Professional Documents
Culture Documents
Giá trị CA125, HE4 trong dự báo ung thư buồng trứng
Giá trị CA125, HE4 trong dự báo ung thư buồng trứng
BUỒNG TRỨNG TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HẢI PHÒNG NĂM 2019-2020
Nguyễn Thị Mai Phương
Đại học Y Dược Hải Phòng
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: HE4 mới được áp dụng trong chẩn đoán và theo dõi ung thư buồng trứng tại
bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng từ tháng 8/2019. Mục tiêu: (i) Đánh giá độ nhậy, độ đặc
hiệu của HE4, CA125 và chỉ số ROMA trong chẩn đoán ung thư buồng trứng tại bệnh
viện Phụ Sản Hải Phòng từ 12/8/2019 đến 30/4/2020; (ii) Nhận xét mối tương quan giữa
CA125, HE4 và chỉ số ROMA với giai đoạn bệnh và kết quả mô bệnh học của ung thư
buồng trứng ở những bệnh nhân nói trên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả
cắt ngang trên 166 hồ sơ của bệnh nhân được chẩn đoán khối u buồng trứng và được phẫu
thuật tại bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng từ 12/8/2019 đến 31/4/2020. Kết quả: CA125: cut-
off 37,6 U/ml, độ nhậy 71,4%, độ đặc hiệu 73,7%, LR+ 2,7 (p< 0,05). HE4: cut-off 69,2
pmol/l, độ nhậy 57,1%, độ đặc hiệu 94,1%, LR+ 9,7 (p < 0,05). ROMA: cut-off 15,7%,
độ nhậy 57,1%, độ đặc hiệu 93,4%, LR+ 8,7 (p < 0,05). Kết luận: ROMA có giá trị cao
hơn trong dự báo ung thư buồng trứng so với CA125 và HE4.
Từ khóa: ung thư buồng trứng, CA125, HE4, ROMA, bệnh viện Phụ Sản Hải
Phòng.
CA125, HE4, ROMA IN PREDICTING OVARIAN CANCER
AT HAIPHONG HOSPITAL OF OBSTETRICS & GYNECOLOGY 2019-2020
Nguyen Thi Mai Phuong
Haiphong University of Medicine and Pharmacy
ABSTRACT
Objectives: Find out the sensitivity and specificity values of CA125, HE4 and ROMA in
predicting ovarian caner at Haiphong Hospital of Obstetrics and Gynecology. Materials
and methods: a cross- sectional in 166 medical records of ovarian tumour women had
been operated at Haiphong Hospital of Obstetrics and Gynecology from August, 2019 to
April, 2020. Results: CA125: cut-off 37.6 U/ml, sens 71.4%, spec 73.7%, LR+ 2.7 (p <
0.05). HE4: cut-off 69.2 pmol/l, sens 57.1%, spec 94.1%, LR+ 9.7 (p < 0.05). ROMA:
cut-off 15,7%, sens 57.1%, spec 93.4%, LR+ 8.7 (p < 0.05). Conclusion: ROMA is a
better preditor of ovarian cancer than CA125 or HE4.
Keywords: ovarian cancer, CA125, HE4, ROMA, Haiphong Hospital of Obstetrics and
Gynecology.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư buồng trứng (UTBT) là ung thư phổ biến đứng thứ 7 ở phụ nữ và là
nguyên nhân phổ biến thứ 8 gây tử vong do ung thư, với tỷ lệ sống sót sau 5 năm dưới
45%.Theo dự án nghiên cứu ung thư của tổ chức Y tế thế giới, năm 2018 trên thế giới
phát hiện khoảng 295.414 ca UTBT, chiếm 3,4% trong tổng số các trường hợp ung thư ở
phụ nữ, trong đó có 184.799 ca tử vong, chiếm 4,4% toàn bộ tỷ lệ tử vong liên quan đến
ung thư ở phụ nữ. Tại Việt Nam, theo số liệu thống kê của WHO 2018, mỗi năm có
khoảng 1500 ca mắc mới UTBT[1].
Tỷ lệ tử vong cao của UTBT (61-83% nếu phát hiện muộn) là do khối u phát triển
âm thầm, không triệu chứng, cũng như triệu chứng khởi phát thường muộn và việc tiếp
cận hạn chế tới các phương pháp sàng lọc thích hợp dẫn đến chẩn đoán thường ở giai
đoạn muộn. Vì vậy chẩn đoán sớm và sàng lọc UTBT thường phải kết hợp lâm sàng với
phương tiện chẩn đoán hình ảnh và xét nghiệm chất chỉ điểm u. Tuy nhiên, các triệu
chứng lâm sàng trong giai đoạn sớm của bệnh thường không cấp tính, mơ hồ, do đó sàng
lọc và chẩn đoán chủ yếu dựa vào chất chỉ điểm u.
Kháng nguyên ung thư 125 (CA125) (còn được gọi là chất chỉ thị ung thư, viết tắt
của “Cancer Antigen”) bản chất là một protein có nguồn gốc từ biểu mô khoang cơ thể
(màng ngoài tim, màng phổi, màng bụng), biểu mô Muller (ống dẫn trứng, nội mạc tử
cung, kênh cổ tử cung) và hiện diện trên bề mặt của hầu hết các tế bào ung thư buồng
trứng. CA125 là chất chỉ điểm u được sử dụng rộng rãi để chẩn đoán và theo dõi phụ nữ
bị UTBT, tuy nhiên CA125 lại không tăng ở 20% bệnh nhân. Năm 2009, trên thế giới đã
áp dụng HE4 trong chẩn đoán UTBT, chất chỉ điểm này đã được chấp thuận ở châu Âu và
châu Mỹ La Tinh. HE4 cũng đã được dùng ở Mỹ và được FDA chứng nhận. Theo những
dữ liệu được báo cáo trong một nghiên cứu đa trung tâm gần đây của Ý cho thấy HE4
trong UTBT có vẻ đáng tin cậy hơn CA125[2]. Năm 2009, Moore đã đề xuất một thuật
toán: Nguy cơ thuật toán ác tính buồng trứng (ROMA), là sự kết hợp của CA125 và HE4,
công cụ chẩn đoán hữu ích trong UTBT và có thể sử dụng bổ sung cho mỗi dấu ấn sinh
học[2].
Tại Việt Nam, gần đây HE4 đã được áp dụng trong chẩn đoán và theo dõi UTBT ở
những bệnh viện chuyên khoa ung thư, bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng đã triển khai sử
dụng HE4 từ tháng 8 năm 2019. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào đánh giá hiệu quả sử
dụng HE4 trong sàng lọc UTBT. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nhận xét
giá trị của HE4, CA125 và chỉ số ROMA trong chẩn đoán ung thư buồng trứng tại
bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng năm 2019 – 2020’’ với hai mục tiêu: (i) Đánh giá độ
nhậy, độ đặc hiệu của HE4, CA125 và chỉ số ROMA trong chẩn đoán ung thư buồng
trứng tại bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng từ 12/8/2019 đến 30/4/2020; (ii) Nhận xét mối
tương quan giữa CA125, HE4 và chỉ số ROMA với giai đoạn bệnh và kết quả mô bệnh
học của ung thư buồng trứng ở những bệnh nhân nói trên. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
nhằm giải quyết giả thuyết nghiên cứu là: HE4 và chỉ số ROMA có độ nhậy và độ đặc
hiệu cao trong chẩn đoán ung thư buồng trứng.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đây là một nghiên cứu mô tả cắt ngang dựa trên 166 hồ sơ của bệnh nhân được
chẩn đoán khối u buồng trứng và được phẫu thuật tại bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng từ
12/8/2019 đến 31/4/2020 lưu trữ tại phòng Kế hoạch-Tổng hợp, Bệnh viện Phụ Sản Hải
Phòng thỏa mãn các tiêu chuẩn: (i) Hồ sơ của bệnh nhân được chẩn đoán xác định là u
buồng trứng hoặc ung thư buồng trứng và được phẫu thuật tại bệnh viện Phụ Sản Hải
Phòng; (ii) Hồ sơ của bệnh nhân u BT được xét nghiệm CA125, HE4 và chỉ số ROMA
trước mổ; (iii) Xét nghiệm mô bệnh học ung thư buồng trứng được hội chẩn bởi ít nhất 2
bác sĩ giải phẫu bệnh và (iv) hồ sơ bệnh án có đầy đủ thông tin cần thiết cho nghiên cứu.
Loại ra khỏi nghiên cứu các hồ sơ bệnh án của bệnh nhân có tiền sử bị ung thư khác di
căn đến buồng trứng hoặc ung thư phúc mạc tiên phát hoặc có bất kỳ bệnh ung thư nào
kèm theo, bệnh nhân đang mang thai, bệnh thận hoặc trải qua cấy ghép cơ thể hoặc bệnh
nhân không có xét nghiệm HE4, CA125 huyết thanh trước mổ.
Số hồ sơ nghiên cứu phù hợp với cỡ mẫu tối thiểu để ước tính độ đặc hiệu của một
(False Positive): Số dương tính giả; TN (True Negative): Số âm tính thật; Pdis : tỉ lệ lưu
hành của bệnh trong quần thể trong nghiên cứu trước, là 10,8%[27]; :giá trị thu được từ
bảng Z, giá trị là 1.962, tương ứng vói α = 0.05; Psp: là độ đặc hiệu của nghiên cứu trước là
90,0%; w: khoảng sai lệch mong muốn, bằng 0,05.
Số liệu được quản lý và xử lý trên phần mềm SPSS 16.0. Các biến số liên tục được
xử lý bằng phép kiểm định T- test hoặc ANOVA test. Các biến số định tính dùng phép
kiểm định Chi square hoặc Fisher’s exact test. Các test có sự khác biệt mang ý nghĩa
thống kê khi p < 0,05.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Một số đặc điểm chung
Bảng 1. Phân bố tuổi, tình trạng kinh nguyệt, phân loại theo IOTA và mô bệnh học
n %
Tuổi
< 20 8 4,8
21-30 35 21,1
31-40 53 31,9
41-50 39 23,5
51-60 19 11,4
61-70 10 6,0
> 70 2 1,2
Trung bình (min, max) 39,6 ± 12,5 (16,78)
Tình trạng kinh nguyệt
Chưa hành kinh 1 0,6
Còn kinh 142 85,5
Mãn kinh 23 13,9
IOTA (phân loại của siêu âm)
Nhóm B (không có nguy cơ ác tính) 150 90,4
Nhóm M (có nguy cơ ác tính) 16 9,6
Mô bệnh học
Ung thư biểu mô không biệt hóa 2 1,2
Ung thư biểu mô tế bào vảy 4 2,4
U dạng nội mạc ác tính 6 3,6
U thanh dịch ác tính 2 1,2
U xơ buồng trứng 1 0,6
U buồng trứng chảy máu 2 1,2
U nang thanh dịch 66 39,8
Lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng 27 16,3
U tế bào vỏ 4 2,4
U nang nhầy 4 2,4
U nang bì 48 28,9
Giai đoạn bệnh của ung thư buồng trứng
Ung thư buồng trứng tái phát 0 0,0
FIGO IV 0 0,0
FIGO III 2 14,4
FIGO II 6 42,8
FIGO I 6 42,8
3.2. Độ nhạy, độ đặc hiệu của CA125, HE4 và chỉ số ROMA trong ung thư buồng trứng