You are on page 1of 6

VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 240-245

SỬ DỤNG TRÒ CHƠI TRONG GIẢNG DẠY TIẾNG ANH


- MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP
Nguyễn Thị Thúy Huyền - Phạm Thanh Tâm - Nguyễn Thị Liên
Trường Đại học Hoa Lư

Ngày nhận bài: 20/02/2019; ngày chỉnh sửa: 18/3/2019; ngày duyệt đăng: 19/5/2019.
Abstract: This article focuses on the use of games in TEFL (Teaching English as a Foreign
Language). Firstly, we present the definition of games in TEFL, the purposes of using games in
teaching and learning as well as its classifications. Then, the article provides an insight into how
games can be employed in the language classrooms, including when to use games, which games
to use and the procedure to apply them. The final part of the article looks at some outstanding
notices which should be carefully considered.
Keywords: Games, purpose, method, TEFL classrooms.

1. Mở đầu và bản chất là chúng rất thú vị và vui vẻ [1]. Đề cập đến
Xu hướng toàn cầu hóa trong mọi lĩnh vực trên toàn các đặc tính cụ thể hơn của “trò chơi” trong giảng dạy
thế giới đã mang lại cho tiếng nước ngoài nói chung và ngoại ngữ, Greenall (1990) nêu rõ: “thuật ngữ “trò
tiếng Anh nói riêng một vai trò lớn hơn bao giờ hết. Đây chơi” được sử dụng bất cứ khi nào có yếu tố cạnh tranh
là lí do tại sao trong rất nhiều năm gần đây tiếng Anh đã giữa các sinh viên hoặc các nhóm trong một hoạt động
trở thành môn học bắt buộc ở hầu hết các cơ sở đào tạo ở ngôn ngữ” [2; tr 6]. Đồng tình với quan điểm trên, theo
Việt Nam từ cấp tiểu học, trung học đến cao đẳng và đại Rixon (1992), trò chơi bao gồm hai tính năng chính: cạnh
học. Để giảng dạy và học tập tốt môn Tiếng Anh, rất nhiều tranh và hợp tác giữa các người chơi. Cạnh tranh có thể
phương pháp dạy học đã được nghiên cứu và áp dụng, là “một người chống lại phần còn lại” hoặc các cá nhân
trong đó phương pháp sử dụng trò chơi đã được thực hành cạnh tranh nhau, và hợp tác có thể là “mọi người cùng
rộng rãi trong nước và trên thế giới như một giải pháp hữu nhau”, “hợp tác trong một nhóm”, “cùng với một nhóm
dụng nhằm giải tỏa áp lực căng thẳng và nâng cao động chống lại phần còn lại” hoặc “cùng với một cá nhân khác
lực học cho người học. Hiện nay, các loại hình trò chơi chống lại phần còn lại”; trong một trò chơi, có thể là cạnh
dùng trong giảng dạy tiếng Anh rất phong phú và đa dạng tranh hoặc hợp tác, hoặc cả hai [3]. Bên cạnh đó, ông đưa
về hình thức, thể lệ, mục đích,... Tuy nhiên, không phải lúc ra sự phân biệt giữa “trò chơi ngôn ngữ” và “trò chơi
nào phương pháp này cũng mang lại thành công như mong thông thường” - đó là việc sử dụng ngôn ngữ để đạt được
muốn. Để áp dụng trò chơi hiệu quả, giáo viên (GV) cần mục đích. Theo ông, “trò chơi ngôn ngữ” có thể sử dụng
lưu ý đến nhiều yếu tố như thời điểm áp dụng, sự lựa chọn một số kĩ năng được thực hiện trong “trò chơi thông
trò chơi, quá trình tiến hành phù hợp,... Bên cạnh đó, nhiều thường” như kĩ năng vật lí, phối hợp tay và mắt như chơi
nghiên cứu trong và ngoài nước về sử dụng trò chơi trong tennis, hoặc trí tuệ và chiến thuật như chơi cờ vua, cờ
giảng dạy tiếng Anh đã được thực hiện nhưng hầu hết các tướng. Tuy nhiên, trọng tâm trong “trò chơi ngôn ngữ”
nghiên cứu chỉ tập trung vào việc áp dụng một số trò chơi chính là ngôn ngữ. Bất kể mục đích cụ thể của trò chơi là
riêng lẻ để giảng dạy một kĩ năng ngôn ngữ nhất định gì, mục tiêu chung của tất cả các trò chơi ngôn ngữ là
(nghe, nói, đọc, viết, từ vựng,...). phát triển và cải thiện kĩ năng ngôn ngữ, chẳng hạn như
Nhằm đưa ra một cái nhìn tổng quát về trò chơi và sử chính tả, phát âm, nghe hiểu, đọc hiểu,...
dụng trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh nói chung, bài Tóm lại, trò chơi là một phương pháp được sử dụng
viết đề cập khái niệm về trò chơi, những ưu điểm của việc trong giảng dạy ngoại ngữ; theo đó, các hoạt động chơi
sử dụng trò chơi trong dạy và học ngôn ngữ, phương diễn ra có quy tắc và có tính cạnh tranh, hợp tác với trọng
pháp áp dụng trò chơi và một số điểm lưu ý khi áp dụng tâm là ngôn ngữ. Qua các trò chơi, người học trải nghiệm
phương pháp này. sự vui vẻ và phát triển khả năng ngôn ngữ của mình.
2. Nội dung nghiên cứu 2.2. Ưu điểm của việc sử dụng trò chơi trong dạy và học
2.1. Khái niệm trò chơi trong giảng dạy tiếng Anh như ngôn ngữ
một ngoại ngữ Bàn về vai trò của trò chơi trong dạy và học ngôn
Byrne (1980) định nghĩa trò chơi trong giảng dạy ngữ, Wright, Betteridge và Buckby (1984) đã viết: “Học
ngoại ngữ là một hình thức chơi chiểu theo các quy tắc ngôn ngữ là công việc khó khăn. Người học cần nỗ lực ở

240 Email: ntthuyen@hluv.edu.vn


VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 240-245

mọi thời điểm trong một thời gian dài. Trò chơi giúp đỡ trò chơi làm tăng thêm sự quan tâm của người học vào
và khuyến khích nhiều người học duy trì sự yêu thích với những điều có thể họ không thấy thú vị.
môn học và nâng cao động lực học tập”, đồng thời “trò Bên cạnh đó, sự cạnh tranh giữa những cá nhân hoặc
chơi giúp GV tạo ra ngữ cảnh trong đó ngôn ngữ trở nên các đội là yếu tố thúc đẩy mạnh mẽ, kích thích người học
hữu ích và có ý nghĩa” [4; tr 1]. Cùng quan điểm trên, tham gia chơi. Các hoạt động trong trò chơi khiến tất cả
Lee (1995) nhấn mạnh, học tập là một hoạt động nghiêm HS di chuyển xung quanh, kích hoạt năng lực tinh thần,
túc nhưng nếu một người vui vẻ, cười nói thì không có do đó thúc đẩy người học trong việc học tập và có khả
nghĩa là việc học tập đó trở nên thiếu trang trọng. Ông năng “giữ chân” họ. Vào thời điểm đó, những HS nhút
cho rằng việc học ngôn ngữ có thể đi đôi với sự tận nhát cũng tham gia các hoạt động một cách vui vẻ, quên
hưởng. Một trong những cách tốt nhất để làm điều này là đi sự nhút nhát và cảm giác sợ hãi.
thông qua trò chơi [5]. Richard-Amato (1996) trong cuốn
Có thể thấy rõ rằng trò chơi có tác dụng lớn giúp thu
sách của mình cũng đã viết, mặc dù trò chơi thường gắn
hút sự chú ý và tham gia của người học, từ đó thúc đẩy
liền với niềm vui, chúng ta không nên đánh mất các giá
người học muốn tìm hiểu sâu hơn về bài học. Không chỉ
trị sư phạm của chúng, đặc biệt là trong việc dạy và học
thế, trò chơi có thể biến một lớp học nhàm chán thành
ngoại ngữ. Trò chơi có hiệu quả khi chúng tạo động lực,
một tập thể đầy tính cạnh tranh.
giảm căng thẳng cho người học và tạo cơ hội cho người
học ngôn ngữ giao tiếp thực sự [6; tr 10]. 2.2.3. Trò chơi thúc đẩy sự tương tác của người học
Trong hầu hết các trò chơi, người học phải chơi theo
Có thể thấy, các tác giả trên đều nhấn mạnh mục đích
nhóm, trong đó các thành viên được khuyến khích thay
quan trọng của việc sử dụng trò chơi trong dạy học là GV
phiên nhau, thay vì để một số người thực hiện tất cả các
muốn có một bài học tốt hơn, đồng thời học sinh (HS)
cuộc đối thoại và các nhiệm vụ của cả nhóm. Khi chơi
của họ cũng hưởng nhiều lợi ích nhờ phương pháp này.
trò chơi, để cố gắng để giành chiến thắng hoặc để đánh
Một số lợi ích chung của việc sử dụng trò chơi trong
bại các đội khác, người học sẵn sàng đặt câu hỏi, giao
giảng dạy và học tập ngoại ngữ được tóm tắt như sau:
tiếp và thảo luận với các bạn cùng nhóm và suy nghĩ việc
2.2.1. Trò chơi cung cấp môi trường học tập lấy người sử dụng tiếng Anh một cách sáng tạo để đạt được mục
học làm trung tâm tiêu. Sự cạnh tranh trong trò chơi tạo cơ hội cho người
Trong quá trình diễn ra trò chơi, GV đóng vai trò là học làm việc cùng nhau và giao tiếp bằng tiếng Anh với
nguồn cung cấp thông tin - hỗ trợ người học về từ vựng, nhau rất nhiều.
cấu trúc mới hoặc cách diễn đạt, người học là chủ thể của Ngoài ra, trò chơi theo cặp hoặc theo nhóm nhỏ giúp
hoạt động, được GV trao quyền chủ động trong việc lựa người học phát triển kĩ năng khi làm việc với người khác
chọn và sử dụng ngôn ngữ. Trò chơi không chỉ tăng như kĩ năng không đồng ý một cách lịch sự và kĩ năng
cường tính hợp tác giữa các thành viên trong lớp học mà yêu cầu trợ giúp [8].
tính cá nhân của mỗi người học cũng được nhấn mạnh. 2.2.4. Trò chơi giúp người học tăng khả năng tiếp thu
Nói cách khác, phương pháp sử dụng trò chơi nằm trong ngôn ngữ
trào lưu chung bên cạnh hình thức lớp học do GV điều
Theo Avedon và Sutton-Smith (1971), nhờ động lực
khiển, góp phần thúc đẩy hoạt động dạy học lấy người
và sự tương tác được tạo ra trong khi chơi, HS có thể tiếp
học làm trung tâm.
thu bài học của mình một cách hiệu quả hơn và thích thú
2.2.2. Trò chơi giúp tăng động lực của người học hơn [9].
Có thể nói, động lực của người học là yếu tố lớn nhất Trước hết, phương pháp này tạo ra nhiều cơ hội học
ảnh hưởng đến thành công của buổi học và sử dụng trò tập cho người học. Do đặc điểm của trò chơi ngôn ngữ là
chơi ngôn ngữ là một trong những cách tốt nhất để tạo ra việc sử dụng ngôn ngữ trong quá trình chơi, “người học
một bài học thú vị, giúp duy trì động lực của HS. David phải làm việc với ngôn ngữ để bạn mình có thể hiểu
và Hollowell (1989) đã viết, “bởi vì các trò chơi đòi hỏi những gì họ đang nói” [10]. Như vậy, cùng lúc với việc
và thúc đẩy sự tham gia của người học ở mức độ cao, vui chơi, người học có thể học tập và tiếp thu ngôn ngữ
chúng mang lại nhiều động lực hơn so với sách giáo khoa mới. Bên cạnh đó, tính cạnh tranh của các trò chơi cũng
và các phiếu tài liệu” [7]. Khi học viên được trao cơ hội là một yếu tố giúp người học tăng khả năng tiếp thu.
chơi, họ được khuyến khích chọn đối tác của mình. Điều Chính tính cạnh tranh là yếu tố kích thích và khuyến
này không chỉ tạo ra một bầu không khí làm việc thân khích người học tham gia vào hoạt động chơi. Theo bản
thiện mà còn thúc đẩy người học giúp đỡ lẫn nhau. Do năng tự nhiên, họ muốn đánh bại các đội khác vì thế
đó, tất cả những người học sẽ cảm thấy hạnh phúc và có người học sẽ nỗ lực sử dụng ngôn ngữ nhiều nhất có thể
động lực hơn khi tham gia vào các trò chơi. Thậm chí, trong các hoạt động để giành chiến thắng.

241
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 240-245

Ngoài ra, rõ ràng bầu không khí dễ chịu, thoải mái kĩ năng ngôn ngữ. Do đó, trò chơi có thể thúc đẩy người
được tạo ra qua các trò chơi cũng là một yếu tố quan học, thúc đẩy sự tương tác của người học, cải thiện việc
trọng giúp người học nhớ kiến thức nhanh hơn và tốt tiếp nhận của họ và tăng thành tích của họ.
hơn. Richard-Amato (1988) nhấn mạnh: “trò chơi có 2.3. Phân loại trò chơi
thể làm giảm sự lo lắng, giúp cho người học không bị
Theo Rixon (1992), có hai loại trò chơi ngôn ngữ: trò
căng thẳng khi sử dụng ngôn ngữ mới, theo đó khả năng
chơi ngôn ngữ và trò chơi giao tiếp [3].
tiếp thu đầu vào cũng tăng lên” [11; tr 147]. Theo một
nghiên cứu của hai tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền và Trò chơi ngôn ngữ yêu cầu người chơi đưa ra ngôn
Khuất Thị Thu Nga (2003), HS có xu hướng học tốt hơn ngữ chính xác hoặc chứng tỏ rằng họ diễn đạt chính xác
khi việc học tập được áp dụng trong một môi trường một phần nhất định của ngôn ngữ như âm thanh, từ vựng
thoải mái như chơi trò chơi [12]. Thực tế đã được chứng chính tả hoặc cấu trúc. Độ dài của lời nói được sử dụng
minh rằng, một lớp học sôi nổi và tích cực khi học tập trong các trò chơi thuộc loại này có giới hạn từ một từ
thông qua một số trò chơi ngôn ngữ tiếng Anh thú vị có đến một hay hai câu. Sự lặp lại chính xác của một chuỗi
thể lĩnh hội 100% lượng kiến thức của bài học và lưu ngôn ngữ là yếu tố quan trọng trong các trò chơi này. Có
giữ lại đến 80%. Điều này được củng cố thêm qua thể nói, các trò chơi này là một hình thức ôn luyện.
nghiên cứu của Dương Ngọc Châu (2008) khi có tới Khác với trò chơi ngôn ngữ, trò chơi giao tiếp chú
90% sinh viên tâm sự rằng họ có thể nhớ những từ mới trọng đến hiệu quả giao tiếp. Sự thành công trong các trò
nhanh hơn và tốt hơn nhờ bầu không khí thoải mái được chơi này được đánh giá qua nội dung lời nói thay vì hình
tạo ra bằng cách chơi trò chơi [13]. thức. Ngôn ngữ mà người chơi sử dụng trong các trò chơi
Có thể rút ra rằng, ý nghĩa của ngôn ngữ mà người này có thể tự do hơn và đa dạng hơn so với ngôn ngữ
học nghe, đọc, nói và viết sẽ được trải nghiệm một cách trong các trò chơi kiểm soát mã. Lời nói có thể không
sinh động hơn trong một trò chơi và do đó, người học sẽ hoàn hảo, nhưng nếu thông điệp được hiểu đúng thì khi
nhớ rõ hơn về ngôn ngữ mà họ đã học. đó người chơi đã đạt được mục tiêu của mình.
Mỗi trò chơi đều có vai trò riêng của mình trong một
2.2.5. Trò chơi tăng thành tích của người học
chương trình giảng dạy và chúng không những không
Theo như chúng ta biết, trò chơi có thể liên quan đến xung đột về chức năng mà còn hỗ trợ cho nhau. Các trò
tất cả các kĩ năng ngôn ngữ cơ bản, tức là nghe, nói, đọc, chơi ngôn ngữ giúp người học sử dụng ngôn ngữ chính
viết, và thông thường nhiều kĩ năng cùng hội tụ vào một xác, còn các trò chơi giao tiếp nâng cao khả năng sử
trò chơi. Theo Zdybiewska (1994), trò chơi là một cách dụng ngôn ngữ của người học lên mức linh hoạt và hiệu
hay để thực hành ngôn ngữ vì chúng cung cấp một mô quả hơn.
hình về những gì người học sẽ sử dụng ngôn ngữ trong
Hadfield (1999) đưa ra hai cách phân loại các trò chơi
cuộc sống thực [14; tr 6].
ngôn ngữ. Với cách đầu tiên, các trò chơi ngôn ngữ cũng
Như đã nhấn mạnh ở trên, trò chơi có thể tăng động được chia thành hai loại tương tự các trò chơi ngôn ngữ
lực của người học, thúc đẩy tương tác của người học và và trò chơi giao tiếp của Rixon (1992). Trong đó, ông nêu
cải thiện việc tiếp thu của người học. Kết quả là, trò chơi rõ, trò chơi ngôn ngữ tập trung vào độ chính xác, chẳng
có thể tăng thành tích của người học, có nghĩa là điểm số hạn như cung cấp từ trái nghĩa, trong khi trò chơi giao
của người học, khả năng giao tiếp, một số kĩ năng, kiến tiếp tập trung vào việc trao đổi thông tin và ý tưởng,
thức về từ vựng hoặc các kĩ năng ngôn ngữ khác có thể chẳng hạn như hai người xác định sự khác biệt giữa hai
cải thiện. hình ảnh của họ giống nhau nhưng không giống hệt nhau.
Riedel (2008) trong nghiên cứu của mình đã nhận Việc sử dụng ngôn ngữ chính xác mặc dù vẫn quan trọng
định, chúng ta đang dạy một thế hệ người học mới, đòi nhưng là thứ yếu để đạt được mục tiêu giao tiếp [16].
hỏi các chiến lược giảng dạy độc đáo được đưa vào Cách thứ hai, Hadfield phân loại các trò chơi ngôn
thực tế trong lớp học; và khi GV sử dụng các trò chơi ngữ thành nhiều loại khác nhau. Cùng với trò chơi ngôn
vào giảng dạy, HS có lợi thế thể hiện bản thân họ - với ngữ và trò chơi giao tiếp, một số trò chơi sẽ bao hàm cả
một ước muốn lớn hơn để học hỏi và đạt điểm thi cao hai loại như: phân loại, sắp xếp, điền thông tin, đoán chữ,
hơn [15]. tìm kiếm, ghép nối, ghi nhãn, đóng vai [16].
Tóm lại, trò chơi được chứng minh là một công cụ Theo như Lee (2000), được trích dẫn trong nghiên
hữu ích nên được sử dụng thường xuyên trong giảng dạy cứu của hai tác giả Lưu Trọng Tuấn và Nguyễn Thị Minh
ngôn ngữ. Trò chơi không chỉ cung cấp cho người học Doan, 2012), trò chơi được chia thành các loại như sau:
một lớp học có động lực cao, thư giãn, mà quan trọng - Trò chơi cấu trúc; - Trò chơi từ vựng; - Trò chơi chính
nhất là môi trường thực hành có ý nghĩa đối với tất cả các tả; - Trò chơi phát âm; - Trò chơi số; - Trò chơi nghe và

242
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 240-245

làm; - Trò chơi chơi và viết; - Bắt chước và đóng vai; chơi thông qua các công cụ như máy tính, điện thoại
- Trò chơi thảo luận [17]. thông minh, máy tính bảng. Một số trò chơi khá phổ biến
Một cách phân loại trò chơi khác được đề xuất bởi như là: Telephone Game, Crossword, Kim’s Game, Hot
McCallum (1980), bao gồm bảy loại: - Trò chơi cấu trúc; Seat, Meeting People, Jobs and Questions, Hang Man,
- Trò chơi từ vựng; - Trò chơi số; - Trò chơi chính tả; Bingo, Who’s Millionaire?... GV nên lựa chọn khôn
- Trò chơi đối thoại; - Trò chơi viết; - Trò chơi đóng vai ngoan về việc trò chơi nào có thể sử dụng cho việc học
và diễn kịch [18]. hiệu quả nhất. Để đạt được mục đích đó, quyết định quan
trọng của họ phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Có thể thấy, điểm chung của các cách phân loại trò
chơi nêu trên là mỗi loại trò chơi tập trung vào một khía Thứ nhất là yếu tố về độ tuổi của người học. Wright,
cạnh ngôn ngữ hoặc một kĩ năng nhất định tùy theo mục Betteridge và Buckly (1984) nói rằng, “thưởng thức trò
đích và nội dung của bài học. Do đó, GV nên cẩn thận chơi không bị hạn chế theo độ tuổi” [4; tr 2]. Một số
lựa chọn trò chơi phù hợp nhất cho mỗi bài học để người, bất kể tuổi tác, có thể ít quan tâm đến trò chơi hơn
người học và GV có thể hưởng lợi nhiều nhất từ các trò những người khác. Tuy nhiên, kết quả của việc áp dụng
chơi này. trò chơi phụ thuộc nhiều vào sự phù hợp và vai trò của
2.4. Phương pháp áp dụng trò chơi trong giảng dạy người chơi. Tuổi của học viên chi phối lựa chọn trò chơi
ngôn ngữ cho việc dạy ngôn ngữ vì không phải tất cả các trò chơi
2.4.1. Thời điểm sử dụng trò chơi đều phù hợp với mọi người học bất kể độ tuổi của họ, các
nhóm tuổi khác nhau yêu cầu chủ đề, tài liệu và phương
Thông thường, trò chơi ngôn ngữ được sử dụng để
thức trò chơi khác nhau. Ví như sẽ không hợp lí khi cho
lấp chỗ trống ở một vài phút đầu hoặc cuối của một bài
trẻ nhỏ chơi trò Hình ảnh Dominoes - trò chơi yêu cầu
học hoặc chỉ dành cho một số HS nhanh hơn trong khi
khả năng liên kết các khái niệm trừu tượng. Hay mỗi độ
những HS khác chỉ quen với hình thức làm bài tập.
tuổi khác nhau sẽ có phản ứng khác nhau về hoạt động
Không có gì sai trong việc này, nhưng đó là một cái nhìn
chơi trò chơi. Nhóm tuổi nhỏ thường rất sẵn sàng và thích
khá hạn hẹp về trò chơi. Theo Lee (1991), một trò chơi
thú chơi trò chơi. Nhưng lứa tuổi thanh thiếu niên có thể
“không nên được coi là một hoạt động ngoài lề trong
coi là nhóm khó khăn nhất để sử dụng trò chơi vì họ
những khi GV và HS không có việc gì tốt hơn để làm”,
không muốn bị đối xử như trẻ nhỏ. Với lứa tuổi này, tốt
nó phải là trung tâm của việc giảng dạy ngoại ngữ [19].
hơn hết, từ “hoạt động” cũng nên được dùng thay thế từ
Wright, Betteridge và Buckby (1984) cũng nhận định
“trò chơi”. Một lí do được đưa ra là lứa tuổi thanh thiếu
rằng, “trò chơi là một hoạt động thực hành ngôn ngữ
niên có khuynh hướng tự ý thức về bản thân, do đó GV
đậm nét và ý nghĩa, do đó chúng phải được coi là trọng
nên “cân nhắc sự thu mình của họ” khi chọn trò chơi.
tâm cho tiết dạy của GV. Chúng không nên chỉ được sử
Trong trường hợp này, các trò chơi theo cặp hoặc theo
dụng vào những ngày mưa và cuối học kì” [4].
nhóm có thể sẽ hữu ích. Khác với nhóm trẻ em và thanh
Trò chơi có thể được sử dụng để thực hành tất cả các thiếu niên, nhóm người trưởng thành thường thoải mái
kĩ năng: đọc, viết, nghe và nói; trong tất cả các giai đoạn vui vẻ tham gia các trò chơi một cách đáng ngạc nhiên,
của quá trình dạy và học như: trình bày, lặp lại, tái kết
miễn rằng trò chơi được tổ chức một cách khéo léo.
hợp và sử dụng ngôn ngữ tự do; và cho nhiều hình thức
giao tiếp như khuyến khích, phê bình, đồng ý, giải thích. Thứ hai là trình độ ngoại ngữ của người học và kiến
Nói chung, trò chơi có thể là một phần tích hợp của thức đã học. Ví dụ trò chơi thực hành cấu trúc hoặc củng
giáo trình giảng dạy và có thể được sử dụng ở bất kì giai cố một phần ngữ pháp nhất định của ngôn ngữ phải liên
đoạn nào của quá trình dạy ngôn ngữ miễn là chúng phù quan đến khả năng của người học và kiến thức trước đó,
hợp và được lựa chọn một cách cẩn thận. nếu không trò chơi sẽ trở nên khó khăn cho người học.
Tuy nhiên, HS cũng sẽ cảm thấy buồn chán khi chơi các
2.4.2. Lựa chọn trò chơi
trò chơi quá dễ.
Trò chơi có thể được lấy từ nhiều nguồn nhưng không
phải tất cả chúng đều áp dụng được vào lớp học. Các trò Thứ ba là nền tảng kiến thức chung của người học.
chơi có thể được sử dụng phỏng theo nguyên bản hoặc Một số trò chơi cần người chơi có một lượng kiến thức
biến tấu thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế. Trong nhất định về thế giới xung quanh. Ví dụ trò chơi tiếng
thời đại công nghệ thông tin được áp dụng rộng rãi trong Anh nổi tiếng Botticelli. Trong trò chơi này, người thách
giảng dạy như ngày nay, các trò chơi được thiết kế rất thức sẽ nghĩ về một người nổi tiếng hoặc một tác phẩm
phong phú trên nhiều phần mềm hỗ trợ như: PowerPoint, nghệ thuật, văn học,... và nói cho cả nhóm biết chữ cái
Kahoot, Google Forms, Edmodo,... và được tiến hành đầu của tên người hay tác phẩm đó, ví dụ: “P”. Những

243
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 240-245

người chơi còn lại cố gắng đoán xem đó là ai hay thứ gì và cố gắng thực hiện các trò chơi thành công. GV đi
bằng cách suy nghĩ về những câu trả lời bắt đầu bằng chữ quanh lớp học quan sát, khuyến khích HS tham gia vào
cái đó và đặt câu hỏi giống như: “Bạn có phải là họa sĩ trò chơi. Trong một số loại trò chơi, GV thậm chí còn
trừu tượng nổi tiếng không?” (Họ có thể nghĩ về Picasso). tham gia cùng HS. Hầu hết các trò chơi được lựa chọn
Trò chơi sẽ gặp khó khăn nếu người thách thức hoặc đều được chơi giữa các nhóm. Lí do khiến HS làm việc
người chơi không biết Picasso là ai. theo nhóm là khuyến khích HS làm trung gian cho những
Yếu tố cuối cùng là sự tự tin vào bản thân của người người yếu hơn và tạo ra bầu không khí cạnh tranh giữa
học. Nhiều người học không tin rằng mình đã thành công các nhóm.
trừ khi điều đó được xác nhận và khen tặng bởi GV. Bước 3: Kết thúc trò chơi
Trong trường hợp này, những trò chơi trong đó GV là GV tuyên bố người, đội thắng cuộc và giải thưởng,
người phán xử và ghi điểm cho câu trả lời đúng, hoặc sau đó đưa ra phản hồi và nhận xét. Điểm chính ở đây là
những trò chơi yêu cầu người chơi viết hay vẽ, qua đó mang lại những điều tốt nhất cho người học và cho họ
mức độ hoàn thành của người chơi được thể hiện rõ, sẽ thấy rằng tất cả những gì họ đã làm và trải nghiệm với
là một lựa chọn tốt. ngôn ngữ đều thú vị.
Như vậy, để chọn lựa trò chơi thích hợp sử dụng vào 2.5. Một số lưu ý khi áp dụng trò chơi trong giảng dạy
bài giảng, GV cần cân nhắc nhiều yếu tố, trong đó nổi bật tiếng Anh
nhất là các yếu tố về độ tuổi, trình độ ngoại ngữ, nền tảng
Trò chơi có thể được coi là một công cụ để tăng
kiến thức chung và sự tự tin của người học.
động lực học của HS, từ đó cải thiện việc học tập môn
2.4.3. Quá trình áp dụng trò chơi Tiếng Anh. Tuy nhiên, để đạt được điều đó, một số ý
Như đã đề cập ở trên, trò chơi có thể được sử dụng kiến hướng tới khai thác các trò chơi này cũng nên được
trong bất kì kĩ năng nào và vào bất kì giai đoạn nào của xem xét.
kĩ năng đó tùy vào mục đích bài giảng và mục đích áp Trong một lớp học, có rất nhiều HS với cá tính khác
dụng của GV. Dù là loại trò chơi nào, GV cần chuẩn bị nhau: có HS nhiệt tình tham gia các hoạt động trên lớp,
cẩn thận cho từng trò chơi, bao gồm: thời gian, tài liệu, có HS chưa tích cực. Vì vậy, GV nên lựa chọn các trò
phương tiện hỗ trợ, bản trình bày trò chơi, hoạt động chơi hoặc hoạt động trong đó đặt trách nhiệm trên mỗi
trong khi chơi, sau khi chơi. Mỗi trò chơi thường kéo dài cá nhân một cách bình đẳng, các thành viên trong nhóm
từ 12-15 phút, có thể dài hoặc ngắn hơn tùy thuộc vào không thể trốn tránh việc hoàn thành nhiệm vụ nhất
mục đích và yêu cầu của bài học. Ví dụ, trò chơi được áp định. Ngoài ra, cần chú ý nhiều hơn đến những HS nhút
dụng trong giai đoạn khởi động nên kéo dài 3-5 phút là nhát và chậm chạp để họ tự tin hơn tham gia vào lớp
phù hợp. học. Một trong những cách để làm điều này là cung cấp
GV có thể tiến hành trò chơi theo 3 bước như sau: cho HS nhiều cơ hội chiến thắng hơn bằng cách tiến
Bước 1: Trước khi chơi hành nhiều trò chơi có chứa một số yếu tố may mắn, ví
GV giới thiệu trò chơi cho HS, đó là giai đoạn quan dụ như trò chơi Bingo. Đối với những HS không thích
trọng nhất để chơi trò chơi. Để đảm bảo thành công, tất chơi trò chơi, GV cần giải thích những lợi thế của trò
cả các hướng dẫn trong giai đoạn này phải rõ ràng, ngắn chơi, cho họ thấy rằng trò chơi không chỉ là hoạt động
gọn, chính xác, đơn giản nhất có thể. Hướng dẫn trò chơi giải trí mà còn có giá trị giáo dục cao và khuyến khích
bao gồm các bước sau: - Giới thiệu mục đích của trò chơi; họ thử tham gia. GV có thể chỉ định một số HS làm
- Giải thích các quy tắc của trò chơi, số điểm, hoặc lượng trọng tài để đảm bảo công bằng.
thời gian tối đa; - Cung cấp một ví dụ mẫu về trò chơi Ngoài ra, những trò chơi được chuẩn bị bằng hình
cho các sinh viên bắt chước và giúp họ hiểu tất cả các ảnh, thẻ hình hoặc những dụng cụ trực quan có thể thu
hướng dẫn. hút người học nhiều hơn. GV cũng nên có sự lựa chọn
Trong giai đoạn chuẩn bị này, GV đóng một vai trò các trò chơi cho phù hợp với nhu cầu, sở thích, mối quan
quan trọng vì một bài thuyết trình được chuẩn bị kĩ lưỡng tâm của HS và liên quan đến nội dung của bài học.
và chi tiết sẽ đảm bảo tỉ lệ phản hồi cao từ người học. Hướng dẫn của GV cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của
Bước 2: Quá trình chơi trò chơi. Điều này cho thấy rằng mệnh lệnh nên đơn giản
Trong trò chơi, GV nên can thiệp càng ít càng tốt để và ngắn gọn. Các hướng dẫn phải được trình bày theo thứ
tạo ra một bầu không khí riêng cho HS, từ đó họ có thể tự logic với các từ liên tiếp, rõ ràng hoặc các số thứ tự.
tận dụng cơ hội tham gia vào trò chơi một cách tích cực GV có thể sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ ở giai đoạn này nếu

244
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 240-245

cần thiết vì sẽ lãng phí thời gian khi để HS không được [4] Wright, A. - Betteridge, D. - Buckby, M. (1984).
chuẩn bị một cách kĩ lưỡng tham gia vào một hoạt động Games for language learning. Cambridge:
mà họ chưa hiểu đầy đủ, mọi thứ sẽ đi lệch hướng rất Cambridge University Press.
nhanh và sau đó GV sẽ phải dành nhiều thời gian hơn để [5] Lee, S. K. (1995). Creative games for the language
cố gắng khắc phục tình hình. class. Forum, Vol. 33(1), retrieved from
Lưu ý cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng http://eca.state.gov/forum/vols/vol33/no1/p35.htm.
là khâu quản lí lớp học. Trong khi HS đang chơi trò chơi, [6] Richard-Amato, P.A. (1996). Making it happen:
rất nhiều tiếng ồn có thể được tạo ra, đặc biệt là trong các Interaction in the second language classroom (2nd
lớp học lớn. Vì vậy, GV cần phải làm một số công tác ed.). New York: Longman.
quản lí lớp học cũng như đưa ra các quy tắc nhất định để [7] David, K. - Hollowell, J. (1989). Inventing and
kiểm soát tiếng ồn và sự lộn xộn gây ra bởi một vài HS playing games in the English classroom. Oxford:
quá kích động. Oxford University Press.
3. Kết luận [8] Jacobs, G. M., - Kline-Liu, K. (1996). Integrating
Phương pháp sử dụng trò chơi trong giảng dạy ngoại language functions and collaborative skills in the
second language classroom. TESL Reporter, Vol.
ngữ xuất hiện đã lâu nhưng nhìn chung vẫn chưa thực sự
29(1), pp. 21-33.
nhận được sự quan tâm thích đáng từ nhiều GV và các
nhà giáo dục hoặc việc áp dụng chưa mang lại hiệu quả [9] Avedon, E. M. - Sutton-Smith, B. (1971). The study
cao nhất. Nguyên nhân một phần có lẽ do tính ưu việt của of games. London: John Wiley & Sons.
phương pháp này chưa được đánh giá, thấu hiểu một [10] Schultz, M. - Fisher. A. (1988). Interacting in the
cách sâu sắc. Bên cạnh đó, do áp lực về thời gian hoặc language classroom: games for all reasons.
khối lượng kiến thức cần truyền tải mà nhiều GV vẫn lựa Massachusetts: Addison-Wesley Publishing
chọn phương pháp truyền thống là thuyết trình và luyện Company.
tập làm bài hơn là dành thời gian cho HS thực hành thông [11] Richard-Amato, P. A. (1988). Making it happen:
qua các hoạt động trò chơi. Một yếu tố ảnh hưởng khác Interaction in the second language classroom:
là phương pháp trò chơi cần sự chuẩn bị cầu kì, phức tạp From theory to practice. New York: Longman.
hơn trước khi lên lớp và chiếm một khoảng thời gian nhất [12] Nguyen Thi Thanh Huyen - Khuat Thi Thu Nga
định trên lớp để thực hiện; ngoài ra, nếu GV không có sự (2003). The effectiveness learning vocabulary
tinh luyện và linh hoạt, quá trình diễn biến của trò chơi through games. Asian EFL Journal Quarterly, Vol.
có thể vượt ra ngoài tầm kiểm soát của họ, đem lại nhiều 5(4), retrieved from http://www.asian-efl-
khó khăn cho tiết dạy. Tuy nhiên, như đã đề cập trong bài journal.com/dec_03_vn.pdf.
viết, phương pháp này hàm chứa nhiều ưu điểm nổi bật [13] Duong Ngoc Chau (2008). Do games help students
rất đáng được quan tâm, đặc biệt là tạo bầu không khí learn vocabulary effectively? MA thesis, Lac Hong
học tập vui vẻ, giúp tăng cường động lực học tập và đem University.
lại nhiều cơ hội để người học thực hành ngôn ngữ. Chúng [14] Zdybiewska, M. (1994). One-hundred language
tôi hi vọng bài viết có thể cung cấp một cái nhìn đầy đủ, games. Warszawa: WSiP.
trọn vẹn hơn về phương pháp trò chơi trong giảng dạy [15] Riedel, C. (2008). Web 2.0: helping reinvent
ngoại ngữ về các mặt ưu điểm, phương pháp áp dụng education. Retrieved from
cũng như những lưu ý khi lựa chọn trò chơi; qua đó, các http://thejournal.com/articles/2008/01/25/web-20-
thầy, cô giáo sẽ dành cho phương pháp trò chơi một vị trí helping-reinvent-education.aspx.
xứng đáng hơn trong các bài giảng của mình. [16] Hadfield, J. (1999). Beginners’ communication
games. London: Longman.
Tài liệu tham khảo [17] Luu Trong Tuan - Nguyen Thi Minh Doan (2010).
[1] Byrne, D. (1980). English teaching perspectives. Teaching English grammar through games. Studies
London: Longman Group, United Kingdom. in literature and language, Vol. 1(7), pp. 61-75.
[2] Greenall, S. (1990). Language game and activities. [18] Mccallum, G. P. (1980). 101 word games. USA:
Britain: Hulton Education Publication Ltd. Oxford University Press.
[3] Rixon, S. (1992). How to use games in language [19] Lee, W. R. (1991). Language teaching games and
teaching. London: Illustration Macmillan. contests. Oxford: Oxford University Press.

245

You might also like