Professional Documents
Culture Documents
thú
học tập cho học sinh – Trường Tiểu học Chánh Lộ.
TỔ CHỨC MỘT SỐ TRÒ CHƠI MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 4 NHẰM GÂY
HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH
PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong Chương trình giáo dục tiểu học hiện nay, môn Tiếng Việt cùng với các
môn học khác trong nhà trường Tiểu học có những vai trò góp phần quan trọng đào
tạo nên những con người phát triển toàn diện.
Muốn học sinh Tiểu học học tốt được môn Tiếng Việt thì mỗi người giáo viên
không phải chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong Sách giáo khoa
trong các sách hướng dẫn và thiết kế bài giảng một cách dập khuôn, máy móc làm cho
học sinh học tập một cách thụ động. Nếu chỉ dạy học như vậy thì việc học tập của học
sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không cao. Nó là một trong
những nguyên nhân gây ra cản trở việc đào tạo các em thành những con người năng
động, tự tin, sáng tạo sẵn sàng thích ứng với những đổi mới diễn ra hàng ngày.
Yêu cầu của giáo dục hiện nay đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy học ở bậc
Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Vì vậy
người giáo viên phải gây được hứng thú học tập cho các em bằng cách lôi cuốn các
em tham gia vào các hoạt động học tập. Trò chơi học tập là một hoạt động mà các em
hứng thú nhất. Các trò chơi có nội dung học tập lý thú và bổ ích phù hợp với việc
nhận thức của các em. Thông qua các trò chơi các em sẽ lĩnh hội những tri thức một
cách dễ dàng, củng cố, khắc sâu kiến thức một cách vững chắc, tạo cho các em niềm
say mê, hứng thú trong học tập, trong việc làm. Khi chúng ta đưa ra được các trò chơi
một cách thường xuyên, khoa học thì chắc chắn chất lượng DH sẽ ngày một nâng cao.
Chính vì những lý do nêu trên mà tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: Tổ chức một số trò
chơi môn Tiếng Việt lớp 4 nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Bậc Tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc
hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Môn tiếng Việt cũng như những môn học
khác cung cấp những tri thức khoa học ban đầu, những nhận thức về thế giới xung
quanh nhằm phát triển năng lực nhận thức, hoạt động tư duy và bồi dưỡng tình cảm
đạo đức tốt đẹp của con người.
Môn tiếng Việt có khả năng giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện về ngôn ngữ
nói, ngôn ngữ viết, hay những lời văn trong sáng khi viết văn…đều bắt trẻ phải tư
duy, thao tác tư duy cần thiết để con người phát triển toàn diện, hình thành nhân cách
tốt đẹp cho con người lao động trong thời đại mới.
2. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học:
- Ở lứa tuổi Tiểu học cơ thể của trẻ đang trong thời kỳ phát triển hay nói cụ thể là các
hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện vì thế sức dẻo dai của cơ thể còn thấp nên trẻ không
thể làm lâu một cử động đơn điệu, dễ mệt nhất là khi hoạt động quá mạnh và ở môi
trường thiếu dưỡng khí.
- Học sinh Tiểu học nghe giảng rất dễ hiểu nhưng cũng sẽ quên ngay khi chúng
không tập trung cao độ. Vì vậy người giáo viên phải tạo ra hứng thú trong học tập và
phải thường xuyên được luyện tập. Học sinh Tiểu học rất dễ xúc động và thích tiếp
xúc với một sự vật, hiện tượng nào đó nhất là những hình ảnh gây cảm xúc mạnh.
- Trẻ hiếu động, ham hiểu biết cái mới nên dễ gây cảm xúc mới song các em chóng
chán. Do vậy trong dạy học giáo viên phải sử dụng nhiều đồ dùng dạy học, đưa học
sinh đi tham quan, đi thực tế, tăng cường thực hành, tổ chức các trò chơi xen kẽ ... để
củng cố khắc sâu kiến thức
3. Tác dụng của trò chơi trong dạy học:
Hoạt động vui chơi là hoạt động mà động cơ của nó nằm trong chính quá trình
hoạt động trong bản thân trò chơi chứ không nằm ở kết quả chơi. Trò chơi là loại phổ
biến của hoạt động vui chơi là chơi theo luật, luật của trò chơi chính là các quy tắc
định rõ mục đích, kết quả và yêu cầu của hành động trò chơi, luật của trò chơi có thể
tường minh có thể không. Trò chơi học tập là trò chơi mà luật của nó bao gồm các
quy tắc gắn với kiến thức kỹ năng có được trong hoạt động học tập, gắn với nội dung
bài học, giúp học sinh khai thác vốn kinh nghiệm của bản thân để chơi, thông qua
chơi học sinh được vận dụng các kiến thức kỹ năng đã học vào các tình huống của trò
chơi và do đó học sinh được thực hành luyện tập củng cố mở rộng kiến thức kỹ năng
đã học. Như vậy trong trò chơi học tập các kỹ năng môn TV được đưa vào trò chơi.
Chơi là một nhu cầu cần thiết đối với học sinh Tiểu học, có thể nói nó quan trọng
như ăn, ngủ, học tập trong đời sống các em. Chính vì vậy các em luôn tìm mọi cách
và tranh thủ thời gian trong mọi điều kiện để chơi. Được chơi các em sẽ tham gia hết
sức tự giác và chủ động. Khi chơi các em biểu lộ tình cảm rất rõ ràng như niềm vui
khi thắng lợi và buồn bã khi thất bại.
Trò chơi học tập làm thay đổi hình thức hoạt động của học sinh, giúp học sinh tiếp
thu kiến thức một cách tự giác tích cực. Giúp học sinh rèn luyện củng cố kiến thức
đồng thời phát triển vốn kinh nghiệm được tích luỹ qua hoạt động chơi.
Trò chơi học tập rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, thúc đẩy hoạt động trí tuệ, nhờ sử
dụng Trò chơi học tập mà quá trình dạy học trở thành một hoạt động vui và hấp dẫn
hơn, cơ hội học tập đa dạng hơn.
Trò chơi không chỉ là phương tiện mà còn là phương pháp giáo dục.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Học sinh Tiểu học có trí thông minh khá nhạy bén sắc sảo, có óc tưởng tượng
phong phú. Đó là tiền đề tốt cho việc phát triển tư duy nhưng rất dễ bị phân tán, rối
trí nếu bị áp đặt, căng thẳng, quá tài. Chính vì thế nội dung chương trình, phương
pháp giảng dạy, hình thức chuyển tải, truyền đạt làm thế nào cho phù hợp với tâm
sinh lý lứa tuổi là điều không thể xem nhẹ. Đặc biệt đối với học sinh lớp 4, lớp mà các
em vừa mới làm quen với những kiến thức mới mẻ chuyển từ hoạt động vui chơi là
chủ đạo sang hoạt động học tập là chủ đạo.
Muốn giờ học có hiệu quả thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp
dạy học tức là kiểu dạy học Lấy học sinh làm trung tâm hướng tập trung vào học
sinh, trên cơ sở hoạt động của các em. Kiểu dạy này người giáo viên là người định
hướng, tổ chức ra những tình huống học tập nó kích thích óc tò mò và tư duy độc lập.
Muốn các em học được thì trước hết giáo viên phải nắm chắc nội dung của mỗi bài và
lựa chọn, vận dụng các phương pháp sao cho phù hợp, bài nào thì sử dụng các phương
pháp trực quan, thuyết trình, trò chơi ... hoặc bài nào thì sử dụng phương pháp giảng
giải, kiểm tra, thực hành ... nhưng phải chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý của học sinh
Tiểu học.
Học sinh Tiểu học không thể ngồi quá lâu trong giờ học cũng như làm một việc
gì đố nhiều thời gian vì thề giáo viên có thể thay đổi hoạt động học của các em trong
giờ học; cho các em thảo luận, làm bài tập hoặc thông qua trò chơi. Có như vậy mới
gây được hứng thú học tập và khắc sâu được bài học.
III. THỰC TRẠNG:
1. Đối với giáo viên:
Trong nhiều năm qua, mặc dù đã đổi mới phương pháp dạy học Tiếng Việt nhưng
một số giáo viên vẫn còn nặng tâm lý đây là môn học chính nên trong quá trình giảng
dạy họ rất chú trọng việc truyền thụ kiến thức với mục đích giúp học sinh học tốt môn
này. Việc sử dụng trò chơi học tập đối với một số giáo viên còn là hình thức hoặc có
sử dụng trò chơi thì cũng ở mức gượng ép, miễn cưỡng. Mặt khác, còn một số giáo
viên khi sử dụng các trò chơi học tập thì chưa chọn lọc kỹ, không có tác dụng thiết
thực phục vụ mục tiêu của bài học nên việc tổ chức trò chơi chưa đạt hiệu quả.
2. Đối với học sinh:
Thực tế cho thấy, vẫn còn một số đối tượng học sinh thụ động, tự ti, chưa mạnh
dạn tham gia vào các hoạt động học tập. Học sinh chưa tự giác học, chưa có động cơ
học tập. Khả năng học tập của học sinh rất khác nhau, cùng một độ tuổi về trình độ
chung các em có thể chênh lệch nhau. Mỗi em có một khả năng nổi trội riêng nhưng
các em chưa biết phát huy khả năng của mình.
Trước thực trạng đó, tôi thiết nghĩ, mình cần phải thay đổi một cách thức dạy học
mới sao cho học sinh hứng thú, say mê và tích cực chủ động hơn khi học Tiếng Việt.
Qua đó, những kĩ năng giao tiếp ở các em sẽ ngày càng hoàn thiện và phát triển. Và
việc vận dụng trò chơi học tập trong môn Tiếng Việt là hết sức cần thiết.
Trước khi thực hiện đưa các trò chơi vào dạy học trong môn Tiếng Việt tôi có
khảo sát học sinh trong phân môn luyện từ và câu của môn Tiếng Việt lớp 4 bài
“Trạng ngữ” tại lớp 4B và thu được kết quả như sau:
* Kết quả khảo sát
Kết quả khảo sát G K TB Yếu
Tổng số HS 40 13 18 9 0
a. Trò chơi học tập Tiếng Việt kích thích hứng thú nhận thức.
Trò chơi học tập bên cạnh chức năng giải trí còn giúp học sinh tự củng cố kiến
thức, kĩ thuật, thói quen học tập một cách hứng thú, thói quen làm việc theo nhiều quy
mô (cá nhân, nhóm, lớp). Các tiết học có trò chơi sẽ thu hút mức độ tập trung của học
sinh mà không một phương pháp nào sánh được.
b. Trò chơi học tập Tiếng Việt là một trong những phương tiện hình thành các
năng lực trí tuệ.
Hoạt động vui chơi ảnh hưởng mạnh tới sự hình thành tính chủ định của quá trình
tâm lí. Trong trò chơi, ở trẻ bắt đầu hình thành sự chú ý có chủ định và ghi nhớ có chủ
định. Khi chơi trẻ tập trung chú ý hơn và ghi nhớ được nhiều hơn. Bởi vì bản thân trò
chơi đòi hỏi trẻ phải tập trung vào những dữ kiện và đối tượng được đưa vào tình
huống của trò chơi cũng như nội dung của trò chơi.
c. Trò chơi học tập Tiếng Việt ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển ngôn ngữ và
trí tưởng tượng.
Vui chơi ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển ngôn ngữ của học sinh nói chung và của
học sinh Tiểu học nói riêng. Tình huống trò chơi đòi hỏi mỗi đứa trẻ tham gia vào trò
chơi phải có một trình độ giao tiếp bằng ngôn ngữ nhất định
d. Trò chơi học tập Tiếng Việt thực hiện chức năng hoạt động luyện tập thực hành.
Các em được hình thành những kĩ năng phân biệt được bản chất trong các kiến thức
tiếng Việt ở mỗi trò chơi, hiểu được sâu sắc và đầy đủ hơn các tri thức đã học. Với
các trò chơi Thi viết câu gồm các chữ giống nhau ở chữ cái đầu, Thi đặt câu theo
mẫu, Thi tìm từ ghép có cùng một tiếng… các em hiểu rõ hơn về cấu tạo của từ, của
câu tiếng Việt, góp phần hình thành và rèn luyện kĩ năng đặt câu, viết đoạn văn.
đ. Trò chơi học tập Tiếng Việt giúp hình thành đức tính trung thực, có kỉ luật, tính
độc lập, tự chủ, có ý thức cao.
Khi tham gia trò chơi, học sinh phải tuân thủ theo những quy tắc nhất định (đã được
nêu trước trò chơi). Việc các em tiếp nhận và tuân theo những quy tắc đó giúp các em
có khả năng tự kiềm tra và kiểm tra lẫn nhau trong trò chơi. Khi tham gia vào trò
chơi, nhập vai quan hệ với các bạn cùng chơi buộc các em phải đem những hành động
của mình phục tùng những yêu cầu nhất định bắt nguồn từ ý đồ chung của trò chơi.
+ Nêu lên luật chơi: chỉ rõ qui tắc của hành động chơi quy định đối với người chơi,
quy định thắng thua của trò chơi.
+ Số người tham gia chơi: Cần chỉ rõ số người tham gia trò chơi.
+ Nêu lên cách chơi.
b. Cách tổ chức trò chơi:
Thời gian tiến hành : thường từ 5 - 7 phút
- Đầu tiên là giới thiệu trò chơi:
+ Nêu tên trò chơi
+ Hướng dẫn cách chơi bằng cách vừa mô tả vừa thực hành, nên rõ luật chơi.
- Chơi thử và qua đó nhấn mạnh luật chơi.
- Chơi thật.
- Nhận xét kết quả chơi, thái độ của ngươi tham dự, giáo viên có thể nêu thêm
những tri thức được học tập qua trò chơi, những sai lầm cần tránh.
- Thưởng - phạt: Phân minh, đúng luật chơi, sao cho người chơi chấp nhận thoải mái
và tự giác làm trò chơi thêm hấp dẫn, kích thích học tập của học sinh. Phạt những học
sinh phạm luật chơi bằng những hình thức đơn giản, vui (như chào các bạn thắng
cuộc, hát một bài, nhảy lò cò ....)
2. Giới thiệu một số trò trong môn tiếng Việt lớp 4
Sau đây tôi xin giới thiệu một số trò chơi tiêu biểu mà tôi đã áp dụng trong quá
trình dạy học cho học sinh lớp 4.
Ví dụ : Bài tập 1 tiết Luyện từ và câu: Danh từ trang 9, lớp 4, tập 1 KNTT. Điền vào
chỗ trống vần ut hay uc. Mục tiêu của bài tập là học sinh nhận diện được các danh từ
chỉ người, sự vật, hiện tượng tự nhiên, thời gian.
Khi đó ta có thể tổ chức trò chơi có nội dung: Xếp các tiếng trong tập hợp sau thành 4
nhóm, một nhóm gồm từ chỉ người, một nhóm gồm từ chỉ vật, một nhóm gồm từ chỉ
hiện tượng tự nhiên và một nhóm gồm từ chỉ thời gian. Khi đó ta có thể tổ chức trò
chơi có nội dung: tìm từ chỉ sự vật, người, hiện tượng tự nhiên, thời gian dưới hình
thức thi đua giữa các nhóm.
Tiến hành thiết kế trò chơi
Giáo viên tiến hành thiết kế trò chơi có hình thức chơi rõ ràng (người chơi, cách
chơi…), nội dung thực hiện trò chơi phải đảm bảo nội dung bài tập của Sách giáo
khoa hoặc bổ sung thêm nội dung tùy vào việc xác định mục tiêu bài tập cần rèn của
giáo viên. Đồng thời thông qua đó rèn những kĩ năng cần thiết cho học sinh.
Một nội dung trò chơi có thể được thể hiện thành các hình thức tổ chức trò chơi
khác nhau.
Ví dụ: Phân môn luyện từ và câu bài “Trạng ngữ chỉ thời gian, nơi chốn” trang
49, tập 2 KNTT.
Nội dung trò chơi xếp các từ trong tập hợp sau thành hai nhóm : một nhóm gồm
trạng ngữ chỉ thời gian , một nhóm gồm trạng ngữ chỉ nơi chốn
Ta có thể có các hình thức tổ chức chơi như sau:
Trò chơi chung sức.
Giáo viên phát cho mỗi nhóm một tờ giấy. Theo lệnh của giáo viên, từng nhóm
bàn bạc với nhau để thực hiện yêu cầu của trò chơi. Khi nhóm đã thống nhất thì ghi
kết quả vào giấy. Ghi xong, dán tờ giấy của nhóm lên bảng lớp. Giáo viên sẽ tính
điểm các nhóm theo hai chuẩn: Chuẩn chính xác và chuẩn nhanh nhẹn.
* Trò chơi ‘’Chọn ô số ‘’
Trò chơi được vận dụng vào phân môn Tập làm văn, bài: Viết bài văn miêu tả con vật,
Tiếng Việt 4, tập 1, trang 128.
- Mục tiêu : Giúp học sinh:
Phát triển vốn từ ngữ miêu tả con vật, đặc biệt là các từ miêu tả về hoạt động thường
xuyên của con vật. Phát triển kĩ năng trình bày của học sinh.
- Chuẩn bị:
Một bộ ảnh chụp con vật ở các tư thế hoạt động khác nhau có đánh số từ 1 đến hết số
ảnh chuẩn bị được.
Bảng phụ có kẻ sẵn ô số như sau:
1 2 3
4 5 6
7 8 9
- Tiến hành:
Giáo viên gọi một học sinh lên bảng tham gia trò chơi ( khuyến khích học sinh xung
phong ). Học sinh được gọi lên chọn một số bất kì trên bảng phụ. Sau đó giáo viên
( hoặc cử một học sinh khác) dán bức ảnh có số tương ứng lên bảng, người chơi có
nhiệm vụ miêu tả về hoạt động của con vật trong ảnh (từ 2-3 câu).
Giáo viên gọi tiếp một số học sinh khác tham gia trò chơi (số lượng phụ thuộc vào
thời gian dành cho trò chơi).
Khi trò chơi kết thúc, giáo viên và cả lớp bình chọn người chơi miêu tả hay nhất.
Học sinh nào có số phiếu bình chọn nhiều nhất sẽ là người thắng cuộc.
* Lưu ý: Giáo viên có thể thay đổi hình thức chơi bằng cách chia số học sinh trong
lớp thành 3 dãy thi đua với nhau.
* Trò chơi ‘’Đếm số cánh hoa ‘’
Trò chơi được vận dụng để củng cố kiến thức của bài luyện từ và câu: trạng ngữ chỉ
nơi chốn, thời gian trang 49, tập 2 KNTT.
Bài tập 3: Thi tìm nhanh từ trạng ngữ chỉ nơi chốn, thời gian.
Tìm các từ ngữ chỉ nơi chốn, thời gian.
Trạng Trạng
ngữ chỉ ngữ chỉ
thời gian. nơi chốn.
Rèn kĩ năng kể đúng nội dung từng đoạn của câu chuyện dựa vào tranh vẽ, gợi
ý trong SGK hoặc tranh có sẵn của bộ đồ dùng dạy học.
Luyện trí nhớ trau dồi năng lực diễn cảm mạch lạc đủ ý chính trong câu chuyện
mình định kể.
Chuẩn bị:
Có bộ tranh kể chuyện, ghi rõ tranh 1,2,3,4;
4 học sinh làm ban giám khảo và 1 thư kí;
Có tiêu chuẩn cho điểm chi tiết;
Có bảng điểm chi tiết sẵn
Tranh Tên HS Điểm Điểm Điểm Điểm Điểm Xếp loại
số GK1 GK2 GK3 GK4 TB
1
2...
Mỗi giám khảo có một bộ thẻ điểm từ điểm 5,6,7,8,9,10 được làm bằng bìa
cứng (kích thước 10cm x 20 cm).
Cách tiến hành: Giáo viên tổ chức cho học sinh thi kể từng đoạn theo tranh của câu
chuyện mà goá viên đưa ra (4 học sinh thi kể) BGK cho điểm từng người thi kể, thư
kí ghi chép điểm của từng người kể.
Kết thức cuộc thi thư kí tính điểm trung bình của từng học sinh tham gia thi và
xếp hạng nhất, nhì theo từng tranh và đánh giá cả 4 tranh của câu chuyện.
* Lưu ý: Tuỳ điều kiện thời gian và hoàn cảnh cho phép mà giáo viên có thể cho thi
kể theo từng tranh hoặc cả một câu chuyện.
* Trò chơi: Nghe đọc đoạn đoán tên bài
Mục đích:
Rèn kĩ năng đọc đúng, rõ ràng một đoạn văn trong bài đã học (tập đợc lớp 4) tập 1;
Luyện kĩ năng nghe hiểu và nhớ tên các bài tập đọc đã học.
Chuẩn bị:
Yêu cầu học sinh ôn lại các bài tập đọc đã học ở Tiếng Việt lớp 4 tập 1nhằm phục vụ
cho các tiết ôn tập ở giữa học kì I, cuối học kì I, giữa học kì II, cuối học kì II.
+ Ôn tập giữa học kì 1: Điều kì diệu, Thi nhạc, Anh em sinh đôi, Công chúa và
người dẫn chuyện, Nghệ sĩ trống, Những bức chân dung,....
Cách tiến hành:
+ Giáo viên nêu yêu cầu chơi:
- 2 nhóm tham gia chơi, ngồi đối diện nhau, cử nhóm trưởng điều hành chung cả
nhóm, bốc thăm để chọn nhóm đọc trước.
- Nhóm bốc được chọn đọc trước được mở sách giáo khoa để chọn đoạn đọc (trong
một số bài tập đọc đã nêu ra), nhóm còn lại nghe để đoán tên bài tập đọc đã học. sau
khi đã đoán xong thì nhóm 2 lại thực hiện đọc đoạn văn đã chọn và nhóm 1 lại đoán
tên bài tập đọc đã học, mỗi nhóm được thực hiện 3 lần đoán tên bài và đọc.
- 2 nhóm tham gia chơi đều được tính điểm để so sánh khi trò chơi kết thúc, giáo
viên sẽ chọn nhóm nào được nhiều điểm hơn nhóm đó sẽ thắng cuộc
* Lưu ý khi đoán tên bài cả hai nhóm đều không được mở SGK, nhóm 2 có thể lấy
nội dung của bài tập đọc mà nhóm 1đọc nhưng cần chọn đoạn văn khác trong bài,
đoạn văn nên ngắn gọn không quá dài.
Ví dụ:
Nhóm 2: Nhóm 1:
Sau ve sầu, gà trống đĩnh đạc bước lên, kiêu hãnh ngẩng Thi nhạc
đầu với cái mũ đỏ chói. Gà mở đầu khúc nhạc “Bình minh”
bằng tiết tấu nhanh, khoẻ, đầy hứng khởi: Tờ-réc... Tờ-re-
te-te-te... Phần cuối bản nhạc là niềm mãn nguyện khi thấy
mặt trời lên rực rỡ. Tiết tấu trở nên vui nhộn khi gà sử dụng
bộ gõ: Cục – cục!... Cục – cục!.... Cục – cục!...
Nhóm 1: Nhóm 2:
Một lần, hai anh em tham gia hội thao của trường. Long vô Anh em sinh đôi
cùng lo lắng. Hai anh em mặc đồng phục và đội mũ giống
hệt nhau, bạn bè lại cổ vũ nhầm mắt thôi. Nhưng khi thi
đấu, Long nhận ra các bạn không nhầm lẫn chút nào. Các
bạn cổ vũ Long đuổi theo Khánh khi Khánh dẫn đầu đường
chạy. Các bạn cuống quýt gọi Khánh thay thế khi thấy
Long nhăn nhó vì đau trong trận kéo co... Hội thao kết thúc
trong nỗi ngạc nhiên ngập tràn của Long.
Nhóm 2: Nhóm 1:
Về nhà, Giét-xi hào hứng kể cho mẹ nghe. Cả tuần ấy, tối Công chúa và người
nào mẹ cũng tập lời thoại cùng Giét-xi. Giét-xi siêng năng dẫn chuyện
luyện tập và nhớ lời thoại rất nhanh. Nhưng khi lên sân
khấu diễn thử, mọi lời thoại trong đầu Giét-xi đều bay đi
đâu hết. Cuối cùng, cô giáo đành nói:
- Giét-xi à, cô đã bổ sung vai dẫn chuyện cho vở kịch. Cô
nghĩ vai đó hợp với em hơn. Em có đồng ý đổi vai không?
Nhóm 1: Nhóm 2:
Thế rồi, Mi-lô thuyết phục cha cho cô tham gia một lớp Nghệ sĩ trống
nhạc cụ. Trống tim-pan-ni, trống công-ga, trống bông-gô,...
loại nào cô cũng chơi được. Thầy cô nhận ra tài năng của
Mi-lô và bắt đầu dạy có mỗi ngày.
Nhóm 2: Nhóm 1:
Từ hôm đó, Màu Nước vô cùng bận rộn vì các cô bé đến Những bức chân
đặt vẽ tranh. Ai cũng muốn được về mắt thật to, lông mi dung
thật dài và miệng thật nhỏ. Màu Nước đã giải thích với các
cô bé rằng mỗi người có thể đẹp một cách khác nhau,
không phải cứ mắt to, miệng nhỏ... mới là đẹp, nhưng các
cô bé vẫn đòi cậu phải vẽ theo ý mình.
- Những kinh nghiệm áp dụng sáng kiến là: Sử dụng trò chơi nhằm gây hứng thú học
tập, khắc sâu kiến thức, tạo được mối quan hệ thân thiết cho học sinh khi hoạt động
chơi mà học.
PHẦN III: KẾT LUẬN
I. Những bài học kinh nghiệm:
- Trong thời gian tiến hành việc vận dụng các trò chơi học tập vào thực tế giảng dạy
môn Tiếng Việt ở tiểu học, tôi nhận thấy không khí trong những giờ học trở nên sôi
nổi hơn, học sinh rất tích cực, các em chuyển từ thụ động sang chủ động chiếm lĩnh
kiến thức, thích thú với những hình thức học tập mới lạ. Ngoài ra những kĩ năng sử
dụng Tiếng Việt trong giao tiếp của các em phát triển vượt bậc. Những học sinh khá
thì ngày càng tự tin năng động, có trách nhiệm cao trong việc học tập còn những học
sinh thụ động thì trở nên tích cực hơn, bắt đầu biết chia sẻ, hợp tác với các bạn để
hoàn thành một nhiệm vụ học tập. Về phía bản thân tôi, tôi cảm thấy nhẹ nhàng hơn,
không còn mệt mỏi khi truyền thụ kiến thức cho học sinh. Vì kiến thức được các em
tiếp thu một cách chủ động tích cực thông qua trò chơi. Kĩ năng vận dụng trò chơi của
tôi linh hoạt hơn, thành thạo hơn. Tôi có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc lựa chọn
trò chơi sao cho phù hợp nhất, đảm bảo rèn đúng kĩ năng cho học sinh theo mục tiêu
bài tập. Từ đó khả năng sáng tạo được nâng lên một bước, giúp cho cho tôi thiết kế
được nhiều trò chơi học tập một cách nhanh nhạy hơn. Việc sử dụng trò chơi học tập
trong tiết học chính là tạo ra một môi trường học tập mà học sinh có thể tích cực chủ
động hơn. Các em mạnh dạn tham gia các hoạt động. Từ đó những kĩ năng giao tiếp
được phát triển. Sự say mê học tập của các em là nguồn động viên thúc đẩy tôi phải
luôn vận dụng các trò chơi học tập vào tiết học. Đồng thời luôn tìm tòi, nghiên cứu
thiết kế các trò chơi mới để lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập.
II. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu:
Sử dụng trò chơi với nhiều hình thức, làm cho lớp học thêm sinh động, học sinh
tiếp thu bài nhanh, không gây sự mệt mỏi nhàm chán trong quá trình học tập. Trò chơi
học tập phải có luật chơi rõ ràng, đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện, không đòi hỏi thời
gian dài cho việc huấn luyện.Trò chơi cần diễn ra trong một thời gian hợp lí, phù hợp
với tất cả các đối tượng học sinh. Sử dụng đúng lúc, đúng chỗ các trò chơi học tập sẽ
có tác dụng rất tích cực, kích thích hứng thú học tập giúp tiết học đạt hiệu quả cao.
Không lạm dụng trò chơi học tập, biến cả tiết học thành tiết chơi hoặc tổ chức quá
nhiều trò chơi trong tiết học gây cho học sinh sự mệt mỏi. Tránh lặp đi lặp lại trò chơi
học tập trong tiết học sẽ không hấp dẫn học sinh.
III. Khả năng ứng dụng và triển khai:
- Sáng kiến này có khả năng ứng dụng cho tất cả các phân môn trong môn Tiếng Việt
của lớp 4, ngoài ra nhiều trò chơi tôi đưa ra có thể dạy cả trong quá trình thực hiện bài
mới hay phần cung cấp kiến thức cho học sinh hoặc phần ôn tập vào giữa kì và cuối kì
cho các em.
- Trong quá trình nghiên cứu tôi thấy được các giải pháp của sáng kiến không mang
tính áp đặt cho bất kì một giáo viên nào, mà nó có tính chất tham khảo và vận dụng
linh hoạt vào từng tiết dạy của mỗi giáo viên.
IV. Kiến nghị, đề xuất:
- Để giúp đội ngũ giáo viên chúng tôi giảng dạy có hiệu quả hơn, tôi xin mạnh
dạn đưa ra một số đề xuất sau:
- Tăng cường sử dụng trò chơi học tập trong các tiết dạy của môn Tiếng Việt.
- Giáo viên phải có thời gian để nghiên cứu các trò chơi một cách kĩ lưỡng,
tránh gây sự nhàm chán trong quá trình thực hiện.
- Trên đây là một số suy nghĩ của tôi về Tổ chức một số trò chơi môn Tiếng
Việt lớp 4 nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh.
Rất mong nhận được ý kiến đóng góp chân thành của các bạn đồng nghiệp, giúp
cho việc tổ chức và sử dụng trò chơi học tập Tiếng Việt đạt hiệu quả tốt nhất góp
phần đổi mới phương pháp dạy học thành công.
*Những tồn tại của đề tài:
Do thời gian nghiên cứu ít, phạm vi hẹp, khả năng nghiên cứu có hạn nên đề tài còn
tồn tại một số hạn chế về cơ sở lý luận cũng như phương pháp nghiên cứu.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- SGK Tiếng Việt lớp 4 KNTT.
- Tham khảo các trang web về nghiên cứu khoa học.
- Tham khảo một số hình thức, cách tổ chức hoạt động dạy học của các anh chị, bạn
bè đồng nghiệp đi trước.