You are on page 1of 19

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN


KHOA CHĂN NUÔI THÚ Y


BÀI TIỂU LUẬN

DƯỢC LÝ ĐỘNG VẬT


Đề tài:

Các thuốc gây tê

Họ và tên : Nguyễn Vĩnh Bảo

Lớp : Thú Y K19

Mã sinh viên : 19305009

Giảng viên hướng dẫn : Nguyễn Hữu Hòa

Đăk Lăk, 2022


MỤC LỤC

Phần mở đầu 2

I. Nguồn gốc và công dụng 2


1. Nguồn gốc 2
2. Công dụng 2
II. Nội dung 4
1. Phân loại 4
2. Công dụng 4
3. Phân loại thuốc tê 6
4. Ứng dụng trong điều trị cho vật nuôi 13
III. Kết luận 16

Tài liệu tham khảo 17

1
PHẦN MỞ ĐẦU

I. Nguồn gốc và công dụng

1. Nguồn gốc

- Từ nhiều thế kỷ trước, người Peru đã biết tác dụngcủa lá cây coca, một loại
cây bụi phát triển nhiều ở vùng núi Andes. Nhai hoặc ngậm loại lá này tǎng
cường khả năng chịu đựng. Thân cây tiết ra một loại alkaloid ngày nay loại
alkaloid này chính là cocain. Cocain tinh khiết được chiết suất nǎm 1880, và
các đặc tính dược lực học đã được nghiên cứu thêm. Nǎm 1884, cocain được sử
dụng trên lâm sàng là thuốc gây tê tại chỗ trong nhãn khoa, nha khoa, và phẫu
thuật.

- Nǎm 1905, thuốc tê tổng hợp đầu tiên có tên là procain bắt đầu được sử dụng
và trở thành thuốc đầu tiên của nhóm thuốc này. Hiện nay, có trên 16 hóa chất
được dùng làm thuốc gây tê tại chỗ; lidocain, buvivacain, và tetracain là các
thuốc phổ biến nhất dùng trên lâm sàng.

2. Công dụng

* Câu hỏi đặt ra là tại sao phải dùng thuốc tê?

- Thuốc tê tại có tác dụng giảm đau, hạ nhiệt, giảm xúc giác và trương lực cơ.
Mức độ tác dụng tùy theo liều và nồng độ thuốc, mức độ tan trong mỡ và tổ
chức tại nơi tiêm. Thuốc tê được dùng trong những bệnh cảnh lâm sàng khác
nhau, từ việc dùng tại chỗ ở da hoặc màng nhầy tới ức chế thần kinh tủy sống,
thần kinh trung ương, thần kinh ngoại biên. Một số thuốc được dùng trong
những trường hợp đặc biệt - các chế phẩm gây tê hậu môn trực tràng hoặc nhãn
khoa

2
- Gây tê hay gây mê là làm cho cảm giác đau không còn nữa. Gây tê là làm
giảm đau ở một chỗ hẹp hay một vùng. Còn gây mê là làm cho vật mất tri giác
toàn thân do thuốc mê tác dụng lên não bộ. Tùy theo nhu cầu phẫu thuật đòi
hỏi, vùng mổ lớn hay nhỏ, tình trạng sức khỏe của vật nuôi, kết quả xét nghiệm
như thế nào, cách thức phẫu thuật ra sao mà người ta chọn những cách thức gây
tê, gây mê khác nhau.

- Bác sĩ phẫu thuật và bác sĩ gây mê sẽ cùng bàn bạc chọn một phương thức
thích hợp nhất để áp dụng cho việc gây tê hay mê.

- Gây tê tại chỗ là làm cho một vùng nhỏ không còn cảm giác đau. Gây tê tại
chỗ áp dụng cho những vùng phẫu thuật nhỏ như một vết thương cạn, nhỏ,
ngoài da, vết thương ở da đầu, vết thương ngón tay, ngón chân v…v…

- Gây tê vùng là làm tê một vùng rộng hơn. Ví dụ gây tê tùng cánh tay có thể
làm cho cả một cánh tay bị mất cảm giác từ vai đến đầu các ngón tay.

- Gây tê toàn thân là làm mất cảm giác cả thân thể. Con vật được thuốc mê
tác động lên não làm ngủ say mê và mất hết cảm giác. Trong trường hợp này
người bệnh cần có sự giúp đở của máy giúp thở để giúp cho phổi trao đổi oxy
với máu. Tim là cơ quan tự động nên dù mê, tim vẫn đập tự động mà không cần
phải có sự trợ giúp. Bất cứ loại tê mê nào cũng đều có những nguy cơ, tuy dù
ngày nay độ an toàn của tê mê đã được nâng lên rất cao. Nhưng trong một vài
tình trạng sức khỏe nào đó, độ an toàn của gây mê vẫn bị ảnh hưởng. Vì thế,
trước khi gây mê, người gây mê sẽ báo cho bệnh nhân biết những điều không
tốt có thể xảy ra.

- Một số hiệu ứng của gây mê có thể kéo dài hàng giờ sau mổ. Trong gây tê tại
chỗ hay trong tê vùng, cảm giác tê có thể kéo dài. Sự điều khiển các cơ và sự
phối hợp cử động có khi không được bình thường. Gây mê kiểm soát cảm giác
đau khi phẫu thuật hay những thủ thật y khoa. Người ta dùng thuốc mê, những
máy móc theo dõi để giữ tình trạng bệnh nhân được an toàn. Người ta kiểm soát
hơi thở, huyết áp, nhịp tim v…v…Gây mê là cách thức để làm mềm cơ, ức chế
đau, làm cho bệnh nhân ngủ và quên tất cả rồi đi vào mất tri giác giúp cho cuộc
mổ diễn tiến thuận lợi

3
II. Nội dung

1. Phân loại

- Thuốc tê tại được xếp loại theo nhóm hóa chất cơ bản của chúng. Điển hình,
thuốc tê tại chỗ được phân thành hai nhóm: Amides hoặc Ester.

Nhóm Esters

- Bao gồm procain, benzocain, butamben picrat, chloroprocain, cocain,


proparacain và tetracain.

- Các thuốc này là dẫn xuất của acid para- aminobenzoic và bị thủy phân bởi
esteraza huyết tương.

Nhóm Amides

- Bao gồm lidocain, bupivacain, dibucain, etidocain, mepivacain, prilocain và


ropivacain.

- Các amides là dẫn xuất của anilin bị chuyển hóa chủ yếu ở gan và các sản
phẩm chuyển hóa sau đó thải trừ qua thận. Lidocain, mepivacaine và
tetracain còn bị thải trừ qua mật.

- Ngoài ra còn có pyclonine và pramoxin không cùng với hai phân nhóm trên
và có thể dùng cho bệnh nhân dị ứng với amides hoặc este.

2. Cơ chế tác dụng

- Tất cả các thuốc tê đều có tác dụng tai chỗ, ức chế dẫn truyền thần kinh bằng
cách làm giảm tính thấm Na ở màng tế bào. Từ đó làm giảm tốc độ khử cực
màng, vì thế làm tǎng ngưỡng kích thích điện. Toàn bộ các sợi thần kinh bị
ảnh hưởng theo một trình tự: trung tâm tự động, cảm giác, vận động. Các tác
dụng này giảm theo trình tự đảo ngược.

- Thuốc cũng có thể ức chế kênh Na trong các mô cơ tim, nên chúng có tác
dụng chống loạn nhịp. Lidocaine và procainamide được dùng chống loạn
nhịp. Mexiletin và tocainid, thuốc đường uống cùng nhóm với lidocain, có
cơ chế tác dụng tương tự lidocain và cũng được dùng chống loạn nhịp. Hiện
4
nay, mexiletin và tocainid không có chế phẩm dùng tại chỗ hoặc tiêm với
mục đích gây tê tại chỗ. Cuối cùng, lidocain cũng được dùng là thuốc thay
thế trong điều trị tình trạng động kinh. Cơ chế của các tác dụng này vẫn chưa
rõ, có lẽ chúng ức chế kênh Na của tế bào thần kinh.

- Các thuốc tê tại chỗ làm biến đổi điện thế hoat động (PA) và sự dẫn truyền
của điện thế hoạt động này rên suốt dọc sợi thần kinh. Điện thế hoạt động
chính là sự thay đổi ngắn và có chu kỳ của sự chênh lệch điện thế qua màng
tế bào mà nó được tạo nên bởi sự khử cực nguyên phát của màng tế bào thần
kinh hoặc tất cả các màng có thể bị kích thích như tế bào cơ tim.

- Hodgkin và Huxly đã chứng minh rằng điện thế hoạt động được tạo nên do
sự di chuyển thụ động của các ion qua màng tế bào trong đó có dòng các ion
natri đi vào làm khử cực màng rồi sau đó là dòng các ion kali có cường độ
tương đương đi ra làm tái cực màng. Sự di chuyển của các ion này có sự
tham gia của các bơm Na+ và K+ phụ thuộc vào men ATPase (hoặc các kênh
natri).

- Vào lúc nghỉ các kênh natri đóng lại, bất kỳ trường hợp khử cực nào xảy ra
đều làm các kênh natri mở dần ra để cho các ion Na + chạy vào bên trong của
sợi thần kinh.

- Dòng các ion natri chạy vào (gNa) làm khử cực màng tế bào: đó là giai đoạn
điện thế hoạt động (PA) tăng dần, hoặc giai đoạn hoạt hóa. Cho tới khi màng
tế bào đã bị hoạt hóa hoàn toàn, nó làm thay đổi cấu trúc của các kênh natri
làm cho các kênh này đóng hẳn lại, đó là giai đoạn mất hoạt tính. Dòng di
chuyển của ion Na bị ngắt lại và tính thấm của ion kali tăng lên làm cho các
ion kali chạy ra ngoài tế bào. Sự tái cực màng tế bào xảy ra khi số lượng ion
kali chạy ra khỏi tế bào đã bằng với số ion natri đã chạy vào tế bào lúc khử
cực.

- Các thuốc tê tại chỗ tác động lên màng tế bào thần kinh. Các nghiên cứu tiến
hành trên các thân thần kinh lớn của bạch tuộc đã cho biết chính xác là các
thuốc tê tại chỗ tác động lên phía trong của thân thần kinh, ở mặt trong của
màng tế bào và chỉ có các phân tử thuốc ở dưới dạng ion mới có hoạt tính.

5
- Các thuốc tê tại chỗ làm ảnh hưởng đến nhiều giai đoạn của điện thế hoạt
động vào lúc mở kênh natri, vào dòng ion natri chạy vào và đây là cơ chế tác
dụng chính. Chúng vừa làm giảm biên độ của PA, vừa làm chậm tốc độ khử
cực và làm tăng thời gian của thời kỳ nghỉ.

- Nếu như đậm độ của thuốc tê ở xung quanh thần kinh tăng cao, sợi thần kinh
trở nên mất kích thích, và không còn điện thế hoạt động. Chỉ đến khi đậm độ
thuốc tê giảm xuống dưới một mức nhất định thì sợi thần kinh mới có thể bị
kích thích trở lại. Ngưỡng của đậm độ thuốc tê này được gọi là đậm độ ức
chế tối thiểu (viết tắt Cm) và nó thay đổi tùy theo từng loại thuốc tê khác
nhau điều đó cho phép phân biệt các thuốc tê dựa theo Cm của nó và cũng
chính là độ mạnh của thuốc tê.

- Không phải tất cả các tế bào thần kinh cùng có độ nhạy cảm giống nhau với
các thuốc tê. Các sợi thần kinh nhỏ có tốc độ truyền chậm (như sợi C không
bọc myelin) là nhạy cảm hơn so với các sợi lớn có tốc độ dẫn truyền nhanh
(có bọc myelin).

- Tốc độ ức chế thần kinh của một thuốc tê tại chỗ không phụ thuộc vào độ
mạnh của thuốc mà phụ thuộc vào tính tan trong mỡ của nó và pKa của nó,
tức là phụ thuộc vào pH mà ở mức pH này 50% các phân tử thuốc tồn tại
dưới dạng ion hóa. Còn 50% tồn tại dưới dạng không ion hóa. Cũng tương tự
như vậy thời gian tác dụng của thuốc tê phụ thuộc vào tính tan trong mỡ và
các tính gắn với protein của thuốc.

- Có một hiện tượng thường gặp được gọi là tính quen thuốc, nhờn thuốc giảm
tác dụng (tachyphylaxis) tức là tác dụng của thuốc kém đi sau khi tiêm nhắc
vài lần. Có nhiều cách giải thích nhưng có một cách hay được nhắc đến là do
acid hóa dần vị trí tiêm thuốc. Hiện tượng nhờn thuốc xảy ra nhanh hơn ở
các thuốc tê có pKa thấp.

3. Các loại thuốc tê

3.1. Nhóm dẫn suất Esters


a. Chloroprocain

6
- Thuốc này được sử dụng ở Hoa Kỳ có đậm độ 3% dùng để gây tê ngoài
màng cứng. Chloroprocain có thời gian chờ tác dụng ngắn và thời gian tác
dụng chỉ khoảng 30-60 phút. Tác dụng độc toàn thân ít. Thuốc được thủy
phân rất nhanh. pKa của chloroprocain là 8,97 và hệ số phân bố
n-heptan/nước là 80.

- Ngày nay chloroprocain ít được sử dụng do thuốc này gây ra tổn thương thần
kinh kéo dài nếu tiêm nhầm vào tủy sống.

thuốc tê Chloroprocain

b. Procain

- Procain hydroclorid là một este của acid para-aminobenzoic có tác dụng gây
tê thời gian ngắn. Thuốc gắn vào thụ thể trên kênh Na+ ở màng tế bào
neuron thần kinh, làm ổn định thuận nghịch màng tế bào, không cho Na+ đi
vào trong tế bào, vì vậy màng tế bào neuron không khử cực, nên làm điện thế
hoạt động không lan truyền được và tiếp tục theo là dẫn truyền xung thần
kinh bị chẹn. Ngoài ra, procain còn có thể tác động đến hệ thần kinh trung
ương (kích thích và/hoặc ức chế), hệ tim mạch (giảm dẫn truyền và tính kích
thích của tim) làm giãn mạch ngoại biên. Thuốc làm giảm đau ít hơn vì thuốc
không lan rộng qua các mô.

- Thuốc không gây tê bề mặt được vì không ngấm qua màng niêm mạc.
7
- Procain có tác dụng gây tê kém lidocian 3 lần và cocain 4 lần, ít độc hơn
cocain 3lần.

- Thuốc bắt đầu tác dụng nhanh (2 – 5 phút) nhưng thời gian tác dụng tương
đối ngắn, trung bình 1 đến 1,5 giờ. Tuy nhiên thời gian tác dụng gây tê phụ
thuộc vào kỹ thuật gây tê, nồng độ thuốc và cá thể người bệnh. Trước đây,
procain được dùng rộng rãi, nhưng hiện nay ít dùng vì thời gian bắt đầu tác
dụng chậm và thời gian tác dụng ngắn

- Procain không thấm qua niêm mạc do vậy chỉ dùng đường tiêm. Không làm
giãn mạch, nên sau khi tiêm thuốc khuếch tán rất nhanh, và bị thủy phân
nhanh chóng và gần như hoàn toàn bởi pseudocholinesterase để thành acid
para-aminobenzoic (làm giảm tác dụng của sulfonamid, bất lợi cho người
đang dùng thuốc này) và diethyl aminethanol. Thuốc có tỉ lệ gắn vào protein
huyết 8% và nửa đời khoảng vài phút. Trong gây tê dùng kèm thuốc co mạch
sẽ làm chậm sự khuếch tán vào máu, kéo dài thời gian gây tê của procain.
Khoảng 80% acid para-aminobenzoic ở dạng liên hợp và dạng chưa biến đổi
được thải trừ qua nước tiểu, phần còn lại chuyển hóa ở gan

- Thuốc hiện nay ít dùng có thể do thời gian tác dụng ngắn và dễ gây sốc phản
vệ hơn các thuốc gây tê khác, tuy nhiên procain vẫn có thể dùng để: gây tê
tiêm thấm và gây tê vùng, gây tê tủy sống, phong bế dây thần kinh giao cảm
hoạc dây thần kinh ngoại biên để làm giảm đau trong một số trường hợp.

- Để gây tê kiểu tiêm thấm có thể dùng liều 350 – 600mg procain hydroclorid
dung dịch 0,25 hoặc 0,5%.

- Phong bế thần kinh ngoại vi, liều thường dùng là 500mg procain hydroclorid
với dung dịch 0,5% (100ml), 1% (50ml) hoặc 2% (25ml). Có thể dùng liều
tối đa 1000mg.

- Để kéo dài tác dụng của procain trong những trường hợp gây tê tiêm thấm
hoặc bế thần kinh ngoại vi có thể pha trộn adrenalin và dung dịch procain để
cho nồng độ cuối cùng của adrenalin là 1/200000 hoặc 1/100.000.

8
Thuốc tê Procain

c. Tetracain

- Lidocain là thuốc tê tại chỗ, nhóm amid, có thời gian tác dụng trung bình.
Lidocain hiện được dùng rộng rãi nhất, gây tê nhanh hơn, mạnh hơn, rộng
hơn và thời gian dài hơn so với procain cùng nồng độ.

- Lidocain được chọn dùng cho người mẫn cảm với thuốc tê loại este.
Lidocain có phạm vi ứng dụng rộng rãi làm thuốc gây tê, có hiệu lực trong
mọi trường hợp cần một thuốc gây tê có thời gian tác dụng trung bình.

- Lidocain là thuốc chống loạn nhịp, chẹn kênh Na+, nhóm 1B, được dùng
tiêm tĩnh mạch để điều trị loạn nhịp tâm thất. Lidocain làm giảm nguy cơ
rung tâm thất ở người nghi có nhồi máu cơ tim. Tuy vậy, tỷ lệ sống sót
không tăng lên mà còn có thể bị giảm, nếu trong việc sử dụng lidocain không
có những phương thức chẩn đoán cẩn thận để tránh điều trị cho những người
mà lidocain có thể làm tăng nguy cơ blốc tim, hoặc suy tim sung huyết. Do
đó không được dùng lidocain để điều trị một cách thông thường cho mọi
người bệnh, trừ khi có chẩn đoán đầy đủ. Lidocain chẹn cả những kênh Na+
mở và kênh Na+ không hoạt hóa của tim. Sự phục hồi sau đó nhanh, nên
lidocain có tác dụng trên mô tim khử cực (thiếu máu cục bộ) mạnh hơn là
trên tim không thiếu máu cục bộ

9
Thuốc nhỏ mắt gây tê Tetracain

3.2 Nhóm Amides

a. Prilocain

- pKa của prilocain là 7,9, hệ số phân bố n-heptan và nước là 0,9 và tỷ lệ


gắn protein là 55%. Các đặc tính dược lực học của prilocain là tương tự của
lidocain. Tuy thuốc này ít gây giãn mạch hơn lidocain nhưng lại hay được
dùng kết hợp với adrenalin hơn.

- Prilocain được dùng để gây tê thấm các dây thần kinh ngoại vi và gây tê
ngoài màng cứng. Đậm độ thuốc dùng từ 0,5 đến 2% tùy thuộc vào từng loại
kỹ thuật gây tê. Thuốc này 40 lần ít độc hơn so với lidocain. Một trong các
chỉ định tốt nhất của prilocain là gây tê tĩnh mạch.

- Tuy nhiên cũng cần phải nhấn mạnh là có thể có nguy cơ gây
methemoglobin điều đó làm cho chống chỉ định dùng prilocain trong sản
khoa.

10
Thuốc gây tê Prilocaine

b. Mepivacain

- pKa của mepivacain là 7,76, hệ số phân bố giữa n-heptan và nước là 0,8 và


tỷ lệ gắn vào protein 77,5%.Thời gian chờ tác dụng và thời gian tác dụng của
prilocain là tương đương với lidocain. Nồng độ thuốc sử dụng là từ 0,5 đến
2%.

- Mepivacain là thuốc gây co mạch nhẹ, ngay cả ở đậm độ thấp, nhưng tuy
vậy người ta vẫn dùng phối hợp với adrenalin. Không nên dùng thuốc này
trong sản khoa do thuốc bị chuyển hóa kéo dài ở phôi nhi và trẻ sơ sinh.

- Độc tính toàn thân của thuốc, đặc biệt trên tim và hệ thần kinh trung ương
là giống với của lidocain nhưngnhẹ hơn.

c. Etidocain

- pKa của etidocain là 7,7, hệ số phân bố n-heptan và nước là 141 và tỷ lệ


gắn với protein là 94%.

- Thời gian chờ tác dụng của etidocain ngắn và thời gian tác dụng kéo dài
khoảng 3 giờ khi gây tê ngoài màng cứng. Ở đậm độ thông dụng (0,5đến
1%) dùng cho gây tê ngoài màng cứng etidocain gây ức chế vận động nhiều
11
nhưng ức chế cảm giác lại không tốt bằng các thuốc tê khác. Do vậy chỉ định
chủ tyếu của etidocain lại là để làm giãn cơ. Và thuốc này chỉ còn được sử
dụng trong sản khoa và làm giảm đau sau mổ. Etidocain thường được dùng
phối hợp visw bupivacain 0,5% để gây tê ngoài màng cứng nhằm đảm bảo
mức đủ tê để mổ.

- Tác giả Albright cũng nhấn mạnh rằng thuốc này cũng gây nhiêm độc toàn
thân nặng khi tiêm nhầm vào mạch máu.

d. Bupivacain ( Marcain )

- Bupivacain là một thuốc tê tai chỗ nhóm amino acid là dẫn chất của
mepivacain bằng cách thay nhánh butyl vào nhóm methyl trên nhân
piperidin. pKa là 8,1, hệ số phân bố giữa n-heptan và nước là 3 và tỷ lệ gắn
vào protein là 95%.

* Hoạt tính của bupivacain :

- Hoạt tính trong ống nghiệm (vitro)

+ Bupivacain là một thuốc tê tại chỗ mạnh gấp bốn lần so với lidocain.
Mặc dù thông thường với các thuốc tê đậm độ mạnh và thời gian tác dụng
không đi cùng nhau, nhưng bupivacain có tác dụng dài gấp 5 lần so với
lidocain. pKa của bupivacain cao hơn nhiều so với lidocain điều đó giải thích
thời gian chờ tác dụng của nó dài là do ở pH sinh lý thuốc bị chuyển sang
dạng ion hóa ít phân bố hơn.

+ Bupivacain tạo ra một ức chế thần kinh không đồng đều đặc trưng
bằng ức chế cảm giác có thể phối hợp hoặc không phối hợp với ức chế vận
động. Bởi vì càng ở pH sinh lý càng nhiều thuốc ở dạng ion hóa là dạng ít
phân bố nên ngấm vào các sợi vận động Aα có bọc myelin ít hơn. Còn các
sợi nhỏ Aδ và C lại dễ bị ngấm thuốc hơn và ức chế mạnh hơn.

- Hoạt tính trong cơ thể sống (invivo):

+ Bupivacain mạnh gấp 4 lần lidocain nên liều lượng thuốc có thể
giảm đi cùng tỷ lệ dù là loại kỹ thuật tê nào. Theo đường gây tê ngoài màng
cứng với liều lượng tương đương, bupivacain có tác dụng ức chế cảm giác ở
12
mức độ giống với lidocain. Nhưng thời gian chờ (20 phút) dài hơn và thời
gian tác dụng (2 đến 3 giờ) cũng gấp 2-3 lần so với lidocain ức chế vận động
rất ít ở đậm độ thuốc 0,25% trung bình ở đậm độ 0,5% và ức chế vận động
nhiều ở đậm độ 0,75%.

+ Khi kết hợp với adrenalin sẽ làm tăng mức độ ức chế vận động và
thời gian tác dụng với mức độ ít theo đường ngoài màng cứng nhưng rất rõ
khi gây tê các dây thần kinh ngoại vi.

+ Bupivacain cũng được dùng để gây tê tủy sống ở đậm độ 0,5% ở


trong dung dịch đẳng trương hoặc ưu trương. Thời gian ức chế cảm giác đau
dài (2 đến 3 giờ) nhưng ức chế vận động vẫn hạn chế.

Thuốc gây tê bupivacain

4. Ứng dụng trong điều trị bệnh vật nuôi

 Tùy theo phương pháp gây tê sẽ ứng dụng thuốc khác nhau

4.1. Gây tê bề mặt

- Gây tê bề mặt áp dụng cho các trường hợp gây tê niêm mạc, tương mạc,
màng hoạt dịch, ….
13
+ Để gây tê kết mạc mắt: nhỏ vào nó một vài giọt novocain 5 - 10%.
Thời gian tê kéo dài tới 20 phút. Khi cắt bỏ giác mạc mắt tăng sinh,
nên kết hợp với adrenalin, kéo dài thời gian tê và có tác dụng cầm
máu.
+ Gây tê niêm mạc mũi, miệng, hầu, cơ quan sinh dục hay các niêm
mạc khác: dùng dung dịch novocain 5 - 10%, tẩm vào cục bông rồi
thấm vào niêm mạc.
+ Gây tê niêm mạc bàng quang: bơm dung dịch novocain 0.25 - 0.5%
vào trong bàng quang sau khi đã giải thoát hết nước tiểu.
+ Gây tê màng hoạt dịch, bao gân, bao khớp: dùng novocain 4 - 6%
bơm vào sau khi đã đâm kim trước và rút hết dịch trong nó. Tùy theo
dung tích xoang, bơm vào 5 - 50ml dung dịch thuốc tê.
+ Gây tê phúc mạc: dùng novocain 2 - 3%, đưa thuốc vào bằng kim
tiêm hay trực tiếp qua lỗ mở ổ bụng, khoảng 20ml/1 chó.
- Bề mặt da không thấm hút các dung dịch nước; vì vậy, sử dụng phương pháp
giảm thể nhiệt chườm lạnh hay tưới dung dịch bay hơi nhanh để gây tê.

Nhỏ thuốc tê cho chó

4.2. Gây tê thấm

14
- Dùng novocain 0.25 - 1%, lượng dùng tùy thuộc vùng phẫu thuật lớn hay
nhỏ. Dùng nồng độ thấp, lượng lớn có tác dụng làm tách các lớp mô bào,
giúp người phẫu thuật cắt lọc, bóc tách dễ dàng.

+ Lượng lớn của dung dịch thuốc sẽ gây áp lực lớn hơn, chèn ép các
huyết quản nhỏ làm hạn chế chảy máu khi phẫu thuật.
+ Lượng thuốc nhiều có khả năng khuếch tán sâu rộng hơn, hiệu quả
gây tê tốt hơn.
+ Khi gây tế thấm phải dùng kim nhỏ và dài.

Gây tê thấm ở chó

4.3. Gây tê dẫn truyền


- Đây là phương pháp gây tê cho chó được thực hiện bằng việc tiêm thuốc tê
sát với một hay một số dây thần kinh chi phối vùng phẫu thuật tương ứng,
làm dây thần kinh đó mất khả năng dẫn truyền kích thích từ vùng phẫu thuật
để thần kinh trung ương.

+ Dây thần kinh có mô liên kết thưa và lớp mỡ bao bọc; vì thế, khi gây
tê dẫn truyền dùng dung dịch gây tê có nồng độ cao hơn so với gây tê
thấm (novocain 2 - 3%).
+ Tại mỗi điểm tiêm, căn cứ vào độ dày của dây thần kinh và vị trí
nằm nông sâu của nó mà tiêm từ 5 - 20ml dung dịch thuốc tê.
+ Khi tiêm cần tránh tiêm vào mạch máu, vì dây thần kinh thường đi
kèm với mạch máu.
15
+ Thời gian tê dài hay ngắn phụ thuộc vào nồng độ và liều lượng của
thuốc tê sử dụng. Sau khi tiêm thuốc 10 - 15 phút thuốc sẽ có tác dụng,
thời gian tê kéo dài 1.5 - 2 giờ.
+ Khi thực hiện gây tê dẫn truyền phải kết hợp với gây tê bề mặt hay
gây tê thấm, vì tại mô bào cục bộ có đầu mút các dây thần kinh khác
nhau chi phối.

4.4. Gây tê tủy sống


- Phong bế gốc và thân dây thần kinh hình thành từ tủy sống, nằm trong xoang
của ống sống, trước lối ra của chúng tại lỗi giữa các đốt sống. Tiêm thuốc mê
vào xoang giữa màng cứng và thành của ống đốt sống (xoang ngoài màng
cứng), gọi là gây tê ngài màng cứng tủy sống.
+ Nếu đâm thủng màng cứng và màng nhện thì thuốc xuất hiện ở
xoang dưới nhện, gọi là gây tê dưới màng nhện.
+ Trên thực tế thú y chỉ dùng phương pháp gây tê ngoài màng cứng,
không không dùng gây tê dưới màng mang nhện.
+ Gây tê ngoài màng cứng tủy sống được xem như một loại gây tê dẫn
truyền trung tâm.
+ Dung dịch thuốc tê phải được hâm nóng ở nhiệt độ từ 35 - 37 oC. Khi
bơm thuốc, bơm từ từ, không được bơm nhanh quá sẽ gây choáng cho
gia súc (gia súc đột nhiên nằm bẹp xuống đất, thở nhanh). Gặp trường
hợp này cần tiêm cafein trợ tim cho gia súc, sau một thời gian ngắn sẽ
phục hồi.
+ Thuốc gây tê, dụng cụ tiêm, tay người thao tác phải được sát trùng
tiêu độc cẩn thận đảm bảo vô trùng tuyệt đối.
+ Khi đâm kim phải cẩn thận đúng vị trí và hướng kim. Không được
làm thô bạo dễ gây tổn thương tủy sống, các mạch máu và dây thần
kinh tủy sống.
+ Sau khi tiêm xong, rút kim ra phải sát trùng chỗ tiêm cẩn thận.
+ Ít khi chỉ định phương pháp gây tê này đối với chó.
=> Lưu ý: Khi gây tê vào xoang ngoài màng cứng, gia súc bị tê hai chân sau,
thuyệt đối không được để gia súc tự đi lại. Chờ cho thuốc tê hoàn toàn hết tác dụng
mới để gia súc tự đi lại. Nếu không gia súc sẽ bị ngã dẫn đến gãy xương, trật khớp.

16
III. Kết luận

Vậy cuối cùng gây tê là gì? 


- Gây tê là phương pháp dùng thuốc tê ức chế tạm thời dẫn truyền xung động
thần kinh nhằm làm mất cảm giác đau ở một vùng nhất định của cơ thể của
vật nuôi ( kể cả con người ). So với gây mê toàn thân, phương pháp gây tê
có một số ưu điểm như:
+ Giúp hạn chế các biến chứng và tác dụng phụ của gây mê, đặc biệt là
trên hệ tim mạch và hô hấp.
+ Giúp giảm đau sau mổ: tác dụng giảm đau của thuốc tê có thể kéo dài
thêm nhiều giờ sau phẫu thuật. Trong khi với gây mê toàn thân, ngay sau
khi tỉnh dậy con vật bị bệnh đã cảm thấy khó chịu và đau đớn.
- Một ưu điểm khác của gây tê là con vật tỉnh táo trong lúc làm phẫu thuật.
Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho bác sĩ theo dõi vật nuôi lúc mổ
- Gây tê dùng trong trường hợp nào:

+ Phẫu thuật nhỏ

+ Phẫu thuật ở tứ chi

+ Dùng cho con vật không thể gây mê ( ví dụ như tim mạch )

+ Giúp giảm đau sau phẫu thuật…

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình dược lý động vật


2. Giáo trình ngoại khoa 1 thú y
3. Tìm hiểu môn dược lý động vật
4. Wikipedia về thuốc tê
https://en.wikipedia.org/wiki/Local_anesthetic
5. Tài liệu về thuốc tê

https://tamanhhospital.vn/gay-te-va-gay-me/

17
http://benhvien115.com.vn/tin-tuc-va-hoat-dong/tai-bien-va-
bien-chung-cua-gay-te/20200110042217531

https://happyvet.vn/tin-tuc/gay-te-cho-cho-meo.html

HẾT

18

You might also like