Professional Documents
Culture Documents
THỰC VẬT
MỤC TIÊU
Hình 1.1: Dẫn truyền thần kinh trong hệ thần kinh thực vật và hệ thần kinh soma. (Nguồn:
Pharmacology, Elsevier Saunders, 2013, George M. Brenner, Craig W. Stevens)
Ghi chú:
Hệ thần kinh soma chứa các neuron vận động phân bố đến cơ vân. Các tế bào thuộc hệ thần kinh
này chỉ có duy nhất một sợi thần kinh giải phóng acetylcholine tại khớp nối thần kinh cơ.
2.2.2. Các chất dẫn truyền thần kinh
Các chất dẫn truyền thần kinh đầu tiên được tìm thấy trong hệ thần kinh thực vật và hệ thần kinh
soma là acetylcholine và norepinephrine. Thuật ngữ adrenergic và cholinergic tương ứng với
neuron phóng thích norepinephrine và acetylcholine.
Acetylcholine là chất dẫn truyền thần kinh có mặt tại tất cả các hạch của hệ thần kinh thực vật ,
tại nơi tiếp hợp giữa sợi thần kinh phó giao cảm với cơ quan, và tại bản khớp vận động thần kinh
cơ. Chất này cũng có ở một vài chỗ tiếp hợp giữa sợi giao cảm với cơ quan như ở tuyến mồ hôi,
cơ vân. Sự hiện diện của acetylcholine ở synapse thần kinh thực vật và thần kinh soma như trên
khiến tác động của thuốc lên chất dẫn truyền thần kinh acetylcholine thiếu tính đặc hiệu.
Mặc dù norepinephrine là chất dẫn truyền thần kinh đầu tiên phát hiện tại nơi tiếp nối giữa thần
kinh giao cảm và cơ quan nhưng epinephrine mới là catecholamine chủ yếu giải phóng từ tủy
thượng thận do đáp ứng với kích thích của hệ giao cảm
Khi điện thế hoạt động lan tới các sợi tận cùng thì quá trình khử cực làm tăng tinh thấm của
màng với ion calci. Ion calci từ ngoài vào trong sợi tận cùng. Ion calci có tác dụng làm các bọc
chứa chất truyền đạt hoá học chuyển dịch tới gần màng túi tận cùng, rồi tiếp xúcvới màng và hoà
màng, sau đó phá vỡ các bọc và giải phóng các chất truyền đạt hoá học ra ngoài khe sináp.
Lượng chất truyền đạt hoá học được giải phóng tỷ lệ thuận với lượng ion calci đi vào trong túi .
2.2.2.1. Acetylcholine và các thụ thể
Acetylcholine
Acetylcholine được tổng hợp ở các tận cùng của các sợi cholinergic, phần lớn quá trình tổng
hợp xảy ra ở trong bào tương sợi trục, bên ngoài các bọc nhỏ, sau đó acetylcholine được vận
chuyển vào trong các bọc, được dự trữ lại nhiều trong đó. Phản ứng tổng hợp xảy ra như sau:
Cholinacetyltransferase
Sau khi được giải phóng và tác động lên thụ thể đích, acetylcholine tồn tại ở mô vài giây, sau
đó phần lớn bị men acetylcholinsterase (gắn với collagen và glycosaminoglycan) ở mô liên kết
tại nơi đó phân giải thành ion acetat và choline giống như điều xảy ra ở các sinap thần kinh-cơ.
Choline được vận chuyển trở lại vào trong sợi thần kinh để được tái tổng hợp thành
acetylcholine.
Hình 1.2: Acetylcholine (ACh) được tổng hợp từ choline và acetate, dự trữ trong các túi, giải
phóng vào khe synapse dưới tác động của kích thích thần kinh (Nguồn: Pharmacology, Elsevier
Saunders, 2013, George M. Brenner, Craig W. Stevens)
Hình 1.4: hoạt hóa thụ thể M2 ở tim làm giảm sức co bóp cơ tim, giảm tốc độ dẫn truyền và tần
số tim
Ngoài ra, còn có cơ chế: Kích thích thụ thể M2 kích hoạt guanylyl (= guanylate = guanyl)
cyclase tạo thành cGMP, sau đó hoạt hóa protein kinase G. Protein kinase G ức chế GTPase
RhoA tăng hoạt động của MLCP MLCP khử phosphoryl MLC, không để tương tác giữa
myosin và actin diễn ra dãn cơ
Ở cơ trơn mạch máu
Acetylcholine gắn vào thụ thể M3 hoặc M5 ở tế bào nội mô mạch máu, hoạt hóa phospholipase
C (PLC) thông qua protein Gq. PLC phân cắt phosphatidylinositol 4,5-bisphosphate (PIP2) thành
diacyl glycerol (DAG) và inositol 1,4,5-trisphosphate (IP3). IP3 gắn lên thụ thể của IP3 (IP3R) ở
màng lưới nội bào tương gây giải phóng Ca2+. Ion Ca2+ tăng dẫn đến hoạt hóa enzyme
endothelial nitric oxide synthase (eNOS) thông qua cơ chế phụ thuộc calmodulin (CM). eNOS
được hoạt hóa dẫn đến tổng hợp nitric oxide (NO). NO khuếch tán từ tế bào nội mô vào tế bào cơ
trơn mạch máu, sau đó hoạt hóa guanylyl cyclase để tạo thành cGMP, rồi hoạt hóa protein kinase
G (PKG). PKG hoạt hóa myosin light chain phosphatase (MLCP). MLCP khử phosphoryl và bất
hoạt myosin chuỗi nhẹ (Myosin light chain – MLC), không để tương tác giữa myosin và actin
diễn ra.
Hình 1.8: Norepinephrine (NE) được tổng hợp từ tyrosin trong một phản ứng hóa học gồm ba
bước: tyrosine chuyển thành dopa (dihydroxyphenylalanine), dopa chuyển thành dopamine (DA)
và cuối cùng DA chuyển thành NE. Lưu trữ DA và NE trong. Phóng thích NE khi có kích thích
thần kinh thực vật. Sau khi kích thích thụ thể hậu synapse, NE được tái hấp thu lại vào tế bào
thần kinh. (Nguồn: Pharmacology, Elsevier Saunders, 2013, George M. Brenner, Craig W.
Stevens)
Các thụ thể của Norepinephrine và Epinephrine
a) Thụ thể α1
Vị trí: có ở cơ trơn (mống mắt, mạch máu, bàng quang…), các tuyến và gan. Kích thích thụ thể
α1 ở cơ trơn gây co mạch máu, tăng sức cản ngoại biên, tăng huyết áp; giãn đồng tử; đóng cơ thắt
trong của bàng quang; ở gan gây thủy phân glycogen.
Hình 1.10: Hoạt hóa thụ thể α1 ở cơ trơn của các cơ quan khác, không phải ruột
Hình 1.11: Cơ chế tạo thành phức hợp Ca2+ - calmodulin. Phức hợp này sau đó hoạt hóa MLCK.
MLCK phosphoryl hóa đầu myosin
Ở cơ trơn ruột
b) Thụ thể α2
Vị trí: có ở màng tế bào đầu tận dây tiền hạch, giữ vai trò điều hòa sự phóng thích
norepinephrine.
Đặc điểm:
Hoạt hóa thụ thể α2 gây ức chế adenylyl cyclase, làm giảm cAMP (cyclic adenosine
monophosphate) nội bào
Khi norepinephrine được phóng thích ở đầu tận dây thần kinh vào khe synapse, chất này sẽ đến
gắn và cho tác động lên các thụ thể đặc hiệu. Một số norepinephrine sẽ gắn vào thụ thể α 2, từ đó
gây điều hòa giảm phóng thích norepinephrine.
Thụ thể α2 liên kết với protein Gi. Khi hoạt hóa thụ thể α2 sẽ làm tiểu đơn vị α phân ly khỏi
protein Gi và gắn kết với adenylyl cyclase. Điều này gây bất hoạt adenylyl cyclase, dẫn đến giảm
cAMP được tạo ra từ ATP. Từ đó dẫn đến giảm hoạt hóa PKA. MLCK không bị ức chế nên sau
đó sẽ phosphoryl hóa myosin tạo myosin-LC-PO4. Đầu myosin được phosphoryl hóa sẽ tạo cầu
nối với actin, dẫn đến co cơ
Hình 1.16: Cơ chế co cơ giữa actin và myosin đã phosphate sau khi Ca2+ bộc lộ vị trí gắn với
myosin trên sợi actin
Kích thích thụ thể β1 nằm ở tâm nhĩ và tâm thất làm tăng sức co bóp cơ tim. Còn kích thích thụ
thể β1 ở nút xoang và nút nhĩ thất cũng như mạng Purkinjie làm tăng tốc độ co bóp cơ tim. Lưu ý
rằng kênh ion chính yếu ở nút xoang và nút nhĩ thất là kênh Ca2+. Còn kênh ion chính yếu ở cơ
thất và mạng Purkinjie là kênh Na+. Hoạt hóa thụ thể β1 làm tăng hoạt động của 2 kênh này, từ
đó làm tăng tần số tim
1. Tăng độ dốc của pha 4 (giai đoạn khử cực tự phát) ở tế bào nút xoang và nút nhĩ thất
2. Gia tăng tốc độ khử cực của pha 0 ở cả tế bào nút, tế bào cơ tim và hệ thống dẫn truyền
3. Tăng tốc độ dẫn truyền
4. Giảm thời gian tái cực
Các yếu tố điện sinh lý góp phần vào việc đảm bảo hoạt động điện diễn ra trật tự và nhịp nhàng,
từ đó đảm bảo hoạt động co bóp hiệu quả của tim. Để đáp ứng với sự kích hoạt thụ thể beta, các
thông số này tăng lên và tim đập với tốc độ nhanh hơn. Tuy nhiên, sự kích thích quá mức của thụ
thể beta bởi catecholamine có thể gây tăng cường các biến số này đến mức có thể xảy ra loạn
nhịp tim. Rối loạn nhịp là một mối quan tâm lớn đối với các loại thuốc kích hoạt thụ thể β1. Các
loại thuốc có xu hướng gây loạn nhịp tim bao gồm epinephrine, isoproterenol, norepinephrine,
dopamine và dobutamine.
Cơ chế 2
Ở cơ trơn đường hô hấp, các thụ thể β2 bắt cặp với Gs – proteins. Khi norepinephrin và
epinephrine gắn kết với các beta – adrenoceptors, sẽ dẫn đến việc kích thích Gs – proteins, gây
hoạt hóa adenylyl cyclase, từ đó hình thành cAMP từ ATP. Sự gia tăng nồng độ cAMP gây hoạt
hóa protein kinase phụ thuộc cAMP (PK – A). Tuy nhiên, không giống như ở cơ tim, ở cơ
trơn PKA gây phosphoryl hóa Inositol 1,4,5-trisphosphate receptor (IP3R) ở màng lưới nội bào
tương giảm phóng thích Ca2+ từ lưới nội bào tương giảm Ca2+ nội bào. Ngoài ra, PKA
còn gây mở kênh K+ (kênh BKCa), khiến 1 lượng K+ đi ra ngoài tế bào, gây tăng cực tế bào
dãn tế bào cơ trơn đường hô hấp. Còn ở tế bào của dây thần kinh hậu hạch của hệ phó giao cảm,
khi có hiện tượng tăng cực tế bào, sẽ làm giảm giải phóng acetylcholine, từ đó cũng làm dãn cơ
trơn.
Hình 1.17: Kích thích thụ thể β2 ở tế bào cơ trơn đường hô hấp và ở đầu tận dây thần kinh hậu
hạch của hệ phó giao cảm chi phối cho cơ trơn đường hô hấp
HỆ GIAO CẢM HỆ PHÓ GIAO CẢM
Nguồn gốc Tủy ngực, thắt lưng Dây tk sọ, tủy cùng
Sợi tiền hạch Ngắn Dài
Hạch Cạnh tủy sống Bên trong/gần CQ đích
Chất DTTK ở vị trí hạch Acetylcholin Acetylcholin
Sợi hậu hạch Dài Ngắn
Hình 1.18: Hemicholinium ức chế sự tái hấp thu choline vào neuron, từ đó ức chế tổng hợp
acetylcholinee. Vesamicol ức chế quá trình dự trữ acetylcholine và botulinum toxin ức chế
phóng thích acetylcholine. Chất ức chế men cholinesterase như physostigmine ngăn cản quá
trình phân hủy acetylcholine, từ đó kéo dài thời gian tác dụng của acetylcholine tại cơ quan đích
như cơ vân. Các thụ thể của acetylcholine ở hậu synapse được hoạt hóa bởi chất chủ vận và ức
chế bởi chất đối vận. (Nguồn: Pharmacology, Elsevier Saunders, 2013, George M. Brenner,
Craig W. Stevens)
3.2. Đối với hệ adrenergic
Hình 1.19: Quá trình biến đồi từ tyrosine thành dopa bị ức chế bởi metyrosin. Lưu trữ dopamin
và norepinephrin trong túi bị ức chế bởi reserpin. Sự phóng thích norepinephrin khi có kích thích
thần kinh bị chặn bởi Bretylium. Sau khi kích thích thụ thể hậu synapse, norepinephrin được tái
hấp thu lại vào tế bào thần kinh, quá trình này bị chặn bởi cocain. Amphetamine gián tiếp làm
tăng vận chuyển norepinephrin vào synapse. Các thụ thể α và β hậu synapse được hoạt hóa bởi
các chất chủ vận và ức chế bởi các chất đối vận. (Nguồn: Pharmacology, Elsevier Saunders,
2013, George M. Brenner, Craig W. Stevens)
3.3. Phân loại
– Theo hệ tác động
Thuốc tác động trên hệ giao cảm
Thuốc tác động trên hệ phó giao cảm
– Theo cơ chế tác động:
Kích thích / Ức chế
Trực tiếp / Gián tiếp
• Tác động đến sự tổng hợp, dự trữ, phóng thích, hay chuyển hóa, làm thay đổi
nồng độ chất dẫn truyền thần kinh tại khe synapse: Gián tiếp
• Gắn lên thụ thể: Trực tiếp
• Cả hai cơ chế: Hỗn hợp
TÓM TẮT BÀI
- Hệ thần kinh thực vật: hệ giao cảm và hệ phó giao cảm.
- Hai hệ này cho những tác động đối lập trên cùng một hệ cơ quan.
- Các thuốc kích hoạt một hệ này sẽ cho các hiệu ứng tương tự như thuốc ức chế hệ còn lại.
- Norepinephrin: được tổng hợp ở đầu tận dây thần kinh hậu hạch của hệ giao cảm
- Acetylcholin: được tổng hợp tại
Đầu tận dây thần kinh tiền hạch của cả hệ giao cảm và hệ phó giao cảm.
Đầu tận dây thần kinh hậu hạch của hệ phó giao cảm.
Nơi tiếp hợp thần kinh – cơ.
- Ở cơ tim, con đường cAMP gây co tế bào cơ tim. Còn ở cơ trơn, con đường cAMP
gây dãn cơ trơn
- Con đường cGMP được hoạt hóa bởi nitric oxide hoặc (NO) các peptide bài niệu
natri (ANP, BNP, CNO)
TỪ KHÓA
Giao cảm; Phó giao cảm; Acetylcholine, Norepinephrine
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Trần Thị Thu Hằng (2016), Dược lực học, 21th edition, Nhà xuất bản Phương Đông Thành
phố Hồ Chí Minh.
2. George M.Brenner và Craig W. Stevens (2013), Pharmacology, 4th edition, Elsevier.
Hình 2.2: Hiệu ứng của pilocarpine và atropine trên mắt. Hình A: cơ mống mắt và cơ thể mi
trong trường hợp bình thường. Hình B: Khi nhỏ pilocarpine, một thuốc chủ vận thụ thể muscarin,
cơ vòng mống mắt co lại gây co đồng tử. Co cơ thể mi khiến cơ này di chuyển về phía trung tâm
của mắt, làm dãn các dây chằng treo thấu kinh, từ đó làm tăng độ dày của thấu kính giúp nhìn
gần. Hình C: khi nhỏ atropine, chất đối kháng thụ thể muscarin, cơ vòng mống mắt và cơ thể mi
dãn ra, giúp đồng tử dãn và làm căng dây chằng treo thấu kính, vì thế thấu kính trở nên dẹt hơn,
giúp mắt nhìn được những vật ở xa. (Nguồn: Pharmacology, Elsevier Saunders, 2013, George M.
Brenner, Craig W. Stevens)
3.1.1. Acetylcholine
Cấu tạo hóa học và dược động học
Acetyl choline được tổng hợp từ choline và acetyl coenzyme A nhờ men choline
acetyltranferase, nhanh chóng bị thủy phân bởi cholinesterase và có thời gian tác dụng ngắn.
Tác dụng và chỉ định
Do khả năng hấp thụ kém, thời gian tác dụng ngắn, không đặc hiệu đối với thụ thể muscarin hay
nicotin nên acetylcholine ít được sử dụng trong lâm sàng.
Acetylcholine dạng dung dịch nhỏ mắt được sử dụng trong phẫu thuật điều trị đục thủy tinh thể
do có tác dụng gây co đồng tử sau khi hút thể thủy tinh ra. Dung dịch này còn được sử dụng
trong các phẫu thuật nhãn khoa cần co đồng tử nhanh chóng và hoàn toàn. Tuy nhiên, nhỏ
acetylcholine tại chỗ ở mắt thường không đem lại hiệu quả vì thuốc này nhanh chóng bị thủy
phân bởi cholinesterase ở giác mạc trước khi nó đến được mống mắt và cơ thể mi để phát huy tác
dụng.
3.1.2. Bethanechol và Carbachol
Cấu trúc hóa học và dược động
Được cấu tạo từ ester của choline và acid carbamic, không bị thủy phân bởi cholinesterase, thời
gian hoạt động tương đối ngắn, chỉ khoảng vài giờ sau khi nhỏ mắt hoặc sau khi vào hệ thống
tuần hoàn.
Hiệu ứng và chỉ định
Bethanechol hoạt hóa chọn lọc thụ thể muscarin và được dùng để kích thích cơ bàng quang hay
cơ dạ dày ruột mà không gây ảnh hưởng đáng kể lên nhịp tim hay huyết áp. Mặc dù thuốc này
hiện nay đã bị thay thế bởi các phương pháp khác hiệu quả hơn, bethanechol từng được sử dụng
sau phẫu thuật hoặc sau sanh để kích thích trương lực cơ bàng quang ở các bệnh nhân bị bí tiểu
thần kinh không kèm tắc nghẽn do trước đó được dùng thuốc mê hay các thuốc khác được dùng
trong quá trình sinh đẻ hay phẫu thuật. Liều điều trị của bethanechol khi dùng đường uống hay
dưới da ít ảnh hưởng lên huyết áp, nhưng không bao giờ được dùng đường tĩnh mạch vì có thể
gây tụt huyết áp và chậm nhịp tim.
Carbachol có thể dùng để nhỏ mắt do khả năng tan trong lipid cao trong các cuộc phẫu thuật
mắt như phẫu thuật đục thủy tinh thể, thủ thuật cắt lỗ mống mắt. Không được sử dụng để điều
trị glaucoma góc mở do xuất hiện nhiều thuốc khác ít tác dụng phụ hơn.
3.2. Alkaloid có nguồn gốc từ thực vật
Bao gồm: muscarin, nicotin và pilocarpin
3.2.1. Muscarin và nicotin
Nguồn gốc và tác dụng
Muscarin có trong nấm thuộc giống Inocybe và Clitocybe, ăn các loại nấm độc này có thể bị đau
bụng, tiêu chảy, vã mồ hơi, tăng tiết nước bọt. Nicotin được tìm thấy trong cây thuốc lá để tránh
bị côn trùng ăn. Nicotin có thể hấp thu qua da và niêm mạc đường hô hấp và miệng (tuy nhiên
qua niêm mạc miệng thì chậm hơn so với niêm mạc mũi)
Chỉ định
Muscarin hiện nay không được sử dụng trên lâm sàng. Nicotin có trong kẹo chewing gum,
miếng dán trên da hay các chế phẩm dùng trong cai nghiện thuốc lá như kẹo cao su, miếng dán,
viên nicotin ngậm dưới lưỡi.
3.2.2. Pilocarpine
Cấu trúc hóa học và dược động học
Là một alkaloid của Pilocarpus, một loại cây bụi thấp. Thuốc được hấp thu tốt bằng đường nhỏ
mắt hay đường uống.
Tác dụng và chỉ định
Pilocarpin có ái lực với thụ thể muscarin hơn thụ thể nicotin. Pilocarpin là thuốc được dùng để
điều trị bệnh tăng nhãn áp góc mở mãn tính, do làm giảm áp lực nội nhãn bằng cách tăng dòng
chảy thủy dịch. Thuốc cũng được dùng trong điều trị tăng nhãn áp góc đóng cấp. Tác dụng phụ
chính của pilocarpin là làm giảm tầm nhìn ban đêm do làm co đồng tử; khó nhìn được các đối
tượng ở xa do co cơ thể mi làm thể thủy tinh phồng lên.
Ở những BN bị bệnh khô miệng (xerostomia), pilocarpin được cho đường uống để kích thích
tuyến nước bọt. Pilocarpin chỉ cần dùng với liều thấp do tuyến nước bọt rất nhạy cảm với các
kích thích đối với thụ thể muscarin; đồng thời không gây ra các tác dụng phụ.
3.3. Các thuốc khác
3.3.1. Cevimeline
Là chất tổng hợp, có tác dụng cường phó giao cảm trực tiếp, dùng để trị chứng khô miệng ở BN
sau xạ trị do ung thư ở vùng đầu, mặt và BN bị hội chứng Sjögren (khô mắt, khô miệng và đau
khớp). Tác dụng phụ bao gồm vã mồ hôi, nôn, rối loạn thị giác do thuốc làm co đồng tử. Dùng
thận trọng ở bệnh nhân bị hen hay loạn nhịp tim.
3.3.2. Varenicline
Là chất chủ vận một phần tại nicotinic receptor ở trong não (nicotin gắn được với receptor này
để từ đó phóng thích dopamine, glutamate hay GABA). Thuốc này được dùng để cai thuốc lá,
giúp giảm cơn them cũng như hội chứng cai thuốc lá. Nghiên cứu cho thấy giúp tăng cơ hội cai
thuốc lá lâu dài.
4. THUỐC CƯỜNG ĐỐI GIAO CẢM GIÁN TIẾP
Gồm 2 nhóm: nhóm ức chế cholinesterase và nhóm ức chế phosphodiesterase type-5
4.1. Thuốc ức chế cholinesterase
Thuốc ức chế cholinesterase ngăn sự phân hủy acetylcholin tại tất cả các synapse cholinergic.
Thuốc có thời gian tác dụng ngắn là các thuốc ức chế cholinesterase có hồi phục, trong khi đó
các hợp chất có thời gian tác dụng dài được coi là chất ức chế men cholinesterase không hồi
phục.
Hình 2.3: Các chất ức chế men cholinesterase. (Nguồn: Basic and Clinical Pharmacology 12E
(LANGE Basic Science) by Bertram Katzung)
4.1.1. Các chất ức chế cholinesterase có hồi phục
4.1.1.1. Edrophonium
Cấu trúc hóa học và dược động
Thuộc nhóm alcol mang amin bậc 4 tích điện dương, gắn kết với một vị trí tích điện âm trên men
cholinesterase. Đây là sự gắn kết không bền và thuốc đào thải nhanh chóng qua thận nên thời
gian tác dụng của thuốc ngắn.
Cơ chế
Edrophonium ngăn sự thủy phân acetylcholin bởi men cholinesterase, từ đó làm gia tăng nhanh
chóng nồng độ acetylcholin tại synapse cholinergic như khớp thần kinh cơ.
Chỉ định
Dùng trong chẩn đoán bệnh nhược cơ và phân biệt cơn nhược cơ bệnh lý và cơn cholinergic do
dùng quá liều thuốc kháng cholinesterase như pyridostigmin. Nhược cơ là một bệnh lý tự miễn
trong đó các kháng thể cho tác động đối kháng với tác động của acetylcholin tại thụ thể nicotin ở
cơ vân. Các thụ thể này bất hoạt và phá hủy các thụ thể vì vậy giảm dẫn truyền thần kinh cơ, gây
mệt mỏi nghiêm trọng. Nhược cơ thường ảnh hưởng đến cơ mặt, họng và cổ. BN bị nhược cơ có
thể cảm giác yếu cơ nhiều nếu điều trị không đủ hoặc quá mức với thuốc kháng cholinesterase.
Trong trường hợp không được điều trị hay điều trị không đủ liều, tình trạng yếu cơ xảy ra là do
thiếu hụt acetylcholin và được gọi là cơn nhược cơ bệnh lý. Trong trường hợp này, test
edrophonium sẽ làm gia tăng nồng độ acetylcholine và hết mỏi cơ. Ở bệnh nhân được điềut rị
quá liều với thuốc kháng cholinesterase, yếu cơ xảy ra là do lượng acetylcholine quá mức tại
synapse thần kinh-cơ gây ức chế quá trình khử cực. Đây gọi là cơn cholinergic và khi làm test
edrophonium sẽ khiến mỏi cơ tăng lên. Phát hiện này cho thấy quá liều thuốc kháng
cholinesterase.
4.1.1.2. Neostigmin, Physostigmin, và Pyridostigmin
Cấu trúc hóa học và dược động
Physostigmin là một alkaloid thực vật hấp thu tốt từ ruột và thâm nhập vào hàng rào máu-não.
Neostigmin và pyridostigmin là các các hợp chất tổng hợp, tích điện dương ở pH sinh lý; kém
hấp thu và không qua được hàng rào máu não.
Cơ chế
Neostigmine và các thuốc tương tự gắn với cholinesterase nên enzyme này không thủy phân
được acetylcholine.
Chỉ định
Được sử dụng để điều trị lâu dài bệnh nhược cơ, neostigmin hay pyridostigmin cải thiện trương
lực cơ, giảm liệt mặt, sụp mi. Mặc dù hai thuốc này có thể dùng để điều trị nhìn mờ, nhìn đôi,
nhìn đôi tương đối kháng trị với liều dung nạp của các thuốc này. Nếu tăng liều quá mức, yếu cơ
có thể xảy ra do tăng quá mức nồng độ acetylcholin.
Neostigmin, pyridostigmin và edrophonium cũng thường được sử dụng trong phẫu thuật để đảo
ngược các tác dụng của thuốc giãn cơ khi không còn cần thiết. Neostigmin từng được dùng để
trị bí tiểu và chướng bụng sau mổ, nhưng các phương pháp khác được ưa chuộng hơn.
Physostigmin cũng từng được sử dụng để điều trị tăng nhãn áp nhưng hiện nay các thuốc khác lại
được ưa dùng hơn. Các thuốc có thể được sử dụng qua đường tĩnh mạch như là một antidote khi
bị ngộ độc do quá liều atropin hay một thuốc kháng thụ thể muscarin khác
4.1.1.3. Donepezil và các thuốc tương tự
Donepezil, galatamin và rivastigmin hoạt động trong não, lá các chất ức chế cholinesterase có
phục hồi đi qua được hàng rào máu-não và làm tăng nồng độ acetylcholin tại cholinergic synapse
ở trung ương. Những thuốc này dùng trong điều trị bệnh Alzheimer
4.1.2. Chất ức chế cholinesterase không hồi phục
Có nguồn gốc là phospho hữu cơ. Một số thuốc dùng trong điều trị. Một số thuốc lại có trong
thành phần của thuốc trừ sâu. Một số lại được dùng như chất độc hóa học trong chiến tranh. Do
các thuốc trừ sâu được sử dụng rất rộng rãi, nên hằng năm đều có những trường hợp bị ngộ độc
thuốc trừ sâu do tai nạn hoặc do cố ý.
Cấu trúc hóa học và dược động
Có cấu tạo là ester hữu cơ của acid phosphoric. Tính tan cao trong lipid và hấp thụ dễ dàng từ
mọi vị trí của cơ thể, bao gồm da, niêm mạch, và ruột. Ngộ độc thuốc trừ sâu có thể xảy ra sau
khi tiếp xúc trên da, mắt hay uống.
Cơ chế và hiệu ứng
Các phospho hữu cơ tạo ra một liên kết cộng hóa trị vô cùng chặt chẽ với cholinesterase do đó bị
thủy phân rất chậm bởi enzyme này. Hợp chất này làm tăng dẫn truyền của sợi cholinergic ở các
synapse trung ương và ngoại vi. Các triệu chứng bao gồm: tăng tiết nước bọt, chảy nước mắt, co
đồng tử, phồng thể thủy tinh, co thắt phế quản, đau bụng và tiểu không tự chủ. Kích thích quá
mức thụ thể nicotin dẫn đến ức chế khử cực và yếu cơ. Co giật, suy hô hấp, hôn mê là hậu quả
của tình trạng hoạt hóa quá mức các thụ thể của acetylcholin ở hệ thần kinh trung ương.
Ứng dụng trong lâm sàng
Chủ yếu trong điều trị các bệnh lý của mắt. Echothiopate dùng trong điều trị tăng nhãn áp mà
không đáp ứng với điều trị bảo tồn. Thời gian tác dụng của thuốc kéo dài cho phép kiểm soát áp
lực nội nhãn suốt 24 giờ. Ngoài ra thuốc này còn được dùng để điều trị bệnh lác mắt (2 mắt quay
về phía bên trong mũi khi tập trung nhìn vật gì).
Malathion có thể được dùng để trị chí với dạng otion
Quản lý ngộ độc
Ngộ độc phospho hữu cơ do tình cơ tiếp xúc trong nông nghiệp, làm vườn hay do vũ khí hóa
học. Điều trị bao gồm: khử nhiễm cho BN, hỗ trợ hô hấp, tuần hoàn, dùng chất đối kháng thụ thể
của acetylcholine, dủng pralidoxime để phục hồi cholinesterase. Atropin hiệu quả trong điều trị
các hiệu ứng muscarin gây ra bởi phospho hữu cơ và các chất kháng cholinesterase khác. Vì
nồng độ acetylcholin tại synapse cholinergic cao nên cần phải dùng một liều lớn atropin để
kháng lại.
Pralidoxim có ái lực cao với phospho hữu cơ cho phép nó phá vỡ cầu nối giữa phospho hữu cơ
với cholinesterase. Cần phải cho pralidoxim càng sớm càng tốt sau khi tiếp xúc với phosphor
hữu cơ.
4.2. CHẤT ỨC CHẾ PHOSPHODIESTERASE TYPE-5
Bao gồm: Sildenafil, tadalafil, vardelafil
Cơ chế
Sildenafil là chất ức chế phosphodiesterase đầu tiên được phát triển để điều trị rối loạn cương
dương ở nam giới, được quảng cáo với tên gọi nổi tiếng thế giới là Viagra. Các thuốc khác thuộc
nhóm này có tadalafil và vardelafil. Tadalafil cũng đã được chấp thuận trong điều trị triệu chứng
của bệnh phì đại tiền liệt tuyến lành tính. Sildenafil và Tadalafil cũng được thông qua gần đây
trong điều trị tăng áp động mạch phổi. Các thuốc này phát huy tác dụng giãn mạch của
acetylcholin được phóng thích ra từ tế bào thần kinh phó giao cảm có nguồn gốc từ đám rối vùng
chậu, do đó làm tăng lưu lượng máu đến dương vật giúp dương vật cương cứng dễ dàng hơn.
Dương vật được cương cứng khi acetylcholin hoạt hóa thụ thể muscarin M3 ở tế bào nội mô
mạch máu, dẫn đến tăng sản xuất và giải phóng nitric oxide. Nitric oxide sau đó khuếch tán qua
thành tế bào cơ trơn mạch máu của thể hang, tại đây nó kích hoạt guanylate cyclase và tăng tổng
hợp cGMP, từ đó giúp dãn cơ trơn và dãn mạch. Sildenafil và các thuốc cùng nhóm ức chế sự
phân hủy của cGMP thông qua việc ức chế men phosphodiesterase type V, dẫn đến nồng độ
cGMP gia tăng tăng dãn cơ trơn thành mạch máu mạch máu dãn tăng lưu lượng máu
đến dương vật dương vật cương cứng.
Hình 2.4: Cơ chế tác dụng của Sildenafil
Chỉ định
Ngoài hiệu quả trong điều trị rối loạn cương dương, tadalafil còn cho thấy cải thiện được các
triệu chứng của phì đại tuyến tiền liệt lành tính như tiểu gấp, tiểu khó, dòng nước tiểu yếu, tiểu
lắt nhắt kể cả vào ban đêm. Uống tadalafil hằng ngày cho thấy cải thiện được tình trạng rối lọan
cương dương cũng như triệu chứng của phì đại tiền liệt tuyến lành tính so với placebo. Cơ chế
của thuốc đối với bệnh phì đại tiền liệt tuyến là: dãn mạch thông qua cGMP ở mô tiền liệt tuyến
và bàng quang, thư giãn cơ trơn của tiền liệt tuyến và bàng quang, từ đó làm giảm tắc nghẽn
dòng nước tiểu.
Sildenafil và tadalafil cũng được chấp thuận để điều trị bệnh tăng áp phổi do có khả năng cải
thiện được thể lực ở những người bị tăng áp phổi vô căn hay di truyền hay do bệnh tự miễn.
Dược động
Sildenafil được hấp thu nhanh sau uống và có sinh khả dụng đường uống là 40%. Khả năng hấp
thu sildenafil giảm khi uống ngay sau một bữa ăn nhiều dầu mỡ, trong khi đó vardenafil và
tadalafil lại không bị ảnh hưởng bởi thức ăn. Các thuốc này có thời gian khởi phát tác dụng là từ
30-60 phút kể từ lúc uống. Sildenafil được chuyển hóa bởi cytochrome P450 3A4 và chất chuyển
hóa của nó (N-desmethyl) chỉ có hoạt tính bằng phân nửa so với chất gốc. Sildenafil và
vardenafil có T1/2 khoảng 4 giờ, và thời gian tác dụng khoảng từ 4-6 giờ; tadalafil có T1/2
khoảng 17 giờ và thời gian tác dụng là 36 giờ. Vì lý do này nên nam giới không nên dùng nhiều
hơn một liều tadalafil trong 24 giờ. Vardenafil có loại dùng bằng đường uống và có loại tan trên
lưỡi. Dạng thuốc thứ 2 của vardenafil cho nồng độ thuốc trong máu cao hơn so với dạng viên
uống. Cả hai dạng thuốc cần phải uống 60 phút trước khi quan hệ.
Tác dụng phụ và tương tác
Các tác dụng phụ của sildenafil và các thuốc tương tự thường nhẹ và thoáng qua bao gồm đau
đầu, nghẹt mũi, khó tiêu, đau cơ, đau lưng, và rối loạn thị giác. Các chất ức chế
phosphodiesterase type-5 gây giảm huyết áp khi nằm khoảng 7-8 mmHg ở người bình thường.
Tuy nhiên những thuốc này không nên sử dụng cho những bệnh nhân nam đang được điều trị với
nitroglycerin hay nitrate hữu cơ khác vì nitrat cũng làm tăng tạo cGMP. Sử dụng ức chế 5-PDE
và nitroglycerin đồng thời có thể gây tụt huyết áp, nhịp tim nhanh phản xạ và nặng hơn là dẫn
đến cơn đau thắt ngực.Một số BN nam tử vong do dùng đồng thời sildenafil và nitroglycerin.
Các thuốc ức chế phosphodiesterase type-5 gây tăng tác dụng hạ áp của các thuốc khác như
thuốc kháng thụ thể (là thuốc dùng để triệu chứng tắc nghẽn đường tiểu ở BN nam bị phì đại tiền
liệt tuyến). Sildenafil và các thuốc tương tự được chuyển hóa ban đầu bởi CYP3A4 nên các
thuốc ức chế men CYP3A4 có thể làm giảm thanh thải các thuốc này dẫn đến gia tăng nồng độ
các thuốc này trong máu. Các chất ức chế CYP3A4 bao gồm cimetidine, erythromycin,
ketoconazole, itraconazole, và nước ép bưởi. Liều khởi đầu của sidenafil và các thuốc tương tự
nên giảm còn khoảng 50% ở những bệnh nhân dùng đồng thời với các thuốc ức chế CYP3A4.
TÓM TẮT BÀI
- Thuốc cường phó giao cảm trực tiếp bao gồm các choline ester, alkaloid có nguồn gốc
thực vật. Pilocarpin được dùng để điều trị tăng nhãn áp và khô miệng.
- Các chất kháng cholinesterase hoạt hóa gián tiếp receptor của acetylcholine bằng cách
gia tăng nồng độ của acetylcholine. Những thuốc này đều cho tác động trên hệ phó giao
cảm và hệ soma.
- Chấtkháng cholinesterase có hồi phục bao gồm: edrophonium là thuốc dùng trong
test chẩn đoán bệnh nhược cơ; neostigmine và pyridostigmine được dùng để điều trị
bệnh nhược cơ.
- Các chất kháng cholinesterase không hồi phục bao gồm các hợp chất phosphor hữu cơ.
Đây là những chất được sử dụng rộng rãi trong thuốc trừ sâu và ít dùng trong điều trị.
Echothiophate được dùng để điều trị các bệnh về mắt, trong khi malathion được dùng để
điều trị chí.
- Ngộ độc phosphor hữu cơ được điều trị bằng atropine và pralidoxime (thuốc phục
hồi cholinesterase)
- Sildenafil và các thuốc tương tự ức chế sự thoái giáng của cGMP do phosphodiesterase
type 5, từ đó tăng cường tác dụng gây dãn mạch của nitric oxide ở dương vật và các
mô. Các thuốc này dùng trong điều trị rối loạn chức năng cương dương và tăng áp phổi.
TỪ KHÓA
Cường phó giao cảm trực tiếp; Cường phó giao cảm gián tiếp; Chất kháng cholinesterase có
hồi phục; Chất kháng cholinesterase không hồi phục; Chất kháng phosphodiesterase type 5
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Trần Thị Thu Hằng (2016), Dược lực học, 21th edition, Nhà xuất bản Phương Đông Thành
phố Hồ Chí Minh.
2. George M.Brenner và Craig W. Stevens (2013), Pharmacology, 4th edition, Elsevier.
Pirenzepin, thuốc ức chế chọn lọc M1 hiện nay được sử dụng ở một số nước để điều trị
tình trạng loét da dày do tăng tiết acid
- Hệ TKTW: scopolamin được sử dụng để ngừa say xe. Miếng dán phóng thích chậm
scopolamin ngăn chặn acetylcholine từ bộ máy tiền đình đến trung tâm nôn ở cuống não
- Khác: ngăn tác dụng phụ do quá liều thuốc ức chế cholinesterase, chữa quá liều thuốc ức
chế cholinesterase trong điều trị bệnh nhược cơ.
3.1.2. Hyoscyamine
Là đồng phân của atropin dùng để điều trị cơn co thắt ruột, dùng đường uống hoặc ngậm dưới
lưỡi.
3.2. Thuốc đối vận thụ thể muscarin tổng hợp và bán tổng hợp
Trong quá trình tìm kiếm 1 thuốc đối vận chọn lọc trên thụ thể muscarin, các nhà nghiên cứu đã
tạo ra một lượng lớn các thuốc tổng hợp và bán tổng hợp. Dù tương tự với atropin nhưng thuốc
này vẫn có những đặc điểm riêng nên được sử dụng trong một số trường hợp chuyên biệt
3.2.1. Ipratropium và Tiotropium
Là dẫn xuất amin bậc 4 của atropine, dùng để hít ở BN bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Những
thuốc này không được hấp thu tốt từ phổi vào hệ tuần hoàn nên ít gây ra tác dụng phụ. Ví dụ như
không gây giảm cử động lông chuyển do đó hữu ích khi dùng để điều trị cho các BN hen, khí
phế thủng, viêm phế quản mẹn
3.2.2. Dicyclomin, Oxybutynin, Solifenacin và các chất tương tự
Dicyclomine là 1 chất tổng hợp giúp dãn cơ trơn ruột nên dùng trong điều trị hội chứng ruột kích
thích.
Oxybutynin, tolterodine, darifenacin, solifenacin, và trospium được dùng để điều trị 4 triệu
chứng chính của bàng quang tăng hoạt: tiểu lắt nhắt, tiểu đêm, tiểu gấp và són tiểu. Oxybutynin
có thể sử dụng qua 2 đường: uống và gel thoa tại chỗ. So với các thuốc kháng thụ thể muscarin
khác, darifenacin, solifenacin, tolterodin, trospium có tác dụng chọn lọc hơn trên cơ bàng quang
và ít gây tác dụng phụ hơn.
Glycopyrrolate: liều thấp ức chế các tuyến bài tiết nên được dùng trước phẫu thuật để ức chế bài
tiết nươc bọt và chất nhầy đường hô hấp, đảo ngược tác dụng phế vị của chất ức chế
cholinesterase (neostigmine).
Tropicamide: dùng để giãn đồng tử (tại chỗ) trong nhãn khoa để khám võng mạc ngoại biên
Pirenzepin: ức chế chọn lọc thụ thể muscarin M1, dùng để điều trị giảm tiết dịch vị ở BN loét dạ
dày do tăng tiết dịch vị.
4. THUỐC ỨC CHẾ THỤ THỂ NICOTIN
Thuốc ức chế thụ thể nicotin bao gồm thuốc ức chế hạch và thuốc ức chế thần kinh cơ
4.1. Thuốc ức chế hạch
Các thuốc có hoạt tính ức chế hạch thần kinh thực vật nằm trong số những thuốc được tạo ra ban
đầu nhằm giảm hoạt tính quá mức của hệ giao cảm hay phó giao cảm nhưng do tác động thiếu
chọn lọc lên hệ giao cảm và phó giao cảm nên thuốc này hiện nay trở nên “lỗi thời” khi có nhiều
thuốc khác có tác động chọn lọc hơn ra đời.
4.2. Thuốc ức chế thần kinh cơ
Còn được gọi là thuốc làm liệt cơ hay giãn cơ. Các thuốc này bám vào thụ thể nicotin nằm ở cơ
vân và ức chế dẫn truyền thần kinh tại khớp nối thần kinh cơ gây yếu cơ và liệt cơ. Những thuốc
này có thể chia làm hai nhóm, một nhóm là loại không khử cực (đối kháng cạnh tranh với
acetylcholine tại khớp nối thần kinh cơ) và loại khử cực như succinylcholin. Các thuốc ức chế
thần kinh cơ là những hợp chất cực lỳ nguy hiểm vì có thể gây ra tình trạng suy hô hấp ở bệnh
nhân không có thông khí hỗ trợ. Các thuốc này có thể khiến cho bệnh nhân bất động mà không
hề ảnh hưởng đến trạng thái tinh thần.
4.2.1. Các thuốc ức chế thần kinh cơ loại không khử cực
Là những thuốc dạng curare. Bao gồm atracurium, cisatracurium, pancuronium, rocuronium, và
vecuronium. Một trong những thuốc đầu tiên là tubocurarin được chiết xuất từ 1 loại thực vật, sử
dụng ở Nam Mỹ dùng như chất độc để bôi lên mũi tên dùng trong săn bắt thú hoang dã. Các
thuốc này không hấp thu tốt từ ruột và không đi qua hàng rào máu não. Do đó, ăn thịt chứa chất
này không gây ngộ độc do nó không hấp thu được qua đường tiêu hóa.
Cấu trúc hóa học và dược động
Là các amin bậc 4 tích điện dương. Chỉ có thể dùng bằng đường tĩnh mạch. Hầu hết các thuốc
này được thải loại ra khỏi cơ thể dưới dạng không đổi, bài tiết qua gan và thận, riêng các đồng
phân của atracurium được thủy phân bởi esterase có trong huyết tương.
Cơ chế và hiệu ứng
Đối kháng cạnh tranh với acetylcholin tại thụ thể nicotin ở cơ vân, do đó gây ra tác dụng giãn cơ.
Sau khi tiêm thuốc này vào cơ thể, nó đầu tiên sẽ làm các cơ nhỏ và cử động nhanh của mắt và
mặt rồi sau đó liệt các cơ lớn hơn ở các chi và thân. Cuối cùng nó làm liệt các cơ gian sườn và cơ
hoành gây ra ngưng hô hấp. Chuỗi tê liệt này cho phép giãn cơ bụng, tạo thuận lợi cho quá trình
phẫu thuật mà không gây ngưng thở. Chức năng hô hấp luôn được theo dõi sát trong suốt quá
trình phẫu thuật.
Các thuốc này gây phóng thích histamine từ tương bào, ức chế thụ thể nicotin tại hạch thần kinh
thực vật và cả thụ thể muscarin. Từ đó dẫn đến co thắt phế quản, tụt huyết áp và nhịp tim nhanh.
Những thuốc mới ít gây ra các hiệu ứng trên.
Tương tác
Các thuốc gây mê dùng đường hô hấp, kháng sinh thuốc nhóm aminoglycoside, tetracycline, và
các thuốc chẹn kênh canxi làm tăng tác dụng của các thuốc giãn cơ. Ngoài ra, sử dụng nhóm
thuốc này sẽ khiến nặng thêm tình trạng bệnh ở bn bị nhược cơ.
Tác dụng giãn cơ có thể đảo ngược bằng thuốc ức chế men cholinesterase tăng nồng độ
acetylcholine.
Chỉ định
Dùng gây giãn cơ tạo thuận lợi cho các thao tác trong phẫu thuật hoặc để đặt NKQ dễ dàng ở
những trường hợp khó
4.2.2. Thuốc ức chế thần kinh cơ loại khử cực
Cấu trúc hóa học
Hình 3.1: Cấu trúc hóa học của succinycholine. Succinylcholine đơn giản là bao gồm hai phân tử
acetylcholine kết hợp với nhau
Cơ chế và hiệu ứng
Succinylcholine là thuốc duy nhất được sử dụng trong lâm sàng hiện nay, gắn kết với thụ thể
nicotinic và gây khử cực dai dẳng tại bản vận động cơ vân. Khi tiêm thuốc, ban đầu sẽ tạo ra tình
trạng co cơ thoáng qua. Tiếp theo sau đó là liệt cơ kéo dài. Succinylcholine không bị thủy phân
nhanh chóng bởi cholinesterase như acetylcholine, điều này giải thích cho tác dụng khử cực và tê
liệt cơ bắp kéo dài
Succinylcholine có thời gian tác dụng ngắn do bị thủy phân bởi cholinesterase trong huyết tương.
Trình tự liệt cơ tương tự như các thuốc dạng curar. Hiệu ứng của succinylcholine lại không bị
đảo ngược bởi chất ức chế men cholinesterase, và không có thuốc giải độc khi quá liều
succinylcholine.
Chỉ định
Dùng trước và trong suốt quá trình phẫu thuật để làm giãn cơ và tạo thuận lợi cho đặt NKQ. Do
thời gian hoạt động ngắn, nên nếu đặt NKQ khó khăn, BN có cơ hồi phục hồi khả năng thở tự
nhiên nên đây là thuốc ưa dùng trong các trường hợp cấp cứu. Đối với các trường hợp không cấp
cứu, trước khi cho, nên hỏi về tiền căn của BN. Có 1 số BN có rối loạn di truyền không thể
chuyển hóa succinylcholine ở tốc độ bình thường và dễ bị tê liệt thần kinh cơ kéo dài và dễ bị
ngưng thở nếu dùng liều thông thường. Nên xét nghiệm kali máu trước khi cho thuốc.
Succinylcholine có thể gây tăng kali máu dẫn đến ngưng tim ở BN bị tổn thương cơ như sau
bỏng độ 3 và không dùng cho đến khi vết thương lành
TÓM TẮT BÀI
- Các thuốc đối vận thụ thể phó giao cảm gây giãn cơ trơn, tăng tần số tim, tăng dẫn
truyền xung động trong tim, ức chế các tuyến ngoại tiết bài tiết. Bao gồm các alkaloid
có nguồn gốc thực vật (atropine và scopolamine), thuốc tổng hợp và bán tổng hợp.
- Các thuốc ức chế phó giao cảm dùng trong điều trị nhịp chậm, bệnh phổi tắc nghẽn mạn
tính, co thắt ruột, và bàng quang tăng hoạt, giảm bài tiết nước bọt và giảm tiết nhầy, giãn
đồng tử và khô miệng.
- Ngộ độc atropine có thể gây khô miệng, da, nhìn mờ, nhịp tim nhanh, hồi hộp, bí tiểu, lú
lẫn và ảo giác.
- Thuốc đối kháng thụ thể nicotin bao gồm loại không khử cực và loại khử cực. Gây giãn
cơ trong suốt quá trình phẫu thuật.
- Thuốc đối kháng thụ thể nicotin loại không khử cực cạnh tranh có thuận nghịch với
acetylcholine. Không gây co thắt cơ và tác dụng có thể đảo ngược nhờ thuốc ức
chế cholinesterase.
- Succinylcholine là thuốc đối vận thụ thể nicotin, thời gian tác dụng ngắn, gây co cơ
thoáng qua, sau đó là liệt cơ kéo dài. Không bị đảo ngược tác dụng nhờ chất kháng
cholinesterase.
TỪ KHÓA
Ức chế thụ thể muscarin; Ức chế thụ thể nicotin; Atropine; Scopolamine; Ipratropium;
Curare; Succinylcholine
khác với epinephrin ở một điểm là nó có ái lực với thụ thể β 1 hơn so với thụ thể β2. Do sự khác
biệt này, nên norepinephrine là co tất cả các mạch máu, trong khi epinephrine làm co một số
mạch máu, nhưng đồng thời cũng làm dãn một số mạch máu khác. Isoproterenol chọn lọc với thụ
Dobutamine tác động chủ yếu thụ thể β1; và ít hơn đối với thụ thể β2 và α. Không giống với các
catecholamine khác, dopamine còn kích thích giải phóng norepinephrine từ tế bào thần kinh giao
cảm. Vì lý do này nên dopamine vừa là chất tác động trực tiếp vừa là nhóm tác động gián tiếp.
Hình 4.1: cấu trúc của các thuốc cường giao cảm. Các chất catecholamine chứa catechol và
methylamine. Sự khác biệt R2 giữa các chất quyết định tương đối ái lực đối với thụ thể và β. Khi
cấu trúc R2 càng cồng kềnh sẽ làm giảm ái lực với thụ thể và tăng ái lực với thụ thể β. Dopamine
có ái lực với thụ thể D1 hơn là các thụ thể adrenonergic (α và β)
Hiệu ứng
Trên tim
– Norepinephrine (Thời gian bán thải: 1.5 phút)là một catecholamine nội sinh được tổng
hợp từ dopamine ở đầu tận dây thần kinh hậu hạch và các tế bào tủy thượng thận (ở vị trí
này, nó vừa là sản phẩm cuối vừa là tiền chất của epinephrine). Thông qua thụ thể β1,
norepinephrin gây tăng sức co bóp cơ tim và tăng tần số tim, làm tăng huyết áp tâm thu.
Hoạt hóa α1 gây co mạch và tăng đề kháng ngoại biên, từ đó làm tăng huyết áp tâm
trương. Sự gia tăng của cả huyết áp tâm thu và tâm trương dẫn đến huyết áp động mạch
trung bình tăng. Điểm lưu ý là norepinephrin tác động chủ yếu lên thụ thể α1, và một ít
lên thụ thể β1, β2; nên đây là thuốc gây co mạch hệ thống, và ảnh hưởng rất ít lên nhịp
tim. Việc thuốc ảnh hưởng rất ít lên nhịp tim còn có thể lý giải là do norepinephrine có
thể gây nhịp chậm phản xạ nếu huyết áp tăng đủ mức làm hoạt hóa thụ thể cảm áp.
– Epinephrine (Thời gian bán thải: 2-3 phút), là catecholamine nội sinh chính yếu được sản
xuất ở tủy thượng thận, được hình thành do sự khử nhóm carboxyl của norepinephrin.
Epinephrin là chất chủ vận thụ thể α, β1 và β2. Epinephrin làm tăng huyết áp tâm thu
nhưng có thể làm tăng hay giảm huyết áp tâm trương. Huyết áp tâm thu tăng là do tăng
tần số tim và tăng cung lượng tim. Hiệu ứng trên huyết áp tâm trương phụ thuộc vào sự
kích thích tương đối thụ thể α1 (gây co mạch) và β2 (gây dãn mạch). Ở liều thấp
epinephrine kích thích thụ thể β1 làm tăng sức co bóp cơ tim và tăng tốc độ dẫn truyền, từ
đó làm tăng thể tích nhát bóp, tần số tim và cung lượng tim. Tuy nhiên ở khoảng liều này,
tác dụng dãn mạch qua trung gian thụ thể β2, đặc biệt ở giường mạch máu cơ vân, có thể
dẫn đến làm giảm tổng kháng lực ngoại biên và huyết áp tâm trương và có thể cả huyết
áp tâm thu. Ở liều cao epinephrine là một chất gây co mạch do tác động ưu thế lên thụ thể
α so với thụ thể β2 (ngoài ra, ở mạch máu, thụ thể α1 chiếm ưu thế hơn thụ thể β2).
Trong tình huống này, hiệu ứng tăng sức co bóp cơ tim, tăng tần số tim và co mạch làm
tăng cả huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương.
– Isoproterenol hoạt hóa thụ thể β1 và β2 gây giãn mạch và kích thích cơ tim. Do đó, thuốc
này thường gây giảm huyết áp tâm trương và huyết áp động mạch trung bình, nhưng nó
có thể làm tăng huyết áp tâm thu bằng cách tăng tần số tim và sức co bóp cơ tim. Khả
năng gây tăng tần số tim của thuốc có thể dẫn đến nhịp nhanh và loạn nhịp tim. Chính vì
lý do này, nên một thuốc thay thế (dobutamine) thường dùng để chỉ làm tăng cung lượng
tim trong trường hợp suy tim.
– Dobutamin là đồng phân tổng hợp của dopamine, kích thích thụ thể β 1, β2. Dobutamin có
tác động chọn lọc, làm tăng sức co bóp của cơ tim thông qua thụ thể β1, nên giúp làm
tăng thể tích nhát bóp trong khi chỉ làm tăng rất ít nhịp tim. Cơ chế hoạt động này giúp
làm tăng thể tích nhát bóp trong trường hợp bị suy tim nhưng không kèm hạ huyết áp.
Dobutamine có thể giảm đề kháng mạch ngoại vi bằng cách hoạt hóa thụ thể β 2, do đó
làm giảm trở kháng, tạo thuận lợi cho quá trình tống máu của thất trái. Ở bệnh nhân bị
suy tim, hiệu ứng này giúp tăng thể tích nhát bóp và tăng được cung lương tim. Không
giống như dopamine, dobutamin không kích thích thụ thể dopamine, nên không có hiệu
ứng dãn mạch thận, cũng như không kích thích giải phóng norepinephrin từ đầu tận dây
thần kinh ngoại biên. Tương tự như dopamine, dobutamin chỉ hiệu quả trong thời gian
điều trị ngắn hạn (dưới 1 tuần), sau thời gian này thì thuốc sẽ mất hiệu lực do cơ chế điều
hòa giảm (downregulation) của thụ thể adrenergic. Tác dụng phụ chủ yếu là nhịp nhanh
tim.
– Dopamine là một catecholamine nội sinh và là tiền chất của norepinephrin. Dopamine có ái
tính với nhiều thụ thể. Khi cho liều thấp, < 3 µg/kg/phút, dopamine hoạt hóa chọn lọc trên thụ
thể D1 ở thận và các giường mạch máu khác, vì thế gây dãn mạch và tăng tưới máu thận. Với
liều cao hơn một chút, 3 đến 10 µg/kg/phút, dopamine gây hoạt hóa thụ thể β 1 ở tim, gây kích
thích co bóp cơ tim và làm tăng cung lượng tim, tăng tưới máu các cơ quan. Nhưng với liều
cao hơn nữa, dopamine hoạt hóa thụ thể α 1 và gây co mạch, tăng sức cản hệ thống.
Trên hô hấp
Epinephrine và isoproterenol là những thuốc gây giãn phế quản mạnh. Mặc dù các thuốc này
từng được sử dụng trong điều trị hen, nhưng ngày nay người ta ưa dùng các thuốc có hoạt tính
các thuốc chủ vận β2 được ưa dùng hơn vì không gây tăng tần số tim nhiều như isoproterenol.
Dobutamine là thuốc gây co cơ tim nhưng đồng thời cũng gây giãn mạch. Chất này được dùng
để kích thích tim trong suốt quá trình phẫu thuật tim và trong xử trí ngắn hạn suy tim cấp và sốc
tim. Dobutamine không được dùng thường quy trong điều trị sốc nhiễm trùng do khả năng gây
dãn mạch của nó. Thuốc được chủ yếu dùng ở BN có huyết áp thấp do nhịp tim chậm
3.2. Non catecholamine
Những thuốc này không chứa catechol và không bị phân hủy bởi COMT. Một số thuốc thậm chí
còn kháng lại sự thoái giáng của MAO. Vì vậy, những thuốc này có thể dùng đường uống và có
thời gian tác dụng dài hơn các catecholamine.
3.2.1. Phenylephrine
Dược động học
Phenylephrine được hấp thu bằng đường uống và bôi tại chỗ, ngoài ra cũng có thể dùng đường
tĩnh mạch. Thuốc này được chuyển hóa 1 phần bởi MAO trong ruột và gan.
Cơ chế và hiệu ứng
Phenylephrine hoạt hóa thụ thể α1 và gây co cơ trơn, từ đó gây co mạch và tăng đề kháng mạch
máu và tăng huyết áp. Nhỏ mắt gây co cơ làm dãn mống mắt và làm dãn đồng tử.
Chỉ định
– Nhỏ mũi chống sung huyết mũi ở BN bị viêm mũi do virus, viêm mũi dị ứng (tình trạng
viêm của niêm mạc mũi do histamine giải phóng từ tương bào trong phản ứng dị ứng).
Hiệu ứng co mạch của thuốc tác động trên niêm mạc mũi giúp giảm sung huyết mạch
máu và giảm tiết nhầy, từ đó làm thông thoáng đường thở, tạo thuận lợi cho quá trình hô
hấp. Dạng thuốc dùng tại chỗ (xịt) hay uống đều được sử dụng trong trường hợp này.
– Thuốc nhỏ mắt điều trị tình trạng viêm kết mạc dị ứng
– Giãn đồng tử để khám mắt. Khác với các thuốc kháng thụ thể muscarin, phenylephrine
không gây dãn cơ thể mi làm khó khăn cho nhìn gần.
– Phenylephrine còn được dùng đường tĩnh mạch để trị tụt huyết áp và sốc do giảm kháng
lực mạch ngoại biên, bao gồm như dùng quá liều thuốc dãn mạch, sốc do thuốc, sốc
nhiễm trùng, sốc thần kinh do tổn thương tủy sống. Phenylephrine được dùng để duy trì
huyết áp trong suốt quá trình phẫu thuật.
3.2.2. Midodrine
Có chất chuyển hóa có hoạt tính, hoạt hóa chọn lọc α 1 ở tiểu động mạch và tĩnh mạch hệ thống,
dẫn đến tăng huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương khi ngồi, đứng và nằm ngửa. Thuốc này
được hấp thu nhanh chóng qua đường tiêu hóa và được dùng để điều trị tình trạng hạ huyết áp tư
thế ở một số bệnh nhân (vd: những người bị đái tháo đường nặng có rối loạn thần kinh thực vật).
Nó còn được sử dụng để điều trị tình trạng tụt huyết áp do nhiễm trùng ở trẻ nhỏ hoặc ở những
người chạy thận nhân tạo. Tác dụng phụ chủ yếu là làm tăng huyết áp ngay cả khi nằm ngửa.
3.2.3. Albuterol, Pirbuterol, Terbutaline
Cấu trúc hóa học và dược động
Albuterol (còn được biết đến với tên salbutamol ở nhiều nước), pirbuterol, và terbutaline là
những ví dụ về thuốc cường giao cảm tác động chọn lọc thụ thể β2, có thể dùng đường hít.
Albuterol và terbutaline còn có thể dùng đường uống; terbutaline còn có thể dùng đường tiêm.
Sinh khả dụng đường uống của các thuốc này dao động từ 30% đến 50% vì không hấp thu hoàn
toàn và do chuyển hóa do hấp thu hay chuyển hóa qua gan lần thứ 1. Sau đó chúng được chuyển
hóa 1 phần thành dạng không có hoạt tính trước khi được thải ra ngoài qua thận. Khoảng 50%
albuterol được chuyển thành dạng liên hợp sulfate không hoạt tính. Các thuốc này thường được
dùng bằng đường hít trong điều trị các bệnh về hô hấp. Thời gian tác dụng là từ 4-6 giờ sau khi
hít hoặc uống.
Cơ chế, hiệu ứng và chỉ định
Các thuốc chủ vận thụ thể β2 gây giãn cơ trơn ở một số mô. Những loại thuốc này gây dãn phế
quản và có lợi trong điều trị hen và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Một số thuốc chủ vận thụ thể
β2 được dùng để điều trị hen, bao gồm pirbuterol, fenoterol, formoterol, arformoterol,
levalbuterol, và salmeterol. Một số thuốc có thời gian tác dụng dài nên được biết đến với tên
thuốc chủ vận β tác dụng kéo dài (LABA).
Terbutaline cũng được sử dụng trong xử trí các trường hợp dọa sanh non. Thuốc này làm giãn cơ
trơn tử cung, gây giảm co và kéo dài được thai kỳ thêm 24-48 giờ trong đa số trường hợp. Mặc
dù hiệu quả giảm co chỉ trong một thời gian ngắn, nhưng tạo điều kiện để sử dụng và phát huy
tác dụng corticosteroid để ngăn ngừa suy hô hấp sơ sinh. FDA gần đây đưa ra một cảnh báo về
chế phẩm terbutalin dạng tiêm, khẳng định thuốc này không nên sử dụng cho phụ nữ mang thai
để ngăn ngừa hay giúp kéo dài thời gian khi BN chuyển dạ sanh non (dùng từ 48-72 giờ) do
nguy cơ rối loạn nhịp tim mẹ nặng và nghiêm trọng.
Tác dụng phụ
Nhịp tim nhanh, run và bồn chồn do hoạt hóa thụ thể β2 ở tim, cơ vân và hệ thần kinh trung
ương.
4. Thuốc cường giao cảm gián tiếp
4.1. Amphetamine và Tyramine
Amphetamine và các chất tương tự có khả năng tan trong lipid cao và giúp tăng nồng độ của
norepinephrine tại synapse trong hệ thần kinh trung ương và thần kinh ngoại biên, do đó gây co
mạch, kích thích tim, tăng huyết áp, kích thích thần kinh trung ương
Tyramine là một chất tự nhiên có trong mốt số loại thực phẩm như chuối. Trong điều kiện bình
thường, tyramine bị phân hủy bời MAO có trong ruột và gan. Ở BN được dùng thuốc ức chế
MAO để điều trị trầm cảm, tyramine có thể được hấp thu từ thức ăn với một lượng đủ để tạo ra
hiệu ứng giao cảm và làm tăng huyết áp. Tyramine hiện không được dùng trong lâm sàng
4.2. Cocaine
Là 1 alkaloid có trong tự nhiên, hoạt động như 1 thuốc gây tê tại chỗ và cũng có thể kích thích
thần kinh giao cảm bằng cách ức chế tái hấp thu norepinephrine ở synapse trung ương và ngoại
biên. Hiệu ứng giao cảm của cocaine tương tự với amphetamine. Cocain gây ra co mạch, kích
thích tim và tăng huyết áp. Hiệu ứng co mạch có thể gây ra thiếu máu cơ tim và hoại tử niêm
mạc mũi ở những người lạm dụng cocaine. Tác dụng cường giao cảm có thể gây ra tăng huyết áp
nặng và tổn thương cơ tim ở những người lạm dụng cocaine. Ức chế tái hấp thu dopamine dẫn
đến hiệu ứng “thưởng” và lạm dụng thuốc.
5. Thuốc cường giao cảm tác động hỗn hợp
Một vài thuốc cường giao cảm bằng cả cơ chế tác động trực tiếp và gián tiếp, bao gồm
dopamine, ephedrine và pseudoephedrine. Những thuốc này vừa hoạt hóa trực tiếp thụ thể α và
β, vừa làm tăng nồng độ của norepinephrine tại synapse theo cách tương tự amphetamine (ức chế
dự trữ norepinephrine trong các túi dự trữ, từ đó dẫn tới làm tăng nồng độ norepinephrin bên
trong tế bào, làm tăng vận chuyển norepinephrine ra synapse).
5.1. Ephedrine và Pseudoephedrine
Dược động
– Ephedrine là 1 alkaloid chiết xuất từ 1 loại cây có tên khoa học là Ephedra, hay còn gọi là
cây ma hoàng (1 loại cây dược thảo gây kích thích mạnh, mọc ở miền trung Trung Quốc
và những khu vực dược thảo truyền thống khác. Theo truyền thuyết, các lính canh của
vua Ghengis Khan, bị dọa là sẽ bị chặt đầu nếu ngủ quên trong lúc canh gác, họ dùng trà
làm từ cây ma hoàng để thức canh. Thảo dược ephedra từng được sử dụng để điều trị ho,
hen suyễn, sung huyết mũi, làm thuốc giảm cân và tăng cơ
– Ephedrine được hấp thu tốt từ ruột, tan trong lipid nên vào được hệ thần kinh trung ương.
Ephedrine đề kháng tương đối với sự chuyển hóa của MAO và COMT, thời gian tác động
khoảng vài tiếng. Pseudoephedrine là 1 đồng phân của ephedrin, được dùng để chống
sung huyết mũi do cảm lạnh hoặc dị ứng. các chế phẩm chứa pseudoephedrine (tiền chất
ma túy) hiện nay bị hạn chế nhiều nơi vì thuốc được sử dụng trái phép để bào chế, buôn
bán và sử dụng bất hợp pháp methamphetamine (ma túy đá).
Cơ chế, hiệu ứng và chỉ định
Ephedrin và các thuốc tương tự hoạt hóa thụ thể và β qua cơ chế tác động trực tiếp và gián tiếp.
Thông qua việc hoạt hóa thụ thể α1, những thuốc này gây co mạch nên được ứng dụng để chống
sung huyết mũi khi điều trị viêm mũi dị ứng và do cảm lạnh. Bằng cách hoạt hóa thụ thể β, các
thuốc này gây dãn phế quản, nhưng các thuốc tác động chọn lọc trên thụ thể β 2 an toàn hơn và
hiệu quả hơn so với các thuốc thuộc nhóm này.
Tác dụng phụ
– Tăng tần số tim và tăng huyết áp.
– Kích thích thụ thể α1 có thể gây bí tiểu do co thắt cơ thắt trong bàng quang, đặc biệt ở nam
bị phì đại tiền liệt tuyến.
– Những thuốc này cũng có thể gây kích thích thần kinh trung ương và gây mất ngủ.
– Những chế phẩm chứa ephedrin được sử dụng như thuốc gây chán ăn để giúp giảm cân,
nhưng FDA đã cấm bán do tăng tử vong vì kích thích tim mạch quá mức. Do độc tính và
ít bằng chứng về tính hiệu quả, FDA khuyến cáo rằng các thuốc này không nên sử dụng
cho trẻ dưới 6 tuổi. Các thuốc này (chống sung huyết mũi) thường kết hợp với kháng
histamine để ức chế ho.
TÓM TẮT BÀI
- Hoạt hóa thụ thể α1 gây co cơ trơn dẫn đến co mạch gây tăng huyết áp, giãn đồng tử và
co cơ vòng bàng quang.
- Hoạt hóa thụ thể α2 gây ức chế phóng thích norepinephrine từ tế bào thần kinh giao cảm,
giảm bài tiết thủy dịch và giảm bài tiết insulin.
- Hoạt hóa thụ thể β1 gây kích thích tim và giải phóng renin trong khi hoạt hóa thụ thể β 2
gây dãn cơ trơn
- Các catecholamie bao gồm norepinephrine, epinephrine, isoproterenol, dopamine và
dobutamine. Những chất này bị chuyển hóa nhanh chóng, phải dùng bằng đường tĩnh
mạch, được dùng trong xử trí một số rối loạn về tim mạch và các dạng sốc.
- Ngoài hoạt hóa thụ thể 1, β1, dopamine còn hoạt hóa thụ thể D 1 nên tăng lưu lượng máu
đến thận.
- Các chất không phải catecholamine (phenylephrine và albuterol) đề kháng với sự thoái
giáng của COMT. Phenylephrine hoạt hóa thụ thể gây co mạch. Albuterol hoạt hóa thụ
Atenolol (Tenormin)
Esmolol (Brevibloc)
Metoprolol (Lopressor)
Các thuốc ức chế cả thụ thể α và β
Carvedilol (Coreg)
Labetalol (Trandate)
2. TỔNG QUAN
Hệ thần kinh giao cảm hoạt động quá mức sẽ dẫn đến một số bệnh lý, bao gồm các bệnh tim
mạch như tăng huyết áp, đau thắt ngực, và loạn nhịp tim. Các thuốc làm giảm hoạt tính của hệ
giao cảm được dùng trong điều trị các bệnh lý tim mạch và các bệnh khác như: glaucom, đau đầu
do Migraine, và tắc nghẽn đường tiểu. Các thuốc liệt giao cảm bao gồm các thuốc ức chế thụ thể
Α và thuốc ức chế thụ thể β hoặc cả hai. Hiệu ứng điều trị có được là do ức chế thụ thể α 1 và thụ
thể β1. Ức chế thụ thể α1 giúp giãn cơ trơn và mạch máu; trong khi ức chế thụ thể β 1 gây giảm
hoạt tính của giao cảm trên tim. Trong khi đó, ức chế thụ thể α 2 và β2 lại gây ra các tác dụng phụ
của thuốc; vì thế phát triển các thuốc ức chế chọn lọc thụ thể α 1 và β1 giúp tránh các tác dụng
phụ này
- Ức chế thụ thể α1: giảm trương lực mạch máu, giãn mạch và hạ huyết áp.
- Ức chế thụ thể β1: gây giảm nhịp tim, giảm dẫn truyền, giảm sức co bóp cơ tim và giảm
phóng thích renin.
- Ức chế thụ thể β2: gây co thắt phế quản, cơ trơn tử cung, mạch máu
3. THUỐC ỨC CHẾ THỤ THỂ GIAO CẢM KHÔNG CHỌN LỌC
Những thuốc này ức chế cả thụ thể α và β, thường được sử dụng để điều trị các bệnh lý tim
mạch. Bao gồm: labetalol, carvedilol.
Tác dụng và chỉ định
Những thuốc này ức chế hoàn toàn cả thụ thể α và β, từ đó gây hạ huyết áp, giảm nhịp tim, và
tăng tưới máu thận do giảm nồng độ renin.
Labetalol được sử dụng đường tĩnh mạch và đường uống để điều trị tăng huyết áp. Thuốc này
còn được sử dụng để điều trị tăng huyết áp do u tủy thượng thận và hội chứng cai clonidin.
Carvedilol chỉ có ở dạng uống, được sử dụng để điều trị tăng huyết áp, suy tim, rối loạn chức
năng thất trái sau nhồi máu cơ tim.
Dược động học
Các thuốc này đều được hấp thu tốt khi sử dụng đường uống và phân bố đến toàn bộ các cơ quan
sau khi uống hay tiêm thuốc. Các thuốc này được chuyển hóa ở gan và bài tiết qua phân, nước
tiểu. Thời gian bán thải khác nhau giữa các thuốc.
Chống chỉ định và thận trọng
Chống chỉ định ở những bệnh nhân có tiền căn quá mẫn với thuốc, nhịp tim chậm hoặc block
tim, bệnh phổi, đang sốc tim. Thận trọng ở phụ nữ cho con bú
4. THUỐC ỨC CHẾ THỤ THỂ α
Phân loại dựa trên hoạt tính chọn lọc và tính ức chế cạnh tranh hay không cạnh tranh của thuốc
4.1 Thuốc ức chế thụ thể αkhông chọn lọc
Các thuốc này ức chế cả thụ thể α1 và α2 nên được gọi là thuốc ức chế thụ thể không chọn lọc.
Phenoxybenzamine là thuốc ức chế không cạnh tranh, trong khi phentolamine là thuốc ức chế
cạnh tranh. Những thuốc ức chế thụ thể α có thể gây tụt huyết áp tư thế và nhịp nhanh phản xa,
đặc biệt những thuốc ức chế không chọn lọc thụ thể α (ức chế α1 và α2) có thể gây nhịp nhanh.
4.1.1. Phenoxybenzamine
Dược động học và cơ chế hoạt động
Phenoxybenzamine được sử dụng bằng đường uống và bị biến đổi hóa học dưới tác dụng của
enzyme thành chất chuyển hóa có hoạt tính. Chất này tạo 1 liên kết cộng hóa trị bền vững với thụ
thể dẫn đến ức chế thụ thể này không cạnh tranh. Thuốc khởi phát tác dụng chậm chạp do cần
thời gian để biến đổi thành chất có hoạt tính; nhưng thời gian tác dụng của nó rất dài từ 3-4 ngày
do gắn kết bền vững giữa thuốc và thụ thể.
Phục hồi đáp ứng của mô đích với catecholamine ngoại biên phụ thuộc vào quá trình sinh tổng
hợp thụ thể mới
Hiệu ứng và chỉ định
Phenoxybenzamine giảm kháng lực mạch máu nên giảm huyết áp ở cả tư thế đứng và tư thế nằm.
Phenoxybenzamine được dùng để điều trị các cơn tăng huyết áp ở bệnh nhân bị u tủy thượng
thận (u ở tủy thượng thận tiết ra 1 lượng lớn catecholamin gây tăng huyết áp rất cao). Trong
trường hợp này, phenoxybenzamine được dùng để kiểm soát huyết áp cho đến khi có thể tiến
hành phẫu thuật cắt bỏ khối u.
4.1.2. Phentolamine
Cấu trúc hóa học và dược động
Phentolamine là 1 hợp chất imidazoline, có cấu trúc tương tự với oxymetazoline. Sau khi tiêm
tĩnh mạch, thuốc khởi phát tác dụng ngay lập tức và thời gian tác dụng từ 10-15 phút. Còn nếu
tiêm bắp hay tiêm dưới da, thời gian khởi phát tác dụng là 15-20 phút và thời gian tác dụng kéo
dài từ 3-4 giờ. Thuốc được chuyển hóa qua gan và bài tiết ra nước tiểu.
Những thuốc ức chế cạnh tranh thì thời gian tác dụng phụ thuộc vào T1/2. Nếu T1/2 ngắn, thời
gian tác dụng ngắn và ngược lại.
Cơ chế, hiệu ứng và chỉ định
Phentolamine là 1 thuốc ức chế thụ thể cạnh tranh, gây giãn mạch, giảm đề kháng mạch ngoại
biên và giảm huyết áp. Dùng để điều trị cơn tăng huyết áp cấp gây ra bởi chất chủ vận thụ thể α.
Thuốc cũng được sử dụng để điều trị tình trạng thiếu máu cục bô do thoát mạch của epinephrine
hay các thuốc vận mạch khác bằng cách tiêm vào vị trí đó với phentolamine. Trong trường hợp
này, phentolamine sẽ cạnh tranh với epinephrine tại thụ thể ở giường mạch máu dẫn đến giãn
mạch và đảm bảo lưu lượng máu đến vùng bị ảnh hưởng.
Phentolamine và các thuốc ức chế không chọn lọc thụ thể α không hữu ích trong điều trị tăng
huyết áp mạn tính vì nó gây phản xạ nhịp nhanh, chóng mặt, nhức đầu và nghẹt mũi.
Các thuốc ức chế chọn lọc thụ thể 1 dùng đường uống, bị chuyển hóa do hấp thu hay chuyển hóa
qua gan lần thứ α1 (trước khi vào hệ tuần hoàn). Các thuốc này gắn với protein huyết tương và
được bài tiết qua mật, phân, nước tiểu.
Cơ chế và chỉ định
Các chất ức chế chọn lọc thụ thể α1 gây giãn các mạch máu và các cơ trơn như cơ bàng quang,
niệu đạo, và tiền liệt tuyến. Vì các thuốc này gây giãn mạch và giảm huyết áp, nên từng được
dùng để điều trị tăng huyết áp nguyên phát. Các thuốc ức chế chọn lọc thụ thể α 1 không gây phản
xạ nhịp nhanh như phentolamine và các thuốc ức chế không chọn lọc cả thụ thể α 1 và α2 khác.
Đó là bởi vì khi ức chế thụ thể α 2 ở tế bào thần kinh của hệ giao cảm sẽ ngăn cơ chế feedback
(ức chế giải phóng NE) vì thế lại làm tăng phóng thích NE, hoạt hóa thụ thể β 1 và gây nhịp
nhanh.
Các thuốc ức chế chọn lọc thụ thể α 1 rất hữu ích trong điều trị các triệu chứng đường tiều dưới ở
bệnh nhân nam bị phì đại tiền liệt tuyến và hoặc do các bệnh lý khác. Những người đàn ông bị
phì đại tiền liệt tuyến thường xuyên khó chịu vì tiểu lắt nhắt, tiểu gấp, tiểu đêm (cần phải đi tiểu
nhiều vào ban đêm). Tiền liệt tuyến to có thể gây tắc nghẽn đường tiểu và có bằng chứng cho
thây hoạt hóa thụ thể α1 ở bàng quang, niệu đạo, hệ thần kinh dẫn đến tắc nghẽn đường tiểu ở
nam giới. Ức chế thụ thể α1 gây giãn cơ trơn ở những mô này và giảm các triệu chứng tiết niệu.
Tadalafil cũng được công nhận để điều trị phì đại tiền liệt tuyến.
Tác dụng phụ thường gặp của các thuốc ức chế chọn lọc thụ thể α 1 bao gồm tụt huyết áp, chóng
mặt, và an thần do giãn mạch quá mức và tác động của thuốc lên hệ thần kinh trung ương.
Doxazosin và terazosin có tỷ lệ bị tác dụng phụ cao hơn so với tamsulosin và alfuzosin. Một tỷ lệ
nhỏ những người đàn ông bị xuất tinh bất thường khi dùng thuốc này.
Chi tiết từng thuốc
Prazosin là thuốc có t1/2 ngắn hơn so với những thuốc khác thuộc cùng nhóm. Và có thời gian
tác dụng là 6 giờ. Nó chịu chuyển hóa do hấp thu và chuyển hóa ở gan trước khi được thải ra
ngoài qua thận và gan
Doxazosin và terazosin là 2 thuốc ức chế chọn lọc thụ thể α 1 có thời gian tác dụng kéo dài nên
thường được dùng 1 lần/ngày để điều trị tăng huyết áp hoặc giảm triệu chứng đường tiểu dưới.
Thời gian tác dụng là 20 giờ (terazosin) đến 30 giờ (doxazosin).
Alfuzosin, silodosin, và tamsulosin là những thuốc ức chế chọn lọc thụ thể 1 đường tiết niệu nên
giúp giảm triệu chứng đường tiểu dưới mà không gây hạ huyết áp, chóng mặt hay an thần như
các thuốc khác trong nhóm. Vì thế, các thuốc này chỉ được chỉ định để điều trị các BN bị phì đại
tiền liệt tuyến có triệu chứng tắc nghẽn đường tiểu mà không được dùng để điều trị tăng huyết
áp. Alfuzosin có thể gây hội chứng QT dài ở 1 số người.
5. THUỐC ỨC CHẾ THỤ THỂ β
5.1. Các thuốc ức chế thụ thể β không chọn lọc
Các thuốc ức chế thụ thể β không chọn lọc là những thuốc ức chế thụ thể β đầu tiên được tạo ra
và sử dụng trong lâm sàng. Ngoài ức chế thụ thể β 1 ở tim, các thuốc này còn ức chế thụ thể β 2 ở
cơ trơn, gan và các mô khác.
Cấu trúc hóa học và dược động học
Là những chất có cấu trúc tương tự với các thuốc chủ vận thụ thể β. Tất cả các thuốc này dùng
đường uống, và propranolol còn có thể dùng đường tĩnh mạch.
Cơ chế và hiệu ứng
Các thuốc ức chế thụ thể β không chọn lọc cạnh tranh với NE và các chất chủ vận adrenoceptor
Ức chế thụ thể β2 có thể tạo ra tác dụng phụ ở bệnh nhân dùng thuốc như bệnh nhân bị hen phế
quản hoặc là bị đái tháo đường.
Cụ thể về từng thuốc
– Propranolol thì có nhiều ứng dụng lâm sàng, ví dụ như điều trị tăng huyết áp, đau thắt
ngực, loạn nhịp tim, phì đại cơ tim do hẹp van động mạch chủ phần dưới van (giảm tống
máu từ thất trái và giảm cung lượng tim, cường giáp cấp, nhồi máu cơ tim cấp (giảm tỷ lệ
tử vong), u tủy thượng thận (giảm kích thích tim do catecholamine được phóng thích từ u
này, giảm triệu chứng của cường giáp, đau đầu do migraine.
– Nadolol là thuốc có thời gian tác dụng dài, điều trị tăng huyết áp, đau thắt ngực và đau đầu
do migraine
– Timolol dùng đường uống điều trị tăng huyết áp, giảm nguy cơ tử vong ở người bị NMCT
cấp và ngăn đau đầu do migraine, là thuốc đầu tiên được công nhận trong điều trị
glaucoma dưới dạng nhỏ mắt do khả năng thấm qua giác mạc đến cơ thể mi, từ đó gây
giảm bài tiết thủy dịch và áp lực nội nhãn
thụ thể β1 hơn thụ thể β2. Vì β1 nằm chủ yếu trên tim nên những thuốc này còn được gọi là thuốc
ức chế thụ thể β chọn lọc trên tim
Khi so sánh với các thuốc ức chế β không chọn lọc, các thuốc này ít gây co thắt phế quản và ít
các hiệu ứng qua trung gian thụ thể β 2. Tuy nhiên đặc tính chọn lọc này không phải tuyệt đối và
khi tăng liều sẽ dẫn đến ức chế luông thụ thể β 2. Vì thế nên phải dùng thận trọng ở BN có bệnh
phổi.
Cụ thể về từng thuốc
- Acebutolol là thuốc ức chế chọn lọc lọc thụ thể β 1 có hoạt tính giao cảm nội tại thấp. Sau
khi vào cơ thể, acebutolol chuyển thành dạng có hoạt tính, N-acetyl acebutolol, có thời
gian bán thải dài hơn so với dạng gốc. Sử dụng đường uống. Ứng dụng: điều trị tăng
huyết áp và loạn nhịp tim.
- Atenolol có sinh khả dụng đường uống thấp hơn so với các thuốc ức chế thụ thể β khác,
đào thải qua nước tiểu dưới dạng không đổi. Có tính tan trong lipid thấp nên ít tác dụng
phụ trên hệ thần kinh trung ương (hay nằm mơ, mệt mỏi, trầm cảm). Sử dụng đường
uống hay tĩnh mạch. Ứng dụng: điều trị tăng huyết áp, đau thắt ngực.
- Esmolol: có thời gian bán thải ngắn hơn các thuốc ức chế thụ thể β khác. Sử dụng đường
tĩnh mạch. Ứng dụng: điều trị tăng huyết áo và loạn nhịp nhanh trên thất cấp tính xảy ra
trong quá trình phẫu thuật. Được chuyển hóa nhanh chóng thành dạng không có hoạt tính
- Metoprolol: điều trị tăng huyết áp, đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim cấp. Sử dụng đường
uống hoặc tĩnh mạch. Đào thải qua thận.
- Bisoprolol: điều trị tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim cấp
- Betaxolol: tăng nhãn áp góc mở mãn tính do làm giảm tiết thủy dịch
TÓM TẮT BÀI
- Ức chế thụ thể gây giãn cơ trơn và giảm kháng lực mạch máu; ức chế thụ thể β gây
giảm nhịp tim và cung lượng tim. Cả 2 đều giảm huyết áp.
- Thuốc ức chế thụ thể không chọn lọc bao gồm phenoxybenzamine (không cạnh tranh)
và phentolamine (cạnh tranh). Phenoxybenzamine dùng trong điều trị tăng huyết áp do
u tủy thượng thận trong khi chờ phẫu thuật.
- Thuốc ức chế chọn lọc thụ thể 1 bao gồm: alfuzosin, doxazosin, prazosin, tamsulosin, và
terazosin; dùng trong điều trị triệu chứng tắc nghẽn đường tiểu do phì đại tiền liệt tuyến.
- Các thuốc ức chế β không chọn lọc bao gồm: nadolol, pindolol, propranolol, và timolol.
Pindolol có hoạt tính giao cảm nội tại.
- Các thuốc ức chế chọn lọc β1 ít gây co thắt phế quản hơn dạng ức chế không chọn lọc.
- Các thuốc ức chế thụ thể β có nhiều ứng dụng trên lâm sàng: điều trị THA, BTMCT,
suy tim, loạn nhịp tim, cường giáp, glaucome góc mở, run vô căn.
TỪ KHÓA
Ức chế thụ thể α; Ức chế thụ thể β; Phenoxybenzamine; Phentolamine; Doxazosin; Tamsulosin;
Alfuzosin; Silodosin; Propranolol; Timolol; Pindolol; Atenolol; Esmolol; Metoprolol;
Carvedilol; Labetalol
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Trần Thị Thu Hằng (2016), Dược lực học, 21th edition, Nhà xuất bản Phương Đông Thành
phố Hồ Chí Minh.
2. George M.Brenner và Craig W. Stevens (2013), Pharmacology, 4th edition, Elsevier.
3. https://doctorlib.info/physiology/physiology-2/11.html
4.
PHỤ LỤC
1. Giải thích về tình trạng điều hòa xuống của thụ thể β trong suy tim
2.