You are on page 1of 21

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3. Phương pháp nghiên cứu
4. Cấu trúc bài

NỘI DUNG

Phần I: Tình tất yếu của sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Phần II: Sứ mệnh lịch sử của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
Phần III: Đánh giá và liên hệ thực tiễn

TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa
Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Từ khi mới thành lập cho đến nay, Đảng luôn thể hiện rõ là một đảng
cách mạng chân chính, hội tụ đầy đủ sức mạnh của toàn dân, là đội tiên
phong của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Những thành tựu
vĩ đại của cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua đã minh chứng cho tầm
vóc bản lĩnh, trí tuệ của Đảng trên con đường lãnh đạo xây dựng đất nước
Việt Nam hùng cường, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại diện cho
thế hệ trẻ Việt Nam đã và đang được trực tiếp hưởng thụ những thành quả
của cách mạng, từ sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, em thấy việc
giáo dục cho các thế hệ hiểu được vai trò, sự cống hiến của Đảng và hiểu
được ý nghĩa lịch sử của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam là một điều
vô cùng quan trọng. Chính vì thế em đã lựa chọn đề tài “Tính tất yếu lịch
sử của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và sứ mệnh của sự ra đời Đảng
Cộng sản” làm đề tài tiểu luận của mình.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:


Ở bài tiểu luận này, em sẽ phân tích đối tượng nghiên cứu là quá trình
chuẩn bị, lãnh đạo, tổ chức thực tiễn của Đảng trong tiến trình Cách
mạng. Từ đó làm rõ thắng lợi, thành tựu, kinh nghiệm và bài học của
cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo trong sự nghiệp giải phóng dân
tộc, kháng chiến giành độc lập, thống nhất đất nước.

3. Phương pháp nghiên cứu


Trong bài này em chủ yếu đọc tài liệu từ giáo trình Lịch sử Đảng và
nguồn thông tin thu thập trên mạng
4. Cấu trúc bài:
Phần I:
1) Sự tác động về bối cảnh
1.1. Tình hình thế giới
1.2. Tình hình trong nước
2) Sự chuyển biến về giai cấp trong xã hội
3) Các phong trào yêu nước nổi dậy
4) Vai trò của Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện thành lập Đảng
4.1. Thông tin sơ lược về Nguyễn Ái Quốc
4.2. Sự chuẩn bị về tư tưởng chính trị tổ chức cho việc thành lập
Đảng của Nguyễn Ái Quốc
Phần II: Sự ra đời và sứ mệnh lịch sử của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt
Nam
1) Sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng

1.1. Các tổ chức cộng sản ra đời


1.2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
1.3. Nội dung của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
2) Sứ mệnh của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam

Phần III: Đánh giá và liên hệ thực tiễn


NỘI DUNG
Phần I: Tính tất yếu lịch sử của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam

1. Sự tác động về bối cảnh


1. 1. Tình hình thế giới:
Từ nửa sau thế kỷ XIX, các nước tư bản Âu-Mỹ có những chuyển biến mạnh
mẽ trong đời sống kinh tế-xã hội. Chủ nghĩa tư bản chuyển nhanh từ giai đoạn
tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn chủ nghĩa đế quốc), đẩy
mạnh quá trình xâm chiếm và nô dịch các nước nhỏ, yếu ở châu Á, châu Phi và
khu vực Mỹ-Latinh, chúng biến các quốc gia này thành thuộc địa của các nước
đế quốc phương Tây. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân
dân lao động các nước trở nên vô cùng khổ cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc
thuộc địa với chủ nghĩa thực dân càng ngày càng gay gắt. Các phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc lần lượt diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa. Vấn đề
dân tộc nổi lên và trở thành vấn đề nhức nhối của thời đại.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa Mác -
Lênin từ lý luận chuyển thành thực tiễn, mở ra một thời đại mới - thời đại cách
mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Cách mạng Tháng Mười Nga
đã nêu cao tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức, thôi
thúc sự ra đời của nhiều Đảng Cộng Sản trên thế giới như Đảng Cộng sản Mỹ
(1919), Đảng Cộng sản Pháp (1920), Đảng Cộng sản Trung Quốc (1921),…..

1.2. Tình hình trong nước:


Ngày 1/9/1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam ở Đà Nẵng và từng bước
thiết lập thể chế cai trị ở Việt Nam, biến nước phong kiến thành thuộc địa nửa
phong kiến.

Về chính trị, thực dân Pháp thực hiện chính sách đô hộ, tước bỏ quyền lực đối
nội và đối ngoại của phong kiến nhà Nguyễn. Chia Việt Nam thành ba kì: Bắc
kì, Trung kì và Nam kì và thi hành luật lệ riêng cho mỗi kì. Thực dân Pháp còn
cấu kết với giai cấp địa chủ để áp bức bóc lột nhân dân Việt Nam về cả kinh tế
và chính trị.

Về kinh tế, thực dân Pháp thi hành chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để
lập đồn điền; đầu tư lớn vào việc khai phá tài nguyên; xây dựng một số khu
công nghiệp, hệ thống đường giao thông, cảng biển nhằm phục vụ chính sách
khai thác thuộc địa.

Về văn hoá - xã hội, Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” để dễ bề cai trị,
chúng lập nhà tù còn nhiều hơn trường học, đồng thời du nhập những giá trị
phản văn hoá, duy trì tệ nạn xã hội vốn có của chế độ phong kiến và tạo nên
nhiều tệ nạn xã hội mới như dùng rượu cồn và thuốc phiện để đầu độc các thế
hệ người Việt Nam, ra sức tuyên truyền tư tưởng “khai hoá văn minh” của nước
“Đại Pháp”…
2. Sự chuyển biến về giai cấp trong xã hội
Dưới ảnh hưởng của chế độ thực dân và các chính sách kinh tế - văn hóa - giáo
dục, xã hội Việt Nam đã có sự phân hóa sâu sắc:
Giai cấp địa chủ câu kết với Pháp nhằm tăng cường áp bức, bóc lột nông dân.
Tuy nhiên, nội bộ giai cấp địa chủ lúc này đã có sự phân hoá. Trong đó, một bộ
phận địa chủ có lòng yêu nước vốn căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu
tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.

Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, trực tiếp
bị thực dân và phong kiến ra sức bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn cùng, khổ cực
của giai cấp nông dân Việt Nam đã nung nấu lòng căm thù đế quốc và bọn
phong kiến tay sai, ngày càng tăng thêm ý chí quyết tâm của họ trong cuộc đấu
tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.

Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của
thực dân Pháp, hầu hết đều xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp
và chặt chẽ với giai cấp nông dân, đều phải chịu hai tầng áp bức và bóc lột bởi
giai cấp địa chủ và thực dân pháp.

Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời muộn hơn giai cấp công nhân. Một bộ phận gắn
liền lợi ích với Pháp, tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế của chính quyền
thực dân Pháp, trở thành tầng lớp tư sản mại bản. Bộ phận còn lại là giai cấp tư
sản dân tộc, họ bị thực dân Pháp chèn ép, kìm hãm, và bị lệ thuộc hoàn toàn vào
Pháp, bởi vậy nên yếu ớt về kinh tế. Vì vậy, phần lớn tư sản dân tộc Việt Nam
đều mang trong mình một tinh thần dân tộc, mặc dù yêu nước nhưng không có
khả năng tập hợp các lực lượng để tiến hành cách mạng.

Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, sinh viên, trí thức, những
người làm nghề tự do… đời sống của họ bấp bênh, có khả năng dễ bị phá sản
trở thành người vô sản, nhưng họ đều mang trong mình một lòng yêu nước
mãnh liệt, căm thù đế quốc, thực dân và có khả năng tiếp thu những tư tưởng
tiến bộ từ bên ngoài truyền vào.

Nhân dân ta liên tục phải sống trong khổ cực, lầm than; xã hội Việt Nam trở
thành một xã hội thực dân nửa phong kiến. Mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt
Nam lúc này chính là toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp ngày càng
trở nên gay gắt. Bên cạnh đó, mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân Việt Nam trong
đó đa số là nông dân với địa chủ phong kiến cũng ngày một lên cao.

3. Các phong trào yêu nước nổi dậy


Các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp liên tục diễn ra sôi nổi nhưng tất
cả đều thất bại và chìm trong bể máu. Phong trào Cần Vương theo ý thức hệ
phong kiến, do giai cấp phong kiến lãnh đạo đã kết thúc ở cuối thế kỷ XIX với
cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (năm 1896). Tới đầu thế kỷ XX, khuynh
hướng này đã không còn là khuynh hướng tiêu biểu nữa. Tiếp đến là phong trào
nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài
được mấy chục năm nhưng cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu nước
theo khuynh hướng dân chủ tư sản lãnh đạo bởi các cụ Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh cũng rơi vào bế tắc. Và cuối cùng, cuộc khởi nghĩa Yên Bái do
Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại.

Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chính là sự nối tiếp
truyền thống yêu nước, thể hiện tinh thần bất khuất của cha ông ta được hun đúc
qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức
và lực lượng Cách mạng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại.

Nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc và cả
về giai cấp lãnh đạo. Mâu thuẫn dân tộc và giai cấp đang đặt ra vô cùng bức
thiết, đòi hỏi phải có tổ chức và giai cấp lãnh đạo cách mạng để giải quyết mâu
thuẫn đó.

4. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện thành lập Đảng
4.1. Thông tin sơ lược về Nguyễn Ái Quốc:
Tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19/05/1890 tại làng Kim Liên
(làng Sen), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Giữa lúc dân tộc ta đang đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước,
nhiều nhà yêu nước đương thời vẫn tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì
ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước
theo phương hướng mới. Sau khi trải nghiệm thực tế trên nhiều quốc gia khác
nhau, Người đã nhận thức được rằng: “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ
có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”, từ đó xác
định rõ kẻ thù và lực lượng đồng minh của nhân dân các dân tộc thuộc địa bị áp
bức.

Năm 1917, Người trở lại nước Pháp, đến Paris và năm 1919, Người gia nhập
Đảng Xã hội Pháp.

Tháng 6/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới là
Nguyễn Ái Quốc, Người gửi bản yêu sách của nhân dân An Nam (gồm tám
điểm đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam) tới Hội nghị Vécxây.

Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo L'Humanité
(Nhân đạo). Bản luận cương đã đáp ứng nguyện vọng tha thiết của Người là độc
lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào, từ đó Người đã tìm ra con đường cứu nước
đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán
thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập) và tham gia thành lập
Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Đó là
một sự kiện lịch sử trọng đại, không những Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu
nước đến với lý luận cách mạng của thời đại là chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn
đánh dấu bước chuyển quan trọng của con đường giải phóng dân tộc Việt Nam:
muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con
đường cách mạng vô sản.

Từ đây, Người vừa tích cực hoạt động với vai trò phái viên của Quốc tế cộng
sản,đồng thời Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch
phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

4.2. Sự chuẩn bị về tư tưởng chính trị tổ chức cho việc thành lập Đảng của
Nguyễn Ái Quốc

Nguyễn Tất Thành


tại
Hội nghị Versailles,
Pháp. (Nguồn:
Tư liệu TTXVN)
Sự chuẩn bị về tư tưởng
Từ năm 1920 – 6/1923, NAQ hoạt động trong Đảng Cộng Sản Pháp. Người
viết nhiều sách, báo : ra tờ báo Le Paria (Người cùng khổ), đặc biệt là tác phẩm
“Bản chế độ thực dân Pháp”…Người chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân,
xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Đồng thời, Người tiến hành
tuyên truyền tư tưởng về con đường cách mạng vô sản, con đường cách mạng
theo lý luận Mác-Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng
sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc.

Sự chuẩn bị về chính trị


Đường lối chính trị của Đảng cách mạng phải hướng tới giành độc lập cho dân
tộc, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Nguyễn Ái Quốc đã xác định cách
mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vô
sản thế giới, cách mạng vô sản ở “chính quốc”.

Đối với các dân tộc thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: trong các nước nông
nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc, phong kiến áp
bức, bóc lột nặng nề nhất, chính vì vậy phải thu phục và lôi cuốn được nông
dân, phải xây dựng khối liên minh công nông làm động lực cách mạng : “...công
nông là gốc của cách mệnh; còn học trò nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu
bạn cách mệnh của công nông”. Do vậy, Người xác định rằng, cách mạng “là
việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người”

Về vấn đề Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng trước hết
phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì
liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách
mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”
Sự chuẩn bị về tổ chức
Sau một thời gian hoạt động ở Liên Xô để tìm hiểu, khảo sát thực tế về cách
mạng vô sản, tháng 11/1924, Người đến Quảng Châu (Trung Quốc), nơi có
đông người Việt Nam yêu nước hoạt động để tiến hành các công việc tổ chức
thành lập đảng cộng sản.

Tháng 2/1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã,
lập ra nhóm Cộng sản đoàn.

Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên
tại Quảng Châu (Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn. Hội xuất bản tờ báo
Thanh niên (do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp chỉ đạo), tuyên truyền tôn
chỉ, mục đích của Hội, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin và về phương hướng
phát triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam. Sau khi thành lập,
Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ
trách, phái người về nước vận động, lựa chọn và đưa một số thanh niên tích cực
sang Quảng Châu để đào tạo, bồi dưỡng sâu về lý luận chính trị.

Tháng 4/1927, Nguyễn Ái Quốc trở lại Mátxcơva và sau đó được Quốc tế Cộng
sản cử đi công tác ở nhiều nước Châu Âu.

Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong những lớp đào tạo, bồi dưỡng cho
những người Việt Nam yêu nước tại Quảng Châu đã được Hội Liên hiệp các
dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản thành cuốn Đường Kách mệnh. Đây là
cuốn sách chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam, xác định rõ con đường,
mục tiêu, lực lượng và phương pháp đấu tranh của cách mạng. Tác phẩm đã thể
hiện tư tưởng nổi bật của Nguyễn Ái Quốc dựa trên cơ sở vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin vào đặc điểm của Việt Nam. Những điều kiện về tư
tưởng, lý luận, chính trị và tổ chức để thành lập Đảng đều được thể hiện rõ
trong tác phẩm.

Từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã bắt đầu phát triển cơ
sở ở trong nước. Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên mặc dù chưa phải là một
chính đảng cộng sản, nhưng tổ chức này đã trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin vào Việt Nam và cũng là sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới
thành lập một chính đảng của giai cấp công nhân ở Việt Nam. Những hoạt động
của Hội có ảnh hưởng và thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào
công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam những năm 1928-1929 theo xu
hướng cách mạng vô sản. Đó là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tóm lại, đứng trước bối cảnh cả trong nước và thế giới đều diễn ra những
chuyển biến lớn, tạo điều kiện thúc đẩy sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ta có thể thấy được sự kiện lịch sử ấy chính là bước ngoặt vĩ đại của lịch sử,
chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước và tổ chức lãnh đạo quá trình
đấu tranh giành lại độc lập tự do cho dân tộc, khẳng định vai trò của giai cấp
công nhân Việt Nam và tranh thủ được sự ủng hộ của đông đảo bạn bè quốc tế.
Chính vì vậy mà Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời được coi là 1 kết quả tất yếu
mang tính lịch sử và mở ra thời kì mới ngày tốt đẹp hơn.

Phần II: Sự ra đời và sứ mệnh lịch sử của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt
Nam
1. Sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng

1.1. Các tổ chức cộng sản ra đời


Với sự nỗ lực cố gắng truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc cùng những hoạt
động tích cực của các cấp các bộ trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng thanh
niên trên cả nước đã có thúc đẩy phong trào yêu nước Việt Nam một cách mạnh
mẽ theo khuynh hướng cách mạng vô sản, góp phần nâng cao ý thức giác ngộ
và lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Những cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân nổ ra liên tiếp với quy mô ngày càng lớn, nội dung chính trị cũng
được thể hiện sâu sắc hơn.

Cuối tháng 3/1929, Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam được thành lập tại số
nhà 5D Hàm Long (Hà Nội)

Tháng 5/1929, tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách Mạng
Thanh Niên (ở Hương Cảng – Trung Quốc), đoàn đại biểu Bắc kỳ đã đưa ra đề
nghị thành lập Đảng cộng sản, nhưng không được chấp nhận nên họ đã rút khỏi
Hội nghị về nước và tiến hành vận động thành lập Đảng cộng sản. Trong bối
cảnh đó, các tổ chức cộng sản ở Việt Nam lần lượt ra đời.

Ngày 17/6/1929, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở miền Bắc họp quyết định
thành lập Đông Dương cộng sản Đảng.

Khoảng tháng 8/1929, các cán bộ lãnh đạo tiên tiến của Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên ở Nam Kỳ quyết định thành lập An Nam cộng sản Đảng.

Tháng 9/1929, một số đảng viên tiên tiến của Đảng Tân Việt cũng tích cực vận
động thành lập Đông Dương cộng sản liên đoàn.

Nửa cuối năm 1929, sự ra đời của ba tổ chức cộng sản trên cả nước đã khẳng
định sự phát triển về chất của phong trào yêu nước Việt Nam theo hướng cách
mạng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu của lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên,
sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở ba miền đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng
sản, kêu gọi Quốc tế cộng sản phải công nhận tổ chức của mình và đều tự nhận
là những đảng cách mạng chân chính, chính vì thế mà không tránh khỏi việc
phân tán lực lượng, thiếu thống nhất về tổ chức trong cả nước.
Phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân ngày càng được đẩy lên cao,
nhu cầu cần một chính đảng có đủ khả năng tập hợp lực lượng toàn dân tộc và
đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc ngày càng trở nên bức
thiết đối với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.

1.2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930.

Ảnh chụp lại tranh của họa sĩ Phi Hoanh (Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)

Ngày 27/10/1929, Quốc tế Cộng sản gửi tới tài liệu về việc thành lập một Đảng
Cộng sản ở Đông Dương, yêu cầu những người cộng sản Đông Dương phải
khắc phục ngay sự chia rẽ giữa các tổ chức cộng sản và thành lập một chính
đảng của giai cấp vô sản. Quốc tế Cộng sản chỉ rõ phương thức để tiến tới thành
lập đảng là phải bắt đầu từ việc xây dựng các chi bộ trong các nhà máy, xí
nghiệp; nêu rõ mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Đông Dương với phong trào
cộng sản quốc tế.
Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với tư cách là
phái viên của Quốc tế Cộng sản, ngày 23/12/1929, Nguyễn Ái Quốc đến Hồng
Kông (Trung Quốc), triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An
Nam Cộng sản Đảng đến họp tại Cửu Long (Hương Cảng - Trung Quốc) tiến
hành hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất của
Việt Nam. Người chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng, hợp từ 6/1 đến ngày 7/2/1930
tại Hương Cảng, Trung Quốc.
Thành lập Hội nghị hợp nhất gồm: 1 đại biểu của Quốc tế Cộng sản; 2 đại biểu
của Đông Dương Cộng sản Đảng; 2 đại biểu An Nam Cộng sản Đảng. Hội nghị
thảo luận đề nghị của Nguyễn Ái Quốc gồm năm điểm lớn:
1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các
nhóm cộng sản Đông Dương;
2. Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam;
3. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược;
4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước;
5. Cử một Ban Trung ương lâm thời trong đó có đại địa biểu chi bộ cộng
sản Trung Quốc ở Đông Dương.

Hội nghị thảo luận, tán thành ý kiến chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, thông qua
các văn kiện quan trọng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo: Chánh cương vắn tắt
của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ
vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Và quyết định hợp nhất các tổ chức cộng
sản, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ngày 24/2/1930, theo yêu cầu của Đông Dương Cộng sản liên đoàn, Ban Chấp
hành Trung ương lâm thời họp và ra Nghị quyết chấp nhận Đông Dương Cộng
sản Liên đoàn gia nhập vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, đến ngày
24/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn thành việc hợp nhất ba tổ chức
cộng sản ở Việt Nam.

1.3. Nội dung của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Hai trong số các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông
qua tại Hội nghị thành lập Đảng đó là: Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách
lược vắn tắt của Đảng đã phản ánh về định hướng phát triển và những vấn đề cơ
bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, hai văn kiện
trên được coi là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng
Việt Nam: Thông qua việc phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt
Nam là một xã hội thuộc địa nửa phong kiến; mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc
Việt Nam, trong đó có công nhân, nông dân với đế quốc ngày càng gay gắt cần
phải giải quyết trước tiên, sau đó đi đến xác định đường lối chiến lược của cách
mạng Việt Nam “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy, mục tiêu chiến lược được đề ra trong
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung cách mạng thuộc địa nằm
trong phạm trù của cách mạng vô sản.
Cương lĩnh xác định nhiệm vụ cơ bản là : Chống đế quốc và chống phong kiến
để giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc,
giành độc lập cho dân tộc là nhiệm vụ được đặt lên vị trí hàng đầu.

Về xã hội, Cương lĩnh xác định rõ:


1) Dân chúng được tự do tổ chức.
2) Nam nữ bình quyền,v.v…
3) Phổ thông giáo dục theo công nông hoá.

Về kinh tế, Cương lĩnh xác định: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; thâu hết sản
nghiệp lớn của Pháp để giao cho Chính phủ quản lý; mở rộng công nghiệp và
nông nghiệp; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo;thâu hết ruộng đất của đế quốc
chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày; thi hành luật làm tám giờ một ngày…

Xác định lực lượng cách mạng, Cương lĩnh chỉ ra rằng phải đoàn kết công nhân,
nông dân bởi đây là lực lượng cơ bản, trong đó giai cấp công nhân làm lãnh
đạo; đồng thời chủ trương đoàn kết tất cả các giai tầng, các lực lượng tiến bộ,
yêu nước để tập trung chống đế quốc và phong kiến tay sai.

Xác định phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, Cương lĩnh
khẳng định con đường bạo lực cách mạng của quần chúng , trong bất cứ hoàn
cảnh nào cũng không được thoả hiệp.

Xác định tinh thần đoàn kết quốc tế, Cương lĩnh chỉ ra trong khi thực hiện
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, chúng ta cần phải tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ
của các dân tộc thuộc địa bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp
vô sản Pháp.
Xác định vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp
phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình
lãnh đạo được dân chúng”. “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm
một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần
chúng”.

Có thể nói, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc
tích các luận điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam bao gồm những mâu thuẫn
cơ bản và chủ yếu của dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ, đặc biệt là việc đánh giá
khách quan, xác thực thái độ các giai cấp và tầng lớp xã hội đối với nhiệm vụ
giải phóng dân tộc. Từ đó, các văn kiện đã xác định được đường lối chiến lược
của cách mạng Việt Nam, đồng thời xác định phương pháp, nhiệm vụ và lực
lượng cách mạng để thực hiện đường lối chiến lược và sách lược đã đề ra.

Như vậy, trước yêu cầu đặt ra của lịch sử cách mạng Việt Nam cần phải thống
nhất các tổ chức cộng sản trong nước, kết thúc sự chia rẽ bất lợi cho cách mạng.
Bằng nhãn quang chính trị và phương thức hợp nhất phù hợp, Nguyễn Ái Quốc
đã kịp thời triệu tập và chủ trì hợp nhất các tổ chức cộng sản. Những văn kiện
trong Hội nghị hợp nhất đã được thông qua dù là “vắn tắt”, nhưng đã phản ánh
những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho cách mạng Việt Nam, mở ra một
trang mới cho lịch sử nước nhà.

2. Sứ mệnh lịch sử của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam

Sứ mệnh lịch sử của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu rõ trong các văn kiện Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương
trình tóm tắt và Lời kêu gọi của Đảng khi mới thành lập Đảng, đó là: “Chủ
trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản; đánh đổ thực dân Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt Nam
được độc lập, tự do; giải phóng công nhân và nông dân thoát khỏi ách áp bức
bóc lột của tư bản; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; đem lại mọi quyền
lợi tự do cho nhân dân”. Trải qua hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã từng bước thực hiện tốt sứ mệnh lịch sử của mình. Sau 15 năm
thành lập, Đảng đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đánh
đuổi thực dân Pháp giành được thắng lợi, lật đổ chế độ phong kiến tồn tại nghìn
năm,khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; mở ra một kỷ nguyên mới
trong lịch sử dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, cả dân tộc Việt Nam
đã nghe theo lời kêu gọi của Đảng, của Bác Hồ, lên đường kháng chiến và đã
giành được thắng lợi to lớn, đánh đuổi được quân xâm lược và lập lại hòa bình
ở miền Bắc Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp giữa phong trào
công nhân, phong trào yêu nước và chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ nghĩa Mác-
Lênin không chỉ là hệ tư tưởng lý luận của giai cấp công nhân, phong trào công
nhân mà còn là vũ khí giải phóng dân tộc, giải phóng toàn xã hội. Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng
trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã
trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Đường lối cách mạng của Đảng
thể hiện trong Cương lĩnh chính trị là mục tiêu, lý tưởng của Đảng, phù hợp và
đáp ứng đúng nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân lao động và của toàn thể
dân tộc Việt Nam. Đường lối đó còn là kết quả của sự vận dụng chủ nghĩa
Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách đúng đắn, thông minh
sáng tạo trong điều kiện lịch sử mới.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã
khẳng định việc lựa chọn con đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam là một
quyết định đúng đắn. Đó chính là con đường cách mạng vô sản - con đường duy
nhất để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

Như vậy, sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chính là bước
ngoặt vĩ đại trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, trở thành nhân tố
hàng đầu quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác.

Phần III: Liên hệ thực tiễn - Đảng chỉ đạo việc phòng chống Covid ở Việt
Nam hiện nay
Từ khi đại dịch chuyển sang một giai đoạn mới thách thức hơn, vai trò tiên
phong của Đảng và sức mạnh của nhân dân là những yếu tố quyết định thành
công trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19. Những thành tựu của Việt
Nam có được trong việc phòng chống dịch và phát triển kinh tế không tách rời
sự lãnh đạo tài tình của Đảng và sự điều hành quyết liệt, hiệu quả của Chính
phủ cùng với sự đồng thuận của người dân.

Từ năm 2020 đến nửa đầu 2021, thế giới trải qua cuộc khủng hoảng tồi tệ và
kéo dài do đại dịch Covid-19 hoành hành. Trong bức tranh chung ảm đạm, Việt
Nam hiện lên trong mắt bạn bè quốc tế là một nước kiểm soát tốt đại dịch, duy
trì tăng trưởng kinh tế, đồng thời là quốc gia có trách nhiệm, hội nhập sâu rộng
trên trường quốc tế. Việc tuân theo sự chỉ đạo của lãnh đạo Đảng và Nhà nước
đã đem lại những thành tựu đáng kể trong công cuộc chống dịch Covid cũng đã
được tổ chức y tế thế giới (WHO) công nhận và đánh giá cao.

Từ những ngày đầu, lãnh đạo nhà nước đã chỉ đạo cần phải hành động ngay từ
khi xuất hiện những dấu hiệu đầu tiên của dịch bệnh. Trước khi WHO công bố
đại dịch, các cơ quan chức năng của Việt Nam đã nhanh chóng áp dụng các biện
pháp kiểm soát nghiêm ngặt để ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh diễn ra trong
cộng đồng. Đạt được kết quả này nhờ vào sự điều hành quyết liệt của Chính
phủ, sự phối hợp với trách nhiệm cao của các cơ quan liên quan. Ban phòng
chống Covid-19 đã được thành lập để xây dựng những kế hoạch hành động, kế
hoạch thường xuyên có sự điều chỉnh phù hợp với tình hình dịch tễ và khuyến
nghị của Bộ trưởng Bộ Y tế.

Các biện pháp phòng chống dịch cùng với hệ thống xét nghiệm Covid-19 quy
mô lớn đã giúp ngăn chặn sự lây lan của đại dịch và giảm thiểu hậu quả cho xã
hội. Thành công của Việt Nam trong cuộc chiến chống lại Covid-19 nhờ vào
việc xây dựng chiến lược đúng đắn, sự phối hợp nhịp nhàng của chính quyền
cùng với sự tương tác chặt chẽ của các cấp các ngành cùng tích cực thực hiện
hiệu quả các biện pháp đề ra, đồng thời huy động cả lực lượng vũ trang tổ chức
kiểm soát chặt chẽ việc chấp hành nghiêm ngặt các quy định được ban hành.

You might also like