You are on page 1of 59

ÔN THI

TRỌNG TÂM ÔN TẬP CHƯƠNG 1


Mục I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU
TIÊN CỦA ĐẢNG (tháng 2/1930)
1. Hệ quả XH và giai cấp ở VN dưới chính sách cai trị, khai thác của TD Pháp.
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực
dân, xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc.
Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên,
trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hóa. Một bộ phận địa chủ có lòng yêu
nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức
độ khác nhau.
Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong
kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông dân Việt Nam
đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng của
họ trong cuộc đầu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tu do
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân
Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông
dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột.
Giai cấp tư sản Việt Nam bao gồm tư sản công nghiệp, tư sản thương nghiệp... bị tư sản Pháp
và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị nhỏ bé và
yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định
Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, tri thức, những người làm nghề tự do đời
sống bập bênh, dễ bị phá sản trở thành người vô sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực
dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào
→ Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất
nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội
Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ
và phong kiến đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời
sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.
Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu.
Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân
dân, Hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng
đất cho nông dân, trong đó chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
2. Nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước cuối XIX - đầu XX.
Nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ
XX có thể được chia thành hai khía cạnh quan trọng: nguyên nhân khách quan và nguyên
nhân chủ quan.
Nguyên nhân khách quan dẫn đến sự thất bại của các phong trào yêu nước là do sự
thắng thế của CNĐQ phương Tây. Trong thời kỳ này, công nghiệp hóa và cách mạng công
nghiệp ở phương Tây đã tạo ra một sức mạnh kinh tế và quân sự mà các phong trào yêu nước
ở phương Đông khó có thể đối mặt. Sự chênh lệch này làm cho phương Tây có lợi thế nhiều
hơn trong các cuộc xung đột quân sự và kinh tế. Việt Nam đối diện với sự xâm lược và áp đặt
chủ quyền của Pháp, một đế quốc mạnh mẽ với quân đội và tài nguyên lớn. Sự không cân
bằng này góp phần làm yếu đuối các phong trào yêu nước ở Việt Nam trước sức mạnh của
đối phương.
Nguyên nhân chủ quan:
Một là, thiếu đường lối chính trị đúng đắn. Các phong trào yêu nước thường
thiếu một chiến lược chính trị mạch lạc và đồng đều để đối mặt với thách thức từ
phương Tây. Sự phân chia và tranh chấp nội bộ còn làm giảm hiệu quả của những nỗ
lực đối đầu.
Hai là thiếu phương pháp cách mạng phù hợp. Các phong trào yêu nước
thường gặp khó khăn khi không có một chiến lược cách mạng rõ ràng và phù hợp với
bối cảnh xã hội và quốc tế. Sự thiếu hụt này đã làm giảm khả năng thành công của các
phong trào cách mạng.
Ba là, thiếu sự đoàn kết giữa các lực lượng. Sự phân hóa và xung đột giữa các
nhóm yêu nước làm suy yếu đòi hỏi sự đoàn kết cần thiết để chống lại thế lực ngoại
xâm. Thiếu sự đồng lòng làm yếu đuối khả năng đối mặt với thách thức từ phương
Tây.
Bốn là, thiếu tổ chức lãnh đạo vững mạnh. Việc thiếu một tổ chức lãnh đạo
mạnh mẽ và thống nhất đã tạo điều kiện cho sự lạc quan và đồng thuận trong các
phong trào cách mạng. Sự thiếu vắng này làm giảm sức mạnh và hiệu quả của cuộc
chiến tranh giành độc lập.
Nhìn chung, những yếu tố khách quan và chủ quan này đã đồng loạt góp phần vào sự thất bại
của các phong trào yêu nước trong giai đoạn cuối TK XIX - đầu TK XX. Việt Nam lạc vào
bóng tối của khủng hoảng đường lối, đặt ra một thách thức bức thiết trong việc tìm ra con
đường cứu nước đúng đắn. Cần phải xây dựng một chiến lược chính trị mạch lạc, phương
pháp cách mạng linh hoạt, đồng thời thắp sáng ngọn đuốc của sự đoàn kết và xây dựng một tổ
chức lãnh đạo mạnh mẽ để hướng dẫn đất nước đi qua bức tường khó khăn.
3. Phân tích vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình vận động thành lập Đảng.
- Bối cảnh lịch sử: Trước bối cảnh bị thực dân Pháp xâm lược, mặc dù đã có nhiều cuộc
đấu tranh, khởi nghĩa diễn ra nhưng thất bại, VN lâm vào tình trạng khó khăn, khủng
hoảng trầm trọng về đường lối lãnh đạo, yêu cầu của lịch sử dân tộc đó là tìm kiếm
con đường, giải pháp, tổ chức lãnh đạo đưa đất nước thoát khỏi tình trạng này.
- Vai trò (Câu 8 - Tr.20)
4. Chứng minh rằng ĐCSVN ra đời năm 1930 là một tất yếu khách quan của lịch sử.
Hòa bình cho hôm nay chính là thành quả cách mạng của ông cha ta. Cách mạng
thành công là nhờ công của Đảng đã dẫn đường. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là kết quả
của quá trình vận động quy luật kết hợp nhuần nhuyễn giữa ba yếu tố: Chủ nghĩa Mác-Lênin,
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời mở ra một bước ngoặt lớn cho cách mạng nước ta.
Với cương lĩnh đúng đắn, sự ra đời của Đảng là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên cho mọi thắng
lợi của cách mạng nước ta, là nhân tố quyết định phương hướng phát triển và đưa đến thắng
lợi trong sự nghiệp giành độc lập, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời,
cách mạng Việt Nam thật sự trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới.
1. Phong trào yêu nước
1.1.1 Bối cảnh TG và những tác động của tình hình TG
CNTB đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (CNĐQ)
tiến hành chiến tranh xâm lược và áp bức các dân tộc thuộc địa (VN có tài nguyên phong
phú, vị trí chiến lược quan trọng nên là tầm ngắm của CNĐQ). Mâu thuẫn giữa các dân tộc
thuộc địa và CNĐQ ngày càng gay gắt, do đó vấn đề chống ĐQ giải phóng dân tộc là một
vấn đề cấp thiết và chỉ có Đảng của giai cấp vô sản mới thực hiện được sứ mệnh lịch sử này.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã làm biến đổi sâu sắc tình hình
thế giới (thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười đã biến học thuyết Mác thành hiện thực,
khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng vô sản đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc,
là một tấm gương sáng đối với các quốc gia bị bóc lột trong đó có VN, từ đó cổ vũ phong trào
đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản trên toàn thế giới, mở ra một thời đại mới với mô
hình cách mạng mới là mô hình cách mạng vô sản. Chính vì những nguyên nhân này đòi hỏi
CMVN phải có Đảng Cộng Sản để lãnh đạo CMVN.
Tháng 3/1919 Quốc Tế Cộng Sản (QTCS) thành lập đã tạo tiền đề và điều kiện cơ bản
thúc đẩy phong trào cách mạng thế giới (vạch ra cương lĩnh chính trị, phương hướng đấu
tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa trên lập trường cách mạng vô sản; vạch ra cương lĩnh,
đường lối đấu tranh của CMVN; truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào VN, đào tạo đội ngũ
cán bộ cốt cán của CMVN như Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú, Lê Hồng Phong …) tạo tiền đề
quan trọng cho quá trình thành lập Đảng cách mạng của VN.
1.1.2 Tình hình trong nước, quá trình xâm lược, cai trị tác động của nó đối với xã hội
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, năm 1884 VN trở thành thuộc địa của
Pháp. Chính sách bóc lột, cai trị của thực dân Pháp:Về chính trị: Xây dựng hệ thống chính
quyền thuộc địa, thi hành chính sách cai trị trực tiếp và chia để trị rất thâm độc (chia Việt
Nam thành 3 miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ cùng với Ai Lao và Cao Miên thiết lập Liên
Bang Đông Dương của Pháp nhằm mục đích tách ViệtNam ra khỏi bản đồ thế giới). Đàn áp
đẫm máu các phong trào yêu nước của nhân dân VN.Về kinh tế: Tiến hành khai thác thuộc
địa lần 1 và lần 2. Vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động, thuế khóa nặng nề.Về văn hóa:
Thực hiện chính sách ngu dân để dễ cai trị (nhà tù nhiều hơn trường học). Du nhập văn hóa
đồi trụy, tuyên truyền tâm lý phục và sợ Pháp.Khuyến khích tệ nạn xã hội như: dùng rượu
cồn, thuốc phiện để đầu độc thế hệ trẻ.Về xã hội: Tính chất xã hội VN thay đổi từ xã hội
phong kiến độc lập sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến nên xã hội VN có sự phân hóa sâu
sắc, xuất hiện nhiều giai cấp mới (địa chủ, nông dân, tiểu tư sản, tư sản, công nhân) trong đó
giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng VN nhưng khi chưa có Đảng thì giai cấp
này không thể thực hiện sứ mệnh lịch sử giải phóng dân tộc nên cần thiết phải có sự hình
thành Đảng Cộng Sản để đưa ra những đường lối đúng đắn giúp giai cấp này thực hiện sứ
mệnh của mình.
Mâu thuẫn xã hội: 2 mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn dân tộc (mâu thuẫn giữa dân tộc
VN và TD Pháp) và mâu thuẫn giai cấp (mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ).
Kết luận: Sự khai thác và bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp đã làm gay gắt thêm các
mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội Việt Nam.
1.1.3 Các phong trào yêu nước trước khi có Đảng
Các phong trào đấu tranh yêu nước hình thành để giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản trong xã
hội.
1.1.3.1 Phong trào chống Pháp theo ý thức hệ phong kiến:
Phong trào Cần Vương do Tôn Thất Thuyết đứng đầu (1885-1896), nhiều cuộc khởi
nghĩa đã diễn ra sôi nổi rộng khắp và thể hiện tinh thần quật cường chống ngoại xâm của các
tầng lớp nhân dân khi triều đình phong kiến đã đầu hàng. Những ngọn cờ phong kiến lúc đó
không còn là ngọn cờ tiêu biểu để tập hợp 1 cách rộng rãi, toàn thể các tầng lớp nhân dân,
không có khả năng liên kết các trung tâm kháng Pháp trên toàn quốc nên cuộc khởi nghĩa của
Phan đình Phùng thất bại năm 1896 là lúc chấm dứt vai trò lãnh đạo của giai cấp phong kiến
đối với phong trào yêu nước VN.
Phong trào tự phát của nông dân Yên Thế (1897-1913) do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo,
đây là cuộc đấu tranh anh dũng của nông dân VN kéo dài gần 30 năm, ghi mốc son trong lịch
sử đấu tranh chống thực dân Pháp. Sự bền bỉ, ngoan cường của phong trào thể hiện sức mạnh
to lớn của nông dân nhưng phong trào vẫn mang nặng “cốt cách phong kiến” không có khả
năng mở rộng hợp tác và thống nhất tạo thành 1 cuộc cách mạng giải phóng dân tộc nên cuối
cùng cũng bị thực dân Pháp đàn áp.
1.1.3.2 Phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản
Tiêu biểu là xu hướng bạo động do Phan Bội Châu (1867-1940) tổ chức, lãnh đạo và
xu hướng cải cách do Phan Châu Trinh (1872-1926) đề xướng.
Phan Bội Châu thành lập Duy Tân hội (chủ trương xây dựng chế độ quân chủ lập hiến
như ở Nhật, tổ chức đưa thanh niên yêu nước VN sang Nhật học tập. Năm 1912 lập tổ chức
VN Quang Phục hội với tôn chỉ là đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục VN, thành lập nước cộng
hòa dân quốc VN. Những chương trình, kế hoạch hoạt động của hội lại thiếu tôn chỉ rõ ràng.
Khi Phan Bội Châu bị bắt thì ảnh hưởng của tổ chức này đối với phong trào yêu nước của VN
chấm dứt.
Phan Châu Trinh và những người cùng chí hướng muốn giành độc lập dân tộc bằng
con đường cải cách đất nước: “chấn dân trí, khai dân trí, hậu dân sinh”, bãi bỏ chế độ quân
chủ, thực hiện dân quyền, khai thông dân trí, mở mang thực nghiệp. Phan Châu Trinh đã đề
nghị nhà nước“bảo hộ” Pháp tiến hành cải cách để cứu nước. Phong trào đã bị thực dân Pháp
đàn áp dã man,giết hại các sĩ phu yêu nước và nhân dân tham gia biểu tình.
Các phong trào yêu nước trên đều biểu dương tinh thần yêu nước, bất khuất của dân
tộc VN nhưng hầu hết đều thất bại vì:
- Các phong trào yêu nước từ các lập trường phong kiến đã thất bại là do không
có đường lối đúng đắn vì giai cấp phong kiến, địa chủ đã không còn khả năng
dẫn dắt dân tộc thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi.
- Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản do đường lối chính trị
không rõ ràng,nhất là không biết dựa vào quần chúng nhân dân mà chủ yếu
dựa vào uy tín cá nhân nên không tạo sức mạnh tổng hợp, không tạo ra được
sự thống nhất cao trong những người lãnh đạo phong trào, chính vì vậy nên
khi người lãnh đạo bị bắt thì phong trào cũng tan rã theo.
Kết luận: Thất bại của các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến hay
tư sản đã nói lên 1 sự thật: con đường cứu nước của các phong trào CMVN đều rơi vào tình
trạng bế tắc. XHCN lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng cả về đường lối cứu nước và
giai cấp lãnh đạo cách mạng vì thiếu một chính Đảng chân chính tổ chức và lãnh đạo phong
trào đấu tranh cách mạng, thiếu 1 đường lối chính trị đúng đắn, chưa tập hợp được đông đảo
quần chúng nhân nhân tham gia cách mạng, chưa có phương pháp cách mạng khoa học …
1.2 Chủ nghĩa Mác – Lênin:
Vào giữa thế kỉ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh,
đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lý luận khoa học với tư cách là vũ khí tư tưởng của
giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Trong hoàn cảnh đó, chủ
nghĩa Mác ra đời, về sau được Lênin phát triển trở thành chủ nghĩa Mác – Lênin.
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh thực
hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải lập ra đảng cộng sản. Sự ra đời đảng
cộng sản là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống áp bức,
bóc lột. Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản (1848) xác định: những người cộng sản luôn luôn
đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào; là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công
nhân ở các nước; họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả của phong trào vô sản.
Những nhiệm vụ chủ yếu có tính quy luật mà chính đảng của giai cấp công nhân để thực hiện
mục đích giành lấy chính quyền và xây dựng xã hội mới. Đảng phải luôn đứng trên lập
trường của giai cấp công nhân, mọi chiến lược, sách lược của Đảng đều luôn xuất phát từ lợi
ích của giai cấp công nhân. Nhưng,Đảng phải đại biểu cho quyền lợi của toàn thể nhân dân
lao động. Bởi vì giai cấp công nhân chỉ có thể giải phóng được giai cấp mình nếu đồng thời
giải phóng cho các tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã hội. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã
lôi cuốn quần chúng nhân dân và cả những phần tử ưu tú, tích cực ở các nước thuộc địa vào
phong trào cộng sản.Kể từ khi chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam, phong
trào yêu nước và phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ theo khuynh hướng cách mạng vô
sản, dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, sáng lập ra
Đảng Cộng Sản Việt Nam. Chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng Sản
Việt Nam.
1.3 Phong trào công nhân:
Năm 1917, cách mạng tháng Mười Nga giành được thắng lợi. Nhà nước Xô Viết dựa
trên nền tảng liên minh công – nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvich Nga ra đời. Với
thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, chủ nghĩa Mác – Lênin từ lý luận đã trở thành hiện
thực, đồng thời mở đầu một thời đại mới “ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải
phóng dân tộc”. Cuộc cách mạng này cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân, nhân dân các nước và là một trong những động lực thúc đẩy sự ra đời nhiều đảng cộng
sản: Đảng Cộng Sản Đức,Đảng Cộng Sản Hungary (năm 1918), Đảng Cộng Sản Pháp (năm
1919)…
Đối với các dân tộc thuộc địa, Cách mạng Tháng Mười nêu tấm gương sáng trong
việc giải phóng các dân tộc bị áp bức. Về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười, Nguyễn Ái
Quốc khẳng định:Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân châu Á tỉnh
giấc mê hàng thế kỷ nay. Và “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành
công thì phải dân chúng làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải
thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập. Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản có ý
nghĩa thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sơ thảo lần
thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được công bố tại
Đại hội II Quốc tế cộng sản vào năm 1920 đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các
dân tộc thuộc địa, mở ra con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức trên lập trường cách
mạng vô sản.
Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ
nghĩa Mác – Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc không những
đánh giá cao sự kiện ra đời Quốc tế Cộng sản đối với phong trào cách mạng thế giới, mà còn
nhấn mạnh vai trò của tổ chức này đối với cách mạng Việt Nam “An Nam muốn cách mệnh
thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”.
5. Phân tích các yếu tố dẫn đến sự ra đời của ĐCSVN và mối quan hệ giữa các yếu tố đó.
(Câu 6 - Tr.16)
6. Cương lĩnh Chính trị của Đảng (2-1930)
(Câu 7 - Phần 1 - Tr.18)
7. Phân tích ý nghĩa việc thành lập ĐCSVN.
(Câu 7 - Phần 2 - Tr.20)
Mục II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930-1945)
1. So sánh nội dung của Cương lĩnh tháng 2-1930 và Luận cương tháng 10-1930 của Đảng.
(Câu 9 - Tr.23)
2. Chủ trương của Đảng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm chống đế quốc và
chống phong kiến trong thời kỳ 1930-1945?

Đảng đã xác định hai nhiệm vụ cách mạng là chống đế quốc và chống phong kiến, nhưng
nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu là chống đế quốc, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
Đảng đã thay đổi đường lối cách mạng từ cách mạng dân chủ nhân dân sang cách mạng giải
phóng dân tộc, từ cách mạng ruộng đất sang cách mạng võ trang, từ cách mạng đô thị sang
cách mạng nông thôn, từ cách mạng bạo động sang cách mạng tổng khởi nghĩa. Đây là chủ
trương đúng đắn, sáng suốt, khéo léo của Đảng, dựa trên sự phân tích tình hình thế giới và
trong nước, đặc biệt là ảnh hưởng của Chiến tranh thế giới thứ hai đến Đông Dương và Việt
Nam
Trong giai đoạn cách mạng 1930 – 1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã giải
quyết linh hoạt, sáng tạo mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống
phong kiến nhằm thực hiện hai mục tiêu là dân tộc và dân chủ, đưa đến sự thành công
của cách mạng tháng Tám năm 1945, lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Việc giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ nhằm đi đến mục tiêu
cuối cùng là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Vấn đề dân tộc
và dân chủ có tác động chi phối toàn bộ vấn đề khác: lực lượng cách mạng, khẩu hiệu
đấu tranh, hình thức tổ chức tập hợp lực lượng đấu tranh, hình thức đấu tranh và quyết
định đến sự thành, bại của cách mạng
a. Việc giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến
trong giai đoạn cách mạng 1930 – 1931
Những năm 1929 - 1933, thế giới tư bản lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế trầm
trọng trên quy mô lớn, để lại hậu quả hết sức nặng nề. Cuộc khủng hoảng đó đã tác động
đến Việt Nam, làm trầm trọng thêm tình trạng đói khổ của các tầng lớp nhân dân lao
động. Mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc, trong đó có hai mâu thuẫn cơ bản là mâu
thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ
phong kiến. Đầu năm 1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân đảng lãnh
đạo đã bị thất bại. Chính quyền thực dân tiến hành một chiến dịch khủng bố dã man
những người yêu nước. Điều đó càng làm tăng thêm những mâu thuẫn và tình trạng bất
ổn trong xã hội Việt Nam.
Tháng 2/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, là bước ngoặt vĩ đại vĩ đại trong
lịch sử Việt Nam. Từ đây, cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam được
đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng có đường lối
cách mạng khoa học và sáng tạo, có tổ chức chặt chẽ đã quy tụ lực lượng toàn dân tộc
Việt Nam, kịp thời lãnh đạo nhân dân ta bước vào một thời kì cách mạng mới. Sự ra đời
của Đảng đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về lãnh đạo cách mạng kéo dài mấy chục
năm đầu thế kỷ XX, đưa cách cách mạng Việt Nam bước lên một con đường mới - con
đường đấu tranh giành độc lập dân tộc và hướng tới chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ khi Đảng ra đời, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn
Ái Quốc soạn thảo đã xác định nhiệm vụ cho cách mạng Việt Nam là đánh đổ ách thống
trị của đế quốc Pháp, bọn phong kiến và phản cách mạng làm cho nước Việt Nam được
độc lập tự do; lập chính phủ công nông binh; tổ chức quân đội công nông, tịch thu hết
sản nghiệp của đế quốc; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và bọn phản cách mạng chia
cho dân cày nghèo, tiến hành cách mạng ruộng đất v.v.
Như vậy, nhiệm vụ cách mạng được đề ra bao gồm cả hai nội dung dân tộc và dân
chủ, chống đế quốc và phong kiến nhưng nổi lên hàng đầu là chống đế quốc để giành
độc lập dân tộc, quyền lợi ruộng đất của nông dân chỉ đặt ra ở mức độ thích hợp. Điều
đó đáp ứng đúng đòi hỏi khách quan của lịch sử, vì ở nước Việt Nam thuộc địa, mâu
thuẫn trong lòng chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã hình thành nên
những mâu thuẫn đan xen nhau, song mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa
dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và tay sai phản động. Sự thống trị, áp bức
và bóc lột càng tăng thì mâu thuẫn đó càng sâu sắc, sự phản kháng và đấu tranh vì sự tồn
vong của dân tộc càng phát triển mạnh mẽ, gay gắt về tính chất, đa dạng về nội dung và
hình thức. Ngược lại, sự xung đột, đấu tranh về quyền lợi riêng của mỗi giai cấp trong
nội bộ dân tộc được giảm thiểu và không quyết liệt như cuộc đấu tranh dân tộc. Đây là sự
sáng tạo của Người, không rập khuôn máy móc học thuyết về đấu tranh giai cấp vào
điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào quần chúng phát
triển rộng khắp chưa từng có trong giai đoạn trước đó, với đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh.
Tháng 10/1930, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng họp lần thứ nhất ở
Hương Cảng (Trung Quốc), Hội nghị thông qua Luận cương chính trị do Trần Phú
khởi thảo. Luận cương chính trị của Đảng đã xác định hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng là đánh đổ phong kiến và đánh đổ đế quốc có quan hệ khăng khít
với nhau, không tách rời nhau vì “có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá
tan được giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa thắng lợi, mà có phá
tan được chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”. Như
vậy, Luận cương chưa nêu được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Đông Dương, không
đưa ngọn cờ dân tộc lên hàng đầu mà nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng
ruông đất. Những hạn chế này được dần dần khắc phục trong thực tiễn đấu tranh
cách mạng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng phong trào cách mạng 1930 – 1931 nổ ra trong
thời gian dài, liên tục, rộng khắp trong cả nước, từ Bắc chí Nam, từ nông thôn đến thành
thị; từ các nhà máy đến các hầm mỏ và đồn điền, nhưng mang tính thống nhất cao nhằm
chống lại kẻ thù của dân tộc là đế quốc và bọn phong kiến tay sai. Từ phong trào này, một
hình thức chính quyền mới, xuất hiện đầu tiên ở hai tỉnh Nghệ An và Hà
Tĩnh. Đây là mẫu hình chính quyền cách mạng đầu tiên ở Việt Nam, một
chính quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tuy nhiên, phong trào nổ ra khi
Đảng mới ra đời, chưa có kinh nghiệm trong lãnh đạo nên không tránh khỏi sai
lầm nhất là trong việc giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ phản đế
và phản phong, do đó chưa chú trọng tập hợp lực lượng phản đế vào mặt
trận dân tộc thống nhất. Phải trải qua thực tiễn đấu tranh, những hạn chế đó
mới dần dần được khắc phục.
b. Việc giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và
chống phong kiến trong giai đoạn cách mạng 1936 – 1939
Từ đầu những năm 30 của thế kỉ XX, tình hình thế giới và trong nước có nhiểu
biến chuyển. Quán triệt chủ trương được đề ra tại Đại hội lần thứ 7 của
Quốc tế Cộng sản, tháng 7/1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần
thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp ở Thượng Hải (Trung Quốc),
Hội nghị căn cứ vào tình hình cụ thể ở Việt Nam để đề ra đường lối và phương
pháp đấu tranh thích hợp.
Hội nghị đã khẳng định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng dân tộc dân chủ Việt
Nam là chống đế quốc chống phong kiến không hề thay đổi. Nhưng để phù hợp với
tình hình mới, Đảng xác định kẻ thù của nhân dân Việt Nam lúc này là
bọn phản động thuộc địa và tay sai của chúng không thực hiện những chính sách
mà Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp đã ban hành, đây là bộ phận nguy
hiểm nhất trong toàn bộ thực dân Pháp ở Đông Dương, tức là bộ phận nguy hiểm
nhất trong kẻ thù của dân tộc. Chống lại bộ phận nguy hiểm nhất trong kẻ
thù của dân tộc nên phong trào mang tính chất dân tộc.
Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng chủ trương tạm gác khẩu hiệu độc lập dân tộc
và cách mạng ruộng đất, chỉ chủ trương đấu tranh đòi mục tiêu trực tiếp, trước mắt là
chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, dân chủ,
cơm áo, hòa bình. Đó là những quyền dân chủ nhưng cũng là quyền lợi của dân tộc
và phải đấu tranh đòi từ tay kẻ thù dân tộc.
Như vậy, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ nhất (7/1936) đã nhận thức
được tầm quan trọng của nhân tố dân tộc ở một nước thuộc địa, đã giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu chiến lược của cách mạng, giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề, mối quan hệ giữa phong trào cách mạng ở Đông Dương
và phong trào cách mạng thế giới, bước đầu giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề giai
cấp và vấn đề dân tộc. Sự chỉ đạo sáng tạo của Đảng đã tập hợp được đông đảo
quần chúng đấu tranh trong cuộc vận động dân chủ những năm 1936 -1939. Phong
trào dân chủ 1936 – 1939 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương diễn ra trên quy
mô rộng lớn từ Bắc, Trung, Nam, từ thành thị đến nông thôn, qua phong trào đông đảo quần
chúng nhân dân như công nhân, nông dân, tư sản, trung tiểu địa chủ đã đoàn kết trong mặt
trận dân tộc thống nhất. Mặc dù khẩu hiệu đấu tranh chứa đựng nội dung cải cách dân chủ
trong khuôn khổ chính quyển thực dân cho phép, nhưng phong trào hoàn toàn không có tính
cải lương, phong trào đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách trước
mắt. Đó thực sự là cuộc đấu tranh thực hiện mục tiêu dân tộc và dân chủ của cuộc cách mạng.

Hội nghị đã khẳng định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng dân tộc dân chủ Việt Nam là
chống đế quốc chống phong kiến không hề thay đổi. Nhưng để phù hợp với tình hình mới,
Đảng xác định kẻ thù của nhân dân Việt Nam lúc này là bọn phản động thuộc địa và tay sai
của chúng không thực hiện những chính sách mà Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp đã ban
hành, đây là bộ phận nguy hiểm nhất trong toàn bộ thực dân Pháp ở Đông Dương, tức là
bộ phận nguy hiểm nhất trong kẻ thù của dân tộc. Chống lại bộ phận nguy hiểm nhất trong kẻ
thù của dân tộc nên phong trào mang tính chất dân tộc. Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng chủ
trương tạm gác khẩu hiệu độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất, chỉ chủ trương đấu tranh
đòi mục tiêu trực tiếp, trước mắt là chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống
chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Đó là những quyền dân chủ nhưng cũng là
quyền lợi của dân tộc và phải đấu tranh đòi từ tay kẻ thù dân tộc. Như vậy, Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương lần thứ nhất (7/1936) đã nhận thức được tầm quan trọng của nhân tố
dân tộc ở một nước thuộc địa, đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu trước mắt và
mục tiêu chiến lược của cách mạng, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề, mối quan
hệ giữa phong trào cách mạng ở Đông Dương và phong trào cách mạng thế giới, bước đầu
giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc. Sự chỉ đạo sáng tạo của Đảng
đã tập hợp được đông đảo quần chúng đấu tranh trong cuộc vận động dân chủ những năm
1936 - 1939. Phong trào dân chủ 1936 – 1939 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Đông Dương diễn ra trên quy mô rộng lớn từ Bắc, Trung, Nam, từ thành thị đến nông thôn,
qua phong trào đông đảo quần chúng nhân dân như công nhân, nông dân, tư sản,
trung tiểu địa chủ đã đoàn kết trong mặt trận dân tộ c thống nhất. Mặc dù khẩu hiệu đấu tranh
chứa đựng nội dung cải cách dân chủ trong khuôn khổ chính quyển thực dân cho phép, nhưng
phong trào hoàn toàn không có tính cải lương, phong trào đã buộc chính quyền thực dân phải
nhượng bộ một số yêu sách trước mắt. Đó thực sự là cuộc đấu tranh thực hiện mục tiêu dân
tộc và dân chủ của cuộc cách mạng.
c. Việc giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và
chống phong kiến trong giai đoạn cách mạng 1939 – 1945
Tháng 9/1939 Chiến tranh Thế giới thứ II bùng nổ. Ở châu Âu, phát xít Đức kéo vào thôn
tính nước Pháp (6/1940), Chính phủ Pháp đầu hàng quân Đức, thực hiện chính sách thù
địch đối với các lực lượng tiến bộ trong nước và phong trào cách mạng các nước
thuộc địa. Ở Đông Dương, thực dân Pháp đã “phát xít hóa” bộ máy thống trị tăng cườ ng đàn
áp cách mạng, bóc lột nhân dân Đông Dương.
Sự khủng bố và bóc lột của thực dân Pháp ở Đông Dương làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân
Đông Dương và thực dân Pháp phát triển gay gắt. Tình hình đó đòi hỏi Đảng Cộng sản Đông
Dương cần thay đổi chiến lược đấu tranh. Tháng 11/1939, Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương Đảng họp đã xác định nhiệm vụ, mục tiêu đấu tranh trước mắt của cách mạng Đ ông
Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông
Dương hoàn toàn độc lập. Nghị quyết của Đảng đánh dấu sự thay đổi quan trọng về chỉ đạo
chiến lược, thể hiện sự nhạy bén về chính trị trước sự thay đổi của tình hình thế giới và trong
nước, đưa nhân dân vào thời kì trực tiếp vận đ ộng cứu nước. Tháng 9/1940, Nhật vào miền
Bắc Việt Nam, Pháp đầu hàng nhanh chóng. Nhật giữ nguyên bộ máy thống trị của Pháp để
bóc lột về kinh tế và đàn áp cách mạng. Phát xít Nhật và tay sai ra sức dọn đường hất
cẳng Pháp nhằm độc chiếm Đông Dương. Chính sách vơ vét, bóc lột của Pháp - Nhật đã
đẩy nhân dân ta tới chỗ cùng cực phải “chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật”, mâu thuẫn
giữa toàn thể nhân dân ta với Pháp - Nhật đã trở nên sâu sắc. Tháng 5/1941, Nguyễn Ái
Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Trên cơ sở phân tích
tình hình quốc tế và trong nước, phân tích thái độ chính trị của các giai cấp, tầng lớp trong xã
hội Việt Nam, Hội nghị nêu rõ ở nước ta mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp
bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc phát xít Pháp - Nhật, bởi vì dưới hai tầng
áp bức Nhật – Pháp, “quyền lợi của tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc
nguy vong không lúc nào bằng”. “Pháp – Nhật ngày nay không phải chỉ là kẻ thù của công
nông” mà là kẻ thù chung của cả dân tộc. Hội nghị khẳng định: “Cần phải thay đổi chiến
lược. Sự thay đổi về kinh tế, chính trị Đông Dương, lực lượng giai cấp Đông Dương, buộc Đ
ảng ta phải thay đổi chính sách cách mạng ở Đông Dương cho hợp với nghuyện vọ ng
chung của toàn thể nhân dân Đông Dương…”. Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật “không
phải riêng của giai cấp vô sản và dân cày, mà là nhiệm vụ chung của toàn thể nhân dân Đông
Dương”, “cuộc cách mạng ở Đông Dương hiện tại không phải là một cuộc cách mạng tư sản
dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và đ iền địa nữa, mà là một
cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”. Hội nghị chủ
trương: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn
vong của quốc gia, của dân tộc… Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng,
không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc
còn chịu mãi kiế p ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không
đòi lại được” . Vì vậy, phải tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”.
Quyền lợi của nông dân được giải quyết ở một mức độ thích hợp bằng việc thực hiện các
khẩu hiệu: tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại
ruộng đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức. Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân
tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, nhằm thực hiện chính sách “dân tộc tự
quyết”. “Các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn, tổ chức thành liên bang
cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành thành một dân tộc quốc gia tùy ý”. Cách giải quyết
đó có tác dụng phát huy sức mạnh mỗi dân tộc trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình, đập
tan những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù về vấn đề dân tộc, đồng thời tạo điều kiện đoàn kết
ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia trong cuộc đấ u tranh chống kẻ thù chung. Nghị quyết
của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 (5/1941) đã thể hiện đầy đủ tư tưởng Hồ
Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề “dân tộc” và “giai cấp”. Hội nghị đề ra chủ trương
đúng đắn trong việc giải quyết “nhiệm vụ giải phóng dân tộc” và nhiệm vụ “cách mạng ruộng
đất”. Hồ Chí Minh đã vận dụng “phương pháp làm việc biện chứng” của C. Mác, phân tích
thực tiễn xã hội Việt Nam thuộc địa, không máy móc, coi vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất
là vấn đề nông dân, nhưng cũng không xem quyền lợi cơ bản của nông dân là vấn đ ề ruộng
đất. Ngườ i nhấn mạnh yêu cầu khách quan của lịch sử cách mạ ng ở thuộc địa là giành độc
lập dân tộc. Chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc và quan điểm khởi nghĩa
dân tộc là sự chuẩn bị về đường lối và phương pháp cho thắng lợi của Cách mạng tháng
Tám sau này. Thực hiện nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8
(5/1941), phong trào cách mạng Việt Nam có nhiều chuyển biến, lực lượng chính trị và lực
lượng vũ trang ngày càng phát triển, căn cứ địa cách mạng được mở rộng. Đến năm
1945, công cuộc chuẩn bị được tiến hành chu đáo. Toàn Đảng, toàn dân sẵn sàng đón chờ
thời cơ vùng dậy Tổng khởi nghĩa giành độc lập tự do cho dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng
tháng Tám 1945 là thắng lợi của đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn của Đảng và tư
tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh. “Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về
quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc
của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”.
d. KẾT LUẬN CHUNG VÀ ĐỀ XUẤT
Trong lịch sử cách mạng Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, hai vấn dân tộc và dân chủ có tác
động chi phối toàn bộ vấn đề khác: lực lượng cách mạng, khẩu hiệu đấu tranh, hình thức tổ
chức tập hợp lực lượng đấu tranh, hình thức đấu tranh và quyết định đến sự thành, bạ i của
cách mạng. Việc giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ trở thành
trung tâm, nhằm đi đến mục tiêu cuối cùng là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng xã hội. Vấn đề dân tộc và dân chủ Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã nhận thức rõ nhiệm vụ giải phóng dân
tộc. Tuy nhiên, trong việc tổ chức thực hiện, do tác động củ a những yếu tố khách quan và
chủ quan, việc giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến chưa
hoàn toàn phù hợp với điều kiện của nước thuộc địa, có lúc quá chú trọng đến đấu tranh giai
cấp và cách mạng ruông đất, không đưa ngọn cờ dân tộc lên hàng đầu. Từ những thành công
cũng như sai lầm dù là tạm thời, Đảng đã rút bài học kinh nghiệm quan trọng. Nhờ đó, Đảng
ta đã lôi cuốn đư ợc đông đảo nông dân đi theo giai cấp công nhân, động viên được các tầng
lớp nhân dân khác cùng với công, nông bước lên trận tuyế n cách mạ ng chống đế quốc và
phong kiến. Trong quá trình cách mạng, những nhiệm vụ chiến lược đó đã được cụ
thể hoá bằng những mục tiêu thích hợp với từng thời kì, dựa trên sự phân tích những mối
quan hệ giai cấp cụ thể và khả nǎng phân hoá hàng ngũ kẻ thù đế quốc và phong kiến, nhằm
tập trung ngọn lửa cách mạng vào kẻ thù nguy hại nhất trong từng thời điểm. Song, dù ở bất
cứ thời kỳ nào, những mục tiêu và nhiệm vụ chính trị cụ thể do Đảng đề ra, về cơ bản đều
bao hàm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, về cơ bản đều gắn liền hai nhiệm vụ chống đế
quốc và chống phong kiến.
3. Chủ trương của Đảng về tập hợp lực lượng cách mạng trong thời kỳ 1930-1945
(Lưu ý: câu 2 và 3 có thể ghép lại/ tích hợp giải quyết)

4. Chủ trương chuyển hướng chiến lược cách mạng của Đảng và quá trình chuẩn bị - xác định
thời cơ tiến lên tổng khởi nghĩa Tháng Tám - 1945.
- Quá trình chuẩn bị - xác định thời cơ tiến lên tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945
Quá trình chuẩn bị - xác định thời cơ tiến lên tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là quá
trình Đảng thực hiện chủ trương chiến lược mới, củng cố lực lượng cách mạng, mở rộng mặt
trận thống nhất dân tộc, tổ chức và huấn luyện quân sự, tạo dựng căn cứ cách mạng, tìm kiếm
sự hỗ trợ của các nước bạn, theo dõi sự chuyển biến của tình hình quốc tế và quốc nội, và
nắm bắt thời cơ lịch sử để phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước trước
khi quân Đồng minh vào.
Quá trình này diễn ra từ năm 1941 đến tháng 8/1945, với những sự kiện quan trọng như:
thành lập Mặt trận Việt Minh (tháng 5/1941), khởi nghĩa Cao Bằng (tháng 10/1944), Hội nghị
toàn quốc của Đảng (tháng 8/1945), và tổng khởi nghĩa Tháng Tám (tháng 8/1945)
Điều kiện thích hợp: Sự yếu đuối của thực dân Pháp do ảnh hưởng của chiến tranh thế giới,
cùng với sự lan tỏa của lực lượng kháng chiến trong nước, đã tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc
nổi dậy.
Tình hình quốc tế: Sự giúp đỡ và hỗ trợ từ phía các lực lượng tiến bộ và chiến đấu vì độc lập
ở các quốc gia khác cũng đã đóng một vai trò quan trọng

5. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của CM Tháng Tám –
1945.
(Câu 12 - Tr.30)
TRỌNG TÂM ÔN TẬP CHƯƠNG 2
1. Hoàn cảnh Việt Nam sau cách mạng Tháng 8-1945, nội dung Chỉ thị "Kháng chiến kiến
quốc” của Đảng?
a, Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam sau CM T8/1945
- Thuận lợi:

Trong nước Quốc tế

+ Chính quyền giành được trong toàn quốc, + Hệ thống XHCN hình thành
nhân dân phấn khởi xây dựng cuộc sống + Phong trào GPDT phát triển
mới + Phong trào hòa bình dân chủ lên cao
+ Uy tín của Đảng và Chủ tịch HCM được
khẳng định với nhân dân Việt Nam
+ Toàn Đảng, toàn dân quyết tâm xây dựng
và bảo vệ chính quyền cách mạng.

- Khó khăn:
+ Miền Bắc: 20 vạn quân Tưởng vào Việt Nam với danh nghĩa đồng minh tước vũ khí của
Nhật thực chất muốn lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ.
+ Miền Nam: Quân Anh vào tước vũ khí của Nhật nhưng thực chất giúp Pháp xâm lược nam
bộ 23/9/1945: Pháp xâm lược Nam Bộ
+ Tàn quân Nhật còn chiếm đóngở nhiều nơi chờ quân đồng minh vào tước vũ khí
+ Nhiều tổ chức đảng phái phản động ra sức chống phá Cách mạng.
+ Nạn đói làm hơn 2 triệu người chết, thiên tai khắc nghiệt dẫn đến nguy cơ 1 nạn đói mới
đến gần. Tài chính kiệt quệ, ngân sách trống rỗng.
+ Văn hóa: Hơn 90% người dân mù chữ
+ Quân sự: Lực lượng mỏng, trang thiết bị, vũ khí còn thô sơ
+ Ngoại giao: Chưa có nước nào công nhận sự độc lập và thiết đặt quan hệ ngoại giao với
Việt Nam.
Ø Nhận xét:
+ Sau CMT8 chính quyền non trẻ đứng trước nhiều khó khăn to lớn và thử thách vô cùng lớn,
khó khăn chồng chất khó khăn, vận mệnh của dân tộc trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
+ Hai khả năng đặt ra: mất chính quyền phải quay trở lại kiếp người nô lệ hoặc có thế xây
dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng.
+ Thuận lợi hết sức cơ bản, khó khăn to lớn, chồng chất nhưng có thể khắc phục được vì vậy
trungương Đảng quyết định lựa chọn con đường xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng.
Đảng đề ra những chủ trương và biện pháp cụ thể thông qua chỉ thị “Kháng chiến – Kiến
quốc” ngày 25/11/1945.
b) Nội dung chủ trương “kháng chiến ‒ kiến quốc”
‒ Tính chất của cách mạng Đông Dương: là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, tiếp tục sự
nghiệp cách mạng Tháng 8/1945
‒ Về chỉ đạo chiến lược:
+ Xác định mục tiêu phải nêu cao của CM VN vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng,
nhưng không phải là giảnh độc lập mà là giữ vững độc lập.
‒ Về xác định kẻ thù:
+ Kẻ thù chính là Pháp cần tập trung mũi nhọn vào chúng vì: Pháp đã thống trị VN gần 90
năm; Pháp được quân Anh giúp sức; Pháp không từ bỏ dã tâm xâm lược VN.
+ Đối với các tổ chức Đảng phái phản động TW Đảng đánh giá thái độ và đề ra đối sách phù
hợp
+ Mở rộng mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân, thống nhất mặt trận Việt
‒ Miên ‒ Lào.
‒ Về phương hướng, nhiệm vụ:
+ Nêu lên 4 nhiệm vụ cơ bản trước mắt là: Xây dựng, bảo vệ chính quyền; chống thực dân
Phápở Nam Bộ, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân.
+ Kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, với Tưởng thực hiện khẩu hiệu “Hoa‒ Việt thân
thiện”, với Pháp thực hiên “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế”.
‒ Chỉ thị đề ra các biện pháp cụ thể:
+ Chính trị: Củng cố chính quyền cách mạng; xúc tiến cho tổng tuyển cử 6/1/1946 bầu Quốc
hội, lập chính phủ tri thức; đề ra hiến pháp năm 1946
+ Kinh tế: Diệt giặc đói bằng cách tăng gia sản xuất, nhường cơm sẻáo, lá lành đùm lá rách;
Phát động “tuần lễ vàng”,ủng hộ “quỹ độc lập” -> thu được 370 kg vàng 20tr cho “quỹ độc
lập”
+ Văn hóa: Diệt giặc dốt, bài trừ văn hóa ngu dân, xóa nạn mù chữ, xây dựng nền văn hóa
mới
+ Quân sự: Động viên toàn dân tham gia kháng chiến
+ Ngoại giao: Cứng rắn về nguyên tắc nhưng mềm dẻo về chính sách, nhân nhượng bên trên,
dồnáp lực của quần chúng bên dưới để chống lại chúng; nhân nhượng với Tưởng và hòa hoãn
với Pháp ( ký hiệp định sơ bộ, ký tạmước);...
c, Ý nghĩa của chủ trương
‒ Chỉ đúng kẻ thù chính để tập trung đấu tranh.
‒ Xác định đúng những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng.
‒ Soi sáng con đường xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng
‒ Thể hiện 1 quy luật của VN sau CM T8/1945 là xây dựng chế độ mới phải đi đôi với bảo vệ
chế độ mới đó cũng chính là quy luật dựng nước và giữ nước của dân tộc.
2. Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược.
Bối cảnh lịch sử nước ta lúc đó:
- Đảng, Chính phủ và nhân dân ta muốn hoà bình nên đã nhân nhượng kí với Pháp Hiệp định
Sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9. Chấp hành chủ trương của Chính phủ, nhân dân ta kiên trì đấu
tranh giữ vững hoà bình, tranh thủ thời gian để chuẩn bị lực lượng, đề phòng khả năng bất
trắc phải kháng chiến chống Pháp lâu dài.
○ Chính phủ Pháp không thành thật trong việc kí Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 và
Tạm ước 14/9/1946 với Việt Nam, nên kí xong lại tìm cách phá hoại, đẩy
mạnh việc chuẩn bị xâm lược nước ta một lần nữa.
+ Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp tiến đánh các vùng tự do của ta.
+ Ở Bắc Bộ và Trung Bộ, hạ tuần tháng 11/1946, thực dân Pháp khiêu khích, tiến công ta ở
Hải Phòng và Lạng Sơn. Tháng 12/1946, chúng chiếm đóng trái phép ở Đà Nẵng, Hải
Dương, đưa thêm viện binh đến Hải Phòng.
+ Ở Hà Nội, tình hình nghiêm trọng hơn. Trong các ngày 15 và 16/12, quân Pháp bắn súng,
ném lựu đạn ở nhiều nơi: đốt Nhà Thông tin ở phố Tràng Tiền, chiếm đóng cơ quan Bộ Tài
chính và Bộ Giao thông công chính. Chúng còn cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc,
gây ra những vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún, phố Yên Ninh, đầu cầu Long Biên, khu
Cửa Đông… Trắng trợn hơn, trong các ngày 18 và 19/12/1946, tướng Moóclie gửi tối hậu
thư đòi ta phá bỏ mọi công sự và chướng ngại trên các đường phố, giải tán lực lượng tự vệ
chiến đấu, để quân Pháp làm nhiệm vụ giữ trật tự ở Hà Nội. Nếu yêu cầu đó không được chấp
nhận thì chậm nhất là vào sáng 20/12/1946, quân Pháp sẽ chuyển sang hành động!
○ Trước hành động ngang ngược của thực dân Pháp, nhân dân ta chỉ có một con
đường: cầm vũ khí kháng chiến chống thực Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc
lập, tự do.
○ Tình thế khẩn cấp đã buộc Đảng, Chính phủ ta phải có quyết định kịp thời.
Ngày 12/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Toàn dân
kháng chiến. Ngày 18 và 19/12/1946, Hội nghị bất thường mở rộng Ban
Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Vạn Phúc (Hà
Đông) dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã quyết định phát động cả
nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
○ Tối 19/12/1946, thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, phát động cả nước đứng lên
kháng chiến chống thực dân Pháp. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã tác
động mạnh mẽ đến toàn thể dân tọc ta. Lời kêu gọi của Người là tiếng gọi của
non sông, là mệnh lệnh tiến công cách mạng, giục giã, soi đường cho nhân dân
ta đứng lên đánh giặc, cứu nước.
- Nội dung đường lối đề cập đến những vấn đề sau:
- Cơ sở lý luận và thực tiễn:
Xuất phát từ những nguyên lý cơ bản về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mac-Lenin;
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cách mạng, của bối cảnh lịch sử lúc bầy giờ; Xuất phát từ
truyền thống yêu nước của nhân dân ta và được kế thừa những kinh nghiệm đánh giặc ngoại
xâm của cha ông. Đường lối kháng chiến của Đẳng đã được đề ra vô cùng đúng đắn, sang tạo
và kịp thời. Có tác dụng to lớn trong việc đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng vào giai đoạn
ổn định và phát triển đúng hướng.
- ND:
– Mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám, “Đánh phản
động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”.
– Tính chất kháng chiến: “Cuộc kháng chiến của dân tộc tạ là một cuộc chiến tranh cách
mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa, nó có tính chất toàn dân, toàn diện và lâu dài”.
Đó là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.
– Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng
chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
+ Kháng chiến toàn dân: “Bất kỳ đàn ông đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân
tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực
dân Pháp”, thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài.
+ Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa,
ngoại giao. Trong đó:
Về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn
thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình.
Về quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt
địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến, đánh
chính quy.
Về kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cung tự túc, tập trung phát triển nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.
Về văn hóa: Xóa bỏ văn hóa thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ mới theo
ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù , biểu dương thực lực. “Liên hiệp với dân tộc
Pháp, chống pharn động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam
độc lập.
+ Kháng chiến lâu dài (trường kỳ): Là để chống âm đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp,
để có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” của ta, chuyển hóa
tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng
địch.
+ Dựa vào sức mình là chính: “Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”, vì ta bị bao vây bốn
phía, chưa được nước nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh. Khi nào có điều kiện ta
sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song lúc đó cũng không được ỷ lại.
– Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắ Đường lối
kháng của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa
được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ
nghĩa Mác-Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất nước lúc bấy giờ.
3. Nêu cơ sở lý luận và thực tiễn của đường lối kháng chiến chống Pháp “Thực hiện chiến
tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh".

Đường lối kháng chiến chống Pháp "Thực hiện chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện,
trường kỳ, tự lực cánh sinh" trong giai đoạn chiến tranh giải phóng dân tộc (1946-1954) của
Việt Nam, chủ yếu dựa trên cơ sở lý luận của Mác-Lênin và kết hợp với thực tế đất nước.
Đây là một chiến lược toàn diện, tính nhân dân cao, và tận dụng sức mạnh của toàn bộ xã hội
để đối mặt với thách thức từ phương Tây.
- Cơ sở lý luận:
4. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Pháp.
1.Nguyên nhân thắng lợi.
- Nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng đứng đầu là Chủ Tịch Hồ Chí
Minh với đường lối quân sự, chính trị ngoại giao đúng đắn, đó là: Kết hợp độc lập dân
tộc với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện trường
kỳ và tự lực cánh sinh.
- Nhân dân ta có truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm.
- Nhờ toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đoàn kết một lòng quyết tâm chiến đấu vì
độc lập tự do cho Tổ Quốc.
- Nhờ xây dựng được hậu phương vững chắc đã huy động cao nhất sức người , sức của
cho cuộc kháng chiến.
- Nhờ tinh thần đoàn kết chiến đấu của ba nước Đông Dương, sự giúp đỡ của Liên Xô,
Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, sự đồng tình ủng hộ của nhân dân tiến bộ
trên thế giới.
2.Ý nghĩa lịch sử:
a.Đối với dân tộc
- Buộc Pháp phải thừa nhận độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của
ViệtNam.
- Chấm dứt ách thống trị của Pháp gần một thế kỷ: Buộc Pháp phải rút quân về nước.
- Mở ra một kỹ nguyên mới trong lịch sử dân tộc: Độc lập tự do và đi lên chủ nghĩa xã
hội.
- Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, thành quả cách mạng tháng tám được bảo vệ,
tạo điều kiện để miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội.
b. Đối với thế giới.
- Giáng một đòn mạnh mẽ vào chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, vào tham vọng xâm lược và
nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa của chúng.
- Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
- Đập tan âm mưu của đế quốc Mỹ muốn thay chân Pháp độc chiếm Đông Dương để
ngăn chặn phong trào giải phóng dân tộc và ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội ở vùng
Đông Nam Á.
- Chứng minh một chân lý của thời đại: “Trong điều kiện thế giới ngày nay một dân tộc
dù đất không rộng, người không đông, nếu quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, có
đường lối quân sự chính trị đúng đắn, được quốc tế ủng hộ thì hoàn toàn có khả năng
đánh bại mọi thế lực đế quốc hung bạo”
5. Nội dung đường lối chiến lược chung được hoàn thiện ở Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ III của Đảng (9-1960).
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã xác định:
* Nhiệm vụ chung:
“Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh
CMXHCN ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh CM dân tộc dân chủ nhân dânở miền Nam, thực
hiện thống nhất nước nhà, trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước VN hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe XHCN và bảo
vệ hòa bình ở Đông Nam Á và TG”.
* Nhiệm vụ của mỗi miền:
+ CM XHCN ở miền Bắc: có nhiệm vụ xây dựng miền Bắc trở thành căn cứ địa vững mạnh,
hậu phương lớn để cung cấp sức người sức của cho tiền tuyến miền Nam đánh thắng đế quốc
Mỹ.
+ CM dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam: có nhiệm vụ đánh thắng đế quốc Mỹở miền
Nam, hoàn thành nốt công cuộc CM dân tộc dân chủ nhân dân, bảo vệ miền Bắc XHCN.
* Vị trí và vai trò của mỗi miền:
+ CM XHCN ở miền Bắc: có vai trò quyết định nhất (do có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và
bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho CM miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên
CNXH về sau) đối với công cuộc chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước.
+ CM dân tộc dân chủ nhân dânở miền Nam: có vai trò quyết định trực tiếp trong công cuộc
chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
* Mối liên hệ của CM 2 miền:
+ Mỗi miền đều có nhiệm vụ khác nhau, vai trò, vị trí khác nhau nhưng cả hai miền có mối
liên hệ mật thiết với nhau bởi vì cả hai miền đều có chung 1 mục tiêu: hòa bình, độc lập dân
tộc, thống nhất Tổ quốc, cùng đi lên xây dựng CNXH.
+ Cả 2 miền đều do 1 Đảng duy nhất lãnh đạo, 1 quân đội thống nhất tiến hành.
* Con đường thống nhất đất nước: Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, Đảng kiên
trì con đường hòa bình thống nhất theo tinh thần Hiệp nghị Giơ-ne-vơ, sẵn sàng thực hiện
hiệp thương tổng tuyển cử hòa bình thống nhất VN.
* Triển vọng của CMVN: Là cuộc đấu tranh gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài nhưng nhất
định thắng lợi, đất nước thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.
6. Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thống nhất Tổ quốc được chia làm hai giai đoạn:

I/ Giai đoạn 1954-1964

Bối cảnh lịch sử cách mạng Việt Nam sau tháng 7- 1954

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ do Đảng lãnh đạo đã giành
được thắng lợi, song sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước vẫn chưa
hoàn thành. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, song miền Nam vẫn còn dưới ách thống trị
của thực dân và tay sai. Đất nước tạm thời bị chia làm hai miền.

Ở miền Bắc, mặc dù thực dân Pháp rất ngoan cố, nhưng do tinh thần đấu tranh kiên quyết của
nhân dân ta, nên đến ngày 10-10-1954 tên lính Pháp cuối cùng đã rút khỏi Hà Nội và ngày
16-5-1955, toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp đã phải rút khỏi miền Bắc. Ngay sau khi hòa
bình lập lại, nhân dân miền Bắc khẩn trương khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến
tranh và tiến hành thực hiện các nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhằm tạo
tiền đề đưa miền Bắc từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Ở miền Nam, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào
để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.
Để thực hiện âm mưu nói trên, trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, ngày 7-7-1954, Mỹ
đã đưa Ngô Đình Diệm về Sài Gòn làm Thủ tướng Chính phủ bù nhìn thay Bửu Lộc. Ngày
17-7-1955, theo chỉ đạo của Mỹ, Diệm tuyên bố không hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất
đất nước và ngày 23-10-1955 đã tổ chức cái gọi là "trưng cầu dân ý" để phế truất Bảo Đại,
đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống.

Sau khi dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, Mỹ - Diệm đã liên tiếp mở các cuộc hành
quân càn quét để bình định miền Nam, áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, chia cắt lâu dài đất
nước ta. Thực chất, đây là một cuộc chiến tranh đơn phương đẫm máu chống lại nhân dân
miền Nam trong tay không có vũ khí. Với chính sách "tố cộng", "diệt cộng", loại cộng sản ra
ngoài vòng pháp luật để trừng trị, và với khẩu hiệu "thà giết nhầm hơn bỏ sót", chúng thẳng
tay đàn áp tất cả các lực lượng chống đối. Chỉ tính đến cuối năm 1955, hàng chục vạn cán bộ,
đảng viên và quần chúng cách mạng đã bị bắt và bị giết hại.

Đứng trước những biến đổi phức tạp nêu trên, lịch sử lại đặt cho Đảng ta một yêu cầu bức
thiết là phải vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cách mạng Việt Nam tiến lên phù
hợp với tình hình mới của đất nước và phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. Xuất
phát từ việc nhận thức sâu sắc tình hình thế giới và đặc điểm cơ bản của tình hình đất nước
sau tháng 7-1954, trải nhiều hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, chủ
trương chiến lược cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới của Đảng đã từng bước hình
thành.

- Thuận lợi: Hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa học- kỹ
thuật; miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa chung cho cả nước; thế và lực của
cách mạng đã lớn mạnh hơn sau chín năm kháng chiến.
- Khó khăn: Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng

Bối cảnh lịch sự nêu trên chính là cơ sở để Đảng ta phân tích, hoạch định đường lối kháng
chiến chung cho CM cả nước

Quá trình hình thành Đường lối kháng chiến chống Mỹ.
- Yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng ta sau tháng 7-1954 là phải vạch ra được đường lối đúng
đắn, vừa phù hợp với tình hình từng miền, tình hình đất nước, vừa phù hợp với xu thế chung
của thời đại.
- Tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách
mới của Đảng. Nghị quyết đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của tình hình trong lúc cách
mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới là: từ chiến tranh chuyển sang hoà bình; nước
nhà tạm chia làm hai miền; từ nông thôn chuyển vào thành thì; từ phân tán chuyển đến tập
trung.
- Tại Hội nghị lần thứ bảy (tháng 3-1955) và lần thứ tám (tháng 8-1955) Trung ương Đảng
nhận định: Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn
thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững
miền Nam và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
- Tháng 12-1957, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13, đường lối tiến hành đồng thời hai chiến
lược cách mạng được xác định: “Mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta
hiện nay là: Củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục đấu
tranh thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương Pháp hoà
bình”.
- Tháng 1-1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 họp bàn về cách mạng miền Nam.
Sau nhiều lần họp và thảo luận, Ban Chấp hành Trung ương đã ra nghị quyết về cách
mạng miền Nam. Trung ương Đảng nhận định: “ Hiện nay, cách mạng Việt Nam do Đảng ta
lãnh đạo bao gồm hai nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy tính chất khác
nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau… nhằm phương hướng chung là giữ vững hoà bình,
thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ
nghĩa xã hội”.
- Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là “giải phóng miền Nam khỏi ách
thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam”.
- “Con đường phát triển của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính
quyền về tay nhân dân”. Đó là con đường “lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng
chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống
trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã mở đường cho
cách mạng miền Nam tiến lên mà còn thể hiện rõ bản lĩnh độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng
ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng.
- Quá trình đề ra và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chủ trương nói trên chính là quá trình
hình thành đường lối chiến lược chung cho cách mạng cả nước, được hoàn chỉnh tại Đại hội
lần thứ III của Đảng.

Nội dung đường lối:


- Nhiệm vụ chung: “ Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững
hoà bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và
dân chủ , xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh,
thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và
thế giới”.
- Nhiệm vụ chiến lược: “Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ
chiến lược: Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống
nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước”.
- Mục tiêu chiến lược: hoà bình và thống nhất Tổ quốc.
- Mối quan hệ của cách mạng hai miền: Do cùng thực hiện một mục tiêu chung nên
“Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau”
- Vai trò, nhiệm vụ của cách mạng mỗi miền đối với cách mạng cả nước: Cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực cho cách mạng miền Nam,
chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với
sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự
nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện
hoà bình thống nhất nước nhà, hoà thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
- Con đường thống nhất đất nước: Trong tiến hành đồng thời hai chiến lược cách
mạng, Đảng kiên trì con đường hoà bình thống nhất theo tinh thành Hiệp nghị
Giơnevơ, sẵn sàng thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử hoà bình thống nhất Việt
Nam, vì đó là con đường tránh được sự hao tổn xương máy cho dân tộc ta và phù hợp
với xu hướng chung của thế giới. “Nhưng chúng ta phải luôn nâng cao cảnh giác, sẵn
sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng liều lĩnh gây
ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đứng
dậy đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc”.
- Triển vọng của cách mạng Việt Nam: Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước
nhà là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống
đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất định sẽ
thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum họp một nhà, cả nước sẽ đi lên chủ
nghĩa xã hội.

Ý nghĩa đường lối


- Đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng do Đại hội lần
thứ III của Đảng đề ra có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn.
- Đường lối đó thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng: giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, vừa phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả
nước Việt Nam và phù hợp với tình hình quốc tế, nên đã huy động và kết hợp được sức mạnh
cả nước và sức mạnh của ba dòng thác cách mạng trên thế giới, tranh thủ được sự đồng tình
giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc. Do đó, đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta
đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta trong việc giải quyết những vấn
đề không có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam, vừa phù hợp với lợi ích của
nhân loại và xu thế của thời đại.
- Là cơ sở để Đảng chỉ đạo quân dân ta phấn đấu giành được những thành tựu to lớn trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thắng lợi chống các chiến lược chiến
tranh của đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam.

II/ Giai đoạn 1965-1975


Hoàn cảnh lịch sử của nước ta luc bấy giờ:
- Mỹ tiến hành chiến tranh cục bộ với quy mô lớn, đồng thời tiến hành cuộc chiến tranh
phá hoại đối với miền Bắc .
- Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên phạm vi toàn
quốc.
Thuân lợi:
- Khi bước vào cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, cách mạng thế thới đang ở thế
tiến công.
- Ở miền Bắc, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đạt và vượt các mục tiêu về kinh tế, văn
hóa. Sự chi viện sức người sức của đến Miền Nam được đẩy mạnh cả theo đường bộ
lẫn đường thủy.
Khó khăn:
- Sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc ngày càng trở nên gay gắt và không có lợi
cho cách mạng Việt Nam.
- Tương quan lực lượng chênh lệch quá lớn.
- Quá trình hình thành, nội dung, ý nghĩa của đường lối trong giai đoạn mới:

Quá trình hình thành:


- Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 9 (11/1963) xác định quan điểm quốc tế, hướng
hoạt động đối ngoại vào việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để đánh
Mỹ và thắng Mỹ. Hội nghị tiếp tục khẳng định đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang
đi đôi. Đối với miền Bắc, trách nhiệm là căn cứ địa, hậu phương đối với cách mạng
miền Nam, đồng thời nâng cao cảnh giác, triển khai mọi mặt sẵn sàng đối phó với âm
mưu đánh phá của địch.
- Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3/1965) và lần thứ 12 (12/1965) đã tập trung đánh
gái tình hình và đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên cả nước.
Nội dung đường lối:
- Về nhận đinh tình hình và chủ trương chiến lược: “ chiến tranh cục bộ” là cuộc chiến
tranh xâm lược thực dân mới, chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược. cứu nước là
nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Bắc chí Nam.
- Quyết tâm và mục tiêu chiến lược: “ quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “ kiên
quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống
nào, để bảo vệ Miền Bắc, giải phóng Miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”.
- Phương châm chỉ đạo chiến lược: tiếp tục đẩy mạnh chống chiến tranh cục bộ, phát
động nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở Miền Bắc, thực hiện kháng chiến
lâu dài
- Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở Miền Nam: giữ vững và phát triển thế
tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến công. “ tiếp tục kiên trì phương châm
chiến tranh quân sự kết hợp vơi đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp
công”, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược.
- Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: chuyển hướng xây dựng kinh tế, đảm bảo tiếp tục
xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện chiến tranh,
tiến hành cuộc chiến tranh nhaandaan chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để
bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức người sức của chi viện
cho miền Nam, chuẩn bị phương án đề phòng trong trường hợp chúng tiến hành ra cả
nước.
- Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: trong cuộc chiến tranh
chống Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu
phương lớn
Ý nghĩa đường lối:
- Thể hiện quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, tinh thần cách mạng tiến công, độc lập tự
chủ, sự kiên trì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, phản ánh đúng
đắn ý chí, nguyện vọng chung của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.
- Thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
tiếp tục tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ 2 chiến lược cách mạng trong hoàn
cảnh cả nước có chiến tranh ở mức độ khác nhau, phù hợp với thực tế đất nước và bối
cảnh quốc tế.
- Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình
là chính được phát triển trong hoàn cảnh mới, tạo nên sức mạnh mới để dân tộc ta đủ
sức đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

7. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ.
1.Nguyên nhân thắng lợi
-Nhờ có sự lãnh đạo sang suốt tài tình của Đảng với đường lối chính trị, quân sự độc
lập, tự chủ, đúng đắn sáng tạo. Đó là đường lối tiến hành đồng thời Cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
-Nhân dân ta có truyền thống yêu nước nồng nàn. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước do Đảng ta lãnh đạo, truyền thống đó được phát huy cao độ và nhân lên gấp bội…
-Miền Bắc xã hội chủ nghĩa được bảo vệ vững chắc, được xây dựng củng cố và không
ngừng tăng lên về tiềm lực kinh tế quốc phòng, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hậu phương lớn
đối với tuyền tuyến…..
-Tình đoàn kết gắn bó giữa nhân dân ba nước Đông Dương trong cuộc đấu tranh chống
một kẻ thù chung đã tạo nên sức mạnh to lớn cho lực lượng chung của cách mạng ba nước và
cho từng nước Đông Dương.
-Sự đồng tình ủng hộ, giúp đỡ to lớn của các lực lượng cách mạng, hòa bình dân chủ
trên thế giới. Nhất là Liên Xô Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
- Trong những nguyên nhân trên thì sự lãnh đạo của Đảng với đường lối chính trị, quân
sự độc lập, tự chủ, đung đắn sáng tạo….là nguyên nhân quan trọng nhất.
Vì: Đảng lãnh đạo là nguyên nhân bao trùm, chi phối các nguyên nhân khác….Nếu
không có Đảng lãnh đạo thì sẽ không có sức mạnh tổng hợp của dân tộc, không thể kết hợp
được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Sự lãnh đạo của Đảng là một nhân tố quyết
định cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
2.Ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
2.1/Đối với dân tộc.
-Là thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc dân tộc: Kết
thúc 21 năm kháng chiến chống Mỹ và 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc từ sau cách mạng tháng Tám 1945.
-Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của
chủ nghĩa đế quốc ở nước ta hơn một thế kỹ. Trên cơ sở đó hoàn thành cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà.
-Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã mở ra một kỹ nguyên mới trong lịch sử
dân tộc-Kỹ nguyên đất nước độc lập, thống nhất , đi lên Chủ nghĩa xã hội.
2.2/Đối với thế giới:
–Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã đập tan cuộc phản kích lớn nhất của các
lực lượng phản cách mạng sau chiến tranh thế giới thứ hai.
-Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã phá vỡ phòng tuyến quan trọng ngăn
chặn chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á của đế quốc Mỹ, góp phần làm đảo lộn chiến lược
toàn cầu phản cách mạng của chúng.
-Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã tăng cường liên minh chiến đấu giữa ba
dân tộc Đông Dương, tăng cường lực lượng cách mạng thế giới, là nguồn cổ vũ động viên to
lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, các dân tộc đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc.

Đề 2022 - 2023:
Câu 1. Chứng minh rằng: đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của Đảng là
phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu khách quan của cuộc kháng chiến (1946-1954)? (5 điểm)

Câu 2. Phân tích nội dung đường lối Đổi mới toàn diện của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI (12-1986) và làm rõ nhận định: Quyết định đổi mới đất nước của Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI là bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam. (5 điểm)
(Câu 43 - Tr.125)
Đề 2021 - 2022:
Câu 1: Bằng thực tiễn lịch sử từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho đến nay, hãy chứng
minh: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam? (5 điểm)

Câu 2. Chứng minh rằng, đường lối “Kháng chiến, kiến quốc” của Đảng (25- 11-1945) đã
giải quyết kịp thời những vấn đề quan trọng về chỉ đạo chiến lược, sách lược của cách mạng
Việt Nam? Câu trả lời: câu 1 chương 2 (Câu 13 + câu 14 - Tr.32)

1. Quá trình thống nhất đất nước về mặt Nhà nước của Việt Nam sau tháng 4-1975
a) Hoàn cảnh lịch sử và lý do Đảng chủ trương thống nhất về mặt nhà nước
* Hoàn cảnh
Sau chiến thắng 1975, Tổ quốc Việt Nam được thống nhất về mặt lãnh thổ, song ở mỗi
miền vẫn tồn tại hình thức tổ chức nhà nước khác nhau. Điều này trái với nguyện vọng của
nhân dân cả nước là được sum họp trong một đại gia đình, mong muốn có một chính phủ
thống nhất, một cơ quan đại diện chung cho nhân dân cả nước.
Thống nhất đất nước là quy luật phát triển khách quan của lịch sử dân tộc Việt Nam. Từ
xưa đến nay, tất cả các thế lực muốn chia cắt nước ta đều bị lịch sử chôn vùi. Bác đã từng
nói: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn
nhưng chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, tổ quốc Việt
Nam được thống nhất về mặt lãnh thổ. Song, ở mỗi miền vẫn tồn tại hình thức tổ chức nhà
nước khác nhau:
+ Ở miền Bắc, là chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, có Quốc hội và Hội đồng Nhân
dân các cấp.
+ Ở miền Nam, là chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền nam VN và hội đồng cố
vấn chính phủ Uỷ ban Nhân dân cách mạng là chính quyền các cấp.
Thực tế này trái với nguyện vọng, tình cảm thiêng liêng của nhân dân 2 miền Nam – Bắc
là sớm được sum họp chung 1 đại gia đình, mong muốn có một chính phủ thống nhất, một cơ
quan đại diện quyền lực chung cho nhân dân cả nước. Đây thực chất chính là nhiệm vụ cấp
thiết và quan tọng nhất lúc bấy giờ.
Ngoài ra, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc, nhân dân ta đã hoàn thành cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Đưa cách mạng chuyển sang giai đoạn
mới, đây là điều kiện có tính quy luật để nhân dân ta thống nhất đất nước về mặt nhà nước và
đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
* Lí do
Thứ nhất, Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung sẽ thiết lập nên bộ máy chính quyền nhà
nước Việt Nam thống nhất - công cụ sắc bén để quản lí nhà nước và điều hành xã hội.
+ Thông qua cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước, nhân dân hai Miền sẽ
bầu ra Quốc hội nước Việt Nam thống nhất. Quốc hội mới sẽ tiến hành họp để xác định thể
chế Nhà nước Việt Nam, quyết định tên nước, quốc huy, quốc kì, quốc ca và Thủ đô; bầu ra
các cơ quan lãnh đạo Nhà nước để thực hiện việc quản lí kinh tế, quản lí xã hội, quản lí mọi
hoạt động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thi hành chính sách đối nội và đối ngoại của Nhà
nước,...
+ Bên cạnh đó, với chức năng lập pháp và giám sát, Quốc hội mới sẽ xây dựng Hiến pháp
của nước Việt Nam thống nhất, thông qua Luật tổ chức Nhà nước và các bộ luật cần thiết
khác để xây dựng và phát triển đất nước thống nhất. Đồng thời, Quốc hội mới sẽ thay mặt
nhân dân giám sát và thẩm tra việc thực hiện pháp luật, giám sát việc thực hiện kế hoạch Nhà
nước... với quyền giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.
Thứ hai, Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung trong cả nước là biện pháp dân chủ quan
trọng để phát huy quyền làm chủ đất nước của nhân dân.
+ Thông qua cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước, nhân dân Việt Nam sẽ
phát huy quyền làm chủ của mình qua lá phiếu cử tri bầu Quốc hội mới của một nước Việt
Nam thống nhất. Lá phiếu đó sẽ được thực hiện trên những nguyên tắc bầu cử dân chủ: phổ
thông, bình đẳng trực tiếp và bỏ phiếu kín bầu ra Quốc hội nước Việt Nam thống nhất - cơ
quan Nhà nước quyền lực cao nhất, đại diện cho quyền, lợi ích của nhân dân, thực hiện duy
trì và điều hành quyền lực của bộ máy cơ quan Nhà nước.
+ Việc bầu ra Quốc hội mới của một đất nước thống nhất phải do nhân dân cả nước tiến
hành, tự giác, tự nguyện tham gia và theo thể lệ bầu cử do chính quyền Nhà nước ở hai Miền
thống nhất, quy định. Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước cũng là dịp để nhân
dân hai Miền, nhất là Miền Nam sau nhiều năm sống dưới chế độ thực dân kiểu mới thấy
được ý nghĩa và tác dụng to lớn của việc bầu cử dân chủ và phát huy trọn vẹn quyền làm chủ
của mình.
Thứ ba, Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước là dịp để Đảng Lao động Việt
Nam và chính quyền nhà nước ở hai Miền củng cố quan điểm thống nhất nước nhà trên cơ sở
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; giáo dục và nâng cao tinh thần làm chủ tập thể của toàn
dân; giáo dục sâu rộng ý thức tôn trọng quyền làm chủ thật sự của nhân dân; gây không khí
phấn khởi và tin tưởng trong nhân dân; đẩy mạnh phong trào thi đua lao động, sản xuất, ra
sức xây dựng lại nước nhà, ổn định đời sống, phục hồi và phát triển kinh tế, phát triển văn
hoá, làm cho cả nước trở thành một nước xã hội chủ nghĩa (2).
Thứ tư, Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước còn là một cuộc biểu dương lực
lượng đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc, đấu tranh của những người yêu nước và yêu
chủ nghĩa xã hội. Đó là cuộc biểu dương lực lượng chính trị quan trọng của toàn dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nhằm xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã
hội chủ nghĩa.
b) Chỉ đạo của Đảng về quá trình thống nhất đất nước về mặt nhà nước
Từ 15 đến 21/11/1975, Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất đất nước được tổ chức
tại Sài Gòn, 2 đoàn đại biểu đại diện cho 2 miền Bắc – Nam nhất trí hoàn toàn các vấn đề về
chủ trương, biện pháp nhằm thống nhất đất nước về mặt nhà nước.
Ngày 25/4/1976, Cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung được tiến hành trong cả nước.
Hơn 23 triệu cử tri, chiếm 98,8% tổng số cử tri đi bỏ phiếu và bầu ra 492 đại biểu. Kết quả
Cuộc tổng tuyển cử đánh dấu bước thắng lợi quyết định của nhân dân ta trên con đường
thống nhất nước nhà về mặt nhà nước. Ta đã bầu được Quốc hội chung để đại diện quyền lợi
của nhân dân Việt Nam.
Từ ngày 24/6 đến ngày 3/7/1976, Quốc hội khóa VI nước Việt Nam thống nhất họp kì
đầu tiên tại Hà Nội thông qua chính sách đối nội và đối ngoại của nước Việt Nam thống nhất
bao gồm:
+ Lấy tên nước: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; thủ đô là Hà Nội; Quốc huy mang
dòng chữ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng; Quốc ca là bài
Tiến quân ca.
+ Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam thống nhất.
+ Thành phố Sài Gòn - Gia Định đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Tiến hành bầu các cơ quan, chức vụ lãnh đạo cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam gồm Tôn Đức Thắng giữ chức Chủ tịch nước, Nguyễn Hữu Thọ và Nguyễn
Lương Bằng giữ chức Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng là Phạm Văn Đồng, Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội do Trường Chinh làm Chủ tịch, ở địa phương Quốc hội quy định tổ chức thành 3
cấp chính quyền (cấp Tỉnh/cấp TP trực thuộc TW, cấp Huyện và cấp tương đương, cấp Xã và
cấp tương đương), ở mỗi cấp chính quyền đều có Hội đồng Nhân dân và Uỷ ban Nhân dân
bầu theo nguyên tắc bỏ phiếu kín, Quốc hội bầu Uỷ ban dự thảo Hiến pháp. Ngày
18/12/1980, Hiến pháp nước Cộng hoà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Namchính thức được
thông qua – đây là Hiến pháp đầu tiền của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong cả nước.
c) Kết quả
Dấu mốc cho một thời kì hòa bình và kết thúc chiến tranh: Quá trình thống nhất nhà
nước đã đánh dấu sự kết thúc của chiến tranh Việt Nam, đồng thời mang lại hòa bình cho cả
đất nước sau nhiều năm xung đột, chiến tranh giành lại độc lập từ các nước đế quốc và thực
dân.
Chính thức chuyển đổi thể chế chính trị nhà nước với toàn vẹn độc lập chủ quyền lãnh
thổ đất nước: Việc thống nhất dẫn đến sự chuyển đổi chính trị, khi cả nước trở thành Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, hoàn toàn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tạo và thúc đẩy môi trường tiềm năng để phát triển kinh tế đất nước: Việc thống nhất
nhà nước đã mở ra một giai đoạn mới trong phát triển kinh tế. Nhiều chính sách và biện pháp
đã được triển khai để phục hồi và phát triển kinh tế sau những hậu quả của chiến tranh.
Ổn định an ninh và tình hình trong nước: Thống nhất nhà nước giúp tăng cường an ninh
nội bộ và ổn định quốc gia, giảm bớt rủi ro từ các yếu tố như kẻ thù bên ngoài có mưu đồ hay
những kế hoạch gây rối từ thế lực thù địch trong nước.
d) Ý nghĩa
Với kết quả của kỳ họp thứ nhất Quốc Hội khóa VI, công việc thống nhất đất nước về mặt
nhà nước đã được hoàn thành. Từ đây, chúng ta có cơ sở để hoàn thành thống nhất trên các
lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, xã hội. Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt
nhà nước đã tạo nên những điều kiện chính trị cơ bản để phát huy sức mạnh toàn diện của đất
nước, tạo điều kiện thuận lợi để cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, tạo ra những khả
năng to lớn trong việc bảo vệ tổ quốc, mởrộng quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các nước trên
thế giới, nâng cao vị thế của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trên trường quốc tế.
Có ý nghĩa rất lớn về mặt ngoại giao: Cùng với quá trình thống nhất đất nước về mặt nhà
nước, nước ta cũng đạt nhiều thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại. Ngày 2/7/2976, khi nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố thành lập thì đã có 94 nước đặt quan hệ ngoại
giao. Ngày 20/09/1977, nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trở thành thành viên thứ
149 của Liên hợp quốc. Từ đây, ta có tiếng nói trên trường quốc tế, tham gia vào những công
việc chung của thế giới
2. Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam được xác định ở thời kỳ trước Đổi mới (được
xác định tại Đại hội IV, V)
* Đường lối được xác định trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng
(12/1976)
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, cách mạng Việt Nam
chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất, thực hiện chiến lược cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Trước những yêu cầu mới của cách mạng, Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IV của Đảng đã được triệu tập. Đại hội họp trù bị từ ngày 29-11 đến ngày 10-12-
1976. Từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976, Đại hội họp công khai tại Thủ đô Hà Nội. 1.008 đại
biểu thay mặt hơn 1.550.000 đảng viên của 38 đảng bộ tỉnh, thành và cơ quan trực thuộc
trung ương trong cả nước đã về dự Đại hội. Trong số đại biểu đó có 214 đại biểu vào Đảng
trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, 200 đại biểu đã từng bị đế quốc giam cầm, 39 đại
biểu là anh hùng các lực lượng vũ trang và anh hùng lao động, 142 đại biểu là nữ, 98 đại biểu
thuộc dân tộc thiểu số... Đến dự Đại hội có 29 đoàn đại biểu của các Đảng Cộng sản và công
nhân, của phong trào giải phóng dân tộc và các tổ chức quốc tế.
* Đường lối chung cách mạng xã hội chủ nghĩa
Thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu kế
hoạch 5 năm (1976 - 1980), Báo cáo tổng kết xây dựng Đảng; quyết định đổi tên Đảng Lao
động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam và sửa đổi Điều lệ Đảng, bầu Ban Chấp hành
Trung ương gồm 101 ủy viên chính thức, 32 ủy viên dự khuyết, bầu đồng chí Lê Duẩn làm
Tổng Bí thư của Đảng.
Báo cáo chính trị nêu rõ trong hơn 16 năm qua, nhân dân Việt Nam đã phải đương
đầu với cuộc chiến tranh xâm lược lớn nhất và ác liệt nhất của đế quốc Mỹ để giải phóng
miền Nam, bảo vệ miền Bắc, đã chiến đấu anh dũng và thắng lợi vẻ vang. Thắng lợi của
Nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như
một trong những trang chói lọi nhất và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của
thế kỷ XX.
Phân tích tình hình mọi mặt của đất nước và thế giới, báo cáo đã nêu lên ba đặc điểm
lớn:
Một là, nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là
sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Hai là, cả nước hòa bình, độc lập và thống nhất đang tiến lên chủ nghĩa xã hội với
nhiều thuận lợi, song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và các tàn dư của
chủ nghĩa thực dân mới gây ra.
Ba là, hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa cách mạng
và phản cách mạng còn rất gay go và phức tạp.
Những đặc điểm đó tác động mạnh mẽ đến quá trình biến đổi cách mạng ở nước ta. Vì
vậy, bản báo cáo đã xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
“Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động; tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng
khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật
là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng
nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới xã
hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng
đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã
hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ
nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”.
Nhìn chung, đường lối thể hiện nhận thức mới của Đảng về chủ nghĩa xã hội ở nước
ta gồm 4 đặc trưng cơ bản: xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nền sản xuất
lớn, nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa; coi chuyên chính vô sản, phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân là động là công cụ để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
* Đường lối xây dựng kinh tế trong thời kỳ quá độ
Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
một cách hợp lí dựa trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, xây dựng cơ cấu
kinh tế công-nông nghiệp; kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế với các nước xã hội chủ
nghĩa anh em đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác.
Phát triển kinh tế kết hợp với phát triển văn hóa (1976-1980) gồm 2 mục tiêu cơ bản
và cấp bách là đảm bảo nhu cầu của đời sống nhân dân, tích lũy để xây dựng cơ sở vật chất-
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hóa, xây dựng và phát
triển nền văn hóa mới; tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò của các đoàn
thể; coi trọng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự xã hội; coi trọng
nhiệm vụ quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng, củng cố quan hệ đặc biệt với Lào và
Campuchia, đẩy mạnh hợp tác với Liên Xô; nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng.
- Tác động
Các tỉnh phía Nam đã cơ bản việc xóa bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của đế quốc,
phong kiến. Ở miền Bắc, bước đầu có sự cải tiền đưa nông nghiệp từng bước lên sản xuất lớn
với các đội chuyển, làm khoán.
Tuy nhiên, kết quả nhìn chung đã không đạt chỉ tiêu do Đại hội IV đề ra: lưu thông
phân phối rồi ren. giá cả tăng vọt, nhập khẩu tăng gấp 4-5 lần xuất khẩu. Đời sống của nhân
dân, cán bộ công nhân viên, lực lượng vũ trang rất khó khăn. Từ cuối năm 1979, ở một số địa
phương miền Bắc đã xuất hiện hiện tượng “xé rào", "khoán chui". Ở miền Nam, việc thí điểm
hợp tác xã diễn ra phức tạp, lúng túng…
* Đường lối được xác định trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng
(3/1982)
- Bối cảnh hiện tại
Tại Việt Nam, từ năm 1975 đến năm 1981, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân dân cả
nước đã giành được những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, sau 5 năm, bên cạnh những thành tựu, đất nước ta đã gặp nhiều khó
khăn, cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội xuất hiện.
Bên cạnh đó, tình hình quốc tế cũng đang rơi vào tình thế phức tạp: Chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực phản động ra sức tuyên truyền xuyên tạc quân tình nguyện Việt Nam làm
nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia, gây sức ép với Việt Nam, chia rẽ ba nước Đông Dương.
- Nội dung đại hội
Từ ngày 27 đến ngày 31/3/1982, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V họp tại thủ đô
Hà Nội. Tham dự Đại hội có 1.033 đại biểu thay mặt cho hơn 1,7 triệu đảng viên cả nước, có
47 đoàn đại biểu của các đảng và tổ chức quốc tế. Nội dung cơ bản của đại hội bao gồm:
Kiểm điểm các hoạt động của Đảng từ Đại hội IV, đánh giá những thành tựu và
khuyết điểm, phân tích thực trạng kinh tế - xã hội nước ta và những nguyên nhân dẫn đến
thực trạng đó.
Nêu ra hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới: Xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam XHCN. Hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ mật thiết với nhau.
Thảo luận và thông qua các báo cáo quan trọng: Báo cáo Chính trị; Báo cáo về
phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu về kinh tế xã hội trong 5 năm 1981- 1985;
Báo cáo về công tác xây dựng Đảng kế hoạch 5 năm lần thứ 3 (1981 - 1985):
Nhiệm vụ của kế hoạch là giải quyết cho được 3 vấn đề: phát triển thêm một bước,
sắp xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân.
Mục tiêu: Đáp ứng nhu cầu bức thiết của đời sống nhân dân làm giảm sự mất cân đối
của nền kinh tế; khắc phục vấn đề phân phối lưu thông tạo thêm tiền đề và điều kiện phát
triển hơn trong những năm tiếp theo.
Nhìn chung, Đại hội khẳng định nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá
độ lên CNXH. Đó là thời kì khó khăn, phức tạp, lâu dài, phải trải qua nhiều chặng
đường. Nhiệm vụ của chặng đường trước mắt là ổn định và cải thiện đời sống nhân dân; tiếp
tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu
dùng và xuất khẩu; đáp ứng nhu cầu của quốc phòng, giữ vững an ninh, trật tự xã hội.
- Xác định con đường đi lên CNXH tại đại hội
Về mặt chính trị: Tiếp tục nâng cao tính giai cấp công nhân, tính tiên phong của
Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho Đảng luôn giữ
vững bản chất cách mạng và khoa học, một đảng thực sự trong sạch, có sức chiến đấu cao,
gắn bó chặt chẽ với quần chúng.
Về mặt kinh tế: Chặng đường đầu từ 1980 đến 1990, có nhiệm vụ ổn định tình hình
kinh tế - xã hội. Tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu,
đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng
tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng. Kết hợp nông
nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong cơ cấu công-nông nghiệp hợp

Về mặt văn hóa - xã hội: thông qua những nhiệm vụ kinh tế, văn hóa và xã hội, tăng
cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chính sách đối ngoại.
- Tác động
Qua thực tiễn, Đại hội V đã có những bước phát triển nhận thức mới, đã có những
bước tiến mới về đổi mới tư duy trong việc tìm tòi con đường quá độ lên CNXH: Cụ thể hoá
đường lối chung của thời kỳ quá độ thành những chặng đường với những nhiệm vụ và biện
pháp cụ thể, sát hợp với yêu cầu và khả năng cho phép của từng chặng đường.
Sau Đại hội V, Trung ương Đảng có nhiều Hội nghị cụ thể hoá, thực hiện Nghị Quyết
Đại hội và đạt được các bước đột phá mới trên con đường xây dựng CNXH.
3. Khái quát về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam Tổ quốc. Tìm hiểu
cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc tổ quốc năm 1979.
a) Khái quát cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam Tổ quốc
*Bối cảnh lịch sử
Sau 30 năm chiến đấu liên tục để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, nguyện vọng thiết
tha của nhân dân Việt Nam là hòa bình, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ để xây dựng đất nước.
Song, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã cấu kết với nhau ra sức chống phá, buộc
Việt Nam phải tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc
của Tổ quốc.
*Diễn biến
Từ tháng 4/1975, tập đoàn Pôn Pốt đã thi hành chính sách diệt chủng ở Campuchia và
tăng cường chống Việt Nam.
Cuộc chiến có thể chia làm 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Từ giữa năm 1975 đến cuối năm 1978: Ngày 3/5/1975, chúng cho quân
đổ bộ chiếm các đảo Thổ Chu, Phú Quốc, sau đó tiến hành hàng ngàn vụ tấn công lấn chiếm
đất đai, giết hại nhân dân Việt Nam trên toàn tuyến biên giới Tây Nam. Phía Việt Nam chỉ tổ
chức phòng ngự và cố đàm phán tìm giải pháp hòa bình, nhưng Khmer Đỏ bác bỏ.
Giai đoạn 2: Từ tháng 12/1978 đến tháng 5/1979: Khmer Đỏ tổ chức cuộc tấn công
lớn nhất vào lãnh thổ Việt Nam với 19 sư đoàn nhưng bị phía Việt Nam bẻ gãy. Sau cuộc tấn
công, theo yêu cầu của mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, Việt Nam phối hợp
và giúp đỡ Campuchia tổng tiến công, đến ngày 7/1/1979 giải phóng Phnôm Pênh, đánh đổ
Khmer Đỏ và lập nên chế độ mới do Hun Sen đứng đầu. Ngày 18/2/1979, Việt Nam và
Campuchia kí Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác. Theo Hiệp ước, quân đội Việt Nam có
mặt ở Campuchia để giúp bạn bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và hồi sinh đất
nước. Hành động đó của Việt Nam là chính nghĩa và xuất phát từ nhu cầu tự vệ chính đáng
được ghi nhận trong Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc và được Campuchia và thế giới ghi
nhận.
Giai đoạn 3: Từ giữa năm 1979 đến cuối năm 1985: Tàn quân Khmer Đỏ chạy sang
ẩn náu bên kia biên giới Thái Lan. Khmer Đỏ với sự trợ giúp về lương thực, vũ khí của Thái
Lan, Trung Quốc và Hoa Kỳ đã tổ chức đánh du kích và đe dọa sự tồn tại của chế độ Hun
Sen. Năm 1982, Việt Nam rút bớt quân khỏi Campuchia, ngay sau đó Khmer Đỏ hoạt động
mạnh trở lại và chiếm một số khu vực. Nhận thấy quân đội Hun Sen còn rất yếu ớt nên không
thể tự chống cự được, Việt Nam buộc phải tiếp tục đóng quân tại Campuchia để bảo vệ chế
độ Hun Sen và truy quét Khmer Đỏ. Mùa khô 1984 - 1985, cuộc tấn công quyết định của Việt
Nam đã phá hủy các căn cứ chính của Khmer Đỏ, khiến Khmer Đỏ suy yếu đi nhiều và
không còn đủ sức đe dọa chế độ mới của Hun Sen.
Giai đoạn 4: Từ 1986 tới 1989: Sau chiến dịch mùa khô năm 1985, nhận thấy chế độ
Hun Sen đã tự đứng vững được, từ năm 1986, Việt Nam rút dần quân khỏi Campuchia và đến
năm 1989 thì rút hết. Nhân việc Việt Nam rút quân, các lực lượng tàn quân của Khmer Đỏ
định tái hoạt động, nhưng bị quân đội Hun Sen đánh bại. Khmer Đỏ dần tan rã, các lãnh đạo
bị bắt và bị đưa ra xét xử ở tòa án quốc tế.

*Kết quả và ý nghĩa


Quân đội Nhân dân Việt Nam cơ bản hoàn thành các nỗ lực bình định vào năm 1986.
Đây là cuộc đấu tranh chính nghĩa, cuộc đấu tranh tự vệ chính đáng của quân và dân Việt
Nam. Quân tình nguyện Việt Nam đã giúp nhân dân xứ sở Chùa Tháp trước bờ vực diệt
vong. Đồng thời, Việt Nam đã góp phần giữ vững hòa bình, ổn định cho khu vực và thế giới.
Chiến tranh đã qua, nổi đau và những tổn thất mất mát từ cuộc chiến ấy sẽ mãi mãi gợi nhớ
cho chính phủ và nhân dân hai nước luôn luôn trân trọng và gìn giữ nền hòa bình, độc lập, tự
do và tình hữu nghị vô cùng quý báu mà cả hai dân tộc Việt Nam - Campuchia đã gắn sức
xây dựng và vun đắp mãi xanh tươi, đời đời bền vững.

b) Tìm hiểu về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc Tổ quốc năm 1979.
* Bối cảnh lịch sử, nguyên nhân chiến tranh
Bối cảnh quốc tế lúc này đang có những diễn biến rất phức tạp khi mâu thuẫn Liên
Xô-Trung Quốc gia tăng căng thẳng; quan hệ Trung Quốc-Mỹ tiếp tục có sự cải thiện và cả
hai đều coi Liên Xô là “kẻ thù số 1.”
Trung Quốc là nước láng giềng của Việt Nam. Trong quá trình đấu tranh cách mạng,
nhân dân hai nước gắn bó mật thiết, đoàn kết giúp đỡ nhau. Nhưng sau khi cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam thắng lợi (1975), quan hệ hai nước dần xấu đi.
Điều này bắt nguồn từ việc Trung Quốc không chấp nhận việc Việt Nam đã thực hiện sự
thống nhất đất nước, ý đồ lôi kéo Việt Nam trở thành đồng minh không thành công.
* Diễn biến
Từ tháng 8-1978, Trung Quốc điều động lực lượng từ phía sau ra biên giới Trung -
Việt gồm 32 sư đoàn bộ binh (9 quân đoàn và 5 sư đoàn độc lập), cùng 550 xe tăng, xe bọc
thép, 2.258 pháo các loại, trong đó có 1.092 pháo xe kéo, 676 máy bay. Trên biển, hàng chục
tàu chiến của Hạm đội Nam Hải áp sát hỗ trợ. Ngoài ra, Trung Quốc còn bố trí nhiều trận địa
pháo, trạm ra đa, trang bị vũ khí cho dân binh ở vùng biên giới, tổ chức diễn tập chuẩn bị cho
cuộc tiến công.
Vào lúc 5 giờ sáng ngày 17-2-1979, hàng chục vạn quân Trung Quốc đồng loạt vượt
biên giới Trung Quốc - Việt Nam, tiến công nhiều mục tiêu trên toàn tuyến biên giới nhằm
nhanh chóng đánh chiếm một số thị xã, đường tiếp tế của Việt Nam từ phía sau lên. Hướng
tiến công chủ yếu là Lạng Sơn, Cao Bằng, hướng quan trọng là Lào Cai, hướng phối hợp là
Phong Thổ, Lai Châu, hướng nghi binh để thu hút lực lượng của Việt Nam là Hà Tuyên và
Quảng Ninh.
Cách đánh chủ yếu của Trung Quốc là sử dụng lực lượng áp đảo bất ngờ tiến công
đồng loạt, tập trung vào hướng chính diện kết hợp với vu hồi, thọc sâu, bao vây, chia cắt lực
lượng ta, đặc biệt là sử dụng pháo binh gây sát thương lớn cho bộ đội và dân thường Việt
Nam.
Trước hành động tấn công ồ ạt của quân Trung Quốc, giết hại nhiều dân thường, tàn
phá nhiều công trình kinh tế, văn hóa, giáo dục của các tỉnh dọc biên giới, ngày 4-3, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi quân dân cả nước: phát huy khí thế cách mạng,
hăng hái thi đua lao động sản xuất với kỷ luật chặt chẽ và năng suất cao… quyết tâm giữ
vững biên cương của Tổ quốc.
Ngày 5-3, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng công bố Lệnh Tổng động viên cả nước để
bảo vệ Tổ quốc. Cùng ngày 5-3, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định 83-CP quy định mọi công
dân nam từ 18 đến 45 tuổi, nữ từ 18 đến 35 tuổi có đủ điều kiện ra nhập dân quân du kích, tự
vệ, thực hiện chế độ làm việc và luyện tập quân sự đáp ứng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới.
Ngày 5-3, Trung Quốc tuyên bố rút quân. Trung ương Đảng, Chính phủ Việt Nam chỉ thị cho
các lực lượng vũ trang và nhân dân vùng biên giới ngừng mọi hoạt động tiến công quân sự để
Trung Quốc rút quân. Ngày18-3, Trung Quốc rút hết quân khỏi Việt Nam sau khi giết hại
nhiều dân thường, phá hoại, tàn phá nhiều địa phương, hạ tầng cơ sở kinh tế, văn hóa của
Việt Nam. Tuy nhiên ở một số nơi trên tuyến biên giới, nhất là Hà Giang, cuộc chiến đấu bảo
vệ biên cương của Tổ quốc còn kéo dài 10 năm sau đó.
* Kết quả
Để giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh, nhân dân Việt Nam cũng chịu những tổn
thất nặng nề: hơn 30.000 cán bộ, chiến sĩ thương vong; hàng chục ngàn dân thường bị thiệt
mạng. Các thị xã Cao Bằng, Lạng Sơn, Cam Đường, Lào Cai gần như bị hủy diệt hoàn toàn;
tổng cộng có 320 xã, 735 trường học, 41 nông trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 38 lâm
trường bị tàn phá; 400.000 gia súc bị giết, bị cướp. Khoảng 50% trong tổng số 3,5 triệu người
ở sáu tỉnh biên giới bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh sống.
Cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 đã để lại một dấu ấn đau đớn trong lịch sử Việt
Nam và Trung Quốc. Bên cạnh sự mất mát về người và tài sản, chiến tranh còn gây ra nhiều
tác động phức tạp và kéo dài trong nhiều năm sau đó.
* Bài học lịch sử
Một là, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc tình hình, dự đoán chính
xác âm mưu và hành động của các bên liên quan, nhất là động thái các nước lớn, trên cơ sở
đó có sự chuẩn bị toàn diện, không để bị động bất ngờ trong mọi tình huống.
Hai là, giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, tự cường, kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính
trị, quân sự với đấu ngoại giao để vừa phát huy sức mạnh tổng hợp trong nước, vừa nêu cao
tính chính nghĩa của cách mạng nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ quốc tế, không để các
thế lực thù địch xuyên tạc hòng tìm cách cô lập.
Ba là, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, trên cơ sở đó phát huy sức mạnh chiến
tranh nhân dân địa phương, đặc biệt là sức mạnh của lực lượng vũ trang tại chỗ (bộ đội chủ
lực quân khu, bộ đội địa phương tỉnh, huyện, dân quân du kích) kết hợp với sức mạnh hậu
phương cả nước tạo thành những “trường thành thép” sẵn sàng đánh trả có hiệu quả mọi cuộc
tiến công từ bên ngoài ngay thời gian đầu.
Bốn là, vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự truyền thống Việt Nam “lấy nhỏ thắng
lớn, lấy ít địch nhiều” với nghệ thuật quân sự hiện đại (phương thức tác chiến chính quy),
đồng thời biết khai thác, phát huy tư tưởng nhân văn “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí
nhân thay cường bạo” của cha ông thuở trước kết hợp với chủ nghĩa anh hùng cách mạng
Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
4. Đại hội VI (12-1986) (Tại sao Việt Nam phải tiến hành đổi mới? Nội dung cơ bản
của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng).
* Nguyên nhân Việt Nam phải tiến hành đổi mới(hoàn cảnh lịch sử đặt ra yêu cầu phải
đổi mới)
Thế giới:
Xu thế thời đại: Ở các nước XHCN, kể cả Liên Xô và Trung Quốc, do việc xây dựng
CNXH theo mô hình và phương pháp kiểu cũ có những mặt không còn phù hợp với điều kiện
lịch sử mới, đã bộc lộ không ít điểm yếu. Nhiều nước XHCN đã lâm vào khủng hoảng kinh tế
- xã hội, phải đi vào cải tổ, cải cách với các hình thức và mức độ khác nhau, song có nước
thành công, có nước thất bại.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ lần thứ 3 tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tác
động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc.
Các nước đế quốc, đứng đầu là Mỹ đang tập trung tìm cách chống phá hệ thống
XHCN và nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Việt Nam:
Sau khi thống nhất đất nước, Đảng đã thực hiện đưa ra chủ trương và biện pháp nhằm
khắc phục tình trạng đất nước sau chiến tranh. Sau 2 kế hoạch 5 năm xây dựng và phát triển
kinh tế theo mô hình cũ, nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng. Quan hệ sản
xuất chưa phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Kinh tế tăng trưởng thấp, nếu tính chung từ 1976 đến 1985, tổng sản phẩm xã hội tăng
50,5%, bình quân mỗi năm tăng 4,6%, thu nhập quốc dân tăng 3,7%/năm. Sản xuất trong
nước không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, toàn bộ quỹ tích lũy và một phần
tiêu dùng phải dựa vào nguồn nước ngoài. Hằng 5 nhà nước không những phải nhập các mặt
hàng quan trọng cho sản xuất mà còn phải nhập hàng tiêu dùng, kể cả những loại hàng hóa
lấy gia sản xuất trong nước có thể đáp ứng được như gạo và vải mặc. Từ 1976 - 1980 nhà
nước đã nhập 60 triệu mét vải các loại và gần 1,5 triệu tấn lương thực quy thóc.
Lạm phát diễn ra ở mức trầm trọng, chính phủ đã có nhiều biện pháp kiềm chế tốc độ
lạm phát nhưng không có hiệu quả. Năm 1985, cải cách giá, lương tiền không thành công đã
làm cho tốc độ lạm phát tăng vọt. Lạm phát trở thành siêu lạm phát mà đỉnh cao của nó là
năm 1986 với tốc độ tăng giá trong 5 lên tới 774,4%.
Tiêu cực trong xã hội phát triển, công bằng xã hội bị vi phạm; quần chúng giảm lòng
tin đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước. Nhìn tổng quát, nước ta chưa
thực hiện được mục tiêu ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
Trong hoàn cảnh như thế, đổi mới là mệnh lệnh của cuộc sống, là vấn đề sống còn.
* Nội dung cơ bản của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng tháng 12 năm
1986.
- Tổng quan về đại hội VI:
+ Thời gian diễn ra: ngày 15 đến ngày 18 tháng 12 năm 1986.
+ Địa điểm: Thủ đô Hà Nội.
+ Đại biểu tham dự: 1129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu Đảng viên trong toàn Đảng.
Đến dự Đại hội có 32 đoàn đại biểu quốc tế.
+ Tổng bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Nguyễn Văn Linh.
+ Ban Chấp hành Trung ương được bầu tại Đại hội: 124 uỷ viên.
+ Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 13 uỷ viên.
+ Nhiệm vụ chính: Thực hiện đổi mới đất nước (khởi xướng đưa đất nước
tiến hành công cuộc đổi mới).
- Nội dung chủ yếu của báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI(12/1986).
Nội dung cơ bản của Đại hội là đánh giá đúng thực trạng tình hình hiện nay của cách
mạng Việt nam trên tất cả các mặt thành tựu, tồn tại yếu kém, sai lầm, khuyết điểm và các
nguyên nhân sâu xa của nó. Từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm và hoạch định đường lối
đổi mới công tác của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học. Đại hội đã tích cực chuẩn
bị từ 1984 qua nhiều cấp nhiều vòng. Nội dung Đại hội có những vấn đề sau:
a, Đánh giá tình hình:
Trong việc đánh giá tình hình 10 năm xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước, một
luận điểm quan trọng đã được nêu lên từ Đại hội: “Phải nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng
sự thật, nói rõ sự thật” - sự thật về thành tựu cũng như về khủng hoảng, tổn thất, sự thật về ưu
điểm cũng như về khuyết tật và sai lầm. Tuy nhiên, việc tổng kết không phải để cân đối 2 mặt
như ta vẫn thường làm trước kia. Sự thật của 10 năm cả nước đi vào thời kỳ quá độ với sự sa
sút khủng hoảng về kinh tế bắt buộc chúng ta phải thay đổi cách nghĩ, cách nhìn cho phù hợp
với thực trạng đất nước.
Vì vậy, Đại hội nhấn mạnh phải thấy cho hết mặt trái của tình hình thấy được hết
khuyết điểm, sai lầm trước hết là sai lầm trong sự lãnh đạo của đảng, tìm ra những nguyên
nhân trước hết là nguyên nhân chủ quan để rút ra bài học kinh nghiệm bổ ích: phải dám thừa
nhận và thay đổi những quyết định sai lầm.
Theo tinh thần đó, Đại hội thừa nhận Đảng ta đã có “những sai lầm nghiêm trọng và
kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”.
“Những sai lầm và khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết
điểm hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi
nguyên nhân”.
b, Về nguyên nhân của những sai lầm:
Về tư tưởng có 2 loại tư tưởng đã đưa đến những sai lầm:
Một là, chủ quan duy ý chí trong việc xác định đường lối, mục tiêu kinh tế - xã hội,
về bước đi trong cải tạo XHCN, về xây dựng cơ sở vật chất, về bố trí cơ cấu đầu tư, lối suy
nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan mà không đánh giá
đúng tình hình, đánh giá đúng những thuận lợi và khó khăn khi mở rộng Cách mạng XHCN
trên phạm vi cả nước, mới ở chặng đường đầu đã muốn thực hiện nhiều mục tiêu cao của
CNXH, trong chỉ đạo có khuynh hướng thả nổi, buông trôi, trong thực hiện lại không nghiêm
chỉnh chấp hành đường lối và nguyên tắc của Đảng.
Hai là, giáo điều rập khuôn, bảo thủ trì trệ trong nhận thức về CNXH, trong việc áp
dụng mô hình CNXH, lạc hậu về nhận thức lý luận, nhận thức các quy luật đang hoạt động
trong thời kỳ quá độ, các quy luật của cách mạng nước ta. Chưa chú ý đầy đủ việc tổng kết
kinh nghiệm của thực tiễn nước ta, học tập kinh nghiệm các nước anh em một cách máy móc.
Khi tình hình sa sút, khủng hoảng kinh tế xã hội đã diễn ra, lại không kiên quyết trong việc
đổi mới cơ chế quản lý, chậm trễ trong việc ban hành các chủ trương, chính sách mới hoặc có
những tìm tòi thử nghiệm mới không đúng với CNXH, sợ xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin, sợ
chểnh sang con đường TBCN.
Hai loại tư tưởng đó cùng tồn tại trong thực tế. Như báo cáo chính trị đã chỉ rõ “đó là
tư tưởng tiểu tư sản, vừa tả khuynh vừa hữu khuynh”.
Về tổ chức đã để cho bộ máy của Đảng và nhà nước và của đoàn thể quần chúng
phình to, chức năng nhiệm vụ phân tán, chồng chéo, cách làm việc quan liêu ngày càng phổ
biến, làm cho bộ máy hoạt động kém hiệu quả, kém hiệu lực.
Về cán bộ, đã kéo dài tình trạng trì trệ trong công tác cán bộ, từ việc quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng, đánh giá lựa chọn, bố trí quản lý, quản lý thay đổi đều mang nặng những
quan niệm cũ kỹ, lạc hậu, không đáp ứng nhu cầu của nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng
mới.
Nhìn một cách tổng quát những sai lầm và khuyết điểm trong công tác lãnh đạo Đảng
trước hết thuộc về trách nhiệm của Ban chấp hành trung ương, Bộ chính trị, Ban bí thư, Hội
đồng bộ trưởng,...Ban chấp hành trung ương xin tự phê bình nghiêm túc những khuyết điểm
của mình trước đại hội.
c, Đại hội còn nêu ra những bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm
gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan.
Ba là, phải kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện
mới.
Bốn là, phải chăm lo, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu
phát triển của giai đoạn lịch sử mới.
Những bài học kinh nghiệm trên là sự tổng kết kinh nghiệm quá trình xây dựng
XHCN của nhân dân ta qua mấy chục năm qua và là những định hướng rất cơ bản mang tính
quy luật cho đất nước ta xây dựng XHCN trong giai đoạn tiếp.
d, Đại hội đã thông qua đường lối đổi mới:
Đại hội chủ trương đổi mới một cách toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, đối
ngoại nhưng chủ yếu là kinh tế, tập trung đổi mới kinh tế trên cơ sở đó mà từng bước đổi mới
về chính trị và các lĩnh vực khác. Đại hội đã xác định Đảng ta cần xúc tiến xây dựng một
cương lĩnh hoàn chỉnh cho toàn bộ cuộc cách mạng XHCN trong thời kỳ quá độ. Đại hội nêu
rõ về thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, đó là một thời kì lâu dài và rất khó khăn, bao gồm
nhiều chặng đường, một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để. Chúng ta
phải xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng. Phải từ bỏ quan niệm giản đơn, tư tưởng chủ quan nóng vội, muốn đốt
cháy giai đoạn như đã mắc phải trước đây.
Về nhiệm vụ xây dựng CNXH: Đại hội quyết định phải đi tiếp chặng đường đầu tiên
và xác định “nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường
đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần
thiết cho việc đẩy mạnh CNH XHCN trong chặng đường tiếp theo”.
Từ nhiệm vụ bao trùm và mục tiêu tổng quát đã nêu trên, Đại hội xác định 5 mục tiêu
cụ thể về kinh tế - xã hội:
- Sản xuất đủ tiêu dùng, và có tích luỹ.
- Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất.
- Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
- Tạo ra chuyển biến tốt về mọi mặt xã hội.
- Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh để thực hiện mục tiêu nói trên đại hội đã
đề ra một hệ thống các giải pháp: Về bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư, về xây dựng và
củng cố quan hệ sản xuất XHCN mới, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế,
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, tăng cường củng cố an ninh quốc phòng, tăng cường lĩnh vực
đối ngoại…
- Trong hệ thống các giải pháp đại hội nhấn mạnh phải tập trung sức người sức của vào thực
hiện 3 chương trình mục tiêu :
Chương trình lương thực thực phẩm.
Chương trình hàng tiêu dùng.
Chương trình hàng xuất khẩu.
Ba chương trình mục tiêu đó chính là sự cụ thể hoá nội dung cơ bản của CNH XHCN
trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta.
Tư tưởng chỉ đạo cốt lõi của đại hội VI là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có,
khai thác mọi tiềm năng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế để phát
triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN, Đảng, nhà
nước tạo điều kiện, cơ chế cho nhân dân làm, không làm thay nhân dân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã bầu đồng chí Nguyễn Văn Linh
làm tổng bí thư. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ được giao trách
nhiệm làm cố vấn cho ban chấp hành trung ương Đảng.
* Ý nghĩa của Đại hội:
Đại hội VI là đại hội mở đầu cho công cuộc đổi mới tạo ra bước ngoặt quan trọng trên
con đường quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam.
Đường lối đổi mới của đại hội VI đã thực sự đi vào cuộc sống, trở thành động lực
thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển làm thay đổi bộ mặt của xã hội, mở đầu cho một giai
đoạn phát triển mạnh mẽ của cách mạng Việt Nam. Sau đại hội VI, Đảng và nhà nước đã có
nhiều chủ trương, chính sách nhằm cụ thể hóa đường lối đổi mới, đưa đường lối đổi mới đi
vào cuộc sống.
Đường lối đổi mới của Đảng đã đáp ứng được yêu cầu nguyện vọng của toàn Đảng,
toàn dân ta đồng thời phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới.
Đường lối đổi mới của Đảng thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, năng động, sáng tạo và
bản lĩnh chính trị của Đảng.
* Bảng so sánh giữa hai thời kỳ: trước đổi mới và đổi mới trên các nội dung cơ bản
Phương Trước khi đổi mới Sau khi đổi mới
diện so
sánh

Quan niệm Đại hội IV (1976) xác định đường Đảng coi đó là một quá trình lâu dài,
về thời kỳ lối chung cách mạng XHCN ở gồm nhiều thời kỳ, giai đoạn kế tiếp
quá độ lên nước ta là: nắm vững chuyên nhau, mỗi thời kỳ, giai đoạn có mục
CNXH chính vô sản, phát huy quyền làm tiêu, bước đi, quy mô, tốc độ, biện
chủ của nhân dân lao động, tiến pháp thích hợp, khác nhau, từ thấp
hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: đến cao, không được nôn nóng duy ý
cách mạng về quan hệ sản xuất, chí đốt cháy giai đoạn mà phải theo
cách mạng khoa học - kỹ thuật, đúng quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản
cách mạng tư tưởng và văn hóa, xuất lớn XHCN. Theo tư duy đó, Đại
trong đó cách mạng khoa học - kỹ hội xác định nước ta đang ở chặng
thuật là then chốt. Đẩy mạnh công đường đầu, giai đoạn đầu của thời kỳ
nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ quá độ.
trung tâm của thời kỳ quá độ lên
CNXH; xây dựng chế độ làm chủ
tập thể XHCN, xây dựng nền sản
xuất lớn XHCN, xây dựng nền
văn hóa mới, con người mới
XHCN; xóa bỏ chế độ người bóc
lột người, xóa bỏ nghèo nàn lạc
hậu…; xây dựng thành công Tổ
quốc Việt Nam hòa bình, độc lập,
thống nhất và XHCN; góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giới vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và CNXH.

Cơ chế Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ cơ chế kế hoạch hoá theo phương
quản lý yếu bằng mệnh lệnh hành chính thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ
kinh tế dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân
lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống chủ.
dưới. Các doanh nghiệp hoạt
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trên
động trên cơ sở các quyết định
cơ sở đổi mới cơ cấu kinh tế, chấp
của cơ quan nhà nước có thẩm
nhận kinh tế nhiều thành phần và
quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh
chuyển sang nền sản xuất hàng hóa.
được giao. Tất cả phương hướng
sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn; Kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung
định giá sản phẩm, tổ chức bộ quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế
máy, nhân sự, tiền lương... đều do quản lý có kế hoạch theo phương thức
các cấp có thẩm quyền quyết hạch toán kinh doanh xã hội chủ
định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân
hoạch cấp phát vốn, vật tư cho chủ.
doanh nghiệp, doanh nghiệp giao
Cả nước là một thị trường thống nhất,
nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ
có nhiều thành phần kinh tế tham gia.
thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước
thu.
Quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi
nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ
hiện vật là chủ yếu. Nhà nước
quản lý kinh tế thông qua chế độ
"cấp phát - giao nộp". Vì vậy, rất
nhiều hàng hóa quan trọng như
sức lao động, phát minh sáng chế,
tư liệu sản xuất quan trọng không
được coi là hàng hóa về mặt pháp
lý.

Mô hình Mô hình kinh tế trước đổi mới Mô hình kinh tế thời kỳ đổi mới là
kinh tế 1986 là mô hình kế hoạch hóa tập một cơ chế hỗn hợp giữa thị trường
trung, bao cấp. Mô hình này có và Nhà nước trong huy động, phân bổ
những đặc điểm sau: và sử dụng nguồn lực. Mô hình này
có những đặc điểm sau:
Hình thức sở hữu: Mô hình này
chỉ tồn tại hai hình thức sở hữu, Hình thức sở hữu: Nhiều hình thức sở
đó là sở hữu toàn dân (tức là sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể,
hữu của Nhà nước) và sở hữu tập sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp). Tuy
thể (tức là sở hữu của hợp tác xã). nhiên, kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai
trò chủ đạo.
Cơ cấu ngành: Cơ cấu ngành kinh
tế còn thiếu cân đối, nông nghiệp Cơ cấu ngành: Bảo đảm cho nông
chiếm tỷ trọng lớn, công nghiệp nghiệp, kể cả lâm nghiệp, ngư nghiệp
và dịch vụ còn chiếm tỷ trọng thật sự là mặt trận hàng đầu, được ưu
nhỏ. tiên đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư,
về năng lượng, vật tư và lao động kỹ
thuật; tập trung trước hết cho những
vùng trọng điểm nhằm đạt hiệu quả
kinh tế cao. Ra sức phát triển công
nghiệp nhẹ, tiểu công nghiệp và thủ
công nghiệp, đáp ứng cho được nhu
cầu về hàng tiêu dùng thông thường,
về chế biến nông, lâm, thuỷ sản, tăng
nhanh hàng gia công xuất khẩu và các
mặt hàng xuất khẩu khác. Tiếp tục
xây dựng một số cơ sở công nghiệp
nặng và kết cấu hạ tầng, trước hết là
năng lượng và giao thông vận tải, phù
hợp với điều kiện thực tế, nhằm phục
vụ thiết thực các mục tiêu kinh tế,
quốc phòng trong chặng đường đầu
tiên, và chuẩn bị tiền đề cho việc đẩy
mạnh công nghiệp hoá trong chặng
đường tiếp theo. Mở rộng các loại
hoạt động dịch vụ phục vụ sản xuất,
lưu thông, đời sống và du lịch.

Bước đi, Bước đi: Trước đổi mới 1986, Chủ trương phát triển kinh tế hàng
quy mô, tốc nền kinh tế Việt Nam phát triển hóa nhiều thành phần, vận hành theo
độ trong theo mô hình kế hoạch hóa tập cơ chế thị trường định hướng xã hội
phát triển trung, bao cấp. Mọi hoạt động sản chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc
kinh tế xuất, kinh doanh đều do Nhà phục được những yếu kém và có
nước chỉ đạo, quản lý theo kế những bước phát triển.
hoạch. Cơ chế này đã kìm hãm sự
Công cuộc đổi mới đã đạt được
phát triển của nền kinh tế, dẫn
những thành tựu bước đầu rất quan
đến nhiều khó khăn, thách thức,
trọng: GDP tăng 4,4%/năm; tổng giá
cụ thể như: năng suất lao động
trị sản xuất nông nghiệp tăng bình
thấp, hiệu quả kinh tế kém; tỷ lệ
quân 3,8 - 4%/năm; công nghiệp tăng
lạm phát cao, đời sống nhân dân
bình quân 7,4%/năm, trong đó sản
gặp nhiều khó khăn; nền kinh tế
xuất hàng tiêu dùng tăng 13
phụ thuộc nhiều vào bên ngoài.
-14%/năm; giá trị kim ngạch xuất
Quy mô: Quy mô nền kinh tế Việt khẩu tăng 28%/năm
Nam trước đổi mới còn nhỏ bé.
GDP bình quân đầu người chỉ đạt
khoảng 100 USD/năm, thuộc
nhóm các nước nghèo nhất thế
giới lúc bấy giờ.
Tốc độ: Tốc độ tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam trước đổi mới
khá thấp, trung bình chỉ đạt
khoảng 5%/năm. Cụ thể, giai
đoạn 1976-1985, GDP của Việt
Nam tăng trưởng bình quân
5,2%/năm. Trong đó, tốc độ tăng
trưởng cao nhất là năm 1977
(8,8%) và thấp nhất là năm 1984
(2,3%).

Các thành Nhà nước xem thị trường là đặc Từ Đại hội VI trở đi nền kinh tế nước
phần kinh trưng của chủ nghĩa tư bản dẫn ta là một nền kinh tế có cơ cấu nhiều
tế đến không thừa nhận trên thực tế thành phần. Các thành phần kinh tế
sự tồn tại của nền kinh tế nhiều đó là:
thành phần trong thời kỳ quá độ,
Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu
lấy kinh tế quốc doanh và tập thể
vực quốc doanh và khu vực tập thể,
là chủ yếu, muốn nhanh chóng
cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn
xóa sở hữu tư nhân và kinh tế cá
liền với thành phần đó.
thể, tư nhân.
Các thành phần kinh tế khác gồm:
kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá (thợ
thủ công, nông dân cá thể, những
người buôn bán và kinh doanh dịch
vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân,
kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều
hình thức, mà hình thức cao là công
tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp,
tự túc trong một bộ phận đồng bào
dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các
vùng khác.

Giá cả Nhà nước quyết định giá trị tài Nhà nước bỏ quyền định giá, giữ giá,
sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa, thay vào đó điều tiết giá bằng các
nhưng thường thấp hơn nhiều lần biện pháp, công cụ kinh tế.
so với giá trị thực với chúng trên
Cuộc cải cách giá, chuyển từ hệ thống
thị trường. Do đó, hạch toán kinh
định giá hành chính sang cơ chế thị
tế chỉ là hình thức.
trường đã góp phần không nhỏ vào
việc điều hoà cung cầu và giảm bớt
chênh lệch về giá hàng hoá giữa các
vùng trong nước nhờ giá cả phản ánh
đúng giá trị và quan hệ cung cầu, do
đó đã thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá
phát triển.

Sản xuất Các cơ quan hành chính can thiệp Sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá –
hàng hóa quá sâu vào hoạt động sản xuất, tiền tệ: “Việc sử dụng quan hệ hàng
kinh doanh của các doanh nghiệp hoá – tiền tệ đòi hỏi sản xuất phải gắn
nhưng lại không phải chịu trách với thị trường, mọi hoạt động kinh tế
nhiệm gì về vật chất và pháp lý phải so sánh chi phí với hiệu quả, các
đối với các quyết định của mình. tổ chức và đơn vị kinh tế tự bù đắp
Các doanh nghiệp không có chi phí và có lãi để tái sản xuất mở
quyền tự chủ sản xuất, kinh rộng. —> Cơ cế quản lý mới này có
doanh, cũng không bị ràng buộc tác dụng rất lớn đối với quá trình sản
trách nhiệm đối với kết quả sản xuất hàng hoá.
xuất, kinh doanh.
Các đơn vị kinh tế cơ sở với quyền tự
chủ sản xuất, kinh doanh, chủ động
tiếp cận nhu cầu thị trường, khai thác
mọi khả năng để phát triển sản xuất,
kinh doanh nhằm thực hiện mục tiêu,
nhiệm vụ của kế hoạch Nhà nước.

Kinh tế thị Đảng theo đuổi mục tiêu xây Đảng theo đuổi mục tiêu nền kinh tế
trường dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động
hình kế hoạch hóa tập trung, bao theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
cấp. Theo mô hình này, kinh tế của Nhà nước, theo định hướng xã
thị trường được coi là một hình hội chủ nghĩa.
thái kinh tế tư bản chủ nghĩa,
Nền kinh tế thị trường nhưng có sự
không phù hợp với mục tiêu xây
quản lý của Nhà nước, nền kinh tế
dựng chủ nghĩa xã hội. Như vậy,
được vận hành bởi hai bàn tay: thị
Nhà nước đã ban hành nhiều
trường và Nhà nước. Điều này có ưu
chính sách, pháp luật nhằm hạn
điểm là nó phát huy tính tối ưu trong
chế, kìm hãm sự phát triển của
phân bổ nguồn lực xã hội để tối đa
kinh tế thị trường, chẳng hạn như:
hóa lợi nhuận thông qua cạnh tranh,
Kiên định với mô hình kế hoạch mặt khác, sự quản lý của Nhà nước
hóa tập trung, bao cấp giúp tránh được những thất bại của thị
trường như lạm phát, phân hóa giàu
Cấm tư nhân kinh doanh các
nghèo, khủng hoảng kinh tế.
ngành, nghề kinh doanh quan
trọng như ngân hàng, bảo hiểm, Sau Đổi mới, quan điểm của Nhà
vận tải, viễn thông,... nước Việt Nam là kinh tế thị trường
là thành tựu của loài người, không
Khuyến khích phát triển kinh tế
mâu thuẫn với chủ nghĩa xã hội.
tập thể, coi kinh tế tập thể là hình
thức kinh tế chủ đạo trong nền
kinh tế.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này,
kinh tế thị trường vẫn tồn tại
nhưng chưa được Đảng và Nhà
nước thừa nhận, còn manh mún
và bị kìm hãm nặng nề.
Vai trò của Là chủ thể duy nhất thực hiện Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong
Nhà nước toàn bộ các hoạt động sản xuất, nền kinh tế.
trong phát kinh doanh, đóng vai trò quyết
Định hướng xã hội chủ nghĩa được
triển kinh định trong việc phát triển kinh tế.
hiểu là vẫn giữ vai trò chủ đạo của
tế
Là người tổ chức, chỉ đạo, quản kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế, vì
lý mọi hoạt động kinh tế, không theo quan điểm của chủ nghĩa Marx
chỉ thông qua việc ban hành các về chủ nghĩa xã hội thì mọi tư liệu sản
kế hoạch, các chính sách kinh tế xuất đều thuộc sở hữu toàn dân và
mà còn thông qua việc trực tiếp tổ Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà
chức, chỉ đạo, quản lý các hoạt nước đại diện cho nhân dân.
động sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp nhà nước.

Về sở hữu Trước đổi mới, nền kinh tế nước Từ khi tiến hành đổi mới đất nước,
ta chỉ có một chế độ sở hữu về tư Đảng Cộng sản Việt Nam thừa nhận
liệu sản xuất là chế độ công hữu trên thực tế có nhiều hình thức sở hữu
(gồm sở hữu toàn dân và sở hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm cả công
tập thể). hữu và tư hữu.
Ngoài chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất, cho phép những cá nhân được
phép sử dụng vốn để sản xuất, kinh
doanh trong khuôn khổ pháp luật.
→ Sự điều chỉnh này đã góp phần
giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện
có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng
của đất nước, phát huy được tính
năng động, chủ động, sáng tạo của
người lao động do nó gắn liền với lợi
ích cá nhân của họ – một động lực
không nhỏ đối với sự phát triển xã
hội. Hơn nữa, sự điều chỉnh này còn
phát huy được tiềm năng tuy phân tán
nhưng rất quan trọng trong nhân dân,
bao hàm cả về sức lao động, kỹ thuật,
tiền vốn, khả năng tự tạo việc làm

Về phân Nhà nước quy định chế độ phân - Đảng chủ trương tiếp tục điều chỉnh
phối sản phối vật phẩm tiêu dùng cho cán quan hệ phân phối sản phẩm lao động
phẩm bộ, công nhân viên theo định mức theo hướng mà Đại hội V đã đề ra.
qua hình thức tem phiếu. Chế độ Trong chủ trương lần này Đảng nhấn
tem phiếu với mức giá khác xa so mạnh: “việc thực hiện đúng nguyên
với giá thị trường đã biến chế độ tắc theo chế độ phân phối theo lao
tiền lương thành lương hiện vật, động đòi hỏi sửa đổi một cách căn
thủ tiêu động lực kích thích người bản chế độ tiền lương theo hướng
lao động và phá vỡ nguyên tắc đảm bảo yêu cầu tái sản xuất sức lao
phân phối theo lao động. động, khắc phục tính bình quân… áp
dụng các hình thức trả lương gắn chặt
với kết quả lao động và hiệu quả kinh
tế”(30). Quan hệ phân phối này không
những có tác dụng khắc phục được
những mặt hạn chế trong quan hệ
phân phối trước đây, như tính ỷ lại,
thụ động, dựa dẫm… của người lao
động mà nó còn có tác dụng kích
thích người lao động hăng say sản
xuất. Do đó, quan hệ phân phối này sẽ
tác động tích cực tới việc tăng năng
suất lao động, phát triển sản xuất. Đối
với những người lao động ngoài các
cơ quan, xí nghiệp, Đảng và Nhà
nước nhấn mạnh tới việc tôn trọng lợi
ích chính đáng của những người hoạt
động sản xuất kinh doanh hợp pháp,
có ích cho xã hội.

Về công Nhà nước chú trọng phát triển Đại hội VI đã cụ thể hóa nội dung
nghiệp hoá công nghiệp nặng để xây dựng chính của công nghiệp hóa XHCN
(sau này là nền tảng kỹ thuật cho nền kinh tế trong chặng đường đầu tiên là phải
công trong khi công nghiệp nhẹ và thực hiện 3 chương trình:
nghiệp hoá nông nghiệp không được đầu tư
lương thực, thực phẩm;
- hiện đại đúng mức nên đã gây ra lãng phí
hoá) lớn các nguồn lực đầu tư vốn đã hàng tiêu dùng
khan hiếm. Hệ quả là công nghiệp
hàng xuất khẩu
nặng không phát triển như mong
muốn để trở thành đòn bẩy cho Phát triển lương thực thực phẩm và
nền kinh tế, một số sản phẩm hàng tiêu dùng là nhằm bảo đảm nhu
công nghiệp nặng không có nơi cầu thiết yếu cho đời sống nhân dân
tiêu thụ, nhà máy hoạt động và góp phần ổn định kinh tế - xã hội;
không hết công suất còn công phát triển hàng xuất khẩu là yếu tố
nghiệp nhẹ và nông nghiệp không quyết định để khuyến khích sản xuất
đủ sức đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và đầu tư trong nước, tạo nguồn thu
của nhân dân. ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết
bị phục vụ sản xuất.
→ Điểm nổi bật nhất đó là:
Sự thay đổi trong lựa chọn mô hình
chiến lược CNH, chuyển từ mô hình
hướng nội (thay thế nhập khẩu) trước
đây bằng mô hình hỗn hợp (hướng về
xuất khẩu đồng thời thay thế nhập
khẩu) đang được áp dụng phổ biến và
khá thành công tại một số quốc gia
Châu Á thời điểm đó.

Hội nhập Được thực hiện theo quan điểm Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế
quốc tế của chủ nghĩa xã hội, với mục đối ngoại. Đẩy mạnh xuất khẩu để
tiêu chủ yếu là đoàn kết, hợp tác đáp ứng nhu cầu nhập khẩu.
với các nước xã hội chủ nghĩa và
Tham gia ngày càng rộng rãi vào sự
các nước có quan hệ truyền
phân công lao động quốc tế, trước hết
thống. Tại Đại hội V (1982),
và chủ yếu là phát triển quan hệ phân
Đảng chỉ xác định “Ưu tiên mở
công, hợp tác toàn diện với Liên Xô,
rộng sự hợp tác toàn diện giữa
với Lào và Campuchia, với các nước
nước ta với Liên Xô và các nước
khác trong Hội đồng tương trợ kinh
trong Hội đồng tương trợ kinh tế
tế.
(SEV)”. Trao đổi thương mại chủ
yếu là với các nước trong Hội Chủ động cùng các nước anh em xây
đồng Tương trợ Kinh tế do Nhà dựng và thực hiện chương trình của
nước độc quyền. Hội đồng tương trợ kinh tế giúp đỡ
Việt Nam, chương trình tổng hợp tiến
bộ khoa học - kỹ thuật đến năm 2000
của Hội đồng tương trợ kinh tế.
Tích cực phát triển quan hệ kinh tế và
khoa học, kỹ thuật với các nước khác,
với các tổ chức quốc tế và tư nhân
nước ngoài trên nguyên tắc bình
đẳng, cùng có lợi.

5. Khái quát công cuộc Đổi mới toàn diện ở Việt Nam từ Đại hội VI (12-1986) đến Đại
hội XIII (1-2021) về chủ trương (qua Cương lĩnh 1991; Cương lĩnh bổ sung 2011)
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng và thực hiện đường lối đổi mới toàn
diện
Đại hội VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986, trong bối
cảnh cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang phát triển mạnh, xu thế đối thoại trên thế giới
đang dần thay thế xu thế đối đầu. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đều tiến hành cải tổ
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việt Nam đang bị các đế quốc và thế lực thù địch bao
vây, cấm vận và tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đổi mới đã trở thành đòi hỏi bức
thiết của tình hình đất nước.
Đại hội đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá thành
tựu, nghiêm túc kiểm điểm, chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong thời kỳ 1975 -
1986. Tại Đại hội VI, Đảng ta xác định: “Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những
năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục
xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong
chặng đường tiếp theo”.
Sau Đại hội VI, công cuộc đổi mới được triển khai mạnh mẽ. Nhưng tình hình diễn
biến phức tạp, có lúc khó khăn tưởng chừng khó vượt qua. Những diễn biến quốc tế phức tạp
tác động xấu đến tình hình nước ta: công cuộc cải tổ ở Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu ngày càng rơi vào khủng hoảng toàn diện và có nguy cơ sụp đổ; trên diễn đàn quốc
tế, Mỹ và các thế lực thù địch lấy cớ quân tình nguyện Việt Nam chưa rút khỏi Campuchia,
tiếp tục bao vây, cấm vận, cô lập, tuyên truyền chống Việt Nam. Một số vùng biên giới phía
Bắc và hải đảo cũng có những diễn biến phức tạp, căng thẳng. Ở trong nước, những năm
1987 - 1988, khủng hoảng kinh tế - xã hội vẫn diễn ra nghiêm trọng: lương thực, thực phẩm
thiếu, nạn đói xảy ra ở nhiều nơi, lạm phát cao, đời sống nhân dân rất khó khăn, sự dao động
về tư tưởng chính trị, giảm sút niềm tin vào con đường xã hội chủ nghĩa ngày càng lan rộng.
Trong hoàn cảnh đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã tỏ rõ bản lĩnh vững vàng, ra sức khắc
phục khó khăn, giữ vững ổn định chính trị, giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách,
từng bước đưa Nghị quyết Đại hội VI vào cuộc sống và đạt được những thành tựu đáng chú ý
như sau:
Về kinh tế - xã hội, các chủ trương trên thể hiện tư duy đổi mới quan trọng về kinh tế
của Đảng và đã có kết quả nhanh chóng. Đầu năm 1988 có nạn đói lớn ở nhiều vùng, phải
nhập hơn 45 vạn tấn gạo, lạm phát còn ở mức 393,8%, nhưng từ năm 1989 trở đi, lượng thực
từ chỗ thiếu triền miền đã bắt đầu có dự trữ xuất khẩu, lạm phát giảm dần, đến năm 1990 còn
67,4%. Cuối năm 1988, chế độ phân phối theo tem phiếu đã được xóa bỏ. Việc thực hiện 3
chương trình kinh tế lớn đạt những tiến bộ rõ rệt. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bước đầu hình thành. Hàng tiêu dùng
đa dạng, lưu thông tương đối thuận lợi.
Về chính trị, công tác xây dựng Đảng có tiến bộ, lòng tin của nhân dân từng bước
được khôi phục. Đảng đã có những thành công nhất định trong việc đổi mới công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng; tăng cường công tác tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ.
Về quan hệ đối ngoại - hội nhập quốc tế: Từ năm 1990, Đảng và Nhà nước có những
chủ trương đổi mới: “Tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại theo phương châm thêm bạn, bớt
thù, giữ vững hòa bình, để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Quan điểm của Đảng, Nhà nước
Việt Nam là sớm tiến hành những bước đầu tiên giải quyết bất đồng với các nước nhưng luôn
kiên trì giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Để thực hiện chủ
trương đó, từ tháng 5/1988, Việt Nam tuyên bố rút 5 vạn quân và Bộ Tư lệnh quân tình
nguyện ở Campuchia về nước và rút hết quân tình nguyện về nước vào tháng 9/1989, sớm
hơn một năm theo kế hoạch.
Tuy vậy, những kết quả đạt được còn hạn chế và chưa vững chắc, nhiều vấn đề bức
xúc nảy sinh. Công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng,
nhưng nước ta vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng và Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam được tiến hành
từ ngày 24 đến ngày 27/6/1991, trong bối cảnh quốc tế và trong nước đang có những diễn
biến phức tạp. Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000, Báo cáo
chính trị và Điều lệ Đảng (sửa đổi). Đại hội đề ra mục tiêu tổng quát cho 5 năm 1991-1995
là: vượt qua khó khăn, thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định
chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng
hoảng. Đại hội long trọng tuyên bố: Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
Sau Đại hội VII, sự tan rã của Liên Xô đã tác động sâu sắc đến nước ta. Đông đảo cán
bộ và nhân dân lo lắng, một số người dao động, hoài nghi về tiền đồ của chủ nghĩa xã hội.
Quan hệ kinh tế giữa nước ta với các thị trường truyền thống bị đảo lộn. Trong khi đó, Mỹ
vẫn tiếp tục cấm vận. Một số thế lực thù địch đẩy mạnh những hoạt động gây mất ổn định
chính trị và bạo loạn lật đổ. Nước ta một lần nữa lại đứng trước thử thách hiểm nghèo. Đảng
ta và nhân dân ta kiên trì đường lối đổi mới, ra sức thực hiện Nghị quyết của Đại hội VII,
vượt qua khó khăn, trở ngại, giành nhiều thắng lợi mới to lớn.
Trong 5 năm 1991-1995, nhịp độ tăng bình quân hằng năm về tổng sản phẩm trong
nước (GDP) đạt 8,2% (kế hoạch là 5,5 – 6,5%), về sản xuất công nghiệp là 13,3%, sản xuất
nông nghiệp 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20%. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển đổi: tỷ trọng
công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,6% năm 1990 đến 29,1% năm 1995; dịch vụ từ
39,6% lên 41,9%. Bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội
năm 1990 chiếm 15,8% GDP; năm 1995 là 27,4% (trong đó nguồn đầu tư trong nước chiếm
16,7% GDP). Đến cuối năm 1995, tổng vốn đăng ký của các dự án đầu tư trực tiếp của nước
ngoài đạt trên 19 tỷ USD, gần 1/3 đã được thực hiện. Lạm phát từ mức 67,1% năm 1991
giảm xuống còn 12,7% năm 1995.
Về văn hóa - xã hội, đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ có
thu nhập trung bình và số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm. Mỗi năm thêm hơn 1 triệu lao
động có việc làm. Nhiều nhà ở và đường giao thông được nâng cấp và xây dựng mới ở cả
nông thôn và thành thị. Người lao động được giải phóng khỏi ràng buộc của nhiều cơ chế
không hợp lý, phát huy được quyền làm chủ và tính năng động sáng tạo, chủ động hơn trong
tìm việc làm, tăng thu nhập, tham gia các sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội.
Về giáo dục đào tạo, với quan điểm coi con người là nhân tố quyết định, là động lực
to lớn nhất, là chủ thể sáng tạo mọi nguồn của cải vật chất và tinh thần của xã hội; coi hạnh
phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của Đảng, Hội nghị Trung ương 4 đã ban
hành 5 nghị quyết: về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo; về một số nhiệm vụ văn
hóa văn nghệ những năm trước mắt; về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và
bảo vệ sức khỏe nhân dân; về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; về công tác thanh
niên trong thời kỳ mới. Các nghị quyết trên cho thấy quan điểm cách mạng và nhân văn của
Đảng: Tất cả là do con người, tất cả vì hạnh phúc con người.
Kế thừa các quan điểm của Đại hội VI, Đại hội VII của Đảng (năm 1991) nhấn mạnh:
“Khoa học và giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn
lên trình độ tiên tiến của thế giới”. Lúc này, trước yêu cầu của sự chuyển đổi kinh tế mạnh
mẽ theo hướng công nghiệp, hiện đại, yếu tố khoa học, công nghệ được coi là “nền tảng của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Quan điểm này của Đảng cho thấy tầm quan trọng của khoa
học và công nghệ trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ quản lý, bảo
đảm chất lượng, tốc độ phát triển của nền kinh tế.
Về chính trị, trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, chúng ta đã từng bước cụ thể hóa đường lối đổi mới trên các lĩnh vực, củng cố
Đảng và chính trị, tư tưởng, tổ chức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội; đã
ban hành Hiến pháp mới năm 1992, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhiều văn bản pháp
luật quan trọng, tiến hành cải cách, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, xã hội từng
bước đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đạt hiệu quả thiết thực hơn.
Về quốc phòng an ninh, Đảng và dân ta đã giữ vững ổn định chính trị, độc lập chủ
quyền và môi trường hòa bình của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi
mới. Đảng đã định rõ phương hướng, nhiệm vụ và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới, tiếp tục thực hiện có kết quả việc điều chỉnh chiến lược quốc
phòng, an ninh. Các nhu cầu củng cố quốc phòng, an ninh, cải thiện đời sống lực lượng vũ
trang được đáp ứng tốt hơn. Chất lượng và sức chiến đấu của quân đội và công an được nâng
lên. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố. Công tác bảo vệ an
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được tăng cường.
Về quan hệ đối ngoại hội nhập quốc tế, từ tháng 11/1991, Việt Nam và Trung Quốc
bình thường hóa quan hệ, từng bước khôi phục và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều
mặt; tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt với Lào; xây dựng quan hệ tốt với
Campuchia; phát triển quan hệ với các nước trong khu vực, trở thành thành viên đầy đủ của
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ngày 28/7/1995 (ASEAN) và thiết lập quan hệ ngoại
giao Việt Nam - Hoa Kỳ ngày 11/7/1995. Đến cuối năm 1995, Việt Nam có quan hệ ngoại
giao với 160 nước, quan hệ thương mại quốc tế buôn bán với trên 100 nước... Các công ty
của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Nhiều chính phủ và tổ
chức quốc tế dành cho Việt Nam viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay để phát triển. Ngày
28/7/1994, Việt Nam phê chuẩn tham gia Công ước về Luật biển năm 1982 của Liên hợp
quốc.
Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua hai Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và VII
đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra
cho 5 năm 1991-1995 đã được hoàn thành về cơ bản. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu
của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàng thành cho phép
chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn. Xét trên tổng thể, việc hoạch
định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng
xã hội chủ nghĩa, tuy trong quá trình thực hiện có một số khuyết điểm và yếu kém.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng và bước đầu thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 28/6 đến
ngày 1/7/1996, trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển với trình độ
cao hơn, chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào. Sau 10 năm đổi mới, nhân dân Việt
Nam đã giành được những thắng lợi bước đầu về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh, phá được thế bị bao vây, cô lập.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta
sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam
độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
vì hạnh phúc của nhân dân ta, vì tình hữu nghị và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế
giới. Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh dân tộc và tương lai của đất nước vào
lúc chúng ta sắp bước vào thế kỷ XXI.
Với những chủ trương phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm như phát triển nông
nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hợp tác hóa, dân chủ hóa,
nước ta đã vượt qua khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực từ tháng 7/1997. Đến năm
2000, kinh tế đất nước tăng trưởng khá, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân
hằng năm 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục, giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hằng
năm tăng 13,5%. Các ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu đều phát triển. Năm 2000, các
chỉ tiêu chủ yếu đều đạt hoặc vượt kế hoạch đề ra.
Về văn hóa xã hội, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII
(tháng 7-1998) đã ban hành nghị quyết chuyên đề về “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc”, cho thấy chuyển biến hết sức mạnh mẽ trong nhận thức của Đảng về tầm
quan trọng của văn hóa bên cạnh vấn đề phát triển kinh tế và xây dựng Đảng. Chính sách giải
quyết một số vấn đề xã hội theo quan điểm tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và
công bằng xã hội; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo.
Thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các
tầng lớp dân cư; phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Về giáo dục đào tạo, Đảng chủ trương phát triển mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục và đào
tạo, cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, coi trọng cả quy mô, chất lượng và hiệu quả
giáo dục và đào tạo.
Trong giai đoạn này, Đảng đã chủ trương mở rộng phạm vi phát triển khoa học và
công nghệ trong tất cả các ngành, các lĩnh vực. Để đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công
nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng chỉ đạo giải quyết các
vấn đề về mở rộng kết cấu hạ tầng mạng thông tin quốc gia với giá thành rẻ, chất lượng cao,
tốc độ ổn định; phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin, hình thành ngành kinh tế công
nghiệp công nghệ thông tin, đặc biệt là công nghệ phần mềm.
Về chính trị, tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các cán bộ tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao
hơn nữa sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của mình, khắc phục các khuyết điểm, các biểu
hiện tiêu cực và yếu kém.
Về quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế: Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt
Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập
và phát triển. Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ,
tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp phần thúc đẩy xu thế
hoà bình, hợp tác, phát triển.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, tiếp tục thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX diễn ra trong bối cảnh loài người đã kết thúc thế
kỷ XX và bước sang thế kỷ XXI, dân tộc ta đứng trước những thời cơ lớn đan xen với nhiều
thách thức lớn. Đại hội nhận định: Khả năng duy trì hòa bình ổn định trên thế giới và khu vực
cho phép chúng ta tập trung vào nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, đồng thời đòi hỏi
phải đề cao cảnh giác, chủ động đối phó với các tình huống bất trắc, phức tạp có thể xảy ra.
Sau 15 năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng nhưng nền kinh
tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Cách mạng khoa học và công
nghệ, đặc biệt và công nghệ thông tin và công nghệ sinh học tiếp tục có bước phát triển nhảy
vọt, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Tri thức và sở hữu trí tuệ có vai trò ngày càng quan trọng. Toàn cầu hoá diễn ra mạnh
mẽ.
Đến Đại hội IX, Đảng xác định mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm này
đã thể hiện nhận thức rõ ràng về đổi mới ở Việt Nam, gắn cụ thể với một mô hình kinh tế
nhằm bảo đảm về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất trong tình hình mới. Với mô hình này, đường lối phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn
2001 - 2010 là tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tuy nhiên, trong nước còn các vấn đề
nổi cộm như các hoạt động khoa học và công nghệ chưa đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ chế chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh
để phát triển,... Do đó, tại Đại hội này, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh “tận dụng mọi khả năng
để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học,
tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu
mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí
tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học
và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Như
vậy, tại Đại hội IX, các yếu tố trụ cột của đổi mới sáng tạo là nhân tố con người, kinh tế tri
thức, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo đã được nhìn nhận và được chỉ đạo thực
hiện khá cụ thể. Đặc biệt là vai trò của kinh tế tri thức, của sự sáng tạo, các phát minh khoa
học, nguồn nhân lực lao động chất lượng cao đã được Đảng ta chỉ ra rõ ràng hơn trong chỉ
đạo phát triển kinh tế. Cùng với đó, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ được coi là
nền tảng, đồng thời là động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bên cạnh đó, các chủ trương về mọi hoạt động văn hóa đều nhằm xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện. Bước phát triển trong quan điểm của Đảng về văn hóa thời kỳ
này là nhấn mạnh mục tiêu hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát
triển văn hóa. Đại hội xác định nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện.
Liên quan đến vấn đề đại đoàn kết dân tộc, Đảng chủ trương cần nhận thức rõ vấn đề
dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời là vấn đề cấp bách
hiện nay của cách mạng Việt Nam. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Trung ương đã đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện công tác dân tộc trong thời kỳ
mới.
Về vấn đề tôn giáo, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn
giáo bình thường theo đúng pháp luật Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền
thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc. Nghiêm cấm sự phân biệt
đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà
nước.
Về quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế: mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng và quá trình thực hiện Nghị quyết Đại
hội
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng họp tại Hà Nội, từ ngày 18 đến ngày
25/4/2006, vào thời điểm đất nước đã trải qua 20 năm đổi mới, đạt những thành tựu to lớn có
ý nghĩa lịch sử. Đất nước có sự thay đổi cơ bản, toàn diện, thế và lực, uy tín quốc tế tăng lên
nhiều so với trước. Tình hình quốc tế diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta có những thuận lợi và cơ hội lớn, nhưng cũng gặp
nhiều khó khăn, thách thức không thể xem thường.
Trung ương nhận định, thế kỷ XXI được thế giới xem là thế kỷ của đại dương. Các
quốc gia có biển đều rất quan tâm đến biển và xây dựng chiến lược biển. Khu vực Biển
Đông, trong đó bao gồm vùng biển Việt Nam, có vị trí địa kinh tế và địa chính trị rất quan
trọng. Với nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, biển Việt Nam càng có vai trò to lớn hơn
đối với sự nghiệp phát triển đất nước. Quan điểm chỉ đạo của Đảng: Nước ta phải trở thành
quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển
toàn diện các ngành, nghề biển vối cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh,
bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn.
Những chủ trương về lĩnh vực kinh tế đã đạt được những thành tựu nổi bật như: tốc
độ tăng GDP bình quân đạt 7%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội gấp 2,5 lần so với giai đoạn
2001 - 2005, đạt 42,9% GDP. Mặc dù thời gian này, khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh
tế toàn cầu đang diễn ra, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt cao. GDP năm
2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000; GDP bình quân
đầu người đạt 1.168 USD. Việt Nam năm 2008 đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, đứng vào
nhóm các nước có thu nhập trung bình.
Về giáo dục đào tạo, Đại hội X của Đảng nhận định, mặc dù đạt được nhiều thành tựu
nhưng trình độ khoa học, công nghệ; năng suất lao động; chất lượng giáo dục và đào tạo vẫn
còn không ít những hạn chế. Do đó, giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là
vẫn là những ưu tiên hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Đến Đại hội X của Đảng, với quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
những yêu cầu về tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã
hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và việc xây dựng, hoàn
thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế,... Đại hội lần này cũng
đề ra yêu cầu đa dạng hóa các hình thức hoạt động của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa”, xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa, nâng cao
hiệu quả hoạt động của hệ thống nhà văn hóa, bảo tàng, nhà truyền thống…
Về chính trị, những chủ trương nổi bật của Đảng phải kể đến như như lãnh đạo chặt
chẽ công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước; điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà
Nội và một số tỉnh có liên quan; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh
niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa;... Mặc dù đạt được những thành tựu
nhất định nhưng cũng chưa hoàn toàn triệt để và đạt hiệu quả cao.
Về đối ngoại, thành tựu nổi bật sau 5 năm 2006 - 2010 là Việt Nam đã mở rộng và
ngày càng đi vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại, giữ vững ổn định chính trị và tạo được một
môi trường quốc tế thuận lợi chưa từng có để giữ vững hòa bình, an ninh và mở rộng hợp tác
và phát triển đất nước. Việt Nam đã trở thành thành viên 150 của tổ chức WTO; đăng cai và
tổ chức thành công tuần lễ cao cấp APEC (Diễn đàn kinh tế châu Á - Thái Bình Dương) lần
thứ 14 (11/2006). Đến năm 2010, Việt Nam có quan hệ thương mại đầu tư với 230 nước và
vùng lãnh thổ, trong đó các đối tác lớn nhất là Trung Quốc và Mỹ. Hoàn thành phân giới cắm
mốc trên biên giới đất liền với Trung Quốc; bước đầu đàm phán phân định vùng biển ngoài
cửa Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc. Phát triển quan hệ đặc biệt với Lào, tăng dày hệ thống
mốc biên giới với Lào; hợp tác toàn diện và hoàn thành một bước phân giới cắm mốc trên đất
liền với Campuchia. Bên cạnh đó, ngoại giao văn hóa có nhiều khởi sắc, nhiều công trình văn
hóa được công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng có ý nghĩa trọng đại, các văn kiện
được thông qua tại Đại hội “là kết tinh trí tuệ và ý chí của toàn Đảng, toàn dân ta, là sự tổng
kết sâu sắc thực tiễn và lý luận 20 năm đổi mới”. Thành công của Đại hội đánh dấu một mốc
son trên chặng đường hơn 76 năm lãnh đạo cách mạng của Đảng, mở ra một thời kỳ phát
triển mới của công cuộc đổi mới.
Từ Đại hội Đảng VI đến Đại hội Đảng XIII của Việt Nam, chủ trương đổi mới toàn
diện đã liên tục được đẩy mạnh. Các chủ trương chính trong quá trình đổi mới toàn diện ở
Việt Nam từ đây đều tập trung vào các lĩnh vực chính như kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục,
y tế, đặc biệt là chủ trương tăng cường hình thức và phương pháp lãnh đạo, quản lý của Đảng
và Nhà nước. Đổi mới toàn diện cũng tập trung vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân, xây dựng và phát triển nền kinh tế, củng cố vai trò của Việt Nam trong khu vực và
trên thế giới, và thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế của đất nước.
Công cuộc đổi mới toàn diện ở Việt Nam từ Đại hội VI đến Đại hội XIII đã đi qua
nhiều giai đoạn và có những chủ trương quan trọng như sau:
* Đại hội XI (từ 12-19/1/2011): Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo
nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại.
Chủ trương đổi mới toàn diện, tập trung vào cải cách hệ thống chính trị, tăng cường
quản lý và xây dựng nền kinh tế thị trường.
Nhiệm vụ chính: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đại hội có nhiệm vụ nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, đề cao tinh thần tự phê
bình nghiêm túc, để kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện những thành tựu và yếu kém,
khuyết điểm, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại
hội X.
Đại hội cũng rút ra những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội
X của Đảng, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006-2010), tổng kết
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010) và 20 năm thực hiện Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở đó, Đại hội quyết định việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991; xác
định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011-2020); đề ra phương hướng, mục
tiêu, nhiệm vụ 5 năm (2011-2015).
Ban Chấp hành Trung ương đã trình Đại hội các văn kiện: Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020; Báo cáo chính trị; Báo cáo một số vấn đề về bổ sung,
sửa đổi Điều lệ Đảng và Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá X.
Trên cơ sở các văn kiện được trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Ban
Chấp hành Trung ương đã nhất trí thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó đặc biệt nhấn mạnh mục tiêu
tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế
của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ
sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay
đến giữa thế kỷ thứ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở
thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Cương
lĩnh cũng đưa ra những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại... Ban Chấp hành Trung ương khẳng định: Cương lĩnh này là ngọn cờ chiến
đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng hiện nay và trong những thập kỷ tới. Thực
hiện thắng lợi Cương lĩnh này, nước nhà nhất định trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn
vinh.
Về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020, Đại hội Đảng lần thứ XI đã
quyết định mục tiêu tổng quát của Chiến lược là: Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương,
đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.
Nhằm thực hiện tốt mục tiêu đề ra, Đại hội đã nhất trí thông qua những định hướng
phát triển được nêu ra trong Chiến lược như: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực; phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng, sức
cạnh tranh, tạo nền tảng cho một nước công nghiệp; phát triển nông nghiệp toàn diện theo
hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững; phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ
có giá trị cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh; phát triển nhanh kết cấu hạ tầng, nhất là hạ
tầng giao thông...
Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm 2011 – 2015, Ban Chấp hành
Trung ương đã xác định mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới là: “Tiếp tục nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân;
giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
* Đại hội XII (từ 20-28/1/2016): Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, tích
cực, chủ động hội nhập quốc tế, sớm đưa đất nước cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
Chủ đề của Đại hội là “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy
sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc
đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm
đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Chủ trương đổi mới toàn diện, tập trung vào cải cách hệ thống quản lý, tăng cường
công bằng xã hội và phát triển bền vững.
Đại hội XII của Đảng tiến hành vào thời điểm có ý nghĩa rất quan trọng. Toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục tiêu và nhiệm vụ được
xác định trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Chúng ta đã trải qua 30 năm tiến hành công
cuộc đổi mới, 5 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 -
2020, 2 năm thực hiện Hiến pháp năm 2013. Đại hội XII sẽ đi sâu kiểm điểm việc thực hiện
Nghị quyết Đại hội XI, nhìn lại 30 năm đổi mới, rút ra những bài học; xác định phương
hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong 5 năm tới. Đại hội XII
cũng sẽ kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI; đánh giá việc
thi hành Điều lệ Đảng khóa XI; bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII gồm các
đồng chí tiêu biểu về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, năng lực lãnh đạo, bản lĩnh
và trí tuệ, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới. Đại hội XII của Đảng có ý nghĩa rất trọng đại, định hướng, cổ vũ và động viên
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh;
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phấn
đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”
Nhiệm vụ chính: Đẩy mạnh công cuộc đổi mới; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội đánh giá thành tựu và hạn chế sau 30
năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước.
Đại hội đã đề ra các nhiệm vụ trọng tâm trong 5 năm tiếp theo, chủ yếu tập trung vào
kinh tế, xây dựng Đảng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, kiên quyết bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực được nâng lên;
kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế được duy trì ở
mức hợp lý, từ năm 2013 dần phục hồi, năm sau cao hơn năm trước. Đổi mới mô hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược được tập trung thực hiện
bước đầu đạt kết quả tích cực. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, xã hội, y
tế có bước phát triển. An sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn và cơ bản được bảo đảm, đời
sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh
được tăng cường; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hòa bình, ổn định. Quan hệ đối ngoại, hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng, hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng
cao. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy.
Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được chú trọng và đạt kết quả quan
trọng.
Tuy nhiên, đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa
đạt kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được. Nhiều hạn chế, yếu
kém trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, xã hội, y tế
chậm được khắc phục. Đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn
nhiều khó khăn. Bốn nguy cơ mà Đảng chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp. Tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Một số mặt công tác xây
dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị chuyển biến chậm”.
Đại hội này cũng là lần đầu tiên Đảng thực hiện Đề án Quy hoạch Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước
nhiệm kỳ 2016-2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo. Theo đó công tác chuẩn bị nhân sự Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng,
Nhà nước nhiệm kỳ 2016-2021 được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ, bài bản, khoa
học, thận trọng và thực sự phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, tạo được sự thống nhất cao
của các đại biểu dự Đại hội.
* Đại hội XIII (từ 25/1-1/2/2021): tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Chủ đề của Đại hội là: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình,
ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa”.
Chủ trương đổi mới toàn diện, tập trung vào phát triển kinh tế theo hướng hiện đại
hóa và công nghiệp hóa, cùng với việc cải thiện chất lượng đời sống và tăng cường quản lý
chính trị.
Đại hội XIII của Đảng đã tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII gắn
với việc đánh giá 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm
1991, 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011 - 2020; đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2021 - 2025 (kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước); xác
định mục tiêu, phương hướng đến năm 2030 (kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng) và tầm nhìn
phát triển đất nước đến năm 2045 (kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Đây sẽ là những dấu mốc quan trọng
trong quá trình phát triển của Đảng ta, dân tộc ta, đất nước ta, có ý nghĩa định hưởng và tầm
nhìn chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
Kế thừa và phát triển cách tiếp cận trong xác định mục tiêu trong 35 năm đổi mới,
tham khảo kinh nghiệm và chuẩn mực chung của thế giới, Đại hội XIII đã xác định mục tiêu
tổng quát, đó là: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của
Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng
cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỉ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội XIII của Đảng có nhiệm vụ tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ
XII gắn với việc đánh giá 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh
năm 1991, 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội năm 2011 – 2020; đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội 05 năm 2021 – 2025; xác định mục tiêu, phương hướng đến năm 2030 và tầm nhìn phát
triển đất nước đến năm 2045.
Mục tiêu tổng quát: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến
đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng
cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công
nghiệp hoá, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ 21 nước ta trở thành một nước phát triển, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên nguyên tắc bảo đảm tính khoa học và thực tiễn; kế thừa và bổ sung phù hợp với
những thay đổi trong từng giai đoạn phát triển của đất nước; đồng thời nghiên cứu, tham khảo
kinh nghiệm của các nước và những chuẩn mực phát triển chung của thế giới, Đảng xác định
các mục tiêu cụ thể:
Đến năm 2025: Là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt
qua mức thu nhập trung bình thấp.
Đến năm 2030: Là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình
cao.
Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao

You might also like