You are on page 1of 21

NHỮNG VẤN ĐỀ TRỌNG TÂM

Môn: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin 1


(Phần tự luận)
1. Phân tích nội dung và cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trong lịch sử của
triết học
Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tâm và vật, giữa ý thức

và vật chất. Nó là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó sẽ quyết định cơ sở để giải quyết những vấn đề

khác của triết học, điều đó đã được chứng minh trong lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp của triết

học, mặt khác nó cũng là là tiêu chuẩn để xác lập trường thế giới quan của các triết gia và học thuyết

của họ. Ăngghen cũng đã trả lời cho câu hỏi “Vấn đề cơ bản của triết học là gì?”, theo ông: “Vấn đề

cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”. Vì

việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học. Vấn

đề cơ bản của triết học có hai mặt:

- Mặt thứ nhất, giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào quyết định cái nào?

- Mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Việc giải hai mặt cơ bản

của triết học là xuất phát điểm của các trường phái triết học.

Trả lời mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã xuất hiện nhất nguyên luận khi lấy việc thừa nhận

chỉ một trong hai thực thể (vật chất hoặc ý thức) là cái có trước và quyết định cái kia, nghĩa là cho

rằng thế giới chỉ có một nguồn gốc duy nhất. Nhất nguyên luận bao gồm nhất nguyên luận duy tâm

(chủ nghĩa duy tâm, triết học duy tâm) và nhất nguyên luận duy vật (chủ nghĩa duy vật, triết học duy

vật).Chủ nghĩa duy tâm(ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tình thứ 2,ý thức quyết định vật chất) có 2

hình thức cơ bản là: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.

Chủ nghĩa duy vật(vật chất là tính thứ nhất,ý thức là tính thứ 2,vật chất là cái có trước và quyết định ý

thức) đã trải qua 3 hình thức cơ bản là:CNDV chất phác, CNDV siêu hình, CNDV biện chứng.

Việc giải quyết mặt thứ 2 trong vấn đề cơ bản của triết học chia quan điểm về nhận thức thành 2 phái:

Khả tri luận-phái bao hàm những quan điểm thừa nhận khả năng nhận thức của con người và bất khả

tri luận-phái bao hàm những quan điểm phủ nhận khả năng đó.

3b

2. Phân tích nội dung cơ bản của định nghĩa vật chất của Lênin
Định nghĩa: Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác
Nội dung cơ bản:
Vật chất là phạm trù triết học: “Vật chất” trong định nghĩa của Lênin là một phạm trù triết học, tức
là phạm trù rộng nhất, khái quát nhất, rộng đến cùng cực, không thể có gì khác rộng hơn.
Vật chất là thực tại khách quan: Vật chất tồn tại khách quan trong hiện thực, nằm bên ngoài ý thức
và không phụ thuộc vào ý thức của con người. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ bản của
vật chất, là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Dù con
người đã nhận thức được hay chưa, dù con người có mong muốn hay không thì vật chất luôn
tồn tại vĩnh viễn trong vũ trụ.
Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác: Vật chất, tức là thực tại khách quan, vật chất
dưới các dạng cụ thể khi tác động(trực tiếp hoặc gián tiếp) đến các giác quan của chúng ta thì
có thể gây nên cảm giác ở con người, là cái có trước cảm giác (nói rộng ra là ý thức). Như thế,
vật chất “sinh ra trước”, là tính thứ nhất. Cảm giác (ý thức) “sinh ra sau”, là tính thứ hai. Do
tính trước – sau như vậy, vật chất không lệ thuộc vào ý thức, nhưng ý thức lệ thuộc vào vật
chất.
Vật chất được giác quan của con người chép lại, chụp lại, phản ánh: Vật chất là một phạm trù
triết học, tuy rộng đến cùng cực nhưng được biểu hiện qua các dạng cụ thể (sắt, nhôm, ánh
sáng mặt trời, khí lạnh, cái bàn, quả táo…) mà các giác quan của con người (tai, mắt, mũi…)
có thể cảm nhận được. Giác quan của con người, với những năng lực vốn có, có thể chép lại,
chụp lại, phản ánh sự tồn tại của vật chất, tức là nhận thức được vật chất. Sự chép lại, chụp lại,
phản ánh của giác quan đối với vật chất càng rõ ràng, sắc nét thì nhận thức của con người về
vật chất càng sâu sắc, toàn diện. Nói rộng ra, tư duy, ý thức, tư tưởng, tình cảm… của con
người chẳng qua chỉ là sự phản ánh, là hình ảnh của vật chất trong bộ óc con người.

Ý nghĩa định nghĩa:


Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường DVBC
Khắc phục được những sai lầm trong quan điểm về vật chất của các nhà
triết học duy vật trước Mác
Bác bỏ thuyết bất khả tri (con ng không có năng lực nhận thức thế giới)
Mở đường cho khoa học tự nhiên phát triển, giúp các nhà khoa học có
thêm niềm tin, tri thức để tiếp tục đi sâu nghiên cứu thế giới
Xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội và khẳng định vật chất trong lĩnh
lực xã hội chính là tồn tại xã hội.

3. Các hình thức tồn tại của vật chất (Vận động, không gian, thời gian)

Vận động.
Khái niệm vận động:

+ Ph.Ăngghen viết: " Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là phương thức tồn tại của
vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra
trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy ".
+ Vận động là phương thức tồn tại của vật chất: Vật chất tự tồn tại thông qua vận động và nhờ vật chất
vận động mà con người nhận biết được thế giới.
+ Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất: Vật chất và vận động thống nhất, k tách rời nhau, vì
vận động bao giờ cũng là vận động của một dạng vật chất nào đó, không có vận động tách rời vật chất
và cũng không có dạng vật chất nào tồn tại mà không thể hiện thông qua vận động.
+ Nguồn gốc vận động: nằm trong mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật. Vận động của vật chất là tự
thân vận động.
Đứng im là trạng thái đb của vận động, đó là vận động trong thế giới cân bằng và đứng im là hiện
tượng tương đối, tạm thời
.Đứng im là trạng thái bảo tồn những thuộc tính vốn có của vật chất và được xác định trong một giới hạn thời
gian mà ở đó sự vật chưa thay đổi thành sự vật khác.

Đứng im có tính tương đối và tạm thời (còn vận động là tuyệt đối) bởi vì đứng im chỉ
diễn ra trong một hình thức vận động nhất định, trong một quan hệ nhất định và trong
một thời gian nhất định mà thôi. Như vậy, đứng im chẳng qua chỉ là một trạng thái
đặc biệt của vận động của vật chất. Đó là vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định
tương đối của các sự vật hiện tượng. Do đó vận động bao hàm sự đứng im.
Ph.Ăngghen kết luận:" mọi sự cân bằng chỉ là tương đối và tạm thời ".

Các hình thức vận động cơ bản: Căn cứ theo những tiêu chí phân loại khác nhau, người ta có thể
chia vận động của vật chất thành các hình thức vận động khác nhau. Dựa trên những thành tựu
của khoa học đương thời, Ph.Ăngghen đã phân chia vận động thành các hình thức cơ bản sau
(cho đến nay cách phân loại phổ biến nhất trong khoa học vẫn là chia vận động thành 5 hình
thức cơ bản như Ph.Ăngghen đã tổng kết):

+ Vận động cơ học : sự dịch chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
+ Vận động vật lý: sự vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá trình nhiệt,
điện...
+ Vận động hóa học : quá trình hóa hợp và phân giải các chất, vận động của các nguyên tử.
+ Vận động sinh học : sự trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi trường.
+ Vận động xã hội: sự biến đổi của lịch sử và xã hội, sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội này
bằng các quá trình xã hội khác.
Trong sự tồn tại của mình, mỗi một sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau.
Tuy nhiên bản thân sự tồn tại của sự vật ấy bao giờ cũng đặc trưng bằng một hình thức vận động cao
nhất mà nó có.

Không gian và thời gian


Khái niệm không gian, thời gian:
Không gian: Bất kỳ một dạng cụ thể của vật chất nào cũng đều chiếm một vị trí nhất định, ở vào
một khung cảnh nhất định trong tương quan về mặt kích thước (hình thức kết cấu, độ dài ngắn,
cao thấp...) so với các khách thể khác. Các hình thức tồn tại như vậy của vật thể được gọi là
không gian. Hay nói cách khác, không gian là hình thức tồn tại của vật chất, vì vật chất luôn
tồn tại trong những dạng vật chất cụ thể, có kết cấu và liên hệ với những dạng khác theo một
trật tự phân bố nhất định.
Thời gian: Sự tồn tại của các khách thể vật chất bên cạnh các quan hệ không gian, còn được biểu
hiện ở mức độ tồn tại lâu dài hay nhanh chóng của hiện tượng, ở sự kế tiếp trước sau của các
giai đoạn vận động... Những thuộc tính này của sự vật được đặc trưng bằng phạm trù thời gian.
Hay nói cách khác thời gian là hình thức tồn tại của vật chất, biểu thị sự tồn tại, vận động kế
tiếp nhau theo trình tự xuất hiện, phát triển và mất đi của các sự vật, hiện tượng.
Tính chất của không gian và thời gian.
Tính khách quan: Không gian, thời gian là thuộc tính của vật chất tồn tại gắn liền với nhau và gắn
liền với vật chất. Vật chất tồn tại khách quan, do đó không gian và thời gian cũng tồn tại khách
quan.
Tính vĩnh cửu và vô tận: Theo Ph.Ăngghen, vật chất vĩnh cửu và vô tận trong không gian và trong
thời gian. Những thành tựu của vật lý học vi mô cũng1 như những thành tựu của vũ trụ học
ngày càng xác nhận tính vĩnh cửu và vô tận của không gian và thời gian.
Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian: Tính ba chiều của không gian là
chiều dài, chiều rộng và chiều cao. Tính một chiều của thời gian là chiều từ quá khứ đến tương
lai.

Như vậy, không gian, thời gian và vận động là những hình thức, phương thức tồn tại tất yếu, vốn có
của vật chất. Chỉ có vật chất tồn tại, vận động vĩnh viễn trong thời gian và không gian, và chỉ có
không gian, thời gian của vật chất đang vận động. Con người nhận thức vật chất thông qua các hình
thức và phương thức tồn tại của nó.
4. Phân tích nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức
Có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức, trong đó, hai yếu tố cơ bản nhất là bộ óc
người và mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo nên hiện tượng phản ánh năng
động, sáng tạo.
Về bộ óc người: Đây là một dạng vật chất sống đặc biệt, trải qua quá trình tiến hóa lâu dài về mặt
sinh vật- xã hội.Ý thức là thuộc tính riêng của dạng vật chất này. Tức là cỉ con ng mới có ý thức. Ý
thức phụ thuộc vào bộ óc con người nên khi bộ óc bị tổn thương thì ý thức không diễn ra bình thường
hoặc bị rối loạn.
Tuy nhiên, chỉ có bộ óc không thôi mà không có thế giới bên ngoài tác động vào bộ óc, thì cũng không
có ý thức. Do vậy, nguồn gốc tự nhiên cần có yếu tố thứ hai là thế giới khách quan bên ngoài.
Về sự tác động của thế giới bên ngoài lên bộ óc người:
– Trong tự nhiên, mọi đối tượng vật chất (con khỉ, con voi, cái bàn, mặt nước, cái gương…) đều có
thuộc tính chung, phổ biến là phản ánh. Đó là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất
này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng.
Các hình thức phản ánh tương ứng với quá trình tiến hóa của các dạng vật chất tự nhiên:
+ Phản ánh vật lý, hóa học là hình thức phản ánh thấp nhất, đặc trưng cho vật chất vô sinh. Trong mối
quan hệ này, thế giới khách quan được phản ánh thông qua hoạt động của các giác quan đã tác động
đến bộ óc người, hình thành nên ý thức.
VD: thanh sắt bị môi trường làm hoen gỉ, tiếng vọng của âm thanh từ vách núi, sự chiếu sáng...
+Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu sinh, được thể
hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ.
VD: lá cây phát triển theo hướng có nhiều ánh sáng và rễ cây phát triển theo hướng có nhiều
nước và chất dinh dưỡng.
+Phản ánh tâm lý được thực hiện trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh thông qua cơ chế phản xạ có
điều kiện. Nó được hình thành từ kinh nghiệm hoạt động của chính bản thân động vật. Như vậy trong
những điều kiện nhất định, những kích thích của môi trường xung quanh tác động lên con vật gây nên
hưng phấn trong bộ óc chúng, hình thành mối liên hệ tạm thời và làm xuất hiện ở trong đó hình ảnh
của sự vật. Hình ảnh hình thành trên cơ sở những liên hệ tạm thời như vậy ở bộ óc con vật đó là phản
ánh tâm lý. Tâm lý động vật là trình độ phản ánh cao nhất của sự phản ánh khi con người chưa xuất
hiện. Tuy nhiên tâm lý động vật chưa phải là ý thức.
+Phản ánh ý thức là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức phản ánh, Phản ánh năng động,
sáng tạo được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người khi thế giới khách
quan tác động lên các giác quan của con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông
tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin. Sự phản ánh năng
động, sáng tạo này được gọi là ý thức.
(Những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng nhưng chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra
đời của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. Ý thức không chỉ là sản phẩm của sự phát triển lâu
dài của giới tự nhiên, mà quan trọng hơn nó còn là sản phẩm của xã hội. Ý thức được sản sinh với xã
hội loài người và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người.
Nguồn gốc xã hội của ý thức
Có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc xã hội của ý thức, trong đó, cơ bản nhất và trực tiếp nhất là lao
động và ngôn ngữ.
Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu tồn
tại và phát triển của mình. Lao động cũng là quá trình vừa làm thay đổi cấu trúc cơ thể người, vừa làm
giới tự nhiên bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động,...của nó qua những
hiện tượng mà con người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của các
giác quan, tác động đến bộ óc người và bằng hoạt động của bộ óc, tri thức nói riêng, ý thức nói chung
về thế giới khách quan hình thành và phát triển.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức. Không có ngôn
ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính xã hội. Mối quan hệ
giữa các thành viên trong quá trình lao động làm nảy sinh ở họ nhu cầu phải có phương tiện để giao
tiếp, trao đổi tư tưởng. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình lao
động. Nhờ ngôn ngữ, con người đã không chỉ giao tiếp, trao đổi mà còn khái quát, tổng kết, đúc kết
thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế hệ này qua thế hệ khác
Như vậy, nguồn gốc cơ bản, trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức
là lao động. Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã
ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, đã làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thanh bộ óc của con
người, khiến cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức.
Kết luận: Ý thức là phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần phản ánh thế giới vật chất,
diễn ra trong bộ óc người, được hình thành trong quá trình lao động và được diễn đạt nhờ ngôn
ngữ.
5. Nguyên lý về sự phát triển. Phát triển và tăng trưởng
Phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà rất quanh co phức tạp, thậm chí có bước lùi tạm
thời.
Sự phát triển là kết quả quá trình thay đổi dần về lượng, dẫn đến thay đổi dần về chất, là quá trình
diễn ra theo đường xoáy ốc.
Nguyên lý sự phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan của sự vật,
hiện tượng. Đây là quá trình thống nhất giữa các nhân tố tiêu cực và kế thừa. Nhằm nâng cao
nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng cũ trong hình thái của sự vật, hiện tượng mới.
So sánh
Vận động
Phát triển

là biến đổi nói chung, chưa nói lên Là khuynh hướng vận động đi lên, từ đơn
khuynh hướng cụ thể: tiến bộ hay lạc hậu giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn
Nguyên lý về sự phát triển:
Quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển
Quy luật lượng - chất chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển
Quy luật phủ định chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển
b. Tính chất của sự phát triển
* Tính khách quan:
- Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân SV, do mâu thuẫn chính bên trong SV quy
định. Đó là quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn bên trong SV.
- Sự phát triển của các SV, hiện tượng không phụ thuộc vào ý muốn, của con người.
* Tính phổ biến
Sự phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, tư duy, ở bất cứ sự vật nào, hiện tượng nào của
thế giới khách quan
*Tính đa dạng, phong phú
- Mọi SV, HT lại có quá trình phát triển khác nhau. Tồn tại ở thời gian, không gian khác nhau, SV sẽ
phát triển khác nhau.
- Trong quá trình phát triển, SV còn chịu tác động của các SV, HT khác, của các điều kiện, có thể thúc
đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của SV, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của SV,
thậm chí làm cho sự vật thụt lùi.
* Tính kế thừa:a
Các SV, HT mới ra đời tiến bộ hơn so với cái cũ bởi nó kế thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ
Ý nghĩa phương pháp luận:
Quan điểm phát triển
Khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến
Nhìn nhận sự vật theo con đường biện chứng, bao hàm mâu thuẫn
Quan điểm lịch sử cụ thể: giải quyết các vấn đề phù hợp với thực tiễn
Phát Triển và tăng trưởng (cái này t ko rõ):
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần để phát triển kinh tế. ở những nước đang phát triển, đặc biệt
là những nước đang phát triển có mức thu nhập bình quân đầu người thấp, nếu không đạt được
mức tăng trưởng tương đối cao và liên tục trong nhiều năm, thì khó có điều kiện kinh tế để cải
thiện mọi mặt của đời sống kinh tế- xã hội.
Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế chỉ là điều kiện cần, không phải là điều kiện đủ để phát triển kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế có thể được thực hiện bởi những phương thức khác nhau và do đó có thể
dẫn đến những kết quả khác nhau. Nếu phương thức tăng trưởng kinh tế không gắn với sự thúc
đẩy cơ cấu kinh tế xã hội theo hướng tiến bộ, không làm gia tăng, mà thậm chí còn làm xói
mòn năng lực nội sinh của nền kinh tế, sẽ không thể tạo ra sự phát triển kinh tế. Nếu phương
thức tăng trưởng kinh tế chỉ đem lại lợi ích kinh tế cho nhóm dân cư này, cho vùng này, mà
không hoặc đem lại lợi ích không đáng kể cho nhóm dân cư khác, vùng khác thì tăng trưởng
kinh tế như vậy sẽ khoét sâu vào bất bình đẳng xã hội. Những phương thức tăng trưởng như
vậy, rốt cuộc, cũng chỉ là kết quả ngắn hạn, không những không thúc đẩy được phát triển, mà
bản thân nó cũng khó có thể tồn tại được lâu dài.
6. Khái niệm, mối quan hệ biện chứng Nguyên nhân-kết quả, ý nghĩa. Nêu ví dụ
Khái niệm nguyên nhân và kết quả
– Nguyên nhân là phạm trù triết học chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong cùng một sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một hoặc hơn một sự biến đổi nhất định.
– Kết quả là phạm trù triết học chỉ sự biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau của các mặt trong
một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
Ví dụ: Sự tác động qua lại giữa chiếc dùi và mặt trống là nguyên nhân của tiếng trống kêu. Tiếng trống
kêu là kết quả của sự tác động giữa chiếc dùi và mặt trống.
Tính chất của mối quan hệ nhân quả:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguyên nhân và kết quả có mối quan hệ qua
lại như sau
1. Nguyên nhân sản sinh ra kết quả.

Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết quả. Còn kết quả chỉ xuất
hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu tác động.

Tuy nhiên, không phải sự nối tiếp nào trong thời gian của các hiện tượng cũng đều biểu hiện mối liên
hệ nhân quả. Ví dụ: Ngày không phải là nguyên nhân của đêm và ngược lại.

Cùng một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể.
Ngược lại, cùng một kết quả có thể được gây nên bởi những nguyên nhân khác nhau tác động
riêng lẻ hoặc cùng một lúc.
Nếu nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì sẽ gây nên ảnh hưởng
cùng chiều, đẩy nhanh sự hình thành kết quả. Ngược lại, nếu các nguyên nhân khác nhau tác
động lên sự vật theo các hướng khác nhau thì sẽ làm suy yếu, thậm chí triệt tiêu các tác dụng
của nhau.
Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả, có thể phân loại
nguyên nhân thành:
Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu.
Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài.
Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.

2. Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân.

Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không giữ vai trò thụ động đối
với nguyên nhân, mà sẽ có ảnh hưởng tích cực ngược trở lại đối với nguyên nhân.

Ví dụ: Nhúng một thanh sắt vừa mới nung đỏ vào chậu nước nguội, thì nhiệt độ của nước trong chậu
sẽ tăng lên. Sau đó, nước trong chậu do tăng nhiệt độ sẽ kìm hãm tốc độ tỏa nhiệt của thanh sắt.
3. Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả

Điều này xảy ra khi ta xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối quan hệ khác nhau. Một hiện
tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong mối quan hệ khác là kết quả và
ngược lại.
Một hiện tượng nào đó là kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra, đến lượt mình sẽ trở thành
nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba… Và quá trình này tiếp tục mãi không bao giờ kết thúc,
tạo nên một chuỗi nhân quả vô cùng tận. Trong chuỗi đó không có khâu nào là bắt đầu hay
cuối cùng.

Ý nghĩa phương pháp luận:


1. Trong nhận thức
– Vì mối liên hệ nhân quả tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí con người nên chỉ có thể tìm
nguyên nhân của hiện tượng trong chính thế giới của hiện tượng chứ không thể ở bên ngoài.
– Do nguyên nhân luôn có trước kết quả nên khi tìm nguyên nhân của một hiện tượng, ta cần tìm trong
những mặt, những sự kiện, những mối liên hệ đã xảy ra trước khi hiện tượng đó xuất hiện.
– Bởi dấu hiệu đặc trưng của mối liên hệ nhân quả là nguyên nhân sinh ra kết quả, nên khi xác định
nguyên nhân của hiện tượng cần đặc biệt chú ý dấu hiệu đặc trưng này.
– Vì một hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra nên trong quá trình tìm nguyên nhân của một
hiện tượng, ta cần hết sức tỉ mỉ, thận trọng, vạch ra được kết quả tác động của từng mặt, từng sự kiện,
từng mối liên hệ cũng như từng tổ hợp khác nhau của chúng. Từ đó ta mới có thể xác định đúng về
nguyên nhân sinh ra hiện tượng.
– Vì một hiện tượng trong mối quan hệ này là kết quả, trong mối quan hệ khác có thể là nguyên nhân,
nên để hiểu rõ tác dụng của hiện tượng ấy, cần xem xét nó trong những mối quan hệ mà nó giữ vai trò
là nguyên nhân cũng như trong những quan hệ nó là kết quả.
2. Trong hoạt động thực tiễn
Vì mối liên hệ nhân quả mang tính tất yếu nên ta có thể dựa vào mối liên hệ nhân quả để hành động
thực tiễn. Khi hành động, ta cần chú ý:
– Muốn loại bỏ một hiện tượng nào đó, cần loại bỏ nguyên nhân làm nảy sinh ra nó.
– Muốn cho hiện tượng xuất hiện, cần tạo ra nguyên nhân cùng những điều kiện cần thiết. Vì hiện
tượng này có thể do nhiều nguyên nhân tác động riêng lẻ hoặc đồng thời nên cần tùy hoàn cảnh cụ thể
mà lựa chọn phương pháp thích hợp.
– Trong hoạt động thực tiễn cần dựa trước hết vào các nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân bên
trong. Vì chúng giữ vai trò quyết định trong sự xuất hiện, vận động và tiêu vong của hiện tượng.
– Để đẩy nhanh hay kìm hãm, loại trừ sự biến đổi của một hiện tượng xã hội nào đó, ta cần làm cho
các nguyên nhân chủ quan tác động cùng chiều, hay lệch hoặc ngược chiều với chiều vận động của
mối quan hệ nhân quả khách quan.
7. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

Liên hệ: là liên hệ giữa 2 đối tượng mà sự thay đổi của 1 trong số chúng nhất định
làm đối tượng kia thay đổi
Mối liên hệ: chỉ sự quy định, sự tác động chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, htg,
hay giữa các mặt, các bộ phận của sự vật ở trong thế giới.
Mối liên hệ phổ biến: chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ, chỉ những mối liên hệ
tồn tại ở nhiều sự vật, htg của thế giới hay nói cách khác: chỉ tính phổ biến của
các mối liên hệ; chỉ sự khái quát các mối liên hệ có tính phổ biến. VD: mlh giữa
cái chung- riêng, nguyên nhân- kết quả…
Trong thế giới, không có sv, htg nào không bị quy định. Mỗi sv, htg của thế giới vật
chất bằng cách này hay cách khác có liên hệ với các sv, htg khác, bị quy định bởi
chúng, đến lượt mình lại quy định sv, htg xung quanh mình.

Mối liên hệ làm điều kiện, tiền đề, quy định lần nhau giữa các sv, htg
mlh tác động qua lại giữa các mặt của sv, htg
chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt của sv, htg

=) Phạm vi bao quát của mlh phổ biến k chỉ giới hạn ở các đtg vật chất mà còn mở rộng
sang liên hệ giữa các dtg tinh thần và giữa chúng với dtg vật chất sinh ra chúng.

Tính chất của mối liên hệ phổ biến:

Tính khách quan: Sự vật, htg đa dạng, nhưng cũng đều là các dạng tồn tại của
vật chất, mà vật chất là thực tại khách quan, vậy nên, ,mối liên hệ phổ
biến diễn ra khách quan, độc lập với ý thức của con người. Con nguwoif
chỉ nhận thức sự vật thông qua các mối liên hệ vốn có của nó. VD: mối
liên hệ giữa một con vật với quá trình đồng hóa, dị hóa, sinh trưởng...nếu
con vật đó tách rời khỏi các mối liên hệ đó thì nó sẽ chết
Tính phổ biến: Bất kỳ sự vật nào, ở k gian nào, lĩnh vực nào cũng đều có mối
liên hệ với các sv khác, các bộ phận trong cấu trúc của sv cũng có mối
liên hệ. VD: Trong tự nhiên: định luật vạn vật hấp dẫn của Niuton ; trong
xã hội: mlh giữa ng với ng, với cộng đồng, mlh giữa kte và ctri, đọa
đức…; trong tư duy: từ tư duy đơn giản đến phức tạp, trừu trượng…
Tính đa dạng, phong phú: Mỗi sv có nhiều mlh, mỗi mlh có vai trò riêng
trong tồn tại của sv. VD: cùng là con ng nhưng ở mỗi giai đoạn phát triển
có nhu cầu về nước khác nhau...

Sự phân chia các mối liên hệ :

theo k gian: bên trong, bên ngoài


theo thời gian: chủ yếu, thứ yếu
théo cách tác động: trực tiếp, gián tiếp

Ý nghĩa ppl:

Khi xem xét sv, htg ta phải dựa trên Quan điểm toàn diện:

% xem xét mlh giữa các bộ phận của chính sv đó cũng như mlh với các sv khác
% hoạt động thực tiễn cần biến đổi mlh nội tại của sv cũng như mlh vơi sv khác

Quan điểm lịch sử - cụ thể: nhận thức sv cần phải chú ý tới điều kiện, hoàn cảnh lịch
sử cụ thể, moi trg cụ thể sv đó tồn tại và phát triển

“Chân lý sẽ sai lầm nếu như nó bị đẩy ra ngoài giới hạn tồn tại của nó”

8. Khái niệm, mối quan hệ biện chứng Nội dung-Hình thức và ý nghĩa. Nêu ví dụ.

I. Khái niệm
– Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật.
Ví dụ: Nội dung của chiếc xe hơi là có 04 bánh cao su, chứa được 4-6 người, sử dụng nhiên liệu là
xăng hoặc dầu, tốc độ chạy từ 30 – 200 km/h.
– Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền
vững giữa các yếu tố của nó.
Cần phân biệt giữa phạm trù “hình thức” trong triết học với hình thức bên ngoài của sự vật. Phạm trù
“hình thức” chủ yếu để chỉ hình thức bên trong của sự vật, tức là cơ cấu bên trong của nội dung.
Hình thức bên trong là quan trọng nhất, hình thức bên ngoài chỉ biểu hiện những nét riêng biệt của nội
dung.
Ví dụ: Hình thức của chiếc xe hơi là các bộ phận được làm từ thép, nhựa, cao su…, động cơ được bố
trí ở phần trước của xe, có nút đề khởi động động cơ, có ghế lái xe và ghế ngồi đệm mút…
II. Mối quan hệ biện chứng
1. Nội dung và hình thức thống nhất và gắn bó khăng khít với nhau.
– Bất kỳ sự vật nào cũng phải có đồng thời nội dung và hình thức. Không có sự vật nào chỉ có nội
dung mà không có hình thức, hoặc chỉ có hình thức mà không có nội dung. Do vậy, nội dung và hình
thức phải thống nhất với nhau thì sự vật mới tồn tại.
– Sự vật được cấu tạo nên từ những mặt, những yếu tố… Nhưng những mặt, những yếu tố này không
tách rời nhau, mà thống nhất, gắn kết với nhau.
Như thế, những mặt, những yếu tố… vừa là chất liệu làm nên nội dung, vừa tham gia vào các mối liên
hệ tạo nên hình thức. Do đó, nội dung và hình thức không tách rời nhau mà gắn bó hết sức chặt chẽ
với nhau.
Không có một hình thức nào không chứa đựng nội dung, và cũng không có nội dung nào lại không tồn
tại trong hình thức.
– Cùng một nội dung, trong tình hình phát triển khác nhau, có thể có nhiều hình thức. Ngược lại, cùng
một hình thức có thể thể hiện những nội dung khác nhau.
Ví dụ:
Nội dung của ngôi nhà là để ở, ở trong có nhiều đồ gia dụng. Hình thức ban đầu của ngôi nhà là có 02
phòng ngủ, 01 phòng khách… Chủ nhà thu hẹp diện tích phòng khách để có 03 phòng ngủ. Như vậy,
hình thức ngôi là đã thay đổi.
Một thời gian sau, chủ nhà bán nhà, người khác sử dụng chính căn nhà đó làm văn phòng. Khi đó, nội
dung căn nhà đã thay đổi.
2. Nội dung quyết định hình thức.
Trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, nội dung có vai trò quyết định đến hình thức.
Nội dung bao giờ cũng là mặt động nhất; nó có khuynh hướng chủ đạo là biến đổi. Còn hình thức là
mặt tương đối bền vững; khuynh hướng chủ đạo của nó là ổn định.
Sự biến đổi, phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi, phát triển của nội dung. Còn
hình thức cũng biến đổi, nhưng chậm hơn, ít hơn so với nội dung.
Khi nội dung biến đổi thì hình thức buộc phải biến đổi theo cho phù hợp với nội dung mới.
Ví dụ: Nội dung quan hệ giữa anh A và chị B là quan hệ bạn bè, khi đó hình thức quan hệ giữa hai
người không có “giấy chứng nhận”. Khi anh A và chị B kết hôn, nội dung quan hệ đã thay đổi, thì
hình thức quan hệ buộc phải thay đổi khi hai người buộc phải có “giấy chứng nhận kết hôn”.
3. Hình thức không thụ động mà tác động trở lại nội dung.
– Tuy nội dung giữ vai trò quyết định so với hình thức nhưng điều đó không có nghĩa là hình thức chỉ
“ngoan ngoãn” đi theo nội dung. Trái lại, hình thức luôn độc lập nhất định và tác động tích cực trở lại
nội dung.
Khi phù hợp với nội dung, hình thức sẽ thúc đẩy sự phát triển của nội dung. Ngược lại, nếu không phù
hợp, hình thức sẽ kìm hãm nội dung phát triển tích cực.
– Sự tác động qua lại giữa nội dung và hình thức diễn ra trong suốt quá trình phát triển của sự vật. Lúc
đầu, những biến đổi trong nội dung chưa ảnh hưởng đến hệ thống mối liên hệ tương đối bền vững của
hình thức. Nhưng khi những biến đổi đó tiếp tục diễn ra thì tới một lúc nào đó, hệ thống mối liên hệ
tương đối cứng nhắc đó trở nên chật hẹp và kìm hãm sự phát triển của nội dung. Lúc này, hình thức
không phù hợp với nội dung nữa.
Tới một lúc nào đó, nội dung và hình thức xung đột sâu sắc. Nội dung mới sẽ phá bỏ hình thức cũ,
hình thức mới sẽ hình thành. Trên cơ sở hình thức mới, nội dung mới tiếp tục biến đổi, phát triển và
chuyển sang trạng thái mới về chất.
III. Ý nghĩa phương pháp luận
1. Không tách rời nội dung với hình thức.
Do nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau nên trong hoạt động thực tiễn, ta cần chống
lại mọi khuynh hướng tách rời nội dung với hình thức. Ở đây cần chống lại hai thái cực sai lầm:
+ Hoặc là tuyệt đối hóa hình thức, xem thường nội dung.
Ví dụ: Trong cuộc sống chỉ coi trọng vật chất xa hoa mà coi nhẹ tâm hồn con người.
+ Hoặc là tuyệt đối hóa nội dung, xem thường hình thức.
Ví dụ: Trong cuộc sống, chỉ biết đến rèn luyện nhân cách, tâm hồn mà không chú ý đến phương tiện
vật chất tối thiểu.
2. Cần căn cứ trước hết vào nội dung để xét đoán sự vật.
Vì nội dung quyết định hình thức nên để xét đoán sự vật nào đấy, cần căn cứ trước hết vào nội dung
của nó. Và nếu muốn làm biến đổi sự vật thì cần tác động để thay đổi trước hết nội dung của nó.
3. Phải theo dõi sát mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.
Vì hình thức có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triển của dung, nên trong hoạt động thực tiễn cần
luôn theo dõi mối quan hệ giữa hình thức và nội dung của sự vật để có thể kịp thời phát hiện, can
thiệp vào tiến trình phát triển của sự vật theo hướng có lợi nhất.
Nếu muốn sự vật phát triển tiếp, cần tạo điều kiện để hình thức phù hợp với nội dung. Ngược lại, nếu
thấy sự vật phát triển lên sẽ có hại, cần tìm cách để hình thức không phù hợp với nội dung.
4. Cần sáng tạo lựa chọn các hình thức của sự vật.
– Vì cùng một nội dung, trong tình hình phát triển khác nhau, có thể có nhiều hình thức, ngược lại,
cùng một hình thức có thể thể hiện những nội dung khác nhau, nên cần sử dụng một cách sáng tạo mọi
loại hình thức có thể có (mới và cũ), kể cả phải cải biến những hình thức cũ vốn có, để phục vụ hiệu
quả cho việc thực hiện những nhiệm vụ thực tiễn.
Ở đây cũng cần tránh hai thái cực sai lầm:
+ Hoặc chỉ bám lấy hình thức cũ, bảo thủ, trì trệ mà không áp dụng cái mới.
+ Hoặc phủ nhận, bỏ qua hoàn toàn cái cũ trong hoàn cảnh mới. Chủ quan, nóng vội, thay đổi hình
thức một cách tùy tiện, không có căn cứ.
9. Nội dung quy luật từ những sự thay đổi về lượng dẫn tới thay đổi về chất và ngược
lại. Lấy ví dụ để vận dụng:

Khái niệm về chất và khái niệm về lượng


Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm hai mặt chất và lượng. Hai mặt đó thống nhất hữu cơ
với nhau trong sự vật, hiện tượng.
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống
nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho ssự thống nhất giữa mặt chất và mặt lượng, chúng
tác động qua lại lẫn nhau. Trong sự vật, quy định về lượng không bao giờ tồn tại nếu không có
tính quy định về chất và ngược lại. Vì vậy, sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng đến
sự thay đổi về chất của nó và ngược lại, sự thay đổi về chất của sự vật tương ứng với thay đổi
về lượng của nó.
Sự biến đổi về lượng có thể xảy ra theo haiự vật là nó chứ không phải là cái khác.
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô,
trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất
Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là hướng: sự tăng lên hoặc giảm đi về lượng dẫn đến sự
biến đổi ngay hoặc thay đổi dần dần về chất. Do chất là cái tương đối ổn định còn lượng là cái
thường xuyên biến đổi nên ở một giới hạn nhất định khi lượng của sự vật thay đổi chưa dẫn
đến sự thay đổi về chất của nó. Giới hạn đó được gọi là độ.
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn mà ở đó sự thay đổi về lượng của sự vật
chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy. Độ là mối liên hệ giữa lượng và chất của sự vật,
ở đó thể hiện sự thống nhất giữa chất và lượng của sự vật. Trong độ, sự vật vẫn là nó chứ chưa
biến thành cái khác.
Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Khi lượng
thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất. Giới hạn đó
chính là điểm nút.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm
thay đổi về chất của sự vật. Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm cho chất mới của
nó ra đời. Lượng mới và chất mới của sự vật thống nhất với nhau tạo nên độ mới và điểm nút
mới của sự vật đó, quá trình này diễn ra liên tiếp trong sự vật và vì vậy sự vật luôn phát triển
chừng nào nó còn tồn tại.
Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó thay đổi gây ra gọi là bước nhảy.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về
lượng của sự vật trước đó gây nên.
Bước nhảy là sự kết thúc của một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai
đoạn phát triển mới. Đó là sự gián đoạn trong quá trình vận động và phát triển liên tục của sự
vật. Có thể nói trong quá trình phát triển của sự vật, sự gián đoạn là tiền đề cho sự liên tục và
sự liên tục là sự kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn.
Chất mới của sự vật chỉ có thể xuất hiện khi sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút. Chất mới của
sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng đã thay đổi của sự vật, chất mới ấy có thể làm thay đổi
kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.
Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất và
lượng. Sự thay đổi dần về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước
nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại với lượng dẫn đến sự thay đổi của lượng mới. Quá
trình đó liên tục diễn ra, tạo thành cách thức phổ biến của các quá trình vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Ý nghĩa phương pháp luận
Vì bất kỳ sự vật nào cũng có hai phương diện chất và lượng tồn tại trong tính quy định lẫn nhau,
tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau, do đó trong nhận thức cần phải coi trọng cả hai chỉ tiêu,
tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật.
Cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất của sự vật; đồng thời phát huy tác
động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật.
Cần khắc phục tư tưởng nôn nóng, tả khuynh và tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong công tác thực
tiễn.
Cần phải vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, lĩnh vực
cụ thể.
=> Ví dụ vận dụng: Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng-chất vào tìm hiểu về
cách thức vận động của quá trình tích lũy kiến thức của học sinh từ đó đưa ra giải pháp nhằm khắc
phục những điểm thiếu sót và hạn chế của hiện tượng:
Quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh, sinh viên đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát
triển của xã hội, của đất nước. Bởi chính quá trình này tạo ra những con người có đủ năng lực để tiếp
quản đất nước, đưa đất nước phát triển sánh vai với các cường quốc năm châu. Vì vậy, mỗi học sinh,
sinh viên cần phải có nhận thức rõ ràng, đúng đắn về vấn đề này, phải tích đủ lượng tới giới hạn điểm
nút thì mới được thực hiện bước nhảy, không được nôn nóng, đốt cháy giai đoạn. Hiện nay, kiểu học
tín chỉ đã tạo điều kiện cho những sinh viên cảm thấy mình đủ năng lực có thể đăng ký học vượt để ra
trường sớm. Tuy nhiên cũng có không ít sinh viên đăng ký học vượt nhưng không đủ khả năng để
theo, dẫn đến hậu quả là phải thi lại chính những môn đã đăng ký học vượt. Điều này cũng có nghĩa là
các sinh viên đó chưa tích lũy đủ về lượng đến giới hạn điểm nút mà đã thực hiện bước nhảy, đi ngược
lại với quy luật lượng – chất, và hậu quả tất yếu là sự thất bại. Bên cạnh đó, thực trạng nền giáo dục
của nước ta hiện nay vẫn còn tồn tại căn bệnh thành tích, đặc biệt là ở bậc tiểu học và trung học cơ sở.
Tức là học sinh chưa tích lũy đủ lượng cần thiết đã được tạo điều kiện để thực hiện thành công bước
nhảy, điều này đã khiến cho nền giáo dục của chúng ta có những người không có cả “chất” và
“lượng”, dẫn đến những vụ việc rất vô lý như học sinh đi học không viết nổi tên mình mà vẫn được
lên lớp, chỉ vì nếu cho ở lại sẽ làm ảnh hưởng đến thành tích phổ cập giáo dục của trường. Ví dụ như
vụ việc vào tháng 10/2014, chị Hoàng Thị Thu (trú xóm Hồng Tiến, xã Xuân Giang, huyện Nghi
Xuân, Hà Tĩnh) không đồng ý con trai mình là Bảo Quân bị nhà trường “bắt ép” lên lớp 2. Phụ huynh
này đã xin cho con học lại lớp 1, vì cháu chưa thuộc hết bảng chữ cái. Các chữ O, A…, em cũng
không biết. Tuy nhiên, yêu cầu cho con học lại lớp 1 của chị Thu không được giáo viên chủ nhiệm
chấp thuận, vì ảnh hưởng thành tích phổ cập giáo dục của nhà trường. Đến gặp ban giám hiệu, chị
cũng nhận được cái lắc đầu vì lý do tương tự. Như vậy, có thể khẳng định việc đốt cháy giai đoạn theo
khuynh hướng tả khuynh là một hành động sai lầm, tuy nhiên, sự bảo thủ, trì trệ theo khuynh hướng
hữu khuynh cũng như vậy. Nếu lượng đã tích đủ, đạt đến điểm nút mà vẫn không thực hiện bước nhảy
thì quan niệm phát triển cũng chỉ là sự tiến hóa đơn thuần về lượng, không phải về chất, như thế thì sự
vật sẽ không phát triển được. Bên cạnh đó, do hình thức bước nhảy của sự vật rất đa dạng, phong phú
nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy trong những
điều kiện, lĩnh vực cụ thể. Trong quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh không thể áp dụng hình thức
bước nhảy đột biến, không thể có chuyện học sinh mới đi học đã có thể tham gia kì thi tốt nghiệp, mà
phải thực hiện bước nhảy dần dần: đó là vượt qua từng bài kiểm tra nhỏ, rồi đến bài kiểm tra học kì và
bài thi tốt nghiệp, có như vậy mới đúng với quy luật và đạt được hiệu quả.
10. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mối quan hệ biện chứng của LLSX và
QHSX. Vận dụng lý luận về mối quan hệ này để xem xét vấn đề thực tiễn đổi mới ở
nước ta hiện nay.
Khái niệm lực lượng sản xuất
Khái niệm lực lượng sản xuất dùng để chỉ tổng thể các yếu tố cấu thành nội dung vật chất, kỹ
thuật, công nghệ,... của quá trình sản xuất, tạo thành năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên
của con người. Với nghĩa như vậy, lực lượng sản xuất cũng đóng vai trò phản ánh căn bản
trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người.
Các yếu tố (nhân tố) tạo thành lực lượng sản xuất gồm có: tư liệu sản xuất (trong đó, công cụ sản
xuất là yếu tố phản ánh rõ ràng nhất trình độ chinh phục tự nhiên của con người) và người lao
động (trong đó năng lực sáng tạo của nó là yếu tố đặc biệt quan trọng). Trong hai nhóm yếu tố
nói trên, người lao động là nhân tố quan trọng nhất (bởi vì, tư liệu sản xuất có nguồn gốc từ lao
động của con người và được sử dụng bởi con người).
Khái niệm quan hệ sản xuất
Khái niệm quan hệ sản xuất dùng để chỉ tổng thể mối quan hệ kinh tế (quan hệ giữa người với
người về mặt thực hiện lợi ích vật chất trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội).
Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức - quản
lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó. Những
quan hệ sản xuất này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn nhau trên
cơ sở quyết định của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
LLSX quyết định QHSX
LLSX quy định sự hình thành biến đổi và phát triển của LLSX là khuynh hướng chung của xã hội
là không ngừng biến đổi và phát triển, sự phát triển đó bao giờ cũng bắt nguồn từ biến đổi và
phát triển của LLSX trước hết là công cụ lao động như vậy chính LLSX là yếu tố động nhất
cách mạng nhất của phương thức sản xuất có tác dụng quyết định đối với phương thức sản xuất
nên nó là nội dung của quá trình sản xuất.
Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quy định hình thức do đó LLSX quy
định QHSX. Trình độ sản xuất ở trình độ tính chất nào thì QHSX ở tính chất đó khi LLSX phát
triển thì QHSX phải biến đổi theo cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX.
+ Tính chất của LLSX thể hiện tính chất cá nhân và tính chất xã hội hóa.
Θ Tính chất cá nhân phản ánh sản xuất còn ở trình độ thủ công thô sơ 1 người có thể làm ra 1 sản
phẩm.
Θ Tính chất xã hội hóa phản ánh sản xuất ở trình độ cao sản phẩm làm ra là kết quả hợp tác của nhiều
người.
+ Trình độ của LLSX được thể hiện trước hết là sự phát triển của lực lượng lao động ở việc ứng dụng
công nghệ vào sản xuất ở kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người ở trình độ tổ chức quản lý
phân công lao động trong xã hội, trình độ LLSX càng cao thì sự phân công lao động càng tỉ mỉ.
⇒ Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là không tách rời nhau của LLSX nói lên cả tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất.
+ Khi LLSX phát triển đến 1 trình độ mới QHSX không phù hợp với LLSX nữa sẽ nảy sinh mâu
thuẫn gay gắt dẫn đến việc xóa bỏ QHSX cũ lỗi thời lạc hậu thay thế bằng QHSX mới phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của LLSX để mở đường thúc đẩy LLSX phát triển.
Như vậy sự phù hợp biện chứng giữa LLSX và QHSX được hiểu ra là phù hợp- không phù hợp- phù
hợp tạo nên sự phát triển không ngừng của lịch sử xã hội loài người đưa xã hội loài người chuyển từ
phương thức sản xuất này sang phương thức sản xuất mới cao hơn tiên tiến hơn từ phương thức sản
xuất nguyên thủy lên phương thức sản xuất phong kiến- phương thức sản xuất TBCN- phương thức
sản xuất CSCN mà giai đoạn thấp là CNXH.
QHSX tác động trở lại đối với LLSX.
Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, quy định tổ chức quản lý tác động trực tiếp đến
lợi ích của các bên tham gia sản xuất, lợi ích của người lao động, chủ đầu tư, của xã hội từ đó
hình thành hệ thống những yếu tố thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX được thể hiện ở 2 mặt.
+ Khi QHSX phù hợp với tính chất trình độ LLSX sẽ thúc đẩy LLSX phát triển mạnh mẽ đó là sự kết
hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành của QHSX và sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành
nên LLSX, giữa QHSX và LLSX phải đem lại những phương thức liên kết phù hợp có hiệu quả cao.
+ Khi QHSX không phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX sẽ kìm hãm LLSX. Khi QHSX trở
nên lỗi thời lạc hậu so với sự phát triển của LLSX sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX nó trở thành lực
cản lớn nhất đối với sản xuất, đối với sự phát triển của toàn xã hội. Khi QHSX “đi trước” một cách
tách rời hay “tiên tiến” giả tạo so với sự phát triển của LLSX sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Như vậy để giải quyết mâu thuẫn giữa QHSX và LLSX phải thông qua hoạt động của con
người trong xã hội có đối kháng giai cấp mâu thuẫn đó chỉ được giải quyết triệt để bằng cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa chứ không phải bằng sự điều hòa, điều chỉnh hay thích nghi.
Quy luật QHSX phù hợp với tính chất trình độ của LLSX có vị trí vô cùng quan trọng. Là quy luật phổ
biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại, là quy luật cơ bản nhất chi phối sự vận động và
phát triển của nền sản xuất xã hội nó là nguồn gốc sâu xa của sự phát triển đưa xã hội từ hình thái kinh
tế này sang hình thái kinh tế xã hội khác cao hơn. Nó tồn tại trong mọi chế độ kể cả chế độ XHCN.
Trong CNXH mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX vẫn là khách quan cũng biểu hiện dưới hình thức phù
hợp- không phù hợp- phù hợp… và đó là nguồn gốc động lực của sự vận động và phát triển của LLSX
nhưng mâu thuẫn ấy không phải là mâu thuẫn đối kháng như trong các chế độ xã hội có chế độ tư hữu
tư nhân về TLSX.
Vận dụng lý luận về mối quan hệ này để xem xét vấn đề thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện
nay.
Trước đổi mới: Chúng ta vận dụng quy luật này chưa tốt cả nhận thức và hoạt động thực tiễn xóa
bỏ chế độ tư hữu tư nhân về TLSX một cách ồ ạt trong khi đó đang tạo địa bàn cho sự phát
triển của LLSX. Xây dựng chế độ công hữu về TLSX một cách tràn lan, trong khi đó trình độ
LLSX còn thấp kém và phát triển không đồng đều.
Từ đổi mới 1986 đến nay: Chúng ta có những chủ trương đổi mới để sửa chữa những sai lầm để
cải tạo XHCN và quản lý kinh tế. Đó là xóa bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp phát triển
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Đối với LLSX: Đảng và nhà nước ta đã quan tâm đến việc phát triển LLSX thông qua sự công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
+ Đối với QHSX: Được chú trọng trên cả 3 mặt quan hệ xã hội đối với TLSX, quan hệ trong tổ chức
quản lý, quan hệ trong phân phối sản phẩm làm ra.
11. Phân tích luận điểm của Mác “ Sự phát triển các hình thái kinh tế-xã hội là một quá
trình lịch sử tự nhiên” Đảng ta đã vận dụng luận điểm này vào thực tiễn ở Việt Nam
như thế nào?
“Sự phát triển các hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”
Sự vận động và phát triển của xã hội tuân theo các quy luật khách quan- quy luật của
chính cấu trúc hình thái KTXH…
Nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, … đều có nguyên nhân trực tiếp
hay gián tiếp từ sự phát triển của LLSX.
Vai trò của nhân tố chủ quan và các nhân tố khác đối với tiến trình phát triển của lịch sử
nhân loại và lịch sử của cộng đồng người cụ thể.
Đảng ta đã vận dụng luận điểm này vào thực tiễn ở Việt Nam: quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên đây lại là một quá trình lịch sử tự nhiên, vì điều đó tuân theo quy
luật khách quan, phù hợp với xu thế của thời đại, nguyện vọng của nhân dân, vai trò nguyên tố chủ
quan và các nhân tố khác…
12. Nguồn gốc của giai cấp theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Khái niệm giai cấp:
- V.I.Lênin định nghĩa: “Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về
địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ
(thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản
xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ
và về phần của cải xã hội ít hay nhiều mà họ được hưởng”.
- Tầng lớp xã hội là khái niệm dùng chỉ sự phân tầng, phân lớp, phân nhóm giữa những con người
trong cùng một giai cấp theo địa vị và sự khác biệt cụ thể của họ trong giai cấp đó (tầng lớp công nhân
làm thuê lao động giản đơn, lao động phức tạp…), hoặc chỉ những nhóm người ngoài kết cấu các giai
cấp trong một xã hội nhất định (tầng lớp trí thức, tầng lớp công chức….).
Nguồn gốc của giai cấp
Nguyên nhân sâu xa: trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chưa đạt tới trình độ xã hội hóa cao
Nguyên nhân trực tiếp: chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
Con đường hình thành giai cấp:
- Một là, do sự tác động của các nhân tố bạo lực. Do có của cải dư thừa, tù binh bắt được trong các
cuộc chiến tranh không bị giết như trước. Họ được sử dụng làm nô lệ cho những người giàu và có địa
vị trong xã hội, chế độ có giai cấp hình thành kể từ đó.
- Hai là, do sự tác động của các quy luật kinh tế phân hóa những người sản xuất hàng hóa trong nội bộ
cộng đồng xã hội.
13. Tai sao nói đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp
- Định nghĩa đấu tranh giai cấp của Lênin: “cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp
bức và lao động chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bị áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những
người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”
– Đỉnh cao của đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội để thay thế phương thức sản
xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Phương thức sản xuất mới ra đời mở ra địa
bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã hội. Đến lượt mình, sản xuất phát triển sẽ là động lực thúc
đẩy sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội.
Như C. Mác và Ph, Ăngghen đã khẳng định: Đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp là cách mạng xã
hội. Cách mạng xã hội như là đòn bẩy thay đổi các hình thái kinh tế – xã hội, vì vậy, “đấu tranh giai
cấp là động lực trực tiếp của lịch sử các xã hội có giai cấp”.
– Đấu tranh giai cấp góp phần xóa bỏ các thế lực phản động, lạc hậu, đồng thời cải tạo cả bản thân
giai cấp cách mạng.
Ví dụ như giai cấp tư sản trong thời kỳ cuối của chế độ phong kiến, thời kỳ đầu của chế độ tư bản là
giai cấp cách mạng. Giai cấp vô sản khi vừa ra đời, giương cao ngọn cờ chống áp bức, bóc lột là giai
cấp cách mạng.
Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới, giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng. Thành tựu
mà loài người đạt được trong tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học và công
nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ xã hội… không tách rời cuộc đấu tranh của các giai cấp tiến bộ
chống lại các thế lực thù địch, phản động.
– Đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau cùng trong lịch sử xã hội
có giai cấp.
Đó là cuộc đấu tranh khác về chất so với các cuộc đấu tranh trước đó trong lịch sử. Bởi vì mục tiêu
của nó là thay đổi về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội.
+ Trước khi giành được chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp
tư sản là đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị.
+ Sau khi giành được chính quyền (ví dụ như tại Nga sau cách mạng tháng Mười, tại Việt Nam sau
cách mạng tháng Tám), thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô sản, mục tiêu và hình thức đấu
tranh giai cấp cũng thay đổi.
Mục tiêu của cuộc đấu tranh sau khi giành chính quyền là giữ vững thành quả cách mạng, xây dựng và
củng cố chính quyền của nhân dân; tổ chức quản lý sản xuất, quản lý xã hội,, đảm bao tạo ra một năng
suất lao động xã hội cao hơn, trên cơ sở đó thủ tiêu chế độ người bóc lột người, xây dựng một xã hội
mới, công bằng, dân chủ và văn minh.
Đó vừa là mục tiêu, đồng thời vừa là nhân tố bảo đảm thắng lợi cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
chống lại giai cấp tư sản
.Câu 1: Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mac Lênin, Anh (chị ) hãy:
a) Phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức của con người? Lấy ví dụ minh hoa cho từng
vai trò cụ thể
b) Từ việc nhận thức về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức , theo Anh/Chị cần quán triệt quan
điểm nào trong cuộc sống? Yêu cầu và ý nghĩa của quan điểm đó thể hiện như thế nào?
Câu 2: Dựa trên quan điểm của triết học Mac-Lênin,Anh(chị) hãy: T
a) Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng?
b) Anh chị có những nhận xét như thế nào về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng ở Việt Nam hiện nay?

Thực tiễn và nhận thức không ngừng phát triển trong sự tác động lẫn
nhau, trong đó thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, nguồn gốc, động lực,
mục đích của nhận thức và là cơ sở của chân lý.
a) Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc, động lực của nhận thức
- Con người muốn tồn tại thì phải lao động sx để tạo ra những sản phẩm
phục vụ cho con người, muốn lao động sx con người phải tìm hiểu thế
giới xung quanh. Vậy, hoạt động thực tiễn tạo ra động lực đầu tiên để
con người nhận thức thế giới.
- Trong hoạt động thực tiễn , con người dung cac song cụ, các phương
tiện để tác động vào thế giới, làm thế giới bộc lộ những đặc điểm,
thuộc tính, kết cấu, quy luật vận động; con người nắm bắt lấy các đặc
điểm thuộc tính đó, dần dần hình thành tri thức về thế giới.
- Trong hoạt động thực tiễn, con người dần tự hoàn thiện bản thân mình,
các giác quan của con người ngày càng phát triển. do đó, làm tăng khả
năng nhận thức của con người về thế giới.
- Trong bản thân nhận thức có động lực trí tuệ. Nhưng suy cho cùng thì
đông lực cơ bản của nhận thức là thực tiễn. Trong hoạt động thực tiễn
con người đã vấp phải nhiều trở ngại, khó khăn và thất bại. Điều đó
buộc con người phải giải đáp những câu hỏi do thực tiễn đặt ra. Ănghen
nói: Chính thực tiễn đã “đặt hàng” cho cac nhà khoa học phải giải đáp
những bế tắc của thực tiễn (ngày càng nhiều ngành khoa học mới ra đời
để đấp ứng yêu cầu của thực tiễn như KH vật liệu mới, KH đại dương, KH
vũ trụ…)
- Trong hoạt động thực tiễn, con người chế tạo ra các công cụ, phương
tiện có tác dụng nối dài các giác quan, nhờ vậy làm tăng khả năng nhận
thức của con người về thế giới.
b) Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Mục đích của mọi nhận thức
không phải vì bản thân nhận thức, mà vì thực tiễn nhằm cải biến giới
tự nhiên, biến đổi xã hội vì nhu cầu của con người. Mọi lý luận khoa
học chỉ có ý nghĩa khi nó được ứng dụng vào thực tiễn.
c) Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý: Làm sao để nhận biết được nhận
thức của con người đúng hay sai? Tiêu chuẩn để đánh giá cuối cùng
không nằm trong lý luận, trong nhận thức mà ở thực tiễn. Khi nhận thức
được xác nhận là đúng, nhận thức đó sẽ trở thành chân lý.
Tuy nhiên cũng có trường hợp không nhất thiết phải qua thực tiễn
khiêpr nghiệm mới biết nhận thức đó là đúng hay sai, mà có thể thông
qua quy tắc logic vẫn có thể biết được nhận thức đó là thế nào. Nhưng
xét đến cùng thì những nguyên tắc đó cũng đã được chứng minh từ trong
thực tiễn.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính tuyệt đối lại vừa có
tính tương đối:
Tuyệt đối là ở chỗ: Thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm
chân lý, thực tiễn có khả năngg xác định cái đúng, bác bỏ cái sai.
Là tương đối ở chỗ: Thực tiễn ngay một lúc không thể khẳng định được
cái đúng, bác bỏ cái sai một cách tức thì. Hơn nữa, bản thân thực tiễn
không đứng yên một chỗ mà biến đổi và phát triển liên tục, nên nó
không cho phép người ta hiểu biết bất kỳ một cái gì hóa thành chân lý
vĩnh viễn.

Cách 2:

Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc (điểm xuất phát), động lực
của nhận thức
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết được cấu trúc, tính
chất và các mối quan hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức về đối
tượng. Hoạt động thực tiễn bổ sung và điều chỉnh những tri thức đã được
khái quát. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuya hường
vận động và phát triển của nhận thức. Chính nhu cầu giải thích, nhận thức
và cải tạo thế giới buộc con người tác động trực tiếp vào đối tượng bằng
hoạt động thực tiễn của mình.
– Con người muốn tồn tại thì phải lao động sản xuất để tạo ra những sản
phẩm phục vụ cho con người, muốn lao động sản xuất con người phải tìm
hiểu thế giới xung quanh. Vậy, hoạt động thực tiễn tạo ra động lực đầu tiên
để con người nhận thức thế giới.
– Trong hoạt động thực tiễn , con người dùng các song cụ, các phương
tiện để tác động vào thế giới, làm thế giới bộc lộ những đặc điểm, thuộc
tính, kết cấu, quy luật vận động; con người nắm bắt lấy các đặc điểm thuộc
tính đó, dần dần hình thành tri thức về thế giới.
– Trong hoạt động thực tiễn, con người dần tự hoàn thiện bản thân mình,
các giác quan của con người ngày càng phát triển. do đó, làm tăng khả
năng nhận thức của con người về thế giới.
– Trong bản thân nhận thức có động lực trí tuệ. Nhưng suy cho cùng thì
đông lực cơ bản của nhận thức là thực tiễn. Trong hoạt động thực tiễn con
người đã vấp phải nhiều trở ngại, khó khăn và thất bại. Điều đó buộc con
người phải giải đáp những câu hỏi do thực tiễn đặt ra. Ănghen nói: Chính
thực tiễn đã “đặt hàng” cho các nhà khoa học phải giải đáp những bế tắc
của thực tiễn (ngày càng nhiều ngành khoa học mới ra đời để đáp ứng yêu
cầu của thực tiễn như khoa học vật liệu mới, khoa học đại dương, khoa
học vũ trụ…)
– Trong hoạt động thực tiễn, con người chế tạo ra các công cụ, phương
tiện có tác dụng nối dài các giác quan, nhờ vậy làm tăng khả năng nhận
thức của con người về thế giới.
Thứ hai, thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Mục đích cuối cùng của nhận thức là giúp con người hoạt động thực tiễn
nhằm cải biến thế giới. Nhấn mạnh vai trò này của thực tiễn Lenin đã cho
rằng: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và
cơ bản của lý luận về nhận thức”.
Mục đích của mọi nhận thức không phải vì bản thân nhận thức, mà vì thực
tiễn nhằm cải biến giới tự nhiên, biến đổi xã hội vì nhu cầu của con người.
Mọi lý luận khoa học chỉ có ý nghĩa khi nó được ứng dụng vào thực tiễn.
Thứ ba, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý: Làm sao để nhận biết được
nhận thức của con người đúng hay sai? Tiêu chuẩn để đánh giá cuối cùng
không nằm trong lý luận, trong nhận thức mà ở thực tiễn. Khi nhận thức
được xác nhận là đúng, nhận thức đó sẽ trở thành chân lý.
Tuy nhiên cũng có trường hợp không nhất thiết phải qua thực tiễn trải
nghiệm mới biết nhận thức đó là đúng hay sai, mà có thể thông qua quy
tắc logic vẫn có thể biết được nhận thức đó là thế nào. Nhưng xét đến
cùng thì những nguyên tắc đó cũng đã được chứng minh từ trong thực
tiễn.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính tuyệt đối lại vừa có tính
tương đối:
Tuyệt đối là ở chỗ: Thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm
chân lý, thực tiễn có khả năng xác định cái đúng, bác bỏ cái sai.
Là tương đối ở chỗ: Thực tiễn ngay một lúc không thể khẳng định được cái
đúng, bác bỏ cái sai một cách tức thì. Hơn nữa, bản thân thực tiễn không
đứng yên một chỗ mà biến đổi và phát triển liên tục, nên nó không cho
phép người ta hiểu biết bất kỳ một cái gì hóa thành chân lý vĩnh viễn.

You might also like