Professional Documents
Culture Documents
• Nguyên nhân bên ngoài: các yếu tố vật lý như nhiệt độ, dòng điện, yếu tố cơ học như chấn thương, yếu tố hoá học như rượu, ngộ
độc, thuốc…; yếu tố sinh vật học như virus, vi khuẩn trực khuẩn có độc tố ảnh hưởng hệ thần kinh; yếu tố tâm thần kinh...
• Nguyên nhân bên trong: thiếu oxy não làm rối loạn tuần hoàn máu, thiếu máu, đột quỵ; rối loạn tuần hoàn cục bộ não; rối loạn nội
tiết (tuổi dậy thì, mang thai, mãn kinh, tác dụng phụ của thuốc); yếu tố di truyền.
2. SINH LÍ BỆNH TẾ BÀO THẦN KINH
2.1. Rối loạn quá trình hưng phấn trong tế bào thần kinh:
Xảy ra bởi việc gây rối loạn quá trình oxy hóa bên trong tế bào thần kinh do:
• Nóng/lạnh
• Tia phóng xạ
• Các chất độc tố gây rối loạn oxy hóa (Xyanua)
Ví dụ: ức chế quá trình tạo ATP của tế bào => ức chế quá trình vận chuyển ion của tế bào thần kinh suy hô hấp và suy tim
• Thuốc ngủ
• Thiếu oxy
2.2. Rối loạn các kênh vận chuyển tích cực các ion:
• Làm cho ion Na+, K+ không được giải phóng ra khỏi tế bào, ức chế quá trình hưng phấn của tế bào thần kinh gây độc cho tế bào
loạn nhịp tim
• Nguyên nhân phổ biến: nhiễm Ouabain, Luminal, Aminazin…
2.3. Rối loạn dẫn truyền hưng phấn trên sợi thần kinh:
Dẫn truyền hưng phấn trên sợi trục giảm khi bị lạnh, thiếu oxy, khi nhiễm độc tố vi khuẩn (bạch cầu, thương hàn…), virus (cúm, bại
liệt…), đè ép (sẹo…) gây ức chế quá trình dẫn truyền.
Ví dụ: Virus bại liệt nhiễm vào cơ thế người qua đường ruột. Tại đây, chúng sử dụng hệ thống dịch mã của con người để tạo hàng
loạt Protein virus. Sau đó, chúng phá hủy niêm mạc ruột và theo mạch máu đi đến tủy nhờ chúng có ái lực cáo với dây thần kinh
vận động. Sau khi tấn công tủy, loại virus này có thể đi ngược lên não và gây chết tế bào thần kinh vận động ➔ bại liệt.
2.4. Rối loạn dẫn truyền hưng phấn từ nơron này tới nơron khác/cơ quan thu nhận
Nhiều yếu tố gây tổn thương synapse (thiếu O2, độc tố vi khuẩn, độc tố thần kinh…) gây rối loạn tạo chất trung gian hóa học, hoặc ngăn cản
chất này vào trong khe synapse, gồm:
• Rối loạn dẫn truyền hưng phấn trong synapse tiết adrenalin.
• Rối loạn dẫn truyền hưng phấn trong synapse tiết axetylcholin.
• Rối loạn chức năng synapse ức chế.
Ví dụ:
❖ Bệnh nhược cơ: một phần cơ ở vị trí nào đó không hoạt động theo ý muốn.
Đây là bệnh tự miễn hiếm gặp: tự tạo kháng thể kháng lại receptor nhận diện acetylcholin ở màng sau synapse, dẫn tới cơ không co. Cụ thể,
kênh thu nhận acetylcholin ở màng sau synapse sẽ mở khi có acetylcholin xuất hiện ở khe synapse, nhưng kháng thể kháng lại receptor nhận
diện acetylcholine trên kênh gây ra các ức chế lên kênh ion thu nhận acetylcholin. Đây là bệnh lý màng sau synapse Thần kinh - cơ.
❖ Bệnh nhược cơ thoáng qua:
Chất dẫn truyền thần kinh từ tế bào thần kinh 1 vào khe synapse nhưng tế bào thần kinh 2 không nhận não tiếp tục truyền tín hiệu đẩy chất
dẫn truyền thần kinh (không phải tất cả receptor trên khe synapse đều bị ức chế, có 1 số receptor vẫn còn hoạt động chất dẫn truyền thần
kinh vẫn được truyền nhưng ít) tín hiệu truyền chất dẫn truyền ngày càng mạnh hơn hết chất dẫn truyền thần kinh cơ không hoạt
động. Khi đó, bệnh nhân cần được nghỉ ngơi (ngủ) để cơ thể có thời gian phục hồi chất dẫn truyền thần kinh và hoạt động lại bình thường.
❖ Bệnh uốn ván (kháng synapse ức chế):
Bệnh cấp tính do ngoại độc tố (tetanus exotoxin) của vi khuẩn uốn ván gây ra ở miệng vết thương hở. Đây là bệnh lý của màng sau synapse
Thần kinh – Thần kinh, virus làm ức chế tín hiệu của nơron ức chế ➔ cơ luôn nhận tín hiệu căng cứng.
2.5. Rối loạn mất liên hệ thần kinh
Gồm:
• Thoái hóa của bản thân tế bào thần kinh
• Thoái hóa thần kinh cơ vân
• Không thoái hóa của thần kinh thực vật
• Tăng mẫn cảm khi mất liên hệ thần kinh
• Tăng tính tự động cơ bản do mất sự kiểm tra từ trên
Thoái hóa tế bào thần kinh: bản thân tế bào thần kinh bị đưa vào apoptosis, tùy thuộc vào vị trí tế bào thần kinh ở đâu mà sẽ ảnh hưởng
đến những vị trí khác nhau. Thường là tế bào thần kinh trung ương và não.
Ví dụ:
❖ Bệnh Alzheimer
Là tình trạng thoái hóa tế bào thần kinh dẫn đến sa sút trí tuệ tiến triển đặc trưng bởi tổn thương trí nhớ và nhận thức. Cùng với quá trình tiến
triển của bệnh, các rãnh não ngày càng rộng ra, dẫn đến mất các vùng trên não như vùng ngôn ngữ, vùng trí nhớ,…
Nguyên nhân:
- Mảng bám ngoại bào
- Đám rối nội bào thần kinh
Tăng mẫn cảm khi mất liên hệ thần kinh
Ví dụ:
❖ Hiện tượng/ hội chứng Raynaud
Đây có thể là một hiện tượng bình thường của cơ thể khi gặp lạnh, hệ thần kinh yêu
cầu cơ ở mạch máu co lại để hạn chế máu lưu thông đến vị trí gặp lạnh ➔ giữ nhiệt
cho cơ thể.
Tuy nhiên, hiện tượng này cũng có thể là tình trạng bệnh lý gây giảm lưu lượng
máu đến cung cấp cho các mô, tế bào. Ở các bệnh nhân của hội chứng này, sự lạnh hoặc căng thẳng sẽ kích thích rất mạnh sự co cơ mạch
máu, làm một số vùng trên cơ thể có rất ít máu lưu thông tới. Sau khi bệnh nhân trở lại điều kiện bình thường, máu sẽ lưu thông trở lại và
tràn đến vị trí thiếu máu một cách nhanh chóng ➔ gây phù nề, đỏ, đau. Hội chứng này thường đi kèm với Lupus ban đỏ.
❖ Hội chứng Guillain – Barre
Khi các virus xâm nhập vào cơ thể gây các phản ứng viêm, gây ra đáp ứng quá mức của hệ thần kinh. Bao myelin bị các kháng thể bắt vào
gây viêm, dẫn đến hư hỏng sợ trục, gây rối loạn về tứ chi, rối loạn hệ thần kinh ngoại biên, thần kinh cảm giác.
3. RỐI LOẠN VẬN ĐỘNG
Hệ tháp và hệ ngoại tháp:
Hệ tháp diễn tả quá trình đi trong hệ thần kinh trung ương, có tác dụng kiểm soát vận động tự ý, các dây thần kinh bắt chéo não trái điều
khiển bên phải và ngược lại. Hệ ngoại tháp điều khiển vận động không tự ý.
3.1. Chức năng vận động bị giảm hoặc liệt
• Liệt một chi, hai chi dưới, nửa người, toàn thân…
• Liệt ngoại biên khi nơron vận động ngoại vi bị tổn thương.
• Liệt trung ương khi nơron vận động trung ương bị tổn thương.
3.2. Tăng động
• Tăng động tháp: rối loạn về hệ thần kinh trung ương và vận động có chủ ý, người bệnh bị cứng và co giật (ví dụ do chấn thương
não, chảy máu não…).
• Tăng động ngoại tháp: rối loạn không điều khiển được (ví dụ cơ rung, giật…).
• Tăng động não tủy – giật cơ.
3.3. Rối loạn phối hợp vận động:
Ví dụ: Bệnh Parkinson: thoái hóa hệ thần kinh trung ương, cụ thể là vùng hạch nền trong não, dẫn đến khu vực điều khiển vận động trong
não bị mất chức năng, gây ra triệu chứng: run, giảm cử động, đơ cứng và rối loạn phản xạ tư thế.
4. RỐI LOẠN CẢM GIÁC
4.1. Cảm giác mất hoặc giảm
• Đứt dây thần kinh ngoại vi và đứt rễ sau tủy sống: mất hoàn toàn cảm giác.
• Tổn thương sừng sau chất xám: gây mất cảm giá đau và nóng/lạnh, còn cảm giác sâu.
• Đứt tủy hoàn toàn: gây mất toàn bộ khả năng cảm giác và vận động.
4.2. Cảm giác tăng
• Tổn thương đồi thị
• Tổn thương khu cảm giác vỏ đại não
4.3. Dị cảm
• Do mất liện hệ thần kinh, thiếu máu cục bộ tại vị trí, còn có thể do các khối u chèn vào dây thần kinh.
• Cảm thấy ngứa, tê, điện giật…
4.4. Cảm giác đau
• Do tác nhân môi trường (bên ngoài hoặc bên trong) kích thích thụ thể đau, gây luồng xung đột thần kinh truyền qua tủy, lên não,
qua đồi thị đến vỏ não.
• Cảm giác đau phụ thuộc vào loại dây ly tâm:
− Dây có bao myeline tốc độ dẫn truyền nhanh cảm giác đau tức thì.
− Dây không vod bao myline tốc độ dẫn truyền chậm hơn, đau âm ỉ trong thời gian dài.
5. RỐI LOẠN THẦN KINH THỰC VẬT VÀ TỰ QUẢN
5.1. Tổn thương vùng dưới đồi
Vùng dưới đồi điều khiển hệ thần kinh tự quản và thực vật, là nơi tiết ra 7 hoocmon thần kinh (GF) điều khiển hoạt động của trục dưới đồi -
tuyến yên - thượng thận.
Tổn thương vùng dưới đồi sẽ gây các tổn thương hoặc rối loạn hệ thần kinh thực vật khác nhau tùy theo vị trí của tổn thương.
5.2. Tổn thương hệ giao cảm: tăng chức năng vận động, tăng mất kiểm soát
• Cắt toàn bộ hạch giao cảm gây ra nhiều rối loạn :
− Dãn mạch gây giảm huyết áp.
− Tim đập chậm, yếu.
− Tăng chức năng vận động dạ dày - ruột.
− Gây co cứng cơ thắt bàng quang, hậu môn.
− Giảm quá trình O2, giảm thân nhiệt.
• Kích thích hệ giao cảm gây những rối loạn ngược lại.
5.3. Tổn thương hệ phó giao cảm:
Làm các cơ quan trong cơ thể giảm hoạt động, làm suy tạng.
6. RỐI LOẠN HOẠT ĐỘNG THẦN KINH CAO CẤP VÀ BỆNH LOẠN THẦN
• Cơ chế phát sinh: chưa có nguyên nhân rõ ràng về cơ chế sinh bệnh, nhưng theo những số liệu thu được của các bệnh nhân, có thể
có các cơ chế sau:
− Gây stress mạnh với quá trình hưng phấn: tiếng nổ lớn, bão lụt, nghe tiếng động to trong thời gian dài có thể gây ra bệnh loạn
thần.
− Gây stress mạnh đối với quá trình ức chế: bắt con vật phải chịu đựng trạng thái ức chế quá độ (kéo dài thời gian trước khi cho
ăn) có thể gây bệnh loạn thần.
• Ảnh hưởng của loạn thần kinh đối với quá trình phát sinh bệnh loạn thần
− Động vật phản ứng khác nhau đối với bệnh loạn thần: loại thần kinh ức chế và loại thần kinh hưng phấn dễ bị bệnh, loại thần
kinh thăng bằng (có tâm lý cứng, biết giữ cảm xúc thăng bằng) khó bị bệnh ( người dễ buồn là có thần kinh ức chế và người dễ
vui dễ tăng động là có thần kinh hưng phấn dễ bị loạn thần).
− Loại thần kinh ức chế dễ bị bệnh nhất, các phản xạ dương tính mất hết ( không có hứng thú giao tiếp, ăn uống…), ở trạng thái ức
chế, thôi miên.
• Đặc điểm:
− Giảm khả năng hoạt động của tế bào thần kinh: làm tế bào thần kinh giảm ức chế, tăng hưng phấn các nơron ở vỏ não chuyển
sang trạng thái ức chế.
− Rối loạn thăng bằng giữa hai quá trình hưng phấn và ức chế: khi hưng phấn chiếm ưu thế, lúc ức chế chiếm ưu thế.
− Trạng thái giai đoạn rối loạn: bình thường, từ khi tỉnh (hưng phấn) đến khi ngủ (ức chế) thời gian ngắn (vài phút tới vài chục
phút). Khi mắc bệnh loạn thần, trạng thái giai đoạn có thể kéo dài tới hàng tuần .
− Rối loạn tính linh hoạt: giảm (tính ỳ tăng); tăng (phát sinh phản ứng mạnh song nhanh chóng mất phản ứng).
− Rối loạn chức năng thực vật: bệnh loạn thần gây ra nhiều rối loạn thực vật (tiêu hoá, tiết niệu, loét dinh dưỡng).
Bệnh loạn thần phân thành: Tâm thần phân liệt, rối loại phân biệt cảm xúc…
• Bệnh loạn thần ở người:
− Là bệnh chức năng của trung khu thần kinh, biểu hiện bằng những rối loạn hoạt động thần kinh cao cấp, nguyên nhân quyết định
là chấn thương về tinh thần, stress.
− Người dễ mắc bệnh: người có loại thần kinh yếu; chế độ lao động và nghỉ ngơi không hợp lý (thiếu ngủ kéo dài, dinh dưỡng
kém..).
Ví dụ: Bệnh tâm thần phân liệt:
− Biểu hiện: có thay đổi trong hành vi, ảo tưởng, hoang tưởng, lo âu trầm cảm, gây hấn kích động, liên quan đến nhận thức,
thường kéo dài trong 6 tháng. Bệnh sinh của tâm thần phân liệt: do yếu tố di truyền và yếu tố sinh hóa ( Dopamin, Gaba,
Glutamat, Serotonin). Khi tăng hoạt chất Dopamin (có trong ma túy, thuốc điều trị Parkinson) thì triệu chứng tâm thần phân liệt
tăng lên. Dùng thuốc an thần để điều trị bệnh nhân tâm thần phân liệt (thuốc an thần ức chế thụ thể dopamin).
− Sự phóng thích dopamin: con đường chất đen thể vân, điều khiển vận động, dopamine ở con đường này ở người bệnh và người
bình thường như nhau người bệnh tâm thần phân liệt vẫn có thể hoạt động bình thường.
− Sự phóng thích dopamin ở con đường trung não của vỏ não ở vùng trán, liên quan nhận thức và cảm xúc, có 2 nhánh:
o Trên: liên quan đến nhận thức, khi bệnh thì vùng tiết dopamin ở đường này bị giảm.
o Dưới: liên quan đến cảm xúc, bị stress không vui không buồn.
− Dopamin: tín hiệu truyền tới khe synapse, dopamin được truyền vào khe synapse, receptor ở màng sau khe synapse sẽ nhận
dopamin và truyền tín hiệu tiếp theo, nếu thừa dopamin thì có 2 cơ chế:
o Thu hồi dopamine lại.
o Autoreceptor: dopamin gắn vào autoreceptor làm tế bào thần kinh trước khe synapse ko sản xuất dopamin nữa.
7. BỆNH ALZHEIMER
7.1. Giới thiệu chung
7.1.1. Định nghĩa
− Alzheimer’s (AD) là nguyên nhân phổ biến nhất gây suy giảm trí nhớ (Dementia) ở con người. Đây là căn bệnh tiến triển liên tục, bắt
đầu với triệu chứng mất trí nhớ mức độ nhẹ và có nguy cơ dẫn tới mất khả năng giao tiếp hay phản ứng với các điều kiện môi trường
sống[4].
− AD liên quan nhiều đến các bất thường ở vùng não điều khiển suy nghĩ, trí nhớ và ngôn ngữ.
7.1.2. Lịch sử bệnh
− Bệnh Alzheimer được mô tả lần đầu vào năm 1906 bởi bác sĩ tâm thần và thần kinh học người Đức, Alois Alzheimer, sau 5 năm ông
quan sát một bệnh nhân nữ mang các rối loạn về phương hướng, loạn thần (cognitive disturbance), mang ảo giác và nhiều thay đổi
hành vi bất thường khác[18].
− Mãi đến năm 1980, người ta lần đầu tiên xác định được 2 dấu ấn phân tử giúp xác định AD. Đó là β-Amyloid trong các mảng bám
(plagues) và tau protein được phosphoryl hóa quá mức có mặt trong các đám rối nội bào thần kinh (neurofibrillary tangles – NRFs)[18].
− Đến nay, khoa học hiện đại vẫn chưa tìm ra phương pháp chữa bệnh cho AD một cách tuyệt đối. Do đó, số lượng bệnh nhân AD ngày
càng tăng, đặc biệt khi tuổi thọ của con người ngày càng được kéo dài[3].
− Năm 2018, tổ chức Alzheimer’s Disease International tính toán có khoảng 50 triệu người mắc chứng suy giảm trí nhớ, trong đó nhóm
quốc gia có thau nhập thấp đến trung bình chiếm 2/3 số ca. Dự tính, con số này sẽ tăng gấp đôi vào năm 2050[13].
7.2. Cơ chế bệnh sinh
7.2.1. Sự hình thành β-Amyloid (Aβ)
− Protein tiền thân của Amyloid (APP) là một loại protein xuyên màng type 1 ở nhiều loại tế bào. Quá trình phân cắt APP trong cơ thể
gồm 2 giai đoạn (hình 2.1) [18]:
+ Giai đoạn 1:
• Ở người bình thường, nó có thể được phân cắt bởi α-Secretase để tạo ra sAPPα (sản phẩm tiết ngoại bào) và C83 (tiểu phần protein
vẫn còn bám trên màng tế bào).
• Ở bệnh nhân Alzheimer, β-Secretase đóng vai trò chính trong sự phân cắt APP, tạo thành sAPPβ và C99.
+ Giai đoạn 2:
C83 hoặc C99 ở giai đoạn 1 sẽ tiếp tục được γ-Secretase phân cắt, tạo thành tương ứng là p3 và Aβ. Theo đó, trong khi p3 có thể thực hiện
chức năng và tan được thì Aβ42 có cấu trúc dài và kỵ nước hơn. Các Amyloid không tan này kết hợp thành các dimer, trimer hoặc oligomer
tạo thành các mảng bám ngoại bào thần kinh gây độc thần kinh, thoái hóa tế bào thần kinh tại các khu vực chịu trách nhiệm dẫn truyền xung
bằng Acetylcholin. Bệnh càng tiến triển thì mức độ thoái hóa càng nặng, càng lan rộng trong hệ thống dẫn truyền thần kinh[1].
Hình 7.1. Minh họa quá trình phân cắt APP trong cơ thể[18]
7.2.2. Đám rối nội bào thần kinh
− Về protein tau, nó đóng vai trò quan trọng trong việc bám và ổn định cấu trúc các vi ống trong tế bào thần kinh, đồng thời cũng tham gia
vào con đường tín hiệu (signaling pathway)[12].
− Sự mất cân bằng giữa Kinase và Phosphatase trong cơ thể làm protein tau bị phosphoryl hóa quá mức. Do đó, chúng mất đi khả
năng liên kết với vi ống trong tế bào thần kinh. Khi đó, vi ống không còn ổn định, hoạt động tế bào thần kinh bị ảnh hưởng, protein
tau bị phosphoryl hóa sẽ kết tụ và hình thành đám rối trong tế bào thần kinh[12].
− Giai đoạn sớm: Bắt đầu có dấu hiệu mất trí nhớ mức độ nhẹ, như: quên các sự kiện xảy ra gần đây, gặp khó khăn trong giao tiếp và sử
dụng ngôn ngữ, lặp lại liên tục các câu hỏi,… Bên cạnh đó, cảm xúc của bệnh nhân Alzheimer cũng thay đổi thất thường: lo lắng, kích
động, bối rối,…
− Giai đoạn giữa: Mức độ mất trí nhớ đã trở nên nghiêm trọng hơn:
+ Không thể nhớ tên / khuôn mặt của người thân
+ Giảm khả năng về phương hướng, thường xuyên đi lang thang, lạc đường,…
+ Khó ngủ ngon và dễ bị hoang tưởng
Ở giai đoạn này, họ không thể tự thực hiện các sinh hoạt hàng ngày mà cần có sự hỗ trợ của người khác, từ việc ăn uống, tắm
rửa đến thay quần áo, đi vệ sinh,…
− Giai đoạn trễ: Những triệu chứng đã trở nên cực kì nghiêm trọng và gây rất nhiều khó khăn đối với bệnh nhân cũng như người chăm
sóc:
+ Có xu hướng bạo lực và nghi ngờ mọi thứ xung quanh
+ Dần mất khả năng ăn, nuốt, và nói chuyện
+ Không thể tự thay đổi tư thế hoặc di chuyển nếu không có người khác hỗ trợ
7.3.2. Chẩn đoán Alzheimer
7.3.2.1. Trắc nghiệm sàng lọc
Các test trắc nghiệm sàng lọc thường được dùng để đánh giá nhanh sự suy giảm khả năng nhận thức của bệnh nhân, lấy đó làm tiền đề để
đưa ra kế hoạch điều trị tiếp theo. Một số test sàng lọc phổ biến có thể kể đến như[1]:
− Mini-mental state examination (MMSE) và Montreal Cognitive Assessment (MoCA): đánh giá trắc nghiệm và chấm điểm trên thang
điểm 30. Phương pháp này có thể bị ảnh hưởng bởi tuổi và học vấn của bệnh nhân.
− Mục đích MRI là để đánh giá teo não lan tỏa của bệnh Alzheimer, đặc biệt phát hiện teo thùy thái dương trong trong chẩn đoán bệnh giai
đoạn sớm (hình 3.1).
− Có thể định tính Alzheimer nếu hình ảnh não thu được có các vành đều nhau qua thùy thái dương. Tuy nhiên, để định lượng thể tích não
thì cần có sự hỗ trợ của các phần mềm có độ phân giải cao.
➢ Chụp PET Scan
Hình 7.3. Hình ảnh chụp MRI so sánh thể tích não của người bình thường (trái)
và bệnh nhân Alzheimer (phải) [18].
− Amyloid PET là phương pháp chẩn đoán bệnh Alzheimer thông qua việc xác nhận có tồn tại β-Amyloid trong não hay không. Trong
phương pháp này, người ta sử dụng các marker đặc hiệu với Aβ42 trong nhu mô não, sau đó phát hiện bằng PET để phát hiện Alzheimer
dù ở giai đoạn sớm. Hiện nay, FDA đã công nhận Amyvid (18F-Florbetapir), Neuraceq (18F-Florbetaben), and Vizamyl (18F-
Flutemetamol) là các chất đánh dấu β-amyloid trong não trên PET scan[10]. Tuy nhiên, phương pháp này không phổ biến vì chi phí thực
hiện quá cao, chỉ dụng trong trường hợp được yêu cầu đặc biệt[18].
− Mặt khác, FDG-PET (hình 3.2), là phương pháp xác định khả năng sử dụng Glucose ở não. Các vùng màu sắc khác nhau thể hiện mức
độ sử dụng Glucose trên não. Trong đó, các màu nóng (vàng, cam, đỏ) minh họa vùng có sử dụng Glucose trong khi các màu lạnh (xanh
lá, xanh dương) sẽ nằm ở vùng ít sử dụng Glucose. Như vậy, tỉ lệ vùng màu lạnh càng nhiều chứng tỏ não của càng ít sử dụng Glucose,
khả năng người này mắc bệnh càng lớn.
8. BỆNH ĐỘT QUỴ (TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO)
8.1. Giới thiệu chung
8.1.1. Giới thiệu chung về não và bệnh đột quỵ
Đột quỵ là một tổn thương đến não xảy ra khi dòng máu cung cấp cho não bị gián đoạn hoặc giảm đáng kể. Não bị thiếu ô-xy và dinh dưỡng
và các tế bào não bắt đầu chết trong vòng vài phút. Vì lý do đó, đột quỵ được coi là một tình huống cấp cứu y tế và cần có chẩn đoán và điều
trị kịp thời[21].
8.1.2. Tổng quan
Tình trạng đột quỵ là một vấn đề lớn về sức khỏe trên toàn thế giới, và ảnh hưởng đến hàng triệu người mỗi năm. Dưới đây là một số số liệu
thống kê về tình trạng đột quỵ trên toàn thế giới và Việt Nam:
Toàn cầu: Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mỗi năm có khoảng 17 triệu người mắc bệnh đột quỵ trên toàn cầu. Tỉ lệ mắc bệnh đột quỵ
trên toàn cầu khoảng 12.5% dân số thế giới. Độ tuổi mắc bệnh đột quỵ trên toàn cầu từ 55 tuổi trở lên[22].
Tại Việt Nam: Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), số lượng bệnh nhân đột quỵ tại Việt Nam là 203.000 trường hợp mỗi năm.
Tỉ lệ mắc bệnh đột quỵ tại Việt Nam ở người trưởng thành đạt 1,8%, cao hơn so với tỉ lệ toàn cầu. Độ tuổi mắc bệnh đột quỵ ở Việt Nam chủ
Hình 8.1. Hình chụp FDG-PET của một bệnh nhân mắc Alzheimer. Hình bên trái thể hiện mặt cắt ngang đầu,
hình bên phải thể hiện mặt cắt dọc[18].
yếu tập trung ở người trưởng thành từ 40 đến 70 tuổi, chiếm khoảng 10-15% tổng số bệnh tim mạch và não mạch[2].
8.2. Lịch sử bệnh
− Thế kỷ 5 trước Công nguyên: Các bác sĩ Hy Lạp và La Mã cổ đại đã ghi nhận các triệu chứng giống như đột quỵ, nhưng không có cách
điều trị hiệu quả.
− Năm 1928: Giáo sư Karel Wenckebach, một nhà tim mạch Hà Lan, đã miêu tả các triệu chứng của đột quỵ và xác định rằng nó là do
bệnh lý của hệ thống tuần hoàn máu.
− Năm 1950: Các nhà nghiên cứu đã phát triển kỹ thuật điện não đồ (EEG), giúp cải thiện khả năng chẩn đoán bệnh đột quỵ.
− Năm 1970: Các kỹ thuật chụp cắt lớp vi tính (CT) được phát triển, giúp xác định chính xác vị trí và phạm vi của đột quỵ trong não.
− Năm 1983: FDA (Ủy ban Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ) đã chấp thuận sử dụng thuốc tPA (tissue plasminogen activator) để điều
trị đột quỵ, trở thành phương pháp điều trị đột quỵ đầu tiên.
− Năm 1996: Các kỹ thuật hình ảnh từ tính (MRI) được sử dụng để xác định độ chính xác của khu vực đột quỵ.
− Năm 2004: Kỹ thuật can thiệp thông qua động mạch carotid được phát triển, giúp cải thiện khả năng điều trị đột quỵ.
− Hiện nay: Các phát triển về kỹ thuật hình ảnh, thuốc trợ tim và các phương pháp can thiệp như phẫu thuật hoặc tiêm thuốc trực tiếp vào
động mạch đã cải thiện đáng kể khả năng phục hồi của bệnh nhân đột quỵ
Hình 8.2. Minh họa 2 cách phân loại bệnh đột quỵ dựa vào yếu tố nguy cơ[5]
8.3.1 Đột quỵ do thiếu máu cục bộ
Là tình trạng tắc nghẽn trong động mạch gây đột quỵ, theo thống kê có tới 85% các ca bệnh đột quỵ do thiếu máu cục bộ. Thiếu máu cục bộ
có thể do các nguyên nhân:
+ Tụ huyết khối : Do thành bên trong của các động mạch bị xơ vữa tạo điều kiện hình thành cục máu đông.
+ Thuyên tắc động mạch : Do huyết khối từ nơi khác được vận chuyển đến làm tắt động mạch[6].
8.3.2 Đột quỵ do xuất huyết não
− Đột quỵ do xuất huyết não (hemorrhagic stroke) là loại đột quỵ xảy ra khi một mạch máu trong não bị vỡ và dẫn đến xuất huyết vào não.
Xuất huyết gây ra áp lực và tổn thương cho các tế bào và mô não gần đó, ảnh hưởng đến chức năng và khả năng hoạt động của bộ não.
− Có hai dạng chính của đột quỵ do xuất huyết là:
+ Đột quỵ do xuất huyết trong não: khi máu chảy vào não và gây ra tổn thương cho các tế bào não.
+ Đột quỵ do xuất huyết dưới màng não: khi máu chảy vào khoảng không gian giữa màng não và não, tạo ra áp lực trên não[7].
8.4. Các giai đoạn bệnh
− Giai đoạn khởi phát (acute phase): bắt đầu từ thời điểm đột quỵ xảy ra và kéo dài khoảng 72 giờ. Trong giai đoạn này, mục tiêu chính
của chữa trị là ngăn ngừa sự suy giảm chức năng não và giảm thiểu tổn thương thêm cho não. Các biện pháp như giảm áp lực đầu, phục
hồi dòng chảy máu và điều trị tắc nghẽn, đánh giá tình trạng tim mạch và hô hấp, đánh giá chức năng não và triển khai chẩn đoán hình
ảnh đều được thực hiện trong giai đoạn này.
− Giai đoạn phục hồi (subacute phase): bắt đầu từ sau giai đoạn khởi phát và kéo dài khoảng 2-4 tuần. Trong giai đoạn này, mục tiêu
chính của chữa trị là phục hồi chức năng và giảm thiểu các biến chứng. Các biện pháp như vật lý trị liệu, trị liệu ngôn ngữ học, trị liệu
nói chuyện, trị liệu dược phẩm, điều trị tâm thần học, và hỗ trợ chức năng thông qua thiết bị hỗ trợ cũng được sử dụng.
− Giai đoạn phục hồi toàn phát (chronic phase): bắt đầu từ 3-6 tháng sau đột quỵ và kéo dài trong nhiều năm. Trong giai đoạn này, mục
tiêu chính của chữa trị là tiếp tục phục hồi chức năng và giảm thiểu các biến chứng. Các biện pháp như vật lý trị liệu, trị liệu ngôn ngữ
học, trị liệu nói chuyện, trị liệu dược phẩm, điều trị tâm thần học, và hỗ trợ chức năng thông qua thiết bị hỗ trợ cũng được sử dụng[15].
8.5. Biến chứng bệnh
− Các biến chứng của bệnh đột quỵ có thể bao gồm[8]:
+ Khó thở hoặc suy hô hấp do tắc nghẽn đường hô hấp.
+ Viêm phổi do nằm liệt dài ngày trong giường bệnh.
+ Rối loạn nuốt do tê liệt cơ quan hầu hết hay toàn bộ phần thân trên hoặc cả hai bên cơ thể.
+ Đau nhức và kế tiếp đó là khó chịu khi di chuyển, tê bì chân tay.
+ Đau đầu kéo dài, chóng mặt, mất cân bằng.
+ Rối loạn giác quan, thị giác, thính giác, khả năng cảm nhận và nhận biết.
+ Mất khả năng điều khiển hành vi, tâm lý, suy giảm trí nhớ và tình trạng trầm cảm.
8.6. Phương pháp chẩn đoán
Các phương pháp chẩn đoán bệnh đột quỵ bao gồm[9]:
+ Kiểm tra lâm sàng và xét nghiệm máu: Tiến hành kiểm tra lâm sàng để đánh giá tình trạng chung của bệnh nhân, cũng như xét nghiệm
máu để phát hiện các vấn đề sức khỏe khác có thể gây ra các triệu chứng tương tự như đột quỵ.
+ Chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI): Sử dụng các kỹ thuật hình ảnh để tạo ra hình ảnh chi tiết về não và xác định vị
trí và mức độ tổn thương.
+ Siêu âm Doppler: Dùng để đánh giá tình trạng dòng máu và thông suốt của động mạch và tĩnh mạch trong não.
+ Xét nghiệm điện não đồ (EEG): Kiểm tra hoạt động điện của não để xác định mức độ tổn thương và chức năng của các khu vực não.
+ Chụp mạch máu não (angiography): Sử dụng chất phóng xạ để tạo ra hình ảnh về dòng máu trong não và xác định vị trí và mức độ tổn
thương.
8.7. Phương pháp phòng tránh
Hiệp hội tim mạch Hoa Kỳ (American Heart Association) và hiệp hội Đột quỵ Hoa Kỳ (American Stroke Association) đã đưa ra một số biện
pháp phòng tránh bệnh đột quỵ như sau[20]:
− Kiểm soát các yếu tố nguy cơ: Những yếu tố như huyết áp cao, đái tháo đường, tăng huyết áp phổi, hút thuốc lá, tiểu đường và béo phì
được coi là những yếu tố nguy cơ tiềm ẩn cho bệnh đột quỵ. Việc kiểm soát và giảm thiểu những yếu tố này là một phương pháp phòng
ngừa đột quỵ hiệu quả.
− Tập thể dục thường xuyên: Tập thể dục đều đặn và tăng cường hoạt động thể chất là cách tốt nhất để giảm nguy cơ bệnh đột quỵ.
− Ăn uống lành mạnh: Ăn một chế độ ăn uống lành mạnh, chứa nhiều rau củ và trái cây, thực phẩm giàu chất xơ, ít chất béo và natri, giúp
giảm nguy cơ bệnh đột quỵ.
− Kiểm tra và điều trị bệnh lý liên quan: Những bệnh lý như tiểu đường, tăng huyết áp, tăng lipid máu, tăng cân nặng và huyết khối cần
được kiểm tra và điều trị để giảm nguy cơ bệnh đột quỵ.
− Tránh tiếp xúc với các chất độc hại: Các chất độc hại như khói thuốc lá, hóa chất công nghiệp và các chất độc hại khác cũng là một yếu tố
nguy cơ cho bệnh đột quỵ. Việc tránh tiếp xúc với các chất độc hại này là một phương pháp phòng ngừa bệnh đột quỵ.
BÀI 2
I. TỔNG QUAN VỀ SINH LÝ BỆNH THẦN KINH
− Hệ thần kinh là một hệ cơ quan phân hóa cao nhất trong cơ thể người, ở dưới dạng ống và mạng
− Lưới đi khắp cơ thể, được cấu tạo bởi một loại mô chuyên biệt là mô thần kinh, gồm các tế bào
− Thần kinh - nơron và các tế bào thần kinh đệm (thần kinh giao).
1. Mô thần kinh neuron: 1000 tỷ tế bào, tế bào thần kinh (neuron) 10%, các té bào thần kinh đệm 90%. Các tế bào thần
kinh đệm gồm các tế bào nhánh (hệ TK trung ương), tế bào Schwan(hệ TK ngoại biên)
Cơ chế dẫn truyền:
Dẫn truyền qua sợi trục:
− Có sự dẫn truyền dòng điện: phân cực- đảo cực- tái phân cực
− Dẫn truyền trên sợi myelin: nhảy cóc nhanh qua eo Ranniver
− Dẫn truyền trên sợi kh myelin: chậm hơn (kh nhảy cóc) Dẫn truyền qua
synape:
− Dopamine, serotonin, oxytocin 3 chất này tăng cao sẽ cảm thấy yêu đời
− Dopamine có mà 2 cái còn lại chậm đáy sẽ cảm thấy tiêu cực
− Serotonin tăng cao 2 cái còn lại thấp sẽ thấy hạnh phúc
− Cơ quan tiếp nhận tín hiệu dẫn truyền đến dây thần kinh hướng tâm về hệ thần kinh trung ương rồi tới hệ thần kinh ly tâm
về cơ để rút tay lại.
− Hệ thần kinh vận động thì dây thần kinh sẽ đi trực tiếp từ hệ thần kinh trung ương đến hệ thần kinh ngoại biên đến cơ.
− Hệ thần kinh thực vật không đi trực tiếp mà qua trung gian qua tế bào thần kinh khác hoặc mô cơ quan khác.
2. Hệ thần kinh bao gồm: hệ thần kinh trung ương, hệ thần kinh ngoại biên, hệ thần kinh thực vật.
Hệ thần kinh trung ương: não bộ và tủy sống
a. Não :
Não trước gồm Đại não(vỏ não): điều khiển trí nhớ, tư duy, cảm xúc,...
• Gian não(đồi thị) : Tập trung xung động của các loại cảm giác của các vùng trung tâm
• Hạ đồi: đáp ứng chạy, đánh, biểu lộ cảm xúc,... Bên trong có tuyến yên tiết ra hoocmon điều khiển sinh dục
+ Não giữa: kết hợp với não sau tạo nhân não, giúp vận chuyển mắt, kiểm soát nhịp tim.
+ Não sau gồm Hành tủy, cầu não: phối hợp cử động của hai mắt, biểu cảm trên khuôn mặt, kiểm soát nhịp tim.
• Tiểu não: Phối hợp giữ thăng bằng,nối các não bộ với tuỷ sống.
• b. Tủy sống (chất xám) gồm 3 sừng:
Sừng sau: tiếp nhận thông tin
Sừng trước: trả tín hiệu
Sừng bên: vận động không theo ý muốn ‘Hệ thần kinh ngoại biên:
Hệ thần kinh thực vật: Kiểm soát nội tạng như ruột, tim,..gồm hệ thần kinh giao cảm và phó giao cảm
hoặc tiếp tế oxi tới mức nào đó, một số ion (chủ yếu là Na+ và K+) có tác dụng tăng tính hưng phấn. Tuy nhiên,
nóng quá hoặc nồng độ oxi cao (oxi nguyên chất) lại có tác dụng ức chế, làm giảm thậm chí mất hoàn toàn tính
hưng phấn của tế bào thần kinh.
Tính hưng phấn bị ức chế khi có rối loạn thành phần ion của môi trường bao quanh tế bào thần kinh (máu, dịch tổ
chức…) và khi có rối loạn các cơ chế vận chuyển tích cực các ion ( chủ yếu là K+ va Na+) giữa tế bào và ngại bào.
Khi để tế bào thần kinh vào trong môi trường nhựơc chương, thậm chí không có Na+ , thấy tính hưng phấn bị ức chế
sâu sắc. Nhiều chất độc chuyển hóa, ức chế hô hấp tế bào thần kinh và kim hãm tác dụng của bơm Na+, K+ cũng gây
giảm tính hưng phấn như trong trường hợp nhiễm độc ouabain, luminal, aminazin…Đáng chú ý là bất kì tổn thương
nào của tế bào đều gây rối loạn chức năng của bơm này và gây mất K+ ( ra khu vực ngoại bào) nhiều gấp 1 triệu lần
so với hưng phấn bình thường của tế bào thần kinh.
Khi hưng phấn tế bào thần kinh giảm, muốn kích thích có hiệu quả, hoặc phải tăng cường độ kích thích hoặc phải
kéo dài thời gian tác dụng. Tổn thương tế bào thần kinh còn gây kéo dài thời trị (tức là thời gian cần thiết để kích
thích có hiệu quả với dòng điện cường độ gấp đôi ngưỡng), đồng thời gây giảm tính linh hoạt (tế bào thần kinh
không tạo ra được dòng điện hoạt động với tần số cao và tần số bị kích thích thấp hơn so với bình thường).
2. Rối loạn quá trình oxi hoá ở tế bào thần kinh
3. Rối loạn các cơ chế vận chuyển tích cực các ion (ức chế bơm Na+, K+)
4. Rối loạn dẫn truyền hưng phấn của sợi thần kinh
Dẫn truyền hưng phấn dọc theo axon giảm lạnh, thiếu oxy, tia tử ngoại và tia ion hóa , nhiếm độc tố vi khuẩn( bạch cầu,
thương hàn...) ,virut( cúm, bại liệt ..) ,đè ép( sẹo...). Sau khi cắt một dây thần kinh, thấy đoạn ngoại vi phát trình thoái hóa: ở
người và động vật máu nóng, quá trình này phst sinh rất nhanh (sau 24 giờ) và sau vài ngày thì lan tới đoạn cùng thần kinh;
đồng thời ở đoạn ngoại vi, dẫn truyền hưng phấn dọc theo axon giảm rất nhanh, tiến tới đình chỉ hoàn toàn.
Nếu nối được đoạn ngoại vi với đoạn trung tâm, thấy đoạn ngoại vi tái sinh và chức năng được phục hồi ( cứ 24h đoạn trung
tâm dài ra được 0.5-2.5mm) nếu các sợi của đoạn trung tâm không vào trong ống của đoạn ngoại vi sẽ tạo ra u thần kinh.
5. Rối loạn dẫn truyền từ nơron này tới nơron khác ( hoặc tới các cơ quan thu nhận như cơ, tuyến ...)
• Rối loạn dẫn truyền hưng phấn trong xinap tiết adrenalin
• Rối loạn dẫn truyền hưng phấn trong xinap tiết axetylcholin
• Rối loạn chức năng xinap ức chế
Ví dụ :
Bệnh nhược cơ: kháng thể kháng thụ thể acetylcholine, bệnh lý màng sau synape TK-cơ, làm rối loạn thụ thể acetylcholine , bệnh
lý tự miễn hiếm gặp.
Bệnh uốn ván: kháng synape ức chế, bệnh lý màng sau synape TK-TK, bệnh cấp tính do ngoại độc tố của vi khuẩn uốn ván
phát triển tại điều kiện yếm khí. Gây căng cứng cơ tới lúc chết.
B. Rối loạn mất liên hệ thần kinh:
Thoái hoá của bản thân tế bào TK
Thoái hoá thần kinh cơ vân
Không thoái hoá của Tế bào thực vật
Tăng cảm mẫn khi liên hệ TK
Tăng tính tự động cơ bản do mất sự kiểm tra từ nên Ví dụ:
Bệnh Alzheimer:
1. Khái niệm: là một bệnh lý não bộ tiến triển chậm và dần dần làm suy giảm khả năng tư duy, trí nhớ và các chức năng nhận thức
khác của con người. Là nguyên nhân phổ biến nhất của sa sút trí tuệ, chiếm từ 60-80% nguyên nhân sa sút trí tuệ ở người cao tuổi.
Đây là bệnh thái hóa thần kinh dẫn tới mất liên lạc giữa các tế bào thần kinh với nhau, dẫn đến thoái hóa não.
Một số triệu chứng và dấu hiệu thường gặp của bệnh Alzheimer:
a. Mất trí nhớ: một trong những triệu chứng đầu tiên của bệnh Alzheimer.
Người bệnh có thể quên những sự kiện quan trọng, người thân, địa chỉ và những nhiệm vụ hằng ngày. Khó khăn trong
việc thực hiện các hoạt động hàng ngày như: nấu ăn, làm vệ sinh, điều khiển xe cộ hoặc sử dụng thiết bị điện tử…
b. Sự thay đổi tâm trạng và tính cách: người bệnh Alzheimer có thể trở nên đứng đắn, bất an hoặc tức giận dễ dàng. Họ
cũng có thể trở nên thụ động, mất hứng thú hoặc thiếu sự quan tâm đến mọi thứ.
c. Suy giảm khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin: người bệnh Alzheimer có thể trở nên bối rối, mất kiểm soát hoặc thậm
chí mất khả năng giao tiếp.
d. Khó khan trong việc tìm kiếm từ hoặc nói chuyện:
người bênh có thể mất khả năng tìm kiếm từ và nhận ra các
đối tượng hoặc trộn lẫn ngôn từ hoặc lời nói.
e. Sự thay đổi về khả năng cảm nhận thị giác hoặc không
gian: người bênh có thể mất khả năng nhận biết đối tượng,
cảm nhận thị giác hoặc không gian.
Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh Alzheimer có thể khác nhau
tùy theo từng người.
2. Căn nguyên chính của bệnh Alzheimer chưa được rõ ràng, nhưng có
nhiều nghiên cứu cho thấy sự kết hợp của nhiều yếu tố góp phần phát
triển bệnh này, một số yếu tố bao gồm:
a) Di truyền: được xem là một trong những yếu tố chính của bệnh Alzheimer.
Những người có người thân mắc bệnh Alzheimer đều có nguy cơ cao để phát triển bệnh.
b) Lão hóa: càng già cơ thể càng không thể xử lý các độc tố và các chất béo, protein đúng cách, dẫn đến tình trạng tổn thương và thiệt hại
tế bào não.
c) Tự miễn dịch: sự tự miễn dịch bất thường có thể đóng vai trò trong phát triển bệnh Alzheimer.
d) Các yếu tố nguy cơ về mạch máu, chẳng hạn như tăng huyết áp, tiểu đường, rối loạn, lipid máu và hút thuốc có thể làm tăng nguy cơ
mắc bệnh Alzheimer.
3. Sinh lý bệnh Alzheimer:
2 đặc trứng trong bệnh lý Alzheimer là:
- Tích tụ beta - amyloid ngoại bào (trong màng lão hóa)
- Đám rối tơ thần kinh trong tế bào (các sợi xoắn kép)
Sự lắng đọng amyloid beta và các đám rối tơ thần kinh dẫn đến mất các khớp thần kinh và tế bào thần kinh, teo những khu vực não bị ảnh
hưởng, thường bắt đầu từ mặt trong thùy thái dương.
4. Các giả thuyết gồm:
- Giả thuyết Amyloid: là 1 giả thuyết về nguyên nhân của người bệnh Alzheimer, cho rằng 1 loại protein có tên beta-amyloid tích tụ dần
trong não gây ra các triệu chứng của bệnh Alzheimer.
Theo giả thuyết này, beta amyloid gây ra các khối plaques và sợi tinh thể (tangles) trong não, gây ra sự hủy hoại các tế bào thần kinh và dẫn
đến suy giảm chức năng não. Tuy nhiên, không phải tất cả các bệnh nhân Alzheimer đều có sự tích tụ của beta amyloid trong não và cũng có
các nguyên nhân khác gây ra bệnh.
- Giả thuyết tau: là 1 giả thuyết khác về nguyên nhân của bệnh Alzheimer. Tương tự như giả thuyết amyloid, giả thuyết này cũng đang được
nghiên cứu và tranh luận. Tuy nhiên, Tau và beta amyloid có mối liên hệ phức tạp với nhau trong bệnh Alzheimer. Tau có thể được kích
hoạt bởi beta amyloid và cả 2 có thể tương tác để tạo ra các sợi tinh thể trong não.
=> Vì vậy, hiện nay các nhà khoa học đang tìm hiểu sâu hơn về mối quan hệ giữa Tau và beta amyloid.
Cơ chế prion: là 1 quá trình biến đổi của 1 protein thông thường thành 1 protein bất thường có khả năng gây nhiễm và tự tái tạo trong cơ
thể, chúng có thể gây ra 1 loạt các bệnh thần kinh, gây ra sự suy giảm chức năng não và thậm chí có thể gây tử vong.
Cơ chế prion bắt bằng việc 1 prion có tính nhiễm được đưa vào cơ thể, sau đó nó tương tác với các protein tương tự trong cơ thể, biến chúng
thành các prion có tính nhiễm và tự tái tạo. Quá trình này dẫn đến sự tích tụ các prion có tính nhiễm trong não và các bộ phận khác của cơ
thể, gây ra tổn thương và suy giảm chức năng của tế bào thần kinh.
Đặc biệt, cơ chế prion rất độc đáo vì các prion mới tự tái tạo mà không cần thông qua quá trình mã hóa gen. Chúng có khả năng tự trùng hợp
và tự chuyển hóa các protein khác trong cơ thể thành prion có tính nhiễm, dẫn đến sự lan truyền nhanh chóng của bệnh trong cơ thể và giải
thích vì sao các bệnh prion là không thể chữa khỏi.
5. Các phòng chóng tránh bệnh Alzheimer:
Hiện nay, chưa có cách chữa trị hoàn toàn bệnh Alzheimer. Tuy nhiên, có một số cách phòng ngừa và điều trị để giảm nguy cơ mắc
bệnh và làm chậm tiến trình suy giảm trí nhớ. Dưới đây là một số cách phòng tránh bệnh Alzheimer:
Tập thể dục thường xuyên: Tập thể dục có lợi cho sức khỏe toàn diện và cũng có thể giúp giảm nguy cơ mắc bệnh Alzheimer. Một
nghiên cứu đã chỉ ra rằng người già tập thể dục ít nhất 3 lần một tuần có nguy cơ mắc bệnh Alzheimer thấp hơn so với người không tập
thể dục.
Ăn một chế độ ăn uống lành mạnh: Ăn một chế độ ăn uống lành
mạnh có thể giảm nguy cơ mắc bệnh Alzheimer. Chế độ ăn uống
nên bao gồm nhiều rau củ, trái cây, các loại hạt, đậu và cá.
Giảm thiểu căng thẳng: Căng thẳng và áp lực có thể làm tăng nguy
cơ mắc bệnh Alzheimer. Vì vậy, hãy tìm cách giảm thiểu căng
thẳng và áp lực trong cuộc sống hàng ngày của bạn bằng cách tập
yoga, thiền định, chăm sóc sức khỏe tinh thần.
Tham gia các hoạt động xã hội: Tham gia các hoạt động xã hội có
thể giảm nguy cơ mắc bệnh Alzheimer bằng cách giảm stress và
tăng cường hoạt động trí não.
Giữ trí não hoạt động: Giữ trí não hoạt động là một cách hiệu quả
để giảm nguy cơ mắc bệnh Alzheimer. Học hỏi, đọc sách, chơi
game trí tuệ, giải đố, tìm kiếm thử thách mới, tất cả những hoạt
động này đều có thể giúp bạn giữ trí não hoạt động và giảm nguy cơ
mắc bệnh Alzheimer.
Tuy nhiên, đây chỉ là những cách giúp giảm nguy cơ mắc bệnh
Alzheimer. Việc phòng ngừa bệnh Alzheimer là một quá trình lâu dài và cần sự cẩn trọng, bao gồm chăm sóc sức khỏe toàn diện, giảm
thiểu các yếu tố nguy cơ. Bệnh Guillain:
Hiện tượng/ hội chứng Raynaud
Đây là một ví dụ cho tính thoái hoá và tăng mẫn cảm khi mất liên hệ. Khi đưa tay vào đá lạnh (tín hiệu), khi lấy ra tay sẽ bị tím tái (vì máu
không tới được). Tín hiệu được truyền lên não, não truyền xuống các dây thần kinh ngón tay co lại để giữ nhiệt. Đây là một hội chứng khi nó
là bệnh.
IV. RỐI LOẠN VẬN ĐỘNG
Rối loạn vận động có thể chia làm mấy loại như sau:
Chức năng vận động giảm, liệt.
Tăng động
Rối loạn hiệp điều vận động
i. Chức năng vận động giảm – liệt
Liệt một chi
Liệt hai chi dưới
Liệt nửa người
Liệt toàn thân
Tùy theo nơron vận động bị tổn thương, liệt lại còn chia làm:
Liệt ngoại biên khi nơron vận động ngoại vi bị tổn thương Liệt trung ương khi khi nơron vận động trung ương bị tổn thương. a)
Liệt ngoai biên:
Do tổn thương nơron vận động ngoại biên (thân tế bào ở sừng trước của tủy, dây thần kinh ngoại biên).
Trong thực nghiệm, có thể gây liệt ngoại biên bằng cách cắt đứt một dây thần kinh ngoại biên (dây hông chẳng hạn). Nếu dây thần
kinh bị cắt là một dây pha (dẫn truyền cảm giác lẫn vận động), thì ngoài rối loạn vận động còn mất toàn bộ cảm giác.
Trong lâm sàng, liệt ngoại biên phát sinh khi viêm dây thần kinh, viêm đám rối thần kinh , đứt dây thần kinh, đứt tủy, tổn thương sừng
trước (bệnh bại liệt).
Liệt ngoại biên có những đặc điểm sau đây: Mất vận động tùy ý và vận động phản
xạ.
Cơ nhẽo (liệt ngoại biên vốn được gọi là liệt nhẽo) cơ mất trương lực do không nhận được luồng xung động từ trung khu vận động
tới.
Cơ teo do không hoạt động, do rối loạn chuyển hóa trong tổ chức cơ đã mất liên hệ thần kinh.
Rối loạn khi chịu kích thích điện: dùng điện kích thích dây thần kinh chi phối cơ bị liệt, không thấy cơ co. Dùng điện hai chiều kích
thích trực tiếp cơ cũng không thấy cơ co; trai lại, dùng điện một chiều thấy cơ co.
b) Liệt trung ương:
Do tổn thương nơron vận động trung ương (tạo thành bó tháp và ngoại tháp) Liệt tháp: