp bao quanh On-kun. Người chiến sĩ vừa
nói chuyện với anh bị m ột m ảnh thủ pháo xé rách bàn tay phải. Cậu ta
mím môi lại, không m ột lời rên rỉ. Y tá lao đến băng bó vết thương cho
anh. On-kun th é t lên:

- B.40 đâu, phá huỷ công sự!

Hai tiến g nổ liên tiếp dữ dội. Nóc căm hầm bê-tông bị hớ t gọn. Khói
bụi mù m ịt. Từng m ảng bê-tông bị h ất lên, rơi xuống rào rào. On-kun hô
vang:

- Xung... phong...!

Khói dạn chưa ta n h ế t nhưng On-kun vẫn nhìn th ấy ở tru n g hầm có


sau bộ m ặt đen đúa lì lợm và tuyệt vọng đến cực độ. Anh nghe rõ một
giọng nói rít lên gầm gừ.

- Ngồi im, th ằn g nào chạy ra hàng tao bắn chết.

On-kun ra hiệu cho đồng đội né mình, đề phòng bọn địch ngoan cố
nhảy xổ ra đánh giáp lá cà. Trong hầm vọng lên những tiếng rên ư ử và

254
những tiến g thở hồng hộc nghe vừa rùng rợn vừa thảm thiết. Hai tên
địch nhào ra. Một loạt AK trong hầm vội vã quét theo. Trong nháy mắt,
On-kun ôm được một tên lăn đi mấy vòng. Còn tên kia gục xuống, nằm
sóng soài, m ình vắt trên cửa hầm, hắn kêu rông lên, máu ộc ra lênh
láng. On-kun chưa kịp giao tên địch cho dồng đội trói thì trong căn hầm
đã b ật lên những tiếng rú kinh hoàng. Tiếp theo là tiếng thủ pháo nổ,
tiếng nổ bị ghìm lại trong hầm, nghe âm âm nhức nhối. Sau đó là im
lặng hoàn toàn. On-kun biết rõ việc gì đã xảy ra: chúng tự giết nhau.
Anh kéo tên tù binh đứng dậy, phủi bụi đất bám đầy quần áo, xốc lại dây
lưng và thở phào. T rận đánh th ế là đã kết thúc. Đồng chí đại đội phó tập
trung bộ đội di chuyển về vị trí tập kết. Còn On-kum chờ cho khói thủ
pháo tan h ết mới cùng hai chiến sĩ xuống hầm kiểm tra, thu vũ khí. Đây
là một công sự cố thủ khá rộng, nền được trán g xi-măng. Sáu khẩu súng
AK vứt bừa bãi, có khẩu bị m ảnh thủ pháo găm vào báng thủ lỗ chỗ.
Không còn một viên đan nào. Bôn tên địch nằm chết với bốn tư th ế khác
nhau. Tên nào cũng còng queo, co quắp, m ặt sạm đen khói thủ pháo, tóc
cháy lởm chởm. Những bộ quần áo đen xỉn, cóc cáy mồ hôi và đất, rách
tơi tả. Bun-thon nằm ngửa, đầu hắn ghếch lên th àn h hầm , đôi lông mày
cháy trụi, m ắt trắn g dã thao láo, miệng há hốc, hai hàm răng vàng khè.
Những nét m ặt hiền lành như hòn đất củ khoai của Bun-thon ngày xưa
bây giờ đã biến đâu m ất. Chỉ còn lại trước m ắt On-kun một bộ m ặt dữ
tợn của loài dã thú. On-kun nhìn thẳng vào bộ m ặt ghê tởm đó như để cố
tìm lại một dấu vết nào đó của quá khứ còn chưa bị thời gian xoá đi. Một
rả n h tư ợ n g Virti lạ <ìập v à o m ắ t anh: b ên xáp n h ữ n g tê n đ ịch có m ấ y
quyển sách bìa trắn g nằm ngập trong máu nhầy nhụa. On-kun dùng đầu
lưỡi lê trên súng AK lậ t lên một cuốn và anh đọc thấy dòng chữ
Campuchia in màu đỏ: “Lược dịch tác phẩm bàn về mâu thuẫn của Mao
Chủ tịch - Tài liệu dành riêng cho cán bộ đảng viên”. On-kun như chợt
nhận ra một điều gì đó rấ t cụ thể, anh nói nhỏ với chính mình:

- Chúng m ày đã liều chết một cách nhục n h ã và thảm khôc vì cá


đạo ma quỷ này đây!

Rồi On-kun lại lậ t tiếp một tran g nữa xem trong dó chúng đã nhồi
n hét cho nhau những gì. Anh bắt gặp một cái ảnh chụp bốn thầy trò Pol
Pot đi trên đường băng của sân bay Bắc Kinh. Trong đó Hoa Quốc Phong
với bộ m ặt rấ t to đang cười cợt, Đặng Tiểu Bình th ấp lè tè, bộ m ặt càu
cạu, gườm gườm nhìn những đồ đệ của mình, còn Pol Pot và leng Sary
thì đều giơ hai tay lên trời như những kẻ đầu hàng. Cả bốn khuôn m ặt

255
đều dính đây máu đã b ắt đầu đen xỉn lại. Bên dưới tấm ảnh, On-kun lại
đọc được những dòng chữ này: “Lời dạy của lãnh tụ Pol Pot: Chúng ta
phải hăng hái và kiên quyết thực h àn h tư tưởng của Mao Chủ tịch: Mâu
thuẫn đối kháng luôn luôn tồn tại trong mọi sự vật. Nó tồn tại ngay
trong bản th â n chúng ta. Muốn tồn tại được thì phải tiêu diệt không
thương tiếc kẻ đối kháng với mình...”. Đọc xong câu ấy, m ột nỗi bực bội
dâng lên, làm cho On-kun uất nghẹn. A nh không th ể giữ nổi bình tĩnh
nữa. Giống như một hàn h dộng tự vệ, a n h cắm p h ậ t lưỡi lê vào cuốn sách
bết máu ấy. Các anh bước ra khỏi hầm . Một chiến sĩ đưa cho On-kun tập
tài liệu, bản đồ quân sự, sổ sách thu được tro n g túi của m ấy tên địch.
Trong mớ giấy nhàu n á t đó, On-kun lại b ấ t ngờ th ấy m ột bức thư đã cũ,
viết bằng bút chì trên giấy học trò. Những dòng chữ nghệch ngoạc, xiêu
vẹo nhưng đã làm anh rùng mình. Đó là tấm bằng khen mà Bun-thon đã
được cấp trê n thưởng cho nó, về th àn h tích đã “th ẳ n g tay trừ ng trị những
phần tử đối kháng” từ hồi 1977.

On-kun b ật lên một tiếng thở dài đau xót khi an h nh ìn vào những
tài liệu vừa thu được và nói với người chiến sĩ: “Những th ứ này đã giết
chết chúng nó!”.

LÊ HUY KHANH

256
CÂU C HU YỆN BÊN CÂY CẦU PIA-RÊT

NGÔ QUỐC DÂN

Bệnh viện Rùm-chiết phong quang sạch sẽ. Bóng hàng xoài trước
sân râm m át. Người hộ lý khoác áo blu trắng bê khay thuốc, nhón gót
qua lại các phòng. Vài người khách tới thăm bệnh nhân rụt rè bước qua
chiếc cổng nhỏ quét vôi màu trắng...
Tại phòng số 6, ngồi bên chiếc giường cạnh mẹ, nhìn những giọt
huyết th an h trong veo từ cái chai dốc ngược đều đều nhỏ xuống chiếc bầu
kẹp ghim, nối với sợi dây dẫn không màu, trong, mảnh, Rết-xi luôn nghĩ
tới phum làng. Giờ này bố đang làm gì? Trời! Thằng Ăng-ca khốn nạn
nào mà độc địa thế? Năm bảy chín, chỉ vì một chút chần chừ, không chịu
bám vào đoàn người bị xua chạy vào rừng, bô’ đã bị tên ác ôn bập hai
n h át búa đứt lìa hết gân gót chân. Vốn người già yếu lại tàn tật, ở nhà
một m ình bô' sẽ xoay sở ra sao? Ai kiếm rau cho con lợn ăn? Ai cắt mướp
ởm ảnh ruộng gần sông đem đi chợ bán? Củi nấu cơmai bổ cho? Ăn hết
lu gạo, bố sẽ bò đi vay đâu?... Càng nghĩ Rết-xi càng đau th ắ t gan ruột.
Nước m ắt cô ứa ra, nóng hổi trào xuống hai gò má. Ôi! ước gì Trời P hật
cho mình đôi cánh để m ình bay về nhà thăm bố được một lần... Giá như
m ình có thêm người anh, người chị, hoặc một đứa em... Vò võ một thân,
cuộc đời lỡ dở... Tủi phận, Rết-xi gục m ặt xucíng đầu gối, nức nở.
- Rết-xi! Mẹ cháu tỉn h chưa?
Ông bác sĩ nhẹ buớc vào phòng lúc nào cô không biết. Rết-xi ngẩng
đầu, m ắt đỏ hoe, rớm ướt.
- Kìa! Làm sao cháu khóc?
Ánh m ắt hiền từ của người bác sĩ nhìn cô ái ngại.
- Dạ! Không... - Rết-xi bối rối - Mẹ cháu đã tỉnh, mới đòi uống nước
bác ạ.
- Tốt! Cháu cứ để yên cho mẹ cháu ngủ. Đừng sợ! Rồi mẹ cháu sẽ
khỏi.

257
Người bác sĩ sờ tay xem m ạch bà C hăn-rết, chỉnh lại chiếc ghim rồi
lại lặng lẽ bước ra.
- Chị Rết-xi ơi! Có khách - Cô hộ lý trẻ m ăng, khuôn m ặt ngăm đen,
đứng ngoài cửa, gật đầu gọi. Rết-xi hấp tấp sửa lại m ái tóc, bước ra khỏi
phòng.
- Ỏi! Thím Căm-sô-phi! Chị Phiếp!
Rết-xi nhận ra hai người khách đang đứng chờ m ình ngoài hàng
lang là hai cán bộ phụ nữ xã. Mừng đến rơi nước m ắt. Cô nhào ra nắm
chặt tay hai người. Không để họ kịp nói, cô hỏi dồn dập:
- Bô' cháu ra sao, hả thím?
- Ừ! Mẹ cháu đỡ chưa?
- Dạ, đỡ.
- Đã ăn được chút gì chưa?
Rết-xi kể vắn tắ t tình hình bệnh tậ t của mẹ cho hai người rõ. Kể
xong cô cầm tay thím Căm-sô-phi lắc m ạnh:
- Nhưng m à ở nhà bố cháu ra sao?
Thím Căm-sô-phi nhả m iếng bã trầu ra khỏi miệng:
- Bố cháu khỏe. Không phải lo gì cho bố cháu cả. Ở nhà đã có thím ,
có chị em, bà con trong phum. Bây giờ không phải như cái thời Pol Pot...
Vả lại, nhà cháu đã có người đến ở rồi... Chú Hoà, cán bộ chỉ huy bộ đội
Việt Nam làm cầu Pia-rết ở đầu phum ta đã cử h ẳn m ột người vào nhà
chăm sóc bô' cháu... Chú tên gì, Phiếp nhỉ? Chú hay đến chùa Takam au
dạy các cháu bé h á t ấy.
- Anh Nguyễn - Rết-xi, m ắt long lanh, đỡ lời thím Căm-sô-phi.
- Ờ chú Nguyễn, chú Nguyễn! Bộ đội Việt Nam tố t quá! Chú Nguyễn
tố t quá. Hồi đêm chú ấy vác súng đi cùng các cháu khiêng mẹ cháu lên
đây kịp ca mổ ruột thừa, sáng ra, thím đã th ấy chú ấy đến nhà giúp bố
cháu bổ củi, xách nước. Trưa đi làm về, chú ấy lại ra sông Klong Klung
kiếm rau cho lợn. Khuya chú ấy giã gạo. Lại g iặt cả quần áo cho bô' cháu
nữa. Hôm qua, thím sang nhà nói trư a nay thím và chị Phiếp lên thăm
m ẹ c o n c h á u , c h ú ấ y m u ố n đ i l ắ m , n h ư n g c ả đ ơ n v ị đ a n g CCÍ l à m cho cầu

xong sớm nên không ai đi đâu được.

258
Ba người cùng rón rén bước vào phòng. Bà C hăn-rết đang thiu thiu
ngủ. Toàn th ân bà phủ một chiếc chăn trắng mỏng, chỉ có cánh tay đang
truyền huyết th anh ngả ra ngoài. Thím Căm-sô-phi cầm cái làn nhựa từ
tay chị Thiếp lấy ra m ột gói to, bọc giấy xi-măng và một túi nhựa mỏng,
bên trong có đến một chục quả xoài. Thím vừa khẽ đặt mấy thứ đó lên
giường của Rết-xi, vừa th ì thầm:
- Gói này của chú Nguyễn, còn xoài là của đơn vị làm cầu gửi lên
biếu mẹ cháu. Các chú ấy gửi lời chúc mẹ cháu chóng khỏe dể kịp về dự
lễ mừng cầu làm xong đấy.
Rết-xi rót nước mời khách. Tiếng nước lóc bốc rơi xuống lòng chén
làm bà C hăn-rết choàng tỉnh. Nỗi mừng của người lên thăm , nỗi nhớ của
người xa phum th o ắt bùng ra giữa bôn người thân thương nhau, ríu ran
như chim rô-lốc (Chim cu cườm) gặp bầy buổi sớm.
Thăm hỏi, dặn do bà C hăn-rêt một lúc, thím Căm-sô-phi và chị
Phiếp đã quảy quả ra về - Cả phum Xa-tia đang khẩn trương chuẩn bị
đất trồng khoai.
Trở lại cán phòng tĩnh mịch, Rết-xi ngồi yên lặng, nhìn hai gói quà.
Cô mở túi xoài ra trước, xếp từng quả vàng ươm xuống ngăn dưới chiếc
bàn sắt, sơn trắ n g kê sát dầu giường mẹ. Rồi đến gói bọc giấy xì m ăng -
Của anh Nguyễn đây ư? - Cô bồi hồi mở ra: Một quyển sổ trắn g tinh,
tran g đ ầ u có đóng dấu son đỏ chót - Hai hộp sữa nước - Một hộp sữa bột -
Một gói đường tin h - Hai cục xà bông - Chiếc khăn tay bọc chiếc lược,
chiếc gương nhô - Ô trơi! Anh Nguyễn còn biết gứi cho em cá những thứ
này ư? - Rết-xi cầm lấy chiếc gương, đưa lên soi. M ắt cô long lanh khi
nhận thấy khuôn m ặt mình, mặc dù có chút thâm quầng nơi khóe m ắt do
mấy đêm liền m ất ngủ, nhưng vẫn chưa m ất đi vẻ mịn màng. Vòng lông
mày nhỏ, m ảnh. Đôi môi hơi mỏng, đỏ sậm. Cặp má hồng nâu, khỏe
khoắn... Cô lùa chiếc lược lên mái tóc chải nhẹ. Mái tóc quăn quăn, hơi
rối, xẹp dần. Chiếc lược gại lên vầng trán rám nắng cô những sợi mềm
như tơ viền nơi chân tóc, gợi cho cô một cảm giác bâng khuâng êm ái...
- Giá như th ằn g Nguyễn cùng mấy đứa bộ đội Việt cũng đến thì vui
quá! Bà C hăn-rết th ố t nhiên lẩm bẩm.
Nguyễn ngồi xổm bên gốc dừa, bút chì giắt tai, hì hụi đục hàng lỗ
trên một khúc gỗ tron. S át cạnh anh, ông C hăn-rết ngồi xếp bằng, nhúc
nhắc cưa những th an h gỗ nhỏ. Hai ông con đang chung tay đóng một
chiếc chuồng gà. Chuyện giữa hai người nở giòn như pháo tết.

259
- Bô' ạ - Nguyễn sôi nổi - Quê con, người ta không th ả gà “tèm lem"
như ở đây. Để gà ăn ngủ lung tung, rấ t m ất vệ sinh, hơn nữa, gần rừng
dễ bị cke cho-choóc (chó sói) vồ m ất. Chuồng gà phải đắp tương bằng đất,
hoặc tô t hơn th ì xây băng gạch, có cửa, có khóa nghiêm chỉnh. Bò lợn
cũng có n h à riêng, xa nơi người ở, xa giếng. À, chúng con đã bàn nhau sẽ
đào cho bố cái giếng... Đi làm về có ngay nước ăn, nước tắm , khỏi phải ra
sông, n h ư n h à bác Via-sơ-bâu, phum đội trưởng bên đây...
- Hai bố con nói gì tôi đấy?
Bác Via-sơ-bâu di rừng về, vai vác con dao cán dài qua ngõ, thấy hai
bô con nói ch u y ện vui vẻ, g h é vào.

- Chào bác. Cháu dang tín h chuyện đào giúp bố C hăn-rết cái giếng
như bên bác.
- Hai bố con anh làm gì đấy?
- Dạ thưa bác, hai bô” con cháu đang làm cái chuồng gà ạ.
- À! N hà cho gà à? Hay đấy. Cái này bà con trong phum lại phải học
các anh bộ đội V iệt N am thôi.
Bác Via-sơ-bâu đ ặt con dao xuống đất, rút ra bọc thuộc rê nâu đen
như râu ngô già mời hai bô' con cùng hút, khói tỏa m ịt mù như hun muỗi.
Ngồi g ậ t gù ngắm nghía cái chuồng gà hồi lâu, bác cáo từ ra về.
- Thôi! Nghỉ đi con! Chiều bố làm - ông C hăn-rết giục Nguyễn.
- V â n g ! R ô n g h ỉ ta y , đ ể m ặ c con. À , n â u cam di h ố ạ . T n ia r ồ i. N ấ u
đủ m ình bố ăn thôi. Đừng nấu nhiều như bữa qua kẻo tối bố lại phải ăn
cơm nguội. Con ăn cơm ngoài đơn vị.
Ông C hăn-rết xếp gọn đồ đạc rồi m ải m iết lê lại cầu thang, bò lên
sàn nhà. N hìn dáng đi v ất vả của ông, Nguyễn thở dài.
- Anh Nguyễn!
Có tiến g con gái gọi an h rấ t khẽ. Nguyễn dừng tay đục. M ặt anh
ngỡ ngàng.
- Rết-xi! - Nguyễn bôi rối đứng dậy.
- Bô' em đâu?... A! Bô' em kia rồi!
Rết-xi reo lên, lao về phía cầu thang. Ông C hăn-rết rưng rưng nước
m ắt đón con từ phía cửa. Rết-xi lập cập nắm lấy hai cánh tay bô'. Cô có
cảm tưởng như đã hàn g năm xa bố, hôm nay mới được thấv lại. Bei cô
260
hình như béo ra, khỏe lên trong chiếc áo quân phục mới chấm vai của
anh Nguyễn.
Hai bô con tíu tít trò chuyện. Muốn để hai bô" con được tự nhiên,
Nguyễn xách đôi thùng cạnh lu nước, đi sang giếng nhà bác phum đội
trưởng...
Vài phút sau, xách được hai thùng nước trở về. Nguyễn thấy ông
C hăn-rết đang ngồi trên đống gỗ cưa dở, miệng “túc... túc...” gọi gà. Ông
chìa cho anh chiếc b ật lửa:
- Con lên nhà nhóm lửa hộ bố, giúp Rết-xi nấu xơm. Bố bắt con gà.
Trưa nay, dứt khoát con phải ở đây ăn cơm với bố.
Nguyễn bước nhẹ lên cầu thang. Rết-xi bồi hồi tựa vào cây cột khuất
sau cạnh cửa.
- Anh! - Rết-xi khẽ gọi, m ặt hơi tái đi.
Nguyễn mỉm cười, hỏi nhỏ:
- Rết-xi, mẹ khỏe không?
- Mẹ khỏe! s ấ p về rồi anh ạ! - Rết-xi đập ngập ngừng. Tiếng nói của
cô còn nhỏ hơn tiếng thở. - Anh Nguyễn! Mấy ngày nay có người lên
chơi, em cứ mong m à chẳng thấy anh đâu?!...
- Anh bận. Mẹ có trách anh không?
- Mẹ nhớ.
- Bọn anh sắp đi.
- Sao vội th ế anh?
- Nghề của anh là làm cầu mà. Làm xong cầu quê Rết-xi, anh lại đi
làm cầu ở những vùng quê khác... Có biết bao nhiêu chiếc cầu cần làm.
- Bao giờ cầu Pia-rết các anh làm xong?
- Còn dăm sáu ngày nữa thôi. Hồi nãy về, Rết-xi không nhìn thấy
cầu ch! c ò n m ộ t n h ịp n ữ a h a y sao ?

- Em có.
- Anh mong mẹ th ậ t khỏe, mau chóng cùng Rết-xi trở về. Anh muốn
được nhìn thấy mẹ và Rết-xi đi trên cây cầu mới cùng bà con trong buổi
lễ khánh th àn h đấy.
- Ngày đó vui nhiều lắm anh nhỉ?
261
- Chắc thế!

Sáng hôm sau, ăn với bô' bưa cơm xong, Rết-xi xin phép lên bệnh
viện sớm kẻo mẹ mong.

Rết-xi bước thoăn thoắt trên con đường cát mịn. Cô nhớ lại giây
phút ngắn ngủi giữa m ình với Nguyễn lúc chia tay. Tâm hôn cô ngây
ngất say sưa. Cô có cảm tưởng như anh không chỉ tiễn đưa cô m ột quãng
đường ngấn mà luôn thủ thỉ bên cô trong suốt đoạn đường dài. Một đàn
chim nhỏ, lông vàng, sà xuống lùm cây thấp tè tra n h nhau mồi, ríu rít.
Tưng chòm th ố t nốt vươn m ình lắc lư những chùm ống bạc phếch, bên
trong lòng ống chắc đã chứa đầy những dòng nước m ật ngọt ngào.
Bệnh viện Rùm-chiết thấp thoáng từ m ột nơi xa tít...
Có tiếng xe máy mơ hồ vọng đến, rồi mỗi lúc m ột rõ dần. Rết-xi
quay lại nhìn. Từ phía sau, một chiếc mô tô m àu đỏ đang rú ga, lao vun
vút trên con đường vắng. Ngươi lái xe bận chiếc áo thun tím , rạp m ình,
mũ lưỡi tra i ngóc lên, quẹo phải quẹo trái, lách chiếc xe ngoắt ngoéo
trá n h ổ gà. Rết-xi th ậ n trọng nép vào lề đường.
Chiếc xe vọt qua chỗ cô, siết phanh nghe đến sởn tóc gáy. M ột gã
đàn ông ngả người vòng ngoắc chiếc mô tô lao th ẳn g vào Rết-xi. Đôi lốp
đen còn mới sục xuống lợp đất bột. Khi gần chạm vào chân cô gái, chiếc
x e g i ặ t l ê n m ộ t lầ n n ư a v à s a u L iến g "khực" n h o n h ỏ Ỉ1 Ó m ớ i c h ịu dừng
hẳn.
- Rết-xi!
Gã lạ m ặt gọi tên cô.
Im lặng.
Rết-xi ngước nhìn người khách lạ: Một khuôn m ặt nhỏ. H àng ria
lởm chởm xòe ra hai bên mép. Đôi gọng kín h râm to, đen kịt, đè lên
chiếc mũi ngăn. Cái trá n hẹp và đồng màu với đôi gò má xanh xám,
nhón nhọn.
- Chắc cô không nhận ra tôi?

262
Ngươi khách lạ nhếch cặp môi dày, cười khẩy. Cái cười đượm vẻ mệt
nhọc, chán chường pha chút khinh khi, m iệt thị. H ắn từ từ lột mũ, gỡ cặp
kính.
Rết-xi đứng như trời trồng. Miệng cô há ra, kinh ngạc. “Xòm Năm!”
- Phải! Lúc này cô đã nhận ra kẻ đang đứng trước m ặt m ình là Xòm
Năm - Chồng cũ của cô.
... T háng mười hai năm bảy tám. Sau mười ngày bốc vác tưởng đến
chết ngất trê n đống hòm đạn, chỉ huy sư đoàn 303 gửi cho cô một m ảnh
giấy đỏ lòm có in lá cờ phù hiệu ba ngọn tháp: Giấy nghỉ phép tại đơn vị.
Cô được chuyển từ Bù Su (đất Việt Nam) về nghỉ tại thị xã Svay-
riêng.
Vào trìn h giấy ở n hà khách cùng với cô có một người đàn ông thấp
bé, đen nhẻm và bẩn thỉu. Tên anh ta là Xòm Năm. Chỉ huy nhà khách
xem giấy, ghi tên hai ngươi vào cuốn sổ bìa cũng đỏ, nói với hai người
mấy câu dấm dẳn:
- Các đồng chí là những người con ưu tú trê n m ặt trậ n chống Việt
Nam. N hân kỳ nghỉ phép, đảng và chính phủ tạo hạnh phúc riêng cho
các đồng chí. Kể từ giờ phút này, hai đồng chí là vợ chồng. Hai người
được ở với nhau cùng phòng cho tới hết kỳ phép.
Ho lên một tiếng cục cằn, hắn buông bút, chui vào gian buồng, cắp
m ột chiếc chiếu rách, đủng đỉnh đi ra, vẫy tay hai vợ chồng đi theo.
- Đến nhận chỗ nằm! - H ắn nói to, không thèm ngoảnh lại nhìn.
Một căn phòng th ấp lè tè, mái rạ, tường rạ, cửa sổ, cửa lớn cũng
bằng rạ... Kề bên phải là chuồng bò, bên trá i là một biệt thự lớn, hai
tầng, m ặt tường nào cũng ghi đầy những khẩu hiệu.
- Các đồng chí ở đây. Sáng nghỉ, chiều có kẻng thì sang chuồng bò
lấy phân đưa ra ruộng! - Đấy là lời cuối cũng của hắn đối với cuộc “lễ
th àn h hôn” của “vợ chồng” Rết-xi.
Đàn bò gõ móng côm cộp xuống nền nhà lá t gạch, kết thúc cái ân
huệ cuối cùng.
Rết-xi bàng hoang đứng chết lặng trong căn phòng ẩm mốc. “Chồng"
cô - Xòm Năm - xăng xái đập chiếc chiếu rách lên tấm phản bụi mù...

263
Ba năm trôi qua... Người chồng và đám cưới, đối với Rết-xi vẫn còn
là một mối hận... Năm bảy chín những tưởng th ằn g Xòm Năm đã chết
theo với chế độ diệt chủng. Nào ngờ...
... Xòm Năm ngạo m ạn ghếch đùi lên chiếc mô tô choáng lộn, móc
điếu thuốc Sa-mit, bật lửa, nhìn khuôn m ặt xanh tái của Rết-xi qua làn
khói mỏng.
“Con bé thay đổi nhiều quá: da hồng, môi đỏ, ngực ngồn ngộn. Hắn
nuốt nước bọt đánh “ực” m ột cái như cố nuốt đi niềm khoái cảm lần đầu -
cái lần Rêt-xi nằm bưng m ặt khóc nức nở, toàn th ân cô cứng quèo, còn
hắn thì th a hô chúi cái mõm ngắn và hôi xì suốt từ gót chân cho tới đầu
người con gái. “Chà, nếu không có bọn Xóp-dok-car (thám báo) thì không
tài nào nhận được ra nó” - Xòm Năm nghĩ thầm .
- T hế nào? Có nhớ ra tôi là ai không?
- Anh Xòm Năm, trước kia tôi với anh bị bọn Pôn Pốt gán ghép
chuyện vợ chồng, nay cách m ạng về, tôi với anh không còn gì cả. Tôi
không phải là vợ anh. Anh gặp tôi làm gì? - Rết-xi nói như không kịp
thở.
- 0! - M iệng Xòm N ăm đột nhiên há ra, m ắt long lên, giông hệt như
khi bị Rết-xi gạt phắt bàn tay run rẩy của h ắn trong ngôi n h à rạ. Tuy
nhiên, chỉ nửa giây sau, h ắn đã lấy lại được trạn g th ái cũ, hắn cố nói với
Rết-xi bằng giọng mềm mỏng:
- T ô i m u ố n g ặ p R p 't- V ¡ c ó v iệ c .

- Mẹ tô i đ a n g ốm !

Xòm Năm tiếp luôn:


- Và đang nằm ở bệnh viện Rùm-chiết. Và tôi biết cô mới về nhà
thăm bô".
Rết-xi chột dạ. “H ắn là người th ế nào? H ắn muốn gì ở m ình? -
Giọng hắn lại đều đều.
- Cho nên tôi đem xe tới đón cô.
- Nào! Ngồi lên! Xòm Năm duỗi chân, ngoặt đầu xe.
- Không.
- Tại sao?
- Tôi không đi.
264
- Cô phải đi! - Xòm Năm quăng bàn chân qua yên, bật càng chông,
dằn giọng - Tôi nói cho cô biết. Tôi - Hắn vỗ ngực - Tôi vẫn là một chiến
sĩ trong quân dội Campuchia dân chủ. Cô là một hạng gái c’bot-chiết
(phản quốc) đã bán m ình cho bọn Việt Nam. Tôi được cấp trên cử đi đón
cô về rừng...
“Trời ơi!" Toàn th ân Rết-xi bủn rủn. Cô cô' giữ m ình khỏi ngã khuỵu
xuông, nhưng giọng nói đã không giấu nổi nỗi sợ.
- Ông... ông hiểu cho tôi. Bố mẹ tôi già... Để tôi ở nhà làm ruộng -
Vừa nói Rết-xi tựa nhìn quanh tìm người.
- Cô đừng nói thế, cũng đừng nhìn đâu cả - Xòm Năm búng tàn
thuốc - Cả hai điều cô không được gì hết. Nói với tôi, thì tôi không có
quyền. Tìm người thì ở đây chẳng có ai mà hòng kêu cứu - Hắn h ất cằm
lên phía trước, rồi quay m ặt lại, hất cằm về phía sau - người chữa xe chỗ
cột cây số, người ngồi dưới gốc me đều là quân của tôi. Đừng dại dột - Và
như sốt ruột, hắn cao giọng - Cô lên xe ngay đi. Nếu không, trước h ết cô
sẽ nằm vĩnh viễn ngay tại đây - Hắn kéo vạt áo, phơi ra khẩu súng ngắn
g à i c h é o b ụ n g - s a u đ ó đ ế n lư ợ t m ẹ cô, v à cả b ố cô n ữ a !

Rết-xi đứng lặng phắc như chôn chân xuống đất. “Nó xảo quyệt đến
mức này ư? Bằng cách gì thoát được bây giờ? Chả lẽ...”.
- Lên xe! Tôi không có nhiều thì giờ đâu - H ắn đặt tay vào nơi hắn
gài khẩu súng.
T h o á n g n g h ĩ r a c á c h đô'i p h ó tạ m th ờ i tr o n g lú c n a y , R ố t x i bư ớc lạ i
phía sau xe.
- Thế! Đưa làn đây tôi để đầu xe cho. Ngồi im! Cô hành động chống
đối, không xong đâu! - Xôm Năm gằn giọng ra lệnh, bấm nút khởi động,
rồ máy. Chiếc xe phóng vọt đi bỏ lại phía sau một luôn bụi xám, được
chừng bảy tám trăm mét, chiếc xe bỏ đường chính, rẽ vào một con đường
phụ dài hun hút.
T hế là chỉ sau hai tiếng đồng hồ rời phum Xa-tia, Rết-xi đã bị giam
tại một căn nhà gỗ thấp nằm trên bò một cây đầm lớn đầy sen đang rộ
m ùa hoa, cách bệnh viện Rùm-chiết khoảng năm cây sô" đường chim bay.
Xòm Năm tông cô vào một gian buồng th ật thoáng đãng, có hai khuôn
cửa sổ: một ở đầu nhà, một hướng ra đầm, khuôn nào cũng có hàng chấn
song sắt, mỗi thanh to bằng ngón tay cái. Trong buồng có khá đủ tiện
nghi: phích nước, ấm chén, bàn ghế (trên bàn bày sẵn mấy đĩa bánh,

2Ó5
kẹo), chiếc giường một có gối, có mùng màn. Nơi vệ sinh là m ột ngăn kề
bên.
- Cô nghỉ đi. Đừng tìm cách trốn, vô ích! - Xòm Năm nói vậy, vội v
bước ra, đóng cửa, bật khóa đánh tách.
Không chú ý gì tới xung quanh, Rết-xi đứng sững giữa buồng như
pho tượng. Lời nói của Xòm Năm từ lúc hắn bỏ đường chính, rẽ vào con
đường phụ tới đây như xói vào tai cô. “Cô Rết-xi: Tôi b iết mới m ột hai
năm sông với bọn Việt Nam, lòng dạ cô đã thay đổi. Nhưng thôi, tôi gặp
cô không phải vì chuyện ấy... Tôi về đây là vì sự sông còn của đ ất nước
Campuchia, vì sự nghiệp kháng chiến cứu nước vĩ đại. Cô biết hiện giờ ở
phum Xa-tia có cái gì đang xảy ra không? Cô! Cô có biết... Bọn V iệt Nam
và lũ dân đang làm cầu, chiếc cầu Pia-rết. Chiếc cầu chúng tôi đã m ột lần
đưa người về phá, nhưng vì do m ột sơ suất nhỏ m à chưa th à n h công, chắc
cô đã biết. Do đó cầu chúng vẫn làm và đang làm . Chúng sẽ làm được và
sẽ k h án h thành. Để cho chúng thấy mọi việc làm của chúng là điên rồ, là
ảo tưởng, để lũ dân ngu ở phum Xa-tia mở m ắt n h ìn th ấ y sức m ạnh của
chúng tôi, m ặt trậ n kháng chiến ra chỉ thị: Dù phải hy sinh cũng phải
phá bằng được chiếc cầu. Chúng tôi nhận nhiệm vụ đó về đây ủy nhiệm
cho cô thi hành. Cô làm tốt, cô được miễn giảm mọi tội lỗi, sẽ được trê n
trọng thưởng. Cô không làm, hoặc cô làm hỏng việc, bản án về chiếc cầu
sẽ dành cho chính cô, mẹ cô, rồi cả bố cô... Tôi sẽ để cho cô có thời gian
suy nghĩ chọn lựa...”.
“Chúng định phá chiếc cầu Pia-rết. Chúng định dùng tay m ình để
phá chiếc câu Pia-rễt! Trời P h ậ t ơi”.
Trước m ặt Rết-xi hiện ra con sông Klong Klung nước trong xanh lờ
lững. Dòng nước chìm sâu dưới hai bờ vực. M ột bên bờ là phum Xa-tia trù
phú. Bên kia là b ạt ngàn rừng núi. Ngươi dân X a-tia từ bao đời chuyên
sống bằng nghề ruộng rẫy. Đ ất bên bờ của phum Xa-tia không đủ nuôi
người. H àng ngày họ phải chèo thuyên sang bên kia sông kiếm sống. B át
cơm phải đổi mấy b át mồ hôi, nhiều khi, phum làng phải đổi bằng cả
máu. Về mùa mưa nước từ rừng trà n về b ất th ầ n gây ra những con lũ
lớn... nước lên cao hằng bảy, tám m ét cuô'n trôi biết bao m ạng người...
Năm bảy chín, đất nước được giải phóng. Quân đội cách m ạng của
Chủ tịch Hêng Xom-rin và bộ đội Việt Nam đã cứu th o át người dân phum
Xa-tia khỏi bàn tay Pôn Pốt, cứu luôn họ ra khỏi cảnh dói nghèo, ủ y ban

266
Cách m ạng phum đã quyết định mở đường, làm cầu, vượt sông sang khai
phá rừng chuẩn bị cho k ế hoạch làm ăn vững chắc và lâu dài...
Công việc làm cầu có nhiều khó khăn, nhưng lại được bộ đội công
binh Việt Nam giúp sức... toàn dân trong phum nô nức tham gia. Con
đường đã hoàn th àn h , chiếc cầu cũng chỉ mai mốt là xong. Niềm ước ao
từ lâu của người dân Xa-tia, trong đó có cả gia đình cô sắp trở thành sự
thật... Vậy mà...
“Cô nên biết rằng: M ặt trận kháng chiến không thiếu người. Nhưng
vì tôi vẫn thương cô, tôi đã chọn và giao cho cô để cô có thời cơ chuộc lại
tội lỗi. Không làm, th ảm họa sẽ ập xuống gia đình cô tức khấc. Bốn năm
sông dưới chế độ Campuchia dân chủ, chắc cô thừa hiểu những hình phạt
xứng đáng dành cho kẻ phản bội...”.
Rết-xi đưa cả hai bàn tay lên, ôm chặt lấy m ặt, lảo đảo di về góc
buồng, năm vật xuống giường, quằn quại.
Một lúc lâu, vơi cơn khóc, Rết-xi nằm nghiêng lắng nghe như có
tiếng ai đó nhẹ nhàng nói bên tai minh: “Sao Rết-xi định tìm cái chết để
qua cảnh này ư? Nghĩ lại đi, nghĩ lại đi? Bao năm trời, Rết-xi gánh chịu
những khó khăn tưởng như không vượt nổi. Vậy mà đành khoanh tay?
Buổi sáng Rết-xi tự bảo m ình buộc phải theo nó vào đây để tìm cách đối
phó sau. Nó đã tưởng Rết-xi sợ nó, phục tùng nó, nó nói rõ âm mưu bức
Rết-xi phá cầu, th ế là Rêt-xi đã thắng nó một lần rồi đấy. Tháng trước,
nó cũng định phá cầu. Rết-xi là phum đội phó, đã cùng bộ đội truy bắt
dược nhung bón ten, Ket-xi hẳn còn nhớ...”
Quãng sáu giờ chiều.
Có tiếng lạch cạch vội vã ngoài ổ khóa. Rết-xi giật thót người nhìn
ra — “Nó sẽ làm gì đây? Được, mày cứ đụng vào tao? - Cô đưa tay vuốt
m ặt, lấy lại dáng điệu bình th ản thì cánh cửa mở toang.
Xòm Năm bước nhanh vào. Cánh cửa lại vội vã khép chặt. 0 khóa
lại kêu đánh “tách".
Rết-xi như nín thở, mưu môi nhìn th ân hình nhỏ thó của hắn.
- Sao đế tối th ế này? Chắc Rêt-xi không có chnơ-eus (diêm). Xòm
Năm đến đúng chỗ đ ặt cây đèn, bật lửa. Ánh sáng tỏa ra soi rõ tấ t cả.

267
v ẫ n kiểu vội vã, Xòm Năm quăng đánh “b ẹt” chiếc mũ lưỡi tra i lên
bàn, kéo xệch ghế bảo Rết-xi ngồi. H ắn sang bên kia bàn, chân g ạt ghế,
ngồi đối diện với Rết-xi.
Rết-xi quay m ặt nhìn ra phía cửa sổ.
Xòm Năm, tay đặt lên ghềnh ghế:
- Cô quay lại đây. B ánh kẹo sao còn nguyên th ế này? - H ắn nhắc cái
ấm lên, lại đặt xuống - Cả nước nữa? Nhưng h ắn cũng không mời mọc gì
thêm - Thôi, làm việc đã, chốc ăn uống cũng được - và hắn h ấ t hàm hỏi
luôn - Cô Rết-xi, cô nghĩ th ế nào về những lời tôi nói hồi sáng?
Im lặng.
- Cô làm được chứ?
- Tôi chỉ muốn các ông th a cho bô mẹ tôi.
- Tức là cô sẽ làm!
- Tôi muôn từ nay về sau các ông đừng bao giờ bắt tôi và gia đình
tôi dính líu vào việc của các ông làm...
- Được. Chúng tôi sẽ thực hiện như lời cô yêu cầu. M ặt trậ n cứu nước
Campuchia dân chủ sẽ ghi nhớ công lao kháng chiến chống Việt Nam cho
cô và gia đình. Trước h ế t cô phải ký vào lá đơn tình nguyện xin nh ận và
hoàn th an h nhiệm vụ.
Xòm Năm chia ra trước m ặt Rết-xi tờ giấy ghi chữ chi chít và rút
c h iế c b u t b i t r ê n m i ẹ n g tú i á o đ ư a c h o R ế l- x i. H á n n ó i tiế p :

- Bây giờ, tôi sẽ phổ biến cho cô k ế hoạch phá cầu. P há ngay đêm
nay. (Rết-xi cố giấu vẻ kinh ngạc. “Thôi, trước sau nó cũng ép m ình phá -
Đi sớm càng biết sớm chúng tao m ạnh hay chúng mày mạnh). Xòm Năm
vẫn nói - Cầu Pia-rết bằng gỗ nhưng rấ t chắc. Có nhiều cách phá. Chúng
ta chọn phá bằng m ìn (hắn chuyển giọng nói “chúng ta ” một cách ngọt
xớt) - Chủ n h ậ t này chúng hoàn th à n h cầu. Đáng lẽ phá lúc nào cũng
được, nhưng phá tan cầu trước ngày chủng nó làm lễ khánh th àn h mới
đau. Lực lượng đi phá lần trước năm , hơi nhiều, lại chỉ có một người
thuộc đường, hợp đồng khó, nên th ấ t bại. Lần này hai thôi. Rết-xi, quá
thông thạo địa hình, du kích hay bộ đội Việt Nam có canh gác, nhưng vì
cô quen bọn chúng nên việc tiến vào, rú t ra đối với cô không khó. Người
nữa là tên đã đi lần trước. Chính hấn thuộc đường nên bị truy đuổi hắn
mới an toàn trở về. Rết-xi áp mìn. H ắn yểm hộ. L át nữa tôi chở cô về. Áp

268
m ìn xong cô lại đến chỗ chúng ta gặp nhau buổi sáng cây số 4 ấy, tôi đưa
ngay cô về bệnh viện. Mãi đến lúc cô lên giường nằm k ế bên m’dai (mẹ)
đó m ìn mởi nổ. T hần thánh, ma quỷ nào biết cô phá cầu? Thê có êm đẹp
không cô? Còn cách sử dụng mìn, cô không cần biết. Việc của cô chỉ áp
mìn thôi. Nào, tôi chỉ cho cô biết chỗ áp mìn...
Bài giảng của Xòm Năm có tờ vẽ hình cầu Pia-rết khá rõ ràng.
Một giờ sau, có tiếng gõ cửa. Xòm Năm ra mở khóa, đón từ bên
n g o à i a i đ ó c h u y ể n c h o h ắ n b a đ ĩa v ừ a th ứ c ă n v ừ a c ơ m .

Lần này hắn mời cẩn thận và đứng dậy đi ra khỏi cửa để một ninh
Rết-xi trong buồng.

Tới ngã ba đường rẽ vào phum, từ cửa rừng rậm, một bóng đen
khoác khẩu AK từ từ bước ra. Xòm Năm xuống xe, móc trá i mìn gói giấy
xi m ăng để trong chiếc làn của Rết-xi gác ở đầu xe, trao cho cô. Hắn gằn
nhỏ giọng, nói từng tiếng, vừa đủ nghe:
- Cô di theo anh này. Cách cầu năm mươi m ét, anh ta sẽ dừng lại
bảo vệ cô. Cô đi một m ình vào cầu gài mìn theo đúng vị trí tôi đã dặn.
Nếu sai, m ìn nổ chỗ khác, cầu không phá được, cô hoàn toàn chịu trách
nhiệm . Tôi sẽ chờ nơi đã hẹn, chở cô về bệnh viện như tôi đã hứa.
Rết-xi đón lấy trái mìn trong tay tên giặc. Tuy đã có lường trước
giây phút này, nhưng sống lưng cô vẫn đột ngột lạnh toát.
Đêm đặc quánh. Phum làng xa tít le lói án h đèn. Căn lán của các
anh bộ đội ở nơi xa xa cũng le lói ánh đèn... “Trời ơi! Cô, bác, anh chị em
du kích trong phum có biết không? Các anh bộ đội có biết không... Địch!
Địch! Quân Pôn Pốt đang ôm mìn đi phá cầu Pia-rết, các anh ơi! Các anh
tuần tra, canh gác ở đâu, ở đâu...”.
Đêm vẫn đặc quánh. Phía xa tít vẫn le lói ánh dèn.
Nhưng nòng súng AK phía sau đã gí vào người Rết-xi:
- Vị trí tôi ở đây. Xác cô nằm trước mũi súng. Làm, đúng như lời lục
thum (ông lớn) Xòm Năm. Lên đi. Chú ý thấy bộ đội, nằm xuống, nó đi
khuất hãy lên? - Tên “yểm hộ” nói xong, hắn nép vào một lùm cây.
Rết-xi đi như bơi đến cây cầu. Cô dừng lại giây lát — “Quăng trái
mìn xuống lòng sông? Không nên, làm thê không bất được chúng nó” -
Rết-xi muốn gọi th ật to các anh bộ đội, du kích —“Nhưng các anh, các chị
269
tốĩ nay đứng chỗ nào, đi quãng nào? C ất tiến g gọi, th ằn g giặc nằm kia sẽ
siết cò...”.
Quả m ìn vẫn cắp bên sườn, Rết-xi chầm chậm bước.
Mới chưa đầy ba phút, Rết-xi tưởng đã hàng giờ. Quả m ìn như nở
căng trê n tay, sắp nổ đến nơi.
Nhưng điều gì Rết-xi đang nóng lòng chờ đợi th ì nó đã đến: Từ phía
đoạn đường gấp khúc, bỗng một, hai... rồi bốn bóng người xuất hiện —“Bộ
đội? Các anh bộ đội, các anh du kích nữa - Bốn người chia làm hai nhóm
di lên đầu cầu. Tim Rết-xi th ắ t lại...
- Rết-xi! N ằm xuông? Đợi chúng đi qua đã! - Tên giặc Pôn Pốt đã lao
đến nấp tro n g bụi cạch Rết-xi m ột quãng ngắn, quát khè. Rồi hắn lại lủi
xuống, mở khóa nòng khẩu súng AK nghe “cạch” m ột tiếng ghê rợn. Rết-
xi làm theo hắn. “ừ , tao nằm, tao đợi...”. M ắt cô hoa lên khi th ấy một
nhóm đã di tới giữa cầu. Toàn th ân Rết-xi càng run lên. Quả m ìn cứ như
sắp tuột khỏi vòng tay cô.
Nhóm của Nguyễn vừa bước qua m ố cuối cùng của cây cầu P ia-rết thì
Rết-xi vẫn ép dán m ình ở vệ đường, đột ngột th é t lên:
- Mìn. Giặc nó đánh mìn, các anh ơi!
T iếng th é t của cô lạc đi như xé m àn đêm.
“Pằng... Pằng... Pằng!” Một loạt đạn AK đồng thời rung lên phía sau
Rết-xi. Bắp chân cô nhói buốt...
- Mìn! Giặc nó đánh mìn các anh ơi!
T iếng th é t của cô vẫn át cả những tiếng nổ tiếp theo.
Khẩu AK của tên giặc càng điên cuồng xả đạn. Những luồng lửa đỏ
lừ nối nhau bay vun vút trê n lưng Rết-xi.
Trong giây phút, Nguyễn hiểu tấ t cả. A nh cho ba người tổ chúc truy
quét.
- Các anh ơi, mìn! Mìn!
- M ìn ở đâu? Ai đây - Nguyễn xộc tới phía có tiếng gọi.
- Em! Em đây...
- Ai?

270
- Ai? Rết-xi? P hải Rết-xi không?
- Anh Nguyễn! - Rết-xi từ vệ đường, buông quả mìn, b ật dậy. Cô
nắm chặt vạt áo Nguyễn. Tiếng cô nghẹn lại:
- Anh ơi! Mìn.
- Mìn ở đâu?
- Kia kìa!
- Sao lại như vậy được?
- Mìn chúng nó b ắt em đi gài.
Rết-xi buông Nguyễn, chệnh choạng bước về chỗ quả mìn. “H ình như
cô ấy bị thương?” Nguyễn quay lại định dìu cô. Nhưng Rết-xi gạt anh lại:
- Để em m ang nó quẳng xuống sông! Còn th ằn g Xòm Năm ở cây sô'
4, em không nghĩ được cách đưa nó vào đây để các anh bắt, nó đi mô tô.
Thấy mưu không th àn h có th ể nó lên bệnh viện để giết mẹ em!
Đại đội trưởng Hòa và phum đội trưởng Via-sơ-bâu đã lao đến. Nắm
rõ tìn h hình, các anh n h anh chóng triển khai truy quét. Nguyễn dẫn đầu
một tiểu đội phóng như bay lên phía trước.
Quả mìn - nỗi kinh hoàng của Rết-xi được các chiến sĩ công binh đại
đội Chín làm m ất tác dụng, nằm chềnh ềnh giữa m ặt đường.
P hía xa nổi lên tiếng trống mõ. Phum Xa-tia đỏ rực án h đuốc.
R ế t x i ứ a n ư ớ c m ắ t , n g ồ i x u ô n g . T r ê n l à n m ô i b ấ y lâ u k liồ l ié o c ủ a
CÔ, giờ phút này mới phảng p h ất một nụ cười.

Trại viết Quân đoàn 4


Phnôm Pẽnh tháng 5 năm 1982

NGÔ QUỐC DÂN

271
CHĂN THA

TRẦN THUỲ MAI

Tôi gặp C hăn T ha tấ t cả ba lần.


Lần th ứ n h ất, nàn g đến giữa tro tà n của th ị xã Xiêm Riệp.
Cả đống xương người đang được gom lại ngay cạnh đền Ăngko Vát.
Trước đống xương trắn g , m ột thiếu nữ Cam puchia đứng gục đầu, tóc bay
lòa xòa trước gió.
Tôi đến gần, hỏi bằng tiếng Campuchia:
- Em cần gì?
- Em tìm cha em. Cô gái trá lời, rồi ngước nhìn tôi: trên khuôn mặt
vàng bủng là đôi m ắt đen, to, não nề, sâu thẳm .
Cách m ấy hôm sau, đại đội tôi khám phá ra m ột cái giếng, bên dưới
có tám bao tải chứa xác người đã mục ruỗng.
Những xác người rữa n á t đ ặt nằm trê n đất, đen xỉn, quắt queo,
khuôn m ặt dúm dó th ậ t kinh hoàng. Trong lúc chờ đem chôn, chúng tôi
phải dùng háng súng đuổi lũ chó đang chực xông vào. Mùi tanh nồng nặc.
Giữa lúc ấy, tôi chợt cảm thấy có người nh ìn từ sau lưng. Một mái
tóc rũ rượi, m ột đôi m ắt nh ẫn nhục ảo não: C hăn Tha.
- Lục Thum cho em đến gần m ấy cái xác.
Nửa giờ sau, em gái quay lại, vẻ tuyệt vọng. N àng chắp tay lại trước
m ặt tôi như chào từ giã.
Tôi bùi ngùi đ ặt tay lên vai nàng:
- Chào nhé C hăn Tha. Chúc em gặp m ay hơn ở nơi khác.
B ất chợt, nàng qụy xuống và đổ gục... H ốt hoảng, tôi đỡ nang lên và
n h ận ra dưới đôi môi run rẩy là cái đói đang hoành hàn h dữ dội.

272
Tôi cứu tỉnh Chăn Tha bằng mấy bát nước cháo. Sau đó, nàng cùng
ở với chúng tôi hơn nửa th án g trời. Vào đêm đại đội nhận lệnh h àn h
quân bên Sóc-ni-kun, tôi chuẩn bị ba lô rồi sang từ biệt nàng.
Băng qua con đường nhỏ lẫn trong cỏ tran h giữa hai lán trại, tôi
nghe tiếng người gọi. C hăn Tha đang ở bên bờ giếng. T răng thượng tuần
phủ lên cả người, cả cỏ cây, lóng lánh một màu ngân nhũ.
Nàng đang tắm , vai để trần, tấm xà rông đỏ quấn từ ngực xuống ướt
đẫm. Lần đầu tiên tôi nhận ra Chăn Tha đẹp: những dường cong trên
ngươi nàng mềm mại. Tôi bối rối dừng lại.
- Lục Thum hãy lại đây. - Chăn Tha dịu dàng bảo tôi. - Từ trước đến
nay, nàng vẫn gọi tôi là Lục Thum (ông lớn) mặc dù tôi phản đối. Mắt
Chăn Tha chìm trong m ột quầng đen huyền hoặc:
- Em sẽ không nhìn thấy Lục Thum nữa. Rồi em cũng trở về phum
thôi.
- Em trở về, rồi sống ra sao?
Lúc ấy Campuchia chưa ra khỏi cơn khủng hoảng sau chiến tranh.
- Chắc là khổ nhưng ở dó em còn thằng Xai Xà Rông em tra i của
em, nó chĩ còn em trên đời này thôi.
Tôi rất muốn nắm tay Chăn Tha để từ giã, nhưng vẫn bối rỗi đứng
im. Tục lệ Campuchia, ai không được phép mà tự tiện nắm tay con gái sẽ
có t h ế b ị p h ạ t vạ m ộ t bò. N ấ m ta y th iế u nữ v à SỪ dầu Irẻ COI1, đó là h a i
điều tối kỵ m à người lính chúng tôi đều biết.
Chừng như hiểu ý, C hăn Tha bỗng nắm lấy tay tôi, ủ vào giữa đôi
tay nàng. T hật bất ngờ, nàng bước đến sát bên tôi. Tôi hoa m ắt: đôi gò
vú tròn trin h của nàng nổi bật lên dưới tấm xà rông ướt đẫm. T hân hình
nàng đầy đặn hiện ra dưới trăng, với mớ tóc ướt đang nhỏ nước ròng
ròng xuống đôi vai. N àng đăm đăm nhìn tôi vẻ m ặt nghiêm tran g và
hoang dã. “Lục Thum đã cứu sống em, vậy mà em chưa có gì để đền ơn”.
Chăn Tha nói, giọng kh àn, đục nhưng rấ t rành rọt... Với sự nhạy cảm của
đàn bà, nàng đã hiểu đlược nỗi khao khát của người lính xa nhà.
Tôi ôm lấy thân t h ể mềm mại của nàng. N àng ướt đẫm, gợi cảm và
nóng ấm. Tôi là một người đàn ông, và tôi biết m ình đang giữ trong tay
một món quà tặng tuyệt vời. Những không hiểu sao, giữa lúc đó, nước
m ắt tôi cứ trào ra, không thế cầm được?

273
“Không, C hăn T h a”. Tôi kéo lấy mí xà rông, kéo lên che kín ngực
nàng. N àng giữ hai tay tôi lại, khẩn khoản:
- Lục Thum dể cho em th àn h người vô ân, Lục Thum không tố t đâu.
Tôi lắc đầu:
- Thôi em về đi, ngủ ngon đi. c ầ u em sống yên lành. Đừng gọi tôi là
Lục Thum, tôi chỉ muốn là bạn của em thôi.
C hăn Tha lùi lại, n hìn sững tôi, rồi nàn g chắp tay cúi chào tôi rấ t
thấp.
Lúc ngẩng người lên, môi nàng th ấp thoáng nụ cười kỳ lạ, m ột nụ
cười ngậm ngùi pha lẫn xót xa.
Đó là m ột đêm rằm mùa thu. v ề sau tôi cứ bị ám ả n h bởi nụ cười
của nàng khi gặp tôi lần cuối, và chợt nhớ ra: dó chính là nụ cười bí ẩn
trê n tháp Bayon bốn m ặt.
Sáu năm sau.
Cam puchia hồi sinh, nhưng hồi sinh tro n g khói lửa.
Tôi n h ận nhiệm vụ tiểu đoàn phó được m ột ngày th ì đụng độ nổ ra ở
vùng ven rừng Biển Hồ. Rừng Biển Hồ dày đặc, cây côi xen vào nhau kín
mít, chỉ chừa lối đi k h u ất mờ trong cỏ... Nhưng lối đi thường cài m ìn chi
chít, để trá n h m ìn chung tôi phải phát rừng m à đi. Mưa dầm dề, có
những lúc nhấc chân lên mới hay đ ế giày đã nằm lại dưới bùn lầy từ lúc
nào không biết.
Chúng tôi nghỉ ngơi trong một phum đơn độc giữa hai quãng rừng.
Đ ất còn ướt, vì th ế tấ t cả đều ngủ trê n võng. T hằng Hưng cần vụ và cậu
trợ lý tác chiến tiểu đoàn nằm gần tôi. Vừa th iếp đi m ột tí, bỗng tôi mở
m ắt. Có tiến g động sột soạt trong lá cây. Tôi nhỏm dậy định xuống võng
thì Hưng đã dậy trước tôi. Một tiếng nổ chát chúa vang lên, Hưng nhào
xuống, hai chân dập n á t dầm đìa máu. Tôi quát to:
- Cẩn th ận , địch cài m ìn dưới dép!
Đằng xa tro n g lùm cây có chỗ lay động: có người đang luồn rừng
trốn chạy. Cậu trợ lý tác chiến tiểu đoàn nghiến răng, nhắm bắn. Cái
bóng đổ xuống, lặng im.

274
Xác kẻ chôn m ìn được lôi vào. Một cái xác m ảnh mai, da ngăm
ngăm đã xám lại. M ột thiếu niên Campuchia còn trẻ hơn cả thằng Hưng.
Viên đạn xuyên từ bả vai trái trổ tới, máu chỉ rỉ ra vài giọt.
Lúc sắp lên đường, bỗng có tiếng huyên náo. Cái xác lật sấp trong
sân đã có người đến nhận. T ất cả chúng tôi ngạc nhiên quay lại nhìn m ặt
con người cả gan ấy.
Một cô gái đứng lặng lẽ trước cái xác bé nhỏ, tóc rũ rượi in lên cây
rừng và bầu trời xám ngắt. Cô dường như không để ý gì đến đoàn người
súng ống vây quanh, đôi m ắt đăm đăm, não nề, sâu thẳm .
- Xai Xà Rông, em ơi!
Cô gái quỳ xuống. Tiếng kêu như dao đâm vào ruột. Tôi rùng mình
nhận ra C hăn Tha.
Giữa phút ấy, cô gái nhìn lên, m ắt như đóng đinh vào khuôn m ặt
tôi. Tôi ngạc nhiên th ấy nàng không khóc, v ề sau này, nàng bảo tôi:
- Người Campuchia không khóc người chết, để cho họ th ản h thơi đi
lên cõi trời bất diệt. Chỉ đau khổ cho người sông phải chia ly...

Mùa khô năm ấy tôi được di phép mấy ngày ngắn ngủi, rồi quay lại
với chiến trường. Đ ất Campuchia th ật kỳ lạ, mùa mưa nơi nào cũng lầy
lội ướt sũng vậy m à sang mùa khô tấ t cả giếng dều cạn, đ ất khô cỏ héo,
lấ t cả nưức liìiili nliư bi liúl xuông tận lòng quả dût. Di hànli quân, có lúc
chúng tôi phải liếm những giọt sương trên lá cho đỡ khát. Nhưng, sương
mùa khô thường rấ t mỏng...
Cảnh người chiến sĩ bị thương giữa rừng đã khốn đốh, bị thương vào
mùa khô càng nguy kịch. Thường nạn nhân chết vì k h á t trước khi bị vết
thương hàn h mà chết. Đấy chính là tình cảnh tôi sau m ột trậ n phục kích
năm 1986: một m ình lạc trong rừng, vai mang vết thương, đôi môi khô
quánh. Tôi vừa đi vừa ngã sấp ngã ngửa, không th ể định hướng được
đường về. Lúc ấy hai chân và tấ t cả giác quan của tôi chỉ hoạt động theo
bản năng sinh tồn th uần tuý, hướng về hai mục đích: trá n h m ìn và tìm
nước.
Ngày thứ ba lạc rừng, m ắt tôi bắt đầu mờ đi. Vậy m à sao trên trời
sao m à sáng thế. Những ngôi sao nhấp nháy ấy báo hiệu trời sẽ còn nắng

275
to nữa. Những ngày qua, tôi đa nhai lá cây, đã liếm những giọt sương
m ỏng trê n lá. Tôi ngã quỵ, súng rơi khỏi tay.
Một bóng người hiện ra, mờ m ịt nước m ặt tôi. Một bóng người có
đầu tóc rũ rượi đôi m ắt não nề chập chờn trước m ắt tôi. Chợt tôi tỉnh
h ẳn lại khi th ấy con dao sáng rực trong tay người ấy. Đó là m ột cô gái:
tôi n h ận ra C hăn Tha với con dao rừng nhọn hoắt.
Bấy giờ tôi mới n h ận ra m ấy hôm nay, th ỉn h thoảng b ất chợt tôi
cảm thây như có người theo dõi. Vì phải vật lộn với cơn k h á t và nỗi đau
nhức nên tôi đã tự trấ n an rằng đó chỉ là ảo giác. Nhưng bây giờ thì thực
rồi: C hăn T ha đã kiên nhẫn bám theo tôi như người thợ săn bám theo
con hổ bị thương. Giờ phút này, nàng mới hiện ra để đòi lại m áu của Xai
Xà Rông, em nàng.
Cây súng đã rơi k há xa tay tôi. Bình thường tôi là tay th iện xạ, bắn
hai p h át đạn cùng xuyên qua m ột chiếc lá. Nhưng C hăn T ha quá gần,
nếu đưa tay với lấy súng có th ể nàng sẽ ch ặt đứt tay tôi. Chỉ còn một
cách nằm im đợi lưỡi dao chém xuống. Ánh dao vừa loáng lên, tôi lập tức
lăn qua m ột bên ôm lấy chân C hăn Tha g iật m ạnh. Cô gái m ất đà ngã
nhào. Cuộc v ật lộn b ắt đầu. Chăn T ha là con gái nhưng cô ta hoàn toàn
m ạnh khỏe. Còn tôi vừa bị thương lại vừa đói k h á t đến k iệt sức.
Cái ch ết chờn vờn trước m ặt tôi, ẩn h iện tro n g đôi m ắt C hăn Tha
đang bừng cháy. “C hăn Tha, cô không nhớ cái đêm bên bờ giếng sao?”
B ất chợt tôi phì phò hỏi nàng qua hơi thở cạn kiệt.
T h ật b ấ t ngờ, C hăn Tha khựng lại. Những nếp hằn trê n m ặt giãn
ra, vẻ m ặt cô chợt dịu lại thoáng vẻ trẻ thơ. Cô th ừ ra nhìn tôi “Không,
em vẫn nhớ. Em còn mắc nợ ông”. Bỗng nàng bụm m ặt, òa khóc:
- Lục Thum ơi? Sao ông lại giết Xai Xà Rông?
- Xai Xà Rông muôn giết chúng tôi, Chăn T ha b iết rõ như vậy mà.
Chăn T ha rấm rức khóc một lúc, rồi nàng n h ận ra: tôi đã cầm lại
được cây súng.
- Ông định bắn em? Vậy ông hãy bắn đi, em khổ lắm , vì ông vừa là
người ân, vừa là kẻ thù của em. Nếu em chết rồi th ì chẳng bao giờ phải
khổ tâm nữa.
- Không, tôi không bắn. Tôi thương C hăn Tha, tôi không ghét Chăn
Tha, không muôn giết C hăn Tha.

276
Tiếng tôi thều thào giữa đôi môi khô quánh. B ất chợt tôi th ấy nước
m ắt nàng m ằn m ặn th ấm vào giữa môi tôi. Tôi ngã vật xuống, lịm đi,
không biết gì nữa.
C hẳng b iết tôi đã ngất đi như th ế bao lâu, cho đến khi có tiếng
người gọi xa xa từ đâu dó vọng tới. Tôi mơ m àng thấy m ình bơi trong
m ột ao nước trong xanh m át rượi, tiếng người gọi hìn h như đâu từ tít bên
bờ vọng lại. Tôi mở m ắt: Chăn Tha đang cúi xuống bên tôi, nàng dang
nhỏ cho tôi từng giọt, từng giọt nước. Thấy tôi tỉn h lại nàng vui mừng
rạn g rỡ: “Ôi! Lục Thum! Lục Thum không chết”.
Tôi liếm môi, cựa m ình, thây thân thể như cây cỏ tươi lại sau cơn
mưa. 0 rơm dưới lưng tôi kêu xào xạc. Chăn Tha đã cõng tôi về dây,
trong túp lều chăn vịt bên bờ ao cạn. Nắng từ những lỗ thủng trê n nóc
chòi lốm đốm làm tôi hoa mắt. Chăn Tha bước ra ngồi rồi trở vào, tay
bưng tô cháo nóng. Tôi nhìn theo thấy vóc người nàng uyển chuyển và
m ập mờ như từ một th ế giới huyền ảo khác mà đến. Dựa đầu vào ngực
nàng, tôi húp bát cháo nóng, ngoan ngoãn như đứa trẻ ô'm trong lòng mẹ.
Ngoài cửa chòi, những sợi khói xanh lam m ỏng m ảnh vươn cao rồi
n h ạ t nhòa trên nền trời. Xa xa dưới kia là m ảnh ao đã cạn, chỉ còn lại
một vũng nước nhỏ, trên vũng nước sót lại một bông súng lạc loài đỏ
thắm .
Bảy ngày đêm C hăn Tha nuôi tôi trong túp chòi lá ven ao. Không có
ai ngoài hai chúng tôi và một con trăn nhỏ trong góc chòi, con tră n nàng
nuôi đế b ắt chuột. Đêm đêm, nàng rúc vào nách tôi như con chó con đùa
nghịch. Tấm th â n nàng mềm, ấm, quấn lấy tôi ấp ủ. Tôi th ì thầm trong
lúc ôm ghì lấy nàng:
- Em đúng là con gái của thần rắn Nagar, C hăn Tha ạ.
N àng không đáp lời tôi. Ngoài xa kia, tiếng tấc kè kêu, đĩnh đạc to
vang rồi im bặt. Đêm ở đây yên tĩnh quá, tôi nghe rõ tiếng nàng thở,
tiếng sự sông rung động dưới làn da, và cả giây phút tim tôi vỡ òa trong
lồng ngực.
Đến ngày thứ bảy, C hăn Tha nấu cơm nếp, v ắt th àn h nắm to, đựng
nước vào chiếc “bình tông” lớn. “Chăn Tha ơi, cùng về với an h ”. Tôi dỗ
nàng. Nhưng nàng lấc đầu, đôi m ắt não nề, sâu thẳm . N àng nh ìn tôi rồi
từ từ nhìn lên vách. Ớ đó có con dao rừng sáng loáng. Con dao của Xai
Xà Rông. “Con dao nó thỉnh thoảng đòi máu của anh, em sợ lắm. Anh

277
biết không, bảy ngày đêm rồi, hôm nào em cũng phải khấn với nó: để em
đền ơn anh xong đã, rồi sẽ “báo thù””. Tôi lạn h m ình vì điều bộc lộ chất
phác m à rợn người của C hăn Tha. B ất chợt nàng ôm ghì lấy tôi, đôi môi
cuồng nh iệt của nàng lại sưởi ấm th ân tôi. Trong lần mê đắm cuối cùng,
chưa bao giờ tôi thấy C hăn Tha gần gũi m à lại xa cách như thế. “Anh đi
đi, đi th ậ t nhanh, đừng bao giờ quay lại nữa”.
Ngay hôm ấy, tôi lên đường tìm về đơn vị. Tôi biết, nếu còn ở lại có
th ể là tôi sẽ chết dưới tay nàng, hoặc cả hai đứa tôi sẽ chịu ơn nhau đến
chẳng bao giờ trả nổi.
Hai năm sau, chiến trường phần nào lắng dịu. Tôi chuyển về đóng
quân ở huyện Puốc. Đời lính những năm này đã bớt gian khổ. Chúng tôi
ăn uống tương đối đầy đủ, quần áo chỉnh tề. Lính ở đơn vị tôi đã có thời
giơ tá n gẫu với các cô th ô n nữ, luôn m iệng đùa: “Ôn xrơ lanh boóng tê?
(Em có yêu anh không?).
Phần Chăn Tha nàng m ãi m ãi bặt tăm .
Một lần, tôi có việc ra chợ Xiêm Riệp cùng với cậu cần vụ. Tôi
không vào chợ, chỉ ngồi trê n xe commăngca mở đài ra nghe. Cậu cần vụ
mua sắm xong, ra xe, tay xách một giỏ bông súng:
- Một cô gái Campuchia nhờ em cầm giỏ bông súng này ra cho anh
Cô ấy bảo gửi biếu Lục Thum vì biết Lục Thum thích ăn canh chua bông
súng.
Tỏi tái m ạt, bảu cậu cần vụ quay lại Ü111 . Nhưng vO ích. Kỉiũng cần
phải nghe tả lại hình dáng, tôi biết ngay dấy là C hăn Tha.
Từ đô tôi luôn sống với cái cảm giác như đã từng th ấy khi kiệt sức lê
từng bước trong rừng già. Cái cảm giác ai đó theo dõi m ình trong từng
bước đi. Có một cái bóng đeo theo tôi. Tôi cố tìm , trong mỗi chặng dường
đi qua, mỗi mái nhà tôi đến. Nhưng chỉ là m ột cái bóng, không ai nắm
bắt được một cái bóng bao giờ.

Dần dần, tấ t cả cũng phôi pha. T háng 9 năm 1989, quân đội Việt
Nam hoàn toàn rú t về nước. Trung đoàn tôi đi vào gần cuối đội hình
hàn h quân.
Sáng xuất phát, tấ t cả ra đứng ven đương, chờ đoàn xe đi qua, đợi
đến mình.
lượt

278
H àng trăm chiếc xe nối nhau, sẵn sàng cho chuyên đi dài: xuyên
qua bảy tỉn h của Campuchia qua cửa khẩu Mộc Bài trở về quê mẹ. Hai
bên đường, dân đứng sắp hàng san sát, vẫy tay chào. Trời nắng. Tôi ngồi
một m ình trê n xe Jeep trông ra. Các đồng đội đang xuống xe ngồi bên vệ
cỏ, uống nước dừa trong bóng mát.
Chợt có ai đó đến bên tôi. Cảm giác kỳ lạ vụt đến, cảm giác lúc tôi ở
trong rừng Biển Hồ. Chăn Tha. Không ngờ, sau ba lần gặp gỡ định mệnh
còn cho tôi gặp nàng thêm m ột lần nữa, vào giờ phút ngắn ngủi này.
N àng đứng đó, nhìn tôi, tay bế một đứa bé khoảng lên ba.
- Chăn Tha. Bao nhiêu năm nay em ở đâu? Tại sao giờ này Chăn
Tha mới đến? N àng đứng đó, nhìn tôi, mái tóc đen che khuất một phần
trong chiếc kh ăn cro-ma bằng lụa tơ tằm màu cánh sen. M ắt nàng vẫn to
đen, sâu thẳm . Đứa bé áp đầu vào má nàng, tay m ân mê bộ ngực tròn
trặ n sau làn áo mẹ. M ắt nó cũng đen như m ắt nàng, nhưng da sáng, tóc
mượt chứ không quăn. T rên khuôn mặt của đứa bé tôi nhận ra khuôn
m ặt của chính mình.
Tôi b ế đứa nhỏ vào lòng trà n ngập yêu thương và oán trách. Tại sao
con tôi ra đời không thấy m ặt tôi! Chăn Tha nhìn vẻ m ặt nghẹn ngào
của tôi, môi nàng thoáng m ột nụ cười phảng p hất buồn.
Mùa khô năm ấy, sau khi tôi về lại đơn vị, Chăn Tha cũng về lại
phum và biết m ình có thai. Quân Pôn Pôt ngầm trong dân ép Chăn Tha
xuống đơn vị kiện cáo và gây rắc rối, nhưng nàng không chịu. Bụng
mang dạ chửa, nàng m ột m ình một thân trốn về thị xã. Trong cảnh túng
cùng, nàng được một người đàn ông Campuchia lớn tuổi đùm bọc. Chăn
Tha sinh con và nh ận là vợ người đàn ông. Tục ở Campuchia, con gái
thách cưới rấ t cao, những người nghèo thường rấ t khó lấy vợ, chỉ lấy
được các bà góa hoặc gái lỡ làng, nghĩa là những người không có quyền
thách cưới...
Tôi ôm ghì đứa con vào lòng. “Chăn Tha ơi, hãy về với anh!” Chăn
Tha lắc đầu, m ất lấp lánh yêu thương. Trong bao nhiêu năm, sau ngày
sinh con, Chăn Tha vẫn treo con dao rừng trê n vách. Đến tháng chín này
nghe tin quân Việt Nam rút về, nàng ném con dao xuống con mương hoa
súng, nói với mọi người:
- Xai Xà Rông đi đầu thai rồi! Nó không còn lẩn quất ở dây nữa đâu.

279
T h ế rồi C hăn T ha cùng với chồng bế con ngược lên huyện Puô'c tìm
tôi từ giã.
Kể đầu đuôi tới tôi xong, Chăn Tha vẫy chồng đến chào. Tôi th ắ t
ruột th ắ t gan vì th ấy chồng nàng quá già, râu tóc đã điểm bạc. Bên cạnh
chồng, C hăn T ha đẹp đầy dặn như m ặt trăn g trò n sáng rỡ.
Tôi n h ìn con tôi, cố ghi nhớ những đường n é t trê n khuôn m ặt ngây
thơ. “T ên con là gì. C hăn Tha?”
- T ên con là Xóc Xơ Bai, nghĩa là từ giã. Nào vẫy tay chào bô' đ
con? C hăn T ha n h ìn tôi, dôi m ắt nàng ánh lên vẻ dịu dàng m an dại của
một góc rừng m ùa khô năm xưa. Bất chợt nước m ất nàng trào ra trê n
má: ngươi con gái Cam puchia không khóc trước cái chết nay đã khóc khi
vô tìn h nhớ lại khoảnh khắc hạnh phúc ngắn ngủi của m ột đời người.
C hăn Tha ơi! Từ b iệt C hăn Tha! C hăn T ha hận thù, yêu thương
nồng n àn và kiêu hãnh! Giữa hồi ức về những th á p đá Bayon bôn m ặt,
đâu mới thực là khuôn m ặt của em.

TRẦN THUỲ MAI

280
CHUYỆN ở PAI-LIN

DẠ NGÂN

Chưa bao giờ tôi thích nhìn cô bạn mỏng m anh của tôi, bằng buổi
tối ấy. Cô nàng ngồi trên băng ghế, lọt thỏm giữa tôi và bác sĩ Quang,
tiểu doàn phó tiểu đoàn quân y của đoàn N. Bên kia bàn là Chánh,
trưởng đoàn chúng tôi cúng với thiếu úy Chất, cán bộ tuyên huấn của đơn
vị. Trên chiếc bàn dã chiến chôn chân giữa lán tranh, m ặt bàn ghép
bằng ván thùng đạn B.40, lùm lùm những chùm nhãn do m ột y tá trẻ vừa
hái xuống trong ánh sáng đèn pin. Vài tháng trước, vùng này là vùng
tran h chấp giữa chính quyền cách m ạng Cam puchia và bọn Pôn Pôt ở
m ật khu Tà Sanh gần đó. Bọn lính áo đen nay được thay bằng áo xanh
Tô Châu Trung Quốc, đêm đêm mò ra vơ vét lúa gạo và tran h với dân bất
kể thứ trá i gì ăn được trong những m ành vườn ngày xưa sầm uất giờ rậm
rạp, hoang vu. Lúc chúng tôi đến thăm đoàn N. nhân dân đã lác đác trở
về cùng lúc với mùa nhãn chín tươi. Tuy vậy chim chóc vẫn th a hồ phè
phỡn trên vùng đất thiên nhiên biệt đãi cho những loại cây ăn trá i cao
cấp mà không cần nhiều công, nhiều nước như xoài, m ãng cầu dai. Tháng
tám , th án g của những cơn gió đêm bất thường lồng lộn m ang vào nhà
mùi trá i chín nguài vườu lioang. Có những giây lál gió ngừng, hưong
nhãn đột nhiên lắng lại, như có cô tiên vừa dừng bước trước cửa lán và để
trà n vào cái hương thơm quyến rũ của nàng.
Cô bạn Sa của tôi sung sướng nhận từ tay bác sĩ Quang trá i nhãn đã
bóc nửa vỏ rưng rưng nước rồi xoay xoay nó giữa những ngón tay lung
tung. Đôi m ắt sâu, hàng mi đẹp chớp chởp nhìn anh chàng bác sĩ có
gương m ặt hơi gân guốc và dừng lại vào đôi tay rấ t nhỏ, rấ t mềm của
anh. Quả anh có đôi tay như sinh ra là để cầm dao mổ. Trước khi đến
bệnh xá, thiếu úy C hất dã cho tôi nghe mấy giai thoại chung quanh bàn
tay của bác sĩ Quang. “Ra trậ n mà biết phía sau có bác sĩ Quang là yên
tâm ngay”. Anh em chiến sĩ bảo vậy.
Trong khi Quang nói về bịnh sốt rét, về con muỗi ba vòi, về thời tiết
trái tín h trái nết của Pai Lin, Sa vẫn không rời m ắt khỏi Quang, khó mà

281
biết cô nàng đang quan tâm cái gì hơn: bàn tay của bác sĩ Quang hay
những con muỗi truyền bệnh?
Tôi nhìn sâu vào đôi m ắt long lanh của cô bạn trong khi nó nói
năng ríu rít, cả hai dấu hiệu đều không bình thường. T hinh thoảng, cô
nàng nhìn sang phía C hánh, cái nhìn so sánh, đầy ý nghĩa. H ình như
Chánh xanh xao hơn, phần vì hai ngày đường vất vả vừa qua, phần vì cái
nhìn ấy của Sa - Dù mới quen C hánh qua đoạn đường ba trăm cây số từ
Phôm Pênh đến đây, nhưng từ lâu tôi đã b iết anh. Tôi nhìn thấy anh ở
nhưng cuộc hội nghị phụ nữ tỉnh m à tôi thường là đại biểu đại diện cho
thị hội thị xã Cần Thơ. Tôi còn nh ìn thây a n h rõ hơn qua quan hệ giữa
anh và Sa, đề tài mỗi khi chúng tôi gặp nhau trong những buổi tối.
Chánh là Trưởng văn phòng của Tỉnh hội phụ nữ, chỗ Sa công tác.
Anh sông chỉn chu, tậ n tụy với chức trác h của m ình. Mới m ấy ngày
dường vừa qua, tôi còn khám phá ra anh là người tậ n tụy trong tìn h yêu.
Hôm ấy, để cho Sa đỡ xóc trê n băng ghế chiếc GMC không mui, bằng
mọi cách, kể cả việc phải trả ơn cho những anh bộ đội đi cùng bằng nụ
cười cố định, khi họ cố moi từ trong đông sách báo ra cái túi xách để
C hánh lấy cái mền. Anh buộc Sa phải ngồi lên cái m ền ấy và Sa bé bỏng
đã ngoan ngoãn nghe theo như đứa trẻ. Hầu như lần nào xe nghỉ, anh
cũng lượn lờ quanh cô dù Sa của tôi đã bị vây giữa những anh bộ đội
đồng hành. Lên xe, anh nhanh nhẹn trèo qua th àn h ghế, chiếm chỗ đầu
băng, ý tứ chừa ra m ột chỗ hẹp cho Sa và khi cô ngồi ghé xuống, cánh
tay bồi hồi của anh h ết đặt lên th à n h g h ế sau lưng Sa rồi lại th u về,
những ngón tay trắn g trẻo lùa vào mái tóc th ậ t mượt. Giờ đây, vẻ xanh
xao làm cho anh th àn h bạch tạng giữa thiếu úy C hất xám xịt sốt ré t và
bác sĩ Quang phong trần . Anh đã b ắt gặp những dấu hiệu không bình
thường ở Sa nhưng anh vội dời m ắt về chỗ cũ, như sợ những giây phút lơ
đãng thì gương m ặt nhỏ nhắn xinh xinh của cô bạn tôi sẽ thuộc về người
khác! M ắt anh vừa mơn m an âu yếm trên gương m ặt Sa như vừa tỏ ra
khổ sở vì th ấy phút chốc m ình bị lu mờ, bị quên bỏ. Từng lúc, cái gờ
không bình thường trê n sóng mũi anh như nhô lên hơn, toàn bộ n é t m ặt
thu lại trông có phần tồi tội. Nhưng khi m ắt Sa lướt lên nó th ì nó lập tức
giãn ra, luống cuống như nó vừa phạm lỗi. Khi bác sĩ Quang nói, C hánh
vừa quan sát anh vừa coi chừng Sa, gương m ặt th o ắt thu lại trong vẻ
ganh tị, tho ắt giãn ra để được rạng rỡ, để được hài lòng. Trông anh vất
vả như m ột diễn viên đóng một lúc hai vai kịch khó khăn.

282
Thêm một dấu hiệu không bình thường: Sa nhìn khiêu khích Quang,
ánh m ắt bạo dạn tin h nghịch, miệng chúm chím m ột câu nói hóm:
- Coi anh có phần đỏ đắn, bộ có thuốc riêng để chống sốt ré t sao?
Quang b ật cười rung cả vai, thích thú vì câu hỏi đùa có duyên và
thẳng th ắ n của cô bạn tôi. Anh nói:
- Bởi vì tôi chưa vào Tà Sanh. Nhưng thứ sốt ré t nầy, không chỉ
chống lại nó bằng thuốc mà phải băng ý chí và công việc lao động đúng
thời điểm trước khi cơn sốt quật anh xuống giường. Nói thì đơn giản
nhưng giây phút trước khi làm cữ, mình bải hoải khó chịu lắm. Lúc đó,
anh phải huy động toàn bộ ý chí mà vùng dậy, cầm lấy bất cứ cái gì, leng
xẻng, dao búa làm cho anh toát mồ hôi để chiến thắng cơn bịnh. Thời
gian thử thách dó giống khoảnh khắc người lính ngồi trong công sự, phía
trước anh là địch đang giăng hàng ngang xáp vô, trong khi tai anh căng
thẳng lùng bùng chờ m ột tiếng súng lệnh và tiếng th é t xung phong của
chỉ huy. Đó là giây phút lưỡng lự bản năng, là nên ngồi hèn n h át trong
công sự hay là dũng cảm xông lên.
Trong khi bác sĩ Quang vui vẻ nói anh đã chiến thắng các cơn cữ
như th ế nào. Tôi thích thú được nhìn cô bạn tôi dán ánh m ất vào gương
m ặt gân guốc của anh, vừa thích vừa hồi hộp. Tôi hiểu được tâm trạn g ấy
của Sa và không khỏi lo âu. Trên đường dây, tìn h cảm phiêu lưu này, cô
bạn tôi đang lò dò bước, liệu sẽ được gì hay chỉ đem về nỗi khổ như lần
trước. Chuyện ấy đã xa, rấ t xa, nhưng mỗi khi nhớ lại, chính tôi cũng
cảm thây bùi ngùi...
Hôm ấy, chiều cuôì năm . Sa đến mà không nói trước bằng điện thoại
như mọi lần. Cô nàn g mặc qua loa, cái quần tây đen, cái áo sơ mi trắng
của ngày thường. Giữa căn phòng có mai có cúc của tôi, cô ta bèo nhèo
như tờ lịch cũ rơi rớt. Tưởng cô nàng đã về quê ăn tế t với má nên sự xuất
hiện b ất ngờ này làm tôi sửng sốt. Sa đáp lại tiếng reo của tôi bằng nụ
cười m ệt mỏi. Nó nhẹ nhàng ngồi xuống chiếc ghế mây bên bàn tiếp
khách hai tay lập nhập mãi hai vạt áo, cái cổ rụ t lại giữa đôi vai xương
xương. Điệu bộ này là tôi sắp được nghe mọt chuyện long trọng đây.
Ngay việc Sa đến với tôi trong chiều ba mươi cũng đủ báo cho tôi mức độ
đáng lo của sự cố rồi. Có những chuyện tâm tình, người ta không san sẻ
cho má, cho chị em trong nhà được!

283
Tôi cũng ngồi xuống chiếc g h ế mây đối diện im lặng chờ. Qua cử chỉ,
chúng tôi đọc được ý nghĩ của nhau và ý tứ chờ đợi người kia tự nói ra
điều muốn nói.
- Hôm kia, an h Trung, tới chỗ m ình - Sa nói.
- Có chuyện gì rồi hả? - Tôi hỏi, và đẩy về phía Sa ly nước lọc. Giây
lâu Sa mới trả lời:
- Ả nh nói qua tế t sẽ đi phép về ngoài kia chuyển mẹ với th ằn g nhỏ
vô.
- T hằng nhỏ nào? - Tôi kêu lên.
T iếng kêu của tôi như xé lòng cô bạn yếu đuôi. Nó ngã ngất ra lưng
ghế, cắn cắn môi, m ắt n hắm nghiền, một giọt nước lăn xuống th ái dương.
Tôi đứng dậy, đ ặt bàn tay bạn chiếc khăn rồi ngoảnh m ặt đi, không dám
nh ìn đôi môi ru n run bị kềm chặt dưới hàm răng. P h ú t chốc, tôi và cả
th ế giới này như không còn tồn tại m à chắc trong đầu bạn tôi chỉ lơ lửng
hai tiến g th ằn g nhỏ khó hiểu nào đó.
Họ quen nhau trong kháng chiến, lúc anh là lín h pháo binh còn chị
là giao liên nội th àn h . T h ật ra, khi mới quen biết Trung, người cán bộ
của quân đội, Sa đã yêu anh. Đó không phải là tìn h cảm lãng m ạn mà là
tìn h cảm của m ột cô nữ sinh trong vùng tạm chiếm lần đầu tiếp xúc với
sách báo cách m ạng đã gặp ngay con người lý tưởng của m ình. Sa yêu
Trung bằng tìn h yêu th iên g liêng như yêu lý tưởng. Khi được may m ắn
gập Trung trong dơn vị cùa anh bên bờ sổng Nước Đục, Trung da tức
khắc đi sâu vào trá i tim cô bởi phong cách dung dị, tìn h cảm thâm trầm .
Cô yêu đơn phương, mòn mỏi vì tìn h yêu ấy cho đến ngày hòa bình. Càng
ngày Sa càng héo hon vì yêu m à không được tìn h yêu chăm bón.
C hiến tra n h biên giới Tây Nam bùng nổ, khoảng cách hai người dài
ra theo chiều lăn của xe pháo. Sa vẫn lặng lẽ nuôi hy vọng, vẫn âm thầm
chờ, sự chờ đợi n h ẫn nại hiếm có tuy đôi lúc cô ta chạy đến khóc rưng rức
với tôi vì tủi th â n và vô vọng.
Một hôm, họ tìn h cờ gặp nhau trong Đại hội anh hùng và chiến sĩ
quyết th ắn g tro n g toàn quân khu. Bây giờ, họ mới có địa chỉ của nhau,
anh ở Tham mưu quân khu và chị ở Tỉnh hội phụ nữ. B ằng linh cảm con
gái, Sa biết m ình cũng được yêu. Nhưng th ái độ lừng khừng của Trung
trong những lần đến th ăm dè xẻn làm Sa băn khoăn. Và, khi Trung đã
không kềm ch ế tìn h cảm của m ình nữa, thì cô lại lo toan chuyện khác,
284
cái diều b ất cứ cô gái nào cũng chờ đợi với nỗi hồi hộp êm đềm. Nhưng
Trung vẫn im lặng m ột cách có tính toán. Vì sao vậy?
Không chờ được nữa, một hôm, Sa kéo tôi cùng đi đến chỗ Trung. Cô
cố mặc giản dị nhưng chiếc áo màu hoa cà bên trong cái áo khoác mỏng
bằng nỉ sọc ca rô trông cô tươm tấ t một cách kín đáo. Đến gần cánh cổng
s ắ t đồ sộ, Sa ra hiệu bảo tôi đạp dấn lên trước. Suốt đoạn đường từ cơ
quan tôi đến khu tập th ể quân khu, Sa chỉ ậm ờ theo câu chuyện của tôi,
đầu óc nó lơ mơ và m iệng lúc nào cũng sẵn sàng cười. Đấy là lân đầu tiên
nó xông đến n h à người yêu nên đôi chân lập cập th ế nào mà chiếc xe ngã
ra đất. Cô ta trả công tôi đã đến đỡ chiếc xe lên bằng cái đấm yêu vào
lưng.

Người lính gác cho biết Trung đã có bạn rước đi chơi. Chúng tôi hỏi
nhà người đó và cũng quyết đi xem ông bạn Tư Mồ của Trung là người
như th ế nào. Đây là dịp tìm hiểu người mình yêu qua bạn bè của anh ấy.
Kiếm ngôi nhà của Tư Mồ không khó nhưng cái khó là lý do khiến
chúng tôi xông tới chỗ đó và nếu gặp Trung, chúng tôi sẽ nói gì. Hai đứa
lưỡng lự ngoài chiếc cổng rào xộc xệch bằng kẽm gai. Sa chỉ cho tôi thấy
cái ót vạm vỡ của Trung trong khi anh đang m úa m ay thoải mái giữa ba
người đàn ông ngồi quây quần trên nền gạch bông, giữa có chén đĩa lổng
chổng và m ột cái chai ba xị đùng đục nước. Sa nói khổ đau:
- Gần đây anh Trung hay uống rượu ghê? - v ầ n g trá n cô ta cau lại
nặng nề. Nó ngước n hìn tôi băn khoăn - Nè, sao cái tên Tư Mồ nghe chợ
trời quá!
Thấy vẻ khổ sở của cô bạn, vì bị giằng xé giữa nỗi khao k h á t gặp
m ặt Trung và nỗi lo m ình bị coi thường, vì hành động bồng bột hôm nay,
tôi bạo dạn lên tiếng. Trung ngoái nhìn ra, m ắt nheo nheo như bị chói
đèn. H ình như Trung đã nhận ra dáng Sa nên anh mau m ắn đứng lên,
vừa đi vừa xỏ tay vào chiếc áo trắng. Anh hỏi tôi một câu trớ t quớt:
- Hồng không có đi công tác hả?
Tôi bụm m iệng cười ngất. M ặt Sa đỏ nhừ. Trung cố kéo chúng tôi vô
nhà bạn anh nhưng Sa lắc đầu, tôi thì cương quyết đề nghị anh phải bỏ
bàn nhậu về ngay.
Trên đường trở lại chỗ Trung, tôi cố vù lên trước để cho cô bạn rụt
rè của tôi tự nhiên hơn với Trung.

285
v ề đến nhà, lá t sau, tôi tìm cớ dứng lên để dành không gian cho hai
người. Tôi di bách bộ trong dãy sân hun hú t có những cây xoài hình nấm
im lìm. Tôi th ấ y thời gian trôi quá chậm, còn với Sa, chắc chắn nó cảm
th ấy những giây phút đang vùn vụt như tên.
Khi được Trung “mời” vào, tôi nhìn chăm chăm vào m ặt Sa để đoán
họ đã nói với nhau những gì. Nhưng tôi đã đọc được sự im lặng cố tình
của Trung trê n m ặt bạn tôi. Trước m ặt họ là m ột chồng sách văn học. Tôi
cầm lên hai quyển:
- Trời, G ắng sống đến bình m inh - Tôi nhìn hai người đầy ý nghĩa
như buông một dấu chấm th an - Lại còn N ăm 93 nữa. Đợi sao thấu, anh
Trung?
T rung cười gắng gượng như đang có cơn đau và Sa cũng cười, nụ cười
di cùng với khóe m ắt rơm rớm.
T rên đoạn đường về vắng vẻ, chúng tôi im lặng đi bên nhau. Gần tới
chỗ ở, Sa mới lên tiếng:
- M ình linh cảm, mối tìn h này sẽ không đi đến đâu!
T hái độ khó hiểu m à Trung đã hé ra m ột cách lờ mờ cho Sa làm hai
đứa tôi thức trắ n g đêm ba mươi tết. Sau khi Sa về, tôi nằm phờ phạc
tron g phòng suốt buổi sáng mồng một và nghĩ ngợi lan m an về mối tình
của nó. Đúng lúc đó, Trung gõ cửa phòng tôi như tiếng sét báo hiệu trận
mưa, tôi vừa m ong đợi vừa lo lắng. T hế là tôi khỏi phải đi tìm anh để
“hỏi cho ra le” như tôi da hứa với Sa.
T rung đến, cùng với mùi rượu đủ để cho người dối diện phải chun
mũi. Tôi nghiêm khắc nhìn anh:
- Sao lúc này anh mê m an quá vậy?
Không tỏ vẻ nao núng, Trung trầm ngâm nhìn ra bên ngoài cửa sổ.
- Tôi không ghiền đâu Hồng. Nhưng bạn bè nó lôi kéo quá. - Anh
nói buồn bã, m iệng cười mơ hồ. Tôi nghe th ấy cái yếu ớt trong lý lẽ của
anh. - Lạ cho tôi là lần nào uống xong, chân tôi cũng muốn đưa tôi đến
với Sa...
- Để làm gì? - Tôi hỏi như toà hỏi.
- Tôi không b iết để làm gì. Chỉ biết là tôi muốn nh ìn th ấy Sa...

286
- Còn vợ anh? - Tôi tấn công bất ngờ, vừa hoang m ang chờ câu trả
lời có th ể làm cho trời sập vừa hy vọng Trung sẽ ngơ ngác vì tiếng “vợ"
ấy. Nhưng Trung vẫn ngồi trầm ngâm, hai vai trĩu xuống. Anh nói khó
khăn:
- Thì cũng là vợ th ậ t đấy. Nhưng tôi có sống với cô ta đâu!
Tôi rụng rời, không còn đủ sức để hỏi thêm nữa. Tôi chỉ đủ sức chờ
đợi Trung tự nói h ết ra. Tôi cưới cô ta trong lần đi phép dầu tiên sau
thông n hất. Mẹ tôi muốn có người an ủi, thay thê tôi ở nhà. Mấy năm tôi
ở Campuchia, cô ta m ấy lần lăng nhăng, cả làng, cả xã biết.
Tôi chợt nghĩ đến thằng nhỏ và kịp nén câu hỏi có th ể sẽ là sự gợi ý
cho nỗi hoài nghi dày vò anh suốt đời.
- Anh mấy cháu? - Tôi hỏi.
- Một! Đứa con sau ngày cưới.
Tôi thở phào, cảm thấy nhẹ nhàng thay cho anh.
- Rồi anh tín h sao?
Lúc này anh như không giấu nối vẻ khố sở đang hiện ra đầy đủ trên
khuôn m ặt khi phải nói ra với tôi cái quyết định chắc đã dày vò anh bao
ngày. Cuối cùng anh đã nói:
- Con người, thường có những lúc lý trí không lấn á t được bản năng.
Tôi hiổu vợ tôi... Thôi thì... cũng phải th a thứ.
- Còn Sa? - Tôi run lên.
- Chính vì vậy m à tôi đến gặp Hồng. Tôi nhờ Hồng nói với Sa hãy
quên tôi đi và dừng lần lữa, vì tuổi tác con gái có thì...
Tôi muốn hỏi rằn g sao an h không nói rõ, không dứt kh o át từ đầu...
nhưng tôi liền thấy không nỡ và trong lòng chỉ còn cảm giác thương cho
cả ba người. Sau đó, Trung còn nói nhiều, rấ t nhiều về Sa, về những
phẩm chất của Sa, về tìn h cảm và kỷ niệm của hai người và lặp đi lặp lại
lời khuyên Sa hãy đi yêu nơi khác. Tôi nghe m iễn cưỡng. Tôi muôn đến
ngay với cô bạn không may của mình.
Sợ phải nhìn th ấy đôi m ắt đau đớn của Sa, tôi phải nhờ máy điện
thoại. Bên kia đầu dây vang lên giọng nói quả quyết:
- Hồng đó hả? Sa đây!
287
Đến lúc đó tôi mới hay m ình chưa chuẩn bị m ột câu b ắ t đầu. Tôi nói
ầm ừ:
- Anh Trung vừa... vừa tới chỗ mình.
Đã cảm n h ận được cái kết thúc trong giọng nói của tôi nên tiếng Sa
bỗng lạc di:
- Cứ nói đi! M ình đủ can đảm nghe mà!
C hính sự cứng cỏi phi thường ấy làm cho tôi m uôn nấc lên. Tôi kể
qua qua cho Sa nghe nội dung cuộc gặp gỡ ban nãy. Lúc ấy tôi chỉ ao ước
m ột chiếc m áy diện thoại truyền hìn h để tôi được nh ìn th ấ y cô bạn m ảnh
k h ản h của tôi đang “v ật lộn” với cái tay m áy vừa m ang đến cái tin đau
lòng.

- Vậy càng hay! - Câu nói nhẹ tên h nhưng giọng Sa nức nở. Tôi van
nài:
- Tốĩ nay m ình tới nghen!
- Thôi! M ình muốn yên tĩnh vài hôm. Tôi nghe tiến g ống m áy bên
kia ngã n g ất xuống.
T rong lúc Sa lao đao, C hánh xuất hiện, như chiếc chiếu m anh giữa
cơn buồn ngủ. C hánh đến với Sa từ từ, rỉ rả, không ào ạt, đúng như tính
cách của anh. Vì vậy m à cô Sa mới bị mềm đi mặc dù Sa thường xuyên
nói vơi tôi rằ n g nó không yên tâm về đôl tượng mới này. N hìn Sa, tôi
b iế t C h á n h lth ô n g p h ả i là th ứ m à c á i c â y h ó o h o n â y c ầ n . N h ư n g C h á n h
CÓ ưu th ế về khoảng cách và lòng kiên trì đến kinh ngạc trong việc chinh
phục Sa.
Hôm phái đoàn bốn mươi người của Ưỷ ban M ặt trậ n Tổ quốc tỉnh
còn nằm ở Bộ chỉ huy tiền phương, lúc các đồng chí phụ trách bàn tính
chia người sao cho các đơn vị xa xôi n h ấ t cũng có đoàn đến thăm thì
C hánh tỏ ra h ế t sức bồn chồn. “Nữ ít quá, phải chia đều ra ”. Đồng chí
Phó Tư lệnh nói. Nhưng C hánh đã có lý khi khi anh bảo “Sa ốm yếu, hay
bịnh, phải có người b iết bịnh Sa đi cùng”. Xem ra đó là lý do chánh đáng
đầy tìn h đồng chí n ên đoàn đã phân công C hánh đi với Sa và kèm theo
tôi, th à n h đội h ìn h tam giác lý tưởng. T h ế là, có m ột đoàn không có nữ,
và đó là th iệ t thòi đáng kể của m ột đơn vị nào đó.
Ngày đầu, chúng tôi dành cho bệnh xá. Lần lượt, đoàn đến từng lán
thương bịnh binh. Chỗ nào hai phụ nữ cũng bị bao tròn như cái nhân

288
bánh. Chỗ nào anh em cũng bày tỏ nguyện vọng giống nhau là có th ể hết
bịnh liền nếu được nghe các chị hát! Trời đ ất ơi! Chúng tôi m à h á t hả?
Chuyện đó tựa như bảo con vịt hãy hót lên. Nhưng ai nỡ từ chối lời đề
nghị th a th iết th ế kia trong khi những người đó phải nói bằng cái giọng
thều thào và đang nằm bốc lửa trong cái mền mỏng tang. Những ánh
m ắt ngun ngún nhớ thương làm cho chúng tôi dạn dĩ lên. Tôi h á t trước,
Sa hát sau. Chỉ có tôi mới hiểu vì sao Sa yêu bài H ành khúc ngày và đêm
đến thế. Cô h á t chuẩn nhưng cái ngực ốm yếu không cho phép tiếng h á t
bay lên n ên tiếng nó ri ri như tiếng dế. Thương bịnh binh nín thở thưởng
thức và tôi cũng nín thở nghe vì lo sợ cho làn hơi m ỏng m anh của cô bạn.
Nhưng Sa đã làm hài lòng người bịnh. Một bên thích thú được nghe
giọng h á t dù vụng về nhưng nó gần gũi, có thể nắm được bàn tay của
người đó vì tấm lòng của họ. Một bên thì say sưa được cát tiếng lòng giữa
những đồng dội của anh ấy. Chừng như đó không phải là tiếng h á t m à là
tiếng kể lể của trá i tim về chuyện cũ.
Sau vài lần hát, chúng tôi gan lên, nói theo cách nói sân khấu là
“dạn đèn”. Nên, khi bác sĩ Quang biếu Sa m ột trá i nhãn đã bóc vỏ nữa,
kèm theo lời đề nghị Sa h át một bài, chỉ một bài nữa thôi, thì Sa liền
ngồi ngay ngắn lại, chuẩn bị cất tiếng.
Lần này, Sa h á t công phu, da diết ít hơn m à bồi hồi, xao xuyến.
Không, đã có m ột biến động mơ hồ nào đó trong cô bạn nhút n h á t của
tôi.
B ê n n g u à i, b ầu trờ i n h ư có b à n ta y th ầ n d iệu dữ I1Ó cau lÊ n. M àu
mực tàu đầu hôm đã ngả sang màu xám tro. P hía chân trời, chỉ m ột góc
trời ấy, tiến g pháo đì đùng vọng về, tiếng pháo của bọn tàn quân Pôn Pôt
trú trên đất Thái nã sang.
Chúng tôi phải trở về chỗ nghỉ của Ban Tuyên huấn để ngày mai đi
xuống đơn vị khác. Thấy Sa nấn ná để là người sau cùng b ắt tay Quang,
tôi kéo C hánh bước nhanh lên trước và kể cho anh nghe câu chuyện thú
vị rằng có một bà m á đi sang Campuchia thăm con đã dùng lá thư con
làm hộ chiếu.
Dọc đường, chúng tôi gặp chiếc xe Hồng thập tự hối h ả lao về phía
bệnh xá. Sa đề nghị:
- M ình trở lại đó coi thương binh có nhiều không?
Tôi tá n th àn h ngay, lập tức C hánh th àn h thiểu số.

289
Một chiến sĩ trẻ được đưa từ trê n xe xuống chân phải bị băng chặt,
chân trá i lấm lem đ ất cát. Nghe tiếng m iền ngoài của bác sĩ Quang:
- Tà Sanh ra hả? Sao không phẫu trong đó?
Một người nào dó tr ả lời:
- Mấy bác sĩ tro n g sốt liệt giường.
Người thương b inh được đưa vào lán trực. Một y tá mở băng cho
Quang khám . Anh nói khẽ vơi bác sĩ Tường:
- Có dấu hiệu hoại tử. Mổ giải th o át ga rô tro n g ngày. R áng nuôi cái
chân này.

Anh ra lịnh cho y tá chuẩn bị. Vừa lúc đó có thùng xe bò lộc cộc đi
vào sân bệnh xá. Nhiều ánh đèn pin trong lán quét ra. T rên nệm rơm lót
sàn xe, m ột ngươi đ àn bà nằm lăn lộn. Không ai, trừ chúng tôi, tỏ vẻ
ngạc nhiên, bởi vì mọi cái đều có th ể xảy ra tro n g khu vực chiến sự.
- Một ca đẻ - người y tá trẻ trở vào báo với Quang - bệnh viện Pai-
lin đưa tới nhờ anh.
Một người đàn ông, khăn crơ-ma sọc trắ n g đỏ quấn cổ, quần áo đen
mốc, bồng vợ trê n tay, thở nặng nhọc bước vào. Vừa đ ặt lưng xuống
giương, sản phụ liền nắm lấy th an h gỗ, như muốn vắt nó ra nước, lá t lát
lại gồng m ình lên chịu đựng cơn đau. Bác sĩ Quang ghé xuôĩig gương m ặt
đầm đìa mồ hôi của người đàn bà Cam puchia, bàn tay anh nhẹ nhàng
k é o g ấ u aà rô n g củ a c h i xuô’n g k ín đù i. A n h m ỉm cười th ô n g c ả m v à ngươi
đàn bà bất đông ngôn ngữ phút chốc hiểu ngôn ngữ không lời trê n môi
anh bộ đội Việt N am và như được an ủi, chị cũng m ỉm cười, nụ cười nhăn
nhó đi cùng với tiếng rên.
Thấy người đàn bà đau trở dạ, người thương binh nằm ở giường bên
cứ nhìn sang. Anh nói khó nhọc:
- Lo cho người dó đi! Có cách nào giúp chị ấy sanh mau mau.
Đầu anh lính trẻ lả trê n gối, m ặt xanh rớt, ẩm ướt nhưng không còn
giọt mồ hôi nào rịn ra được như cơ th ể anh đã vét h ết cả th ứ nước đó để
cầm cự với cơn đau. Hai y tá đưa sản phụ vào trong. Quang trở ra nói với
Tường:
- Ngôi th ai còn cao. L át nữa không có dấu hiệu sanh th ì phải mổ
ngay.

290
Tường đo lại huyết áp của anh thương binh. Quang căng thẳng theo
dõi m ặt sô' tròn trê n m ặt chiếu, huyết áp đang tuột m ột cách đáng lo.
Quang ra lịnh truyền dịch. Trong lúc chờ huyết áp lên, anh lui vào phòng
phẫu và từ trong đó, tôi nghe bay ra mùi ê te, và tiếng kim loại rổn rảng.
Chúng tôi ngồi trong lán trực của bịnh xá không biết bao lâu. Còn ai
nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi trong không khí ấy.
N hìn ra ngoài trời, đã thấy màu sương đùng đục như khỏi trắn g đặc.
Người y tá trẻ, m ặt m ày chất phác, con trai xứ m iền Tây của tôi ngồi
cạnh anh thương binh, lo lắng nói với chúng tôi:

- L át nữa, tới cữ của ông rồi!


- Ông nào? - Sa mau miệng.
- Bác sĩ Quang đó. Bộ thấy ống dinh dàng vậy m ấy chị tưởng ổng
thoát sao? Sốt ré t là th u ế rừng mà. - Người y tá cười hồn nhiên.
Tiếng oa oa từ trong phòng phẫu ùa ra. Cha đưa bé, nãy giờ lo lắng
nép bên vách, lao tới n h ận con. Một sinh vật ngọ nguậy trong tấm vải
quấn trắn g tinh, trê n tay bác sĩ Tường. Qua vai anh, tôi nhìn thấy bác sĩ
Quang. Tôi nhìn thấy đôi m ắt bốc lửa của anh và nhũng giọt mồ hôi rịn
ra trên trán , dưới vành mũ trắng. Anh không nhìn ai, chỉ nhìn người
thương binh đang hướng ánh m ắt tin cậy về phía anh. Một y tá trẻ khác
nhìn anh chờ đợi rồi lấy gạc chấm mồ hôi cho anh. Tôi nhớ lời anh và
biết, lúc này anh thèm cầm búa hơn là cầm dao mổ bởi vì cơn sốt sắp
quạt anh xuông giường. Nhưng anh đã ra lịnh chuyến thương binh vào và
tấm lưng tháo vát của anh biến ngay sau tấm m àn trắ n g tin h của phòng
phẫu.
Sa đứng lên, kéo tôi đi vòng ra ngoài vách lán. Một hồi tôi mới biết
nó tìm một kẽ hở để n hìn vào phòng mổ. Nghĩ tới phải thấy máu, tôi
rùng m ình, níu tay Sa đi. Không ngờ cô bạn rụt rè của tôi gan lên một
cách đột ngột đã trì tôi đứng lại và còn tỏ ra giận dỗi. C hánh lần theo
chúng tôi và đề nghị một cách khó chịu rằng phải trở về Ban Tuyên huấn
ngay và nhắc chúng tôi “tin h thần tổ chức kỷ luật".
Chúng tôi bước lặng lẽ trên sân cỏ đẫm sương. Buổi sáng, bầu trời
Pai-lin nhẹ nhõm nhưng đối với người sốt rét, đó là giờ phút nặng nề
nhức nhối họ phải trải qua.

291
T rên đường đến tiểu đoàn thông tin, chúng tôi gặp cái đầm m ênh
mông, cạn sợt như h ố bom, có th ể xắn quần lội qua được. Cả đoàn kể cả
thiếu úy C hất, người dẫn đường tháo vát và b iết chiều anh em lội ào
xuống, vốc nước rửa m ặt. Ớ vùng đ ất không kin h rạch, cái hồ có giá trị
như m ột bóng râm trê n sa mạc. Duy chỉ có C hánh, không vì th ế m à hấp
tấp. Anh cẩn th ậ n xắn quần lên khỏi gối, từ từ bước xuống như dang dò
mìn. Đứng ở m ột góc hồ, cách chỗ C hánh mươi thước, Sa nhìn ngược lên,
nhưng không n h ìn th ẳn g vào anh mà nhìn chếch... Đột nhiên, nó khều
tôi:
- Nè, sao chân ông C hánh trắ n g to át vậy?
Nó cau mày, ph ân vân.
Cũng như khi đến tiểu đoàn quân y, ở đơn vị này, chúng tôi được
đón tiếp h ết m ình. Chúng tôi đã làm những việc như đã làm ở bệnh xá,
tức là đi xuống tới tiểu đội, nhìn vào nồi cơm, hộp th ịt, gói ruốc của chiến
sĩ. Chúng tôi hỏi và ghi chép cẩn th ậ n những suy nghĩ, những k iến nghị
của người lính đôi với hậu phương. Chúng tôi cũng h á t những bài h á t anh
em thích bằng cái giọng nghiệp dư non nớt của mình.

Tối đó, sau bữa cơm có th ịt gà bắt trong chuồng do Ban chỉ huy đãi,
tôi và Sa kéo nhau ra gốc xoài nói với nhau m ấy chuyện của đàn bà.
C hánh cũng ra theo. Anh lót dép ngồi trước m ặt hai đứa rồi bắt đầu
huyên thuyên chuyện cơ quan anh, và, trong những câu chuyện đó, lần
nào tôi cũng th ấy hiện ra bóng dáng “m ẫn cán” của anh.
- Đợt đi phong trào vừa rồi, m ột m ình tôi tổ chức được mười lăm tập
đoàn sản xuất tro n g nửa tháng.
- Anh cũng di vận động hợp tác hóa nông nghiệp sao? - Tôi hỏi tò
mò.
- T ỉnh ủy huy động cán bộ, cơ quan cử tôi. Đi công tác về, nghe tôi
báo cáo, nhiều người chịu lắm...
Tôi th ấy Sa lại cau mày.
- Anh có b iết - tôi nói th ân tìn h - sau khi anh rú t th ì mười lăm cái
tập đoàn đó cũng xẹp luôn không? Tôi sợ anh p h á t động còn sống sít...
C hánh lại an h xao hơn vì Sa không góp chuyện m à còn p hật ý ra
m ặt.

292
- Mai m ình rời khỏi đây sớm phải không anh C hánh - Sa hỏi, cô từ
tốn.
C hánh gật đầu. Sa tiếp:
- Tôi nghĩ (họ đã tôi với nhau rồi) mình không nên chùm nhum với
nhau như vây. P hải tận dụng thời gian quý báu này để ở bên anh em bộ
đội.
C hánh thở h ắ t ra, vội vàng đứng lên, vẻ phục tùng.
Tuần lễ công tác qua đi vùn vụt. Đã đến ngày về. Chúng tôi phải
dồn đồ lại, dành một cái túi xách đế đựng thư. T rên đường từ Ban tuyên
huấn ra chỗ xe đậu, chiếc xe GMC dầu dãi hôm rước, chúng tôi ghé lại
bệnh xá, đơn vị duy n h ất nằm gần m ặt đường. Bác sĩ Trường cho biết
Quang đã đi vào Tà Sanh hôm qua, thay mấy bác sĩ đang sốt nặng trong
đó. Tôi thấy Sa chòng chành vì cái tin ấy.
T ất cả thương bệnh binh còn đi được đều lần ra cửa lán vẫy chúng
tôi. Khi họ gọi ầm lên: “Gửi lời chào Tổ quốc nhá!”, tôi chợt giật mình.
Câu chào ấy nhắc chúng tôi khoảng cách diệu vợi này là có th ậ t, là chúng
tôi đang mỗi khắc mỗi bước về phía hậu phương th an h bình, ấm cúng,
đang từ b iệt những chiến sĩ và đồng bào của chúng tôi, họ ở lại vùng
rừng th iên g núi độc này để làm lá chắn cho hai dân tộc.
Xe đi qua m ột ngã ba. Đường vào Tà Sanh hun hút, m ặt dường cuộn
sông trâu, dấu vết của những bánh xe chiến trường. Cô bạn tôi nhìn
ngoai lại phía sau, cái nhìn kín đáo chí có tôi mới n h ận tháy và chăc con
đường ấy đang xuyên qua tim nó với tấ t cả những đợt sóng không bình
thương. Lần lượt, Sa không ngồi. Cái khoảng ghế hẹp C hánh ý tứ chừa
cho nó bỗng dưng trông rỗng.
Ngay tối hôm đó, tại bộ chỉ huy tiền phương, chờ cho cả đoàn ổn
định xong chỗ nghỉ, Sa ngồi vào bàn. Tòi đến bên, giả vờ nhắm m ắt
trước những tran g giấy đặc kín chữ. Sa nói nghiêm trang:
- M ình viết cho ảnh đây!
Tôi hơi ngạc nhiên nhưng cũng không đến nỗi phải sững sỡ. Vì điều
phải xảy ra, đang xảy ra. Thấy Sa vui vẻ, Chánh lại lượn quanh bàn,
nhìn Sa dò xét. Sa đáp lại ánh m ắt ẩy bằng vẻ m ặt nghiêm nghị đến
mức C hánh phải lảng ra xa.

293
Tôi chui vô mùng, m iên m an nghĩ ngợi. T hỉnh thoảng, nhìn ra, tôi
th ấy Sa vẫn tần ngần bên bàn. Tôi biết Sa đang lao đến h ạn h phúc bằng
sự bạo dạn lạ lùng. Viết xong, cô nàng m ang cả xấp th ư và quyển sổ tay
vô mùng. Tôi hỏi:
- Mấy trang? Mùi dữ hôn?
Nó nhụi đâu vô ngực tôi. H ình như có những giọt nước âm ấm rơi
xuống. Hăy khóc đi, m ình biết bạn đang khóc vì h ạ n h phúc.
Rồi tôi nhận được thư Quang. Bức thư nhờ chuyển cho Sa. Sau cú
điện thoại của tôi, Sa như mọc cánh, bay đến. c ầ m cái bao th ư sờn Sa lật
qua lậ t lại bằng bàn tay run run và ngắm nghía m ãi hình anh bộ đội
trong tem. Tôi trao cho cô nàng cây kéo:
- Thôi, khui đi, còn làm bộ.
Sa cười, giấu m ặt sau phong thư. Chưa chi, đôi m ắt đã râ n rấn.
Tôi đi ra ngoài, hồi hộp với nỗi hôi hộp của bạn tôi. Tôi nhớ đến
Trung và hiểu Sa như con chim bị cành cây cong, nó được yêu hay bị
khước từ? R ất lâu tôi mới trở vào, hỏi:
- Sao?
Tôi lại kịp nhìn thấy ánh m ắt tự tin của Sa hôm chúng tôi về nước.
Nó đẩy lá thư cho tôi. N hìn dòng chữ đầu và tờ lịch trê n tường, tôi thốt
lên:
- Trời, bốn tháng!
Ngày hạn h phúc hôm nay của Sa đã len lỏi qua sự khắc n h iệt đến
ngợp thở của thời gian và chiến tran h . Nhưng tôi đã kịp đọc thấy những
hàng chữ đẹp, viết ra bởi một bàn tay đẹp.
Lúc bắt tay em, anh cố xiết thật m ạnh cho em đau và nhìn sâu vào
m ắt em đ ể thăm dò. Đôi m ắt ấy đã ánh lên sự cứng cỏi và nỗi dịu dàng
chịu đựng. A n h bỗng hiểu ra m inh đã gặp m ột tâm hồn mong đợi từ
lâu...

H à Nội th án g 10-1984

DẠ NGÂN

294
CHUYÊN XE ĐÊM

MA VĂN KHÁNG

Chiếc xe lại hỏng.


Lần này là lần thứ mấy, kể từ lúc nó rời biên giới? Ngồi ở băng ghế
sau, người phụ nữ phương Tây xinh xắn không nhở, nhưng khó chịu và
buồn lo lộ ra mặt. Bởi vì lúc này trời đã tối. Trời tối ở một vùng đất xa
lạ, còn ngổn ngang, bừa bộn vết tích của chiến tranh. Đ ất hoang lạnh,
loang lổ những vết cháy. Cây xém, ủ rũ cạnh những đông vỏ đạn pháo
lớn và những vòng thép gai bò loằng ngoằng gớm guốc. Đường đã vắng từ
lúc chập tối.
Giờ, thì chẳng còn sự sống trên m ặt con đương gập ghềnh, lồi lõm
hô' đạn pháo. Không có xe đi ngược chiều và cùng chiều, kể cả những
chiếc xe hai bò kéo, bánh xe to một cách cổ lỗ và như là vô lý của những
người dân vừa ra khỏi cuộc chiến tran h đang tìm đường trở về quê cũ.
Không còn tiếng nó lăn lọc cọc đều đều trong hành trìn h giông như trong
một cuộc viễn du vô định.
Giờ, chiếc xe trở nên cô đơn.
Họ đã phải đổi xe ở biên giới. Chiếc Mazda sang trọng được thay
th ế bằng chiếc com-măng-ca cũ kỹ m ình đầy bụi, lam lũ, không có biển
sô'. Trông nó đã nao cả lòng, n h ấ t là khi nghe người sĩ quan dặn người lái
xe: “Chú ý: gặp ai, không được nói cho họ biết xe chở ai, đi đâu. Dọc
đường, không cho b ất cứ một ai đi nhờ xe”.
Người phụ nữ hiểu ngay từ lúc đó: tính m ệnh của họ trên đất nước
xa lạ này hoàn toàn phụ thuộc vào chiếc xe và anh lái xe, một chiến sĩ
Việt Nam nhỏ nh ắn hiền lành. Ôi chao! Chiếc xe thì quả là không tin
cậy được. Giờ, nó lại chết giữa vùng đất m ênh mang, nhìn đâu cũng chỉ
thấy mờ mờ những cây th ố t nót cao lớn, chơi vơi trên vòm trời, chẳng có
gì chơi vơi, chông chếnh như loài cây ấy vào lúc này.
Thấy xe hỏng, người đàn ông phương Tây ngồi cùng người phụ nữ, từ
nãy vẫn lim dim như hoài niệm cái gì đó, choàng tỉnh, đẩy cửa xe, chui

295
ra. Đó là một người đàn ông cao lớn, vạm vỡ, bụng xệ. Cái bụng xệ không
gây ấn tượng chậm chạp, nặng nề. Vì cái quần jean bó tôn người ông cao
lên, rấ t hòa hợp với cái áo bu-dông bó gọn th â n trê n và cái vẻ háo hức
trẻ trung trên khuôn m ặt dãi dầu, từng trải. Ông là phóng viên của nhiều
tờ báo lớn trê n th ế giới, quen với những khung cảnh chiến trường, nỗi
hiểm nguy và những sự kiện mới mẻ, sôi động của h à n h tinh.
- Rô-đa, em cứ yên tâm.
Người đàn ông ghé m ặt vào cửa xe, an ủi người phụ nữ. C ạnh ông,
chị nhỏ bé, non nớt như một cô em út. Họ mới lấy nhau. Và người đàn
ông đã thuyết phục được vợ mới cưới th u ận theo ý muôn phản án h cái
máu mê nghề nghiệp của mình: hưởng tuần tră n g m ật trên con đường
thiên lý của nghề nhà báo, ở một đây nước xa xôi, đầy bí hiểm: “Em có
biết không? Bọn cai trị ở nước ấy b ắt đàn ông đàn bà phải sống cách biệt
trong các trạ i tập trung. Chúng chỉ định người đàn bà này lấy người dàn
ông kia. Chúng cũng tổ chức cưới cho họ. Cưới hàng chục cặp ghép đôi
như ghép gà, ghép lợn rồi ai lại về trạ i nấy. Không ai dược phép có một
cái gương. Soi m ặt dưới bóng nước, bắt gặp chúng đập chết liền”. Nghe
người chồng nói vậy, người vợ rùng m ình. T h ật là kinh khủng và quái gở.
Làm sao có th ể tin được. Tính tò mò được khơi dậy. Chị bằng lòng. Và họ
bay đến Việt Nam, rồi bây giờ quá cảnh qua đây, vùng đ ất nước vừa mới
thoát khỏi cái tai ương khủng khiếp vô n h ân đạo n h ấ t kia, mới có ít
ngày.
Đ ược sự a n ủi của c h ồ n g , n gư ờ i p h ụ n ữ y ô n d ạ . C h i g ậ t đ ầ u h ơ i n ũ n g
nịu. Và người đàn ông hôn vợ rồi di lên phía đầu xe lúc này nắp ca bô đã
mở, h ấ t lên; ở đó lúi húi bóng người lái xe bé nhỏ.
- Xe làm sao thế, anh người Việt - Người đàn ông hỏi, giọng cô' tỏ ra
không sốt ruột.
- Thủng k ét nước, ông ạ. Người lái xe đáp khẽ, nhưng lại chợt giật
m ình chồm lên, gào vào trong xe lúc đó có án h đèn vừa lóe dậy vàng đục:
T ắt đèn! T ắt đèn đi, chị ơi!

Người đàn ông quay đầu lại. Á nh đèn trong xe vừa b ật - chắc là
người phụ nữ định tìm cái gì đó - đã tắ t ngấm. Người phụ nữ kêu the thé,
chừng như bực bội.

Ngươi đàn ông bước lại giữa xe, nhún vai. Trong xe, im th in th ít. Cả
hai đều tự hiểu một cách th ậ t sâu xa rằng, án h sáng lúc này là mục tiêu

296
của bao điều hung hiểm. Tốt n hất là yên lặng trong đêm và chờ đợi.
Nhưng m à chờ đợi bao lâu nữa. Thủng két nước giữa chôn này!
Người đàn ông đứng tựa lưng vào cửa xe như chở che cho vợ, nhìn
anh lái lui húi ở đầu xe, chốc chốc lại thở dài vô vọng.
Nhưng bỗng, thình! Nắp ca bô xe dập xuông. Người đàn ông bước
nhanh lên đầu xe. Người lái xe đang lau tay.
L át sau, ông quay lại, mở cửa xe, gieo m ình xuống cạnh vợ, thở phào
sung sướng:
- Thủng kết nước! Nhưng, th ậ t là kỳ diệu! T hật là kỳ diệu!
- Chữa được rồi, Bốp? - Người phụ nữ níu vai chồng, ríu rít: Chữa
xong th ậ t rồi à! May quá!
- Anh ta đã chữa. Bằng gì em có biết không? Ớ Cu-ba, năm sáu
mươi, anh cũng gặp một ca như vậy. Ớ Ãng-gô-la vừa rồi chiếc xe chở anh
cũng rơi vào cảnh tương tự, người lái xe bít lỗ thủng bằng xà phòng. Còn
ở đây, bây giờ, anh lái người Việt này chít các lỗ thủng bằng cứt trâu!
T hật là kỳ lạ!
T h ật là kỳ lạ! Lúc chiều tôi, họ đã gặp những chiếc xe từ chiến
trường về, đi ngược chiều tới họ. Nhiều chiếc không kính. Có chiếc dùng
đèn pin thay đèn pha và cả hai vợ chồng đã cười như nắc nẻ khi thấy
một chiếc xe trê n nóc buồng lái đặt một phuy xăng, xăng theo vòi cao su
rỏ th ẳng xuốne đầu máy. chắc là bơm xăng hỏng. Họ đã băn khoăn t.ự
hỏi: những người chiến sĩ kia, vì lẽ gì mà vất vả thế? Họ dem th ân họ
đến đ ất này đâu có phải là để giải phóng cho đồng bào họ? Ai cũng biết
người Việt đã trả i qua hơn ba chục năm chiến tra n h trên đất nước của
mình rồi. Người phóng viên đã hỏi câu đó với một vị chỉ huy ở biên giới.
Người chỉ huy nguyên là một thầy giáo dạy tiếng Pháp. Ông không trả
lời th ẳng vào câu phỏng vấn của nhà báo: “Theo chỗ tôi biết, trong ngôn
ngữ tấ t cả các nước châu Âu, đều có chữ tình. Tình yêu, tình bạn, tìn h gia
đình, tìn h thầy trò - ông nói điềm đạm. Nhưng trong tiếng Việt của
chúng tôi, cạnh chữ tìn h còn có chữ nghĩa; nghĩa về phương diện nào đó,
là kết tin h của tình, nghĩa vợ chồng, nghĩa bè bạn, nghĩa xóm giềng lân
bang...”. Đó th ậ t là một điều mới lạ nữa với người phóng viên.
Và bây giờ khi xe đã chữa xong, tiếp tục lăn bánh, người phóng viên
lại có cảm giác ngỡ ngàng, mỗi bánh xe lăn là một bước đi vào những
điều chưa biết, từ cảnh quan tới không khí, khoảng trời.
297
“M ùa khô kéo dài 6 tháng. Người đàn ông nhớ tới m ột tra n g sách
tron g cuốn sách khảo cứu về đất nước này m à ông đã được đọc rấ t kỹ
trước khi qua đây. B ạn có th ể nh ìn th ấy cây thốt nốt xa tít ở chân trời
chỉ còn nhỏ bé, đơn côi như ngọn cỏ, đứng chơ vơ như chứng n h â n từ tiền
sử. Đ ất phù sa cỏ khô, chờ mưa xuống sẽ xuê ra, tơi tả. Lúc ấy người Khơ-
me sẽ sạ lúa, cứ mỗi m ẫu là 60 cân hạt. Cây lúa cao lên, họ sẽ bừa áo đi.
Cây yếu tự chết. Cây nào sống sót th ì sống m ạnh mẽ, m ãnh liệt, y h ệt
con người ở xứ sở này. Đ ất nước sông bằng gạo và khô cá này ngờ đâu đã
có lịch sử từ 2.500 năm trước công nguyên, đã trả i qua các vương quốc,
vương triều...”.
B ánh xe chạm đánh kịch vào gờ m ột chiếc cầu, cắt đứt dòng suy
tưởng của người đàn ông. Cả hai vợ chồng cùng hơi bị xô về phía trước.
Và họ cùng n h ìn th ấy lố nhố trong bóng đêm ba bốn cái mũ s ắ t cùng mấy
ngọn súng tiểu liên. Người lái xe ngoảnh ra cửa, đưa tay lên chào những
người gác cầu, nói cái gì đó và chiếc xe lại lăn đi ngay.
Sự gặp gỡ th ỉn h thoảng một chiếc cầu và các trạm gác vừa làm cho
hai vợ chồng người phóng viên yên lòng, lại vừa gây cho họ cảm giác
phấp phỏng.
Xe cách cầu được m ột quãng, người lái xe trẻ tuổi quay lại, vẻ như là
bâng quơ:
- Không có bộ đội th ì trong vòng m ột ngày, chiếc cầu sẽ bị bọn phỉ
p há sập ngay.
Ngươi phụ nữ co người lại sau câu nói đó. N hất là lúc này đêm bỗng
n h iên trở nên nhờ nhờ sáng, người đàn ông háo hức vì nghề nghiệp, đã
chuyển lên ngồi ở g h ế trước và không khí trở nên h ắ t hiu khác thường.
Đêm mờ càng h iện lên sự vắng vẻ, cái vắng vẻ chứa chấp những bất trắc
khôn lường.
- Một đ ất nước huyền thoại và trữ tình. Rô-đa ạ.
Người chồng quay lại, đắm chìm trong suy tưởng, th o á t khỏi cái
hiện thực lạnh lẽo ngoài kia. Nhưng người vợ đã bíu lấy cổ chồng, giọng
lạn h run:
- Bốp, lạy Chúa! Sao chúng ta không đợi sáng m ai hãy đi.
- 0 nghề nghiệp của anh. Rô-da à, tro n g tĩnh lặn g buổi đêm, ta nhìn
được chiều sâu của các sự kiện.

298
- Lạy Chúa! Em vùa đọc xong “Chùm nho uất h ận ” của Sten-béc. Sao
em có cảm giác chúng ta đang ngồi trong chiếc xe Hudson của gia dinh
Tôm đi về miền Ca-li-phoóc-nia xa xôi, vô định quá.
- Đừng nghĩ u ám thế. Rô-đa.
- Lạy Chúa, trong cuộc di cư tuyệt vọng ấy, th o ạt đầu là ông nội
Tôm chết, kê đó là bà nội Tôm...
Người đàn ông lắc đầu, im lặng. Cái rùng m ình từ người phụ nữ lan
sang ông, lướt qua ông để lại trong ông một cảm giác lửng lơ và khi thấy
xe chạy gần một tiếng đồng hồ nữa mà không gặp lại m ột chiếc cầu nào
thì ông th ấy nỗi lo sợ của người vợ là hợp lý ông cũng thấy như m ình
đang chờ đón m ột cái gì đó như là sự may m ắn, điều rủi ro, và các chức
phận cảm giác của ông căng dần lên, khó chịu.
Thấm nhiễm khắp không gian là cơn tê giá của những hãi hùng
tưởng tượng m à h ế t sức đáng sợ. Trời đất trông tuếch, nhưng bất cứ ở nơi
nào đó cũng có th ể nảy ra một cái gì đó rấ t bất ngờ, ở ngoài sự phỏng
đoán của con người.
Sự tương phản tìn h cảm ở trong xe, đối cực với trạn g th ái tâm lý
của người phụ nữ và phân não của người đàn ông, là anh lái xe. Anh còn
rấ t trẻ trong bộ quần áo lính, những bộ quân áo lính không bao giờ mới,
nhưng bao giờ cũng làm cho người mặc trẻ ra. Chỉ độ hăm m ốt hăm hai,
anh có một khuôn m ặt không th ậ t đặc sắc nhưng dễ mến, nhìn bán diện,
rái tr á n hrti Hô, gf) m ũi rao v à cái cằm th o n lo m , n h ỏ , h ộ t cằ m co n cá i.
Song đáng chú ý n h ấ t là con m ắt. Xe chạy không đèn. Nhưng m ắt anh là
ngọn đèn. H ình như nó phát ra hai luồng sáng. Và con người trẻ tuổi ấy
lại diễn đạt sự bình tĩn h đến mức người đứng tuổi vốn có ưu th ế ấy phải
ghen tị. Sự bình tĩn h thuần thục và tự nhiên làm sao. Đó không phải là
sự lên gân cố tìn h , hay th ái độ vô tư lự, không hiểu biết. Cũng chẳng
phải là sự phớt lờ, khinh bạc. Sự bình tĩnh vì từng trải, vì làm chủ được
sự vật, hòa hợp một cách th ậ t nhuần nhuyễn với cái gì đó như là một bản
lĩnh chiến sĩ, có th ể hiện lên th àn h hình hài cho m ột kiệt tác điêu khắc.
Người phóng viên phương Tây cảm nhận điều đó không th ậ t rõ
ràng, nhưng ông muôn ghi lại hình ảnh này trong ký ức và ông đang tậ n
từ ngữ, phong điệu để định hình sự diễn đạt. Nhưng, ông bị đột ngột.
- Ông nên ngồi ra ghê sau đi.

299
Người lái xe bỗng ngoảnh sang người phóng viên, nói khe khẽ, n é t
m ặt không hề th ay đổi, nhưng đó là một n ét m ặt khó miêu tả n h ấ t vì
dằng sau cái th ầ n th ái tự nhiên ấy là cái m ênh m ang sâu thẳm của tin h
thần . Người phóng viên dò đoán, cố nắm b ắt cái tin h th ầ n ấy th ì người
lái xe đã thêm :
- Ngồi ở g h ế trê n này nguy hiểm đấy, ông ạ.
Lần này giọng nói của người lái xe có vẻ nghiêm trang. Lập tức,
người phóng viên cảm th ấy bị xúc phạm.

- Tôi đã từng ở m ặt trậ n Pa-lét-xtin. Tôi đã ở bãi biển Hi-rôn Cuba


khi bọn Mỹ bị đánh tr ả tơi bời. Tôi vừa ở Áp-ga-ni-xtăng về...

Người lái xe quay lại, hai con m ắt thông m inh chớp chớp. Anh hiểu
ông n h à báo, nhưng hơi mỉm cười:
- Ở đây bọn tà n quân Pôn Pốt nó ran h m a lắm , ông ạ. P h á t súng
đầu tiên chúng dành cho người lái. P h át sau là m ột quả B.41. T háng
trước có m ột ông bị vạ lây với tôi vì thế, may chỉ bị thương. Vả lại đừng
n ên để bà ấy ngồi m ột m ình.
Cơn tự ái của người phóng viên ta n ngay sau câu nói ấy. Ông hiểu
rồi: không phải là người lái xe coi thường ông. N hân cách này cao cả và
lạ lùng: an h ta chỉ muôn m ình m ình hứng chịu nỗi hiểm nguy.
Xe dừng lại m ột p hút để người đàn ông chuyển về hàn g ghế sau. Và
khi xe tiếp tục chuyển bánh ông lại rơi vào m ột trạ n g th ái tâm lý dở
dang, lừng chừng rấ t quen thuộc. Y như cái cảnh tra n h tối tra n h sáng
nhuốm m ột vẻ bâng khuâng ở ngoài xe: đồng hoang trả i rộng chập chờn
những đám sương trắ n g mỏng m anh như khói ẩ n giấu đâu đó nỗi kinh dị
về những huyễn tượng yêu ma, quái đản.
Xe đã gặp lại m ột chiếc cầu. Trên dặm đường thăm thẳm , đó là nỗi
an ủi duy n h ấ t của nó. L ần này trời sáng hơn. Và vì người lái dừng xe
xin thuốc lá người gác n ên người phóng viên nh ìn rõ gương m ặt, những
anh bộ đội Việt Nam: những người lính rấ t trẻ, tỉn h táo và m ắt lấp lánh
n h iệ t tìn h khi n h ận ra trong xe có hai người phương Tây, n h ấ t là lại có
m ột phụ nữ.
Nhưng, cuộc gặp gỡ như định kỳ ấy lại khiến người phụ nữ th ấp
thỏm . Về tâm linh, chị tin h t ế hơn chồng. Sau phút yên lòng, chiếc xe đi
vào nỗi bơ vơ, đơn chiếc. Ở mỗi đoạn đường, hai cây cầu là hai điểm

300
nương tựa, an toàn, và chỉ có vậy thôi, còn khúc gi ưa dằng dặc là dặm
đường đầy những b ất hạnh khôn lường.
Người phụ nữ níu tay chồng, dồn dập hơi thở:
- Bốp! T h ật là kinh khủng! Chỉ với cái không khí này em cũng đã
hiểu bọn người xưa kia thống trị xứ sở này tàn ác như th ế nào. Nhưng,
sao ta lại dấn th â n vào đất này! Thật là mạo hiểm! Mà em cũng chẳng
hiểu: tại sao người Việt lại dính vào công việc ở đây. Họ rỗi việc quá hay
sao, nên th ấy đám cãi nhau liền xô lại can.
- Không phải! Bọn Pôn Pốt đánh họ đấy chứ! Người đàn ông cải
chính.
Người phụ nữ vẫn lắc đầu:
- Em không thích, Bốp à. Chúng ta sống yên ổn, th ái bình và buôn
bán với ai thỏa th uận với ta. Sao họ không như ta?
Lần này người đàn ông không giải thích cho vợ nữa. Chị là m ột phụ
nữ xinh đẹp, đảm, yếu ớt và ngây thơ. Vậy thôi. Nhưng người lái xe sau
khi nghe người đàn ông dịch lại câu nói của người phụ nữ, gần như nhoai
nửa người qua lưng ghế, anh chỉ lái có một tay.
- Chị chưa hiểu dân tộc tôi. - Anh nói - Chị tôi, năm trước xung
phong đi xây dựng kinh tế ở Tây Nguyên. Hăm hở lắm. Nhưng vừa rồi
tôi về phép th ì gặp bà ấy bồng bế tấ t cả con cái về làng. Không phải bà
ấy không chịu đươc khổ. Trên ấy sung túc là khác. Nhưng bà ấy về vì...
nhớ quê. Cái làng quê V iệt Nam giữ chặt chân người ta lắm. Người ta
chẳng muốn rời khỏi làng m ình, xã mình, huyện m ình, tỉn h m ình, chứ
đừng nói đi tới nước khác. Người Tàu thì khác! Với ba củ lạc rang, họ đi
khắp th ế giới. Họ đến đ ất này, thoạt tiên xin ngủ nhờ đầu hè n h à người
Khơ-me. í t lâu sau, họ mở sòng bạc, cửa hàng tạp hoá. Rồi họ lấy vợ
người địa phương. Rồi bất đầu mua đất. Người Cam puchia đánh bạc hết
tiền, cầm đất. H ết đất, th ế là vợ chồng con cái lên xe cho bò kéo đi. Thực
dân m ột cách êm th ấm là cái cách của ngươi Tàu. Còn chúng tôi, tấ t
nhiên không phải thế. Nhưng nói th ế nào để chị hiểu nhỉ? Ờ, vấn dề
chính trị, ờ, đúng là bọn Pôn Pốt đã gây sự với chúng tôi... nhưng không
phải chỉ có thế...
H ình như lúng túng về cách diễn đạt, người lái xe trở lại tư th ế bình
thường, hai tay xoay nhè nhẹ vành tay lái:

301
- Ông bà trông kìa, có giống cánh đồng m a không? Người Khơ-me có
câu th àn h ngữ rấ t hay: “người Tàu đuổi người Khơ-me, người Khơ-me
đuổi m a”. Đó, cầm đất cho người Tàu xong, người Khơ-me lại lặn lội đến
các cánh đồng hoang, bắt đầu khai phá.
“Anh ta hiểu biết vấn đề một cách sâu xa”. Người phóng viên nghĩ.
Nhưng, câu chuyện về tội ác của bọn người cai trị đ ất nước này lẽ ra có
th ể kể được rấ t nhiều nữa đã bị dừng lại. Dường như không muôn gây
những ấn tượng nặng nề cho người phụ nữ, cảnh ở ngoài xe đã đủ lắm rồi
- anh lái xe, sau một vòng cua hẹp, giọng bỗng trở nên nhẹ tênh:
- Đến Campuchia, ông nên đưa bà ấy đi xem Ảng-co.
- Anh đã đi chưa? - Người phóng viên hỏi.
- Tôi đã đưa khách đến đó một vài lần. Chà! T h ật là cả một kỳ
quan. Mùa khô này, ông bà nếu xem ở phía đông nên xem từ quãng 8 giờ
đến 10 giờ sáng. Lúc ấy m ặt trời vàng như m ật ong, tượng các vũ nữ rực
rỡ, lộng lẫy nét hình, đẹp hơn tượng trong hoàng cung nhiều, ừ , đẹp
n h ất là tượng phụ nữ. Mà phụ nữ Campuchia đẹp th ật. Bà chị tôi 38 tuổi
đã xồ xề. Phụ nữ dân tộc này 40 vẫn thon gọn, vóc dáng, đầy sức sống nữ
tính - Anh lái xe hơi mỉm cười: Ông bà nên đến Ảng-co. Đến đó, ông thử
nghĩ, giả dụ ông có một người xóm giềng tà i năng như thế...
Ngươi phụ nữ bị nỗi sợ hãi ám ảnh dày vò, không để ý tới ý tứ chứa
đựng trong từng câu nói của anh lái xe, nghe chồng dịch lại chưa hết, đã
lắo (ìầu quầy quậy:
- Không! Không! Tôi chẳng đi đâu cả! Lạy Chúa! Đến Phôm Pênh
tôi mua vé máy bay về ngay nước tôi thôi. Bô'p! Thôi đừng kể những
chuyện khủng khiếp nữa.
Những câu nói gay gắt của người phụ nữ làm không khí trong xe trở
nên nặng nề. Không ai nói nữa. Và lúc này, xe đang đi vào m ột vùng tối
âm u. Bóng đen từ khu rừng cao su rậm tỏa ra, vệt đường trước kính xe
chìm lẫn vào cõi mung lung.
M ắt căng rọi cái nhìn tập trung vệ phía trước, anh lái xe cho xe
chạy chầm chậm như vừa chạy vừa dò đường. Người phụ nữ nép vào bên
chồng, run rẩy. Chị lẩm nhẩm như đọc kinh: “Bốp! Chắc chắn là họ đã dò
mìn cẩn th ậ n rồi chứ”. “Bốp, sao m ãi không đến m ột chiếc cầu nào”.
“Bốp, dừng lại ở trạm gác cầu sắp tới nhé. Em chịu không nổi nữa rồi!”.

302
Và nỗi sợ hãi của chị đã tới cực điểm, đã th àn h sự thật. Chị bỗng
ôm chặt chồng, rú lên một tiếng khiếp đảm và tắc nghẽn.
Đoành! Đoành! Đoành! Đạn vừa nổ ba tiếng phá vỡ bóng đêm. Đó là
tiếng súng của bọn tà n quân bắn chiếc xe .
Người phóng viên chồm lên, thét một tiếng còn kinh hãi hơn tiếng
rú của người phụ nữ, ông nhìn thấy người lái xe đập m ặt xuống vành tay
lái:
- Trời!
Ông run h ế t cả người, cảm thấy m ất h ết tự chủ. Cảnh tượng trước
m ắt ông là sự th ậ t m à như ác mộng. Tên phỉ th iện xạ nào đó bấn th ật
chính xác, ba viên đạn xuyên qua ngực người lái xe phá chếch ở phía
lưng anh. Anh gục xuống lưng hơi cồm dập, ở đó máu đà ứa ra đen thẫm .
Vậy là h ết rồi. H ết rồi. “P h át đạn đầu chúng dành cho ngươi lái xe. P hát
thứ hai là một quả B.41”. Bọn tàn quân vẫn giữ cái lối xử sự như thời
chúng còn thống trị đ ất này: chúng không ưa bắt tù binh, không sử dụng
trạ i giam. Chúng giết người ngay tại chỗ, gọn ghẽ và chóng vánh.
Người đàn ông lảo đảo đứng dậy, m ất h ế t tri giác. Nhưng ông bỗng
nắm lấy lưng g hế trước. Sao lạ th ế này? Trong cái phút hoàn toàn tuyệt
vọng này, khi người vợ yêu quý đã chết ngất bên mình, kỳ lạ quá, người
đàn ông bỗng thấy trọng lượng thân thể m ình sụt xuông, ông hẫng người,
chông chênh trong m ột cảm giác mờ mờ ảo ảo: ngoài cửa xe, cảnh bỗng
ch n yổn d ich n h ư các k h u ô n h ìn h của m ộ t cuộn p h im .

“Xe vẫn chạy”. Người đàn ông bàng hoàng khi thấy phía sau xe vụt
qua một luồng hơi nóng ngột và một tiếng nổ lớn. Ông ngồi xuống,
nghiến ch ặt răng.
Quả th ậ t chiếc xe có khựng lại, nhưng chí m ột giây thôi. Và bọn tàn
quân chưa kịp phóng quả đạn hủy diệt vào nó, nó đã tiếp tục lăn bánh.
Chiếc xe không chết. Nó lao vùn tụt, tốc độ xem ra có phần còn nhanh
hơn lúc nãy. Tựa như có m ột lực vô hình đẩy nó. Tựa như có một phép
th ần nào diều khiển nó. Tựa như vừa xuất hiện một bầu trời năng lượng
mới chưa từng có. Bởi vì anh lái xe người Việt vẫn gục trên tay lái, máu
càng lúc càng đẫm khoang lưng áo. Bởi vì anh lái như đang ở trong giây
phút hấp hối: th ỉn h thoảng anh lại nghển lên giống như là quằn quại,
nhìn về phía trước, rồi lại dụi m ặt xuống tay lái, đau đớn hực hực thở h ắt
ra.

303
Mươi ph ú t sau, chiếc xe đỗ lại ở m ột cây cầu có những người lính
gác. A nh lái xe đã b ất tỉn h , nhưng chân vẫn còn đặt hờ trê n chân ga, tay
vẫn nắm ch ặt vành tay lái.

Câu chuyện về chiếc xe vượt qua cõi chết vô cùng khó hiểu đã trở
th à n h m ột trong những chuyện kỳ lạ của chiến tran h . Tính toán chi li
th ì với ba viên đạn xuyên qua phổi, anh lái xe người Việt coi như đã gục
ngay tại chỗ rồi. Cũng không phải là chiếc xe đã chạy theo quán tính.
Đường rừng ở đây ngoằn ngoèo, không theo m ột sơ đồ cố định nào... Vả
lại, tín h ra, nó đã chạy được tới gần mười cây sô' để tới sự sông an toàn.
Câu chuyện gây xôn xao cho các bác sĩ và các phóng viên.
Hai vợ chồng người phóng viên phương Tây đến bệnh viện. Anh lái
xe người Việt chưa chết. Đến bên giường anh, người phụ nữ đ ặt bó hoa
lên cái bàn nhỏ cạnh anh, nước m ắt giàn giụa. Còn người đàn ông, thói
quen nghề nghiệp lại hòa vào xúc động của ông.
Ông nắm tay người lái xe trẻ tuổi, rưng rưng:
- T h ật là kỳ diệu! Vì sao lại có th ể như th ế được, anh người Việt ơi?
M ặt nhợt vì m ất máu, anh lái xe m ấp máy đôi môi nhỏ:
- Lúc ấy tôi như chết rồi. Nhưng ông bà là người tôi có trác h nhiệm
phải đảm bảo an toàn, ông bà như mọi người, cần phải sông. Ông bà lại
mới lấy nhau. Tôi như chết rồi. Nhưng chân ga chưa chết, m ắt cũng như
tay cố sông thêm , cô' gắng để sông thêm ...
Ngước lên n hìn người phụ nữ mi m ắt đầy nước, anh lái nhoẻn cười
nụ cười in dấu cơn đau, méo xệch:
- Ông bà nên đi th ăm Ãng-co đi. Đó mới là sự kỳ diệu...
Anh nói th ế đã là quá sức rồi. Người phóng viên vội ghi lại ngay
những lời của anh. Vì đó có thể là n h ận lời cuối cùng của m ột người đă tự
biểu h iện m ột cách h ế t sức tự nhiên và khiêm tốn n h ân cách dân tộc
m ình: m ột dân tộc vị th a, sống, chết vi người khác; điều đó đã th à n h một
đạo lý, m ột nguồn năn g lượng vô tận của họ.

4-12-1980

MA VÃN KHÁNG

304
ĐƯỜNG QUA PHUM THA KHÂY

KHUẤT QUANG THỤY

Người dân vùng biên giới này vẫn thường nói “Đi dâu m à chẳng
phải qua Kha Thây”. Câu nói ấy nếu chỉ xét về góc độ vị trí địa lý thì
chưa hẳn là đúng, mặc dù Tha Khây cũng là một phum có vị trí quan
trọng trong vùng. Sở dĩ có câu nói ấy, có lẽ bởi xưa nay Tha Khây vẫn là
phum của những lục thum (ông lớn). Muôn di đâu, làm gì, người trong
vùng đều phải qua đây xin phép các ông lớn và hỏi ý kiến sư thầy chùa
Tha Khây. Thời nào Tha Khây cũng có ngươi làm quan to. Nhưng có lẽ
bởi vậy m à mỗi cuộc đổi thay triều đại, Tha Khây cũng là nơi phải chịu
nhiều đau thương nhất. Những kẻ tiếm quyền, sau khi loại trừ những ông
lớn và gia đình họ, lập tức không quên quài tay dao tay búa sang hàng
xóm, láng giềng của họ để thêm hả cơn giận và để trừ hậu họa. Láng
giềng của kẻ thù của m ình không thể coi thường được.
Thời Pôn Pốt, Tha Khây cũng có một vài lục thum cỡ tỉnh, cỡ huyện.
Các ông lớn này bèn bàn nhau mở một con đường về T ha Khây và cẩn
th ận hơn, kéo thêm một đoạn gần hai chục cây nữa ra tận biên giới Thái
Lan, để, nếu có chuyện gì thì... Mối lo xa của mấy ông này quả là không
th ừ a . N gư ời d â n T h a K h â y đã được chứ ng k iê n cá i c ả n h b ọ n tà n q u â n
Pôn Pốt đạp xéo lên nhau chạy trôn trên con đường này để chuồn sang
Thái Lan sau này m ồng bảy tháng một năm bảy mươi chín. Trước khi rú t
khỏi Tha Khây, bọn tàn quân Pôn Pốt vẫn còn kịp dốt sạch Tha Khây và
cho nổ tung cái khu hậu cần lúc nào cũng ăm ắp súng đạn bên cạnh Tha
Khây. Sau cuộc đào tẩu ấy ít ngày, những người dân Tha Khây còn sông
sót ở các công xã lóp ngóp kéo nhau trở về. Dù sao cũng không th ể bỏ
Tha Khây được. Người ta bắt đầu dựng tạm những túp lều trên đống tro
tàn. Một T ha Khây mới lại hình thành. Người dân T ha Khây gọi làng
mới của m ình là Tha Khây Thơ mây (Tha Khây mới) để phân biệt với
Tha Khây cũ xanh tươi trù phú và cũng là để ghi nhớ m ột thời tao loạn
nhố nhăng, nồi da xáo thịt.
Gia đình ông N iết chỉ có hai người trở về Tha Khây, đó là ông và
N iết Xan, đứa con trai út mười sáu tuổi. Bà lão, hai đứa con gái và hai
anh con tra i đầu tiên cùng vợ con họ đều lần lượt gục ngã trên những

305
ruộng nương, trạ i chăn nuôi, công trìn h thủy lợi của các công xã mà họ bị
lùa tới. Ngoài những người đã chết và N iết Xan, ông N iết còn một đứa
con tra i nữa trê n N iết Xan, tên là N iết Him, nó bị bắt vào lính Pôn Pốt,
nhưng đã làm việc ngay trong cái kho súng đạn bên cạnh Tha Khây kia.
Bạn bè của nó còn sống sót kể lại rằng, th ằn g N iết Him là một trong
những đứa được phân công đ ặt mìn phá kho và đã không chạy kịp khi
cái khối bom đ ạn kia bùng nổ như một núi lửa vừa bục lên. Thôi... thê
cũng còn là phúc đức. Dù sao th ì nó cũng còn được chết trên m ảnh dất
quê hương của m ình. Ông N iết tự an ủi m ình như vậy mỗi khi nghĩ tới
N iết Him.
Tha K hây Thơ m ây chưa kịp hồi sinh thì m ột đêm, bọn tàn quân
Pôn Pốt từ bên kia biên giới trà n sang. Chúng ập vào những túp lều mới
dựng, giết gần h ế t sô' dân T ha Khây mới trở về. Trước khi rút đi, chúng
đốt sạch những túp lều mới dựng rồi bỏ lại những tờ truyền đơn với
những lời de dọa: “Hỡi dân Tha Khây! Có cái nồi nhỏ hãy nhớ cái nồi to
(của công xã), mặc cái xà rông màu hãy nhớ cái xà rông đen. Coi chừng
trăm người chôn chung m ột hô! Muôn sống ăn cơm P h ật uông nước Trời,
hãy chạy qua biên giới”.
Những người còn sống sót nháo nhác vài ba ngày. Một số người lén
lút d ắt díu nhau đi về phía biên giới. Số còn lại vẫn ở lại Tha Khây,
trong đó có bố con ông già Niết. Một lần nữa, những người còn sống sót
quyết tâm xây dựng lại Tha Khây. Họ càng vững tâm hơn khi có một đại
đội Quân tìn h nguyện Việt Nam tới đóng quân ngay trong phum và bắt
đầu làm lại cầu, sửa lại con đường ra biên giới để ngăn chặn bàn tay đẫm
máu của bọn Pôn Pốt. Cùng với sự xuất hiện của bộ đội Việt Nam, chủ
tịch Xa May tập họp dân làng lại và nói: “Đã đến lúc chúng ta phải cầm
lấy vũ khí m à bảo vệ con cái ta, phum sóc ta chứ, cứ ngồi m à đợi bọn Pôn
Pốt nó sang để nó cầm búa nện vào đầu à?”. Một trung đội dân quân của
T ha Khây đã ra đời. N iết Xan xin cha cho m ình được vào du kích, ông
già N iết ngẫm nghĩ một hồi rồi gật đầu: “Được thôi? M ình không bắn nó
thi nó sẽ bắn m ình. Mày hãy học bắn cái súng cho giỏi vào”.
Có bộ đội, có du kích Tha Khây yên ổn được một thời gian. Những
ngôi nhà mới lại dựng lên. Người ta bắt đầu trồng cây và nghĩ đến
chuyện sông lâu dài ở Tha Khây Thơ mây.
Nhưng rồi con đường ra biên giới liên tiếp bị gài mìn, bị phục kích.
Bộ đội V iệt Nam buộc phải phân tán th àn h từng trung đội, tiểu đội đi
chốt đường, đi lùng sục trong rừng để tiêu diệt bọn tàn quân Pôn Pốt

306
vượt biên giới sang quấy phá. Xã đội trưởng Su P rên tập hợp du kích lại,
rồi nói:
- Bộ đội Việt Nam đi chốt đường, đi chiến đấu, chúng ta cũng phải
chia nhau đi với họ để vừa tham gia chiến đấu vừa học cách đánh giặc
chứ!
Mọi người đều giơ tay xung phong. Niết Xan cũng giơ cao cánh tay
khỏe khoắn trẻ trung của mình. Xã đội trưởng Su P rên liền phân công
N iết Xan vào tiểu đội của Nuôn Chiết ra chốt ở đầu cầu Tà Ngươn với bộ
đội Việt Nam.
Con trai đi rồi, ông già Niết đánh chiếc xe bò của m ình lên gặp xã
đội trưởng Su Prên:
- Tao già rồi, không còn vào du kích để đi chốt đường được, nhưng
tao có cái xe này. Hàng ngày tao sẽ chở nước đi các chốt dọc đường, chia
cho bộ đội và du kích để chúng nó khỏi phải đi gùi xa hàng buổi đường.
Mày coi có được không?
Xã đội trưởng Su P rên vỗ vai ông già, cười vang:
- Tốt quá! Tốt quá!... Người già bao giờ cũng khôn ngoan hơn người
trẻ. Đang đau đầu vì cái chuyện nước nôi cho các chốt mà chưa nghĩ ra
thí bô' già đã nghĩ hộ rồi. Có bố già chở nước cho bộ đội, cho du kích chốt
đường thì bọn Pôn Pôt đừng hòng phá nổi con đường qua phum Tha
Khây. Phải không bố già?
T r u n g d ô i U ư ở n g T h ỏ n g trự c t iế p n ằ m v ớ i t iể u d ộ i c h ó t ớ c à u T a
Ngươn, điểm chốt xa n h ất của trung đội, cách Tha Khây hơn chục cây số.
Đây cũng là một quãng đường thường xuyên bị bọn địch từ bên kia biên
giới mò sang gài m ìn hay phục kích xe của bộ đội ta chở hàng ra tiếp
viện cho các chốt tiền tiêu ngoài đường biên, trong đó có cả những xe téc
chỏ nước. Đã từng chiến đấu ở nhiều chiến trường nhưng chưa ở đâu “vấn
đề nước” lại được đặt ra gay gắt không kém gì súng đạn và lương thực
thực phẩm như ở chiến trường này. Mùa khô ở xứ này sao mà khắc
nghiệt. Trên đầu trời lúc nào cũng xanh ngằn ngặt còn m ặt đ ất thì bị
nắng trời thiêu dốt suốt ngày nóng hừng hực như trong lò nướng bánh
mì. Gió cũng nóng, nó không hầm hập quạt lửa vào m ặt như gió lào
nhưng dai dẳng day dứt suốt từ sáng sớm tới nửa đêm. Trung đội đã bị
ghẻ suốt lượt vì đã hàng tháng trời không được tắm rửa. Đã vậy, hàng
ngày họ phải phơi m ặt ra mà hưng cái thứ bụi xám của con đường này.
Người ngợm lúc nào cũng dấp dính như được p hết hồ. Ngứa ngáy đến

307
khốn khổ. Có lẽ vì th ế m à suốt ngày anh nào anh nấy lúc nào cũng cau
cau có có như bị táo bón, chỉ vào lúc vắng m ặt trời là mọi người đều vui
vẻ, m ặt m ày rạn g rỡ. Họ kéo ra đứng trê n cầu chờ chiếc xe chở nước của
ông già N iết lọc cọc lăn tới.
Khi chiếc xe bò của ông vừa dừng b án h bên kia cầu là tiểu đội
trưởng Trực chạy ùa tới, h é t vang lên:
- Nước tới! Nước muôn năm! Chào bố già. Chúng con m ong bô' cò
hơn mong P h ậ t bà Quan âm đi chợ về đấy!
Ông lão cười khơ khơ rồi trịn h trọng th ả m ấy can nước xuống. Có
nước, cả tiểu đội vui vẻ náo n h iệt h ẳn lên. Mọi người quây quần trước cửa
lán, mỗi người cầm trê n tay m ột chiếc ca hoặc bát, hoặc những cái mũ
s ắ t ngửa ra, háo hức gấp triệu lần những tay nghiện ngập đứng xếp hàng
trước quầy bia ở Hà Nội. Ví von như th ế có lẽ vẫn chưa hẳn đúng, vẫn ít
nhiều xúc phạm tới sự thiêng liêng của nước lã ở chôn này. Vì ở Hà Nội,
dù bia có k h an hiếm đến mấy, nhưng hễ có tiền là vẫn có để m à say sưa.
N hà nước không có thì uống “bia chui”. Nhưng ở đây, bố già mà không
tới thì không th ể “chui” ở đâu mà ra nước được. Đó là lời bình luận của
Ca, m ột “công tử H à Nội” chính công vừa được bổ sung vào trung đội hơn
m ột th á n g nay (và cũng đã ghẻ m ột cách “toàn diện triệ t để” như cánh
cựu binh).
Sau khi n h ận bàn giao xong, tiểu đội trưởng Trực b ắt đầu chia nước.
Tiêu chuẩn mỗi người được m ột ca đầy, sử dụng theo sở thích từ bây giờ
đến trư a mai. Riêng những người vừa đi “bừa đường” về (cái chuyện bừa
đường này sẽ kể sau) thì được ưu tiên thêm m ột ca nữa để rửa m ặt, khéo
léo th ì còn có th ể lau m ình qua m ột lượt. Trung đội trưởng Thông cũng
chỉ lĩn h m ột khẩu phần nước. Hôm đầu tiên ra đây, tiểu đội trưởng Trực
cũng đã múc th êm cho an h lưng ca nữa để bày tỏ sự tôn trọng cấp trên ,
nhưng Thông vội gạt đi. N hìn thấy cảnh ấy, Nuôn C hiết liền cười, hỏi:
“Làm lục thum m à cũng chỉ hưởng m ột ca nước như mọi người thì làm lục
thum làm cái quáy gì, an h Thông?”. Thông vội xua tay “Cậu lầm rồi,
Nuôn C hiết, m ình không phải là lục thum đâu. M ình chỉ là đồng chí chỉ
huy tru n g đội thôi. Nuôn C hiết lắc đầu “Ớ Cam puchia chưa có cái lệ làm
ông lớn m à lại hưởng thụ như tấ t cả những người bình thường”. Thông
cười: “Vậy Trực h ãy chia cho ông lớn của tiểu dội du kích Tha Khây thêm
m ột ca nữa”. Nuôn C hiết giẫy nảy “Không! Nếu vậy thì... tôi đi du kích
làm cách m ạng làm cái quái gì!”.

308
Chuyện ấy đã trở th àn h chuyện vui của tổ chốt hỗn hợp cầu Tà
Ngươn, nhưng anh em bộ đội Việt Nam từ đó vẫn đùa th ỉn h thoảng lại
gọi Nuôn C hiết là “lục thum ”.
- N iết Xan! Ra lĩn h nước đi? “lục thum ” đang gọi kìa.
Nghe “Ca H à Nội" nhấc, Niết Xan lẳng lặng xách cái ống tre vẫn
thường dùng đựng nước thốt nốt ra cửa lán. Hôm nào N iết Xan cũng nấn
ná để ra lĩn h nước sau cùng. Chú ngại mọi người nhìn thấy cảnh cha con
chú gặp nhau. Cha chú lại hay hỏi lẩn thẩn hoặc níu chú lại và căn dặn
đủ điều, làm như chú là trẻ n ít không bằng. Vả lại, sông với anh em bộ
đội Việt Nam xa gia đình chú cảm thấy dường như m ình có lỗi vì ngày
nào cũng được gặp cha. Chú muốn đi xa, ra tận chốt biên giới để cha chú
không còn ngày ngày tới mà hỏi han xét nét đủ điều nữa.
- N iết Xan! qua đây tao hỏi cái đã.
Ỏng già khoát tay nói như ra lệnh khiến N iết Xan không dám lừng
khừng. Cậu vừa bước qua cầu vừa lủng bủng trong m iệng ngày nào cũng
hỏi với han... lắm chuyện!
- Mày đội cái mũ lệch th ế kìa mà được à?
- Giờ nghỉ... tôi có quyền...
“Lý lẽ với cả bố nó đấy. Cứng cổ gđm nhỉ?”. Ông N iết vừa th ầm nghĩ
vừa ngấm nhìn gương m ặt cau có của con trai. Nó cũng dày dạn nhiều rồi
đấy. Cái cây trong vườn và cái cây ngoài rừng có khác nhau th ật.
- Cha nói cái gì th ì nói đi. sắp có công tác gấp đấy.
- Tối rồi, còn công tác gì?
- Tối có công tác tối chứ! Ãn cơm xong còn họp rồi đi tuần đường.
Hôm nay chúng nó lại gài mìn nữa đấy. May m à bộ đội gỡ được hết. Ớ
nhà... có gì mới không cha?
- Mới thêm nhiều chứ. Nhà Su Khơi mới về. Cũng chỉ còn hai mẹ
con thôi. Con bé Khơi H a-san nó hỏi thăm anh đấy (ông N iết bỗng đổi
cách xưng hô).
- Nó còn con n ít m à - N iết Xan vội nói như muốn cho qua chuyện
con bé Khơi Ha-san, nhưng thâm tâm là muôn được nghe thêm nữa.

309
- A nh tưởng nó còn con n ít m ãi sao? Khơi H a-san nó sắp lên tận
Phnôm P ênh học, rồi về làm cô giáo dạy chữ cho lũ con n ít ở T ha Khây
ta đấy.
- 0 - N iết Xan th ố t lên vì ngạc nhiên - Khơi H a-san vắt mũi chưa
sạch. Đòi dạy ai?
- Nó lớn lắm rồi. M úa romvông đẹp như bà Su Khơi ngày xưa ấy.

Vậy ra Khơi H a-san đã về Tha Khây Thơ-mây, đã đi m úa romvông


với lũ con trai. T h ế m à nói nhớ N iết Xan. Vui quá nhớ cái nỗi gì? Nhưng
thôi, hãy dẹp cái đám con gái qua một bên. M ình còn bận lo nhiều công
tác nữa mà.
- Cha nói với... với bà Su Khơi rằng con vẫn nhớ bà ấy. c ầ u Trời
P h ậ t phù hộ cho bà ấy sông lâu.
- T h ế còn... H a-san? Ông N iết hỏi và khẽ nheo m ắt, cười.
- Không có... con chẳng có gì để nói với con bé ấy. Nhưng cha có thể
nói với cô ấy rằng... N iết Xan bận đánh giặc. Cô ấy cứ việc đi m à múa
rom vông với đám con trai.
N iết Xan nói vậy rồi vùng vằng trở về lán, làm như chính Ha-san
đang ở bên kia cầu Tà Ngươn vậy. Tuy hơi bực một chút th ậ t, nhưng có lẽ
N iết Xan vui là chính. Bởi vậy vừa bước vào cửa lán Nuôn C hiết đã hỏi
luôn:
- Có chuyện gì m à vui thế, N iết Xan?
- Ồ... vui vì T ha Khây đang có nhiều cái mới đấy, anh Nuôn C hiết ạ.
T ha Khây sắp có trường học, sắp cô cô giáo dạy chữ cho lũ trẻ đấy. Cô
giáo mới trê n tỉn h về à?

- Không... cô giáo của Tha Khây chứ! Bộ đội V iệt Nam đã làm cho
trường học th ì người T ha Khây phải đi học về mà làm cô giáo chứ.
- Ai thế?
- Bí mật!

- Ghê nhỉ? Hãy n h ét cái bí m ật của cậu vào bụng đi, kẻo không ăn
được cơm với m ắm bò hóc đâu. Ngày mai đến lượt cậu đi “bừa đường” với
bộ đội rồi đấy!
- T h ật chứ, anh Nuôn Chiết? Đúng rồi, phải cho tôi đi làm nhiệm vụ
chứ. Tôi có mặc xà rông đâu mà chỉ ngồi nhà nấu cơm hoài?

310
Họ gồm ba người, trung đội trương Thông, Ca Hà Nội và N iết Xan.
Cả ba dàn hàng ngang, cùng gò lưng bước những bước nặng nề, chân
ngập sâu dưới lớp bụi màu xám tro. Trên vai mỗi người đều ghì m ột sợi
dây võng dài nối tới những bó gai to. Khi kéo đi, bó gai chà trê n đường
sục tung lớp bụi lên. Từ xa nhìn lại sẽ thấy m ột đám mây bụi vần lên,
tựa hồ trê n đuờng đang có cả một đoàn kỵ binh phi nước đại. M ột công
việc th ậ t kỳ quặc, giống như một trò nghịch ngợm của trẻ con. Mỗi ngày
hai lần. các tiểu đội chốt đường đều thay nhau làm cái việc kỳ quặc đó để
kiểm tra xem địch có gài mìn dưới lớp bụi ngập tới lưng ống chân kia
không. Sau đó họ mới báo cáo thông đường và cho phép các chuyến xe
chở hàng ra các chốt tiền tiêu đi qua. Dạo này địch hay dùng các loại mìn
vỏ nhựa do Trung Quốc sản xuất nên các loại máy dò mìn trở nên bất lực.
Vì vậy mà cái phương thức thủ công nguy hiểm nay đã ra đời. Có thể
chính những người đang gò lưng bước đi trê n m ặt đường ngập bụi kia sẽ
đạp phải mìn. Nếu họ không đạp phải thì đến lượt những bụi gai kia sẽ
khơi chúng lên, gây nổ. Khoảng cách từ bó gai đến những người kéo
chúng đi chỉ là khoảng cách an toàn về m ặt lý thuyết. Biết bao điều bất
trắc có th ể xảy ra?
Nhưng họ vẫn bước đi, quả quyết và kiên nhẫn.
Mặt trời vừa lên mà không gian đã hầm hập nóng. Trung đội trưởng
Thông thở phì phò, mồ hôi tuôn ra đẫm áo. Mồ hôi chảy tới đâu bụi bám
tới đó, dính bết lại, nhão ra, nhớp nháp khắp cơ thể. Bên phải anh, N iết
Xan vẫn lầm lì bước, không một lời phàn nàn. Ngược lại, Ca đi bên trá i
thì luôn m iệng ho khâm khoặc. rồi rên rầm:
- Bụi ơi là bụi? Sống ở xứ này lấy ba cái m ùa xoài rụng là ho lao
mất.
- Vậy m à tớ đã sống qua bốn mùa xoài rụng rồi đấy!
- T hế th ì Quốc hội cũng chả nên tiếc anh cái danh hiệu Anh hùng
làm gì. Cũng là di bộ đội đánh giặc... thưởng th ế quái nào chứ! Giặc giã
chả thấy chỉ th ấy bụi... Thà rằng bom đạn ầm ầm suốt ngày còn sướng
hơn cứ ngày nay qua ngày khác đi cào đường m à h ít bụi. Khoặc!... hừ...
Đầy mồm bụi rồi! Nước thì không có mà rửa cái lỗ mũi nữa. Xứ sở quái
quỷ thật! Lại còn cái thứ gì nhỉ... à, mắm bồ hóc! Giời Phật! Mới ngửi
thấy là muốn ói rồi. Đến xuống lỗ tôi cũng không quên được hai thứ “đặc
sả n ” của xứ này là bụi và mắm bồ hóc.
Trung đội trưởng Thông ngước nhìn N iết Xan. Khi tin chắc N iết
Xan không đủ vốh tiếng Việt để nghe những lời ca cẩm của Ca H à Nội,

311
anh mới yên tâm . Bụi thì có th ể chê được... chứ m ắm bồ hóc m à chê thì
người Campuchia tự ái ngay. Mà suy cho cùng, nó có kém gì m ắm tôm ở
bên ta kia chứ? Kể ra cũng thương Ca th ật. Tới bữa anh em th ì ăn mắm
bồ hóc, cậu ta cứ muôi trắ n g đánh rền, “công tử H à Nội” m à ăn uống
kham khổ thế, lại hàng th án g không được tắm gội, kể cũng khó chịu
th ật.
- Tốt hơn h ết là cậu hãy kể chuyện Hà Nội đi. Chuyện gì cũng được.
- Dẹp!... tốt hơn h ế t là ngậm m iệng lại kẻo bụi nó xộc vào tận lục
phủ ngũ tạn g - Nói vậy nhưng mồm mép Ca vẫn tía lia — m à sao anh có
vẻ... say Hà Nội th ế nhỉ? Có cô hàng bún ốc nào thèm mê anh kia chứ?
Giả sử bây giờ vù một cái, có m ột cơn lốc cực m ạnh cuốn cả anh và tôi
lên trời, rồi ném xuống m ột đường phô" Hà Nội thì... lập tức người ta sẽ
đổ xô đến xem. Các ngã ba đường sẽ tắc nghẽn ngay. Người H à Nội vôn
hiếu kỳ mà! Người ta sẽ lập tức thông báo khắp các quán chè chén ở Hà
Nội rằn g có hai th ằn g người vừa ở một hành tin h khác rơi xuống Hà Nội.
Các nhà khoa học ở Hà Nội sẽ ào đến cạo trắ n g chúng ta đi để tranh
nhau lấy mỗi người một vóc bụi m ang về những phòng th í nghiệm đầy
chai lọ và mẩu thuốc lá cuốn của họ để nghiên cứu. Báo chí sẽ tra n h nhau
chụp ảnh, phỏng vấn viết bài bình luận. Và, ông cụ nhà tôi sẽ lập tức
chạy bộ ra bưu điện, tra n h nhau với lũ nhóc dể xếp hàng m ua bằng dược
một số báo. Rồi ông sẽ về phòng của mình, đóng cửa lại, pha một ấm trà
và b ắt đầu nhấm nháp các bài bình luận và xuýt xoa “chà... chà! Một sự
kiện cực kỳ trọng đại”. Nhưng đến khi nhìn sang bức ản h chụp hai thằng
người thì... h a ha! Ông già b ật ngửa người ra, cái kín h lão rơi tuột xuống
nền nhà và...
Một loạt tiếng nổ dậy đất cắt ngang những lời thao thao b ất tuyệt
của Ca. Cả ba người cùng m ột lúc, theo phản xạ tự nh iên nằm vật xuống
đường. Một lá t sau, trung đội trưởng Thông lồm cồm bò dậy vừa rũ đầu,
rũ tóc vừa h ét lên:
- Không sao cả chứ?
N iết Xan cũng lập túc dứng dậy, m ặt đầy đất, nh ìn Thông cười ngây
ngô. Ca vẫn còn nằm rcín thêm một lát có lẽ vì cẩn th ận , rồi cái đầu bắt
đầu ngúc ngoắc và sau đó là những tiếng rên rầm : “Đ ất vào đầy mồm
lính rồi, trung đội trưởng ơi!” N hìn bộ dạng của Ca, Thông và N iết Xan
cùng phì cười. Lúc này m à rơi xuống đường phô’ H à Nội thì đúng là...
- Thôi dậy đi. Tan cha nó cả ba bó gai. Ta lại kiểm tra xem sao rồi
đi chặt gai bó lại để tiếp tục công việc.

312
Họ ngược trở lại nơi m ìn vừa nổ. Thông nhận ra ngay thủ đoạn gài
m ìn của kẻ địch. Chúng gài mìn vỏ nhựa KP2 kèm với mìn vướng nổ,
cũng may m à cả ba không ai vấp phải dây vướng nổ. Nếu không thì
không th ể đứng nhìn m ặt nhau lấm bụi mà cười được nữa. Anh liền tran h
thủ giảng giải điều ấy cho cậu lính mới của mình. Ca nghe m ột cách lơ
đãng, rồi kết luận:
- Tóm lại... là nó nổ rấ t to. Lần đầu tiên tôi thấy m ìn nổ gần th ế
đấy. Được một quả này mà th ả xuống Hồ Tây thì th a hồ mà ăn cá. Anh
không biết chứ, hồi nhỏ tôi câu cá trộm ở Hồ Tây vào loại sừng!
Trong khi hai người còn loay hoay bên mấy hô' mìn thi Niết Xan đã
chạy tới một lùm tre gai ven đường, tay cầm một con dao phát rừng.
- Cẩn th ậ n đấy, N iết Xan!
Nhưng chậm rồi. Một tiếng nổ lộng óc. Một vệt lửa nhoáng lên. Họ
thoáng nhìn thấy trong lan khói bóng Niết Xan loạng choạng rồi ngã vật
xuống.
- N hanh lên! chuẩn bị vũ khí!
Thông h é t lên rồi lao về phía bờ tre nơi Niết Xan vừa ngã xuống.
- Chú ý cảnh giới hai bên sườn!
Anh ra lệnh cho Ca rồi thận trọng bước tới bên Niết Xan. Nhìn
quanh bụi tre gai m ột lượt, anh chợt hiểu. Thằng địch đã nắm vững quy
luât hoat dông của các anh và đã tính toán tấ t cả. Chúng gài mìn ngoài
đường, nếu các anh không đạp phải thì khi kéo chà gai qua mìn sẽ nổ,
những bó gai sẽ tung lên. Và sau đó, để tiếp tục công việc, các anh nhất
định sẽ vào đây ch ặt thêm cành tre gai. Chúng đã tín h toán rấ t kỹ. “Còn
ta - Thông bỗng buông tiếng thở dài - ta đã không dự kiến phương án
này. N iết Xan hy sinh là lỗi tại ta”. Anh đau xót nhìn Niết Xan nằm
trò n g vũng máu và tự oán trách mình, một lát sau, anh lặng lẽ cúi xuống
nâng N iết Xan lên vai. Những dòng máu đỏ tươi trê n th ân th ể Niết Xan
vẫn th á n h th ó t nhỏ xuống thấm vào áo, vào cơ th ể anh, rơi từng giọt,
từng giọt xuống m ặt đ ất khô cằn của quê hương.
Ca lặng lẽ bước theo sau trung đội trưởng và N iết Xan. Anh vẫn cặp
súng ngang người, ở tư th ế sẵn sàng nhả đạn, gương m ặt anh th o ắt trở
nên tra n g nghiêm , sâu lắng hơn. Đây là lần đầu tiên Ca nhìn thấy một
chiến sĩ đã nằm xuống như th ế nào? Ôi! Sao mà bất ngờ. Dường như cái
chết của những người chiến sĩ ở m ặt trận bao giờ cũng bất ngờ. Ca chợt

313
hiểu rằng trước cái chết, trước sự hy sinh, trước những dòng máu đang
nhỏ th án h th ó t xuôYig đất đai kia, mọi sự gian nan, v ất vả, thiếu thốn,
mọi điều còn ngổn ngang bề bộn ở đời này đều trở nên nhỏ bé, tầm
thường.

Ông già N iết vung roi giục bò rảo bước. Chỉ còn hơn một cây số nữa
thôi là đến chô't đầu cầu mà sao ông bỗng sốt ruột lạ thường. Khác với
mọi ngày, hôm nay ông quyết định đi chở nước vào buổi sáng chứ không
đợi được đến chiều. Ông muốn nhanh chóng gặp N iết Xan. Có m ột việc
hệ trọng... Dù sao cũng phải bàn bạc với nó. Nó đã lớn, đã vào du kích
rồi chứ đâu còn trẻ nít? Ngoài nó ra, ông cũng chẳng b iết bàn bạc với ai.
Mà cái sự việc này... tự ông đã không th ể quyết định nổi. Suốt đêm qua
ông đã suy nghĩ mà cũng chẳng biết nên ra sao? Cuối cùng, ông quyết
định phải bàn với N iết Xan. Nó là một đứa con ngoan, nó đã trưởng
thành, nó có th ể gánh đỡ ông một nửa cái gánh nặng này.
Vừa dong bò đi vừa chìm đắm trong suy nghĩ, chiếc xe của ông đã
tới đâu cầu Tà Ngươn m à ông cũng không hay. Tới đúng chỗ mọi bữa, con
bò dừng lại rống lên một tiếng. Ông già bỗng choàng tỉnh. Ông uể oải
bước xuống n hìn sang bên kia cầu. Nhưng... lạ chưa kìa? Không thấy
chúng nó ùa ra đón ông như mọi khi. Không nghe tiến g chúng cười đùa,
hò hét. Cả khu vực đầu cầu lặng như tờ. Dường như cũng sốt ruột trước sự
lặng lẽ khác thường ấy, con bò lại rống lên m ột tiếng nữa. Một người...
rồi hai người nhô ra cửa nhìn về phía ông rồi lại vội vã th ụ t vào. “Sao
thế? Ta m ang nước ra cho chúng m ày dùng chứ có m ang quỷ sa tăn g tới
đâu? Hay là... chúng nó biết tấ t cả rồi?”. Ông già bỗng chột dạ... Nhưng
kia rồi, th ằn g Thông trung đội trưởng đã bước ra rồi đến Nuôn Chiết. A,
toàn cấp chỉ huy cả. Họ định nói chuyện gì với ông đây? Hay vì cái
chuyện ấy? Thôi được... cũng chẳng sao. Cuối cùng rồi chúng nó cũng sẽ
biết cả. Nhưng... nếu như để ông bàn bạc với N iết Xan đã?...
Trung đội trưởng Thông dã tới trước m ặt ông lão. A nh định nói
nhưng m iệng anh như cứng lại. Thấy vậy, Nuôn C hiết vội đỡ lời:
- Thưa bố già... chúng con m ang đến cho bố chuyện buồn đau. Em
N iết Xan... đã... hy sinh... vì... vì dân làng Tha Khây ta rồi...

- Hở - Đôi m ắt ông lão như lồi hẳn ra, giọng ông lão lạc hẳn đi... -
Ma... mày... nói... cái miệng m ày có nhầm lẫn không đấy?
- Vâng... thưa bố... - Thông vội ngước lên, n h ìn th ẳ n g vào dôi m ắt dã
th ấ t th ần của ông già - Em N iết Xan bị... trúng mìn của bọn...

314
- A!... ấy... trú n g mìn... N iết Xan con trai tao... A... mầy... mày
đừng... đừng có mà... có phải mày... mày định đùa giỡn người già khôn
khổ này không?
Hỏi vậy nhưng ông bỗng ôm mật khóc nấc lên, khiến Thông và
Nuôn C hiết chưa b iết xử sự ra sao. Bỗng ông già nhảy vọt lên càng xe rồi
rịt lên:
- N iết Xan!... Thôi rồi, chính nó giết... giết con tôi rồi... Pôn Pốt...
Pôn Pốt... ông bỗng h é t lên - ơi bộ đội, ơi du kích... Pôn Pốt ở ngay tại...
tại...
Lưỡi ông líu lại, rồi ông ngã vật xuống ngất lịm đi.
N iết Xan được đưa lên chiếc xe bò kéo để trở về phum Tha Khây.
Nuôn C hiết thay ông già điều khiển chiếc xe. Tâm và Ca hai chiến sĩ bộ
đội tìn h nguyện Việt Nam và hai đội viên du kích, nai n ịt gọn gàng súng
tiểu liên quấn trước ngực đi kèm hai bên th àn h xe. Trên xe trung đội
trưởng Thông và ông già N iết ngồi bên cạnh thi hài của N iết Xan. Ông
già đã tỉnh lại, ngồi im lìm như đá. Nhìn cái dáng câm lặng đó của người
cha, Thông biết không nên nói một câu gì nữa.
Chiếc xe chậm rãi lăn bánh trên con đường ngập bụi. Nuôn C hiết cố
gắng điều khiển để con bò đi những bước đều đặn và cô' trán h những ổ gà
để xe khỏi xóc, làm k inh động giấc ngủ của N iết Xan. Anh không th ể ngờ
người chiến sĩ du kích đầu tiên của phum hy sinh lại là N iết Xan, chứ
không phải ai khác. Biết ăn nói th ế nào với Su P rên đây. Giá như người
nàm kia chinh la anh, la Thìa Lơn hay Plêt Chan thi lại di mọt nhe...
Đằng này lại chính là N iết Xan, người trẻ n h ất trung đội du kích! Bấy
nay anh vẫn cố ý trá n h giao những việc nguy hiểm cho N iết Xan. T ất cả
anh em trong tổ đều đã đi rà mìn với bộ đội V iệt Nam. Riêng N iết Xan
hôm nay mới đi lần đầu! Cái sô phận của nó tệ hại quá. Nó còn trẻ, cuộc
đời nó đang còn là buổi sáng chứ chưa đến buổi trưa... Dân làng sẽ nghĩ
sao đây? Người Tha Khây đã quá quen với cái chết, nhưng chưa ai quen
với sự hy sinh. N hận một n h át búa vào đầu rồi ngã gục và tự nguyện
chiến đấu hy sinh nơi m ặt trậ n là hai việc khác nhau. Ớ Tha Khây dã ai
biết chuyện chẳng làn h này mà chuẩn bị đón N iết Xan chưa nhỉ? Nghĩ
tới đó, anh vội nhảy xuống, đi bên cạnh xe thê vào chỗ của Thia Lơn rồi
ghé vào tai Thia Lơn, nói khẽ:
- Cậu hãy chạy về Tha Khây trước đi, chạy th ậ t nhanh, báo cho Xã
đội, báo cho Uy ban, báo cho dân làng biết để họ chuẩn bị đón Niết Xan.

315
T hia Lơn khẽ gật đầu rồi chạy vụt đi. Bụi xám tung lên theo bưởc
chạy của Thia Lơn, trông xa Thia Lơn giống như m ột quả đạn khói vạch
đường, luồng khói xám ấy đang lao về phía phum Kha Thây, báo tin dữ.
Khi chiếc xe chở N iết Xan về tới Tha Khây thì dân làng đã tụ tập
đông nghịt trước trụ sở ú y ban. Chủ tịch Xa May và Xã đội trưởng Su
P rên dẫn một đoàn gồm cán bộ các ngành, các giới cùng với sư thầy chùa
Tha Khây và các cụ già trong phum ra đón tận đầu đường. Khi chiếc xe
tới, Chủ tịch Xa May h ét lên một câu gì đó. T ất cả lặng lẽ cúi đầu. Sư
thầy lầm rầm đọc kinh, có tiếng ai đó bỗng khóc nấc lên rồi tiếng Xã đội
trưởng Su P rên quát khẽ:
- Im đi nào. Khơi Ha-san!
Tin dữ như có cánh truyền rấ t n h an h tới tấ t cả các nóc nhà. Phum
Tha Khây sôi sục cả lên. Mọi người đêu đổ ra đường. Cái chết chẳng có gì
là mới. Nhưng đây là sự hy sinh. Chiếc xe bò lọc cọc lăn bánh trên con
đường lầm bụi của phum Tha Khây, T ha Khây chưa kịp trồng lại những
hàng dừa, hàng th ó t nốt để che m át những con đường. T ha Khây mới chỉ
kịp trồng những gì có th ể nuôi sống người. Điều đó thì N iết Xan đã biết.
Người Tha Khây cũng chưa ai có quần áo đẹp, kể cả Ha-san. Nhưng tấ t
cả những ai con sống sót đến ngày hôm nay n h ất định sẽ đến với anh,
điều ấy N iệt Xan cũng b iết rấ t rõ.
Mọi người xúm cả lại bên chiếc xe bò. Những tiếng sụt sịt. Những
lời cầu kinh lầm rầm hòa theo giọng sư thầy. Những lời giảng giải của
Chủ tịch Xa May.
Các chiến sĩ du kích bắn một loạt tiểu liên lên trời.
Người ta b ắt đầu đưa N iết Xan vào trụ sở ú y ban.
T ất cả mọi người đều xúm quanh N iết Xan, không ai kịp chú ý tới
ông già N iết đau khổ. Ông đã lần được qua đám đông rồi ông chạy như
bay về ngôi nhà m ình. Ông chỉ sợ có ai đó nhìn thấy. Ông vội lắm! Phải
th ậ t nhanh, th ậ t nhanh lên mới kịp.
Đây rồi. Ngôi n h à của ông đây. Cái lu nước, hòn đá m à mỗi sáng
N iết Xan vẫn thường ngồi, cánh cửa bằng liếp nứa sơ sài. Ông lao về
phía đó, rú t p h ắt con rựa cài trê n bếp, đạp cửa lao vào n h à như một cơn
lốc. Ông lao sầm vào một người. Ông khựng lại, h ét lên:

- N iết Him! Mày có biết chuyện gì xảy ra không?


- Con... nghe tiếng súng nổ. Có lẽ...

316
- Mày không phải là con tao! Mày là th ằn g Pôn Pốt! Mày đã giết em
mày rồi!
- Không... Con không định giết nó!
- Mày giết nó rồi! Ông rít lên rồi vung dao phang tới. Sạt! Dường
như ông đã chém trượt. N iết Him kêu ối m ột tiếng, loạng choạng ngơ
ngác rồi hắn lao vụt ra ngoài. Ông vội lao ra theo vừa rượt vừa la lớn:
- Pôn Pốt! Bắt lấy nó... thằng giết người!...
N iết Him bị chém xả vai trái, máu chảy ướt đẫm áo, nhưng hắn vẫn
cố chạy. Nghe tiếng ông la, hắn hốt hoảng sững lại. Rồi đột ngột, hắn rút
phất khẩu súng ngắn ở lưng quần ra:
- Dừng lại! Nếu ông còn kêu nữa, tôi bắn!
- A - ông già đứng sững, há hốc miệng nhìn thằng con trai đang chĩa
súng vào mình - Mày giết em mày... mày... định giết cả cả bố mày nữa
sao? Thằng phản phúc!
- Để cho tôi yên. Tôi sẽ đi ngay. Nếu ông bước tới một bước nữa. Tôi
bắn!
- Tao không sợ chết! Để xem mày có dám bắn vào cha mày không?
Ỏng hét lên rồi lao tới. N iết Him lùi lại vài bước rồi quay đầu chạy.
Ông già rượt theo, rồi lại la lên:
- Bắt lấy nó! Pôn Pốt... bắt...
N iết Him bỗng đứng sững lại. Cười gằn. Khẩu súng trên tay nó khẽ
giật lên, nhoáng lửa. Ông già ôm lấy ngực, ngẩn ra trong giây lá t rồi ngã
vật xuống lề đường.
Ớ trụ sở Úy ban, nghe tiếng súng nổ mọi người bỗng sôi sục cả lên:
- Pôn Pốt!
- Bắn chết hết chúng nó đi !
- Yên lặng xem nào?
Trung đội trưởng Thông vội đứng b ật dậy, khoát tay ra lệnh cho
Tâm và Ca.
- Theo tôi!

317
Hai chiến sĩ vội lao theo trung đội trưởng, họ chạy về phía vừa có
tiếng súng.
- Hướng này! Thông dừng lại để quan sát rồi chỉ về hướng cuô'i xóm.
Một bóng người vừa từ cuối xóm lao vụt ra, cô” sức chạy về phía khu nhà
đổ n át của khu kho hậu cần thời Pôn Pốt.
- Đứng lại! H àng th ì được sống!
Thông hô lớn bằng tiếng Khơ-me. Thằng dịch vẫn chạy. Ca quyết
định vọt lên trước tru n g dội trưởng. “Đoàng” “Đoàng”. T hằng địch bắn
lại. Đạn bay vèo trê n đầu Ca. Nhưng Ca vẫn lao tới không nổ súng. Tâm
bám theo trung đội trưởng vòng về mé bên trái, định chặn đầu. Nhưng
vừa tới khu n h à đổ, tê n địch bỗng đứng sững lại quay nòng súng về phía
Ca, lẩy th êm hai p h át nữa rồi leo tót lên trê n m ảng tường còn sót. Hắn
đứng chênh vênh trê n m ảng tường, cười điên dại. Tiếng hắn rít lên:
- Ê! Bọn Duôn... lại đây!
- Chú ý! Nó có lựu đạn...!
Thông vội h é t lên. Ca lao tới chiếm lĩnh m ột gốc xoài bị đạn tiện
cụt, chống súng về p h ía tên địch. H ắn vẫn ngồi chồm hổm trê n m ảng
tường, cười sằng sặc như điên. Ca điên tiết xổ một loạt tiểu liên về phía
nó. T hằng địch lại cười sằng sặc. Rồi, nó đột ngột đứng dậy h ét lên một
tiếng nghe rợn người... Tiếp đó là một vệt lửa nhoáng lên kèm theo một
tràn g nổ long óc “Mẹ kiếp! Nó tự sát rồi!” Ca nghĩ vậy rồi xách súng lao
lên. Từ p h ía bên kia Tâm và Thông cũng chạy tới. Trước m ắt họ, thằng
dịch chỉ còn là m ột đống th ịt bầy nhầy, n á t bấy nằm vắt ngang đống
gạch vụn.
Ông già N iết không chết. Viên đạn bắn chính diện của đứa con
phản phúc xuyên th ấu ngực phải của ông. Người ta đã kịp thời cấp cứu
rồi đưa ông tới bệnh viện của bộ đội tình nguyện V iệt Nam. Sau hai
th án g điều trị, vết thương của ông đã lành hẳn.
Ông trở lại T ha Khây vào đầu mùa mưa và sống âm thầm trong
ngôi n hà của m ình. Mùa mưa đã tới, người ta không cần ông chở nước tới
các chốt cho bộ đội và du kích nữa. Nhưng rồi một hôm, ông đến nhà Xã
đội trưởng Su P rên đòi lại con bò và chiếc xe của ông. Sáng hôm sau, con
bò lại đưa ông theo con đường cũ ra cầu Tà Ngươn. Sau m ấy trậ n mưa
đầu mùa con đường lầm bụi hôm nào nay giông như m ột dòng sông nhỏ,
đặc sán h phù sa. Con bò bì bõm lội trong bùn, kiên n h ẫn đưa ông đi,
th ỉn h thoảng nó lại rông lên một tiếng, biểu lộ nỗi kinh ngạc trước sự

318
thay đổi quá n h an h của thiên nhiên của cảnh v ật và cả những con người
nữa.
Đến đầu cầu Tà Ngươn, nó dừng lại. Nó chưa quên chỗ phải dừng
lại. Từ chiếc lán bên kia cầu, các chiến sĩ quân tìn h nguyện Việt Nam và
anh em du kích ùa ra đón ông. ô n g tìm mãi trong sô' anh em bộ đội Việt
Nam, nhưng không th ấy một gương m ặt quen thuộc nào.
- Trung đội anh Thông đã lên chốt tiền tiêu. Chúng con tới thay các
anh ấy làm nhiệm vụ ở đây. Anh trung đội trưởng mới rấ t trẻ đã trả lời
ông già như vậy. Đôi với họ, ông không phải là người xa lạ. Họ đều biết
ông, ông phải nói với họ một câu gì chứ. Trầm ngâm suy nghĩ một lát,
ông mới nhẹ nhàng lên tiếng:
- Các em ạ... ta không phải là người bất hạnh n h ấ t ở T ha Khây. Mọi
cơn hoạn n ạn của đ ất nước này đều đi qua Tha Khây ta cả. Nhưng các em
thấy đấy. Tha Khây của ta vẫn còn, Tha Khây không chết được. Các em
cứ ở đây. Mùa khô tới, già lại đánh xe chở nước từ Tha Khây lên cho các
em.
Nói xong ông khẽ mỉm cười. Nhưng từ trong hai hô'c m ất thâm
quầng của ông bỗng ứa ra mấy giọt nước mắt. Những giọt nước m ắt như
những giọt sương chảy dài trên đôi gò má nhăn nheo của ông rồi rơi lặng
lẽ xuống m ặt đường ngập bùn đất, đặc sánh như phù sa.

KHUẤT QUANG THỤY

319
EM BÉ CÂM TRƯỚC ĐEN ĂNG-KO

LÊ L ự u

Em câm nhưng không điếc. Người phiên dịch của chúng tôi hỏi em
như m ột thói quen khi mới gặp người lạ. T ên gì? Em bé ngơ ngác nhìn
người phiên dịch, cái n hìn như m ột câu hỏi vừa ấm ức vừa chua xót. Anh
hỏi em? Làm sao em có th ể nói với an h được.

Em bé nhìn rồi cúi xuống. H ai con m ắt sáng, điểm sinh động n h ấ t ở


em, đã hơi khép lại. Bao trùm lên người em lúc này là lớp da m àu gụ đã
bị hoen ố và mối mọt bởi những vết bong rộp và những vết sẹo; n h á t dao
chém có, ghẻ lở có, nhọt đã vỡ và n h ọ t đang lên có. Em sợ chúng tôi là
người của Ảng-ka ư? Không. Những ông n h à báo nước ngoài đến chứng
kiến tội ác của Pôn Pốt và hôm nay đi thăm Ăng-ko. Người phiên dịch
giải thích như mỗi khi anh ta dẫn chúng tôi đến nói chuyện với bất cứ
người nào. Em bé hơi mỉm cười nhưng vẫn ngơ ngác nhìn người phiên
dịch, rồi nhìn khắp lượt chúng tôi. Cái nhìn vẫn như m ột câu hỏi: Trong
dám người này ai thiện, ai ác, ai có th ể cho em m ột nắm cơm, ai thủ một
chiếc búa sẵn sàng giơ lên đập vào đầu em?

H àng ngàn em bé đi lang th an g trê n đường ngày mới giải phóng


đều có cái n hìn những ké lạ m ặt như thế. Cho đến hôm nay, em vàn chưa
h ế t ngờ vực ư?

Nhưng em chạy gần hai ki-lô-m ét đến đây làm gì?

Lúc ngồi trên xe nhìn em cởi trầ n , cứ m iết theo rìa đường m à chạy,
ngỡ tưởng em bé chừng chín mười tuổi ấy đang đùa nghịch với các bạn,
hoặc đi tìm kiếm ai, hoặc đuổi b ắ t m ột trò chơi. Chừng mười lăm phút
sau khi đến đây: chúng tôi đang chờ đợi người giới thiệu đã thấy em thở
và cười, nụ cười mừng chứng tỏ dã đuổi kịp xe. Có người trong chúng tôi
còn ngỡ là đã gặp em ở thị xã Xiêm Riệp, trê n đường đến chỗ chờ đợi.

Em đi đâu? Có muốn xem các nhà báo chụp h ìn h không? Người


phiên dịch hỏi. Em n hìn anh ta cười, nụ cười ngượng ngập niềm vui. Đến
lúc này chúng tôi mới phát hiện em không th ể nói được. Em câm nhưng
không điếc.

320
Đừng hỏi gì em. Tội nghiệp, dù dấu vết còn lại trên người em đã có
bao nhiêu điều đáng hỏi. Chúng tôi lặng lẽ tản ra và bước lên đá, điểm
bắt đâu của công trìn h vĩ đại từ mười th ế kỷ trước.

Em bé luyến tiếc nhìn theo. Tôi quay lại giơ tay vẫy tạm biệt. Em
đứng mỉm cười. Người hướng dẫn chúng tôi bắt đầu công việc.

“Ăng-ko, gốc tiếng P hạn là Na-ga-ra, nghĩa là kinh đô. Có lẽ tên


này xuất hiện vào thời kỳ cực th ịn h của đất nước Campuchia cổ đại. Đó
là thời kỳ văn m inh Ảng-ko. Các dòng vua Gia Ya Vác Man chọn vùng
đất xinh đẹp và trù phú thuộc tỉn h Xiêm Riệp này làm trung tâm chính
trị, kinh tế, văn hoá của đất nước. Ãng-ko nổi tiếng là một kỳ quan của
th ế giới một quần th ể đền đài đồ sộ và tuyệt mỹ, trong đó có hai khu đền
lớn: Ãng-ko Thom nghĩa là kinh đô lớn, còn gọi là Đế Thiên. Ãng-ko Vát
(kinh đô chùa) còn gọi là Đế Thích. Cả hai khu đền lớn này đều tiêu biểu
cho nghệ th u ật kiến trúc của dân tộc Campuchia từ mười th ế kỷ trước đã
sánh ngang tầm kiến trúc vĩ đại n h ấ t của loài người...”.

Em đứng phía sau, ngả m ặt lách cái nhìn giữa hai ký giả đang mải
m iết ghi. Trong lúc chúng tôi vội vã thu lại trong ống kính, vội vã ghi lại
những dòng chữ để chứng tỏ sự có m ặt của mình và áp chặt sự tò mò,
tín h hiếu kỳ vào nền văn m inh chót vót này thì em bé câm đứng ở bậc đá
phía dưới trô n g như đứng dưới chân mọi người, tran g nghiêm và sợ sệt.
Có lẽ em sợ có ai sẽ tách rời em ra khỏi nơi này, không cho em được
phép nghe và nhìn!
Cứ đứng lại đây em bé. Tôi nhìn như gọi em và né người để em có
th ể sờ tay theo những n ét khắc vào đá. Nhưng cao quá, em cố rướn tay
lên cũng chỉ chạm đến vạch giới hạn cuối cùng của bức tranh. Hãy đứng
lùi xa m ột chút mới có th ể nhìn được. Em bé nghe thấy lời khuyên trong
im lặng của tôi? Em lùi ra xa đến cự ly vừa đủ, chỉ cần ngửa m ặt cũng
nhìn được bức tranh. Như th ế có mờ quá không. Ôi, những ông nhà báo
nước ngoài cao lớn, các ông hãy xê ra m ột chút để cho em bé câm mà rấ t
tin h nhanh này có th ể nhìn thấy các công trìn h kỳ diệu của đất nước
mình.

Em bé vẫn đi theo chúng tôi, theo mọi người, đi hết bục tran h dài
250 m ét khắc trên đá. Có hiểu hết không em? Tâ’t cả mười một nghìn
nhân vật khắc trên đó hầu hết là biểu hiện sự giành giật cuộc sông giữa
con người và thú vật mà tiêu biểu cho loài thú hoang dã tàn bạo là cá
sấu. Từ năm 860, khi lấy viên đá đầu tiên từ núi Kren-xa về để xây nên
321
công trin h này, người ta sẵn có ấn tượng về cá sấu, kẻ thù không thể
chung sống với con người. Cái ấn tượng ấy có từ bao giờ, nó sâu xa đến
đâu m à dân tộc này sẫn sàng mổ h ế t trâu bò lấy da rải 10 ki-lô-m ét để
đưa những viên đá đẽo sẵn từ núi Kren-xa về dây khỏi bị xây xát! Sự căm
giận ấy trà n ngập đến đâu, m ạnh mẽ nhường nào m à dân tộc này sẵn
sàng hy sinh hàng chục vạn người để xây dựng nên công trìn h hùng vĩ
chứng tỏ sức m ạnh của con người cao đến vô tậ n và khắc vào đá cho mãi
mãi mai sau th ấy rõ bộ m ặt của kẻ thù: Những con cá sấu và những kẻ
đã th àn h người vẫn m ang lòng dạ m an rợ loài thú. Những cái đó có từ
bao giờ đến năm 860 cả dân tộc này làm nên sự kỳ diệu vô cùng đến thế.
Để từ thời ấy đến bây giờ chúng tôi và em vẫn còn sờ th ấy được, nhìn
ngắm được. Tôi nhớ buổi chiều chúng tôi đi th ăm hồ cá sấu ở thị xã Xiêm
Riệp. Gần hai trăm con cá lớn, những con cá to hơn người chúng tôi,
đang lặn dưới nước trá n h nắng trông m ập mờ như xoan ngâm chưa bóc
vỏ trong ao của các tỉn h ở đồng bằng Việt Nam. Bên cạnh hồ nuôi cá sấu
lớn là hồ nuôi hàng nghìn cá sấu nhỏ. Hai hàm ră n g xếp cời trê n môi,
chân dài ngoằng, những con cá bằng bắp chân, bắp tay, cuốn lấy nhau
th àn h từng đông trên bãi cát quanh hồ nước.

Nuôi bằng gì? - Tôi buột miệng hỏi.

Ngày xưa và bây giờ cho nó ăn cá đ án h từ Biển Hồ — Người hướng


dẫn trả lời - Còn suốt hơn ba năm thời Pôn Pốt, chúng cho ăn toàn th ịt
người. Cá lớn th ì bảy ngày ăn một bữa, mỗi bữa hai con ăn m ột người.
Một người chặt ra làm ba bcín, cứ chặt đủ tiêu chuẩn th ì thôi. Còn cá sấu
con, ba ngày ăn một bữa thức ăn là th ịt người róc xương và băm nhỏ.
Hiện những người róc xương và chặt người để nuôi cá sấu vẫn còn, các
anh muốn hỏi, chúng tôi xin mời đến gặp.

Sẽ gặp những kẻ trực tiếp làm công việc m an rợ ấy ư? Cái quan


trọng là kẻ nào đã xui khiến họ. M ột trong những kẻ giết người ấy đã
ngồi trước m ặt chúng tôi. H ắn nói rằn g Ảng-ka đã chỉ thị cho hắn giết
bằng b ất cứ thứ gì, bằng bất cứ cách gì m à kẻ bị giết và mọi người không
th ể nào quên được thì cứ giết. Những kẻ gọi là Ãng-ka tan rã rồi. Nhưng
những người có cha, mẹ, những người có vợ, có chân bị chặt làm ba khúc,
bị róc th ịt, đập xương th ì vẫn còn đây, có th ể nắm lấy những kẻ cầm dao,
cầm búa chặt vào khúc xương của họ, làm chảy những dòng máu của máu
họ. Hãy xé rách từng chiếc xương của chúng ra. H oàn toàn chính đáng.
Nhưng không quan trọng, không cần th iết. Những người ruột th ịt của

322
những n ạn n h ân đứng quanh hồ nuôi cá sấu, chiều qua đều nói với chúng
tôi điều đó. Nhưng nỗi đau vẫn còn, nỗi lo sợ vẫn còn. Họ đau nỗi đau của
họ và nỗi lo của chúng tôi, những ký giả nước ngoài đang chăm chú nghe
họ kể, dang vội vã ghi chép, liệu có thúc giục được ai, kêu gọi dược ai ở
bất cứ nơi nào trê n trái đất này phải nhanh chóng cảnh tỉnh, phải
nhanh chóng h àn h động, đừng để những kẻ chặt người ra nhiều khúc, róc
th ịt người, băm vụn, xé đôi những đứa trẻ, rạch bụng những người mang
thai để nuôi cá sếu? Đừng để có m ặt ở bất cứ nơi nào. Đừng để nó thắng
lợi ở một nơi này rồi lan trà n ra nơi khác như cuộc diệt chủng ở đây.

Từ khi đến Campuchia, sự ngơ ngác của tôi bắt gặp sự ngơ ngác
chạy dọc, ngang khắp đ ất nước này. T ất cả mọi người tôi hỏi đều trả lời
không hiểu, không th ể hiểu tại sao lại có sự tàn sát dã man, đẫm máu,
kinh khủng, ghê rợn như thế. Không hiểu. Không thể nào hiểu được, có
m ột n h à báo nưởc ngoài nói, dân tộc Campuchia trong ba năm qua là một
cuộc tự sát. Có phải như thê không? Một dân tộc chỉ cần một nhịp trống,
m ột tiếng đàn... Ớ nơi nào đó nổi lên ]à tấ t cả già, trẻ, gái, trai rập chân
theo nhịp, uô'n người theo nhịp và nhảy múa, múa cả ngày, cả đêm, múa
quên ăn, quên mọi nỗi ưu phiền. Một dân tộc ai cũng có thể mỉm cười cả
hàng triệu người h àn h hương cũng sẵn sàng mỉm cười, cả những tượng đá
Bay-on cũng quay m ặt bốn phương cười với bàn dân thiên hạ, cười với
trời đất. Một dân tộc từ khi mới hình th àn h còn cởi trầ n đóng khố đã
biết cầm lấy cung nỏ, giáo mác giành giật cuộc sông từ nanh vuốt của cá
sấu bỗng dưng lại băm vằm bà con m ình, bạn bè m ình để nuôi cá sấu, để
làm nén nhừng tội ác thời trung cố? Vô cùng khó hiếu. Ké câm dao chặt
người làm ba đang ngồi trước m ặt chúng tôi. Tên nó là Sóc Tê Rêl, 36
tuổi, có một vợ năm con, quê ở Thơ-mo Phốc, vùng địa đầu tỉnh Bạt-đom-
boong. H ắn nói rằn g hắn không thể hiểu, hắn cũng ngơ ngác không hiểu
vi sao lại như thế. Kể cả vợ con hắn suốt ba năm không có tin tức mà
h ắn thì không được về phép, không hiểu tại sao? Chúng tôi tin lời hắn. Ớ
m ột đất nước không ai được phép viết thư, không có phương tiện và
không được phép đi lại, trừ những kẻ đi giết người và những người di
chạy trôn. H ấn không hiểu gì xung quanh, ngoài công việc chặt người
làm ba và không biết tin tức gì vợ con h ắn là phải.

Kẻ làm ra sự tà n s á t này là ai, từ đâu đến? Không sao hiểu dược.


Những kẻ cầm dao, cầm súng, cầm vồ, cầm búa chỉ nhìn lệnh của Ảng-ka
trực tiếp của chúng, ngoài ra không thấy ai ra lệnh sai khiến. Ai là kẻ
biến chúng th an h dã thú và huỷ hoại đất nước này? Không hiểu Sóc Tê

323
Rêl chỉ nhớ có một lần, một lần làm h ắn sung sướng và ân h ận nên
không th ể nào quên. Ngày 23, đúng là ngày 23, trù n g với sinh n h ậ t đứa
con đầu lòng của hắn nên hắn nhớ kỹ. Ngày 23, th á n g 2, năm 1978, đoàn
cán bộ của “người bạn lớn” đến thăm và n h ận tám tạ cá sấu, “quà tặng”
của “Đảng” và “đồng bào” Xiêm Riệp gửi biếu “người anh vĩ đại”. Lúc ấy
khoảng năm giờ chiều, Sóc Tê Rêl đang “làm việc”, máu me bê bết ở
chuôi dao và khắp hai bàn tay. Bảy người trong đoàn thì có bốn người
mang kính trắng. Họ đến chỗ Sóc xem h ắn làm việc và nghe người đại
diện Ãng-ka báo cáo “th àn h tích” của hắn. Nghe và xem xong m ột người
còn trẻ nhưng được gọi là đoàn trưởng chìa bàn tay múp m íp trắn g ra bắt
tay Sóc. Như một phản xạ tự nhiên, hắn vội rút hai bàn tay tan h hôi của
hấn lại. Người trưởng đoàn “bạn” đã n h an h nhẹn nắm lấy bàn tay đầy
máu của hắn: “Hảo hảo, hấn hảo! (Tốt, tố t, rấ t tốt). Yêu quý nhau lâu dài,
tìn h nghĩa lâu dài là những lúc làm việc quên m ình, như th ế này ông
trưởng đoàn “người bạn lớn” khen hắn. Nỗi cảm động, khép nép còn dang
rạo rực chạy khắp người thì ông đã khéo léo rú t khăn mùi soa trắn g tinh
chùi nhưng vết máu dính ở tay ông.

Các ngài “bạn lớn” th ậ t tài tình. Các ngài chỉ dùng những m ệnh
lệnh truyền m iệng ở Bắc Kinh và ở Phnôm Pênh, r ấ t ít khi các ngài làm
ra chỉ thị bằng văn bản. Và những gì có dấu vết của các ngài ở đây cũng
được thu dọn, đốt, hủy và m ang theo chuyến Bô-inh chạy trố n trước ngày
7 th án g giêng. Nhưng còn bàn tay cầm dao và nhây nhớp máu này rửa
sạch làm sao, m ang theo làm sao? Hãy băm vằm nó ra, xé n át nó ra.
tíiẻu dó chưa quan trọng. Cái quan trọng hơn, hiểm dộc hưn là các bàn
tay đã đ ặt vào đây, khích lệ nó, dính m áu ở nó rồi sẽ đ ặt vào bàn tay nào
nữa?

Ôi, những tâm hồn còn muôn sống và yêu thương, còn muốn đông
vui và yên ấm, nếu còn bàng quan cái chết của dân tộc này, còn thấy yên
tâm với sự “giúp đỡ chí tìn h của người bạn lớn”, còn thấy xôn xao trước
lời khen “Hảo, hảo, hấn hảo”, của “người bạn vĩ dại” thì hãy coi chừng
bàn tay rấ t mềm mại kia sẽ đặt nhẹ nhàng và rấ t nhanh nhẹn nắm chặt
lấy bàn tay các người.

Chúng tôi đến thăm trạ i trẻ mồ côi vào buổi sáng ngày chủ nhật.
Trại có 117 em - mới thu n h ặt được ngần ấy. Những em lớn n h ấ t khoảng
15 tuổi, em bé n h ất khoảng tám tuổi. P hải dùng chữ “khoảng” vì hầu h ết
không em nào biết chữ để nhớ ngày th á n g năm sinh của mình. Đó cũng

324
là một trong nhiều điều không biết. Quê quán ở đâu? Không biết! Bố mẹ
còn hay m ất? Không biết! Bị lạc trong trường hợp nào? Không biết! Gia
đình vì sao bị giết? Không biết! C hết ở đâu và bằng cách nào? Không
biết! Trong bốn hàng dài suốt m ột màu đen phẳng lặng không biết gì.
Duy có ba em hơi động đậy, động đậy ngập ngừng. Cô giáo Bun Chăm
Oát, khuyến khích em nào biết gì cứ m ạnh dạn nói.

Em thứ n h ất đứng dậy. Chưa đứng thẳng hết người em đã quay m ặt


vào trong rồi lấy đầu khăn kẻ ca rô quàng ở cổ chấm nước m ắt. Dường
như biết m ình là người lớn trong trạ i phải nén lại nhiều hơn, em nói:

- Thưa, em biết, vì đêm nào người trong nhà em cũng không ngủ. Cứ
nằm nghe xem bước chân của Ăng-ka đi về phía nào. Nếu ở phía nhà
m ình thì cứ việc sắp sẫn ra để chuyển chỗ ở mới. Đêm Ăng-ka vào nhà
em, em ngủ quên, khi sáng ra...

Em òa khóc. Tiếng khóc lây rấ t nhanh, tấ t cả 117 em cùng òa khóc


theo. Tiếng khóc sẵn sàng ấy từ bấy lâu nay, đến giờ vẫn phải cố nén,
bỗng đồng loạt vỡ ra; cả gian phòng trôYig rỗng không một chiếc ghế,
tiếng khóc va vào các bức tường như vang to hơn. Cô giáo lo lắng nhìn
chúng tôi bằng đôi m ắt đỏ hoe. Đến khi tiếng khóc lặng lẽ lan đến chúng
tôi thì tiếng khóc của căn phòng vợi đi. Đừng nên khía vào nỗi đau của
các em! Tôi thầm nghĩ. Nhưng cô giáo bỗng nói, giọng cô tự nhiên rắn
lại: “Các em hãy nói, nói th ậ t nhiều để các ông nhà báo nước ngoài viết
lên cho mọi người hiểu, ai đã giết bô' mẹ các em, anh chị các em...”
Căn phòng lại phăng phắc im lặng. Các em đưa m ắt nhìn nhau, rồi
nhìn cô giáo. Cô giáo quay nhìn chúng tôi.

- Thưa các ông, phần các em chưa hiểu và cũng chưa biết gì về nỗi
bơ vơ, phần đang bàng hoàng như người ốm dậy. Mong các ông hiểu cho.

Vâng, chúng tôi hiểu! Một đất nước vừa qua m ột trậ n dịch của một
loại siêu vi trùng, dù hôm nay “tai qua, nạn khỏi” đã mấy ai tìm ra hết
nguyên nhân.

Có ai sờ nhẹ lên lưng tôi. Tôi quay lại. À, vẫn là anh bạn nhỏ của
tôi: Chú bé câm. Trong một ngày hôm nay ba lần chú xuất hiện, cả ba
lần tôi đều ngạc nhiên. Sau lần đầu “đuổi kịp xe” rồi “cùng nhau” xem
tran h , xem tôi mải m iết theo các bạn đồng nghiệp leo chót vót lên những
vòm th áp và ngồi thở. Từ lúc ấy không thấy em đâu. Sự gặp gỡ và chia
tay cũng đột ngột như nhau. Khi chúng tôi rời Ảng-ko Thom đã lại thấy
325
chú tủm tỉm cười dưới chân tượng Bay-on. Rồi lại “m ất” nhau. Đến bây
giờ, sau nửa ngày đã leo trèo, trong khi chờ m ột giờ để các bạn đồng
nghiệp hỏi han thêm , ghi chép thêm , tôi kiếm một tản g đá phẳng ở khu
rừng cách đấy chừng vài trăm m ét, nghĩa là vẫn có th ể nghe tiếng ô tô
nổ máy để trở về, nh ìn lại khuất nẻo m ột chút dể ngồi vì tôi cũng cần sự
vắng vẻ cho lắng lại cảm xúc của m ình. Dường như để cảm ơn những lần
tôi né người hoặc đẩy những đồng nghiệp lùi ra xa m ột chút nhường chỗ
cho em, lúc này em đến bên tôi với cử chỉ th â n th iết, sờ n ắn lên người
tôi, nắm lấy bàn tay, ngắm nh ìn bộ quân phục, g ật gù âu yếm. Tôi cũng
cười và gật gù theo em. Bỗng dưng tôi cũng th à n h người câm. Hai chúng
tôi chỉ dùng những cử chỉ làm dấu hiệu rồi hoặc cùng cười, hoặc cũng ngơ
ngác không th ể hiểu mỗi người nói cái gì, muốn chứng tỏ điều gì. Sau một
hồi lâu làm việc gì đó m à tôi không hiểu nổi dù vẫn cười, vẫn chau mày
gật đầu: chợt em túm bàn tay tôi kéo đi. Tìm kiếm cái gì đó! Không biết.
Tôi cứ để nguyên những ngón tay m ình trong bàn tay bé bỏng của em, để
em lầm lũi kéo đi đến bên m ột gốc dừa, chỉ lên ngọn dừa, chỉ vào chùm
dừa rồi phùng m á làm những động tác khác. Tôi lẩm nhẩm bằng tiếng
Việt tá n thưởng cho em: ừ cây dừa to quá, gần hai vòng tay mới kín gốc.
U xanh lắm ; ừ quả, úi dào, quả to dặc biệt. Đúng, đúng, đúng rồi, họ hái
dừa m ang về ăn. P hải, phải, cái cùi này kho th ịt nạc có th ể phồng má
trợn m ắt m à nhai vẫn không th ể nuốt kịp. ừ đúng, đúng, họ lấy nước đó
uống m át tuyệt vời. Đúng rồi, nước dừa hút từ gốc lên. Đúng đúng, trước
tiên phải đào h ố chôn cây dừa xuống, ừ , ừ rồi tưới tắm , rồi xới dừa cho
t.rti quanh gốc ừ, ừ... ừ...!
Sự phụ họa của tôi không th ể thỏa m ãn hay sao m à em cầm lấy bàn
tay tôi vứt đi như th ể vứt h ẳn cái vật thừa th ã i ngu ngốc này đi chỗ khác
cho rản h m ất. Nhưng rồi em lại cầm ngay lấy bàn tay ấy kéo tôi ngồi
xuống. Em bới bới quanh gốc dừa bằng hai bàn tay không. H ai bàn tay
không không bới nổi, em chạy đi kiếm cành cây về đào, bẩy. Lẽ tấ t
nhiên là tôi không th ể tham gia cái trò chơi muôn thuở của trẻ con,
chúng nó có th ể tìm th ấ y sự lý thú ở b ất cứ m ột đồ vật gì ta không để ý.
ơ Việt Nam tro n g năm đánh Mỹ tôi đã gặp m ột gia đình hai vợ chồng
phải đi làm ca và trực chiến, n h ố t các con ở trong nhà, bên cạnh những
chiếc hô cá n h ân và hầm , là ba cậu con trai. H àng th án g trời các em bị
nhốt, dù bố mẹ đã mua rấ t nhiều đồ chơi nhưng không có th ứ đồ chơi nào
được nguyên vẹn lấy m ột ngày, h ấp dẫn đến m ột ngày, v ẫ n phải nhốt vì
không biết m áy bay sẽ đến ngày nào, bỏ bom lúc nào. Mỗi ngày bị tù

326
túng, mỗi ngày ba đưa trẻ tìm ra trò chơi mới. Cuối cùng chúng thi nhau
chặt cả khung xe đạp biến những tuýp th àn h các loại súng, còn lốp, săm
cắt ra làm võng đeo và dây trói giặc Mỹ xâm lược.

Các em bé Campuchia, tôi không biết các em có thích những trò


chơi gì? Thích khám phá những gì?

Tôi vẫn nhìn về khu tượng đền, vẫn lấp ló thấy dáng đứng của
tượng đá Bay-on.

Nếu tấ t cả trẻ con trê n trá i đất này đều đằng đẩng kiếm sông từng
ngày và chạy trôn cái chết từng giờ, rồi th ế giới sẽ ra sao? T ất cả những
người làm cha làm mẹ sẽ ra sao? Tôi cứ tự hỏi m ình như thế, tự hỏi rằng
vì sao m ột dân tộc đã có th ể biến những tảng đá th àn h nụ cười, thành lời
nói lại có th ể hàn h hạ những đứa trẻ đến nhường này.

Vì sao em lại câm m à không điếc? Trong ý nghĩ m iên man của
m ình, tôi gọi đến em bé, th ì ngay lúc ấy, em giật giật áo rồi túm lấy tay
tôi bắt xòe ra đặt lên đấy m ột nắm tóc đã vò rối lại. Chuyện gì đã xảy
ra? Em chỉ những sợi tóc ở tay tôi rồi chỉ về phía gốc dừa em dang bới
dở. Những sợi tóc ngắn còn dính cả lớp da đầu đã khô k ết lại. Không
hiểu đấy là tóc của đàn bà hay đàn ông, dù sự cô' gắng h ết sức của em
cũng chỉ làm tôi hiểu được là đã có m ột người bị chôn xuống đấy, khi
chôn m iệng người ấy vẫn còn kêu được.

Nhưng đấy là bố hay mẹ em, là chú bác hay anh, chị của em? Em bé
dãn tỏi di đến những gôc cây x o à i , LliổL Ilôt... T ất cả 25 gtíc cây dều có
người bị giết, bị chôn ở đấy. Sợ những động tác của em tôi chưa hiểu
đúng hoặc tôi chưa tin điều em nói: “Ớ gốc cây này họ đập đầu, ở gốc cây
này họ chôn sông, ở đây họ cắt cổ... Gốc này, gốc này...” Em móc tay lên
những m ảnh sọ, những sợi tóc, những xương ống tay để những tỏ những
lời em nói là đúng.
Làm ba lần như th ê xong, em bị tôi ra hiệu vứt cành cây đi. Em
bằng lòng làm theo. Tôi đã quen những ám hiệu có th ể nhận ra mỗi gốc
cây chúng đã giết người kiểu gì. Chả lẽ cả 25 gốc cây kia đều là người
trong gia đình em? Ớ m ột đại đội thuộc tiểu đoàn 8 ở tỉn h p. có 80 chiến
sĩ thì 65 người có bô' mẹ, anh em trong gia đình bị giết. Gia đình bị giết
nhiều người n h ấ t là 27, ít là 3. Con sô 25 em chỉ m à tôi đếm được ở đây
chưa phải là nhiều nhưng nếu là cả gia đình em bị giết th ì bằng cánh
nào em sống được! Lúc ấy em ở đâu lại có th ể nhìn thấy tấ t cả. Có phải

327
em mới câm từ ngày ấy không? Ai có th ể nói cho tôi nghe những diều em
bé không th ể nói được! Những người dân đứng quanh đây không ai biết
và cũng không th ể nói gì trước kẻ vừa câm vừa điếc như tôi. Còn những
tượng đá Bay-on thì vẫn im lặng nhìn ra bốn phía mỉm cười.

Hai ngày sau, nh ân lúc các em ở trạ i mồ côi đến th ăm nhà tù, thăm
trại nuôi cá sấu và những hô" chôn người, tôi mới nhận ra không phải như
thế, không phải 25 người bị chôn dưới 25 gốc cây trước Ãng-ko Thom là
người trong gia đình em bé câm. Cô giáo Bun Cham Oát đang dẫn em
cùng các bạn cho tôi biết, khi đưa em vào trại, những người dân quanh
Ãng-ko nói em không phải người tỉn h này. Em lang th an g từ đâu đến và
ở lại quanh quẩn vùng này khoảng bảy tám th án g trước khi giải phóng.
Nhưng em ở đâu, bô" mẹ em còn hay m ất, em câm từ bao giờ th ì không ai
biết, không ai có th ể b iết được.

Ớ bất cứ nơi nào đã giải phóng cũng có cách gọi giống nhau, con
người dã trở lại ánh sáng và ánh sáng ở b ất kỳ đâu cũng có đầy đủ sức
m ạnh của nó. Ví dụ như suốt mấy ngày qua không ai b iết chút gì về em
bé câm thì bỗng chóc rà n h rọ t tấ t cả. Em đã được gặp cha em: Kẻ ngày
ngày chặt người làm ba, Sóc Tê Rêl. H ắn lách vào đám trẻ đang xem
những dụng cụ giết người ở trạ i giam, kêu khe khẽ: “Sóc, Sóc, cha đây,
cha đây con!”. Khi n h ận ra hắn, em bé òa khóc, muốn kêu lên th ậ t to,
nhưng em cứ ú ớ không ra tiếng. “Cho xin phép gặp con tôi!”. Hắn đề
nghị. Người chiến sĩ bảo vệ bảo hắn đưa em bé ra n h à khách của trại
giam. T rên đường đi h ắn đứng lại lom khom ghé mồm gần vành tai em.
Đứa bé đứng lại làm những ám hiệu, rồi giơ bàn tay xòe cả năm ngón.
H ắn chộp lấy tay em, ngửa m ặt giữa trời, kêu thét: “Chúng nó giết cả vợ
con tôi rồi! Các ông bà ơi, bọn Ảng-ka giết cả vợ tôi, cả bốn đứa con tôi
rồi, ốì trời ơi... hơ... hơ...” B àn tay h ắn đậy vào cái m ặt ngửa h ẳn lên trời,
lảo đảo rồi ngã vật xuống. Những chiến sĩ và cô gái xô đến đỡ hắn dậy,
dìu vào nhà. Nằm trên giương, áp m ặt xuống gối hắn khóc và thở hồng
hộc. Em bé câm đập đầu và hai bàn tay vào lưng hắn, nước m ắt chảy và
mồ hôi em vã ra ướt đẫm khấp người. Cô giáo Chăm Bun lấy khăn lau
cho em xong, em lại đập m ặt xuôlag lưng người cha, khóc. Em khóc như
chưa bao giờ được khóc, chưa lần nào dám khóc kể từ khi m ất mẹ, m ất
bôn người anh, chị và bằng cách nào em đã th o át chết lang b ạt đến đây.
Có ai biết trong nỗi đau v ật vã của em mới chỉ là tiếng khóc tiếc thương
người mẹ cùng các anh các chị hay đã có tiếng khóc căm giận tủi hờn về

328
m ột kẻ làm cha. Đã biết gì chưa em bé? Hỡi Sóc Tê Rêl! Anh hãy nói cho
con anh b iết đi, nói đi, để đứa trẻ khỏi phải khóc lăn nữa.

Tôi muốn kêu lên, nhưng Sóc Tê Rêl vẫn khóc và thở.
Hắn đang thương tiếc và hối hận Lí? Mỗi ngày cầm dao lên hắn có
ngờ rằng cũng có kẻ khác sẵn sàng cầm dao, cầm đồ cắt cổ và dập chết
vợ hắn và những đứa trẻ con hắn không. Hãy lau nước m ắt và ngồi dậy,
Sóc Tê Rêl! Đứa bé đang ngồi cạnh anh, bấy lâu nay anh đã quên nó,
nhưng nước m ắt của nó mới có thế rửa sạch tội ác cho anh. Hãy nhìn vào
m ắt nó, chỉ có m ắt trẻ em mới là nơi bắt đầu một cuộc sông trong sạch.

Buổi chiều, trên đường về trại trẻ mô côi, Sóc vẫn đi bên tôi. Em
không khóc nhưng khuôn m ặt bầm lại, em dẫm từng bước chân như nén
xuống m ặt đất, lặng thinh. Tôi vẫn cầm lấy bàn tay bé bỏng của em và
im lặng, trong im lặng nghiêm trang này em hẳn đang nghĩ về những
buổi học chữ ngày mai cùng các bạn. Cùng các bạn lại học h át dù em
không th ể hát, học múa và vui chơi. Nhưng em cũng như hàng trăm bạn
khác không phải chỉ biết có nụ cười im lặng, chắc chắn em sẽ nhớ đến
những gì đã xảy ra ngày hôm nay: Những tiếng khóc cho ngày hôm qua.

Dốc 70 Hoàng Hoa Thám


Tháng 3-1979

LÊ L ựu

329
KHÔ CHĂN Đ AR A

ĐỖ VIẾT NGHIỆM

Hơn m ột tuần lặn lội để chuyển tiền tặn g phẩm cứu trợ của độc giả
tới đồng bào m iền Trung đang gặp khó khăn, liên tiếp chịu hai cơn bão
tà n phá, Sơn đã trở về cơ quan.
Sơn bả lả đẩy cửa bước vào phòng, dự tín h kiếm gì ăn qua quít đánh
m ột giấc cho lại sức chiều trở về nhà. Sơn đưa tay b ậ t công tắc điện, căn
phòng sáng bừng lên, sang trọng Sơn cúi xuống định cởi dây giày và
nhận ra m ột phong th ư ngay dưới chân. Sơn cầm lên giật m ình vì tên
người và n é t chữ. “T rần Hoàng Bắc, th â n gửi: Lê M inh Sơn”. “Thằng
Bắc” - Sơn th ố t lên —“Bắc ở bên kia cầu, sá t bờ sông Hồng, nhưng người
ta đã báo tử. Hồi hộp, hoài nghi, Sơn khẽ khàng bóc bì thư rút ra m ột tờ
giấy gấp đôi xòe to như m ột con bướm lớn. Thư viết: “Sơn, cậu còn nhớ tớ
không? Bắc đây! Bắc rá i cá của trung đội đây. B iết cậu do m ột sự tìn h cờ
hai hôm trước tớ có đọc trê n tờ báo T hanh N iên cuối tu ần bài: Quân tình
nguyện V iệt N am m ãi m ãi là niềm tự hào của Tổ quốc. Bài viết rấ t tuyệt,
đọc cảm động làm tớ ứa nước m ắt. Sơn ạ cậu giỏi th ậ t đấy. Không ngờ cái
th ằn g m ặt lù đù như rùa, đánh nhau lì như đ ất đá, lại trở th àn h n h à báo.
Tớ đ ến tìm cậu , m ời VP n h à rhrri, n h iín g chcl m ã i k h ô n g biết, k h i n ào
cậu về, đành viết th ư lại nhờ bác bảo vệ chuyển giúp. Đến nhé, mười sáu
giờ ngày mười tại n h à tớ ”. Sơn liếc nhìn đồng hồ. “N gày hôm nay” - Sơn
lẩm bẩm rồi lấy chiếc Motorola di động ấn phím. T iếng m áy “tin tín"
th an h mỏng, điệu đàng như m ột nốt si trong khúc nhạc tìn h vang lên.
Một chiếc tắc xi tấ p vào lề đường, người tà i xế với tay mở cửa. Sơn bước
vào. Xe lao đi, hai chục phút sau đã sang bên kia cầu.
Làng Ngạn p h ấ t lên độ mười năm lại đây. Đúng hơn từ ngày nhà
nước có chủ trương đổi mới. Dân làng Ngạn đua nhau đi kiếm tiền vào
Nam, ra Bắc, lên biên giới làm nghề cửu vạn. Nhờ vậy làng N gạn giờ
thay đồi nhiều lắm , xênh xang nửa quê nửa tỉnh. Chuyện Bắc đi chiến
đấu ở chiến trường K m ất tích, m ột bận gây xôn xao, ly kỳ như truyện
trin h thám . Sau được k ế t luận đã hy sinh và báo tử, rồi tên Bắc đã khắc
vào bia đá của làng. Đột nhiên, cách đây m ột năm , Bắc gửi thư về. Ông
Bảo, bô' Bấc m ừng khôn xiết, nước m ắt ròng ròng, cầm thư chạy khoe

330
khắp làng: “Con tôi còn sống. Con tôi còn sông”. Chuyện cứ như thần
thoại. Một số lão làng nói nhỏ với nhau. “Ông Bảo thương nhớ con quá,
m à sinh ra lầm tưởng đó thôi”. Nhưng rồi hôm nay Bấc đã trở về. Một
anh Bắc bằng xương, bằng thịt. Chưa hết, anh còn m ang về theo cả một
tổ ấm gia đình gồm vợ và đứa con trai hơn mười tuổi. Tin Bắc trở về,
ngay buổi sáng cả làng đều biết. Người làng Ngạn quý cái tìn h ai cũng tới
thăm anh. Họ chúc mừng ông Bảo và vợ chồng Bắc. Lũ trẻ làng Ngạn đi
tắm ngoài sông kháo nhau: “Chú Bắc lấy vợ ngoại, mặc váy, sắp tổ chức
cưới lại rồi”. Bắc tổ chức tiệc mặn. Anh mời anh em: bạn bè thân thích
gọi là báo cáo chớ cưới xin gì dâu. Trước là để trìn h diện làng xóm, sau là
để vợ con khỏi mủi lòng, lần đầu về thăm quê nội. Sơn tới đúng vào lúc
chương trìn h chuyển sang phần văn nghệ. Một chàng tra i đang ngất
ngưởng h á t bài “Người lính tình nguyện Việt N am ”. “Á psara... Ôi điệu
múa: Á psara ơi...” Đám thanh niên bật dậy, làm th à n h một vòng tròn
đung đưa, nhún nhảy. Sô khác ngồi ngoài vỗ tay theo nhịp. Sơn lặng lẽ
bước vào sân, chính anh cũng đang bị bài h át cuốn hút, mê hoặc. Những
ký ức một thời b ất chợt trào dâng trong anh. “Á psara... Ôi điệu múa... ôi
lời h át Á psara ơi...”.
- Sơn! - Bắc kêu lên rồi nhào tới, len qua các dãy bàn ôm chầm lấy
anh lắc m ạnh.
- Bắc! Bắc! T hế mà tớ cứ tưởng...
- Đã chết đúng không? Tớ sống lại đấy!
- Cậu có phép màu hả Bắc?
- Bình tĩn h , chưa p h ạt tội đến muộn. Nào, lại đây để tớ giới thiệu!
- Không cần dâu Bắc. Tớ không muôn vì tớ m à phải dừng cuộc vui.
- Pai Lây đấy. Nhưng cậu phải thức suốt đêm nay?
- OK!
Vợ Bắc đã nhận ra hai người. Bắc đưa tay vẫy vợ và con tra i lại gần.
Bắc chỉ vào Sơn.
- Đây là anh Sơn bạn anh. Còn đây là vợ và con trai m ình.
Vợ Bắc chắp tay nhún người xá, môi nở m ột nụ cười hiền hậu. Sơn
chắp tay đáp lại, anh quay sang Bắc:
- Cậu th ậ t hạnh phúc.
- Tiếng vỗ tay rào rào, tiếng cụng ly chan chát, tiếng h á t lại vút lên,
giống như m ột dòng chảy không ngừng.

331
Hai người bước dọc triền sông, họ chọn một ụ đ ất v ặt vài bông ngô
già trả i làm nệm ngồi, m ặt hướng ra sông.
M ột con thuyền gỗ gần dó đã cắm sào, trong bóng đêm trô n g nó
lặng tên h , giống như m ột chiếc ngoặc đơn. Bắc nói chầm chậm:
- Nếu ngày ấy cậu cho rút sớm, đơn vị sẽ ít tổn th ấ t hơn.
- Rút, rú t th ê đếch nào được. Cấp trê n chưa lệnh; m ặt khác, không
ngờ địch lại tập tru n g lực lượng lớn đến thế.
Bắc im lặng, nghe được cả tiếng ộp oạp vỗ vào m ạn thuyền. Bắc móc
túi lấy bao ba sô", gẩy nhẹ m ột điếu thuốc trồi ra, trô n g rấ t điệu nghệ.
- Hút?
- Bỏ lâu rồi.
Nói xong Sơn cúi xuống n h ặ t m ột viên sỏi vung tay ném m ạn h ra
xa, viên sỏi m ất hút, khoảnh khấc vọng tới m ột tiến g “bụp" nghe như cá
đớp mồi.
- Giỏi, bên ấy rẻ tớ không nỡ bỏ, hơn nữa nghề câu cá lênh đênh
sông nước, không đốt thuốc buồn bỏ mẹ.
Bắc b ật lửa châm thuốc. Lửa tắ t chỉ còn cái đầu thuốc lập lòe như
con đom đóm bay ngang tầm m ắt.
Bắc thở dài nhớ lại câu chuyện đã qua.
- Đúng, cậu nói phải? - Anh nói, sau này tớ mới biết được trậ n đó
dịch tậ p tru n g gần m ột tiểu đoàn, có pháo binh yểm trợ, m à bên ta chỉ có
hai mươi tay súng. T rận đánh có cường độ cao và khốc liệt phải không?
Loạt pháo đầu chúng dùng toàn đạn xuyên để phá công sự. Bọn chó quỷ
th ậ t, khói chưa ta n đã bắn cấp tập loạt hai đến vài chục quả, toàn là đạn
chạm nổ. Cậu nhớ chứ, mười hai đứa chết ngay. T hằng Hồng, th ằn g Quốc
đứng cách tớ hơn chục thước bị m ột quả rớ t trúng.
- Thuô'c đâu? - Sơn hỏi. Bắc thờ ơ trao bao thuốc cho bạn, Sơn quẹt
lửa, rít m ột hơi th ậ t dài rồi ho khằn khặt.
- U phải... kể tiếp đi.
- Hôm đó địch đoán được lực lượng ta mỏng. Chúng chia làm ba mũi
tiến lên vừa đi vừa bắn. Tớ thấy cậu gào trong tiếng khóc, nhìn cậu tớ
thương và khâm phục. Tớ đã đọc nhiều tiểu thuyết chiến tran h . Tớ cũng
xem nhiều phim nói về người lính. Nhưng m ấy cha dạo diễn chỉ tà i bốc
phét?

332
- Nghệ th u ật Bắc ạ.
- Tớ hiểu. Nghệ th u ật không có nghĩa là b ất chấp sự th ật. Bữa đó
chúng ào lên như m ột bầy thú dữ, miệng hô: “Duôn, Duôn”. H ình như
máu trong người cậu sôi lên. Cậu bật khỏi công sự, hai hàm răn g nghiến,
khẩu trung liên trong tay cậu gầm lên, địch chết nhiều quá tớ không đếm
được. Quái th ậ t tớ lại th ấy cậu khóc. Tớ lấy làm lạ rồi chợt hiểu ra, có
phải tâm cậu day dứt...? Tớ thông cảm với cậu, không còn cách nào khác,
khi người ta vào cuộc đôi m ặt nhau, với cái chết! Bên cánh trái, tớ và
tiểu đội ba đánh tạ t sườn, địch co cụm lại, chính lúc đó tớ nghe tiếng cậu:
“Rút!”. Tớ nghĩ “On rồi”. Cuối cùng thì cậu đã có m ột quyết định đúng
đắn.
- Anh em đi hết còn cậu sao cứ lì ra?
- Tớ không th ể bỏ mặc cậu một mình.
- Tớ xin lỗi, hôm ấy đã xử sự như thế.
- Cậu đã túm vào cổ áo tớ vặn rấ t mạnh, m ắt cậu trợ n trừng rồi bảo
“cút ngay”. Tớ lao vào rừng bám theo tốp trước, nhưng càng chạy, càng
m ất hút. Đêm đặc quánh, tớ có cảm giác sờ nắm được cái màu xám xịt
như sắt. Tớ cô' chạy. Bôn bề không gian trông rỗng rồi k iệt sức ngã xoài
trê n m ặt đất. Tớ nằm như vậy không biết bao lâu đến khi tỉn h dậy, chợt
nhận ra m ột vùng sáng từ xa, phía vừa có tiếng con nai. Tớ đoán có thể
m ột làng chài. Mừng quýnh tớ chạy líu díu cả chân, vấp lên, ngã xuống.
Tớ chỉ mong được ngồi trên một con thuyền, và được “đánh chén” một
bữa tiệc cá thỏa thích. Sự k h át khao làm cho tớ m ạnh lên, tớ chạy như
một th ằn g khùng, cuối cùng tớ đã tới được cái vùng sáng ấy. Nhưng kinh
lắm cậu ạ. Cái làn g chài trê n sông chỉ là sự ảo ảnh. Đó là một vùng rừng
chồng ch ất xương cốt người chết. Tớ không đủ can đảm tín h dược có bao
nhiêu nh ân m ạng nằm trong cái chuông lõm ấy, xung quanh nhiều cây cổ
thụ già. Những chiếc cành ngang phè, thõng xuống từng chùm rễ, lòng
thòng giống các sợi dây treo cổ. Trời đất sáng m ột cách ma quái. Ánh
sáng trô n g giống như lửa khi tới gần lại không phải. Thứ án h sáng
không tỏ a nhiệt, nhấp nháy, xanh như m ắt mèo. Bỗng m ột cơn gió thổi
qua, tớ thấy hàng trăm cái đầu lâu cựa quậy từ trong những hố đất.
Những bộ răng quạc ra trắn g nhởn. Lúc này sự hoảng loạn ngự trị trên
trí não tớ. Tở chạy, đúng là “chạy như ma đuổi”. Tớ ngã dúi dụi, đập vào
cây vào đất, m iệng đầu tứa máu. Mặc, tớ cứ chạy, không hề có cảm giác
đau đớn. Cho tới khi đầu tớ va vào vật gì đó rấ t m ạnh. Tớ khựng lại, lảo
đảo rồi đố gục.

333
Những h ạ t n ắn g lăn qua khe cửa rơi vào m ắt cay rá t. Tớ choàng
tỉn h dậy, th ấ y m ình nằm trong m ột cái lều cỏ, giữa cái vườn toàn cây
xoài và cây vú sữa. Những quả xoài vừa chín tới, căng m ẩy như hai mu
b àn tay úp. Mỗi quả treo lủng lẳng đầu m ột cái gọng dài, trông xa giông
cái chuông đồng nhỏ. Cách lều hơn năm chục sải chân có m ột ngôi nhà
sàn. N hà làm bằng loại gỗ dầu, màu gỗ thầm như m àu sừng trâu. Tớ
nhổm người định bước vào xem m ình đang ở đâu. Nhưng vừa chống hai
khuỷu tay người tớ g iật bắn lên, như có ai vừa cầm cái kìm dứt từng
m iếng th ịt ở ông đùi trái. Cái đau xối lên óc làm tớ vã mô hôi hột, cùng
nước m ắt. Tớ bị thương cậu ạ! T h ật kỳ lạ, cho tới bây giờ tớ cũng không
hiểu nổi, vì sao tớ lại chạy được một quãng đường dài, m à bình thường đã
là khó k h ăn lắm . “Ai đã đưa tớ vào đây và băng bó cẩn th ận ?”. Tớ còn
m ung lung suy nghĩ. Bỗng có tiếng người đàn bà từ trong n h à vọng ra:
“Ôi anh Son-thi-chiết, an h đã về”.
M ột người đàn ông gần bốn chục tuổi, nước da m àu đ ất sét đi từ
cổng vào, trê n vai khoác một túi lưới cá. Người đàn ông tới chân cầu
thang, chợt sững người lại. Cái túi cá rơi tuột xuống đất, vài con cá còn
sông uốn m ình q u ật trê n đất nghe đành đạch. M ặt an h ta biến sắc, hai
cánh mũi phập phồng h ít hít. “Máu đưa nào đây?” - Anh ta hỏi. Người
đàn bà tro n g n h à chạy ra: cái váy bập bồng suýt làm chị ta ngã. “Bình
tĩn h nào anh C h iết”. Người đàn ông vẫn câm lặng hầm hầm vòng quanh
cầu thang, an h ta cúi xuống n h ặt vật gì đó giơ lên. “Cái mũ” của tớ cậu ạ.
Khôn nạn, th ì ra tối qua tớ đã đập đầu vào v ật cứng, chính là cái cầu
th an g n h à gã Son-thi-C hiết, chiếc mũ rơi ra. Son-thi-C hiết r ít qua kẽ
r ă n g , n h ư c o n b á o t r ú n g m ũ i t ô n đ ộ c. “ D u ô n p h ả i lc h ô n g ? ” N g ư ơ i đ à n b à
đã xuống dưới sân van vỉ: “Anh C hiết đừng nói th ế ”. Gã chẳng thèm
nghe, h ắn nhảy lên cầu thang n h an h như con sóc. T iếng đổ vỡ loảng
xoảng trong nhà. Một lá t h ắn vọt trở ra, trê n tay cầm m ột cây kăm bắt
(con dao) dài, sán g lóe, m ặt tím bầm rỗi băng ra cổng. “Không!
Không!...”. T iếng người đàn bà th é t lên:
- Sau đó th ế nào? - Sơn hỏi.
- H ình như b iết m ình vô vọng chị ta bật trở lại, quay vào nhà lấy
những th ứ gì đó, bỏ đầy m ột túi xách, bung cửa sau chạy phăm phăm về
p hía lều nơi tớ đang nằm . Tớ hoang m ang th ậ t sự Sơn ạ, chưa biết phải
làm gì, nhưng làm được cái gì kia chứ, khi cái chân “khốn kiếp” và cái
đầu toạc máu, vẫn nhức nhôi từng cơn. Người đàn bà lao vào nói một lời
ngắn gọn: “Đi!”. Cái túi khoác chéo qua vai, chị cúi xuống xốc ngang nách
tớ, lôi đi như m ột con mèo th a đứa con của nó. Tớ giãy giụa, cố th o át khỏi

334
vòng tay chị, nhưng vòng tay càng th ắt chặt. Chị câm lặng, nước m ắt rơi
lã chã, lết đi từng bước.
- Mẹ... Mẹ... - Tớ có cảm giác đó không phải bàn tay bình thường.
Một bàn tay th iên th ầ n thì đúng hơn. Bàn tay đ ặt rấ t nhẹ lên ngực tớ và
lay nhè nhẹ.
- Kon tóp. Kon tóp tỉn h rồi - Tớ nghe vảng vất lời chị nói như reo
bên tai. Tớ run rẩy trong mộng mị và cảm nhận được hơi thở chị nóng
hổi phả lên ngực tớ.
Tiếng chị mềm mại:
- Kon tóp... - Tớ từ từ mở mắt, nhìn ngờ vực.
- Người... Người...
- Cha (dạ), em đã đưa anh về đây. Đêm qua anh luôn mê sảng gọi
mẹ.
- Tôi sao th ế này? - Tớ hỏi.
- Kon tóp sẽ khỏi thôi.
- Tôi ở đâu?
- Kon tóp đang ở nhà một gia đình Khơ-me tốt.
- Không, cho tôi về đơn vị.
- Kon tóp bị thương chưa thể đi ngay được - Người đàn bà nói rồi
đứng dậy đi vào nhà trong, một lát sau quay ra, tay bê m ột cái tô bằng
»ứ. N é l m ă l c liị r ạ n g lơ . C h ị n g ồ i xu ô n g b ê n tứ.

- Kon tóp ăn cháo nào.


Đói, tô cháo cá thơm lựng làm tớ ứa nước miếng. Tớ ngoan ngoãn để
chị bón cho từng thìa. Tớ nghĩ tới mẹ cậu ạ. Khi còn nhỏ có lần tớ ốm,
mẹ cũng ngồi cạnh tớ và bón cho ăn như th ế này.
- Chút nữa nào Kon tóp.
- Cám ơn, cám ơn chị. - Tớ nói và ngắm nhìn khuôn m ặt chị. Biết
nói với cậu sao nhỉ. U, phải, nét mặt hao gầy, hoàn mỹ như th ầ n nữ
Ápsara trê n vách đền Ãngko Vat. Tớ không hiểu tại sao cái vóc dáng
m ảnh mai, yểu điệu của chị, lại có thể đưa tớ về đây được. “Còn tên chị là
gì?” - Tớ hỏi: Người đàn bà đặt cái tô đã h ết cháo xuông giường, khúc
khích cười, nói:
- Em không nói đâu.

335
- Sao vậy?
- O tên em xấu lắm.
- Đừng nói thế, n h ấ t định tên em phải đẹp!
- Ai nói, kon tóp.
- Tôi đoán mà.
- Đừng cười nhé.
Tớ gật đầu chờ đợi.
- Khô C hănđara - Nói rồi chị ngoảnh m ặt đi, dưa hai tay lên che
m ặt tủm tỉm cười.
- 0... Một cái tên tuyệt đẹp? Đ ara là một vì sao. Ngôi sao sáng trên
bầu trời xanh.
- Kon tóp là nhà thông th ái à?
- Không, m ột cụ già ở Stungtreng dã kể với tôi tên của các vì sao.
C hănđara sung sướng khi có người lại biết ý nghĩa của tên mình.
Hôm ấy tớ cũng giới thiệu tên m ình với C hănđara. “Tên tôi là Bắc, một
vùng quê ở phía Bắc sông Hồng gần Thủ đô H à Nội. Một vùng đất có
những làn điệu h á t xoan, h á t chèo và quan họ nổi tiến g ở Việt Nam,
giông Tổ quốc C hănđara có vũ điệu Rom vông quyến rũ.”
Gần ba th án g Bắc ở nhà bác Khiêu Sà Lươn, m ột gia đình Khơ-me
nghèo nhưng hào hiệp. Vườn bác Khiêu Sà Lươn rộng, nhiều cây vú sữa
t ỏ a b ó n g m á t n h ư n h ữ n g c á i ô lớ n . N h ữ n g n g à y c u ố i c ù n g v c t th ư ơ n g đ ã
Ổn định. Một buổi sáng C hănđara dẫn Bắc ra vườn tập đi. Cái buổi sáng
th ầ n tiên ấy vẫn còn in đậm trong trí nhớ của Bắc. “Bắc bỏ nạng ra, lại
đây” - C hăndara nói và giơ hai tay về phía Bắc. Bắc ngập ngừng nhìn
C hăndara đứng cách anh chừng ba m ét, lưng hơi cúi xuống. Cái cổ áo
C hănđara hơi trễ để lồ lộ một khoảng ngực trần . “Trời đất" - Bắc suýt
kêu lên như thế. Đầu óc Bắc mụ mị, u mê. “Bắc sao thế, bỏ nạng ra ” -
C hănđara nhắc. “Ờ... Bắc sợ lắm C hănđara ạ ”. “Can đảm lên, nhìn thẳng
phía trước”...
Bắc th ả nạng, hai tay chới với. v ẫ n tiếng C hănđara: “Cô' lên, cô' lên,
tô t rồi”. Ngày tiếp theo Bắc hoàn toàn bỏ nạng, Bắc sung sướng nghĩ
ngày trở về đơn vị, nhưng với C hănđara là giờ phút nặng nề. Hai ngày
sau vào buổi sáng, m ột chiếc xe ngựa có mái che, đỗ xịch ngay trước nhà
bác Khiêu Sà Lươn. C hăndara m ắt rưng rưng lệ nói với Bắc đi thay đồ.
Bắc mặc bộ bà ba, khoác một tấm krom a “đi đường cho tiện ”. Thì ra

336
C hănđara đã chuẩn bị cho chuyên đi của Bắc. Bộ đồ làm cho Bắc giống
m ột chàng tra i bản địa. Chỉ khác Bắc có nước da trắng. Bắc bịn rin nắm
chặt tay bác Khiêu Sà Lươn. Chănđara giục:
- Lên xe di, Bắc.
Bắc bôi rối.
- Em tiễn anh chứ.
- N hất định rồi.
Bắc lên trước đưa tay kéo Chăndara. Người đánh xe căng cương, vút
roi vào mông nhựa. Con vật nhún chân, lấy đà và lao vút đi.
Người đánh xe tên là Non Chom-rơn độ gần ba lăm tuổi, bề ngoài
anh có cái mã m ột tên cao bồi Mêhicô. C hănđara giới thiệu: “Trông dữ
nhưng hiền khô”. Đúng hơn là con người có hiểu biết rộng. Bắc nhận xét
Non Chom-rơn qua trò chuyện giũa Chănđara và anh ta. Với Bắc, Non
Chom-rơn có cảm tìn h đặc biệt. Anh nói: “Nếu không có kon tóp Việt
Nam thì dời tôi cũng tiêu rồi”. Non Chom-rơn kể, cha anh là nhà nghiên
cứu P h ật học, mẹ anh là giáo sư dạy môn sử ở Kra-chê, cả hai đều bị Pôn
P ốt giết ở Bát-đom boong, ngày ấy anh còn là sinh viên. Non Chom-rơn
chạy về phum Kro (phum nghèo) nhờ vậy mới thoát chết. Non Chom-rơn
tâm sự: “Có lúc th ấy chán sông, nhưng có người bảo tôi: Cuộc đời vẫn còn
ở phía trước, đừng làm bậy. Thê là tôi thôi”. Bắc còn biết: Sau hòa bình,
Non Chom-rơn tìm về nơi quê nhà thấy một sợi dây chuyền vàng và hai
ba cây vàng thỏi, anh đem bán, có tiền anh mua một chiếc xe ngựa. Từ
n g à y c ồ xo a n h p h iê u dti n h iề u nơ i... A n h h y v ọ n g t r o n g v ũ tr ụ m ô n h
mông này, b iết đâu anh gặp được linh hồn cha, mẹ anh. “Hà... hà, chị
C hănđara ơi, chị đang nghĩ gì thế?. Chănđara giật mình, mỉm cười nhìn
người đánh xe. “Ê, h ầy” - Non Chom-ron giục ngựa rồi quay đầu nói với
Bắc: “Kon tóp à, người Khơ-me không quên quân tình nguyện Việt Nam
đã giúp m ình, đúng không chị Chănđara?”. C hănđara gật gật cái đầu Non
Chom-rơn cười rang rảng. Bất chợt anh cất cao giọng hát: “On ch'mua
pho la lò mo mo, lò o riêng lò 0 khơ nong. Chuốp múc khơ nia mờ đoong,
boong choong sro lanh, ôn sơ rây. Sro lanh boong tâu, boong chia mê sơ
rốc, phum thơ mây. Mê sơ rốc com bây, prô puôn cách ná. Ót cách tê ôn”.
(Em Pho-la đẹp người, đẹp nết, đẹp lưng. Gặp nhau có một lần, anh định
yêu em à. Yêu anh đi! Anh là quận trưởng. Quận trưởng có ba con, vợ dữ
lắm! Không đâu em). Tiếng h át anh loang theo chiều gió. Trên cao một
đàn chim sáo bay ngang, nghiêng đầu nhìn theo ngơ ngác.

337
- Đây là doanh trạ i của kon tóp - Người đánh xe nói rồi lỏng cương
dừng ngựa. Một cái cổng làm bằng gỗ, mỗi bên có bốn cây, đường kính
bằng ba vòng tay, cắm th ẳn g xuống đất, tạo nên m ột cái trụ vuông. Nối
giữa hai trụ cũng có bốn cây như thế, nhìn xa, cái cổng giông m ột chữ u
khổng lồ lộn ngược lạnh tanh, không m ột bóng người. Sau rào trong,
vườn hoa trước cột cờ cỏ bắt đầu mọc lún phún. Vài ba chiếc giày thủng
gót, bỏ lại tại m ột góc nhà. Bắc th ẫ n thờ m ột lúc, rồi nói với Chăndara:
“Đi th ô i”. C h ăndara rầu rĩ bước theo sau. Tới cổng Non Chom-rơn bỏ xe
th ập thò lắp bắp hỏi: “Kon tóp?”. Bắc ngồi p hệt xuống vệ đường m ắt nhìn
đâu xa lắc: “Không còn ai ở đây”. “Đến N a-ki-khsấp”. Non Chom-rơn đề
xuất. Lại đi: mờ tôi đến nơi. v ẫ n vô vọng. Dấu vết ở doanh trạ i còn mới,
rõ rà n g đơn vị mới di chuyển không lâu! Nhưng họ đi đâu? Chỉ biết khi
C hăndara hỏi m ột người dân gần đây. họ bảo: “Kon tóp nhiều lắm , đi rồi,
về hướng nam ”.
- Tiếp đi - Sơn nhắc.
- Hôm sau tớ quyết định đi về th ị xã Kra-chê. Tớ nghĩ Kra-chê là
m ột th ị xã, sát bờ sông Mê Kông. Ớ đây n h ấ t định tớ gặp được quân
m ình hoặc có được tin tức chính xác. Đường về Kra-chê theo quốc lộ 13,
rải nhựa nhưng lâu quá rồi lại chiến tra n h liên miên, nhiều chỗ hư hỏng
nặng, gặp ổ gà xe nảy tưng tưng, ngồi trên xe người chao đảo như lên
đồng. Đã hơn m ột ngày rong ruổi, con ngựa đã thấm m ệt, tiếng võ gõ
trê n m ặt đường trở nên lạc điệu. Khổ thân con ngựa những lúc như th ế
lại phải chịu đòn. Quá trư a xe vào tới th ị xã, tớ lao ngay đi tìm . Trời ơi,
cậu không th ể tưởng tượng được tớ hụt hẫng biết bao chừng nào, khi tớ
vào th ản g cơ quan quân sự tin h dội hỏi thâm . Kổí dược bạn thông bão:
“Kon tóp Việt Nam đã về nước. Đơn vị cuối cùng rú t khỏi Cam puchia tại
Phnôm P ênh cách đây cũng hai tuần, theo hiệp định giữa hai chính phủ”.
Nghe vậy C h ănđara òa khóc.
- Sơn? - Bắc đột ngột hỏi.
- Gì thế. Thôi tiếp di. Ruột gan m ình đang lộn nhộn đây này.
- Tớ buồn đến p h á t khóc cậu ạ. Nhưng có C hăndara ở đấy tớ cô' kìm.
Đêm ấy ba người vào xin ngủ tạm trong một nhà chùa, nhưng nào ai ngủ
được. Tớ và C h ăndara ngồi đó, như hai cái bóng câm lặng. Non Chom-rơn
nắm ch ặt vai tớ lắc m ạnh: “Bắc đi Phnôm P ênh”. “Đúng, về Phnôm Pênh
Bắc ạ ”. Tiếng C hăndara khấp khởi. Tớ đứng vụt dậy, chút nữa tớ gào lên
vì sung sướng. “Phải, đến Phnôm Pênh, vào đại sứ quán V iệt Nam, xin
thủ tục về nước. Ngày mai, C hănđara, em không cần tiễn anh đâu, hãy

338
trở về Arey khasat, C hănđara ạ. Anh cảm ơn em nhiều lắm ”. C hănđara
đưa hai ngón tay đặt lên miệng tớ: “Đừng nói th ế Bắc”.
Non Chom-rơn đã dậy, anh ta bước tới chỗ C hănđara và ngồi bên
cạnh. Họ ngồi thế, im lặng hồi lâu, không gian nặng nề trôi. Chỉ có tiếng
chân ngựa chồn chân bập bập vào đất là nghe rõ. Đột nhiên Non Chom-
rơn hỏi Chănđara: “Thằng Chiết theo Pôn Pốt và đã chết trận , chị biết
chưa?”. Người đánh xe giận dữ: “Nó là đồ khốn!”. Bất ngờ quá cậu ạ, gần
như tớ lao tới và kêu lên thảng thốt: “Chănđara. C hănđara đúng vậy
không?”. Một cơn mưa ập tới đường đột. Tớ nhìn th ấy từng h ạ t mưa rơi
loáng nhoáng, qua ánh đèn diện cao áp ngoài phô' h ắ t vào. Tớ mường
tượng trăm ngàn h ạ t mưa sa ấy, có cả nước m ắt của C hănđara.
Thì ra cái hôm đó Son-thi-Chiết đùng đùng nổi giận vác kăm b ắt đi
khỏi nhà. Hắn căm thù Duôn, chính là tớ. C hăndara quyết định cứu tớ.
T hế rồi mọi chuyện đã xảy ra. Tớ cũng không về Phnôm Pênh để xin về
nước. Tớ nói với Chănđaara, giọng run rẩy, sợ C hănđara từ chối:
“C hăndara, anh ở lại đây với em...”. Một năm sau chúng m ình đã có
thằng Bắc Tít. Bây giờ đã mười năm, vợ chồng tớ mới về thăm quê nội...
- Anh Bắc ơi?
- Ai gọi? - Sơn hỏi.
- Chănđara.
- C hănđara ơi... ra đây, trăn g đẹp lắm - Bắc ngoái đâu gọi vào.
- Cha (dạ) em ra ngay đây.
C hănđara khoác trên người một tấm khăn krom a, tay nhíu váy lăm
xăm bước về phía Sơn và Bắc. Bắc đứng dậy nắm tay C hănđara chỉ dòng
sông, nói:
- Đẹp không em?
- Đẹp, đẹp lắm, như Tôn-lê Mê Kông phải không Bắc?
- ừ Mê Kông dài và rộng.
- Vâng, còn sông Hồng nhiều phù sa.
- Người sông Hông thì sao Chăndara?
- ừ... ừ... Em không nói đâu. Anh Sơn ơi, Bắc nói xấu C hănđara nhiều
phải không?
- Không đâu Chănđara, em tuyệt lắm?
- Ôi anh đừng nói vậy, xấu hổ lắm!

339
- T h ật đấy! Em đã sinh ra Bắc lần thứ hai!
- Không. C h ăn đ ara chỉ giúp Bắc thôi. Bắc ở lại Campuchia em
mừng, nhưng khi Bắc ngỏ lời lấy em thì em sợ.
- Sao vậy C hănđara? - Sơn hỏi. Em sợ sau này Bấc buồn. Bắc còn
trẻ, ở Việt Nam, Bắc sẽ lấy được vợ đẹp, C hănđara già rồi, hơn Bắc tới
năm tuổi. Không xứng đâu.
- Ô, C hănđara, Bắc không hề ân hận. Gia đình Bắc và cả anh rấ t tự
hào về em?
- C h ănđara không tin... không tin đâu.
Vừa nói C h ăn đ ara vừa vung tay dứ dứ. Bắc chạy ra xa ngoài vạt cỏ
C hănđara đuổi theo. Bắc quay lại và vung tay m úa hát.
“Krỏ: mun Arey khoát, m iên s lịa k'bân, ót s lịa khao chơn thum ,
chă ríc so phiếp rùm tum , thô vơ ơi chất k' nhum , rum phớt, pếc cơ rây...
Cà pứt kh nhum pụa m ai, S'cơm teng riêng cai. Cùm oi chất ban chung
kh'rúa, te cua á mị cha, ôn ch lơi chạ chờ rùm... chạ pữt, chạ boong chạ
mứt, chạ m iên cùm mứt, boong xen Sơ ne ha”. (Cô gái thum Arey khsat,
chỉ bận kờ bân, không mặc quần ống rộng. Đôi m ắt của em, nhìn như hai
mũi tên bắn th ẳn g vào tim tôi. Tôi ngỏ lời thương em, nhưng em bảo tôi
già rồi. Tôi già th ì già rồi, nhưng tôi già có ý tứ...”.
T răng khuya như đậu xuống ngọn cây, ánh sán g m át lạnh. Sương rơi
sót đẫm. Cỏ cựa m ình kêu lách chách mơ hồ. Dưới kia, trên m ặt sông,
con thuyền đã nhổ neo đang từ từ tiến về phía cửa biển.

T hàn h p h ố Hồ Chí M inh


Tháng 3 - 1999

ĐỖ VIẾT NGHIỆM

340
LỨA ĐÔI

LÊ THANH HUỆ

Trước khi tôi về nhận công tác ở đây, cơ quan chỉ có H à là nữ. Cô có
vóc người m ảnh dẻ, nước da trắng mịn, đôi m ắt ươn ướt, mũi cao và
thẳng. Mỗi khi H à cười, hàm răng trắng đều đặn làm khuôn m ặt sáng
lên.
Tuy mới về cơ quan, nhưng tôi nhanh chóng nhận ra ngay: Cứ chiều
đến là H à th ấ p thỏm chờ anh nhân viên bưu điện m ang thư báo đến cơ
quan. Sau tiến g gọi “Hà có thư nghen”; cô làm bộ miễn cưỡng đứng dậy
và cố làm sao cho bước chân của mình không nhanh quá, nhưng niềm vui
lại cứ trà n ra trê n khuôn mặt, trên khoé miệng và cả trong đôi m ắt
trong của cô nữa. c ầ m chiếc phong bì nhỏ bé có nét chữ nghiêng
nghiêng, dẹp m ột cách phóng khoáng, m ắt cô ngấn lệ rưng rưng. Hà cẩn
th ận kẹp nó vào cuốn lịch sổ và cứ dể nó đấy, lặng im tậ n hưởng sự hồi
hộp, nỗi xao xuyến trào lên cho đến khi đêm buông hay lúc còn lại một
mình, cô mới lấy chiếc kéo cắt chỉ bé nhỏ, xinh xinh, cẩn th ậ n cắt một
rìa phong bì sau khi đã ghi ngày nhận và bức thư số mấy của người yêu
m ình lên phía sau phong bì.
Nliững lá thư mang con lem quân đội có klii lừ Bál-đom-boong, khi
th ì từ P retv ih ia hay Xiêm Riệp (những địa danh nằm trê n đ ất bạn) bay
về với cô. Hà đã lên th à n h phố, đã ghé rấ t nhiều hiệu sách, lục tìm rấ t
nhiều kiốt để tìm mua bằng được tấm bản đồ hành chánh V iệt Nam —
Lào — Cam puchia đã cũ, trê n đó ghi địa danh ba nước Đông Dương khá
chi tiết. Những tên núi, tên sông xa lạ đó bỗng trở th àn h quen thuộc rấ t
đỗi th â n yêu khi Trọng đ ặt chân tới và có lúc Hà cứ nhầm tưởng như
m ình cũng đã từng sông ở đó, chiến đấu ở đó cùng anh. Quyển lịch của
Hà chủ yếu dùng để ghi ngày tháng nhận thư Trọng, ngày H à gửi thư cho
anh. Cô ngồi nhẩm tín h ngày thư đến tay anh rồi cộng thêm m ột khoảng
thời gian nữa, H à đánh dấu vào quyển lịch và coi đấy là ngày đón thư
của Trọng gửi về. Đường h àn h quân dài theo năm tháng, có phải lúc nào
thư cũng về đều đặn đúng hẹn đâu. Vào mùa mưa, đường thư tắc có lúc cả
sáu th án g trời, đón một lúc gần chục lá thư. Vì vậy thường là quá ngày
đón thư mà vẫn chưa có thư của Trọng. Hà lại bồn chồn đứng ngồi không

341
yên. Hà nghi ngờ luôn cả sự cẩn tắc của anh nhân viên bưu điện. Chẳng
có ai và chẳng có lời giải thích nào đủ để Hà yên tâm cả, trừ khi có cái
phong bì bé nhỏ xinh xinh kia bay về với Hà.
H à đang ôn th i vào đại học tại chức. Tôi giúp H à giải các bài tập và
hệ thống lại kiến thức. Mặc dù rấ t quí Hà, nhưng tôi vẫn phải nhận
thấy: N ăng khiếu và sự thông m inh tự nhiên của H à không có gì đặc sắc,
bù lại H à rấ t chăm chỉ. H ình như ngoài việc ôn th i, công việc thường
ngày của cơ quan và nỗi mong chờ những lá thư của người yêu ra, Hà
không quan tâm đến những khó khăn trong cuộc sống. H ình như Hà
cũng không có cả những dằn vặt, lo toan trong đời thường.
Tôi có người yêu ở gần. Anh là kỹ sư và học cùng lớp với tôi. Anh
nhỏ tuổi hơn tôi nên sống buông thả. Tôi đến với an h bằng tình cảm của
m ột người chị, người bạn rồi sau đó mới là người yêu. Tôi ít được quyền
nhõng nhẽo m à phải lo toan, chăm sóc chu đáo, tậ n tuỵ người mà tôi yêu
nên tôi vẫn tự cho m ình là người v ất vả nhất, bất h ạ n h n h ấ t trong tình
yêu. Nhưng h ìn h như h ạn h phúc lại là ở chỗ được hy sinh, được vì người
yêu. Có lẽ vì vậy m à tôi chóng gần gũi và gần như đồng cảm với H à hơn.
Tôi rấ t ái ngại khi anh đến và tỏ ra âu yếm, tỏ vẻ quan tâm quá nhiều
với tôi trước m ặt Hà. Tôi rấ t thông cảm với Hà. Yêu m ột người lính là
phải chấp n h ận th iệ t thòi. Ngày xưa sô' chị em có chồng và người yêu đi
chiến đấu xa rấ t nhiều n ên dẫu sao họ cũng không th ấy đơn độc, lẻ loi,
mà lại còn có ph ần tự hào vì có người th ân của m ình ra trận . Còn bây giờ
người ta lo cho đời thường, người ta tín h toán cho bản th â n m ình nhiều
quá. H ình ản h anh bộ đội trong cuộc sống hoà bình, yên ấm, ít được nhớ
tới hơn. N hững người như H à phái sống trong chờ đợi và cá trong cái ỏn
ào say sưa của tuổi trẻ, của tìn h yêu đôi lứa, quanh m ình, trá n h sao được
những ph ú t xao lòng, buồn tủi. Đó là chưa kể nỗi lo con gái chỉ có một
thời. Đợi chờ sẽ chóng mỗi mòn và tà n phai sắc hương để biết đâu rằng
ngày về người m ình yêu không còn chung thuỷ nữa.
Đã hai th án g nay tôi nhìn H à bồn chồn mà thương, mà cảm thấy
bất lực vì không dễ gì giúp Hà bớt đi lo lắng. H ình như lin h tính báo cho
Hà điều gì không ổn th ì phải. Tình yêu đến là kỳ lạ. Hai người đã thương
nhau h ế t lòng thì dù ở xa nhau đến mấy, người ta vẫn có thể cảm dược
những thay đổi của nhau, thậm chí cả những tai ương m à người m ình yêu
gặp phải. Và chính sự không rõ ràn g đó, không chắc chắn đó làm cho Hà
còn khổ tâm hơn. Tôi b iết điều ấy nên đêm nay tôi bảo Hà nghỉ học bài.
Dầu sao cũng gần đến ngày H à lên trường để tập tru n g ôn và th i rồi.
Nghĩ vậy nên tôi kéo Hà ra sân. Á nh trăn g như rửa ta n đi những lo âu,

342
day dứt, n ét m ệt mỏi, căng thẳng trên khuôn m ặt H à và làm nó trở nên
hư ảo hơn. Gió thổi rấ t nhẹ mang cái lạnh mơn m an da thịt.
- Hà quen anh Trọng trong trường hợp nào? - Tôi hỏi nhỏ.
- Ngày xưa em đâu có ngờ rằng mình lại là người yêu của lính. Chị
có tin vào định m ệnh không? Còn em, em cứ nghĩ rằn g trong cuộc sống
có những sự ngẫu n h iên giống như định mệnh vậy. Nó tìn h cờ đưa người
ta đến gặp nhau để rồi sau đó gắn bó lại với nhau như một sự tấ t nhiên,
như là sự sắp xếp trước của sô mệnh con người vậy.
Giọng Hà đến đây tự nhiên sôi nổi hẳn lên:
- Hôm đó là một buổi chiều cuối năm nhợt nhạt. Mải suy nghĩ điều
gì m à em không còn nhớ nữa, em đạp xe mải m iết cho tới lúc lao xe vào
bánh trước một chiếc xe đạp của người khác từ trong hẻm đi ra. Em
không th ể quên được ánh m ắt của người con trai đó khi anh dìu em đứng
dậy. Đôi m ắt đó vừa dịu đi phần bực bội trước vẻ lúng túng biết lỗi của
em. Anh dựng xe của em dậy, loay hoay xem nó có bị méo mó hư hỏng gì
không. Em nhìn vào kẽ tay bị rách của anh. Máu thấm ra do đỏ dưới lớp
da trắ n g xanh. Giọng anh nhẹ nhàng từ tốn: “Có bị làm sao không em?
Đi sai đường rồi đó, lần sau nhớ cẩn thận nghen”. Rồi coi như chẳng có
chuyện gì xảy ra, anh lặng lẽ xách chiếc xe đạp đã bị méo vành của m ình
rẽ vào lối nhỏ, mặc cho em đứng đó lúng túng ngượng ngùng. Suốt mấy
ngày tế t em cứ bị chuyện ấy ám ảnh nên m ất vui.
Hồi đó em còn đang học lớp 12. Mãi đến khi ba em về hưu và gia
đình em chuyển về quê, em mới biết người đó là Trọng. Anh dạy học và
cũng là xóm giềng với gia đình em. Em thi trượt đại học và đang chờ xin
việc ở cơ quan nào đó. Chính ở đây anh Trọng đưa em cùng các bạn
th an h niên ở xã tham gia vào các hoạt động xã hội. Cùng tham gia lao
động, văn nghệ, cùng đến thư viện đọc sách báo, và cùng sinh hoạt ở câu
lạc bộ th an h niên xã do anh Trọng cùng với tập th ể giáo viên tổ chức.
Anh có nhiều tài lẻ: Đàn hay, vẽ giỏi và kể chuyện rấ t có duyên. Không
rõ từ lúc nào niềm kính phục, tin tưởng đã chuyển th à n h những rung
động kỳ lạ khi em nghĩ đến anh ấy. Có cái gì đó không thực rõ ràng đã
len vào tâm hồn em làm em vui, em buồn một cách b ất thường. Nếu một
ngày không được nhìn thấy bóng anh, em bồn chồn đứng ngồi không yên.
Cứ ra vào vẩn vơ như người m ất hồn vậy. Thê nhưng lúc được một mình
với anh, em lại lo sợ. Một nỗi lo sợ mơ hồ, rấ t bản năng. Em hay hát
những bài anh thích và trong ngôn từ của em thường có những câu chữ
mà anh thường dùng. Bạn bè thường “cặp đôi” em với anh Trọng. Em
ngượng, em tỏ vẻ khó chịu mà thâm tâm em lại rấ t thích. Nếu người ta

343
quên “cặp đôi” cho em thì em sẽ tìm cách “cặp đôi” anh Trọng cho những
ai m à em th ấy không xứng với ản h nhất, rồi thú vị xem ản h đỏ m ặt từ
chối. Sổ tay em thôi ghi bài hát. Nó được dùng để ghi những câu triế t lý
vụn vặt về tình yêu, hạnh phúc, khổ đâu do em SƯU tầm , do em nghĩ ra
và do cả anh ấy vô tìn h triế t lý. Em cứ sống mơ mơ, thực thực như vậy
cho đến cái đêm hội diễn của huyện. Anh cởi dân đàn trê n vai bước
xuống sân khấu, người đầm đìa mồ hôi và tìm em. Á nh khen em h á t rấ t
hay; “Do em rung động th ậ t sự, cái đó còn hơn cả kỹ th u ậ t H à ạ ”. Anh
cầm tay em. Còn em, cứ như người đi trong mộng.
Hà ngừng lại. Tôi có cảm giác rằn g m ặt Hà đang đỏ bừng và ngượng
ngùng khi nhớ lại hương vị cái hôn đầu tiên n h ận được trong đời.
T răng mười sáu đã lên được m ột con sào. Bầu trời có vài gợn mây
đen đang bị gió đưa về phía m ặt trăng.
- Rồi sau ảnh nhập ngũ phải không em?
- Không chị ạ - Như sực tỉnh. Hà nói tiếp:
- Từ đó cho đến ngày nhập ngũ là cả m ột câu chuyện dài. Chị ơi, em
nhớ có một nhà văn nào đó đã viết và rấ t chí lý “Tình yêu như một miền
đ ất lạ, nhiều hoa hồng và cũng lắm chông gai: Cả em và an h Trọng đều
không hề biết những gì đang chờ đón bọn em.
Cho đến một hôm ba em nhắc em phải ở nhà. Ông có việc cần nói
với em. Ba em là trung tá đã về hưu. Ba em đã từng vào sinh ra tử ở
vùng dồng bằng sông Cửu Long từ cái ngày mới Tổng khởi nghĩa cho đến
lú c c h iế n tr a n h k ế t th ú c. V(íi ha p m • H ạ n h p h ú c nhất, là n h ữ n g huổi t.ối cả
nhà quây quần quanh bàn nghe ông kể chuyện đánh Pháp, đánh Mỹ,
chuyện vui, chuyện buồn, cả chuyện đau lòng xót xa trong chiến tran h
nữa. Nhưng lần này nhìn khuôn m ặt nghiêm nghị của ba, em chột dạ.
Ông b ắt đầu hỏi han em về những buổi sinh hoạt, về quan hệ bạn bè và
cuối cùng ổng đi vào vấn đề chính:
- Nghe bạn bè của con, nghe dư luận của chòm xóm và qua những
thay đổi của con, ba mẹ rấ t buồn. Ớ tuổi con, khi chưa có nghề nghiệp gì
cụ th ể m à dính tới chuyện yêu đương là sớm. Con th i rớ t dại học đã lâu
mà chẳng thấy con tín h chuyện thi lại. Con muốn đi làm ở m ột cơ quan
trong huyện ta có phải vì động cơ muốn gần th ằn g Trọng không? Bao
nhiêu người tốt đẹp con không thương mà đi thương m ột con người như
vậy. Ba rấ t tự hào về truyền thông của gia đình ta. Con tín h bôi nhọ
th an h danh của ba, của má và chính của con nữa hay sao? Ba không thể
ngồi cùng bàn với ông Chín được, nói chi chuyện sui gia..

344
Thực ra em và anh Trọng chưa lường đến chuyện hai ông trung tá
phục vụ hai chế độ, người về hưu, kẻ bại trậ n sẽ phải ngồi bàn chuyện
tương lai cho những đứa con của mình. Em cũng quên chưa kể cho chị
nghe về ông Chín: Ba của anh Trọng và cả gia đình anh Trọng nữa. Ông
là trung tá ngụy. Ngày mới về, chính em cũng thấy ông Chín là người kỳ
quặc. Ngày hai buổi ổng ngồi với chai rượu trên bộ giường gỗ đã lên nước
bóng loáng, mọt dục thủng lỗ chỗ. Thỉnh thoảng ông mới ra khỏi nhà đi
mua lít rượu. Đôi m ắt ổng chẳng nhìn ai. Ông không trả lời cả khi bà con
chòm xóm chào hỏi ông: Dù là cái gật đầu chiếu lệ. Lũ trẻ con chạy theo
nhìn ổng như người khùng, ổng cũng mặc. Người mới gặp ổng lần đầu
ngỡ ổng bị câm và điếc. Chỉ đến ngày tế t ổng mới nói chuyện vởi những
ai đến nhà chúc tế t vừa dúng m ột câu: “Bà con thông cảm cho tôi. Ngày
thường gặp tôi xin đừng chào hỏi cho dờ m ất công. Giờ tôi đã là người
thừa rồi. Với con cái tôi cũng chẳng có quyền hành, nói chi đến xã hội”.
Ông đã từng đi lính cho N hật, cho Pháp, rồi đến Mỹ. Mấy người anh của
Trọng, người là sĩ quan không quân, người là lính dù thời ngụy. Trọng là
người duy n h ấ t trong n hà không phải đi lính vì buổi ấy ảnh còn nhỏ tuổi.
Sau ngày giải phóng, ông Chín đi học tập cải tạo và về sau cùng so với
mấy người trong nhà. Công việc buôn bán khó khăn nên bà C hín phải
đưa cả nhà về quê làm ăn sinh sông. Anh Trọng nhanh chóng hoà nhập
với cuộc sống mới bằng cả niềm tin và sức trẻ của mình. Anh học giỏi tự
nhiên và mơ ước trở th àn h kỹ sư xây dựng.
Ông Chín từ trạ i cải tạo về. Đ áng lẽ cuộc sống gia đình sẽ yên vui
và đầm ấm hơn, ai ngờ lại ngược lại. Ông chẳng vui vẻ trước việc bà Chín
v à các coil của ỎJig vào Lập đ o à n ¡sản xuấl/, đ em h iế u m ả n h đ ấ l củ a Ong
nội bao nhiêu năm gây dựng vào đ ấ t chung của tập đoàn. Đã th ế vợ con
ông lại hay nói về chính sách, chế độ. Cứ như nhưng kẻ trêu ngươi, ông
càng tỏ ra khó chịu bao nhiêu th ì lũ trẻ càng say sưa với các hoạt động
xã hội bấy nhiêu. Khi ông quyết định dọn nhà về th àn h phô' tiếp tục sống
bằng nghề buôn bán, cả nhà không nghe ông: Điều mà từ trước đến nay
chưa hề xảy ra. Ông b ắt đầu th ấy địa vị của m ình trong gia đình đã bị
m ất. Ngày xưa m ình ông Chín dư sức nuôi cả nhà, nay vốn không quen
cày cuốc, ông trở th àn h kẻ ngồi không ăn bám vợ con. Ngày xưa làm cấp
trê n của bao kẻ, ông không chịu được sự khác ý của cấp dưới thuộc quyền
khi ông ra lệnh, nói chi tới vợ tới con. Vậy mà giờ dây đến vợ con ông
cũng muốn leo lên hơn ông là đằng khác. Khi ông kiếm cớ cằn nhằn vì
không th ể la hét cho nguôi bực bội th ì hình như vợ ông và các con ông lại
n hìn ông với con m ắt thương hại, coi những lời ông nói là triệu chứng của
bệnh lẩm cẩm, khó tá n h khi về già.

345
Anh T rọng th i rớ t đại học, mặc dù anh học rấ t giỏi. Với ông Chín,
đó là điều không th ể xảy ra được nếu như người ta không cố ý đánh trượt
con ông. Ông cay dắng nhận ra rằng: “Chẳng có chỗ đứng cho con ông ở
xã hội này. c ầ n phải đưa nó vào con đường làm ăn buôn bán. C hế độ có
th ể đổi thay, nhưng tiền vàng th ì ở thời nào cũng cần th iế t cả”. Ông đã
nói th ẳn g với cả n h à và chòm xóm như vậy. Ông không ngờ Trọng lại vui
vẻ nh ận giấy nh ập học trường sư phạm của tỉn h . Những tiêu cực, những
khó k h ăn tro n g cuộc sông bắt đầu sin h sôi như m ột n ạn dịch làm ông
Chín h ể hả. Nhưng như có một m a lực nào đó, các con của ông, bà vợ của
ông cứ bị cuốn vào cuộc sống mới, b ất chấp những gian khổ ngày càng
nhiều hơn. Từ đó ông lấy rượu làm vui, lấy im lặng làm sự thách thức với
con cái, với gia đ ình và với cuộc sông. Sau m ột thời gian bàn tá n xôn xao
rồi xóm làng cũng coi là chuyện thường tình. Chỉ với gia đình thì sự im
lặng đó là cả một gánh nặng bức bối. Nó trở th à n h bức tường cản trở mọi
bạn bè khách khứa của anh Trọng và mọi tìn h cảm tươi vui của gia đình.
Chính vì vậy m à học xong, anh Trong không chịu ở lại trường để học tiếp
hàm thục đại học. Anh xin về dạy học ở xã nhà để m ong chóng được dạy
các em và thay đổi lại không khí gia đình.
- Theo con nghĩ th ì vấn đề quan trọng hơn là ở chỗ anh Trọng sống
trong những dằn vặt ấy mà vẫn tốt. Trong sự đấu tra n h giữa hai tư tưởng
ấy mà vẫn trong sáng mới quý chớ. Sao ba lại không ưa những người như
vậy...
Em chưa nói h ết câu thì ba em đã đấm tay xuống bàn làm rung cả
bộ ly. Xưa nay ba em chưa bao giờ tỏ ra bực bội trước m ặt con cái đến
mức như vậy. Ong gáng lấy lại bình tĩn h và n én cho giọng nói có vé ôn
hoà, nhưng câu từ cứ th o át ra ngoài ý muốn:
- Con, cái! Cứ theo tụi nó đàn đúm là hỏng bét. M ất h ết cả quan
điểm giai cấp, m ất h ế t cả giáo dục. Giờ th ì nó phải tốt hơn cha m ày chớ.
Si mê rồi con ạ. Cứ đà này rồi nó rủ rê vượt biên con cũng đi. Đừng nhìn
vào bề ngoài m à lầm tưởng, m à m ất cảnh giác nghe con - Rồi ba em dằn
từng tiếng: Cấm! Từ nay ba cấm con tiếp xúc với th ằn g đó. Nghe rõ
chưa?! M ày phải b iết bảo vệ th an h danh của mày, của cha mày, của cả
nhà mày. Nghe rõ chưa?!
Sự việc đột ngột quá. Em chạy vội vào buồng nằm khóc tức tưởi. Ba
ơi, sao ba cứ quan trọ n g hóa vấn đề lên đến mức như vậy. Ba là người
chiến th ắn g m à sao ba không công nh ận sự tiến bộ th ậ t của con cái họ
và để cho con cái họ chung sống, cùng xây đắp cuộc đời với m ình. Xã hội
ta còn có bao nhiêu người chưa tốt, chưa n h iệt tìn h với công việc, còn

346
kém xa anh Trọng mặc dù họ m ang danh này kia, họ có bao công trạng.
Ngoài đời ba vẫn nói xóa bỏ chuyện cũ và đánh giá con người qua hiệu
quả công tác v.v... Vậy tại sao ba lại cấm. Tiến bộ là con đường chung cho
tấ t cả mọi người chứ đâu phải là đặc quyền đặc lợi riêng m à chỉ có con
em của những người có công với kháng chiến mới được quyền đi trên đó...
Bao câu hỏi, bao điều uất ức mà em không có quyền bày tỏ với ba
em được nên em phải làm cuộc chiến tranh lạnh với gia đình. Em gắng
tiế t kiệm lời nhất. Chỉ “dạ” khi thấy thật cần thiết. Nhưng chị ơi, tuổi
trẻ không th ể làm thê được, em không thể im lặng được khi mà chính em
lại cần có người chia sẻ nỗi đau của mình. Em tìm đến m á. Má em cũng
như bao người mẹ khác: Đều hiểu con mình bằng trá i tim , suy xét mọi
việc bằng chính tìn h cảm của mình. Mà biết em đúng và thâm tâm má
cũng quý “thầy Trọng” nhưng má không đủ lý lẽ để thuyết phục ba. Cho
nên sau vài lần góp ý không thành, lại bị những từ ngữ quan trọng hóa
vấn đề của ba về th an h danh của gia đình, về sự hư hỏng sẽ đến với em,
má đành đứng về phía ba và mong em tìm lấy một giải pháp hoà bình,
giàu yêu thương nhất.
Cuộc sông trong gia đình nặng nề hẳn đi. Nó thường bị khuấy động
lên sau bữa cơm chiều buồn tẻ. Ba vừa xỉa răng vừa nói với em:
- Bộ m ày không vui được hay sao Hà? Vững lên con, đừng mềm yếu
quá, sông phải có lập trường chớ. Ngày xưa bao người còn phải hy sinh
hạnh phúc riêng tư vì cách m ạng mà vẫn vui lòng tự nguyện đó con...
T hế là em bắt đầu đưa bà vào cuộc luận chiến. Em chứng m inh và
ba bác bỏ. Em dựa vao cái lý bác bỏ của cha dể dòn ong tơi chan tương.
Bao giờ cũng thế, vào lúc căng thẳng nhất, th ằn g Đức em út của em cũng
tiếp sức cho chị của nó. Nó khoe thầy Trọng của nó vẽ đẹp, đàn hay, mỗi
giờ giảng bao giờ th ầy cũng kể một câu chuyện lý thú có liên quan đến
bài học. Được m ột th ầy giáo dạy giỏi như thầy của nó làm chủ nhiệm là
niềm tự hào. Thầy Trọng nó còn dám đấu tran h với tội ăn hối lộ của thầy
hiệu trưởng kia m à v.v... và v.v...
- Sao lại ghét một thầy giáo tố t như vầy, mà chính ba bảo con phải
nghe thời th ầy chủ nhiệm? Sao ba lại cho con đi học với người ba không
thích.
Đến lúc đó ba hoàn toàn đuối lý phải dùng quyền làm bei để buộc em
và th ằn g út không được nói nữa. Thế là cả buổi tối m ất vui và những
chuyện không vui ấp đều núp bổng tình thương, tìn h phụ tử mới lạ chứ.

347
Em muốn mặc kệ tấ t cả để được tự do quan hệ với anh Trọng, nhưng
em lại sợ ba và thực lòng em cũng không muôn ba m á em buồn phiền
mãi. Giữa tìn h yêu và tìn h phụ mẫu, em không biết dung hoà th ế nào cho
trọn cả đôi bên. Day dứt mãi rồi em quyết định chọn lối thoát trong sự
dối trá. Bí m ật quan hệ, trao dổi thư từ với anh Trọng và làm ra vẻ phục
tùng cha mẹ. Em cũng không hiểu tại sao lúc đó m ình không thấy xấu hổ
mà còn cảm th ấy thú vị nữa là đằng khác. Cứ y như truyện trin h thám
vậy. Nhưng bằng cách nào đây? Cũng may em còn có đồng m inh của
mình. Chị cứ nghĩ m à xem. Người tốt n h ấ t cũng có người ghét và kẻ tồi
n h ất cũng có người thương, huống chi em. Trong nhà còn lại th ằn g út.
Với nó th ầy T rọng là tà i ba n h ất trên đời. Vì vậy nó vui mừng bao nhiêu
khi người ta bàn tá n về tìn h yêu của chị gái nó với thầy Trọng th ì nó
ngạc nhiên và tức tối bấy nhiêu khi nghe ba m á rì rầm bàn cách cản phá
chị nó đến với thầy.
- Ba má là những người tốt phải không chị - Thấy em gật đầu nó hỏi
tiếp: T hầy Trọng cũng tố t chớ - Không đợi em trả lời, nó hỏi luôn: - Tại
sao những người tố t lại chẳng thích nhau?
Chẳng ai giải th ích m à nó đồng tìn h và thoả m ãn cả. Nó trở th àn h
đứa bé láu lỉnh. Nó xa lánh và cảnh giác với ba má hơn. Trước m ặt ba
má nó tỏ vẻ ngây thơ khờ dại, nhưng khi còn có hai chị em với nhau, nó
công khai ủng hộ em. Đức trở th àn h liên lạc viên, bảo vệ rấ t nhiệt th àn h
cho em trá n h khỏi sự kiểm soát của ba má.
Nhưng chẳng bền lâu. Không ai có th ể qua m ắt được những người
sông chung m ột nhà. Ba em p h át hiện được rằ n g con gái ông vẫn hay
gặp Trọng. Ông nổi giận khi th ấy m ình bị lừa dối. T iếng ông nghẹn lại:
“Cả nhà này chỉ có giá trị như m ột vật thử thách cho tìn h yêu của chúng
mày”. Và ông cũng chợt hiểu rằn g sự nóng nảy thô bạo chỉ làm cho chúng
em gắn bó với nhau thêm .
- Không th ể đô't cháy giai đoạn được. Sau khi bình tâm lại, ba em
sôi nổi bàn bạc với má: Viên đạn bắn ra hoặc là giết chết con chim hoặc
làm nó sợ hãi bay m ất. c ầ n phải công phu, có điểm, có diện, tuần tự từng
bước. Má nó lãn h ph ần đánh vào tình cảm, tôi dùng biện pháp cứng rắn.
Đòn cuối cùng đánh vào danh dự bọn nó và nếu không th àn h (là tụi nó
liều) thì tôi sẽ bô' trí cho má nó cùng nó về bên ngoại để cách ly nó ra
khỏi th ằn g Trọng.
T h ế là cả n h à có ngay một k ế hoạch hoàn hảo nhằm đối phó với em.

348
Hễ Trọng vừa nắm tay em đi dưới hàng dừa mọc ven kinh, hễ chúng
em vừa tách ra khỏi đám đông là đã thấy má em xuất hiện “xin lỗi thầy
Trọng” và gọi “Con Hà về nhà có công chuyện”. Em bị săn đuổi, bị dò
theo từng bước chân. Chưa đủ, ba má còn vận động bạn bè em, bà con
chòm xóm th â n th iế t n h ấ t lời khuyên can em. Lúc đó m á em ngồi khóc
và kể lể công lao nuôi dạy em khi vắng ba, trong cảnh cơ cực và bị bọn tề
ngụy 0 ép. Em xót xa, em ngượng, em cảm thấy m ình bị xúc phạm.
B ất ngờ hơn là hàn h động quyết liệt của ba em. Ông gặp luôn anh
Trọng không phải với tư cách phụ huynh học sinh, m à với tư cách người
cha có con gái bị “anh mê hoặc”, yêu cầu anh hãy để cho “em nó được yên
và để nó còn lo cho nghề nghiệp của nó”. Anh Trọng đành phải chấp
nhận và thông báo cho ông hay là anh đã xin được việc phù hợp với em.
Ba em gạt đi, vì rằng không th ể đế người khác lo cho con m ình “khi tôi
đang sông”...
Chị ơi! Nếu giận ai đó, bực bội điều chi ta có th ể nguyền rủa hoặc
cấu xé cho nguôi đi cơn bực. Nếu ta bất lực thì ta còn trả thù bằng sự
khinh bỉ và nỗi căm hờn chôn chặt trong tim . Đàng này giận cha mẹ chỉ
biết nuốt giận, cắn răng chịu đựng một cách dai dẳng. Giận m à thương.
Giận mà chỉ còn biết chết đi cho hả.
Chị ơi, đã có lúc nào chị phải sống trong tuyệt vọng chưa? Trong
hoàn cảnh đó, đáng lẽ anh Trọng phải động viên em và tìm cách vượt
qua thì anh lại khuyên em thôi đành phải dừng tìn h cảm lại. Tình cảm
chứ có phải là cỗ xe đâu m à dừng nó lại được. Đầu óc con người chứ đâu
phải là oái m á y tính diện tử <ÌP khi cầ n thì đf-m xoá <ỉi ổ nh<í eĩí và thay
vào dó chương trìn h khác. Làm sao anh có th ể đền bù cho em sự day dứt,
khổ nhục và tan n á t đó. “Vì danh dự của anh bị xúc phạm quá nhiều,
than h danh người thầy bị tổn thương quá lớn, anh xin em thôi đành hy
sinh tình cảm thiêng liêng, trong sáng của chúng m ình”. Vậy đó chị ơi!
Đàn ông vẫn chỉ là đàn ông. Họ sẩn sàng hy sinh h ế t vì danh dự, thậm
chí để bảo vệ hư danh mà đâu cần biết đến sự dau khổ của người khác?
Nhưng em chẳng th ể sống mãi trong trạn g th ái tuyệt vọng đó. Anh
Trọng xung phong đi bộ đội và đã trúng tuyển, chỉ còn chờ có ngày lên
đường. Anh muốn trôn trán h dư luận, trôn trá n h tìn h yêu, trốn trá n h gia
đình của anh hay anh muốn sống trong môi trường nhiều thử thách n hất
để chứng tỏ mình? Em không biết vì sao nữa, chỉ biết nghe tin anh đi bộ
đội th ật, ông Chín tự nhiên đổi tín h đổi nết. Ngay giữa ban ngày, ông đã
tá t cho anh một cái nảy lửa. Rồi b ấ t chấp xóm làng nhìn vào, ông chửi
rủa cái tính “điên khùng” của anh Ong không tin xã hội này có chỗ để

349
Trọng tiến bộ. “Đó, ngay cả nhà ông Năm đó cũng đâu có muốn mày, đâu
có chấp nh ận m ày chỉ vì cái lý lịch của m ày thôi. Có nhục nhã cho tao,
cho m ày không Trọng?!”
Ba em chắc là h ả hê lắm , vì theo ông, cuôì cùng th ì thực tế cũng đã
“mở m ắt” cho em. Ba em cho rằng, vậy là với cách phản ứng như vậy của
ông Chín, anh Trọng sẽ không được nhập ngũ nữa. “Quân đội m ình là
quân đội cách m ạng, nó phải được chọn lựa kỹ càng”. Ông nói với em như
vậy. Cho nên ông vô cùng b ất ngờ khi biết ngày Trọng lên đường nhập
ngũ do th ằn g Đức thông báo. Ông “hừ” một tiếng mà không bình luận gì.
Buổi anh T rọng lên đường, em và th ằn g Đức cứ đi tiễn anh Trọng.
Ra khỏi xóm, gặp bà C hín đang lỉnh kỉnh bao thứ. Bà kể lể: Sáng ra anh
T rọng ch! ăn qua loa rồi xáo đống đồ đạc m à bà Chín đã chuẩn bị sẵn ra
đếm , chọn lấy m ấy th ứ cần th iế t rồi đi. Ngang qua cửa, ản h đã th ấ y ông
Chín ngồi đó n h ìn trâ n trân. Anh chào “thưa ba, con đi” nhưng ông
chẳng nói năn g gì cả. Bà C hín rơm rởm nước mắt: “Ông tệ quá, con cái
ra đi mà cả m ột lời chào của nó ông cũng không ừ lại được”.
T hằng Ú t nóng ruột nên bước lên trước. Chỉ còn lại em và bà Chín.
Nơi nhận quân đã đông. Em cầm tay bà Chín tấ t tưởi len qua mọi người
để tìm anh Trọng. Không hiểu sao lúc này em cảm thấy gắn bó với bà
Chín. Bàn tay gầy gộc n h ăn nheo của bà Chín cũng ấm như bàn tay má
em vậy. Gặp anh T rọng đang bị các em học sinh và bạn bè vây quanh, bà
Chín vừa khóc vừa nói:
- Con quên m ấy th ứ ở nhà. Má đem thêm cho ít bánh nữa để tới đơn
v i có c á i m ờ i m á y ô n g c h ỉ h u y và b ạ n b è m ớ i. D i dư ờng đ ừ n g ă n b ậ y đau
bụng nghen con. Cơm, bánh m á để cho trỏng. Cả thuốc nữa. H út ít thôi...
Anh T rọng xấu hổ th ậ t sự. Đúng lúc đó có tiếng reo của th ằn g Đức:
“T hầy Trọng ở đây ba nè!”. Ba em đến thật. Em và anh Trọng bốĩ rối
trước cú “kiểm tra đột xuất” này. Còn bà Chín thì cứ như gà mắc tóc vậy,
không biết có nên chào, nên th an h m inh giùm em điều chi hay thôi. Ba
em đứng đó lặng lẽ không nói một lời. H ình như sự có m ặt của bà Chín,
của m ột người mẹ tiễn đưa con m ình lên đường làm ông thấy khó xử. Rồi
cũng đột ngột như lúc đến, ông bỏ đi.
- Như vậy là mọi cái đã được giải quyết xong!
Tôi thở phào. Nhưng H à vẫn buồn rầu im lặng. Lúc này tôi mới
n h ận th ấy m ình đã quàng tay ôm lấy Hà từ lúc nào. Mây đen cũng đã
dồn lại tự lúc nào không biết. Gió thổi m ạnh hơn và lạnh hơn. Bầu trời
tốì lại. Xa xa lấp lán h hai ngôi sao rấ t sáng nằm ngay trong khoảng nhỏ

350
quang mây. Vậy là gió sắp đuổi mây không cho nó che m ất tră n g hoặc
mưa sẽ rơi xuống. Tôi và Hà cùng vào phòng. Ngồi xuống giường, Hà
buồn rầu kể tiếp:
- Chưa phải vậy đâu chị. Ba em vẫn chữa có thay đổi nào cả. “Vấ
đề vẫn là ông C hín”, ba nói thế. Nhưng cục diện đã thay dổi rồi, ba đành
phải im lặng khi th ấy em và thằng út hay qua lại n h à bà C hín thăm
nom, giúp đỡ. Cũng có th ể gia dinh bộ đội neo người, chẳng nhẽ lại cấm,
cũng có th ể ba nhớ lại rằng ngày xưa má và ông bà ở nhà cũng được bà
con chòm xóm đùm bọc. Chỉ có má là người hiểu em nhất. Má thông cảm
với nỗi bồn chồn của em khi thiếu anh Trọng, thiếu tin tức về anh. M á cứ
rơm rớm nhìn em. H ình như cả quãng đời đằng đẵng mong chờ tin ba
của má ngày xưa đang tái hiện ở em một cách m ãnh liệt hơn. Cũng bằng
con tim của người mẹ mà má đã tác dộng vào ba. Ba nhìn em âu yếm hơn
và trá n h nhắc lại chuyện xưa.
Riêng ông C hín vẫn giữ thái độ im lặng cả khi an h cán bộ chính
sách m ang tấm bằng gia đình vẻ vang đến nhà. Chỉ những lúc có em và
th ằn g út trong nhà, ông mới vui vẻ bắt chuyện với em. Rồi những ngày
thương binh-liệt sĩ, ngày họp m ặt các gia đình quân nhân, tuy để bà
Chín đi nhưng em b iết ông cũng đang bị khuấy dộng.
Cho đến ngày có anh bộ đội về thẩm tra lý lịch của anh Trọng để
k ết nạp anh vào Đảng thì em thấy vui th ật sự. Em tung tăng đi mua các
thứ anh Trọng cần, anh thích để gửi cho anh. Em ngồi bên cửa sổ thêu
khăn. Vừa đưa đường kim em vừa hát nho nhỏ. Anh bộ đội, ghé n h à em
(ÌP “y p m m ặ t ” v à p h ầ n r h í n h là t h ă m t h ủ trơnrng r ũ r ủ a m ì n h Ra và ản h
đã trò chuyện suốt cả chiều đó. Từ thăm hỏi tâm tìn h đến những vấn đề,
những quan điểm v.v... Chẳng rõ anh có sứ mạng nào trong chuyện tình
cảm của chúng em không, nhưng thấy anh cùng ba tra n h luận sôi nổi
lắm. Có lúc tiến g của ba rấ t to: “Vấn đề tôi đang vương vấn là ông Chín
đó. C hẳng lẽ tôi m ang danh một người trung tá cách mạng, nay lại ngồi
cùng bàn, uống chung ly rượu với một trung tá ngụy. Lại phải cười với
nhau. Rồi cả đời gắn với nhau vì tụi nó? Được không?”. Tiếng anh bộ đội:
“Nhưng làm sao thủ trưởng đưa ổng đi trên con đường của m ình mới gọi
là tích cực, mới gọi là tính ưu việt của chế độ ta chứ. Ngày xưa ta cũng
binh vận, cũng giáo dục mà...”.
Thư tiếp anh Trọng báo tin đã được đứng trong đội ngũ của Đảng.
Tuy không ồn ào nhưng cả nhà vui, niềm vui ai cũng cố giấu. Ba khen:
“T hằng nhỏ coi vậy m à khá”. Thấy vậy em chớp thời cơ đọc cho ba nghe
đoạn anh kể về những cuộc hành quân truy quét bọn tà n quân Pol Pot

351
trong mùa khô. Những lần tiếp cận địch, k h á t nước đến quẫn trí. B iết
rằn g chờ thêm vài chục phút nữa cho đúng giờ hợp đồng tác chiến là lại
thêm vài chiến sĩ hy sinh vì k h á t nước m à đồng đội, m à an h em phải
nghiến răn g chịu đựng... Ba em im lặng râ n Tấn nước m ắt. Em biết quãng
đời gian lao đầy dũng cảm và đầy tìn h đồng đội khi xưa lại trà n về trong
ký ức ba.
Nhưng đến khi anh Trọng được phong thiếu uý quyền đại đội trưởng
và ông Chín vui như mở cờ thì em mới th ấy h ế t những gì m à ba lường
trước.
Với ba thì việc ảnh được vào Đảng là quan trọ n g n h ất, còn với ông
Chín thì việc ảnh được “thăng cấp”, lên chức mới là quan trọng, mới đáng
vui, còn chuyện vào Đảng chẳng đáng để ông chú ý. Hai ông già hãy còn
khác nhau về chính kiến, về quan điểm như vậy làm sao ngồi lại “đàm
phán ” với nhau được, nói chi đến chuyện “đàm đạo”. Có điều may m ắn là
cả gia đình em cũng bị cuốn vào nhịp sống m ong chờ của em rồi.
Chị ơi, đã lúc nào chị có người yêu là lín h chưa? Ngày xưa em thờ ơ
với thời cuộc lấm. Còn bây giờ, mọi tin tức, mọi điều liên quan đến bộ
đội, em theo dõi kỹ lắm. Đến lời m ột bài ca về lính, đến m ột câu h á t
“Tiến bước dưới quân kỳ” thôi cũng làm em rạo rực như chính em là bộ
đội vậy. Nghe nó, trá i tim em nghẹn ngào. Nghe nó, nước m ắt em ứa ra.
Chị ơi, có phải phụ nữ chúng m ình thường b ắ t đầu m ột sự nghiệp, hướng
tới một lý tưởng từ tìn h yêu thương m ột con người cụ thể. Có phải vậy
không hở chị?”.
- Cliị kliOng rõ nữa - Tôi trả lời H à - n h ư n g p h ụ n ữ c h ú n g m ìn h vốn
nặng tìn h cảm hơn. T hế còn lá thư mới n h ấ t của an h Trọng viết cho em
từ ngày nào?
- Dạ ngày 18 th án g 4 chị ạ. Đến nay đã trọ n 6 th á n g bảy ngày rồi
đó. Để em lấy thư ảnh cho chị coi nghen.
Hà đứng dậy mở valy lấy cái hộp bằng gỗ thông rấ t đẹp mở ra và
trao cho tôi phong thư nhỏ đã thơm mùi nhựa thông. Tôi cẩn th ậ n lôi tờ
giấy học trò ra khỏi phong bì:
“Tà Bong Meng Chay ngày 18 th án g 4 năm...
Hà em!
“Anh đã nh ận được thư em. Đồng đội an h đọc đi, đọc lại hoài m à cứ
bật cười vì câu era viết. Anh ghi lại nguyên văn nhé. Không cần xem lại
thư em đâu, chính anh cũng thuộc: “Một năm có 365 ngày, Mỗi ngày có

352
24 giờ, mỗi giờ có 60 phút và mỗi phút có 60 giây. Em xa anh đã ba năm
1 th án g hai ngày. Như vậy tín h ra có đến hơn một trăm triệu giây xa và
nhớ, mong và chờ. Còn anh, anh dành cho em được bao nhiêu phút, bao
nhiêu giây trong hơn một trăm triệu giây đó!”. Mấy ảnh bảo em tính còn
chưa chi li. Bởi một ngày sống trong đợi chờ dài bằng một... ngàn thu đó.
Ớ đây ngoài nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, các anh còn có thêm một nỗi
nhớ Tổ quốc nữa. Em tín h hộ xem và nhớ tín h xem nên nhân với hệ số
bao nhiêu. Nhiều câu em viết thành câu cửa m iệng của bọn anh. “Tình
bạn cũng cần có sự thuỷ chung, hucíng chi tình yêu”. Đồng đội của anh bỏ
bớt v ế sau để làm câu “ră n đe” nhau dó. Mđi hay bé H à của anh giỏi lý sự
lắm.
Em! Đơn vị anh mới được rút về thị xã này vừa để bảo vệ nhân dân,
vừa giúp bạn xây dựng một nhà máy nước. Chưa quen địa hình nên đêm
đầu tiên bảo vệ cho dồng bào Campuchia xem phim, bọn tàn quân Pol
Pot đã lén đến tung lựu đạn vào giữa bà con đang xem phim. Cũng may
nơi đấy có một chiến sĩ đơn vị anh đang làm nhiệm vụ. Thời khấc quý
giá b iết bao. Người chiến sĩ không có thời gian để định hướng nên nhặt
nó ném về đâu mà chỉ kịp nằm đè lên nó.
Ai là kẻ thù của bọn Pol Pot? Người dân vô tội, m ảnh đất giàu có
hay bầu trời Campuchia? Tại sao phải lén lút và hèn n h át đến vậy?
Đưa thi th ể của người liệt sĩ đó lên máy bay đem về nước, có cả
đồng bào Cam puchia nữa. Và hôm sau, có chục tên tà n quân ra hàng vì
đã tậ n m ắt chứng kiến hành động quên mình vì đồng bào Campuchia của
ngiíòri an h h ù n g đr> ”

Hà về trường để tập trung ôn thi. Cô nhờ tôi nhận thư giúp: “Nếu có
điều kiện, chị đưa lên cho em nghen”.
Và kỳ lạ thay, tôi cũng bị lây cái thấp thỏm chờ mong của Hà. Cho
đến sáng nay, m ột anh bộ đội mặc quân phục mới còn nếp là, có nước da
sạm đen và đôi m ắt to đến tìm Hà. Bằng linh cảm tối biết đó là Trọng.
Cả cơ quan tôi đón anh như một người thân vừa đi xa về. Là con trai
nhưng đôi má anh hơi bầu bĩnh. Khi cái miệng tròn nhỏ nhỏ của anh nở
nụ cười, lộ ra bộ răn g khấp khểnh, ám khói thuốc lá. Trọng có nhiều nét
hao hao giông Hà, cứ như hai anh em vậy.
- Ông cụ mời tôi đến chơi và trò chuyện suốt đêm chị ạ. Đấy là một
con người sông rấ t th ậ t, rấ t tốt và g i à u nhiệt huyết.
Tôi chỉ vết sẹo dài trê n cánh tay phải và hỏi tiếp:
- Anh Trọng bị thương hồi nào?

353
- Cách đây gần 6 th á n g rồi.
“Lý do chậm th ư đây”. Tôi thầm nghĩ và hỏi tiếp về trường hợp bị
thương của anh. Trọng mỉm cười:
- Cũng như những anh em thương binh khác thôi, bị thương trong
lúc làm nhiệm vụ.
Rồi Trọng lảng sang chuyện khác. Phải công nhận Trọng nói chuyện
rấ t có duyên và luôn luôn nh ìn th ẳn g vào m ắt người trò chuyện với m ình
m ột cách tự nhiên. Á nh m ắt đầy cảm thông và khích lệ, cứ y như thầy
nhìn và nghe học trò của m ình nói vậy. Trọng có một năng khiếu th ậ t
đặc biệt: Luôn đưa người ta ra khỏi những lời khách sáo, xã giao một
cách n h an h chóng, rồi giúp họ nói ra những suy nghĩ, những tâm tư của
m ình m ột cách thoải mái. N ghĩa là khi trò chuyện với Trọng, người ta
cảm th ấy có bầu không khí ấm cúng đáng tin cậy và tự nhiên họ muôn
nói th ậ t, nói m ột cách vui vẻ, thoải mái.
Chiều đó Trọng lên trường tìm Hà và để lại cho tôi những suy nghĩ
vẩn vơ...
Xe vào bến, tôi và H à xuống xe.
- Làng em ở kia kìa.
Tôi đưa m ắt nh ìn theo tay Hà chỉ: Giữa biển lúa vàng lăn tă n ngàn
vạn con sóng đuổi nhau lấp lánh dưới nắng ban mai còn mang màu đục
mờ của sương sớm, nổi lên những đảo dừa xanh ngắt thấp thoáng bao
m ai ngói đỏ tươi. Tiếng H à thầm thì bên tôi:
- Em đã sống ở đó m ấy năm trời mà mỗi lần đứng ở đây nhìn về xã
nhà, em cứ ngỡ đàng sau đường viền xanh bằng cây trá i đó là cả một th ế
giới th ầ n tiên - Xách đồ đạc lên, Hà vừa đi vừa nói tiếp: Mùa xuân sắp
đến rồi, chị nhỉ. Trời năm nay lạnh hơn mọi năm. Chỉ còn hai mươi lăm
ngày nữa là trò n năm năm em gặp anh Trọng lần đầu tiên...
Tôi m ỉm cười trêu Hà:
- Chắc em sống vì kỷ niệm đó cưng?
Xe lam đưa chúng tôi về đến ngõ ngôi nhà lợp bằng lá dừa và vách
cũng bằng lá.
- N hà em đó.
Tôi ngạc n h iên vì trí tưởng tượng của tôi bao ngày qua vẽ lên một
ngôi n h à xây có nhiều phòng và nhiều cửa sổ h ắt ánh nắng m ặt trời đã
được lọc qua tá n lá xanh dày bao quanh nhà. Tôi tưởng sẽ thấy tại phòng

354
khách m ột ông già quắc thước đang ngồi uống tr à bên bộ sa lông màu
m ận chín cùng ai đó.
Nhà đang có khách. Tự nhiên Hà cầm tay tôi bóp m ạnh rồi kéo tôi
đi vòng cửa sau. Em chỉ cho tôi một ông già cao to, nước da xanh xạm,
ốm yếu, khuôn m ặt to đầy nếp nhăn và trông có vẻ quen. Hà thì thầm
vừa đủ cho tôi nghe bằng giọng hồi hộp th ật sự:
- Ổng Chín đó. Còn kia là ba em.
Ba của Hà cũng cao lớn nhưng khuôn m ặt to át ra vẻ từng trải, dãi
dầu sương gió trông rấ t đĩnh đạc m à nhân từ buộc người ta cócảm giác
kính trọng ngay từ lúc mới nhìn thấy. Tiếng ông Chín không được tự
nhiên lắm. Hình như ông đang lấy h ết nghị lực, để đẩy bật cái điều ông
vẫn nấu nung lâu ngày trong lòng th àn h lời nói:
- Tôi biết... anh Năm và tôi cũng... khó thông cảm được với nhau - Rồi
giọng ông m ạnh lên, cứng cỏi: Chẳng ai thay đổi được ai theo ý của m ình
cả. Có điều như tôi nghĩ thì chắc anh cũng thương con thương cháu như
tôi. Hai đứa nó lỡ thương nhau ngoài ý muốn của anh và của tôi. Mà rồi
hai bả, hai gia đình cũng đã lỡ thương tụi nó. Thôi thì chuyện cũ cho qua
đặng nhẹ lòng mà còn lo, còn tính cho tụi nó. P hải không anh?
Im lặng. Qua cửa sổ tôi thấy khuôn m ặt ông Năm có nét căng
thẳng. Rõ ràng là ông cũng thấy khó nói. Phải rấ t lâu ông mới thở dài:
- Thôi đành vậy. Bây giờ không phải là mười năm về trước. Mà sau
này đến lượt tụi nó cũng phải chịu cho con cháu làm khác ý tụi nó. Vậy
th ô i đí/i m à

Trong lúc nói chuyện, tôi nhận thấy ông Năm ba của H à vẫn đứng
chứ không chịu ngồi xuống chiếc ghế đặt bên cạnh ông Chín...

Tản An, những ngày cuối năm 1986

LÊ THANH HUỆ

355
MÙA KHÔ NÀY CÓ MỘT DÒNG suối TRONG

NGUYỄN CHÍ TRUNG

T ình cờ tôi gặp chị Sáu. Chị nói:


- Anh mới ở bên chiến trường biên giới Thái về. Anh cho biết một
cái gì đi.
Tôi đáp:
- Chỉ đôi bữa, tôi đã phải sang lại bên ấy chị ạ. T rận đánh ngày 25
th án g 3 năm nay diệt một sào huyệt của bọn Pol Pot, th ì năm ngoái cũng
vào mùa khô, ta tấn công sào huyệt này không thành.
Chị ngạc nhiên ư? Trong chiến đấu, thuận lợi và khó kh ăn đan vào
nhau, có nhiều trậ n th àn h và cũng có trận không thành, đó là chuyện
thường tình. Nhưng, ở trường hợp nào người lính cũng đòi hỏi m ình phải
thực. Sau khi th àn h và cả sau khi không th àn h người lính phải trả lời Tổ
quốc vì sao? Cái vì sao ấy cho ta sự chiêm ngưỡng chói chang, cái vì sao
ấy có lúc cho ta vị đắng cay ngấm tan vào cơ thể suốt đời. Cũng có cái vì
sao làm ta bừng tỉnh, gieo mầm trong trí tuệ ta một chân lý giản dị mà
lắm khi kẻ đứng ngoài cuộc chặc lưỡi cười cợt ngỡ rằng chẳng cần nhúng
tay cũng có th ể thừa sức nhận biết.
Vậy vì sao trậ n năm ngoái không thành?
Cái th àn h bao giờ cũng do một nguyên nhân tổng hợp. Cái không
th àn h càng lại không bao giờ do một nguyên nhân đơn.
Câu chuyện mà tôi th u ật cho chị dưới đây chỉ là m ột khía cạnh nhỏ.
Ớ khía cạnh nhỏ ấy, chị Sáu ạ, chị nói đúng: K hát làm cho người lả đi.
Còn đối với một đội quân, k hát tựa như một chùm bom tấn ném trúng
vào đội h ình dang tập hợp làm đội hình tan vỡ. Năm ngoái, có chiến sĩ
hy sinh trê n m ình mẩy không tìm thấy một thương tích nhỏ nào.
Ớ đơn vị th ắng trậ n vừa rồi có một anh chiến sĩ tên là Thà. Thà quê
ở một th àn h phố phía Nam. Thà kể:
Từ hồi học tiểu học chưa bao giờ Thà nghĩ rằng có th ể xa th àn h phố
một tuần. T hế m à bây giờ xa th àn h phô" đã hơn hai năm . Xa lạ làm người
ta bỡ ngỡ. Lúc đầu bỡ ngỡ đủ thứ. Sao mùa mưa có th ể dài đến thế. Rừng

356
lênh láng nước. N hìn rừng cứ có cảm giác như hàng trăm thứ cây rừng
kia vẫn mọc trê n m ặt nước như vầy từ lâu lắm. Mùa khô nghe ve kêu đến
sợ, nó rền rĩ như một người điên đang khát. Những cánh rừng không dân
im ắng gợi nhớ quay quắt. Nhớ nhà, nhớ mẹ, nhớ biển. Những ngọn sóng
vỗ bờ ngã vào lòng cát, tan ra, chườm vào m ặt cát rồi lùi lại. T hà có thể
nhìn sóng suốt ngày. Sóng nhảy, sóng đùa, sóng trầm ngâm, sóng giỡn
cợt với bờ, sóng trò chuyện, sóng nói một điều gì đó, âm vang dội đi dội
về, có th ể lắng nghe, có th ể tình tự, có th ể vụt nhảy lên giang hai tay ôm
lấy một tản g m ây bồng bềnh và bay liệng.
- Có bãi biển nào mà sóng không vỗ bờ hả?
Một hôm đang lau súng Thà chợt hỏi.
Chính từ hôm ấy mà Thà th ân với T hiệt - Các ông quân lực nào
khéo ghép, trung đội 3 đã có thằng Thà lại thêm thằng Thiệt.
T h iệt quê ở Hà Nội, học hết lớp mười hai, cùng nhập ngũ m ột năm
với Thà. T rán dô, m ắt to, miệng lúc nào cũng liến thoắng, T hiệt nổi tiếng
là chàng thích nói ngược.
- T rận tấn công năm ngoái, em di đánh cùng với Thiệt, v ẫ n lời Thà
kể: Chúng em hàn h quân mấy ngày liền, đi về hướng rặng Đăng-rếch.
Đăng-rếch, tiếng Campuchia có nghĩa là đòn gánh.
Ba ngày đầu, rừng che khuất không thấy đỉnh núi. Đến ngày cuôi
bắt đầu nh ận ra nó, một vệt xanh mờ thấp nhô ở phía xa. Vào gần hơn,
thấy nó cao dần. Thực ra nó không cao đâu. Đó là một dãy núi dài, chạy
từ B á t d om b o on g qua X ic m R iệp o t đô m ic n c h a y rồi đ ế n P r ố í vi hiu ,
m út ở phía Bắc Là Ba Biên, tức là ba biên giới. Ớ Bát-đom-boong, độ cao
rặng Đăng-rếch quãng chừng ba trăm ngang Xiêm Riệp cao dần, cho đến
Prết-vi-hia có bình độ năm sáu trăm thước.
Từ chân núi dài ra là những cánh rừng thưa, bằng lăng, m ã tiền,
khộp và b iết bao cây lạ mà em không biết tên mọc xen nhau trê n triền
dốc thoải.
- Các thủ trưởng biết cây mã tiền chưa? Lạ dễ sợ. Quả vàng như quả
Sapoche, nhưng da không mướt như da Sapoche. Mùa khô, quả mã tiền
chín ối, di rừng quả m ã tiền thằng T hiệt cứ mơ đến cam. Cuối mùa, quả
chín rụng, rữa ra trong nấng trong sương. Dưới gốc, phơi trần trê n m ặt
đất khô vô sô là h ạ t mã tiền màu trắn g mốc.
Leo theo triền dốc thoải ấy quãng một tiếng đồng hồ thì gặp rừng
già với những tản g đá khổng lồ, nhìn xa như những mái nhà lớn. Dốc rấ t

357
đứng. Các b ạn trin h s á t muôn vượt triền Đăng-rếch phải dùng dây quăng
buộc vào các gốc cây lớn rồi đun nhau leo lên, có khi phải dùng thang
làm sẵn. T hang h àn g m ấy chục bậc ấy, chứ không phải th an g xoàng
xoàng trèo dừa, trèo m ít như ở th àn h phô' đâu.
Những hòn đá lớn, phẳng lì, thằng T hiệt đ ặt chân lên đó như đặt
chân lên m ột cái chảo rang. H ắn hếch mũi, nó uể oải:
- Hừ, đá phẳng quá, hèn nào nước chảy qua trôi tuột đi, không đọn
lại được m ột vũng nhỏ.
Lúc ấy trậ n đánh cũng vừa bước vào giai đoạn quyết liệt nhất: Đột
phá. Ôi, những ai đã từng là lính, đã đánh công sự vững chắc đều có thể
hiểu cái nghĩa âm vang và căng thẳng cực kỳ của từ ấy. Quân địch ở phía
trong, chung quanh là chiến hào, dọc chiến hào là ụ súng, những ụ súng
ấy nôi liền với nhau và ngoằn ngoèo nối liền với bên trong bằng những
đường giao thông hào lộ. Rồi lại đến một chiến hào khác, khu tru n g tâm ,
có h ầm th ằn g chỉ huy k h á vững chắc, có nơi nó họp, có chỗ đ ặt đài vô
tuyến, ụ súng cốĩ 100 ly cải tiến đặt cách đó không xa. Bên ngoài chiến
hào tiền duyên là bãi m ìn dày đặc. Mìn chống tăn g chôn ]ẻ hoặc ghép đôi
vùi sâu trong đất, m ìn dạp vỏ bọc bằng nhựa màu xanh nhạt. Chúng đốt
m ột m ảng rừng kè căn cứ để tiện quan sát và bắn. Cây nhỏ và cỏ cháy
sạch chỉ còn những gốc cây lớn, lửa đốt xém quanh gốc và táp cháy khô
những cành lá thấp. Chúng treo trê n những th â n cây những quả m ìn
định hướng, xen vào tổ kiến và ở các cháng ba để che m ắt. Đám m ìn treo
ấy n h ìn về phía ta, từng quả một, tựa những con m ắt chột của lũ tử th ần
đang lén lút dò la.
Đột phá chính là công việc mở một con đường, m ột con đường an
toàn cho người, cho súng, cho xe pháo băng qua bãi m ìn ấy dưới tầm hoả
lực của dịch đã chuẩn bị sẵn để tiêu diệt quân địch ở chiến hào tiền
duyên, đảm bảo cho lực lượng lớn tiến vào, đánh chiếm các ụ súng, h ế t ụ
súng này đến ụ súng khác, hết khu vực này đến khu vực khác, cho đến sở
chỉ huy, tung vào các hầm cố thủ đó một quả thủ pháo...
Pháo sẽ chi viện. Ban đầu là tiêu diệt các hoả điểm ở tiền duyên,
sau đó diệt hoả điểm bên trong, đánh n á t sở chỉ huy, buộc ban chỉ huy
gục xuống rúc vào hầm không kịp toan tính.
Ây th ế m à trước cái giờ đầy ý nghĩa thắng bại ấy, chúng em lại h ế t
nước.
M ấy ngày h àn h quân liền, có đêm đi năm sáu chục cây số đường
rừng mới cắt, trờ i đốt ở trên , đất dốt ở dưới, hai vai chất nào là súng

358
dạn, xẻng, lương khô, mùng, võn, dây trói tù binh, ve rừng treo m ình ở
các cành cây khô kêu nhức óc. ít gì cũng phải uống hơn bôn lít nước chứ.
Ngồi chơi công viên và đọc sách một ngày còn phải xài hai lít nữa là.
T hế mà chúng em mang chỉ ba lít.
Cái nguyên do mang ít nước như vậy cũng dễ hiểu thôi. Mấy ông đi
chuẩn bị chiến trường cam đoan: Gần căn cứ địch có m ột vũng nước.
Trước khi chiếm lĩn h thì ra bổ sung nước. Bổ sung nước th ậ t đầy đủ, bình
tông nào cũng no kềnh, ta đột phá là vừa. Còn đến khi đánh thắng rồi
thì lo gì nữa. Chỗ nào có địch là có nước, đạp được lên đầu th ằn g địch là
có nước, vì nó cũng phải uống, phải ăn, phải tắm giặt, nghĩa là phải sống
theo những nhu cầu của con người.
Nói cho đúng hơn, chúng em đã hết nước từ khuya. T hiệt rỉ vào tai
em hồi nửa đêm: s ắ p đến vùng nước hứa hẹn rồi, kệ, k h á t quá, và Thiệt
dốc ngược bình tông lên nốc cạn.
Khi cuộc đột phá bắt đầu, tiếng bộc phá nổ rùng đất thì đã nghe
tiếng ông Bảy Hứ quát qua điện thoại:
- N hanh lên! N hanh lên!
Em và T h iệt nằm gióng theo đội hình chờ. Chờ đường mở và chờ
mấy anh chàng trin h s á t di tìm hố nước quay về. P h ía trước em mấy ông
công binh đã sẩn sàng di rà mìn, mấy ông quân y đã đầy đủ các thứ để
xét nghiệm nước. Các trung đội đả tập trung bình tông và cắt người.
Cánh thông tin được phút rản h việc lại réo như réo đò:
- Cho thông tin gới một can vàng bốn lít nhé... (Can vàng là loại can
nhựa màu vàng đựng dầu ăn, hết dầu anh em lấy dùng đựng nước).
T hiệt dốc bình tông, nghểnh cổ để cho mấy giọt nước cuối cùng dính
trong đáy chảy trê n vành môi, liếc em nháy mắt:
- Ái chà, ngọt lịm như thốt nô't.
Gần công sự của em là một trận địa cối. Các bạn ấy cạch liên tằng.
Tiếng nổ đầu nòng nóng cả tai. Có lẽ không phải là nắng m à chính là các
tiếng nổ làm cho cổ em khô khốc.
Một lúc trin h sát quay về:
- Báo cáo thủ trưởng, tìm được vũng nước hôm nọ nhưng khô sạch.
- Hay là các cậu nhầm , hử? Tiểu đoàn trưởng hét.
Phải nói rằn g ông ta hét. Bởi vì cái tin ấy cũng là m ột loạt tin sét
đánh giông như cái tin các đại đội báo cáo lên ông ta: Đại đội 1 hết nước,
359
dại đội 2 h ế t nước, đại dội 3 h ế t nước, tiểu đoàn bộ h ế t nước, đại đội
ĐK82 tăn g cường h ế t nước...
- Dạ không n hầm đâu thủ trưởng ạ.
- Không nhầm sao không có nước hử?
Anh trin h s á t đứng đờ m ặt. Thằng T h iệt hích vào vai em, cười rúc
rích: Cứ làm như không nhầm là có nước ngay.
M ột quả m ìn định hướng treo lở lửng giấu cạnh m ột ụ mối nể, ĐK
của chúng ở phía trong lùm cây xanh sát núi bắn ra, tiếng nổ đanh, khói
quả trước chưa kịp ta n thì quả sau dã nổ tiếp. Điện thoại đứt rồi.
- T rên lệnh th ế nào? Ông Bảy quát an h chàng hai oát. Anh chàng
hai oát chưa kịp trả lời thì đã nghe ông Bảy giục trin h sát.
- Đi tìm lại, các cậu không tìm được vũng nước ấy thì... thì... Một quả
ĐK nổ s á t ngay ông. Thì... tiên sư th ằn g ĐK!
T hằng T h iệt lại rụ t cổ, mở th ậ t to đôi m ắt, b ịt m iệng cười.
Còn em, em hồi hộp lắng nghe tấ t cả. Em không ngờ cuộc đột phá
hôm ấ t vất vả quá vậy. Đêm có lẽ sắn đến, bởi thời gian tấ n công đã khá
dài. M ệt và đói. Lương khô gạo sấy có cả đây. Nhưng chẳng dám ăn. Ăn
lương khô m à không có nước thì không sao ăn được, và ăn xong,không có
nước, chỉ làm tội cho th ầ n k h á t trừng phạt.
T hằng T hiệt, không biết mới nghĩ ra điều gì vui vui lai rụ t cổ rúc
rích m ột mình.
Em hỏi:
- Gì vậy bồ?
- Chị tớ học h ế t Tổng hợp Văn. Bố tớ giữ th ư viện đến cụ là hai đời.
Anh tớ đi công nh ân , khoe đã đọc h ết 200 quyển sách khoa học. Còn tớ,
sách th ầ n thoại tớ ngôn hết. Có đủ loại thần: T hần tìn h yêu, Thần sắc
đẹp, T hần thời gian, T hần chết... th ế m à tớ chưa nghe nói đến Thần k h át
cậu ạ... Chuyến này tớ rán g bắt ba thằng tù binh, được thưởng phép một
th án g về H à Nội, th ế nào tớ cũng tìm thầy Khảo dạy T hần thoại Hy Lạp
hỏi th ầy xem có T hần K hát không?
Em nguýt nó nhưng rồi lại đấu dịu: “M ình tin rằn g có”.
- T h ế cơ sở dâu m à cậu tin như vậy?
- À... đời sống con người có bao nhiêu ước vọng và khổ đâu thì có bấy
nhiêu vị thần.

360
- T hế th ì cậu bảo T hần K hát người ta biểu tượng th ế nào?
Em phì cười. Chiến tranh, cả trong những giờ căng th ẳn g như th ế
này vẫn có lúc rản h rỗi.
- À... có th ể T hần K hát là một ông già cao lớn, ngực nở, bụng thóp,
xung quanh lưng quàng đầy những ống lồ ô đựng nước, cổ dài hơn thân
hình, lưỡi th è ra như một m ái hiên, tay cầm ngọn giáo hàng mấy trăm
sải phóng lên m ặt trời đỏ ối, khối lửa đỏ rực ấy bị đâm toạc, từ đó tuồi ra
một dòng nước lớn, tro n g lênh láng.
- Không phải. Tớ cho rằng Thần K hát phải biểu tượng bằng một
người mẹ, đôi m ắt hiền và sâu, mũi cao, cằm bằng, môi mím lại, chan
chứa suy tư. Đôi vú mẹ m ênh mông và nhọn. Qua Tây N inh cậu có chú ý
núi Bà Đen không. Tớ ngang qua đó hai lần. Tớ cứ nghĩ rằn g hòn núi
m ang tên m ột người mẹ đó tựa hệt như núm vú của trá i đất. Bà mẹ ấy đi,
tóc dài chấm gót, xoã theo những gợn gió mùa khô, hoa khộp rơi, bay
xoay tròn theo gió rồi đậu trên tóc bà. Đất nứt nẻ và khô căn ở dưới
chân. Cây rừng chết xơ xác. Hoa không nở. Không thấy màu xanh, chỉ có
màu nâu chết, màu bạc xám, màu tím đen, màu đỏ bầm như máu khô sấy
nắng. Từ đôi vú bà chảy mãi một dòng sữa ngọt. Dòng sữa ấy nhỏ vào gốc
cây, cây tươi lại, nhỏ vào cành, lá non mọc, nhỏ vào ngọn, những chiếc
nụ nở th àn h hoa. Dòng sữa ấy nhỏ lên đất, cỏ vụt lớn xanh rì. Nhỏ vào
lưng con ve, ve rừng đang kêu thảm thiết, ngỡ rằn g tiếng rền rĩ triền
miên ấy có th ể làm cho m át lạnh, ve thôi kêu và hoá th à n h m ột chim én.
Dòng sữa ấy nhỏ vào m ặt trời, m ặt trời bỗng hoá m ặt trăng...
- T hế T hán K hat la m ột vị cứu tinh à? Cu cho moi vị th ầ n dều la
m ột kẻ cứu tin h th ế th ì m ình đoán Thần K hát chính là chị Sáu Hiền của
m ình, muối chanh giỏi h ết xảy, trắng bóc, cứ hôm nào đi học về, k hát
nước, chị thưởng m ột cốc có đá là mát lịm cả người...
Đêm đã xucíng, nhanh thế. Trăng hiện qua m ột lớp sương mỏng, bạc
và dịu. Tưởng án h tră n g và đêm có th ể làm nguôi cơn khát, nhưng
không. Cổ càng khô quánh. Thằng Thiệt h ết muốn nói. Nó nằm ngửa thở
phì phò.
ĐK địch vẫn bắn. Nó chọc vào mấy khẩu 82 đang tập tru n g khu hoả
điểm dưới sườn.
T iếng ông Bảy Hử:
- Tản ra, củng cô thêm công sự. Trụ lại, chờ đưa thêm hoả lực và bộc
phá lên đánh tiếp.

361
T hằng T h iệt rú t xẻng. Hắn xúc hai lát rồi bỏ xuống. Hừ, có còn là
cánh tay nữa đâu. Mềm quá bã đậu! Nó nói m ột m ình rồi quay sang em:
- Kệ, ta th ử di tìm nước đi. Mấy ông trin h s á t gà mờ sợ ĐK không
dám mò vào đúng chỗ cũ, chứ cái quái gì lại không có nước.
Nó quay sang phải nói với An, tiểu đội trưởng:
- Tôi với th ằn g T hà di tìm nước nhé. Bộc phá m à khuân lên đây
cũng là khuya.
Em cũng k h á t như nó, e rằng, còn k h á t hơn cả nó. Nhưng em nhát.
Em lắc đầu.
- Ông Bảy Hử - chúng tôi thường gọi tiểu đoàn trưởng chúng tôi như
vậy, vì điều gì ông không đồng ý là ông hử, ông m à đã bực m ình là ông
hử luôn chục tiếng, anh lín h nào cũng xanh m ặt - ổng m à tóm được thì
chết...
- T h ế ở đây chịu k h á t à? Không chừng lại lập công dấy chứ. Tớ mà
tìm được nước thì ông Bảy không hử lấy một hử, còn vồ tớ, xốc tớ lên,
hôn đùn đụt, thưởng phép, gởi giấy về gia đình nữa.
T hiệt quay sang An:
- Hai đứa tôi đi nhé. Bình tông ông đâu, đưa thêm đây... này, di...
T h ế là chúng em lén di.
Em và T h iệt đi sâu măi về phía cụm rừng xanh, m en theo một con
suối.
Mùa khô nắng đã đun cạn h ết nước suối. Hoạ hoằn giữa lòng suối
còn sót lại m ột vũng nước. Một vũng nước đọng. Lá cây ven suối rơi
xuống tụ dưới đáy suối m ùa khô n á t thối. Mùi nước hôi nồng nặc, rửa tay,
sau một buổi vẫn còn ngửi thấy mùi thối. Nhưng những anh em trin h sát,
những chiến sĩ đi phục, những người lính vận tải đường xa, và bây giờ là
chúng em trong m ùa khô khắc nghiệt vẫn hằng ước ao được may m ắn bắt
gặp và uống th ứ nước đọng ấy.
Mỗi lần gặp nhau như vậy, người ta reo: Nước: Người tháo bình
tông, người chuẩn bị k h ăn mặt. H ằng mấy tiểu đội sẵn sàng cởi tuột áo
quần lấy mũ cứng làm gàu ập đến chen nau múc giội tới tấp lên đầu lên
cổ, vừa kỳ cọ vừa n h ăn mũi: Thơm quá, thơm quá!
- Cứ được m ột vũng nước bằng bàn tay là đạt yêu cầu rồi! T hiệt vừa
rạp người đi vừa nói.
Lâu lâu, sợ em nóng lòng rủ về, T hiệt lại khích lệ:
362
- Không chừng ở dưới này một tẹo có nước. Đây này... chỗ này mới
cạn sạch cách đây đôi ngày, đất hình như còn ẩm.
Cứ thế, cái k h át và một ao ước mơ hồ dẩy chúng em. Một con mễn
chạy qua, m ột quả mìn nổ phía trước. Tiếng mìn đạp nổ cũng đanh như
tiếng ĐK.
- ĐK hay m ìn hở Thà? T hiệt hỏi.
- Có lẽ mìn. Em nói.
Em th ấy rờn rợn. Dưới m ặt đất kia, bây giờ đã trở nên m át dịu
đang ẩn náu đâu đây những kẻ thù bí mật. Em nói nhỏ với Thiệt, tựa
như sợ bọn thù bí m ật kia có thể nghe:
- Thôi ta về, không kiếm được đâu. Gặp mìn nguy hiểm.
T h iệt gàn, đầy tự tin:
- T hằng địch gài mìn ở đây là bẫy chúng m ình đi tìm nước đấy. Vậy
thì chắc là có nước. Có mìn thì ta gỡ ta đi chớ, sợ gì!
Một con thú lại chạy hoảng qua. Một tiếng m ìn nữa nổ. Em khẩn
khoảng:
- Thôi, T hiệt à. Chịu k h át còn hơn. Mà hình như đã khuya lắm.
Em nghĩ đến đơn vị. Em nghĩ đến trậ n đánh tiếp cả tiểu đoàn đang
hì hục sửa soạn. Tiểu đội trưởng An chắc đang hớt hải chờ hai đứa.
Không biết anh ta sẽ báo cáo th ế nào với trung đội.
F,m đ ịn h hưrtc m ộ t hxiớ c N h ư n g t i/ n g h ĩ: K h ô n g r-hiĩn g Họr lò n g su ối
m ình đi qua cũng có mìn, em bảo Thiệt:
- M ình m ệt quá, dù có đi hay trở về, cũng ngồi xuống đây nghỉ đã.
Theo thói quen của người lính ở chiến trường khắc nghiệt này, em
lấy tay dò mìn. Năm ngón tay với vào lòng suối. Lòng suôi lạn cạn cuộn
pha cát. Có lẽ những lớp cát bồi che giấu dưới bụng bó những quả mìn
đạp. Em nghĩ vậy và ráng đào. Ôi, một quả mìn th ật.
- Có m ìn, T hiệt ơi.
- T hế ư?
- ừ... Nó đáp gọn và cúi xuôVig rà.
T hiệt bỗng vớ được một quả mìn. Nó đưa quả m ìn dứ dứ về phía em
rồi ngồi bịch xuôĩig.

3Ó3
Đêm qua lúc nào không biết. Tiếng súng thưa dần rồi im hẳn. Cả
tiếng ĐK của địch trê n sườn Đăng-rếch cũng vậy. Hay là họ đã rút?
Sau này trong bao nhiêu nguyên nhân vì sao ta cần ngừng tấ n công,
có m ột nguyên nh ân em được biết: Súng đang còn, đạn đang còn, và
người cũng đang còn, nhưng không còn nước, cho nên chỉ còn những con
người m ệt lả, không lê vững đôi chân mỏi nhừ, và bởi th ế cũng không đủ
sức chạy lên chạy xuống đánh tiếp những quả bộc phá sào dài ngoằn và
nặng trịch. Lui quân đi chưa toàn thắng là điều mà người ra trận không
m ột ai muôn. Nhưng người chỉ huy của chúng em hôm ấy đã cho lui quân,
và cho lui quân hôm ấy là đúng.
T h ế là hai đứa em ở lại một m ình dưới chân Đăng-rếch, giữa lòng
suối m à T hiệt đặt hết ao ước với một bãi mìn dày lẩn khuất quanh quẩn
vây lấy chân.
Chúng em lết từng bước vừa đi vừa rà mìn, vừa đi vừa nghe ngóng
dịch. Có tiếng súng con của chúng ở vị trí chỉ huy của ông Bảy Hử ngày
hôm qua. Chúng em quay tìm đường khác. Ba ngày như thế. Khi không
th ể cất nổi chân, chúng em ngồi lại đầu óc trống không, ngực nóng như
cả m ặt trời lửa đặt vào đó, bụng thở thoi thóp, cổ đắng, cố ứa ra m ột tí
nước bọt, nhưng làm gì có được của quý ấy.
Lúc đơn vị tìm th ấy chúng em, tiểu đội trưởng An nói lại, th â n thể
chúng em mềm và nóng hâm hấp như hai trá i chuối luộc. Hai ngày sau
vẫn không nói ra tiếng. Lưỡi tụ t đi đâu mất.
Tôi nói với chị Sáu:
- Chị ạ, trậ n đánh vào sào huyệt bọn Pol Pot vừa rồi tôi có được đến
đơn vị Thà. Bảy Hử đã làm trung đoàn phó. Anh dẫn tôi đi chơi thăm
anh em. Thà làm tiểu đội trưởng thay An đi học. Còn Thiệt, trung đội
phó quyền trung đội trưởng, da ngăm hơn trước, anh dã tự nh ận như thế,
m iệng liến thoắng, đôi m ắt vẫn mở to như ngờ ngệch.
Bảy Hử chỉ tay về phía Thiệt:
- Bô' mẹ đẻ anh ta cái m iệng ra trước, nhưng lại không biết khóc. Bà
đỡ bợp cho một cái, anh ta th é t đủ bảy ngày bảy đêm , nên bây giờ cái
miệng rộng đến m ang tai.
T hiệt đang tập hợp trung đội để kiểm tra khôi lượng m ang vác từng
chiến sĩ.
- Ông Yên... Súng 7 cân này, xẻng 1 cân rưỡi này, đạn 4 cân này, gạo
sấy lương khô 3 cân này, sao lại đến 35 cân? À, tham ô nước.

364
Anh chiến sĩ này đa lấy các bao đựng đạn B40 cũ cho nước vào dán
lại, bỏ vào ruột nghé để mang thêm ngoài tiêu chuẩn 6 lít một người.
-Ông Văn... 36 cân. Quái nhỉ! Lại tham ô nước... Cái gì đây? Đào đâu
ra m ấy cái ống nhựa này? Phổ biến rồi mà không chịu quán triệt. Đoàn
sẽ tổ chức hai trạm bơm. Sẽ bơm từ hậu cứ rồi tải theo đường quân sự
làm gấp. 100 cây số có nghĩa lý gì, đưa nước đến vị trí tập kết 1. Ớ đó
hậu cần đã lót sẵn những túi ni lông lớn dùng làm bể tạm thời, nước sẽ
chứa vào đấy. Vận tải và một phần ba quân số của tiểu đoàn, nghĩa là tấ t
cả đại đội dự bị sẽ áp nước theo chúng. Ngoài mỗi người 6 lít tự mang,
chúng ta có một triệu lít nữa. Thế mà không tin. “Thủ trưởng ơi - Thiệt
quay lại nói với Bảy Hử, lễ xuất quân chiều nay đề nghị trên cho dàn
toàn bộ đội h ình vận tải nước với toàn bộ dụng cụ, khí tài, cái “Binh
chủng đặc nhiệm của mùa khô” này quan trọng lắm ”...
Sau khi kiểm tr a xong, có lệnh cho trung đội giải tán, tôi giữ Thiệt
và Thà ở lại nói chuyện chơi. Tôi đùa:
- Nè, qua trậ n k h á t năm ngoái cuối cùng T hiệt nhận ra ông Thần
K hát được biểu tượng th ế nào?
Thà cướp lời:
- N hất định phải là một ông thần tụ t lưỡi, toàn th ân mềm và nóng
như chuối hấp.
T hiệt hứ một tiếng, mím đôi môi hóm:
- Chớ khiêu khích... Trải qua cái trậ n chết k h át đó mà cũng nghĩ ra
dược lám cai hay.
- T hế à, nói cho tôi nghe với nào.
- Qua trậ n k h á t ấy, em cứ nghĩ các nhà khoa học th ậ t tài. Này nhé...
Họ nói rằng giữa sự sống và cái chết có một trạn g thái trung gian, nghĩa
là có một quãng thời gian trong đó sự sống không còn nữa nhưng cái chết
cũng chưa đến... Giỏi th ật. Em cứ nghiên cứu m ãi hôm đó không biết em
đã ở trong trạn g th ái trung gian ấy chưa? Có th ể rồi, vì em cảm thấy tim
không đập nữa, ngực không thở nữa, chân tay không cựa quậy nữa.
Nhưng cũng có th ể là chưa. Vì em cứ còn đang mơ.
- Lại xạo rồi. T hà cười.
- Không, th ậ t đấy.
T ô i hỏi:

- T hế lúc ấy mơ thấy gì nào?

3Ó5
- Mơ th ấy lửa đang táp cháy cả người em bỗng vụt tắt. Quanh e
nhân dân tro n g phum quây quần làm lễ chúc phước. Các cô gái té nước
ướt đẫm m ình mẩy. Em hét: Coi chừng ướt liều phóng B40, coi chừng ướt
gạo sấy, gạo sấy giao tôi m ang m à nở phình ra th ì cả đại đội tập trung
lại ăn không h ế t đấy. C hẳng ai thèm để ý đến lời em. Họ vẫn té nước ào
ào. Nước chảy m át rượi qua đầu, qua m ắt, qua hai gò m á, qua mũi, em hơi
sặc một chút, rồi qua môi, qua ngực, qua bụng, chảy trê n những bắp th ịt
cánh tay và đôi chân trầ n m ệt mỏi. Em chẳng uống m ột giọt nào.
L át sau, m ột bà mẹ Campuchia đến, bà mẹ cao lớn lạ thường. Trên
vai bà m ột chiếc đòn gánh khổng lồ. Bà quẩy m ột đôi thúng lớn, to gấp
mấy chục lần cái khoanh thuyền của quân khu ấy. Tay phải của bà dặt
lên mấu đòn gánh, ở đấy em thấy hiện lên ngôi đền Prết-hi-via. Tay trái
bà đong đưa, như mẹ em quẩy nước giếng ở nhà. Bà đi học theo triền
Đăng-rếch. Qua mỗi đoạn bà lại nâng đôi thúng, trú t nước xuống. Nước
chảy trê n những tả n g đá m ái nhà, mài nh ẵn nó, xoáy vào đất, làm thành
những con suối. Bà nói: Từ nay suối ơi, m ày giữ nước trong lòng mày mãi
chớ để nước cạn.
Em nghe bà nói, em mừng quá em reo: Mẹ ơi! Mẹ ơi! Con là coong-
tóp (tiếng Cam puchia nghĩa là bộ đội) V iệt N am sang đây đánh Pol Pot
giúp dân, đi đánh trậ n h ế t nước, k h át quá, mẹ cho con m ột hớp!
Bà mẹ Cam puchia lấy tay h ấ t tấm k h ăn Cà-ma trê n đầu. Bà nói:
Con! Thương con quá! Con chịu khổ, chịu cực, chịu khát... bà mẹ vục một
ông nước nữa vào th ú n g đưa cho em. Em uống m ột hơi, ôi, nước thốt nốt,
ngọt ơi là ngọt.
Em định gào: Mẹ ơi, cho con một ống nữa th ì có tiếng đập vào
người. Mở m ắt ra, th ấy ông An tiểu đội trưởng và anh em trung đội đi
tìm.
Em nhắm nghiền m ắt. Em gào, em lại mơ tiếp: Biển Hồ ơi! Biển Hồ
hiện ra, dềnh dàng, lắc lư như một m ảng trời m àu cánh sen đưa võng
trước m ắt em. Em vội vàng nói: Biển Hồ ơi, người ta bảo ước gì Biển Hồ
là đôi m ắt em để an h bơi, còn tôi, tôi ước gì đôi m ắt em là Biển Hồ để tôi
uống...
Đám chiến sĩ vẫn còn vây quanh chúng tôi cười ầm ầm muôn tốc cả
mái tranh.
T hế đấy, sáng hôm sau họ lên đường. Các tiểu đoàn lực lượng vũ
tran g cách m ạng Cam puchia và các đơn vị quân tìn h nguyện sát bên
nhau. Tổ quốc, hai Đ ất nước và Đời mãi m ãi ghi lại hình dáng người lính

366
khi lên đường. T rên vai chất đủ thứ: Súng đạn, áo quần, lương khô, gạo
sấy, võng tăng, dây trói tù binh, xếng và nước. Bên lưng m ột bình tông
nước, trước ngực một bình tông nước và sau lưng m ột can nước nữa. Đầu
hơi lao về trước, trá n nhô tới, chân bước chậm và chắc. Tôi nghe rõ tiếng
T hiệt đùa:
- Các cậu ơi, người ta nói mùa khô ở đất nước bạn chỉ có ba nơi có
nước: Biển Hồ, cây th ố t nốt và vú sữa người mẹ. Bỗng mùa khô năm nay
có một dòng suối vĩ đại, dòng suối trong vắt ấy chảy trê n vai người lính,
ngược lên triền Đăng-rếch, nhận chìm tấ t cả bọn Pol Pot.
T h iệt lấy điệu đưa tay vừa vuốt ve chiếc bình tông 5 lít lủng lẳng
trước ngực vừa nói: Tổ quốc ở bên cạnh thê này sao lại không chiến
thắng.
Tôi nghe rõ tiếng cười khúc khích của Thà và từng chuỗi cười hồn
nhiên, sảng khoái của lớp lớp lính trẻ.
T hắng trậ n xong, tôi gắng leo lên cho đến đĩnh núi. Đứng trên cao
ấy nhìn về nam , lớp lớp cánh rừng dày và dợn xanh trông tựa biển. Nếu
là biển, thì sông biển ở đây cũng không vỗ vào bờ. Dưới những cánh rừng
biển b ạt ngàn im lặng và xao động, một th ế hệ chiến sĩ đang nở sinh.
Những chiến công, những phẩm giá đang được sinh nở ở đây cùng với lúa
gạo, tôm cá, dầu và điện, gỗ và than của mẹ cha, anh chị bên nước ngày
ngày v ắt mồ hôi và trí tuệ tạo ra khẳn định sự trường tồn của tình nghĩa
hai đ ất nước ruột rà anh em.
Tôi nói với chị Sáu:
- Chị nói rấ t phải: Người lính bao giờ cũng muốn tâm sự với hậu
phương dù đương lúc rối bận nhất.
Chị Sáu cười:
- Còn tôi, tôi nhớ câu nói đùa của T hiệt quá.
Tôi chia tay chị, thầm cảm ơn ngôn ngũ cha ông đã cho ta m ột từ
sâu thẳm : NƯỚC!

26-4-1984

N G U Y ỄN CHÍ TRUNG

367
NĂM THÁ N G QUA ĐI

NGUYỄN THỊ NHƯ TRANG


(Kính tặng các đồng chí Quân tình nguyện)

Các chiến sĩ d5 bộ binh gọi chị là “nhà văn trẻ ”. Cái danh hiệu
trịn h trọng đó làm Nguyên Bình hơi ngượng. Với m ột người, chị thường
tự nhận là m ột người làm báo.

Họ đang ở nơi đóng quân dã ngoại của tiểu đoàn ở gần biên giới
Campuchia, tro n g m ột vườn cây ăn trá i khá rộng. Dưới những gốc xoài
lâu năm , những cánh võng màu cỏ úa chăng m ắc đây đó h ệ t những cánh
bướm khổng lồ đang đậu im trên m ặt đất th ấp thoáng những vệt nắng
vàng xộm. T rái cây đang m ùa chín rộ. Mùi xoài thơm ngan ngát. Những
con bọ rầy cứ nh ảy ta n h tách trê n những cành lá m ùa lục già. Và, m ột
khoảng trờ i biên giới xanh ngắt in trong lòng chiếc mũ s ắ t còn chừng
nửa b át nước trước cửa lán tiểu đoàn bộ... C ảnh v ật yên tĩn h và vui m ắt
nữa nếu không có những khẩu súng cất cao nòng nghiêm khắc nhìn ra
mé vườn, sẵn sàng nhả đạn bất cứ lúc nào.

Nguyên B ình đưa m ắt nhìn quanh, nghĩ: “T h ế là m ình đang ở chiến


trường rồi. Hà Nội da xa xõi dến thế! Giơ nay an h Vãn lãm gỉ nhi? Đọc
sách, viết, hay đang b ận m ột cuộc họp? Còn ở đây, sau những khe đất
trũng ngoài kia, có th ể bọn tàn quân Pol Pot đang ẩn náu”.

Tiểu đoàn trưởng T hắng đang đi đến chỗ Nguyên B ình ngồi, chị vẫn
không hay. T hắng dừng lại cách Nguyên Bình m ấy bước. Dáng a n h cao,
gầy, da xạm nắng. Anh mỉm cười, giọng m iền Nam rấ t ấm:

- Không nghỉ chút nào cho đỡ mệt, nhà văn?

Nguyên Bình ngước nhìn nụ cười vui vẻ của Thắng. Từ lúc đến đây,
chị xao xuyến như vừa tìm ra được điều gì mới mẻ. Thắng nh ận th ấy
trong đôi m ắt to thông m inh của Nguyên B ình phản chiếu màu xanh lá
cây, long lanh.

Chị đáp giản dị:

368
- Tôi không ngủ được, còn anh?

- Chúng tôi quen rồi. Những người lính ở chiến trường không có giấc
ngủ trưa. Chị đi đường xa thế, chắc vất vả? Chị sẽ ở m ặt trậ n Tây Nam
bao lâu?

- Ba tháng, anh ạ. Nhưng chúng tôi mới tới đây được một tuần. Có
vất vả gì đâu, anh? Chúng tôi đi máy bay từ H à Nội - chị cười khẽ.
Chẳng bù ngày trước tôi đi Trường Sơn, cũng đeo nặng, đi bộ, lúc nào
ngẩng m ặt lên chỉ thấy cây lá bịt bùng vây quanh.

Thắng g ật đầu:

- Tôi đã được đọc những truyện ngắn chị viết về th an h niên xung
phong, bộ đội công binh và các chiến dịch lái xe. Bộ đội thích những
truyện ngắn của chị.

Nguyên Bình th ành thật:

- Tôi viết còn kém lắm.

Thắng mỉm cười:

- Những người lính chúng tôi không biết nói khéo dâu. Chị Nguyên
Bình này, lát nữa chị nói chuyện với bộ đội nhé.

Bình chợt nghĩ: Mình không quen nói chuyện trước đông người. Vả
lại, m ình có chuẩn bị gì đâu. Gay go đây - chị đỏ m ặt - các đồng chí đi
cùng LOi sẽ làm việc dó. Còn tôi... anh thông cảm.

Tiểu đoàn trưởng cố nài:

- Hay là... chị h át một bài vậy? Chị không biết chứ, đơn vị ở xa, anh
em chúng tôi chưa bao giờ được đón một đoàn văn nghệ như th ế này đâu.

Trong lúc hai người trò chuyện, bộ đội từ các ngả đường mòn đang
kéo đến vườn xoài. Họ đi trong một đội hình giàn thưa, im lặng, mũi
súng nhấp nhô. Những hộp đạn và xẻng cuốc va vào nhau lách cách. Đó
là những đại đội đóng ở gần tiểu đoàn bộ. Họ đến để nghe đoàn cán bộ
văn nghệ từ Thủ đô Hà Nội đến nói chuyện.

Mọi người ngồi ngay trên bãi cỏ, dưới những gốc xoài. Bộ đội để
súng ngang đùi. Họ nói chuyện khe khẽ và những dôi m ắt sáng lên náo
nức khi nghe giới thiệu tên những người viết văn, làm thơ quen biết, bây
giờ mới gặp mặt. Nguyên Bình cảm thấy nhiều ánh m ắt tò mò nhìn

369
mình, chị mỉm cười ngượng nghịu. Khi những người đi cùng đoàn với chị
lên đọc những bài thơ họ vừa viết từ m ặt trậ n , bỗng có tiếng súng vẳng
lại nghe rấ t rõ. Các chiến sĩ ném về phía đó những cái nhìn bực dọc như
th ể bị quấy rầy không đúng lúc. Nhưng họ vẫn im lặng nghe, rồi vui vẻ,
vỗ tay nồng nhiệt. Đến lượt Nguyên Bình, chị bối rối đưa m ắt nhìn
những khuôn m ặt phần nhiều còn rấ t trẻ, nhưng xanh xao vì sô't rét.

Không khí buổi nói chuyện không giống chút nào như ở Hà Nội
quen thuộc của Bình. Ớ đó, những tà áo dài màu lộng lẫy trước ánh đèn
chói loà, những diễn viên trau chuốt phấn son, một cử tọa chọn lọc lơ
đễnh nghe và th ản nhiên vỗ tay chỉ vì phép lịch sự. Cũng chẳng giông
chút nào như ở toà soạn báo hàng ngày Bình đến làm việc, người ta
thường nói những câu khó hiểu để tỏ sự uyên bác, nhưng thực ra, có khi
chỉ là những lời nói được nhắc lại, vô thưởng vô phạt. Còn ở đây là
những khẩu súng, những khuôn m ặt võ vàng nhưng đầy n h iệt tình, linh
hoạt là tiếng súng vẳng lại, và m ột đ ất nước Campuchia trong nạn diệt
chửng với những tội ác khủng khiếp mà các chiến sĩ đang ngồi trước m ặt
chị đã cứu cả một dân tộc đau thương. Nhưng có thể bất ngờ sẽ có một ai
trong sô' người ngồi đây vắng m ặt khi trậ n đánh sau cùng kết thúc -
Nguyên Bình chợt nghĩ và xúc động:

- Thưa các đồng chí thân mến! Giọng chị run run trong sự im lặng
bao quanh. Có th ể nghe rõ tiếng rụng êm của một trái xoài chín rơi trê n
nệm cỏ - Ban nãy anh Thắng nói, tôi có thể ngâm thơ, hát, hay nói bất
cứ chuyện gì với các anh. Tôi rấ t tiếc không th ể làm vui lòng các bạn. Tôi
không biết hát, cũng không biết ngâm thơ. Còn chuyện thì tôi nói rấ t
vụng (có tiếng bộ đội cười, nói lao xao). Tôi là người làm báo và đôi khi,
có viết văn. Đấy là một công việc chậm chạp và vô duyên. Tôi cảm thấy
rấ t rõ điều này khi có dịp di công tác cùng với các nhà thơ và nhạc sĩ.
T hật thế, người ta có th ể ngâm thơ hoặc hát, những chưa ai đọc truyện
ngắn, bút ký, hay một vài chương tiểu thuyết trước đông người. Trừ ở
nước ngoài, bên Anh, nghe nói nhà văn Dicken từng đọc những truyện
ngắn rấ t tuyệt của mình, và được công chúng hoan nghênh nhiệt liệt.
Vậy thì, tôi tự hỏi, tôi sẽ nói gì với các đồng chí, lúc này...

Nguyên Bình ngừng lời, m ắt chớp nhanh:

- Có lẽ, tôi muôn nói với các đồng chí rằng, vì nghề nghiệp làm báo,
tôi đã đi nhiều nơi, đến nhiều m ặt trận , ở phía Bắc, trong rừng Trường
Sơn, ở biên giới Việt Lào... Nhưng đây là lần đầu tiên tôi đến m ặt trậ n

370
Tây Nam. Ớ đây tôi đã được thấy nhiều việc, nghe nhiều chuyện, tôi đã
gặp gỡ nhiều người Campuchia từ bên kia biên giới trốn thoát cái chết
sang đây với chúng ta. Câu đầu tiên họ đều nói với tôi rằng: “Bộ đội Việt
Nam đã cứu sống họ”. Và tôi còn biết thêm rằng, những người đã cứu
tho át một dân tộc khỏi nạn diệt chủng cũng chính là những người yêu
thích văn nghệ nhất. Tôi đã nhìn thấy những cuốn sách dược chuyền tay
nhau dọc đường hàn h quân, bìa rách nát. Những câu thơ chép tay trong
những cuốn sổ của thương binh... Sự cổ vũ ấy còn quý hơn mọi lời khen
tặn g đối với những người làm văn nghệ. Lần này đến đây, chúng tôi lại
được các anh chăm sóc rấ t nhiều, chúng tôi được tạo điều kiện và phương
tiện thuận lợi để làm việc, trong lúc chính các anh đang còn gánh chịu
nhiều khó khăn. Sự hy sinh đó nằm ngay trong những nhu cầu sống
hàng ngày, trong từng hớp nước uống không đã khát, trong từng ngọn
rau xanh của mỗi bữa ăn thiếu hụt, trong tìn h cảm quê hương, và trong
xương máu đồng đội các anh đã đổ xuống m ảnh đất ta đang đứng...

Chị nhìn lướt những khuôn m ặt đang chăm chú nghe chị nói, nghĩ
nhanh: Sao anh không đi cùng em chuyến này, anh Văn? Đến đây, gặp
những con người cao thượng này, ắt những vần thơ của anh khỏe khoắn
hơn, và biết đâu, hai người sẽ xoá bớt khoảng cách...

Chị thoáng nghĩ đến hình ảnh Văn đang trầm ngâm đi trê n hè phô”
H à Nội vởi những câu thơ về tình yêu và nỗi đau khổ của anh. Chị bỗng
thấy thương anh. Nhưng rồi hình ảnh Văn nhoà đi rấ t nhanh trong ánh
mắt. các ch iến s ĩ đ a n g n h ìn nhi, hao d u n g và nán nức. Ohj nói tiếp :

- T ất cả những điều đó đã để lại trong tôi một ấn tượng th ậ t khó


quên. Tôi cũng biết tôi làm việc còn nhiều kém cỏi. Nhưng, tôi sẽ viết về
các anh. Vâng, tôi sẽ viết, với tấ t cả khả năng của mình...

Những tràn g vô tay ào lên, sôi nổi. Nguyên Bình quay đi nén xúc
động. Rồi quay lại, chị mỉm cười:

- Vâng, tôi xin hứa.. Còn bây giờ, cho phép tôi thay m ặt anh em
trong đoàn, xin gửi đến các đồng chí, những bạn đọc th ân mến của chúng
tôi, lời chào th ân th iết nhất.

Buổi nói chuyện kết thúc, Nguyên Bình quay trở về nơi mắc võng,
vẫn chưa hết xúc động. Liên lạc viên tiểu đoàn, một chiến sĩ trẻ m ăng lễ
mễ mang tới cho chị một thùng lương khô đựng đầy nước. Tâm - tên cậu

371
liên lạc - vừa n g hiêng thùng đổ nước vào chiếc mũ sắt, vừa b ắt chuyện
với chị n hà văn.

- Em lấy nước cho chị rửa m ặt đây. Sao lúc nãy chị nói ít thế?

Nguyên B ình giữ lấy chiếc mũ sắt. Chị kêu lên:

- Nhiều quá! Đừng phí nước thế, Tâm? Chú vừa bảo gì nhỉ?

Có những tiến g chuông điện thoại reo vang tro n g nắng trưa. Rồi
giọng m iền Nam rấ t ấm của Thắng nghe rõ mồn một: “Sông H àn phải
không? Vâng, vâng... Đồng Nai đây!”. Tâm nghiêng đầu lắng nghe rồi trả
lời Nguyên Bình rấ t hồn nhiên:

- Ớ vườn xoài m à chị lo thiếu nước? Chúng em chỉ lo n h ấ t mỗi lần


thay chốt trong rừng Puleng thôi. Ớ đó thì chẳng kiếm đâu ra nước. Chỉ
sẵn cây vỏ quạch. N hiều lúc bọn em phải chặt vỏ quạch nhai cho dỡ khát.
Nhưng đến m ùa mưa th ì rấ t gay go. Nước sẽ ngập đến tậ n bờ công sự ấy.
Cái xứ sở này th ậ t lạ! Ây th ế mà thủ trưởng T hắng còn làm thơ về tổ
chốt đấy. Chị có b iết làm thơ không, chị Bình?

- Không. Sao?

- C hẳng sao cả. Nhưng anh em đều muốn nghe chị nói chuyện lâu
lâu một tý. Chị có b iết không? Tiểu đoàn chúng em có nhiều nhà thơ lắm
tài ra phết đấy.

Nguyên Bình cũng lây cái vui của chú liên lạc:
- T h ế m à chị không được biết tài thủ trưởng của chú đấy. Nào, bây
giờ Tâm đọc thơ của an h T hắng cho chị nghe với.

Tâm bưng m iệng cười:

- Ây chết, “đem chuông đi đấm nước ngoài”. Ai lại thế... Nhưng... đọc
thì đọc, em chỉ dặn trước là cấm cười, cấm m ách lại.

- Đồng ý.

Tâm lên giọng ngâm nga:

Chiếc balô bằng vải bạt thô

Tôi gói bọc rất nhiều kỷ niệm

372
Vai tôi m ang cả vòm trời quê hương

Và tiếng cười em ngân vang trong đêm đầy sao...

T h ế nào, nghe được không, chị?

- Tiếp tục.

Tâm cười giòn:

- Em quên m ất rồi. Nhưng đại loại như thế. Toàn viết về lính tráng
cả. Cây n h à lá vườn thôi, lủng củng một chút, nhưng chúng em đọc, khoái
đáo để.

Nguyên B ình trầm ngâm:

- Anh T hắng quê ở đâu, Tâm nhỉ?

- Biên Hoà chị ạ.

- Thảo hèn.

- Chị bảo sao?

- C hẳng là chị chợt nghe m ật danh điện thoại của đơn vị m ang tên
một con sông.

- Đồng Nai phải không? Thủ trưởng chúng em báo để gọi thê cho đỡ
n h ớ quê h ư ơ n g. C ò n o ô n g H à n là đ iệ n th o a i củ a bộ p h ậ n tr in h e á t. IIọ
đang ở trong rừng Puleng. Lúc anh Xuân đang đọc thơ, chị có nghe tiếng
súng nổ không?

- Có. Nghe rấ t rõ.

- C ánh trin h s á t đang bám địch đấy. Thủ tưởng chúng em cũng sắp
tới đó bây giờ.

- Anh Thắng sẽ đi Puleng ư? Họ ở cách đây bao xa?

- N ăm cây số. Thủ trưởng chúng em...

Nguyên Bình nghĩ nhanh: Cậu liên lạc này mê thủ trưởng của mình
quá thể. Hay thật! Xem nào, từ đây xuống Puleng đi nhanh m ất một
tiếng. Vị chi năm giờ chiều đến nơi. Sẽ nghỉ lại đó m ột đêm. Sớm mai đi
đoàn 7, kịp chán. Kể cũng hơi mạo hiểm, nhưng không sao. M ình sẽ được

373
gặp anh em trin h s á t ở chốt với nhưng con suối cạn, những cây vỏ quạch
và một cánh rừng biên giới. Đi thôi! M iễn là anh ấy không phản đôi.

T hắng m ang th êm khẩu tiểu liên. A nh khoác chéo khẩu súng trước
ngực. Nguyên B ình mở to m ắt nhìn anh: “Vai tôi m ang cả vòm trời... Và
tiếng cười em ngân vang trong đêm đầy sao...”. Còn bây giờ, vai anh ấy
khoác súng và m ột bên là cái bình tông nước, chỉ có thế. Một vẻ đẹp giản
dị và rất... lính. Nhưng những câu thơ của an h ấy đầy rung động và rấ t
thực. T ất n h iên rấ t khác với thơ tình của Văn. Anh Văn vẫn mơ ước có
một gian buồng ở H à Nội. Nhỏ thôi. Nhưng là của riêng hai người.

- Anh sẽ ngồi ở đây. Còn bàn làm việc của em th ì ưu tiên kê gần cửa
sổ. Anh b iết tín h em khi viết thích có m ột không gian thoáng đãng.
Đúng th ế không nào? Nhưng trong lúc làm việc th ì không được quấy rầy
anh, nghe chưa?

Bình cười buồn:

- Nhưng em chưa biết m ình sẽ viết gì nếu chúng ta cứ m ãi quẩn


quanh ở H à Nội như bây giờ. Vả lại, căn buồng ấy ở đâu nhỉ?

Văn cáu kỉnh:

- Rồi sẽ có, m iễn là em đồng ý. Anh sẽ quẳng cho h ắn m ột ngàn


đồng, cùng lắm là ngàn rưỡi hoa hồng. Anh sẽ bán đi cái xe đạp.

Nguyên B ình n hìn anh, th ấy thương. Người ta cho Văn là người có


tà i v à đ ứ n g đ ắ n . N h ư n g lâ u n a y a n h í t đi x a H à N ộ i. A n h đau k h ổ v ì
Nguyên Bình. Chị b iết rõ th ế nhưng vẫn cứ e ngại: Anh ấy chỉ nghĩ đến
m ình, h ạn h phúc là th ế ư? Khi còn trẻ, người ra quan niệm hạn h phúc
như m ột cái gì sặc sỡ và khó nắm bắt, như m ột sắc cầu vồng, như m ặt
biển với những cồn sóng chạy nghiêng và con tàu trắ n g lộng lẫy. Nhưng
Nguyên B ình đã 27, chị muôn cùng anh chia đều nỗi v ất vả của những
chuyến đi, muốn cùng anh hoà cái riêng của mỗi người vào ngàn m ảnh
đời chung để tạo n ên những tran g viết. Đó cũng là niềm vui, là hạnh
phúc. Vất vả đấy, nhưng có niềm say mê thực sự nào lại được vun đắp
một cách dễ dàng? Chị cãi yếu ớt:

- Nhưng th á n g tám em còn phải đi m ột đợt. Cơ quan đã phân công...

Văn đứng lên, nóng nảy quẳng điếu thuốc vừa châm vào góc nhà:

374
- Anh biết em là người có nghị lực. Điều đó quý th ậ t, nhưng cũng
cần phải thực t ế nữa chứ, em? Ai cũng vậy thôi, cần phải có một gia
dinh, một tổ ấm. Riêng em sao cứ băn khoăn?

Đó là lần va chạm gần đây giữa hai người trước chuyến đi này. Sau
đó, B ình nhận được m ột bức thư. Nhận ra n é t chữ quen thuộc, chị xé
phong bì. Một m ảnh giấy nhỏ rơi xuống chân chị: “Anh là con đường, em
là dòng sông. Em khó hiểu như một con nước chảy...” Bình cắn môi: Trời
ơi, chẳng lẽ m ình bí ẩn đến th ế kia ư?

... Thắng nói:

- Chị nên nghỉ lại tiểu đoàn bộ. Đi, có th ể nguy hiểm.

Nguyên B ình phật ý:

- Anh coi tôi như khách lạ.

- Tôi lo trác h nhiệm bảo vệ...

- Tính m ạng một người chỉ huy như anh đáng giá hơn tôi nhiều.

T hắng b ật cười:

- Chị là một cô gái bướng bỉnh - anh nghĩ thêm - bướng bỉnh nhưng
chân th àn h và dũng cảm. Nhưng anh không nói ra những ý nghĩ trên.
Còn Nguyên B ình thì nghĩ khác: an h Văn bảo m ình khó hiểu. Bây giờ lại
còn thêm tín h bướng bỉnh nữa kia đấy. Nhưng dù th ế nào m ình vẫn là
inlnli.

Hai người theo con đường mòn ra khỏi vườn xoài. Ớ những trà n
ruộng thấp xung quanh, bộ đội đang cuốc đ ấ t tăn g gia. C hiến trường gì
m à kỳ lạ - Nguyên Bình nghĩ - Trong khu rừng kia, không xa, bọn địch
đang lẩn trốn, những trậ n đánh chưa kết thúc. Còn ở đây, chỉ cách một
cánh đồng, những luống rau đang được vun bón. T hế rồi người ta chuyển
về những người bị thương những tử sĩ...

Nhìn thấy hai người đi ngang qua, các chiến sĩ ngừng quốc đất, nói
bâng quơ những lời đùa bỡn: “on sa lanh boòng tê?” (nghĩa là: Yêu anh
không em ơi). Một người khác đáp lời, giọng vút cao lên: “Sa lanh n á”
(nghĩa là: Yêu lắm). T hắng quay lại giơ nắm tay dấm dứ về phía người
vừa nói. Họ cười phá lên. Tiếng cười quấn quít trong khoảng không ngập
nắng. Nguyên Bình luông cuông bỗng vấp chân, đau, nhưng chị cố kìm
m ột tiếng rên, hỏi lảng sang chuyện khác:

375
- Anh học được nhiều tiếng Cam puchia không? Dạy tôi vài tiếng
thông thường nhé.

- Tiếng Khơ Me khó phát âm , chị ạ. Anh em chúng tôi cũng chịu
khó tự học, nhưng mới hiểu được ít tiếng đơn âm.

- Ăn cơm là gì?

- Hô'p bai.

- Uống nước?

- Hốp tức.

- Còn cảm ơn?

- Ôc cun.

Nguyên Bình lẩm bẩm:

- Ôc cun. Ôc cun là cảm ơn. Thê còn câu vừa rồi?

- Câu nào nhỉ?

- Đấy, mấy tiếng gì chiến sĩ của an h vừa nói đó.

T hắng lúng túng:

- À, an h em họ đùa, có gì đâu. Chị đừng dể tâm .

- Kìa anh Thắng!

Đồng chí tiểu đoàn trưởng đỏ bừng m ặt như cậu học trò bị bắt quả
tang đang viết thư tình. Kỳ quá! Có nên nói cho cô ta biết? Liệu cô ấy có
phật ý không? Nhưng an h không biết nói dối. A nh tr ả lời nhanh như
người mong th o át một gánh nặng:

- Chẳng là, đôi khi chúng tôi phải vào các phum làm công tác dân
vận. Bọn họ ưa nói tếu m ột chút: “Yêu anh không, em ơi!”.

- Ồ. Nguyên Bình cười phá lên. Tiếng cười hồn nhiên của chị khiến
Thắng cũng phải bật cười theo. Rồi chị chợt im b ặ t “On sa lanh boòng
tê?”. Nhưng tìn h yêu đâu có đến dễ dàng thế! Bình và an h Văn biết nhau
đã hơn ba năm , nhưng nhiều lúc chị vẫn tự hỏi: M ình thực sự yêu Văn
không? Có không? Hay đấy chỉ là m ột tìn h thương? Là sự quý trọng?

376
Nhiều lúc bận công việc, chị ngại những cuộc hẹn gặp. Nhưng sau đó chị
lại vội đạp xe đến. Nhìn những sợi tóc sớm bạc, nhìn khuôn m ặt đẹp một
vẻ cao quý ấy. B ình bỗng thương anh đến nghẹn ngào: Em chỉ là một
m ảnh của cuộc đời anh, chứ không thể là tấ t cả như anh mong muốn.
Chúng ta còn nhiều việc phải làm.

Để trá n h những ý nghĩ không vui, Bình quay sang Thắng.

- Tôi biết anh T hắng có làm thơ đấy nhé.

Thắng b ật cười. Một lần nữa anh lại đỏ mặt.

- Lại cậu Tâm mách chị hẳn thôi.

- Chú ấy rấ t m ến anh. Mà làm thơ thì có gì cần giấu giếm?

Thắng nói nghiêm trang:

- Không, đấy là một công việc tốt đẹp, rấ t tốt đẹp là khác. Ngày còn
đi học, tôi cũng có làm một vài bài thơ, về một cô bạn cùng học, về nhà
trường. Được khen, đã lầm tưởng mình cũng có năng khiếu. Bây giờ, nghĩ
lại thấy m ình th ậ t ngây thơ đã có những ước vọng ngông cuồng.

Thắng ngừng lời. Nguyên Bình nhìn sang anh. Đôi m ắt Thắng long
lanh cái n hìn trẻ trung và dào dạt tình cảm bên trong. Chị biết là anh
đang nói những điều rấ t th ật, nhưng anh không biết cách diễn dạt thê
nào cho khỏi văn vẻ, nên cảm thấy ngượng ngùng.
T h á n g n ó i liếp :

- Chị không b iết đâu. Trong cuộc đời người lính cũng đủ cả niềm vui,
nỗi buồn. Chỉ có điều, tấ t cả những cái đó đều m ãnh liệt hơn, sâu sắc hơn
là cuộc sông bình thường. Tôi luôn luôn tự cảm thấy bất lực trước những
cảm xúc chứa chất trong lòng. Nói th ế không biết chị có hiểu rõ ý tôi?

Nguyên B ình trầm ngâm.

- Có lẽ tôi hiểu.

- Vả lại, từ ngày nhập ngũ, việc trước tiên đôi với tôi là lo làm tròn
nhiệm vụ người lính. Trước m ắt chúng tôi luôn luôn là cái sống, cái chết,
là quân thù và những viên đạn bắn thẳng, vì thế, xin lỗi chị, tôi nghĩ
rằng việc cầm khẩu súng nhằm cho trúng cái đích cần ngắm bắn còn bức
th iế t hơn việc lo diễn đạt cảm xúc, những ý nghĩ, và tìm tòi những vần
điệu đang nằm đâu đó trong tiềm thức - anh nói chậm rãi. Tuy nhiên,

377
trong cuộc đời người lính cũng có lắm điều đáng để chúng ta nhớ, suy
nghĩ, và viết về nó. Đây là m ột công việc nghiêm chỉnh, nhiều khó khăn,
rấ t khó khăn. Tôi biết thế. Nhưng đạt được mục đích ấy là m ột điều tuyệt
diệu.

Rồi anh cười:

- Nhưng đấy là công việc của sau này, khi chiến tra n h đã kết thúc.

- Xin anh cứ nói.

- Chắc chị còn nhớ, cách đây không lâu, bọn Pol Pot đã đưa những
đơn vị lớn vượt biên giới, đánh giết rấ t dã m an những làng xóm của ta.
T ất nhiên chúng ta đã trả lời bọn giặc m ột cách đích đáng. Đồng thời, để
cứu một dân tộc anh em, chúng ta đã tiến quân đến Phnôm Pênh. Nói
vậy thì th ậ t đơn giản, chúng ta đã tiến quân đến Phnôm Pênh. Và đúng
thế, chị nhỉ, nhưng trong cuộc tiến quân cứu bạn th ắn g lợi ấy, chúng ta
đã chịu những m ất m át. Điều đó cũng là tấ t nhiên. Nói chuyện với nhau
bằng súng đạn đâu có phải là một cuộc họp m ặt vui vẻ. R iêng tôi, trong
trậ n chiến đấu này, tôi suý m ất một th ằn g bạn th ân nhất.

T hắng ngừng lời như để cố nhớ lại những hình ảnh đã qua, m ột lát,
anh nói tiếp:

- Bấy giờ, các đơn vị quân đội ta đã ém sẵn bên này sông. Bên kia
sông là sự phòng thủ ngoan cố của địch và con đường quốc lộ dẫn về thủ
đô Campuchia. Đó là vùng đất lạ. Bởi vậy cần có đội trin h sát di nắm
chắc ý đồ và phòng thủ của chúng trước lúc quân ta vượt sông. Sáu người
dược cử làm nhiệm vụ ấy, trong đó có tôi và th ằn g Hoà. Nó cùng đi bộ đội
với tôi. Chúng tôi ở cách thị xã Biên Hoà một cây cầu bắc qua con sông
Đồng Nai. Con sông khá rộng. Nhưng nó chẳng ăn nhằm gì với sức vóc
tra i trẻ của hai đứa. Có những buổi chiều đi học về, chúng tôi không
muốn qua cầu, bèn rủ nhau bơi. Quần áo buộc túm vào tấm vải nhựa, th ế
là “hấp”, nhảy ngay xuống nước. Nửa tiếng sau leo lên bờ, núp vào bụi cỏ
ke mặc lại quần áo. Vừa chui đầu vào tấm áo n ịt thoảng mùi mồ hôi quen
thuộc, đã thấy bụng réo sôi lên vì đói, th ế là ba chân bcín cẳng chạy m ột
m ạch về nhà... Rồi những ngày nghỉ học, hai đứa bơi thuyền ra sông câu
tôm. Ớ quãng đó vào những buổi sáng và khi m ặt trời sắp lặn là buông
câu, tôm nhiều vô kể. Tôm câu lên, th ả ngay trong lòng thuyền săm sắp
nước. Những chú tôm cứ cuống quít búng càng tan h tách, nom th ậ t sướng
m ắt. Khi đã được kha khá, chúng tôi tạm nghỉ đốt bếp th an lên nướng

378
tôm ăn ngay trên thuyền, ăn xong, tôi nằm trê n sạp thuyền nhìn trời và
sông nước h át nghêu ngao, hoặc hoa tay đọc to lên những câu thơ vừa
chợt nghĩ ra. Còn thằng Hoà, bao giờ nó cũng chỉ im lặng mỉm cười nhìn
tôi đang trong nỗi vui ngông cuồng của tuổi trẻ, dịu dàng như một cô gái
đang yêu. Và chúng tôi yêu nhau thật sự. Một tình yêu chân thành nhưng
vụng về của những đứa con trai mới lớn. Nhưng tính nết thì khác nhau
quá đỗi. Tôi là đứa hay nói. Còn thằng Hoà thì dút dát. Vì dút dát nên nó
khổ. Nó yêu đứa em gái tôi, nhưng cu cậu không dám nói. Yêu mà không
dám nói. Cái thằng đến kỳ quặc! Nhưng chơi th ân với nó, tôi biết, nó là
th ằn g con trai chân th ành và cao thượng.

Cũng vì hai đứa quen sông nước từ bé, nên chúng tôi được chọn vào
phân đôi trin h sát. Lựa một đêm tôi trời, chúng tôi tín h vượt sông bằng
những m ảng bèo lục bình kết lại. Trong lúc đợi giờ xuất phát, chúng tôi
ngồi gần nhau. Mỗi đứa trên người chỉ độc chiếc quần đùi, phần da th ịt
để hở đã được trá t kín bằng nhựa cây trộn bùn. Chẳng biết bạn tôi nghĩ
gì lúc ấy. Nó nằm ngửa trên cồn đất nhìn vòm trời loáng thoáng những
ngôi sao thưa thớt, mỉm cười yên lặng. Một lát, th ằn g Hoà ngồi lên
choàng tay ôm ngang lưng tôi: “Thắng à, m ình vừa nghĩ đến Thuỷ.
Không hiểu sao mình không quên được cô ấy”. Tôi mở trong m ắt nhìn nó!
0 cái thằng! Thì ra nó vừa nghĩ đến đứa em gái bướng bỉnh của tôi trước
lúc làm nhiệm vụ. Điềm gở chăng? Tôi thoáng nghĩ thế, thương bạn, lại
bực mình về chuyện đứa em gái vô tình. Đẹp m à vô tình. Nó làm thằng
Hoà th ậ t khổ. Tôi khẽ gắt với nó:
- Đáng lý mày phải gặp nói chuyện với nó từ lâu rồi. Ngại gì. Đã là
th ằn g lính, sông chết còn chẳng sợ, sợ gì m ột đứa con gái.

Nó cười hiền lành:

- Mình có sợ đâu.

- Sao mày không nói?

- Lần này mình sẽ nói.

Chúng tôi lặng lẽ trườn xuống nước. T rên bè dặt súng, lựu dạn và
thủ pháo. Cứ hai người một bè, chúng tôi dìu vũ khí vượt sông. Đã xa bờ
m ột quãng. Bên kia sông bọn địch vẫn im lặng. Những đám mây tiếp tục
đùn lên nhanh chóng. Những vì sao thưa thớ t như có ngọn chổi th ầ n quét
sạch cả. Sắp mưa đến nơi! Chúng tôi động viên nhau gắng vượt sang bờ
trước lúc trời sắp mưa xuống. Chợt, những ánh chớp loè lên, nhìn rõ từng
379
gợn sóng lăn tăn trê n m ặt sông m ênh mông. Tôi lo th ắ t ruột. Trong
chiến đấu thường có những yếu tố b ất ngờ. Nhưng yếu tố bất ngờ này thì
xui xẻo quá. Quả nhiên bọn địch đã nhìn th ấy những m ảng bèo trôi khả
nghi trê n m ặt nước. Chúng bắt đầu xả trung liên vào đám lục bình. Tôi
nhắc th ằn g Hoà: “Cẩn th ận đấy nhé!”. Hai đứa cô' bơi nhanh hơn. Đằng
nào cũng đã lộ. Lên bờ m ình dễ xử trí hơn. Sáu th ằn g lính từng trả i với
vũ khí tố t trong tay và bên kia sông, các cỡ súng quân ta sẵn sàng chi
viện. Chúng tôi bất chấp bọn dịch một khi đã đạp chân lên đất. Còn
chừng 1/3 khoảng cách... Bọn địch bờ bên kia càng bắn dữ. Đạn rơi lõm
bõm xung quanh chúng tôi. Đang bơi, tôi thấy th ằn g Hoà chợt lặng đi
một giây. Tôi vội hỏi. Tiếng trả lời của nó chìm đi trong những tiếng nổ.
L át sau th ằng bạn tôi như bị sặc nước. Nó bơi yếu hẳn đi. “Mày sao
thế?”. Không nghe tiếng trả lời. Hoảng quá, tôi lặn một hơi đến bên nó.
Vừa ngoi đầu lên, tôi đã nhìn thấy m ột bên vai th ằn g Hoà trúng đạn. v ế t
thương khá lớn. Tôi vòng tay ôm ngang eo nó: “Có sao không, Hoà?”. Nó
ngẩng đầu nhìn tôi, lắc đầu. Cái th ằ n g gan góc thế! Tôi chỉ còn biết vừa
dìu nó, vừa dìu vũ khí, cố bơi. Khoảng cách giữa chúng tôi và những
m ảng bè khác xa dần. Chúng nó vẫn bắn. Thằng bạn tôi đã đuối sức. Nó
tựa hẳn vào tôi, m ắt nhắm nghiền. Chúng tôi nhích lên chậm chạp. Bơi
thêm m ột quãng ngắn nữa, rồi tôi cảm thấy bàn tay nó bấu trê n vai tôi
lỏng dần. Tôi vội quát: “Bám chặt lấy!”. Rồi lại dịu giọng: “Hoà ơi, sắp tới
nơi rồi! Lên bờ tao băng cho”. Nó mở m ắt nhìn tôi trong ánh chớp, nói
lào phào: “Thắng ơi, cố đưa vũ khí vào bờ. Cho m ình gửi lời thăm Thuỷ.
Mình m ình sẽ chl làm vướng cậu”. Bàn tay nó bóp nhẹ trên vai tôi một
lần nữa, rồi lặng lẽ buông ra. Một loạt đạn bắn rấ t căng. Những làn sóng
chồm lên. Tôi quay lại, không thấy th ằn g Hoà nữa. Tôi cuống quít quờ
tìm nó. Tôi bỏ bè m ảng lặn xuống, bơi vòng ra xa. Rồi tôi réo gọi tên nó,
bất chấp bọn địch có th ể nghe thấy.

Kể đến đây. Thắng im bặt. Hai người rời vườn xoài đã khá xa. Họ
sắp qua một con mương cạn. Bên kia bờ mương, những cây thô’t nốt đen
đủi đứng im dưới nắng chiều oi bức. Đến bên con mương, Thắng co chân
nhảy gọn qua bờ bên kia, rồi từ đó, anh nghiêng người giơ tay cho
Nguyên Bình:

- Chị đưa tay đây. Thế. Cứ m ạnh dạn bước qua đi. Đừng ngại. Nào!

Nguyên Bình đặt gọn bàn tay bé nhỏ của m ình trong lòng bàn tay
cứng rắng của anh. Rồi lấy đà, chị nhảy theo anh. Nhưng bờ đất trơn làm

380
Nguyên Bình lảo đảo. Thắng vội đưa tay kia nắm lấy vai chị. Hai người
gần như giáp mặt. Họ nghe rõ cả hơi thở của nhau. Một giây trôi qua, rồi
Nguyên Bình rút tay ra.

- Chị m ệt chưa, ta nghĩ một lát nhé?

Hai người ngồi dưới bóng cây thốt nốt. Trước m ặt họ, đồng ruộng
Campuchia khô cằn, vắng vẻ. Bây giờ đang m ùa nắng, hòn đất được nghỉ
ngơi, đợi những cơn mưa nguồn tưới xuống, người ta sẽ gieo hạt, cấy lúa.
Còn lúc này, nhìn xa hút chỉ rặ t một loại cỏ đuôi trâu vàng cháy.

ở một phum cạnh bờ mương, bên cạnh căn nhà sàn bé nhỏ, một
người đàn bà quấn sà rông đen, ở trần, đang lúi húi cạnh chảo nước thốt
nốt sôi sùng sục. Mùi dường thơm ngọt theo gió thoảng đến chỗ hai
người.

Nguyên Bình nhìn xuống lòng mương nứt nẻ, hỏi khẽ:

- Anh có tìm thấy bạn không?

- À, không. Mãi sau ngày Phnôm Pênh giải phóng, tôi mới biết tin
nó được một gia đình dân chài Khơ-me cứu thoát. Nhưng chính tôi trong
chuyến đi ấy lại bị một phen suýt chết khát. Chị uống một chút nước nhé
- Anh nói ân cần, rồi nhìn lên những thân cây cao vọi có những bậc
th an g đơn giản bằng những cành tre buộc áp vào th â n cây, anh nói - Đất
Campuchia có loài cây này rấ t quý. Mỗi cây th ố t nốt một năm có thể cho
người trồng nó Kần một tạ đường mà không cần vun bón KÌ. Khi những
quả già rụng xuống, cây con lại mọc lên. Khoảng mười năm sau cây non
ra trá i lần đầu, và tuổi thọ của nó kéo dài hàng trăm năm. Chị nếm thử
nước th ố t nốt đi. Cậu liên lạc chuẩn bị cho chị đó.

Nguyên Bình nh ăn m ặt uống một ngụm nước có mùi m en rượu chua


chua.

- Chị uống nữa đi.

- Cảm ơn anh.

T hắng cười:

- Người ta nói phụ nữ thường ưa ngọt. Đúng th ế không chị? Lần sau
chúng tôi sẽ mời chị uống nước thốt nốt vào buổi sáng. Khi chưa có nắng,
nước th ố t nôi ngọt như nước dừa. Còn tôi, tôi có th ể uống một hơi hết cả

381
bình tông nước này. Nhưng ở m ặt trậ n Tây Nam, chúng tôi có thói quen
phải tập n hịn khát. Chị sẽ trở lại với chúng tôi chứ?

Nguyên B ình ngước lên. Chị bắt gặp đôi m ắt Thắng đang nhìn
m ình, cái n hìn đầm ấm và thông minh. Một con người rấ t tế nhị - chị
nghĩ và tr ả lời anh dịu dàng:

- Tôi sẽ trở lại, n h ấ t định thế. Nhưng anh phải kể chuyện lạc rừng
bữa đó.

- Có gì đâu, chị. V ắn tắ t là th ế này: Trong ba ngày ròng rã, tôi cứ


một m ình m ột khẩu súng với túi gạo rang và bình tông nước, đi xuôi theo
dòng sông, vạch những bụi lau lách tìm xác th ằn g bạn. Không thấy. Tôi
buồn vô hạn. Nhưng lương ăn đã cạn. P hải tìm về đơn vị thôi. Biết làm
sao được! Tôi cứ nhằm hướng Phnôm Pênh cắt rừng m à đi. Ngỡ rằng th ế
nào cũng gặp an h em trê n đường đuổi giặc. Nào ngờ càng đi càng thấy
cây rừng b ịt bùng. H ết rừng già lại đến những đồi tran h b ạt ngàn. Tôi
không sợ cô độc. Nỗi buồn về việc không tìm thấy bạn và kỷ niệm về
những ngày hai đứa sống bên nhau còn chứa chất trong lòng tôi. Tôi cũng
không sợ thú rừng, nhưng nỗi khủng khiếp n h ấ t là tôi đã bị lạc vào một
m iền đ ất hoàn toàn không có nước. Ớ những cánh rừng này, lũ ong
không tìm được nhụy hoa. Chúng cũng k h á t khôn khổ, cứ bay lừ đù và
tìm đậu vào môi và m ắt người, ngỡ có th ể tìm ra chất nước ở dó. Tôi nhịn
k hát đã ba ngày. Cứ đi lang thang h ết cánh rừng này đến cánh rừng
khác, nhưng không tài nào tìm ra dấu vết đơn vị. Chỉ một lần tôi gặp
111ỘI n h ó m l à n q u â n d ịc h . C h ú n g cú n ă m t h ằ n g d a n g n g ồ i q u u iili m ộ i
đông lửa cháy rừng rực. Bên trên ngọn lửa, m ột cái chảo lớn đang bốc
khói. Nấp kín sau m ột gốc lim già, tôi nổ trọ n một băng đạn. Ba th ằn g
gục tại chỗ. Còn hai th ằ n g lủi ngay vào rừng. C hẳng còn sức đuổi theo
chúng nó, tôi đến bên đống lửa. Nồi cháo vẫn dang sôi. Tôi mừng quá.
Tôi sẽ có cháo húp, lại g iết được m ấy th ằn g giặc cũng bõ công lạc rừng.
Nhưng khi n hìn vào nồi cháo tôi bỗng rợn tóc gáy. Thì ra bọn khôn kiếp
đang ăn th ịt trẻ em!

T hắng nh ăn m ặt ghê tởm:

- T h ế rồi ph ần vì sức khỏe đã sút kém sau m ấy ngày đói khát, phần
vì quá xúc động, tôi gục xuống, ngất đi. Trong cơn mê tôi thấy m ình gặp
lại con sông Đồng Nai. Và tôi thèm k h át uô'ng cạn dòng sông với tấ t cả
cá tôm và rong rêu. Lúc tỉn h lại, cảm giác k h á t càng tăng lên. Hơi thở
nóng như người đang sốt. Không còn đủ sức bước đi, tôi cứ bò lết trên
382
m ặt đất. Ba ngày sau, hai đầu gối tôi đã sưng tấy lên, mười đầu ngón tay
rớm máu. Đầu óc thì lúc tỉnh lúc mê, mỗi lần thiếp đi chỉ toàn mơ thấy
nước... Không thấy tôi trở về, đơn vị cử người đi tìm . Anh em th ấy tôi
nằm ngất lịm bên cái khe cạn, trong miệng còn dính đầy bùn.

Nguyên Bình đưa m ắt nhìn anh. Qua bóng tối của vành mũ trùm lên
vầng trá n rộng, đôi m ất Thắng nghiêm nghị. Tim Nguyên B ình chợt se
lại khi nghĩ rằng chỉ ngày mai chị sẽ phải chia tay với anh, m ột người
không quen biết nhưng gần gũi biết bao. Anh đã đưa cho chị một bàn tay
vững vàng của người lính khi Nguyên Bình suýt ngã. Và anh đã tin cậy
kể cho chị nghe những chuyện buồn vui với một niềm tin độ lượng và vô
tư chỉ có ở những người cùng chia sẻ mọi nỗi gian tru ân trong khói lửa.
Điều đó khiến Nguyên Bình cảm động. Bằng m ột giọng chân th àn h , chị
nói:

- Ban nãy anh nói với tôi rằng, anh luôn b ất lực trước những xúc
cảm của mình, rằng trước hết, anh lo làm nhiệm vụ m ột người lính. Còn
tôi, tôi cho rằng nếu anh sẽ cầm bút thì th ậ t đáng sợ. Không, xin anh
đừng cười. T ất nhiên không phải bây giờ, mà khi cuộc chiến tra n h qua đi,
tôi tin rằn g lúc ấy sẽ có một lực lượng mới rấ t đáng tin cậy sẽ xuất hiện
trong văn học. Những người này còn ai khác nếu không phải là các anh,
những người cầm súng có kiến thức, có hiểu biết và từng trải, đã lăn qua
sự sông và cái chết, biết cách hiểu cặn kẽ về giá trị con người m ột cách
xác đáng nhất. Còn tôi... tôi luôn luôn có mặc cảm là kẻ nghèo khó đi vay.
T ôi di v a y cuộc Rống t.rnng n h ữ n g c h u y ên đi n à y

Nguyên Bình bối rối mỉm cười:

- Ớ Hà Nội, nếu muôn, tôi có thể sống thoải m ái vởi căn buồng của
riêng mình. Một chiếc bàn kê gần cửa sổ với ngọn điện ấm cúng toả sáng
trê n tran g viết. Tôi đọc sách trong những thư viện tố t nhất. Tôi đi dạo
chơi với bạn bè trê n đường phố, khăn len quàng kín cổ những buổi tốì
mùa đông, hoặc đi xem những vở kịch mới công diễn. Rồi tôi lấy chồng,
dược chiều chuộng, và một cuộc sống tương đôi dễ dàng phẳng lặng với
cái gia đình nho nhỏ và những lo lắng vặt vãnh hàng ngày. M ột cuộc
sông bình thường, không thể chê trách điều gì được. T h ế nhưng tôi vẫn
luôn luôn tự hỏi: sống như thê tôi sẽ có ích gì cho cuộc đời này?

Nói đến đây, chị im bặt quay đi. Khi Nguyên B ình quay lại, Thắng
chợt thấy đôi m ắt chị đã hoe đỏ. Thắng nghĩ: Một con người trong sáng
và... dễ yêu. Cô ta không giống chút nào như những định kiến người ta
383
thường nghĩ về những người làm văn nghệ, kênh kiệu và khó gần. Mà tại
sao trong những lời lẽ chân th àn h của cô ấy có cái gì như xót xa, như đau
khổ! T h ế m à m ình đã nghĩ, với những truyện ngắn được công nhận, với
một tên tuổi đã bất đầu quen biết, và một bản chất thông minh, cô ấy
phải là người h ạn h phúc. Cuộc đời th ậ t không đơn giản chút nào.

Hai người im lặng theo đuổi những ý nghĩ riêng. L át sau Thắng
quay lại, và anh không th ể rời m ắt khỏi đôi bàn tay m ảnh dẻ đã b ắt đầu
rám nắng của chị. Tự dưng anh muốn nấm lấy đôi bàn tay ấy, muôn nói
với chị một lời th ân thiết. Nhưng an h không dám. B ất chợt Thắng thấy
m ình ghen với những người đi cùng Nguyên Bình. Cảm giác này chưa hề
gặp trong đời. Có lẽ lúc này, trước m ắt chị, anh là m ột th an h niên dáng
mến, và chị cũng có chút ít cám tìn h với anh. Nhưng biết đâu, khi chị đã
về với đám bạn bè giữa Thủ đô tưng bừng ánh điện, lúc đó liệu chị có còn
nhớ đến anh?

T hắng đứng lên, anh nói mà không nhìn Nguyên Bình:

- Ta đi nhỉ. Chị giữ lấy khẩu súng ngắn này của tôi và đừng bướ
khỏi lối mòn. Phải cẩn thận. Rừng Puleng ở trước m ặt ta kia rồi!

Sau khi rời Puleng, Nguyên Bình cùng các bạn còn đi nhiều nơi
khác ngoài m ặt trận . Chị ghi chép nhiều và viết những bút ký từ m ặt
trậ n gửi về toà soạn. Công việc, những cuộc gặp gỡ các tù binh, nói
chuyện với các chiến sĩ quân tình nguyện và những ấn tuợng mới đã thu
hút nhiều tâm trí Nguyên Bình.
Có một lần, từ một đơn vị ở gần nơi đóng quân của d5, Nguyên Bình
gọi điện cho Thắng: “Alô, cho tôi xin nói chuyện với Đồng N ai”. Tiếng
điện thoại quay rè rè ở đâu đó vẳng tới trong ô’ng nghe khiến chị cảm
th ấy sao lâu quá, và Nguyên B ình hồi hộp chờ đợi, tim đập rộn lên. Liệu
anh ấy có còn nhớ đến m ình không chứ? Và m ình sẽ nói gì bây giờ? Rõ
th ậ t vớ vẩn? Những ý nghĩa ấy khiến chị bối rối và toan bỏ ống nghe
xuống. Đúng lúc ấy, chị bỗng nghe m ột giọng nói quen thuộc: “Thắng đây.
À, Nguyên Bình đấy ư? Chào chị. Có khỏe không? Chúng tôi rấ t mong
chị quay lại đấy”. Nguyên Bình đáp vội vã: “Vâng, vâng”. Rồi tiếng máy
im bặt. ơ đâu đó người ta đã cắt dòng điện rồi. Chị ngồi im, vẫn như còn
đang nghe th ấy giọng nói ấm áp của Thắng. “Chúng tôi rấ t mong chị
quay lại...”. Vậy là T hắng vẫn nhớ đến chị. Nghe giọng nói, có vẻ a n h ấy
rấ t vui. Nguyên Bình mỉm cười. Anh ấy có biết rằ n g chị cũng luôn nhớ

384
đến anh? Tại sao chị không thể quên anh. Một người con trai mới quen
biết?

Nguyên B ình trở lại d5 vào một buổi sáng đẹp trời. Đơn vị đã
chuyển quân đến một địa điểm khác. Rời con dường quốc lộ, đi tắ t qua
m ột ruộng khoai, chị nhìn thấy những dãy lán nhỏ xung quanh ngôi chùa
cổ hoang vắng. Bọn Pol Pot đã đập phá hết những tượng P h ật ở đây rồi!

Một người lạ m ặt bước ra đón Nguyên Bình tận cửa lán. Sau cái xiết
tay chặt, anh tự giới thiệu:

- Tôi là Phương, tiểu đoàn phó. chị trở lại th ậ t tốt quá. Mời chị vào
nhà dã.

Nguyên Bình nhận thấy có điều gì là lạ trong giọng nói của đồng chí
tiểu đoàn phó. Anh đối xử với chị vừa rấ t th ân tình, lại như có vẻ trân
trọng khác thường.

Một chiến sĩ trẻ bước vào cửa lán. N hìn thấy Nguyên Bình, anh
dứng sững tại chỗ. Chị quay lại, reo lên mừng rỡ:

- Chú Tâm!

Phương ý tứ đứng lên:

- Tâm tiếp khách giúp anh nhé. Còn gói chè trong túi balô - Rồi
quay lại Nguyên Bình - Tôi có chút việc bận. Tôi sẽ quay lại ngay. Chị cứ
tự nhiên.
Còn lại hai người. Nguyên Bình hỏi chú liên lạc;
- Anh Thắng đi công tác ư?

- Để em tìm gói chè, pha nước đã - Tâm vội vã đứng lên. Một linh
cảm khiến Nguyên Bình e ngại, chị giữ lấy tay Tâm:

- Chị không k h át nước đâu. Anh Thắng bao giờ về?

Giọng Tâm bỗng trở nên gắt gỏng:

- Anh ấy... không về nữa!

- Sao? - Nguyên Bình sửng sốt.

Tâm vẫn không quay lại. Cái gáy cao cúi thấp xuống, chú vặn vẹo
bàn tay khiến các đầu khớp xương kêu lên ră n g rắc:

385
- Anh ấy hy sinh rồi!

Nguyên Bình lặng đi. Chị không sao thốt ra thêm được m ột lời nào.
Chị bàng hoàng tựa lưng vào vách lán. Ánh m ắt Nguyên Bình dừng lại
trê n khẩu súng ngắn treo nơi đầu võng chú liên lạc. Chị nhận ra ngay
chính khẩu súng đã m ột lần Thắng cho chị mượn khi hai người cùng đi
tới cánh rừng Puleng. Khẩu súng như nhắc chị chủ nhân nó đã vắng mặt.
Có lẽ nào như vậy?

L át sau, Nguyên Bình hỏi, tiếng chị khẽ như một hơi gió thoảng:

- Anh Thắng nằm ở đâu?

- Chúng em đã đưa anh ấy về gần đây, trên đồi Cháy.

- Chú có thể... đưa chị đi thăm anh ấy không?

- Vâng.

- Đi ngay bây giờ. Ngày mai chị phải về đoàn rồi.

- Chị đợi em m ột lát.

Khi Tâm quay về, chú thấy Nguyên Bình đã chải tóc gọn gàng và
thay chiếc áo đi đường nhàu bụi. Với chiếc áo trắn g đơn giản, trô n g chị
xanh xao hơn ban nãy.

Hai người đi qua một phum thấp thoáng những mái nhà sàn mới
dựng. Một hàng cây th ố t nốt, rồi một trà n ruộng thấp có những luông cải
đang ra hoa lấm tấm vàng.

Đã đến chân đồi Cháy.

- Chị có m ệt ta nghỉ m ột chốc. Tâm nói.

Nguyên Bình lắc đầu không trả lời. Từ lúc nghe tin Thắng hy sinh,
chị không còn ý thức được thời gian, cũng không chú ý tới xung quanh, cả
tâm trạn g m ình ra sao chị cũng không tài nào phân tích nổi. Chỉ m ột ý
nghĩ dai dẳng cứ bám riế t lấy chị: Mình phải theo sát chú ấy, nếu không
sẽ chẳng bao giờ m ình đến nơi đâu.

Tâm đưa vào tận tay chị m ột ca đầy nước. Chiều lòng chú liên lạc,
Nguyên Bình đưa ca nước lên môi. Nước có vị ngọt m át. Chị bỗng nhớ
đến m ột câu nói: “Lần sau chúng tôi sẽ mời chị uống nước th ố t nhốt vào

386
buổi sáng”. Có lẽ chú Tâm đã làm theo ý Thắng dặn lại? - Chị đau lòng
nghĩ.

Hai người dừng lại bên nâm mộ trên đồi. Nguyên Bình nhận thấy
xung quanh nấm đất hình như vừa được phát dọn sạch sẽ, và tren vồng
đ ất dưới chân tấm bia gỗ có những chân hương còn mới. Chị cúi đầu
thầm nức nở. Anh Thắng, tôi đã trở về đây sáng nay. Nhưng tôi không
còn được gặp anh!

Chú liên lạc thì thầm bên tai chị:

- Sau ngày chị rời dơn vị không bao lâu, chúng em được lệnh đi cứu
gần hai trăm dân bị bọn tàn quân địch dồn lên núi cao. Khốn khổ, những
con người chảng còn ra hồn người, chẳng khác nào một lũ ma đói. Đơn vị
khắp ch ặt vòng vây, nổ súng. Bọn địch m ột số bị tiêu diệt, những dứa
khác vứt súng, dầu hàng. Nhưng có một thằng khôn nạn trước lúc trôn
còn vứt bậy một trá i lựu đạn vào giữa đám dân thường. Quả lựu đạn xì
khói, sắp nổ. Anh Thắng vội lao tới lượm lấy, toan ném nó ra xa, nhưng
không kịp nữa.. Anh ấy bị thương nặng, chỉ tỉn h lại một lúc. Anh ấy dặn
em trao cuốn sổ này cho chị.

Tâm mở cúc áo ngực lấy cuốn sổ nhỏ bìa bọc ni lông, đưa cho
Nguyên Bình. Chị đỡ lấy vật kỷ niệm bằng những ngón tay run rẩy:

- Tâm ơi, ai đă thắp những nén hương này?

- Môt bà giáo ở Phnôm Pênh chị ạ. Bà mẹ ấy là m ột trong số người


được đơn vị cứu thoát. Tháng trước bà đến đây thăm anh Thắng. Bà ấy
khóc ghê quá: “Chúng nó đã giết gần bôn triệu dân Campuchia m à không
hề xót thương. Cớ sao một th an h niên trẻ đẹp như con lại chết vì những
người không ai buồn đếm xỉa đến!”.

Chúng em phải an ủi bà mẹ! “Mẹ đừng nói th ế kẻo anh ấy không


vui. Mẹ hãy chăm sóc và dạy dỗ các em phải sống sao cho xứng đáng với
người đã hy sinh...”.

Buổi tối Tâm đã sửa soạn cho chị một chỗ ngủ trên chiếc sạp nằm
trong lán chỉ huy tiểu đoàn. Gian buồng nhỏ được ngăn riêng bằng những
phên liếp sơ sài:

Lúc chiều, đồng chí tiểu đoàn phó nói với Nguyên Bình:

387
- Chúng tôi đã th u xếp, chị sẽ nghỉ lại ở n h à m ột chị trong phum,
cũng gần đây. Ớ đấy yên tĩnh.

Nguyên B ình lắc đầu:

- Anh cho tôi ngủ ở đây thôi. T ất nhiên, nếu tôi không làm phiền...

Phương nói:

- Đối với chúng tôi, bây giờ chị là người của đơn vị.

Rồi anh m ang tới cho Nguyên Bình ca nước chè đậm rấ t nóng, m ột
chiếc bát sắt, và m ột ngòn đèn bão. Sự chăm sóc chu đáo ấy khiến chị lại
rưng rưng muốn khóc.

Nguyên B ình b iết rằn g cả đêm nay, chị sẽ không tài nào nhắm m ắt
được. Và chị không muốn làm phiền một gia đình xa lạ. R ất khuya,
Nguyên B ình vẫn thức với cuốn sổ giờ này đã trở th à n h một di vật
thiêng liêng đối với chị. Trong đó chị đọc th ấy những bài thơ đang làm
dở, những tiến g Cam puchia có lẽ Thắng đang học, cả những tran g ghi
chép về công việc. Cuối cùng của cuốn sổ là m ột bức th ư viết cho chính
chị.

“Nguyên Bình!

Chỉ vài tiến g đồng hồ nữa tôi sẽ cùng đơn vị đi làm nhiệm vụ. Em
đừng nghĩ rằn g tôi bi quan. Không. Tôi tin chắc m ình sẽ trở về như
những lần trước đây. C hính vì vậy tôi viết thư này cho em. Nhưng dầu
sao trước lúc bước vào m ột trậ n chiến đấu mới, người lính thường hay để
cho lòng m ình lắng lại với những ý nghĩ chân thực nhất. Tôi nghĩ đến
em lúc này và tôi không muốn dối lòng, tôi đã yêu em ngay từ khi mới
gặp. Tại sao thế? Tôi không cắt nghĩa nổi điều này. Hãy th a th ứ cho tôi
nếu em th ấy điều tôi vừa nói với em quá đường đột. Nhưng tôi đã suy
nghĩ nhiều. Sau đây, th ế nào tôi cũng sẽ tìm gặp em, dù khó khăn đến
mấy. Tôi đã cảm th ấy nếu có em, tôi sẽ dễ dàng làm được những công
việc khó kh ăn m à cả em và tôi đều ước muốn - N hững việc tố t đẹp có ích
cho cuộc đời lâu dài. Và tấ t nhiên, nếu bây giờ vẫn không có điều ràng
buộc cuộc đời em, nếu em cũng yêu tôi và th ấ y cần có tôi, chúng ta sẽ
đem lại h ạn h húc cho nhau và cùng nhau làm việc. Cuộc sông sẽ có ý
nghĩa b iết bao!

Tôi sung sướng khi nghĩ đến điều đó, và tôi sẽ rấ t đau khổ nếu biết
rằng em chỉ đi qua cuộc đời tôi rồi không bao giờ trở lại! Em có biết rằng
388
tôi mong cháy lòng p hút gặp lại em, đồng thời tôi cũng rấ t lo sợ giờ phút
ấy. T ất cả đều do em định đoạt. Đó là quyền của em. Dẫu sao tôi cũng đã
nói với em những điều sâu kín nhất của m ột người lính trước phút ra
trận . Nhưng tôi không cầu xin. Không bao giờ!

Không biết rồi dây cuộc đời sẽ ra sao, nhưng từ bây giờ tôi đã hình
dung đến m ột ngày nào đó, tôi sẽ dẫn em về thăm con sông quen thuộc
mà có lần tôi đã kể cho em nghe, ở quê tôi cũng còn những vườn cây ăn
trái b ạt ngàn, vườn nọ ngăn với vườn kia chỉ bằng những con mương dần
nước bao giờ cũng trôi bập bềnh những trái chín rụng. Em sẽ ngồi dưới
những vòm cây trĩu quả nhìn ngắm chúng bằng ánh m ất trầm trồ hay sẽ
nói chuyện ríu ran? Những người thân của tôi thì vui vẻ lắng nghe em
nói giọng Hà Nội nhẹ nhàng. Thằng Hoà thì chỉ mỉm cười, nhưng tôi biết
trong lòng nó vui lắm đó. Còn tôi, tôi mang đến cho em m ột cành chôm
chôm đầu mùa, và sẽ th ầm hỏi em một câu bằng tiếng Khơ Me m à em đã
biết: “On sa lanh boòng tê?” Nhưng em không trả lời, chỉ nhìn tôi bằng
ánh m ắt dịu dàng, đằm thắm . Rồi em ăn thử trá i lạ và nhăn m ặt lại xuýt
xoa vì chua..”.

Bên ngoài căn lán nhỏ, những cơn gió sớm đã trở về trê n cây si đại
thụ trước m ảnh sân chùa rộng thênh thang. Những phiến lá mềm và ẩm
khẽ đu đưa. Một con chim đang ngủ trong m ái hiên ngôi chùa cổ bỗng
giật m ình cất tiến g hót trong veo.

Đã gần sáng.
Nguyên Bình đ ặt quyển sổ xuống, m ắt đẫm nước. Chị hiểu rằng,
hạnh phúc chân chính đã không đến với chị nữa.

Chị lẩm bẩm, đưa tay lên che mắt:

- Em sẽ về th ăm quê anh sau chuyến đi này như điều anh mong. Đô


với mọi người anh vẫn dang sống, trong những người dân Campuchia anh
dã cứu họ, tro n g lòng đồng đội và những người th ân th iết. Và trong lòng
em anh không chết. Không bao giờ em có thể quên anh!

N G U Y Ễ N TH Ị N H Ư TRANG

389
NẶNG HƠN ÁM ẢNH

VƯƠNG TRỌNG

Con ở đây kia mà, mẹ ơi! Mẹ không nh ận ra con của mẹ hay sao?
Con mới xa mẹ bốn năm , ừ th ì hơn bôn năm m ấy th án g nhưng mà sao
mẹ không nh ận ra con? Dù con đi xa th ì xa th ậ t, dù con không còn trở về
đến nhà nhưng mẹ đã tìm đến đây mẹ phải xích sát lại với con của mẹ
chứ? Mẹ ơi, mẹ giận con à? Con có lỗi gì đâu hở mẹ? Sao mẹ lại bỏ con
mẹ đi? Mẹ ơi... mẹ.
- Chị nhầm rồi chị ạ, sao chị lại khóc lóc và kể lể với tôi? Tôi không
hề biết chị là ai. Tôi mới mười tám tuổi tròn, ngoài mẹ tôi ra tôi không
có m ột người dàn bà nào th ân th iết. Chị đi đi, đừng khóc nữa. Những
giọt nước m ắt kia phải được rơi đúng chỗ với những kỷ niệm chị nhắc tới.
Với tôi những điều chị nói hoàn toàn xa lạ, không th ể gọi là kỷ niệm
được...

- Lung tung hết, hỗn độn hết, không còn tôn ti tr ậ t tự nào nữa. Tên
tôi ghi trong khai sinh là do bô" tôi đ ặ t cho. Ông cụ là người th âm nho,
khi đ ặt tên cho con thường cân nhắc kĩ lưỡng lắm nên tên con bao giờ
cũng có nghĩa. Ai lại một thoáng có kể đổi tên tuổi quê hương dễ dàng
n h ư v ậ y . P h ả i tr ả lạ i tê n ch o tô i, tr ả n g a y đi

Chị Oanh tái m ặt nghe lời chồng m ê sảng. Người anh số t hầm hập,
lúc đắp cả hai chăn bông, lúc lại đạp tung ra. Từ sáng đến giờ chị ngồi
bên giường với chồng, nhưng bây giờ nghe những lời anh nói bỗng chị
thấy sợ. Sao mẹ di chợ lâu về thế? Lúc ra đi mẹ có biết anh bị sốt rồi kia
mà? Trời ơi chỉ mới hôm qua đây thôi, được ở nhà một m ình với anh, sao
mà hạn h phúc. Chị đã bao lần khen mẹ sao m à tâm lý thế. Nhưng hôm
nay chị sợ trước những lời mê sảng chẳng có ý nghĩa gì. Anh ốm thì anh
nằm , chị có th ể phục vụ tấ t cả mọi điều nhưng chị xin anh đừng nói
những điều như vậy làm chị sợ.
Cũng m ay lúc đó bà cụ đã về đến sân. Chị vội vàng đứng dậy:
- Mẹ ơi, mẹ vào đây với con. K hông biết nhà con sốt nóng th ế nào
mà cứ nói lung tung làm con sợ lắm.

390
Bà cụ vội vàng đặt cái mủng đầy ắp các loại thực phẩm xuổng ghế,
đến bên giường với con trai theo lời khẩn cầu của con dâu. Bà chà bàn
tay m ình vào áo cho th ậ t khô rồi nhẹ nhàng đặt lên trá n con. Ngay tức
khắc m ắt Hiếu - tên người con trai - mở ra nhìn ngơ ngác, xa lạc. M ắt có
nhiều lòng trắn g khác thường khiến bà hơi rợn. Chưa bao giờ con trai bà
nhìn và như thế. Bà thấy yên tâm hơn khi đôi m ắt ấy từ từ khép lại,
nghĩ là con tiếp tục ngủ, nhưng từ mồm con lại cất lên giọng hoàn toàn
khác hẳn:
- Bà là ai, sao bà lại đến đây với tôi? Bà tìm con trai bà à? T hế thì
bà tìm đi, tìm xung quanh đây, tìm bên kia, tìm mọi nơi th ế nào bà cũng
gặp. Tôi đợi mẹ tôi thôi, tôi đâu có đợi bà? Con tra i bà chắc chắc đang
đợi bà đấy, nhưng không phải ở đây.
- Con nói gì vậy, Hiếu ơi? Mẹ vừa đi chợ mua bánh cuốn về cho con
đây, thứ bánh cuốn hôm qua mẹ đã mua mà con khen bánh cucín quê
m ình ngon n h ất đó mà!
- Bà nhầm rồi, bà vào đây không được lâu đâu. Bà hãy đến với con
bà, để tôi nằm yên, tôi đợi mẹ tôi!
Tay Hiếu quờ lên, h ấ t bàn tay mẹ ra khỏi trá n m ình rồi trở mình
quay m ặt vào tường như không muốn đón nhận sự săn sóc của mẹ.
Oanh sợ hãi nhìn mẹ chồng:
- Có lẽ phải đi mời bác sĩ thôi mẹ ạ.
Bà cụ nói giọng lo lắng:
- Không biết tại sao nó lại nói lung tung như thế? Hồi chưa đi bộ đội
có nhiều lần nó ốm, có lúc sốt cao hơn bốn mươi độ nhưng không hề mê
sảng m ột lời. Con ở nhà, mẹ di mời bác sĩ đến khám xem thuốc thang ra
sao.
Oanh đứng dậy:
- Mẹ vừa mới di chợ về, mẹ ngồi đây với anh Hiếu, để con đi mời
bác sĩ cho. Từ đây sang xóm Hạ con đạp xe một chốc là đến thôi mà!
- ừ th ì con đi cũng được. Nếu đến nhà không gặp thì con lại ra bệnh
viện.
Bác sĩ đến khi Hiếu đang mê sảng. Lần này không chỉ miệng nói,
hai bàn tay anh đưa ra phía trước, lúc như cầu xin, lúc như xua đuổi. Bác
sĩ ngồi xuống giường, Hiếu lại quay mặt vào tường, nằm im. Bác sĩ rút cái
đo nh iệt độ trong túi đồ nghề ra và vẩy vẩy m ấy cái.

391
- Anh cặp nh iệt độ xem sao!
Bác sĩ nhắc lại hai lần đề nghị đó nhưng Hiếu vẫn nằm im, ông
đành tự tay mở cúc áo sơ mi quân phục của bệnh n h ân rồi n h é t cái đo
n h iệt độ vào nách. Sau khi hút gần tàn điếu thuốc ông lấy cái đo nhiệt độ
ra, nâng lên ngang tầm m ắt xem xét:
- Gần bôn mươi độ. Mê sảng do sốt cao. Chỉ cần uống m ấy viên hạ
sốt là khỏi.
Nghe bác sĩ nói, bà cụ và Oanh th ậ t mừng. Nhưng niềm mừng dó
không được bao lâu: Ba ngày sau khi dã uống h ết liều thuốc bác sĩ chỉ
định mà theo ông là bệnh “tiệ t nọc” thì Hiếu vẫn sốt từng cơn mê sảng
liên hồi. Chỉ có điều lạ là đến bữa ăn anh thường tỉn h và ăn uống không
đến nỗi nào, suốt bữa ăn không hề nói một lời, uống nước rồi lại nằm lăn
xucíng giường, kéo chăn đắp.
Bác sĩ còn ghé nhà mấy lần nữa thăm bệnh n h ân và cho thuốc
nhưng bệnh tìn h của Hiếu không có chiều thuyên giảm. Đến ngày thứ
sáu kể từ khi Hiếu lâm bệnh, bác sĩ tỏ ra hoang m ang nên khi Oanh đến
mời, ông không còn sốt sắng nữa. Bà cụ quyết định mời th ầ y thuốc đông
y. Thầy thuốc đông y là một ông già to cao, tóc bạc, da dẻ hồng hào, nói
oang oang từ ngoài sân:
- Không quen với thổ ngơi, khí hậu quê hương hay sao m à mới về
được mấy ngày là ốm với đau? Hay là biết vợ m ình chiều m ình, yêu m ình
rồi làm nũng.
O n g già n g ồ i x u ố n g m é g iư ờ n g , Hùng h a i t,ay x o a y n gư ờ i h iế u v ề p h ía
m ình, để một tay Hiếu lên đùi ông, b ắt mạch. Lúc đó bà cụ đang đun
nước ở dưới nhà, ông hỏi Oanh:
- Tính đến hôm nay, anh Hiếu về nhà được mấy hôm rồi?
- Dạ thưa ông, đúng mười hôm rồi đấy ạ!
- Anh bị bệnh hôm nay là ngày thứ mấy?
- Dạ, thứ sáu ạ!
- T hế là anh về được bốn hôm th ì bệnh. Trong bốn hôm ấy có
chuyện gì xảy ra với anh Hiếu, đối với gia đình cô nói h ế t cho tôi biết.
- Dạ...
M ặt Oanh đỏ lên, lúng túng. Anh mới về được bốn hôm thì có
chuyện gì xảy ra được chứ? C hẳng lẽ lại kể với ông về tìn h cảm vợ chồng.
Chẳng ai hạn h phúc bằng cô đêm hôm đó. Sau năm năm chờ đợi, cô mới

392
gặp lại anh ngay trê n cái giường và chiếc gôì đôi m à cô tự sắm lấy trong
những ngày anh xa. Anh nhập ngũ để bổ sung cho chiến trường Tây Nam
còn cô tròn hai mươi tuổi, học sinh năm cuối cùng của trường trung cấp
sư phạm. Anh nghỉ gần h ết nửa phép rồi mới gặp cô, không biết duyên số
th ế nào, vừa gặp anh là cô bị hút như nam châm gặp sắt. T hế rồi đám
cưới được tổ chức, khi phía sau của anh chỉ còn ba ngày phép và vì th ế cô
cũng chỉ xin phép nhà trường nghỉ học bốn ngày. Đêm tân hôn ngỡ
ngàng, lo sợ lấn á t hạnh phúc. Chưa quen hơi bén tiếng thì đã đến ngày
đèo balô đưa anh ra bến xe để anh đi về nơi đối với cô hết sức mơ hồ
trong bốn chữ “m ặt trận Tây Nam”. Năm năm trời anh mới trở về. Anh
không béo tốt nhưng rắn chắc và khỏe mạnh và điều đáng kể hơn đối với
cô là anh được ra quân. Đêm nằm trong vòng tay rắn rỏi của anh, ngoài
trời mưa ngâu tí tách, nghĩ chuyện từ nay không còn phải xa nhau, cô
mới hiểu th ế nào là hạnh phúc. Ba đêm liền anh và cô sống như thế. Ba
đêm liền giữa hai người hầu như không có khoảng cách. Sau đêm đầu
tiên, cô gỡ vòng tay anh ra để thức dậy nấu nướng, nhưng xuống bếp đã
thấy lửa đỏ và mùi xôi mới thơm phức. Thấy cô bước vào, bà cụ bảo:
- Con trở về giường với chồng con đi. Chuyện cơm nước đã có mẹ
con đừng để chồng con phải nằm một mình, nó phải nằm một m ình quá
nhiều rồi.
Trăm lần cô muốn nói lời cảm ơn mẹ nhưng cô không quen nói lời
như th ế với người quá gần gũi, yêu thương m ình trong suốt năm năm cô
sông xa chồng. Cô chỉ biết đứng lặng nhìn mẹ, nhìn ngọn lửa rực rỡ, ấm
áp nhảy múa rồi chạy ngược lên căn phòng phía trên, ngã m ình vào vòng
tay mở sẩn của anh. Hình như anh đang thức đợi cô trở lại, nên khi thân
th ể ấm áp của cô vừa ngả xuống cánh tay thì anh ôm ghì lấy, trao cô
những cái hôn m ãnh liệt.
Ba đêm đầu cô và anh đã sống với nhau như thế. Đến đêm thứ tư,
anh đặt lưng nằm xuống là ngủ ngay. Mấy lần cô gợi chuyện không thấy
anh trả lời rồi cô cũng nép vào anh mà ngủ. H ạnh phúc của niềm hoan
lạc phải kể đến giấc ngủ tiếp theo, không biết có quyển sách nào có nói
nhu vậy.
Khoảng nửa đêm, cô tỉnh dậy, thấy anh xoay lưng về phía mình,
ngủ say. Cỗ bỗng thấy cô đơn, thiếu thôn. Niềm khao khát thức dậy
trong người cô đòi hỏi được anh thoả mãn. Cô lay vai anh, anh vẫn nằm
yên, cô định dùng sức mình để xoay người anh lại phía mình, bỗng anh
gạt tay cô ra và nói bằng giọng hết sức xa lạ:

393
- Lộn xộn h ế t cả rồi, lung tung h ế t cả rồi. Tên tuổi quê quán, vợ con
chẳng b iết đâu m à lần...
- Anh Hiếu, an h nói gì vậy, em đây mà. O anh đây, vợ của anh đây.
Cô áp m á vào m á anh bỗng thấy m á anh nóng bỏng. Thì ra anh
đang sốt.
Mọi chuyện chỉ có như thế, nhưng chả lẽ lại nói ra với th ầy thuốc
hay sao. Nhưng làm th in h lâu cũng không tiện, cuối cùng O anh trả lời:
- Anh Hiếu mới về được mấy hôm đã có chuyện gì đâu m à đến nửa
đêm thứ tư th ì anh b ắt đầu lên cơn sốt.
Thầy thuốc đ ặt tay Hiếu xuống chiếu, gật gật đầu:
- Mạch trầm... bệnh không chóng khỏi. Khi mê sảng anh Hiếu
thường nói những chuyện gi?
Oanh trả lời:
- Anh ấy nói như giọng của ai ấy, cháu nghe sợ lắm. C hẳng có
chuyện gì ra chuyện gì, toàn những từ “lung tung”, “lộn xộn” lúc như xua
đuổi, lúc như mời mọc ai đó.
Thầy thuốc lại gật đầu. Ông đứng dậy đi tới cái bàn O anh vẫn
thường dùng để soạn giáo án và chấm bài. Ông kê đơn thuốc căn dặn
người n hà th ậ t tỉ mỉ.
Uống h ết ba th an g thuốc đông y, bệnh tìn h của Hiếu vẫn không có
dấu hiệu gì của thuyên giảm, v ẫ n sốt, vẫn mê sảng, duy có điều làm
người n hà đơ lo hơn an h vân ăn dược. Buổi sáng hôm dó, Oanh dịnh sang
nhà thầy thuốc để mời ông tới bắt mạch, kê đơn mới cho chồng, th ì nhà
có khách. Đó là m ột th a n h niên còn trẻ, mặc quân phục, đầu trầ n , môi
thâm , m ặt tái xám. Mặc dù khách chưa tự giới thiệu, nhưng nhìn nước da
sốt ré t của anh, O anh vẫn đoán khách là bạn chiến trường Tây Nam của
chồng m ình. Người khách sững lại khi nghe tin Hiếu bị ốm và đòi vào
tận giường th ăm anh.
Hiếu vẫn nằm quay m ặt vào phía trong, khách ngồi xuống sờ tay lên
trán:
- Anh Hiếu ơi, Dũng đã sang thăm anh đây. Tưởng người ô'm là em,
chứ ai ngờ lại là anh. Mấy năm ở bên đó có ai thấy an h đau yếu là gì!
Hiếu xoay người lại, m ắt mở trừng trừng nhìn Dũng rồi xoay m ặt đi:
- Lẫn lộn, lung tung h ế t cả rồi. Làm sao, làm sao bây giờ. Tên tuổi, quê
hương sai lung tung hết. Thôi bà con ơi, đã bảo bà đi đi, đi mà tìm con

394
bà. Tại sao bà lại khóc với tôi, tại sao bà lại kể lể với tôi. Con bà đang
muốn nghe lời bà, tôi muốn nghe lời mẹ tôi chứ! Và cô nữa, sao cô lại bảo
cô là vợ tôi? Tôi mới mười chín tuổi làm gì đã có vợ. Cô đi đi, chồng cô
nằm gần đây thôi.
Tay Hiếu dứt khoát đẩy tay Dũng ra khỏi vai m ình, Dũng th ấ t thần
quay lại, chị Oanh nói:
- Mấy ngày nay khi mê sảng nhà tôi toàn nói những chuyện như
thế. Toàn nói chuyện sai lầm, lẫn lộn tên tuổi quê hương... Có phải chú
cùng ra quân m ột lần với anh Hiếu không?
- Đúng th ế chị ạ. Hôm chia tay, em hẹn về n h à ít hôm rồi sang chơi
với anh. Chị vẫn dạy ở trường thị trấn , phải không?
- T hế ra nhà tôi đã nói chuyện với chú.
- Anh Hiếu đã uống những thuốc gì hả chị?
- Mời chú ucíng nước. Tây y, đông y đều dùng cả nhưng sao bệnh
không thấy giảm...
Bỗng Hiếu ú ớ làm hai người quay lại:
- Mưa! Mưa to quá ướt hết cả rồi. M ất tên m ất tuổi rồi!
Lời nói đó của Hiếu hoàn toàn vô nghĩa đối với Oanh nhưng làm
Dũng giật th ó t m ình. Có thể th ế nào lại như th ế được? Đúng rồi, từ lúc
đên đây nghe lời nào anh ta nói cũng liên quan đến chuyện đó. Dũng bần
th ần nhìn Oanh, m ình có nên kể lại cho chị nghe hay không? Nhưng kể
m à làm gì, cliang có cách I1ÙU sửa chữa đươc »ui lầm dó.
Rót thêm một chén nước nữa cho Dũng, Oanh nói:
- Chú làm ơn ngồi với anh Hiếu một lúc, tôi sang hàng xóm tìm bà
cụ, bà đang đi tìm lá thuốc Nam...
- Vâng, chị cứ đi đi, tôi trông cho. Hồi ở đơn vị tôi làm y tá đấy chị

Chị Oanh đi rồi, Dũng chầm chậm nhìn Hiếu như cố kiểm tra lại
những điều m ình phỏng đoán có đúng hay không. Hai người cùng huyện,
ở hai xã kề nhau, cùng ra quân một ngày, chỉ khác nhau về cấp bậc, chức
vụ: Hiếu thượng uý, cán bộ đại đội còn Dũng là tru n g sĩ, y tá tiểu đoàn.
Hôm đó vì có quân hàm cao nhất trong đoàn nghỉ phép và ra quân nên
Hiếu được cử làm đoàn trưởng trên đường về nước, khởi hàn h từ một địa
điểm phía tây Bát Đom Boong. Trước khi lên đường, trung đoàn trưởng
còn giao cho đoàn một nhiệm vụ khá nặng nề là đưa mười tử sĩ về nước,

395
chôn cất tử tế vào nghĩa trang trước khi về quê hương. Khi Dũng cùng
mấy bạn nữa mang balô ra xe thì thấy mười quan tài màu đỏ xếp sẵn
trê n thùng xe Din, mỗi hàng năm chiếc. Danh sách tử sĩ th ì tru n g đoàn
trưởng trực tiếp trao cho Hiếu. Xe chạy bụi bay mù m ịt. Theo thời tiế t thì
đã qua mùa khô lâu rồi nhưng vùng đồi núi phía tây này vẫn chưa có hạt
mưa nào. Không mưa chỉ khổ những người ở lại, đôi với những người trên
dường về nước này, dù có bụi m ột tí cũng chẳng sao, tốc độ của xe không
hề giảm xuống. Chạy được hơn một ngày, đến đêm thứ hai thì trời đổ
mưa, ngửa m ặt hứng nước mưa vào miệng. Những cơn khát, nóng bức và
bụi bậm mau chóng qua đi nhường cho ré t mướt, vì quần áo ướt m èm và
xe chạy nhanh, gió quận phần phật. Quá nửa đêm xe qua biên giới, mờ
sáng xe dừng lại trước nghĩa tran g thì cơn mưa tạnh. Thượng uý Hiếu từ
trong cabin mở cửa chui ra đi về phía sau ra lệnh cho khênh quan tài
xuống đất. Khi mười quan tài được xếp hàng trê n cửa nghĩa trang, chính
Dũng là người đầu tiên phát hiện ra rằng những dòng chữ viết bằng
phấn ghi tên năm liệt sĩ ở năm quan tài xếp hàn trê n mưa trôi di không
còn lại một dấu vết nào.
- Anh Hiếu ơi, làm th ế nào, năm quan tài này không còn tên nữa?
Hiếu đi lại tận nơi, cúi m ặt nhìn lần lượt trê n năm tấm ván th iên nhưng
không còn nghe thấy gì khác ngoài màu đỏ nhợt nh ạt. A nh biết nếu
không rõ tên liệt sĩ, người trông coi nghĩa trang sẽ không cho m ai táng,
bởi th ế cần phải xử lý điều không hay này th ậ t nhanh, trước giờ nghĩa
tran g mở cửa. Anh mở túi ngực xem lại danh sách mười tử sĩ, mới biết
năm liệt sĩ bị trôi m ất tên ở phía sau danh sách. Anh hỏi Dũng:
- Có mấu phấn trắn g nào đó không?
- Không anh ạ. Từ khi sang Campuchia đến giờ em không hề trông
thấy mẩu phấn nào.
- T hế thì chạy đại tìm một mẩu gạch non hoặc là mẩu th an hay bất
cứ cái gì có th ể viết được.
Dũng tìm được m ột mẩu son dỏ, quay lại Hiếu bảo:
- Viết đi, tớ đọc cho. Viết từ quan tài này trở đi: Nguyễn Văn Hùng,
Trần Hữu Hải, Lã Văn Thanh, Ngô Văn Nuôi, Bùi Chí.
- M ình ghi tuỳ tiện th ế này sợ không đúng tên liệt sĩ thì sao anh?
Một đồng chí theo dõi Dũng viết th ế hỏi. Hiếu nghiêm sắc m ặt hỏi
lại:

396
- Thì làm th ế nào cho đúng được khi tên tuổi mưa đã trôi sạch trơn?
Phải chờ quay trở lại B át Đom Boong để truy lai tên chắc? Quan tài thì
đóng chặt rồi mình không có quyền mở ra. Mà có mở ra thì bọn m ình
cũng chẳng nhận được ai là ai. Theo cậu thì nên làm th ế nào?
Cậu lính trẻ lúng túng:
- Em thì cũng chẳng biết giải quyết bằng cách nào, nhưng cứ đề tên
lung tung th ế em thấy không ổn, n h ấ t là sau này cha mẹ vợ liệt sĩ đến
viếng thì nghĩ th ậ t đau lòng...
Khi đó Dũng dừng viết ngửng lên hỏi:
- Hay là ta dừng lại ít ngày, đánh điện về đơn vị để trung đoàn cử
quân V m ang sổ sức khỏe của năm liệt sĩ về đây xác định lại...
- Thôi đừng hâm nữa ông ơi - Hiếu nói - Vả lại có lầm thì chẳng qua
là lầm tên của liệt sĩ này sang liệt sĩ khác chứ có nhầm tên của Pol Pot
mà phải phân vân. Viết đi, sắp đến giờ mở cửa rồi đấy!
T hế là mười liệt sĩ được chôn xuống, mười tấm bia được dựng lên.
Đoàn quân ra quân, về phép rồi chia nhau về quê hương mình.
Vì người cùng huyện nên Dũng và Hiếu đi chung đường với nhau lâu
nhất. Nhưng cũng từ đó Dũng trở nên ít nói và nhìn Hiếu bằng con m ắt
khác. Trước đây Dũng thường khoe với bạn về Hiếu, người đồng hương
cùng xã - vì hai xã gần nhau nên Dũng rút lại khoảng cách như vậy - đẹp
trai, học giỏi, là cán bộ đại đội có năng lực n h ất của trung đoàn thì bây
giờ anh th ấy hối h ận cho những lời biểu dương và niềm tự hào của mình,
bới th ế khi chia tay nhau, Hiếu dặn chỉ sau vài ngày thê nào Düng cũng
phải sang chơi, nhưng về nhà Dũng chần chừ mãi lúc đầu anh đã định
không sang nhà Hiếu nữa, nhưng rồi anh quyết định phải sang để tran h
luận với Hiếu về chuyện này, không ngờ Hiếu đang bị bệnh và mê sảng
những điều chính Dũng vẫn day dứt từ hôm về đến nay.
Chị Oanh gọi mẹ chồng về nhà, hình như chị giới thiệu trước về
Dũng nên khi vào thềm bà cụ đã gọi ngay:
- Cháu đến đúng lúc quá, có thuốc gì cháu mách bác với, chứ bác
chẳng b iết làm sao!
Bà cụ lại ngồi xuống giường cạnh Dũng sờ tay lên trá n Hiếu.
Sốt không cao, nhưng m ặt Hiếu trông dại hẳn đi. v ẻ rắn chắc từng
trả i hôm mang balô trở về nhà biến đi đâu hết. Sao hạnh phúc của bà
ngắn ngủi đến thế? Sáu mươi tuổi đầu bà vẫn chưa có cháu bế bồng. Bà
trông mong con trai trở về không kém gì con dâu mong chồng. Ba ngày
397
đầu Hiếu vè trông bà như trẻ thêm mấy tuổi, m iệng luôn bỏm bẻm nhai
trầu và xởi lởi với mọi người. Không ngờ đứa con trai duy n h ấ t của
lâm bệnh, thứ bệnh lạ lùng làm các thầy thuốc phải lặng lẽ rút lui...
- Máu tôi chảy h ết rồi thì tên tôi phải là màu trắ n g chứ. Màu đỏ
không phải tên tôi! Lừa dối, lừa dô'i!
Câu nói cứ như h ét lên bất ngờ của Hiếu cắt đứng dòng suỹ nghĩ của
bà mẹ và làm Dũng g iật m ình. Bà mẹ quay lại nhìn Dũng:
- Con có hiểu gì về nó nói không? Nó toàn nói những câu như ma
ám cả, nhà này không ai hiểu chút gì.
Dũng không biết trả lời ra sao thì tay bà lại sờ lên trá n con, dỗ
dành:
- Con trai của mẹ, con vừa nói gì nói lại cho mẹ nghe đi, cho cả chú
Dũng bạn của con đến thăm con nghe nữa.
Hiếu mở m ắt n hìn mẹ trừng trừng rồi h ấ t tay mẹ ra khỏi trán
m ình, lùi sát vào tường:
- Đã bảo bà nhầm rồi, tôi không phải là con của bà, con trai bà nằm
đằng kia., màu trắng... màu trắng... màu đỏ...
Những tiếng về cuối nhỏ dần, nhỏ dần rồi tắ t hẳn.
Mấy năm làm quân y ở chiến trường ác liệt đó, Dũng đã chứng kiến
nhiều cơn mê sảng của thương binh khi sốt cao: s ố t do vì trù n g sốt ré t và
do vết thương. Trong “cơn mê sảng” thương bình thường gọi tên những
ngư ời th â n tr o n g n h à n h ư ch a, m ọ, vợ , con.

- Chú Dũng ơi, có lẽ ta nên đưa anh Hiếu đi bệnh viện thôi.
Oanh đề nghị, Dũng biết bệnh viện khi sốt cao mê sảng thì người ta
dùng thuốc hạ sốt, nhưng anh Hiếu sốt không cao m à mê sảng thi không
hiểu họ sẽ dùng thuốc gì. Tuy thế, anh vẫn tán thành:
- Đúng đấy chị ạ, ở nhà chị em m ình chẳng biết đâu m à lần.
Làng Trung quê Hiếu là m ột làng nhỏ, cách xa đường ô tô chừng vài
cây số. Bệnh nhân cấp cứu lên bệnh viện chỉ có một phương tiện duy
n h ấ t là dùng võng khênh đi. Khi nghe tin Hiếu sắp phải đưa đi bệnh
viện, hai th an h niên trong xóm tự động tới khênh giúp, Dũng đi theo để
“thay ca” còn chị Oanh mang theo đồ hậu cần. Khi thủ tục nhập viện
xong xuôi, Hiếu đã nằm vào giường bệnh nhân thì Dũng xin phép trở về
và hẹn ít ngày nữa sẽ sang thăm .

398
Dọc đường đi bộ về nhà, Dũng triền miên suy nghĩ. Trôn đường đến
nhà Hiếu, anh cũng đã suy nghĩ nhiều, nhưng điều suy nghĩ bây giờ theo
chiều hướng khác hẳn. Chỉ một mình anh mới hiểu được ý nghĩa những
diều Hiếu nói. Nhưng vì sao Hiếu lại nói ra điều ấy trong cơn mê sảng
th ì Dũng không th ể cắt nghĩa được. Có phải do ma ám như lời bà cụ bảo?
Ma đây là linh hồn những liệt sĩ đã bị tráo đổi tên tuổi? Anh không tin
có th ế giới bên kia và như th ế thì vì cái gì mới được chứ, vì rõ ràng câu
nói nào trong cơn mê sảng của hiếu cũng liên quan đến những liệt sĩ
nhầm tên, nhầm tuổi. Đó phải chăng là nỗi ám ảnh vì việc làm vô trách
nhiệm của mình? Đó là tiếng nói của lương tâm anh? Lương tâm là lòng
tô t của con người, thê sao lúc mười chiếc quan tài sũng nước mưa xếp
hàng ngoài nghĩa trang, lương tâm anh không đến với anh để ngăn chặn
cái quyết định vô nhân đạo kì lạ của anh? Có phải chăng lương tâm của
anh ta lúc đó bị nhận chìm phía sau lòng khao k h át được trở về quê
hương? Khi anh ta đã trở về giữa quê hương, sống trong tình thương của
mẹ, trong vòng tay và lời nói ngọt ngào của người vợ trẻ bao năm trời xa
cách, lòng khao k h á t hồi hương của anh được giải toả, lúc đó lương tâm
trỗi lên cao hơn tấ t cả để phán xét những việc làm trong quá khứ của
anh? Lúc đó những chiếc quan tài nhoè nhoẹt màu đỏ lại hiện lên trước
m ắt anh, nó ngăn chặn tầm nhìn của a n h : không th ể nhận ra mẹ, không
nh ận ra vợ và chỉ chập chờn những ám ảnh?
Dũng cảm th ấy lòng nhẹ nhõm được đôi phần khi tìm ra cách lí giải
đó, nhưng rồi anh bỗng giật mình: Nếu vậy thì bệnh tìn h của anh Hiếu
đến bao giờ mới khỏi được? Chỉ khi nào tên tuổi của từng liệt sĩ trở về
đ ú n g vứi Lừng clii Ihu và m ill Hiếu b iế t ch ắ c c liắ ii d iều dó dã x ả y r a llil
lương tâm anh mới th a thứ cho anh? Việc đó bây giờ khó khăn gấp trăm
lần so với lúc những chiếc quan tài xếp hàng ngoài cổng nghĩa trang.
Tính đến hôm nay, các liệt sĩ ấy đã về với đất hơn một tháng trời rồi,
không th ể đào bới để xem xét. Nhưng th ế không có nghĩa là cứ để yên
cho tội lỗi trôi theo thời gian. Xét cho cùng m ình cũng có lỗi trong
chuyện này. Nếu như lúc đó mình không nóng lòng trở về quê hương,
m ình đấu tran h quyết liệt hơn với anh ta về quyết định lạ lùng đó thì
xem anh ta có dám thực hiện không? Lương tâm của m ình ở dâu sao
không trỗi lên chỉ trách mình, thúc giục m ình làm việc gì đó để sửa chữa
cho m ình sai lầm đã trải? 0 , khi ta đã nghĩ được điều đó thì chính lương
tâm ta đã thức tỉnh. Ta phải làm, nhất th iết phải làm, không chỉ để cứu
anh Hiếu khỏi bệnh mà cũng đế dứt ra ta ngoài những cơn ám ảnh.
Hiếu vào viện được mười ngày, bệnh tình không hề giảm bớt, mặc
dù tiêm và uống nhiều thứ thuốc khác nhau. Có ý kiến đề nghị đưa bệnh

399
nhân lên tuyến trên . Đúng hôm đó Dũng m ang balô vào viện thăm anh
và nói cho chị Oanh biết rằng anh sắp trở lại dơn vị ở Campuchia một
thời gian.
- Nghe nói là chú đã ra quân rồi kia mà? Chị Oanh ngạc nhiên hỏi.
- Đúng th ế chị ạ, nhưng khi về đây thấy còn thiếu một số giấy tờ
cần th iế t - Dũng không nói th ậ t ý định của mình.
- V ất vả cho chú quá - Chị O anh ái ngại.
- Sai lầm nào m à chẳng phải trả giá h ả chị. Mong chị khỏe chăm
sóc anh Hiếu chóng khỏi bệnh.
Nói rồi Dũng m ang balô ra di. Khi Dũng nói những lời cuối cùng
Hiếu nằm trê n giường bệnh ngẩng đầu lên nghe ngóng một cách bất
thường và khi Dũng đi khuất thì ném đầu m ạnh xuống gối, quay đầu vào
vách lẩm bẩm:
- Hỗn độn hết, lung tung hết... m àu trắng... màu đỏ... màu trắng... màu
đỏ...
Câu chuyện này tôi nghe m ột đồng chí bộ đội cùng làng với Hiếu kể
lại, chỉ đến đây là h ết nhưng hôm tìn h cờ ngồi trê n tàu hoả với một
th an h niên cùng quê với Dũng th ì còn nghe thêm một đoạn cuối bảo rằng
sau m ấy th án g Dũng ở Campuchia trở về th ì Hiếu đã ra viện, hoàn toàn
khỏe m ạnh rồi. Cái đáng chú ý n h ấ t là Hiếu ra viện đúng ngày m à Dũng
cùng đơn vị dùng phương pháp phóng xạ trực tiếp năm nấm mộ trê n và
xác định tên tuổi của từng liệt sĩ...
Không hiểu phần bổ sung của cậu th an h niên đó có chính xác
không, dù sao khi nghe xong tôi vẫn thấy tâm hồn nhẹ nhàng, thoải mái
như vừa được vứt bỏ đi m ột cái gì nặn g hơn niềm ám ảnh.

VƯƠNG TRỌNG

400
NGƯỜI CHỦ HOÀNG CUNG

BÙI CÁT VŨ

Chầm -rên hoảng quá, nó co rúm trong bụi cây giữa công viên Chờ-
rui-chăng-va, ngực nó dập thình thịch. Đàn bò chạy tán loạn về phía nhà
ga. M ất bò thì chết với Ảng-ca. Chuyện gì đã xảy ra? Bọn lính Pôn Pốt
chạy đi đâu như đàn kiến nhọt vỡ tổ. Xe nhà binh chen chúc nhau trên
đường nhựa, húc đổ cả cột điện trên vỉa hè. Bọn lính chạy bộ nháo nhác
trà n quan công viên. Ớ đầu ngã tư, một người mặc áo đen đứng trê n xe
Jeep chắn ngang đường. Hấn ta giơ cao súng lục, trợn m ắt quát to:

- Ớ lại chiến đấu! Đứa nào chạy tao bắn!

Nó bắn th ật, bắn qua đầu các xe chạy sau. Từ phía dưới đường hỗn
loạn, một loạt tiểu liên đáp lại, ném hắn xuốhg đất. Chiếc xe tải h ất
văng chiếc Jeep sang một bên, rồi các xe sau vùn vụt lao qua. Ghê quá!
Mới la ó mà nhoáng cái chỉ còn một mớ bầy nhầy trê n m ặt đường nhựa.
T hằng Chầm -rên vẫn băn khoăn về đàn bò. Nó muôn bỏ trôn luôn nhưng
rồi cũng như bao lần đã có ý nghĩ đó mà nó không dám làm. Trốn đi đâu
mới được chứ! Đâu cũng công xã, đâu cũng Ang-ca.

P hía trước nha ga cũng có lính chạy. Như vậy là chúng chạy hết về
hướng U-đông.

- À! Chầm -rên biết rồi. Hèn gì suốt ngày hôm qua, cả đêm nữa xe
chạy lên phía trước nườm nượp; xe nhà binh, xe du lịch, xe chở khách, có
cả xe máy cầy kéo rơ-moóc nữa. Xe chở bọn cố vấn Trung Hoa bụng phệ
chạy nhiều lắm. Mà tại sao nó chạy? Nó có sợ ai mà chạy: Chầm-rên
không sao hiểu nổi, nhưng nó thấy khoai khoái trong bụng. Bọn lính
chạy th ì Ang-ca cũng chạy. Chắc là Ăng-ca ỏ công xã chăn nuôi của nó
cũng chạy rồi. P hải chi m ình biết trước m ình cài m ột cái một cái đinh
dưới bánh xe hết chạy. Biết đâu, mình chẳng tẩm dầu vô nùi giẻ đốt cầu
kho xăng thì tụi bụng phệ cũng hết chạy. Nghĩ vậy, Chầm -rên khoái quá.

Tiếng pháo, tiếng súng bỗng rộ lên lẫn trong tiếng xe tăng như mưa
dông sấm sét làm rung chuyến thành phố. Ruột gan Chầm -rên dồn hết

401
lên dầu; nhưng nó cũng kịp n h ận ra cơn bão khủng khiếp đó chạy từ
hướng cầu Mô-ni-vông đến.

Bọn lín h áo đen như bị m a đuổi, vứt cả hon-da, xe đạp, nh


sông Tông-lê-sáp lẫn chân cầu sập bơi qua cù lao.

C hầm -rên quay lại phía có tiến g kêu la của con gái. Nó thấy một
đám lính nắm tóc, nắm tay lôi xềnh xệch ba chị mặc xà-rông màu. Các
chị giãy giụa, la oai oái: “Buông tôi ra, tôi không đi đâu hết!”. Mấy thằng
lính bỏ ba chị lại, chạy được m ột đỗi, chúng quay lại xả súng bắn. Một
chị chết tạ i chỗ, m ột chị chạy vào ngõ hẻm , còn m ột chị ôm vai bị thương
toá máu, lảo đảo.

C hầm -rên th ấy đến lúc phải dời chỗ. Nó chạy băng ra sông, m en
theo bờ xuống phía n h à m áy bơm nước. Có tiếng xe tăng chạy ngược
chiều với nó, hướng chợ Mới. Nó lần xuống cảng, len qua dãy cần cẩu,
chui vào đông thùng gỗ, định trố n ở đấy. Nhưng nó nghĩ. “Không th ấy gì
hết, dễ sợ lắm ”. Nó đi qua h ế t khu cảng rồi dừng lại một chỗ kín ngồi
xem chơi. Nó vớ được m ột m ặt g h ế ni-lông, nó kê lên khúc gỗ, rồi l
ngồi dựa ngửa. Cái áo đen dài tới gối, dày cộm, m ất h ết khuy nút từ lâu
phơi trầ n cái bụng xếp ve đen kính, trô n g dễ sợ, từ sáng đến giờ nó chưa
có gì để bỏ vào đó cả. Mọi ngày th ì giấc nầy nó lùa bò về lãnh m ột b á t
cháo. Ngoài bữa ăn chính dó, nó còn độn thêm vào nào chuối xanh, bí đỏ,
cà non n h ặ t được tro n g các vườn bỏ hoang. Bây giờ thì lòng nó th ấy chộn
rộn nên cũng không dói. N hìn đôi chân khẳng khiu, đầu gối da chai đen
chũi giống cáng con nghé quá, b ãt giác nó ngúc ngác hai bàn chân rôi
mỉm cười.

M ặt trời đổ lửa, sấy cái đầu của nó k h é t lẹt. Nó nhìn bâng quơ theo
bờ sông. T rên m ặt nhựa đường chảy ra bóng ướt như nước đọng, nó th ấ y
mấy vật gì lù lù chạy về hướng nó. Xe bọc thép. Thứ này nó th ấy nhiều
rồi nhưng sao m ấy chiếc này chạy êm quá. Đúng rồi! Xe rú máy rồi dừng
lại trước n h à trụ sở “đại hội dân tộc”, ngôi nhà có những khung kính
hình ba góc xung quanh mái. T rên nóc bằng có cột cờ trắn g thường treo
lửng lơ lá cờ “lưỡi cuốc”.

C hầm -rên rấ t thích thú với tê n lá cờ “lưỡi cuốc” mà nó bí m ật đặt ra


và chỉ m ột m ình nó biết. Chả là hôm tụi Ăng-ca ở công xã xử tử bác
Sam -rếch về tội bác dám cãi lại với chúng nó. Thằng chủ tịch Sam -đa
đập một cuốc vào sau ót bác, th ế m à sau khi ngã xuống đất, bác còn lồm

402
cồm bò dậy để nó đập một cuốc thứ hai, óc văng tứ tung. N hìn cái cuốc
nhuộm máu, Chầm -rên liên hệ tới lá cờ của Pôn Pốt, nó thấy cái hình
vàng vàng ở giữa cũng giống như lưỡi cuốc.

Trong ánh nắng đổ hột, Chầm -rên thấy mấy người trèo lên nóc nhà,
lôi lá cờ lưỡi cuốc xuôYig và kéo lá cơ đỏ tươi rấ t to, cờ lên đến đỉnh cột
gặp gió: Bay lượn tíu tít. Chầm -rên cô' nhìn khuôn hình ở giữa lá cờ rồi
nó xòe bàn tay đưa lên trước m ặt suy nghĩ: Giống bàn tay năm ngón,
ngón giữa là ba mình, ngón bên phải là má m ình, ngón bên trá i là mình,
m ình cao bằng má rồi còn gì, còn hai ngón bìa là em Chầm -m âu và em
Sơ-ri.

Chầm -rên thấy mấy chú ra bờ sông nhìn lên, nhìn xuống. Nó muôn
chạy lại gọi: “Chú bộ đội giải phóng ơi! Tụi Pôn Pốt nó chạy lên U-đông
nhiều lắm ”, nhưng không dám. “Chú bộ đội giải phóng!”. Nó gọi trong
lòng như vậy, vì trước đây mấy năm , ba m á nó đã dùng tên th â n thương
ấy để gọi những người bộ đội đi đánh Mỹ, đánh Lon Non.

Mấy chú vẫy vẫy cờ đỏ trê n tay. C hầm -rên nhìn xa xa trên dòng
sông Mê-kông chói chang ánh nắng, còn mấy chấm đen rẽ nuộc chạy lên.
Ba chiếc, sáu chiếc, rồi chín chiếc tàu giống nhau. N hanh quá trời, mới
đó mà đã trông rõ lá cờ phơi phới trê n lưng tàu như kỳ con cá lăng.
Chầm -rên phải tìm một chỗ nấp vì súng b ắt đầu nổ. P hải trấ n tĩnh lắm
nó mới phân biệt được súng từ các tàu cá lăng bắn sang phía bờ bên kia
và súng bên kia sông bắn vãi xuống nước. Rồi pháo đâu từ trong thành
phố câu sang, nổ bên kia bờ và trên đảo.

Bốn chiếc tàu đầu bằng cặp mũi cù lao, h á mồm nhả ra cơ m an nào
là bộ đội. Các chú chạy băng băng trê n đảo. C hầm -rên xem mê ly, cho
đến khi một p h át pháo từ bên kia sông bắn vu vơ làm cháy đống thúng
gỗ gần đó, nó mới chạy qua đường, đánh vòng ra phía sau nhà bảo tàng,
rỗi chui tọt vào trong bức tường đổ. Ớ đấy có m ấy dãy nhà lụp xụp giữa
vườn chuối và cây trứng cá.

Chầm -rên không thèm để ý những đồ vật ngổn ngang lẫn trong
gạch ngói, cỏ rác. Mấy năm nay nó buộc phải quen và đã quen, như một
con gà con mồ côi, với một m anh áo, m ột quần đùi, ngày ngày hai bát
cháo. Nó vào một gian nhà còn tương đối nguyên vẹn, bỗng nó giật lùi
mấy bước vì thoáng thấy từ dưới mớ nệm lúi xúi thò ra một bàn chân nhỏ
xíu. Nó khuỳnh hai tay như m ột dũng sĩ, dõng dạc bước tới dỡ mớ bông

403
đã mục th àn h bột, lôi ra một con búp-bê. Cô nàng nhắm nghiền m ắt ngủ
li bì, quần áo rách bươm cả, tội quá! C hầm -rên đỡ nhẹ dôi mi lên, cô
nàng mở m ắt đen. Nó đặt nằm xuống, cô nàng không thèm ngủ nữa.
Chầm -rên tìm một chỗ kín trên đầu tủ áo, cất giấu búp bê cẩn thận, định
bụng sẽ trở lại lấy về cho Sơ-ri lúc gặp lại em.

Chầm -rên ra vườn. Một quày chuối xanh mơn mởn nghiêng m ình
chào nó. Vừa lúc ấy, nghe đâu từ trê n cao, tiếng con gái rõ dần, to dần:
“Nghe đây, nghe đây! Hỡi các binh sĩ; C hế độ Pôn P ôt - Iêng Xa-ri tàn
ác đã bị lậ t đổ. Cách m ạng đã làm chủ hoàn toàn th à n h phô Phnôm
Pênh. Các bạn hãy ra hàng! Ai ngoan cô' chông cự sẽ bị tiêu diệt. Nghe
đây! Nghe đây!”...

Một phút đắn đo. Chầm -rên nghĩ: Người ta gọi binh sĩ Pôn Pốt,
mình đâu phải lính mà ra hàng. Nhưng ở đây gần đường, rủi người ta
gặp thì sao. Lính Pôn Pốt cỡ tuổi m ình cũng không ít”.

Nó luồn qua vườn chuối, lại gặp một con đường nhựa. Nó lách m ình
qua tấm cửa sổ vào bên trong một dãy tường th àn h rấ t cao. Nguy mất!
Trong này trông trải quá! Không kịp suy tính gì nữa, C hầm -rên đâm sầm
vào một tòa lâu đài gần nhất, có nền đá cao gấp m ấy lần bề cao của nó.
Mặc cho mấy ông chằng mỏ chim có cánh đang ưỡn ngực đỡ mái lâu đài.
Mặc cho hai con sư tử đầu to sụ đang ngồi chồm hổm. Mặc cho hai con
rắ n hổ m ang năm đầu lớn bằng cột nhà. Nó nhảy choai choai lên không
biết bao nhiêu là bậc thềm đá đỏ, chạy quanh hành lang, đẩy m ột cánh
cứa màu đó chui tọt vào lâu đài. Tối om om. Nó ngôi dựa tường, thớ. Sờ
soạng sàn gạch, nó đoán rằng lâu rồi không có người quét. Tay nó chạm
phải cả một bãi phân dơi. Nó nhắm m ắt giây lâu rồi mở ra. Nó đã trông
thấy được cảnh vật. T rên vòm cao phát ngợp rấ t nhiều bức tra n h m àu sặc
sỡ, rõ n h ất là bức tran h một đàn voi xám, ngà dài thượt, m ắt như voi
sông, vòi mềm mại cong lên đằng trước. T rên m ình voi m ột chàng dũng
sĩ m ặt xanh đứng giương cung, nửa người ẩn hiện trong mây. Dưới m ặt
đất có mấy người con gái m ình trầ n ngồi xếp hai chân về m ột phía, chắp
hai bàn tay trước ngực. Chầm -rên lần đi theo chiều dài lâu đài. Nó m ân
mê những chân đèn bằng gỗ quý bóng loáng giống như nhau, cứ ba con
rắ n vàng cong đuôi đỡ lấy một chao đèn pha-lê trắ n g đục, có h ìn h như
chiếc dù nhỏ. Không biết đi qua bao nhiêu gian bỏ trông, nó mới gặp hai
chiếc ghế bành rấ t to vơi những hoa lá vàng nổi b ật ra khỏi dai dựa, nệm
ghế cũng bọc lụa vàng. Kế đến là một cái bộ đồ sộ bằng nhiều khôi vuông

404
chồng lên nhau. Mỗi khối vuông đều được chạm trổ tinh vi, tuyền màu
vàng và son, lại thêm những hạt thủy tinh màu xanh biếc lấp lánh như
những vì sao. T rên đỉnh cao, chễm chệ một chiếc ghế tựa mạ vàng, nệm
bọc nhung đỏ. Hai bên bệ có hai hàng lọng hình giỏ cỏ rũ xuống những
tua óng án h chỉ vàng xung quanh chiếc cán thon nhỏ bằng bạc.

P hía sau là hai hàng ghê vàng rồi đến một cái bệ còn to hơn, lộng
lẫy hơn ngôi bệ trước. Thân bệ là hình chín chiếc thuyền đầu rắn, đuôi
rồng chồng lên nhau th àn h ba lớp. Ba thuyền trê n cùng chở một ngôi
tháp hình quả bầu m à đỉnh tháp có m àn che rường phủ theo chiều cao
của người đứng. Đến đây, Chầm-rên chợt hiểu ra: Thôi rồi, m ình lọt vào
hoàng cung rồi! Đây là chỗ công chúa đứng còn bệ trước là chỗ vua ngồi.
Hồi nhỏ ba m ình đã chỉ cho mình nhiều lần trong một bức hình. Đúng
rồi! Nhưng không sợ, không có ai ở đây đâu. Tụi Ãng-ca đã chẳng nói:
“Vua Xi-ha-núc là đồ ăn bám, bị chính phủ Khơ-me dân chủ bỏ tù cải tạo
lao động” rồi đó sao.

Nắm can đảm trong hai bàn tay, Chầm -rên rảo bước qua cửa ăn
thông ra phòng phía sau. Quan sát qua loa, nó đoán đây là phòng giải lao
của vua, vì dưới cây lộng hình nấm to tướng bằng tơ tằm có tua tụi xanh
đó là chiếc đệm rấ t dày, tròn to như cái trông nhà trường.

Đẩy cánh cửa bên, Chầm-rên choá m ắt bởi các đồ vật bày bừa bộn
trên m ặt bàn, nào là mũ miện của vua, mũ của hoàng tử, của công chúa,
của nữ th ầ n Áp-sa-ra, m ặt nạ của dũng sĩ P rêân m ặt xanh, của chàng
tinh ba đầu, của đại bàng Krưda. Chầm -rên thích n h ấ t là mấy cái mũ có
đỉnh th áp nhọn hoắt, vàng rực.

Nó ướm thử m ột cái mũ tháp lên đâu. Đến trước tấm gương th ậ t to
trê n khung vang, cậu ta uốn hai bàn tay và co một chân theo điệu vũ
Lam-vông, tươi cười tự nhủ: “Mình có thua gì hoàng tử. Giá m à có nước,
m ình rửa qua bộ m ặt một chút thì hách phải biết”.

Trở ra, C hầm -rên lại xô một cánh cửa khác có chạm một cành tre
vàng, lá ngọc. Nó g iật nẩy mình khi thấy m ột th ằn g nhỏ đầu trọc ốm teo,
áo đen quá gốĩ đang đẩy cửa. Nó đưa tay lên đe, thằng kia cũng giơ tay
dọa lại. Thì ra là chính nó trong gương. Gian buồng này bôn phía đều là
gương nên trông tướng như rộng bát ngát, giữa phòng là một cái giường
kỳ lạ. Chầm -rên biết đó là giường vì trê n có nệm gối dài, gối ngắn bọc
gấm màu hoa cà đã sờn cũ. Thành giường chạm đến m ặt sàn, bcín m ặt

405
đều chạm trổ tin h vi, sơn son thiếp vàng. B ên trê n là m ột ngôi tháp.
Toàn bộ cái giường trông giống như m ột ngôi chùa nho nhỏ mở h ế t cửa.

Bên ngoài trời tối rấ t nhanh. Súng vẫn nổ râm ra n xa gần đâu đây.
Cơn đói như có ai ró t nước vào ruột, làm cho C hầm -rên buồn ngủ lạ, nó
lên giường nằm nhún thử, nệm lún đến nửa người, sờ đâu cũng thấy mềm
mại, m át rượi. N hìn lên trầ n thấy những hình vũ nữ lờ mờ xa xôi huyền
ảo, nó nhớ đến cha mẹ và em. Khi gặp lại nó kể chuyện này, chắc ba
phục nó ghê lắm. Hồi trước mỗi lần kể chuyện huyền bí của hoàng cung
xong ba nó thường chép miệng: “Đời m ình b iết chừng nào mới đặt chân
đến hoàng cung được”. Ba má, em Chầm-mâu, em Sơ-ri sẽ vui mừng h ết
sức vì không ngờ nó còn sống m à lại được vào ngủ ở hoàng cung. Nước
m ắt nó chảy ướt gối khi nhớ lại hôm bị đuổi ra khỏi Phnôm Pênh. Nó ốm
nặng không đi nổi, bọn lính Pôn Pốt dí súng lôi ba m á đi, bỏ mặc nó ở
lại. Ba chỉ nhìn, m ắt đỏ hoe, con m á th ì lồng lộn nắm chặt tay nó gào
khóc. Khi má bị lôi di xa, nó còn giữ lại m ãi tiếng m á gọi thảm th iết
“Chầm -rên con ơi”.

Thằng Chầm -rên bồng bềnh trê n chiếc thuyền rồng, rồi chìm dần,
chim dần trong tiếng ru của má:

“Con ai ngủ đi

Má hát con nghe

Đợi cơm chín con ăn

Đợi con lớn con đi học

Con học cho giỏi

Làm việc cho đời".

T răng rắc vàng trê n mái hoàng cung chập chùng, những ngọn tháp
trằ n trọc đứng sừng sững trong m àn sương mỏng. P h ậ t bôn m ặt trên
tháp chính nhìn trăn g với nụ cười huyền bí muôn thuở. Các m ái cong uốn
lượn uyển chuyển như những cánh tay vũ nữ trong điệu múa nữ th ầ n Áp-
sa-ra vẫy các vì sao.

Thằng Ãng-ca Yéak trá n dô, m á lồi, mỏ quắm, đưa bàn tay đầy
móng vuốt, chỉ vào m ặt Chầm -rên gầm gừ:

406
- Thằng nhài con! Đàn bò đâu rồi! M ất đàn bò mày phạm hai tội
m ột là phá hoại sản xuất, hai là không có th ịt có sữa cho cố vấn Trung
Hoa ăn cho khỏe để giúp Campuchia dân chủ đánh Việt Nam, mày phải
chết hai lần.

C hầm -rên sợ quá, định chạy, nhưng quay lại thì thấy phía sau có
một con sư tử nhe răng, hai con rắn hổ nghển cổ phồng mang, ngồi trên
m ình rắn là một ông vua, tay cầm búa. Chân cẳng Chầm -rên bị tê dại.

Từ xa cô m ấy chú bộ đội cầm cờ chạy lại, Chầm -rên cố gọi to nhưng


cổ họng bị nghẹt kêu không thành tiếng. Nó vùng ngồi dậy trê n giường
kỳ lạ, m ình ướt đẫm mô hôi, cổ khát như cháy.

Qua các khe cửa đã thấy ánh sáng nhờ nhờ, Chầm -rên vụt chạy ra
ngoài. N hìn qua đầu tường hình những cánh hoa sen nó thấy một công
viên cây cỏ um tùm. Nó phóng qua sân cỏ rộng, trèo khung cửa sắt, vượt
dường, lủi vào công viên rậm rạp những cây cảnh lâu ngày không được
chăm sóc cắt tỉa. Nó ngồi lên một băng ghế đá, nhìn lại m ặt trước cửa
hoàng cung. Nó nhớ hồi nó ngồi trên vai ba để xem lễ thì chính cánh
cổng sất nó trèo qua vừa rồi là chỗ đàn voi kiệu công chúa và hoàng tử đi
ra. Còn ngôi lâu đài không tường kia là nơi vua, hoàng hậu và các ông
lớn ngồi để cho người ta dòm.

Bỗng có tiếng chân sột soạt trên đá cuội. Một người đàn bà di về
phía nó. Bà ta trạc tuổi m á nó, ăn mặc buồn cười, trên là cái áo thun màu
xanh aọc đỏ dưới là cây aa-rông màu vàng còn đính hòng dăng ten trang,
bằng chứng của m ột tấm vải màn che cửa sổ. Bà ta xách một cây giỏ ni-
lông đỏ. Làm như đã quen biết từ lâu bà ta h ấ t cằm:

- Đêm qua mày ngủ ở đây à

Cũng không vừa, Chầm -rên hất đẩu về phía hoàng cung giọng khinh
khỉnh:

- Tôi ngủ trong kia kia? Bà hỏi làm gì?

Người đàn bà hơi kinh ngạc:

- Mày ngủ trong hoàng cung? Ra thế!

Chầm -rên h ít mũi, khiêu khích:

- Bà là Ãng-ca à?

407
- Tao cũng có thể nghĩ mày như vậy, vì th àn h phố này không có
dân, tao biết...

- Tôi thì khác, tôi bệnh nặng bị bỏ lại, Ăng-ca bắt tôi chăn bò cho
công xã ở cây số 6, bà không tin th ì lên đó m à xem.

Thấy th ằ n g bé căm ghét bọn Ăng-ca, nhưng rấ t đỗi ngây thơ, người
đàn bà ân h ận với thái độ vừa rồi, giọng ngọt ngào hơn:

- Cô tin cháu rồi. Cô cũng vậy cháu à, vợ chồng cô đang làm ruộng ở
hợp tác xã Kan Tuốt thì Ãng-ca b ắt về nhà m áy rượu Phnôm Pênh để
làm la de, nước ngọt cho tụi cố vấn Trung Hoa uống, khỏi phải chở từ bên
Tàu sang. Chồng cô trước làm ở xưởng đó mà. Sáng hôm qua, bọn Ảng-ca
bắt mọi người lên xe chở đi. Ra đến sân vận dộng đô th àn h thì xe đâm
vào gốc cây, nhiều người chết, cô cũng giả chết, chờ tụi Ăng-ca chạy hết,
rồi cô mới chạy trở vào th àn h phố. Loanh quanh trá n h những chỗ đánh
nhau mãi, rố t cuộc cô vào đến điện Chăm-ca-môn. Trời tối, không thấy
người, cô vào ngủ trong đó luôn.

C hầm -rên nhìn người đàn ba một lượt, vẫn chưa h ết khinh khỉnh:

- Cô ăn cắp những thứ ấy của người ta phải không?

Người đàn bã kiêu hãnh dằn từng tiếng:

- Không phải ăn cắp, mà lấy của cải của bọn Trung Hoa đã cho Pôn
Pốt đó.

- Bà ngủ m ột mình?

- Một m ình chứ mấy m ình (bà ta bật cười).

T hằng bé láu lỉnh làm cho người đàn bà th â n m ật hơn. Bà ta đặt cái
giỏ lên băng, rồi ngồi bên cạnh đó. Còn C hầm -rên cũng thấy hìn h như bà
này đứng về phe m ình, nên cũng kéo vạt áo che cái bụng, đong đưa hai
cẳng.

Người đàn bà ra vẻ vừa thạo đời vừa châm biếm:

- Đêm qua cháu ngủ trong buồng vua hay buồng hoàng hậu?

- Tôi không biết.

- Buồng hướng nam hay hướng bắc?

408
Thằng Chầm -rên không nói, nó quay đầu vào H oàng cung, chỉ về
phía bên trái.

- Như vậy là buồng hoàng hậu. còn buồng vua ở bên phải, hướng
bắc.

- Sao cô rành thế?

- Trước đây cô là vũ nữ Hoàng gia.

Đến phiên Chầm -rên ngạc nhiên.

- Cô là vũ nữ Hoàng gia?

Nó n hìn người đàn bà dò xét. Tuy cô ta gầy gò, nhưng những nét
trên m ặt, trên người cô chỗ nào mà má khen em Sơ-ri đẹp, thì cô đều có
như vậy. Còn chỗ nào chê Sơ-ri xấu thì cô khác. N hư vậy là cô này đẹp,
nó kết luận như th ế và tin hơn. Nó không cau có nữa, nên bà ta cũng
thấy nó xinh trai đáo để.

C hầm -rên mường tượng như đã thấy bức ảnh màu trê n vách nhà ai
đấy. Đầu cô đội mũ tháp vàng có cánh phượng che tai. M ình cô khoác
chéo chiếc khăn dệt chỉ vàng. Đôi vai trần cô đeo vòng ngọc nạm kim
cương ở cánh tay và cổ tay. Cô quấn xà rông gấm xanh, trê trễ sợi dây
th ắ t lưng bằng vàng. Sợ cô không nói nữa, nó linh hoạt h ẳn lên:

- Cô à. Hôm qua cháu thấy áo, mũ của các cô rồi, trong Hoàng cung

- Cháu có nhìn thấy nhà hát Hoàng cung không? Cái nhà ở góc
thành phía Nam, nhà có nhiều cột to sơn đỏ ấy. Cô đã diễn ở đó không
biết bao nhiêu lần trong những ngày lễ và những buổi tiệc n h à vua tiếp
khách nước ngoài.

Bỗng nhiên cô chau mày, giọng buồn buồn:

- Có tài, có sắc lúc đó cũng là tai họa đấy cháu ạ. Sămdéc K-Âu bà
ta hơi rùng m ình nhún vai, cười gằn - cô đến khổ với ông ấy...

Bà ta nín lặng nửa chừng. Tội nghiệp cho th ằn g bé, nó hiểu đấy.
Người đàn bà nhìn nó khẽ lắc đầu như muôn nói rằng: Cháu ơi, cháu còn
bé bỏng, làm sao hiểu được, mà cũng không nén cho trẻ con biết làm gì.
Dĩ vãng, m ột dĩ vãng mạ vàng đầy xót xa tủi nhục của m ột vũ nữ Hoàng
gia. Năm lên bảy tuổi, Sô-pha-ni được tuyển vào học múa trong hoàng
409
cung với một bà giáo sư giỏi nhất, vì em của m á cô là vợ thứ mấy không
biết nữa của Sămdéc K-Âu. Mười năm sau, cô trở th àn h ngôi sao chói lọi
tà i n ăn g và nh an sắc trong đoàn vũ Hoàng gia. Trong những chuyến
viếng du, Sămđéc K-Âu thường đưa đoàn vũ của cô theo để giới thiệu nền
nghệ th u ậ t của dân tộc. Nhiều vị đệ n h ấ t phu nhân các nước đã phải
ph át ghen lên vì cô. Điều đó càng làm cho Sămđéc K-Âu hãnh diện. Cô
cùng tuổi với Bô-pha Đê-vi. Vì không phải là công chúa nên cô không
được đề cao như vũ nữ Bô-pha Đê-vi. Sămđéc K-Âu là ông vua đóng phim,
sán g tác âm nhạc và còn dạy cả múa nữa! Nếu như ông mở ca-si-nô để
moi tiền trong máu mê cỡ bạc của dân, thầu nghệ thuật, n h ấ t là vũ và xi-
nê, th ì ông tuyển được gái đẹp n h ấ t trong nước. Gái nghệ th u ật lại văn
m inh, b iết làm duyên, biết tran g điểm...

Thấy th ằn g bé đăm chiêu, tội nghiệp, cô trở lại với nó:

- Cháu tên gì, năm nay bao nhiêu tuổi?

C hầm -rên lơ đãng trước câu hỏi của cô, vì nó đang đuổi bắt những ý
nghĩ theo trí nhớ sáng dần lên trong đầu. Nó quả quyết là trước ngày
Pôn P ốt lùa dân ra khỏi Phnôm Pênh có lần nó đã xem đoàn vũ của cô
biểu diễn trong một bộ phim màu. Cô đóng vai nữ thần Áp-sa-ra. Các
n àn g tiên ra trước đã thu hút nó ngay vì những bộ y phục lộng lẫy,
những chiếc mũ vàng một tháp rực rỡ với những động tác uyển chuyển
theo diệu nhạc ngũ âm quen thuộc, êm đềm. Những khi nữ thần Áp-sa-ra
xuất h iện thì lập tức làm lu mờ các vì sao. Áp-sa-ra đội mũ ba tháp, tươi
như bông hồng, từng bước đi theo tiêng trông dĩnh đạc, uy nghi. Áp-sa-ra
xoay chầm chậm trê n m ột chân có đeo hai kiềng vàng, năm ngón chân
trầ n cong dớt như mũi thuyền, cánh tay, bàn tay, ngón tay uốn cong theo
những chiều ngược nhau, mềm mại dịu dàng m ột cách lạ thường. Đúng cô
là Á p-sa-ra rồi. Đêm ấy về ba m á cháu và mấy người khách còn thức đến
khuya uống trà, nói chuyện về cô. Cháu nhớ có ai đó bảo là đầu cô, m ắt
cô, tay, chân, lưng, ngực cô đều biết nói. Cháu cứ thắc mắc hoài, không
hiểu tại sao họ lại nói như vậy. Cháu biết tên cô rồi. Cô không giấu cháu
được đâu. Chầm -rên cười một cách hóm hỉnh, như vừa phát hiện ra một
điều bí mật.

- Thưa cô cháu mười ba tuổi ạ. Cháu tên là Chầm -rên - Nó đáp như
m ột cái máy khi ngươi đàn bà lắc vai nó hỏi đến lần th ư hai.

410
Người vũ nữ giương đôi hàng mi dài và cong nhìn thằng bé, nói qua
hơi thở:

- Vậy là cháu lớn hơn con của cô hai tuổi, đứa con dộc n h ấ t của cô...

Sô-pha-ny lại đuổi theo những ý nghĩ lúc đậm, lục mờ... Lòng tự
trọ n g không cho phép cô làm mãi kiếp con chim trong lồng để thỏa m ãn
tín h ích kỷ, tham lam của một nhúm người đế vương chuyên sống trên
đầu, trên lưng hàng triệu dân dốt nát, đói khổ đến cùng cực. Cô cũng
không th ể chịu nhục nhã về tâm hồn và th ể xác, nên cô đã rời bỏ vũ
đoàn là nơi vô yêu thích nhất, nơi mà từ bé cô đã định gửi gắm cả cuộc
đời. Cô kết hôn với người yêu, một sinh viên nghèo được đi học bằng tiền
lương nghệ th u ật của cô.

- Ba m á cháu đâu rồi? - Giờ thì cô hỏi với giọng đầy tình cảm của
m ột người mẹ.

- Ba má và em cháu lạc m ất từ ngày bị đuổi ra khỏi Phnôm Pênh.

- Cháu à, chắc chết hết rồi... chồng cô, con cô đều chết hết.

Con cô - Bà ta ôm m ặt khóc nức nở - nó đi chăn trâu, nó sợ m ất trâu


Ảng-ca đập chết nên nó lội sông theo trâu... chết đuối... Trước ngày nó
chết, cô di làm ngang qua, nó gọi mẹ! Rồi nó khóc...

Chầm -rên thấy thương xót và tội nghiệp cho cô nhưng nó không
khóc, nó hỏi nho nhỏ:
- T hế tụi Pôn Pốt nó không giết cô à?

- Cô giấu kỹ lắm. Con coi nè, tay cô chai dày nổi cục hết, chân cô
đầy vết sẹo. Nghệ th u ật sân khấu đã giúp cô đánh lừa được tụi ngu si ấy.

M ặt trời đã lên khỏi ngọn cây. Dòng sông Mê Kông như m ột bức
tra n h trên kính, nền màu da cam hừng hực sắc xuân sông động. Từ bờ
sông xuất hiện hai anh bộ đội đi vào công viên. Họ ăn mặc rấ t giống
nhau, quân phục màu mạ non còn nguyên nếp gấp rấ t vừa với khổ người,
đầu đội kết Lê-nin cùng màu với quân phục. Chiếc băng đỏ trê n cánh tay
càng làm tăng thêm vẻ cương nghị tươi trẻ. Khẩu AK chéo ngang ngực
vơi chiếc th ắ t lưng rấ t gọn gàng. Hai anh song bước trê n đôi giày vải
m àu xâm sậm. Tóc đen, m ặt sáng, họ đẹp quá, làm cho Chầm -rên có cảm
tìn h ngay, còn người đàn bà thì hơi lo, họ đến đứng trang nghiêm trước

411
m ặt hai người và tươi cười chắp tay chào. M ột a n h nói tiến g Khơ-me
chậm rãi, câu nào tròn câu ấy như đọc sách.

- Chào bà, chào em. Có phải hai mẹ con không ạ?

Người đàn bà chặp hai bàn tay với những ngón dài và cong, do dự
một lá t rồi gật đầu:

- Dạ... dạ, phải ạ!

Chầm -rên nhìn xuống đất, nó kéo vạt áo đậy bụng.

- Bà làm việc trong thành phô', chắc bà quen thuộc nhiều ở Phnôm
Pênh này chứ?

Người đàn bà bối rối.

- Tôi là người Phnôm Pênh này, nhưng Ãng-ca không cho đi đâu hết
nên không biết gì cả.

Một anh bộ đội vội vàng quay trở ra phía bờ sông càng làm cho
người đàn bà thêm sốt ruột. Anh còn làm chưa nói thạo tiến g Khơ-me,
nhưng đã vui vẻ nói cả bằng đầu, bằng m ắt, bằng tay.

- Thưa bà, chúng tôi muôn nhờ bà và em giúp chúng tôi hiểu rõ hơn
th àn h phố Phnôm Pênh.

Người đàn bà trả lời chậm rãi từng tiếng vừa ra điệu bộ như cô giáo:
- Thưa óng, tõi lam ớ nha may nươc ngọt còn em nay th i chan trâu ở
công xã cây sô' 6. Nhà của tôi trước ở chợ cũ. Lâu lắm rồi tôi không được
về qua đó. Chồng con tôi đều bị giết h ết rồi. Ba năm rồi tôi không được
biết gì về th àn h phô' này.
- Bà hãy gọi chúng tôi bằng anh bộ đội cho th â n m ật.
Anh bộ đội lúc nãy trở lại, có m ang theo m ột chiếc túi vải bên hông,
đến nơi anh mở nắp túi lấy ra bốn gói mì tôm đưa cho em bé.
- Em cầm lấy ăn đỡ, hình như em đang đói th ì phải. Nếu bà và em
cần gạo thì cứ đến chỗ bộ đội mà lấy, chỗ nào cũng được.
Chầm -rên đưa hai tay đỡ quà tặng, m ặt nó tươi rói, nó muôn nói
m ột câu gì, nhưng chưa biết phải nói gì, nó lẩm bẩm:
- Cám ơn!

412
Anh bộ đội đeo túi nheo m ắt tươi cười bảo Chầm-rên:
- Đêm qua em ngủ trong Hoàng cung phải không?
Nụ cười của C hầm -rên bỗng méo xệch, nó cụp mi m ắt nhìn xuống
đôi chân đầy cáu ghét. Anh bộ đội kia cũng nói với giọng hiền từ.
- Đêm qua chúng tôi thấy bà vào ngủ trong điện Chăm-ka-môn. Trải
qua bao ngày th án g khổ cực mưa nắng, có điều kiện cũng phải ăn ở êm
ấm một chút chớ, em nhỉ!

Thằng Chầm -rên h ế t sợ, nó nghĩ rằng không có cái gì mà các chú
không biết, nó đánh bạo nói:
- Hôm qua cháu th ấy đội lính chạy lên U-đông nhiều lắm, cháu thấy
m ấy chú treo cờ trê n nóc nhà nữa. Thấy mấy chú chạy tàu lên cù lao nữa
cơ.
- Sao cháu không chạy đến với mấy chú?
- Cháu sợ... m ấy chú nói cháu là lính của Pôn Pốt.
Hai anh bộ đội cười xòa, người đàn bà cũng cười theo. Một anh móc
túi áo trên ngực lấy quyển sổ nhỏ bìa đỏ trao cho người đàn bà:
- Thưa bà, đây là quyển “Cương lĩnh M ặt trậ n Đoàn kết dân tộc cứu
nước”, bà hãy đọc và giải thích cho mọi người nghe. Hai mẹ con một
quyển, hay là em bé cầm một quyên riêng?
C h ầm r c n th â y c ầ n p h ả i nói th ậ t, có v iệ c gì m à các ch ú k h ô n g b iế t.

- Chú bộ đội ơi! Không phải mẹ con đâu! Cháu có ba má, em Sơ-ri và
em Chầm-mâu, đi lạc h ế t rồi. Còn đây là cô Sô-pha-ny, vũ nữ Hoàng gia
đấy.

Hai anh bộ đội tươi vui nhìn người dàn bà, m ột anh giọng ôn tồn và
lịch sự:

- Chúng tôi có nghe tiếng chị trê n báo chí trước năm 1970. Hân
hạn h hôm nay được gặp chị. Tốt lắm, chị sẽ trở về với nghệ th u ật để giúp
dân giúp nước. Đ ất nước m ình rấ t cần khôi phục lại tấ t cả, khôi phục lại
nền văn hóa cổ truyền lâu đời của dân tộc để phục vụ và phát triển đời
sông tin h th ần của nh ân dân. Cỡ nghệ sĩ như chị có lẽ bọn Pôn Pốt giết
h ết rồi, không còn sót mấy người, đó là vốn rấ t quí.

413
Sô-pha-ni lấy làm lạ hết sức về quan niệm văn học nghệ th u ậ t mà
cô mới nghe lần đầu. Những điều m à cô dằn vặt trong bao nhiêu năm
trời dưới chế độ cũ, bây giờ bỗng chốc như được mở tung ra, sáng sủa
trong câu nói giản dị chân tìn h của anh bộ đội. Tuy mởi chỉ là một bóng
dáng lờ mờ, nhưng cô đã thoáng thấy hướng đi và tầm vóc vĩ đại của nền
nghệ th u ật dân tộc nếu như được đi đúng hướng ấy.
Anh bộ đội hỏi lại:
- Thưa chị, lúc nãy chị nói anh nhà bị giết chết năm nào, ở đâu ạ?
- Chồng tôi bị Pôn Pốt giết hồi th án g mười năm ngoại ở nhà máy
rượu cây số ba, chỉ vì chúng cho là có dòng m áu V iệt Nam.
Anh bộ đội nghiêm nét m ặt, giọng nói đầy cương nghị:
- Chỉ chuyện ấy thôi cũng đủ thấy rằn g m áu của dân tộc Campuchia
và Việt Nam đã đổ vì sự sống còn của hai dân tộc. Trước đây bọn đế quốc
Mỹ, Pháp và gần đây bọn Pôn Pốt - Iêng Xa-ri tay sai của bọn bành
trướng Trung Hoa đều muốn chia rẽ hai dân tộc V iệt Nam, Cam puchia để
dễ bề thông trị. Cho nên, hai dân tộc phải đoàn k ế t cùng nhau sát cánh
dể đánh bại mọi kẻ thù. Kẻ nào muốn chia rẽ hai dân tộc ta là kẻ thù
chung của chúng ta.
C hầm -rên nhìn hai chú bộ đội không chớp m ắt. Nó nuốt từng lời,
trong óc nó cũng lập lòe một tia lửa nhỏ. Chú bộ đội đeo túi vải nói với
nó:
- Còn em, em tên gì? Rồi đây em sẽ được đi học, học th ậ t giỏi nghe
em, để làm việc cho dân cho nước. Nước m ình cũng giàu lắm , dân m ình
siêng năng cần cù lắm. Cùng nhau đoàn kết xây dựng lại Tổ quốc, không
bao lâu sẽ ấm no sung sướng.
Chầm -rên cảm th ấy ấm áp trong lòng vì lời nói của chú bộ dội sao
giống câu h á t mẹ thường ru quá. Sô-pha-ny đứng dậy, trong tim cô như
được tưới qua m ột dòng máu mới, như từ dưới lòng đ ấ t sâu thẳm có một
sức m ạnh lạ lùng nào đẩy cô lên, như từ bầu trờ i xanh vời vợi kia có một
bàn tay kỳ diệu nào kéo cô dậy. Ngỡ ngàng và th a th iế t quá, cô nhìn hai
anh bộ đội với cặp m ắt đằm thắm chan hòa nước m ắt của m ột tâm hồn
nữa được sống lại. Sô-pha-ni nói nghẹn ngào.
- Bây giờ chúng tôi đi về dâu và làm gì?
Thằng Chầm -rên cũng nói chen vào như reo lên:

414
- Chú bộ đội giải phóng ơi, cho cháu đi cùng. Cháu sợlắm.Cháu
không ở đây đâu. Cháu sẽ làm mọi việc các chú chỉ bảo mà.
- Cháu bé, cháu cứ ở đây, đã có các chú. Chính cháu là người chủ
Hoàng cung. Cả chị Sô-pha-ni nữa, cả nhân dân Campuchia là người chủ
Hoàng cung, người chủ của một đất nước đã trải qua một thảm họa tàn
khốc, vừa mới hồi sinh, có nhiều việc phải làm lắm.
Cả bôn người cùng đi về phía nhà hát Hoàng gia.
N ắng sớm mai chạy lung linh trên những vòm cây xanh ngắt, trên
những mái ngói đỏ tươi, trê n dòng sông Mê Kông lộng gió. Một mùa xuân
lại đến.

Phnôm Pênh
Xuân 1979

BÙI CÁT VŨ

* * *

415
M Ụ C LỤ C
Trang

LỜI NÓI ĐẨU....................................................................................................5

Phần I: THÔNG TIN cơ BẢN VỂ VƯƠNG QUỐC


CAMPUCHIA VÀ QUAN HỆ VIỆT NAM - CAMPUCHIA... 7

KHÁI QUÁT CHUNG.................................................................................... 7

LỊCH SỬ PHÁT T R IỂ N ................................................................................ 8

THỂ CHẾ CHÍNH T R Ị................................................................................ 10

KINH T Ế ..........................................................................................................11

CHÍNH SÁCH ĐỐI NG O Ạ I....................................................................... 12

QUAN HỆ VỚI VIỆT N A M ....................................................................... 13

P h ầ n II: H IỆ P ƯỚC H Ò A B ÌN H , HỮU N G H Ị V À H ộ p T Á C


V IỆ T N A M - C A M P U C H IA ............................................................. 17

LỆNH SỐ 15-LCT NGÀY 26/02/1979 CỬA CHÚ TỊCH NƯỚC


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Phê chuẩn
Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa N hân dân
Cam puchia.................................................................................................... 17

QUYẾT NGHỊ s ố 438-NQ/QHK6 NGÀY 23/02/1979 CỦA UỶ


BAN THƯỜNG v ụ QUOC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Phê chuẩn Hiệp ước hoà bình, hữu
nghị và hợp tác giữa Việt Nam và C am puchia...................................18

H IỆP ƯỚC HÒA BÌNH, HỮU NGHỊ VÀ HƠP t á c giữa nước


Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa N hân
dân C am puchia............................................................................................19

416
Phần III: PHÁT BlỂU CỦA LÃNH ĐẠO HAI NƯỚC VIỆT
N A M - C A M P U C H IA T Ạ I LỄ m í t t i n h k ỷ n i ệ m 35
N Ă M N G À Y C H IẾ N T H A N G c h ế đ ộ d i ệ t c h ủ n g .......23

PHÁT BIỂU CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC TRƯƠNG TAN s a n g


NGÀY 5/1/2014 tại Lễ mít tinh kỷ niệm 35 năm Ngày Chiến
th ắng chiến tran h bảo vệ biên giới Tây-Nam và cùng quân
dân Campuchia chiến thắng chê độ diệt chủng (7/1/1979 -
7/1/2014) *........................................................................... .......................23

PHÁT BIỂU CỬA CHỦ TỊCH Q ư ố c HỘI VƯƠNG Q ư ố c


CAMPUCHIA HÊNG XOM-RIN NGÀY 5/1/2014 tại Lễ m ít
tin h trọng th ể kỷ niệm 35 năm sự kiện Quân tình nguyện
V iệt Nam thực hiện một sứ mệnh lịch sử cao cả, giúp giải
phóng nh ân dân Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng Pôn
P ốt và giành đại thắng vào ngày 7-1-1979 ........................................ 28

Phần IV: ĐẬP TAN HÀNH ĐỘNG XÂM Lược, ĐÁNH Đổ


C H Ế Đ Ộ D IỆ T C H Ủ N G ...................................................................34

TIẾN VỀ BIÊN GIỚI QUÉT SẠCH QUÂN DIỆT CHỬNG


KHỎI TÂY N IN H .................................................................................... 34
Thiếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN

Đ Á N H Đ ỊC H B Ả O V Ệ V Ữ N G C H Ắ C t u y ế n b i ê n g i ớ i .................37
Thiếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN

THỌC SÂU ĐÁNH ĐỊCH GIÚP BẠN MỞ RỘNG ĐỊA BÀN


HOẠT Đ Ộ N G ........................................................... ................................. 41
Thiếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN

ĐƯA CHIẾN TRƯỜNG SANG ĐẤT Đ ố i p h ư ơ n g , đ á n h


ĐỊCH BẢO VỆ VỮNG CHẮC VỪNG BIÊN G IỚ I........................... 45
Thiếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN

TỔNG TIẾN CÔNG GIẢI PHÓNG VÙNG ĐÔNG SÔNG MÊ


KÔNG, TẠO THỂ ĐÁNH VÀO PHNÔM P Ê N H ...............................49
Thiêu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN

417
ĐÁNH ĐỊCH GIẢI PHÓNG c ố ĐÔ XIÊM R IỆ P ............................... 53
Thiếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN

PHÁT TRIỂN TIẾN CÔNG TIÊU DIỆT ĐỊCH GIẢI PHÓNG


TỈNH PÔ X Á T ................................................... ....................................... 56
Thiếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN

ĐÁNH ĐỊCH PHẢN KÍCH - PHÁT TRIỂN g i ả i p h ó n g PAI


L IN ..... ..........................................................................................................59
Thiếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN

TIẾN CÔNG VÀO SÀO HUYỆT cuối CÙ N G ....................................63


Thiếu tướng, PGS, TS. BÙI THANH SƠN

PHỐI HỢP TỔ CHỨC L ự c LƯỢNG PHẢN CÔNG VÀ TIÊN


CÔNG GIÀNH THẮNG L Ơ I................................................................. 67
Đại tá, TS. DƯƠNG ĐÌNH LẬP

QUÂN ĐỘI VIỆT NAM ĐÃ ĐÁNH TAN QUÂN DIỆT CHỦNG


POL POT NHƯ THẾ NÀO?.................................................................... 70
ĐỨC TOÀN

QUÂN ĐỘI VÀ NHẨN DÂN VIỆT NAM c ú u NHÂN DÂN


CAMPƯCHIA ANH EM THOÁT KHỎI HỌA DIỆT CHỬNG,
T ĩĩl.ír H ĨỆN HỐT RĨNH MỘT DÂN TỘC...........................................81
Đại tá LÊ LIÊN

CHUYỆN ĐÁNG NHỚ Ở CHIÊN TRƯỜNG CAM PUCH IA .......... 93


Đại tá LÊ HẢI TRIỀU

BÀI HỌC XƯƠNG MÁU TỪ CHẾ ĐỘ DIỆT CHỦNG POL POT


- KHMER Đ Ỏ ............................................... ............................................. 99
TRUNG HIẾU

NHỬNG BỨC ẢNH T ố CÁO TỘI Á c MAN RỢ CỦA PÔN PỐT . 109

Phần V: VUN ĐAP tìn h hữu nghị và hộp t á c v iệ t


NAM - CAMPUCHIA LÊN TẦM CAO MỚI................115

418
s ự GIÚP ĐỠ CHÍ TÌNH, CHÍ NGHĨA CỦA QUÂN TÌNH
NGUYỆN VIỆT NAM Đ ối VỚI CÁCH MẠNG CAMPUCHIA.. 115
Nguyên Tổng Bí thư LÊ KHẢ PHIÊU

CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ TÌNH HỮU NGHỊ VIỆT NAM -


CAMPUCHIA.............. .......................................................................... 123
Trung tướng PHÙNG KHẮC ĐÃNG

TINH THẦN QUỐC TẾ VÔ SẢN CỦA QUÂN TÌNH NGUYỆN


VÀ CHUYÊN GIA VIỆT NAM Đ ối VỚI s ự H ồ i SINH DAT
NƯỚC CAMPUCHIA..Ì..................................... .................................. 128
PGS, TS. NGUYỄN MẠNH HÀ và TS. TRAN trọng th ơ

GIÚP BẠN VƯỢT QUA NẠN ĐÓI....................................................... 134


Đại tá PHẠM HỮU THẮNG

XÂY DựNG MỐI QUAN HỆ ĐOÀN KẾT, HỮU NGHỊ VÀ


HỢP TÁC TRÊN TUYẾN BIÊN GIỚI TỈNH TÂY N IN H ............139
Đại tá ĐỖ VĂN BẢNH

QUAN HỆ VIỆT NAM - CAMPUCHIA: LỊCH s ử MÃI KHẮC


G H I ...... ......... ......................................................................... ..................................... .............
ÁNH HUYÊN - HƯƠNG GIANG

C H IẾ N T H Ắ N G 7 1 1 9 7 9 M ỘT B lỂ U T Ư Ợ N G CAO Đ Ẹ P V Ề
QUAN HỆ VIỆT NAM - CAMPUCHIA..... ......................................147
Đại tá, TS. DƯƠNG ĐÌNH LẬP

QUAN HỆ HỮU NGHỊ, HỢP TÁC TOÀN DIỆN VIỆT NAM -


CAMPUCHIA TRONG GIAI ĐOẠN M Ớ I..... .................................. 150
TRẦN ĐÌNH ANH

NHỮNG NGÀY THÁNG NHỚ MÃI......................................................154


LÊ QUÝ HOÀNG

CÁCH MẠNG CAMPUCHIA VÀ DẤU Ấ n q u â n t ì n h


NGUYỆN VIỆT NAM TRÊN ĐẤT NƯỚC CHÙA TH Á P.............158
Đại tá, TS. DƯƠNG ĐÌNH IẬP

419
35 NĂM NHÌN LẠI “S ự KIỆN LỊCH s ử 07-01-1979” TRONG
QUAN HỆ VIỆT NAM - CAM PUCHIA.............................................165
PGS, TS. HỒ KHANG

NGHĨA CỬ CAO ĐẸP CỬA “BỘ ĐỘI c ụ H ồ ” TRONG THựC


HIỆN NHIỆM VỤ QUỐC TẾ TẠI CAM PUCHIA................... 172
Thiếu tướng, PGS, TS. v ũ QUANG ĐẠO

ĐẨY MẠNH HỢP TÁC QUỐC PHÒNG VIỆT NAM -


CAMPUCHIA LEN t ầ m c a o m ớ i v ì h ò a b ì n h , t h ị n h
VƯỢNG VÀ TÌNH HỮU NGHỊ CỬA HAI DÂN T Ộ C ...................180
Thượng tướng NGUYEN CHÍ VỊNH

45 NÃM QUAN HỆ HỮU NGHỊ, HỢP TÁC TOÀN DIỆN VIỆT


NAM - CAMPUCHIA............. ......................................................... 185
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao PHẠM BENH MINH

Phần VI: BỘ ĐỘI cụ Hồ ở CÁC MẶT TRẬN BIÊN GIỚI


TÂY-NAM QUA NHỮNG TRANG TRUYỆN NGAN.... 191

ANH ẤY KHÔNG ĐƠN ĐỘC....................................................................191


VĂN LÊ

ÁNH L Ử A ......................................................................................................206
TRẦN ĐÌNII TIlẾ

BÀ MẸ u ĐÔ N ............................................................................................. 218
LÊ QUỐC PHONG

BÀI THƠ CỬA A N H ................................................................................... 232


CHU LAI

CÁI CHẾT CỬA BUN T H O N ...................................................................251


LÊ HUY KHANH

C Â U C H U Y Ệ N B Ê N CÂY C À U P IA -R Ê T ................................................. 257


NGÔ QUỐC DÂN

420
CHĂN THA.................................................................................................272
TRẦN THƯỲ MAI

CHUYỆN Ở PAI-LIN............................................................................... 281


DẠ NGÂN

CHUYẾN XE Đ Ê M .................................................................................. 295


MA VÃN KHÁNG

ĐƯỜNG QUA PHUM THA KHẢY....................................................... 305


KHUẤT QUANG THỤY

EM BÉ CÂM TRƯỚC ĐỀN ẢNG-KO................................................... 320


LÊ L ựu

KHÔ CHẢNĐARA.....................................................................................330
ĐỖ VIẾT NGHIỆM

LÚA Đ Ô I..................................................................................................... 341


LÊ THANH HUỆ

MÙA KHÔ NÀY CÓ MỘT DÒNG s u ố i TRONG..............................356


NGUYỀN CHÍ TRUNG

NĂM THÁNO QTTA F)T............................................................................3G8


NGUYỄN THỊ NHƯ TRANG

NẶNG HƠN ÁM Ả N H ............................................................................. 390


VƯƠNG TRỌNG

NGƯỜI CHỦ HOÀNG CUNG................................................................ 401


BÙI CÁT VŨ

MỤC LỤC.........................................................................................................416

421
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - THÔNG TIN
43 Lò Đúc - Hà Nội

C H IẾN THẮNG
BIÊN GIỚI TÂY-NAM VIỆT NAM
VÀ DẤU ẤN
QUÂN TÌNH NGUYỆN VIỆT NAM
ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG CAMPUCHIA

Chịu trách nhiệm xuất bản:


LÊ TIẾN DŨNG

Biên tập: VŨ ĐÌNH QUYEN


Trình bày bìa: NGỌC LIÊM
Sửa bản in: MINH CHÂU

Sưu ¡ầm, biên soạn:


VŨ NGỌC THIÊN NGÂN

In 1.000 bân, khổ 19 X 27 cm tại Công ty cổ phần In Việt Nam.


Giấy ĐKKHXB số: 88-2014/CXB/120-201/VHTT của Cục Xuất bản.
Quyết định xuất bản số: 15/QĐ-NXBVHTT ngày 10/ 02/2014
của Nhà Xuất bản Văn hóa - Thông tin.
In xong và nộp lưu chiểu: Quý I năm 2014.

You might also like