You are on page 1of 7

I Máy sốc tim

http://vietphan.com.vn/nhung-dieu-can-biet-ve-may-soc-dien-tim/

https://www.google.com/search?q=T%C3%A1c+d%E1%BB%A5ng+c
%E1%BB%A7a+m%C3%A1y+s%E1%BB%91c+tim&sa=X&sxsrf=APq-
WBsXTdYBGHci-
hyABY4tTZIefO3U9Q:1647833120801&tbm=isch&source=iu&ictx=1&vet=1&fir
=S5OSyvd83o3xqM%252Cb0VxvLUIYH3KjM%252C_&usg=AI4_-kTztG1nc-
LNSwItsAKJt-
iLcbnCSw&ved=2ahUKEwi33MHeoNb2AhVDCN4KHWo_CGkQ9QF6BAgLEAE&biw
=1280&bih=657&dpr=1#imgrc=S5OSyvd83o3xqM

http://doccdn.simplesite.com/d/88/cf/284008255822876552/e668a5c6-d122-
4fc5-b973-18456ac6b441/SC%2BIN_tap%2Bhuan%2BSYT.pdf

.Máy shock điện được phát minh vào năm 1899 do hai nhà sinh lý học người Y là Prevost
và Batelli. Hai ông nhận thấy trong thực nghiêm trên chó có thể chuyển tình trạng rung thất
về nhịp xoang nhờ shock điện. Trường hợp đầu tiên hồi sức cấp cứu thành công nhờ shock
điện là một ca bệnh nhi 14 tuổi đang mổ ngực bị rung thất, được báo cáo bởi bác sĩ phẫu
thuật người Mỹ là Claude S. Beck và cộng sự vào năm 1947.
SỐC TIM LÀ GÌ:

Sốc tim là tình trạng giảm cung lượng tim không đáp ứng được nhu cầu oxy của các tổ chức
trong cơ thể. Chẩn đoán sốc tim đặt ra sau khi đã loại trừ các sốc khác: sốc giảm thể tích,
sốc phản vệ, sốc nhiễm khuẩn.

Các rối loạn huyết động đặc trưng trong sốc tim:

 Cung lượng tim giảm với chỉ số tim < 2,2 lít/phút/m2.


 Áp lực tĩnh mạch trung tâm cao (> 10 mmHg) và áp lực mao mạch phổi bít cao (>
15mmHg).
  Chênh lệch oxy giữa máu mao mạch và máu tĩnh mạch cao (DA-VO2 lớn hơn
0,55ml O2/lít) do rối loạn trong sốc tim là do tổn thương chức năng tim không
phải do rối loạn ở ngoại vi.

Trong điều trị sốc tim: một mặt khẩn trương điều trị triệu chứng và hồi sức toàn diện, mặt
khác cần tìm và giải quyết nguyên nhân sớm nếu có thể được.
Suy tim trong bệnh cảnh sốc tim là vấn đề lâm sàng lớn bởi vì tỉ lệ tử vong cao lên tới 30 –
90%. Tiên lượng phụ thuộc nhiều vào nguyên nhân gây ra sốc tim và khả năng can thiệp
của thầy thuốc.
Đây là tình trạng cần được cấp cứu tại chỗ và vận chuyển bằng xe ôtô có trang thiết bị cấp
cứu ban đầu đến khoa hồi sức.

PHÂN LOẠI MÁY SỐC ĐIỆN TIM:

Có 3 loại máy sốc điện:

 Máy sốc điện cầm tay (Manual Defibrillators, or Defibrillator Paddles)


 Máy sốc điện bên ngoài tự động (Automatic ExternalDefibrillators (AEDs)
 Máy sốc điện chuyển nhịp cấy dưới da tự động (Automatic Implantable
Cardioverter Defibrillator)

CẤU TẠO MÁY SỐC ĐIỆN:

Máy sốc điện bao gồm:

1. Bộ phận tạo xung điện là một tụ điện tích điện từ nguồn điện xoay chiều có khả năng
phóng ra được dòng điện với các tính chất mong muốn theo yêu cầu sốc điện.

2. Bản sốc điện có kích cỡ thay đổi tùy sốc trong hay ngoài lồng ngực, người lớn hay trẻ
em. Đối với người lớn sốc điện qua thành ngực, đường kính cần ≥ 80cm.

3. Dây điện cực với 3 – 5 điện cực.

4. Màn huỳnh quang (Monitor) hiển thị sóng điện tim thu từ các điện cực hoặc bản sốc điện
và các thông số kỹ thuật.

5. Nút hoặc phím để chọn phương thức sốc điện đồng bộ (SYN = synchronization)

6. Nút hoặc phím lựa chọn mức năng lượng (tính bằng joules hoặc watt). Các mức 5-50j
chủ yếu dùng cho sốc điện trực tiếp trên tim khi phẫu thuật mở lồng ngực; các mức cao
hơn thường dùng cho sốc điện ngoài lồng ngực.
7. Nút/ phím nạp điện (CHARGE)

8. Nút phóng điện

II. http://doccdn.simplesite.com/d/88/cf/284008255822876552/e668a5c6-
d122-4fc5-b973-18456ac6b441/SC%2BIN_tap%2Bhuan%2BSYT.pdf

II. Máy tạo nhịp

http://benhvien108.vn/mot-so-hieu-biet-ve-may-tao-nhip-tim.htm

https://careplusvn.com/vi/nguoi-dat-may-tao-nhip-tim-may-soc-dien-khu-rung-luu-
y-khi-su-dung-smartphone-va-smartwatch

https://www.slideshare.net/thinhtranngoc98/cc-khi-nim-c-bn-v-my-to-nhp-v-cc-
nhn-bit-in-tm-my-to-nhp

Một số hiểu biết về máy tạo nhịp tim


  10:07 AM 03/09/2015

Tạo nhịp tim là sử dụng một thiết bị tạo nhịp phát xung điện 1 chiều có chu kỳ,
thông qua dây điện cực kích thích trực tiếp cơ tim, làm cho cơ tim co bóp theo
chu kỳ đó. Máy tạo nhịp tim là một thiết bị điện tử rất đặc biệt với 2 khả năng: 1/
Phân tích các hoạt động chức năng của hệ thống điện học của tim. 2/ Khi cần
thiết, máy sẽ tạo ra những xung động hỗ trợ để đảm bảo hoạt động chức năng
của tim (ví dụ khi mạch bị chậm quá, máy sẽ tạo thêm những xung động đảm bảo
cho tim hoạt động với tần số đúng theo nhu cầu của cơ thể). Gần đây người ta đã
bổ xung thêm một số chỉ định mới của máy tạo nhịp tim như trong điều trị suy
tim, trong bệnh cơ tim phì đại có nghẽn đường ra thất trái, trong một số rối loạn
nhịp nhanh ...
Lịch sử của tạo nhịp tim:
Năm 1889, Mc William đăng trên tạp chí Y học nước Anh về kết quả thực nghiệm của mình, ông đã
sử dụng dòng xung điện kích thích lên tim người đã ngừng đập, kết quả làm cho tâm thất co bóp
được theo tần số xung động khoảng từ 60-70 lần/phút.

Năm 1932, nhà sinh lý học người mỹ Albert Hyman đã công bố phát minh về tạo nhịp của mình và
đưa ra khái niệm “artificial pacemaker – tạo nhịp tim nhân tạo”. Khái niệm này cho đến nay vẫn còn
giữ nguyên giá trị.

Năm 1952, Paul Zoll lần đầu tiên sử dụng thành công các xung điện thông qua hai điện cực gắn vào
hai kim được cắm vào ngực cho hai bệnh nhân bị ngừng tim, làm cho tim đập lại theo nhịp của xung
điện đó.

Năm 1956, Winson Greatbatch (Hoa kỳ) đã thí nghiệm thành công cấy máy tạo nhịp vào trong cơ thể
sống.

Năm 1958, Ake Sening (Thuỵ điển) lần đầu tiên trên thế giới đã cấy máy tạo nhịp thành công trên cơ
thể người. Với những hiểu biết mới về điện sinh lý học, những tiến bộ vượt bậc về kỹ thuật điện tử –
y sinh, từ những thế hệ máy tao nhịp ban đầu hết sức đơn giản và nặng nề (300-400 gr), sau hơn 50
năm phát triển, hiện nay người ta đã chế tạo ra nhiều thế hệ máy hiện đại, khối lượng rất nhỏ gọn
(chỉ từ 20-30 gr), nhưng chức năng lại rất đa dạng; máy tạo nhịp 3 buồng tim để trị suy tim; máy phá
rung tự động cấy trong cơ thể (để đề phòng đột tử do rung thất) và đời sống của máy tạo nhịp tim
cũng kéo dài hơn (8 – 10 năm).

Tại Việt nam, trường hợp cấy máy tạo nhịp đầu tiên được tiến hành năm 1973, tuy nhiên do điều
kiện kinh tế, mãi đến những năm 1990 kỹ thuật cấy máy tạo nhịp mới phát triển mạnh mẽ. Hiện nay,
các trung tâm có khả năng cấy máy và lập trình cho máy tạo nhịp tim đã tăng lên đáng kể như Viện
tim mạch quốc gia Việt nam, Bệnh viện TƯQĐ 108 (ở miền Bắc), Bệnh viện TW Huế (ở miền Trung)
Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện 115, Bệnh viện Thống nhất, viện Quân Y 175 ... (ở miền Nam) với số
lượng bệnh nhân được cấy máy tăng lên từng năm.

Máy tạo nhịp tim:


Gồm có 2 phần chính: máy tạo nhịp (Pacemaker) và dây điện cực (Electrode).
- Máy tạo nhịp (Pacemaker):
Máy tạo nhịp là bộ phận chính của tạo nhịp tim, máy bao gồm:
- Pin: chiếm 1/2 đến 2/3 thể tích của máy tạo nhịp, hiện nay pin của máy tạo nhịp thông thường là
pin Lithium – Iodine, có khả năng đảm bảo năng lượng cho máy hoạt động trong khoảng thời gian từ
8 – 10 năm.

- Bộ vi sử lý (microprocessor), bộ nhớ và mạch điện tử (hybrid circuits) có khả năng lưu trữ chương
trình, đảm bảo các chức năng hoạt động của máy tạo nhịp.

- Đầu nối với điện cực: làm bằng nhựa Epoxy, có các lỗ cắm để gắn các dây điện cực. Mỗi lỗ cắm có
thể nhận một hay hai cực. Thông thường, mỗi lỗ cắm đều có một vít để vặn chặt đầu điện cực.

Tất cả pin, bộ vi sử lý và mạch điện tử được bao bọc bởi vỏ máy làm bằng hợp kim có tính chất sinh
hợp (tức là phù hợp với điều kiện sinh lý của cơ thể, làm cho cơ thể không nhận biết được đó là 1
vật thể lạ).
- Dây điện cực (Electrode):
Dây điện cực là thành phần rất quan trọng của tạo nhịp tim. Dây điện cực gồm 3 phần: gốc dây điện
cực gắn với máy tạo nhịp, thân dây điện cực và phần đầu điện cực gắn trực tiếp vào cơ tim. Phần
đầu điện cực đóng vai trò hết sức quan trọng, vì nó là nơi trực tiếp gắn vào cơ tim có nhiẹm vụ phát
hiện (detect) các hoạt động điện của tim, đồng thời cũng là vị trí truyền các xung động điện của máy
tạo nhịp tới cơ tim do vậy nó có cấu tạo rất đặc biệt để có thể cố định tốt vào thành tim đồng thời
phải giảm bớt được hiện tượng xơ hoá tái vị trí gắn vào thành tim.

Máy tạo nhịp được đặt trong những trường hợp nào?
Chỉ định thông dụng nhất của máy tạo nhịp tim là đối với những bệnh nhân có nhịp quá chậm gây
nên các triệu chứng như ngất xỉu, choáng váng... Nhịp chậm do rất nhiều nguyên nhân khác nhau,
chủ yếu là do bị tắc nghẽn đường dẫn truyền nhĩ thất cấp 2 và 3; bệnh nhân bị suy yếu nút xoang;
bệnh nhân có rung nhĩ với cơn nhịp nhanh, chậm xen kẽ (lúc đó nếu điều trị nhịp nhanh thì sẽ làm
cho cơn nhịp chậm bị nặng lên – nguy hiểm đến tính mạng người bệnh). Ngoài ra còn nhiều chỉ định
mở rộng khác như đã nói ở trên. Tuy nhiên, những chỉ định này cũng chỉ hạn chế trong những
trường hợp cụ thể nhất định.

Vậy máy tạo nhịp tim được lập chương trình như thế nào:
Đó là nhờ một phương tiện được gọi là máy lập chương trình (Programmer): máy có thể kiểm tra
được tất cả các thông số hoạt động của máy tạo nhịp như ngưỡng kích thích, ngưỡng nhận cảm,
điện trở của máy tạo nhịp, điện trở của điện cực, biên độ kích thích, độ rộng của xung kích thích, sự
tiêu hao của pin ... và lập chương trình hoạt động cho máy tạo nhịp sao cho hợp lý và tiết kiệm năng
lượng. Máy lập chương trình thực chất là một máy tính có cài sẵn chương trình phần mềm riêng biệt
được nối với một đầu lập chương trình và một máy in. Đầu lập chương trình có gắn nam châm và
các mạch điện tử để liên lạc với máy tạo nhịp qua sóng điện từ hay từ trường. Khi kiểm tra máy tạo
nhịp, các bác sỹ chỉ cần áp đầu nhận cảm của máy lập chương trình ở ngoài da, ngay trên máy tạo
nhịp. Nhờ cơ chế hoạt động từ trường, máy sẽ nhận hoặc truyền các tín hiệu điều khiển máy tạo
nhịp thông qua đầu nhận cảm này một cách dễ dàng.

Máy tạo nhịp được hoạt động theo nguyên lý nào:


Nguyên lý hoạt động của máy rất phức tạp. Nhưng có thể hiểu một cách đơn giản là: tim co bóp
được trước hết là nhờ trung tâm chủ nhịp phát ra những xung động điện học, các xung động điện
học náy thông qua hệ thống dẫn truyền được truyền đến tận tế bào cơ tim, kích thích làm cho cơ tim
co bóp. Máy tạo nhịp có khả năng phát hiện các hoạt động tạo nhịp này của tim, do vây, nếu hoạt
động điện học này của tim không đảm bảo (ví dụ tạo ra nhịp quá chậm, làm cho tim không bơm đủ
máu lên não, gây triệu chứng thiếu máu não) trong trường hợp này, máy tạo nhịp sẽ bổ xung các
xung động kích thích, đảm bảo cho tim co bóp được đúng tần số theo chương trình đã được lập từ
trước. Trái lại, nếu tim hoạt động bình thường thì máy sẽ không phát ra xung động nào nữa, để
nguyên cho tim tự duy trì hoạt động của mình.

Máy tạo nhịp được cấy vào cơ thể như thế nào:
Việc cấy máy tạo nhịp gòm có 2 phần. Đầu tiên là đặt điện cực vào buồng tim, các máy tạo nhịp có
nhiều loại khác nhau; các máy có từ 1-4 điện cực đặt vào 1 đến 4 buồng tim khác nhau. Sau khi đã
xác định được vị trí tốt của điện cực, nó sẽ được cố định vào thành tim. Bước tiếp theo là đặt máy
tạo nhịp; vị trí đặt máy thông thường là ngay dưới và giữa xương đòn bên phải. Các bác sỹ sẽ tiến
hành rạch da vừa đủ để đút chiếc máy tạo nhịp vào đó; sau khi đạt máy tạo nhịp vào vị trí; các điện
cực sẽ được đấu vào máy và ngay lúc đó máy tạo nhịp đã bắt đầu công việc của mình.

Bệnh nhân có đặt máy tạo nhịp cần chú ý đặc biệt đến những vấn đề gì?
- Theo dõi máy: trước khi xuất viện, bác sỹ sẽ kiểm tra lại máy tạo nhịp và có những điều chỉnh cần
thiết cho phù hợp với từng bệnh nhân. Sau đó, nếu không có diễn biến bất thường, người bệnh sẽ
được hẹn đến kiểm tra định kỳ sau 1 tháng, 3 tháng rồi 6 tháng 1 lần (tất nhiên ngươưì bệnh phải
đến kiểm tra ngay nếu thấy có những dấu hiệu bất thường).

- Đi lại và hoạt động: sau khi xuất viện, người bệnh có thể sinh hoạt bình thường. Một tháng sau,
bệnh nhân được tái khám, nếu máy tốt, người bệnh có thể quay lại công việc bình thường, tuy nhiên
phải tránh các công việc nặng nhọc, các công việc đòi hỏi hoạt động thể lực nhiều. Bệnh nhân sẽ
dần dần quay trở lại mọi hoạt động một cách từ từ dưới sự theo dõi và hướng dẫn cụ thể của thày
thuốc. Những người từng chơi thể thao, sau khi đặt máy tạo nhịp, cần ngưng hẳn các môn thể thao
thi đấu, chỉ nên chơi thể thao nhẹ, có tính chất giải trí.
- Lái xe: nếu có đeo dây đai bảo hiểm, cần tránh để dây vắt ngang qua máy.

- Sử dụng điện thoại di động: nhiều nghiên cứu đã cho thấy những tác động tương hỗ giữa máy tạo
nhịp với điện thoại di động. Do vậy, người mang máy tạo nhịp không bao giờ nên nghe điện thoại
bằng tai ở cùng phía với máy tạo nhịp (thông thường là tai phải), có thể nghe ở phía tai đối diện, để
cho khoảng cách từ điện thoại di động tới máy tạo nhịp càng xa càng tốt, thời gian sử dụng càng
ngắn càng tốt, nhất là khi chính người bệnh cảm thấy có “vấn đề” khi sử dụng điện thoại di động.

- Đặc biệt chú ý với những người mang máy tạo nhịp là: không được chụp hay lại gần máy cộng
hưởng từ hạt nhân (nguy hiểm tính mạng); khi đi qua hàng rào an ninh có thiết bị từ tính phải khai
báo máy trạo nhịp, nếu tự ý đi qua sẽ có thể có những ảnh hưởng nghiêm trọng đến máy tạo nhịp
(hàng rào này thường thấy ở sân bay khi đi qua 1 cổng từ, bệnh nhân phải khai báo máy tạo nhịp,
khi đó nhân viên sẽ tắt từ trường để cho bệnh nhân đi qua, nếu không khai báo, khi đi qua từ trường
sẽ có nguy cơ bị rối loạn hoạt động của máy). Không để, đặt các máy móc thiết bị có từ trường (nam
châm) gần máy tạo nhịp vì nguy cơ ảnh hưởng đến chức năng của máy.

TS.BS. Nguyễn Đức Hải


Chủ nhiệm Khoa Nội cán bộ - Bệnh viện TƯQĐ 108

You might also like