Professional Documents
Culture Documents
k2 - Attachments - DANH GIA KET QUA DIEU TRI VIEM RUOT THUA TAI BVDKKVAG
k2 - Attachments - DANH GIA KET QUA DIEU TRI VIEM RUOT THUA TAI BVDKKVAG
ABSTRACT:
Aim: To compare the outcome of laparoscopic versus open appendectomy.
Methods: Prospective, clinical trial study. A total of 267 patients were operated at Chau
Doc regional general Hospital from jan/ 2010 to march/ 2011. The patiens were divived into
2 groups: 136 patients underwent laparoscopic appendectomy and 131 patients underwent
open appendectomy.
Results: Mean age of patients was 38, the youngest was 15 and the oldest was 83 years old.
The operating time and the cost of treament were similar in the two groups ( 44.67 vs 45.53
minutes ), ( 2,401,883 vs 2,401,883 VNĐ). Laparoscopic appendectomy provides certain
advantages over open appendectomy, including a shorter hospital stay (4,53 vs 6,00 days),
early food tolerance, earlier return to normal activities, lower incidence of wound
infection(1.5 vs 7.6%) . There was no mortality.
Conclusion: Laparoscopic appendectomy is a safe and effective operating procedure, low
rate of wound infection and short hospital stay.
Tóm tắt:
Mục tiêu nghiên cứu: So sánh kết quả phẫu thuật cắt ruột thừa nội soi với phương pháp mổ
mở.
Phƣơng pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cứu tiền cứu, thử nghiệm lâm sàng có đối chứng
trên 267 bệnh nhân được phẫu thuật cắt ruột thừa tại bệnh viện Đa Khoa Khu Vực Châu Đốc
từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 3 năm 2011. Bệnh nhân được chia thành 2 nhóm trong đó có
136 bệnh nhân phẫu thuật nọi soi và 131 phẫu thuật mở.
Kết quả nghiên cứu: Tuổi trung bình của bệnh nhân là 38, nhỏ nhất là 15 và lớn nhất là 83.
Kết quả nghiên cứu cho thấy thời gian phẫu thuật ( 44.67 phút trong mổ nội soi và 45.53 phút
trong mổ mở), và chi phí điều trị ( 2,401,883 và 2,401,883 VNĐ) tương đương nhau . Tuy
nhiên, phương pháp nội soi có nhiều ưu điểm hơn mổ mở như thời gian nằm viện ngắn( 4,53
so với 6,00 ngày trong mổ mở), bệnh nhân ăn uống và hoạt động trở lại sớm, tỉ lệ nhiễm
trùng vết mổ thấp (1,5 so với 7,6% trong mổ mở). Không có tử vong sau mổ.
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học bệnh viện An Giang – Số tháng 10/2011 Trang: 184
Kết luận: Phẫu thuật cắt ruột thừa nội soi là phương pháp phẫu thuật an toàn và hiệu quả với
tỉ lệ nhiễm trùng thấp và thời gian nằm viện ngắn.
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học bệnh viện An Giang – Số tháng 10/2011 Trang: 186
3. Kết quả điều trị:
3.1. Đặc điểm liên quan đến quá trình phẫu thuật:
Bảng 3.1. Đặc điểm liên quan đến quá trình phẫu thuật
Dấu hiệu Số ca Tỉ lệ %
< 6 giờ 189 70.8%
Thời gian nhập viện đến 6-12 giờ 63 23,6%
mổ 12 – 24 Giờ 11 4.1%
> 24 giờ 4 1.5%
Tê tủy 91 34.1%
Phương pháp vô cảm
Mê Nội khí quản 176 65.9%
Hố chậu Phải 243 91%
Vị trí ruột thừa Sau manh tràng 22 8.2%
Vị trí khác 0 0
VRT sung huyết 16 6%
VRT nung mũ 196 73.4%
Chẩn đoán sau mổ
VPM khu trú RT vở 53 19.9%
VPM toàn thể RT vở 2 0.7%
Dẫn lưu hố chậu phải Có dẫn lưu 62 23.2%
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học bệnh viện An Giang – Số tháng 10/2011 Trang: 187
Nhận xét: Tình trạng vết mổ ở nhóm mổ nội soi có 2 trường hợp chiếm tỉ lệ 1,5% trong khi
có đến 10 trường hợp chiếm tỉ lệ 7.6% nhóm mổ hở bị nhiễm trùng vết mổ sự khác biệt này
có ý nghĩa thống kê với p=0.015
Tất cả các trƣờng hợp phẫu đã đƣợc hẹn khám lại sau 2 tuần sau mổ, không ghi
nhận áp xe tồn lƣu hay tắc ruột sau mổ.
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học bệnh viện An Giang – Số tháng 10/2011 Trang: 188
Nếu bệnh nhân mổ hở thì thời gian nằm viện trung bình sau mổ là 6 ngày. trong khi
đó mổ nội soi thời gian này sẽ được rút ngắn đáng kể chỉ còn trung bình là 4,5 ngày, sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê(p= 0,001). Thời gian nằm viện của bệnh nhân chúng tôi tương
đương với nghiên cứu của Nguyễn Văn Sách( 4,7 ngày)[5]. Tình trạng bệnh nhân khi ra viện
rất tốt, bệnh nhân đã vận động sớm, hết đau vết mổ. Nghiên cứu của Đỗ trọng Hải[2], thời
gian nằm viện trung bình là 3,3 ngày.Tương tự, thời gian nằm viện trong nghiên cứu của
Nguyễn Văn Liễu[3] là 3 ±1,9 ngày.
4. Nhiễm trùng vết mổ
Trong 136 bệnh nhân phẫu thuật nội soi thì có 2 trường hợp bị nhiễm trùng vết mổ
(1,5%) ở lổ trocar rốn trong khi mổ mở là 10 bệnh nhân(7,6%) sự khác biệt này cũng có ý
nghĩa thống kê( p= 0,015) . Nghiên cứu của chúng tôi cũng trùng hợp với Đỗ trọng Hải(
1,7%)[2] các trường hợp này chỉ thay băng và xử lý tại chổ.
Có 1 trường hợp theo dõi abcess tồn lưu sau khi bệnh xuất viện phải vào lại điều trị
bằng kháng sinh liều cao không cần can thiêp phẫu thuật
Chỉ có 2 trường hợp nào phải chuyển sang mổ hở do viêm phúc mạc khu trú, ruột
thừa dính nhiều.
5. Giá thành của phẫu thuật
Giá thành của phẫu thuật nội soi tương đương so với mổ mở ( mổ nội soi hơn mổ hở
chỉ 70 ngàn đồng việt nam) chi phí phẫu thuật cao không đáng kể nhưng thời gian bệnh nhân
nằm viện được rút ngắn, đỡ vất vả trong khâu điều dưỡng sau mổ, bệnh nhân sớm trở lại với
công việc nên nhìn một cách tổng thể thì tính hiệu quả kinh tế vẫn cao hơn so với mổ hở.
Phẫu thuật nội soi còn thực hiện dễ dàng ở các bệnh nhân thành bụng dày, béo phì,
ruột thừa nằm ở vị trí cao, bất thường, tình trạng ruột thừa viêm các loại; ruột thừa có biến
chứng như viêm phúc mạc, ruột thừa hoại tử,... vẫn được thực hiện bằng nội soi mà không
gặp nhiều khó khăn. Phẫu thuật nội soi còn mang tính thẩm mỹ do để lại sẹo ít trên thành
bụng bệnh nhân. Trong một số trường hợp đau bụng cấp không thể chẩn đoán bằng lâm sàng
cũng như các kỹ thuật cận lâm sàng hiện có, nội soi ổ bụng vẫn có thể quan sát toàn bộ ổ
phúc mạc để chẩn đoán và giải quyết nguyên nhân( nội soi chẩn đoán).
Tuy nhiên, phẫu thuật cắt ruột thừa qua nội soi vẫn có những nhược điểm nhất định
như: khó khăn trong việc xử lý các tai biến , hệ thống nội soi chỉ nhìn hình ảnh theo không
gian 2 chiều, nên khó định vị khoảng cách, nhất là đối với những phẫu thuật viên chưa có
kinh nghiệm.
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học bệnh viện An Giang – Số tháng 10/2011 Trang: 189
V. KẾT LUẬN
1. So sánh kết quả 136 bệnh nhân phẫu thuật nội soi cắt ruột thừa nội soi và 131 bệnh nhân
mổ mở chúng tôi nhận thấy phẫu thuật nội soi trong bệnh viêm ruột thừa có nhiều ưu điểm so
với phẫu thuật hở như :
Thời gian hồi phục sau mổ nhanh, it đau cho người bệnh.
Có thể ăn uống vận động sớm sau mổ.
Để lại vết sẹo nhỏ có thẩm mỹ hơn mổ hở, đặt biệt đối với viêm phúc mạc.
Tỉ lệ nhiễm trùng sau mổ trong nghiên cứu thấp( 1,5%), trong khi nhóm mổ hở
xảy ra với tỉ lệ khác cao( 7,6%).
Thời gian nằm viện ngắn rất nhiều so với mổ hở, bệnh nhân trở lại hoạt động
bình thường sớm nên sẽ đỡ tốn kém cho gia đình và xã hội.
Chi phí phẫu thuật của hai phương pháp tương đương nhau.
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học bệnh viện An Giang – Số tháng 10/2011 Trang: 190