Professional Documents
Culture Documents
và vật chất. Nó là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó sẽ quyết định cơ sở để giải quyết những vấn đề
khác của triết học, điều đó đã được chứng minh trong lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp của triết
học, mặt khác nó cũng là là tiêu chuẩn để xác lập trường thế giới quan của các triết gia và học thuyết
của họ. Ăngghen cũng đã trả lời cho câu hỏi “Vấn đề cơ bản của triết học là gì?”, theo ông: “Vấn đề
cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”. Vì
việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học. Vấn
- Mặt thứ nhất, giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào quyết định cái nào?
- Mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Việc giải hai mặt cơ bản
của triết học là xuất phát điểm của các trường phái triết học.
Trả lời mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã xuất hiện nhất nguyên luận khi lấy việc thừa nhận
chỉ một trong hai thực thể (vật chất hoặc ý thức) là cái có trước và quyết định cái kia, nghĩa là cho
rằng thế giới chỉ có một nguồn gốc duy nhất. Nhất nguyên luận bao gồm nhất nguyên luận duy tâm
(chủ nghĩa duy tâm, triết học duy tâm) và nhất nguyên luận duy vật (chủ nghĩa duy vật, triết học duy
vật).Chủ nghĩa duy tâm(ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tình thứ 2,ý thức quyết định vật chất) có 2
hình thức cơ bản là: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
Chủ nghĩa duy vật(vật chất là tính thứ nhất,ý thức là tính thứ 2,vật chất là cái có trước và quyết định ý
thức) đã trải qua 3 hình thức cơ bản là:CNDV chất phác, CNDV siêu hình, CNDV biện chứng.
Việc giải quyết mặt thứ 2 trong vấn đề cơ bản của triết học chia quan điểm về nhận thức thành 2 phái:
Khả tri luận-phái bao hàm những quan điểm thừa nhận khả năng nhận thức của con người và bất khả
tri luận-phái bao hàm những quan điểm phủ nhận khả năng đó.
3b
2. Phân tích nội dung cơ bản của định nghĩa vật chất của Lênin
Định nghĩa: Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác
Nội dung cơ bản:
Vật chất là phạm trù triết học: “Vật chất” trong định nghĩa của Lênin là một phạm trù triết học, tức
là phạm trù rộng nhất, khái quát nhất, rộng đến cùng cực, không thể có gì khác rộng hơn.
Vật chất là thực tại khách quan: Vật chất tồn tại khách quan trong hiện thực, nằm bên ngoài ý thức
và không phụ thuộc vào ý thức của con người. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ bản của
vật chất, là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Dù con
người đã nhận thức được hay chưa, dù con người có mong muốn hay không thì vật chất luôn
tồn tại vĩnh viễn trong vũ trụ.
Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác: Vật chất, tức là thực tại khách quan, vật chất
dưới các dạng cụ thể khi tác động(trực tiếp hoặc gián tiếp) đến các giác quan của chúng ta thì
có thể gây nên cảm giác ở con người, là cái có trước cảm giác (nói rộng ra là ý thức). Như thế,
vật chất “sinh ra trước”, là tính thứ nhất. Cảm giác (ý thức) “sinh ra sau”, là tính thứ hai. Do
tính trước – sau như vậy, vật chất không lệ thuộc vào ý thức, nhưng ý thức lệ thuộc vào vật
chất.
Vật chất được giác quan của con người chép lại, chụp lại, phản ánh: Vật chất là một phạm trù
triết học, tuy rộng đến cùng cực nhưng được biểu hiện qua các dạng cụ thể (sắt, nhôm, ánh
sáng mặt trời, khí lạnh, cái bàn, quả táo…) mà các giác quan của con người (tai, mắt, mũi…)
có thể cảm nhận được. Giác quan của con người, với những năng lực vốn có, có thể chép lại,
chụp lại, phản ánh sự tồn tại của vật chất, tức là nhận thức được vật chất. Sự chép lại, chụp lại,
phản ánh của giác quan đối với vật chất càng rõ ràng, sắc nét thì nhận thức của con người về
vật chất càng sâu sắc, toàn diện. Nói rộng ra, tư duy, ý thức, tư tưởng, tình cảm… của con
người chẳng qua chỉ là sự phản ánh, là hình ảnh của vật chất trong bộ óc con người.
3. Các hình thức tồn tại của vật chất (Vận động, không gian, thời gian)
Vận động.
Khái niệm vận động:
+ Ph.Ăngghen viết: " Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là phương thức tồn tại của
vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra
trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy ".
+ Vận động là phương thức tồn tại của vật chất: Vật chất tự tồn tại thông qua vận động và nhờ vật chất
vận động mà con người nhận biết được thế giới.
+ Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất: Vật chất và vận động thống nhất, k tách rời nhau, vì
vận động bao giờ cũng là vận động của một dạng vật chất nào đó, không có vận động tách rời vật chất
và cũng không có dạng vật chất nào tồn tại mà không thể hiện thông qua vận động.
+ Nguồn gốc vận động: nằm trong mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật. Vận động của vật chất là tự
thân vận động.
Đứng im là trạng thái đb của vận động, đó là vận động trong thế giới cân bằng và đứng im là hiện
tượng tương đối, tạm thời
.Đứng im là trạng thái bảo tồn những thuộc tính vốn có của vật chất và được xác định trong một giới hạn thời
gian mà ở đó sự vật chưa thay đổi thành sự vật khác.
Đứng im có tính tương đối và tạm thời (còn vận động là tuyệt đối) bởi vì đứng im chỉ
diễn ra trong một hình thức vận động nhất định, trong một quan hệ nhất định và trong
một thời gian nhất định mà thôi. Như vậy, đứng im chẳng qua chỉ là một trạng thái
đặc biệt của vận động của vật chất. Đó là vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định
tương đối của các sự vật hiện tượng. Do đó vận động bao hàm sự đứng im.
Ph.Ăngghen kết luận:" mọi sự cân bằng chỉ là tương đối và tạm thời ".
Các hình thức vận động cơ bản: Căn cứ theo những tiêu chí phân loại khác nhau, người ta có thể
chia vận động của vật chất thành các hình thức vận động khác nhau. Dựa trên những thành tựu
của khoa học đương thời, Ph.Ăngghen đã phân chia vận động thành các hình thức cơ bản sau
(cho đến nay cách phân loại phổ biến nhất trong khoa học vẫn là chia vận động thành 5 hình
thức cơ bản như Ph.Ăngghen đã tổng kết):
+ Vận động cơ học : sự dịch chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
+ Vận động vật lý: sự vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá trình nhiệt,
điện...
+ Vận động hóa học : quá trình hóa hợp và phân giải các chất, vận động của các nguyên tử.
+ Vận động sinh học : sự trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi trường.
+ Vận động xã hội: sự biến đổi của lịch sử và xã hội, sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội này
bằng các quá trình xã hội khác.
Trong sự tồn tại của mình, mỗi một sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau.
Tuy nhiên bản thân sự tồn tại của sự vật ấy bao giờ cũng đặc trưng bằng một hình thức vận động cao
nhất mà nó có.
Như vậy, không gian, thời gian và vận động là những hình thức, phương thức tồn tại tất yếu, vốn có
của vật chất. Chỉ có vật chất tồn tại, vận động vĩnh viễn trong thời gian và không gian, và chỉ có
không gian, thời gian của vật chất đang vận động. Con người nhận thức vật chất thông qua các hình
thức và phương thức tồn tại của nó.
4. Phân tích nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức
Có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức, trong đó, hai yếu tố cơ bản nhất là bộ óc
người và mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo nên hiện tượng phản ánh năng
động, sáng tạo.
Về bộ óc người: Đây là một dạng vật chất sống đặc biệt, trải qua quá trình tiến hóa lâu dài về mặt
sinh vật- xã hội.Ý thức là thuộc tính riêng của dạng vật chất này. Tức là cỉ con ng mới có ý thức. Ý
thức phụ thuộc vào bộ óc con người nên khi bộ óc bị tổn thương thì ý thức không diễn ra bình thường
hoặc bị rối loạn.
Tuy nhiên, chỉ có bộ óc không thôi mà không có thế giới bên ngoài tác động vào bộ óc, thì cũng không
có ý thức. Do vậy, nguồn gốc tự nhiên cần có yếu tố thứ hai là thế giới khách quan bên ngoài.
Về sự tác động của thế giới bên ngoài lên bộ óc người:
– Trong tự nhiên, mọi đối tượng vật chất (con khỉ, con voi, cái bàn, mặt nước, cái gương…) đều có
thuộc tính chung, phổ biến là phản ánh. Đó là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất
này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng.
Các hình thức phản ánh tương ứng với quá trình tiến hóa của các dạng vật chất tự nhiên:
+ Phản ánh vật lý, hóa học là hình thức phản ánh thấp nhất, đặc trưng cho vật chất vô sinh. Trong mối
quan hệ này, thế giới khách quan được phản ánh thông qua hoạt động của các giác quan đã tác động
đến bộ óc người, hình thành nên ý thức.
VD: thanh sắt bị môi trường làm hoen gỉ, tiếng vọng của âm thanh từ vách núi, sự chiếu sáng...
+Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu sinh, được thể
hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ.
VD: lá cây phát triển theo hướng có nhiều ánh sáng và rễ cây phát triển theo hướng có nhiều
nước và chất dinh dưỡng.
+Phản ánh tâm lý được thực hiện trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh thông qua cơ chế phản xạ có
điều kiện. Nó được hình thành từ kinh nghiệm hoạt động của chính bản thân động vật. Như vậy trong
những điều kiện nhất định, những kích thích của môi trường xung quanh tác động lên con vật gây nên
hưng phấn trong bộ óc chúng, hình thành mối liên hệ tạm thời và làm xuất hiện ở trong đó hình ảnh
của sự vật. Hình ảnh hình thành trên cơ sở những liên hệ tạm thời như vậy ở bộ óc con vật đó là phản
ánh tâm lý. Tâm lý động vật là trình độ phản ánh cao nhất của sự phản ánh khi con người chưa xuất
hiện. Tuy nhiên tâm lý động vật chưa phải là ý thức.
+Phản ánh ý thức là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức phản ánh, Phản ánh năng động,
sáng tạo được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người khi thế giới khách
quan tác động lên các giác quan của con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông
tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin. Sự phản ánh năng
động, sáng tạo này được gọi là ý thức.
(Những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng nhưng chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra
đời của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. Ý thức không chỉ là sản phẩm của sự phát triển lâu
dài của giới tự nhiên, mà quan trọng hơn nó còn là sản phẩm của xã hội. Ý thức được sản sinh với xã
hội loài người và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người.
Nguồn gốc xã hội của ý thức
Có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc xã hội của ý thức, trong đó, cơ bản nhất và trực tiếp nhất là lao
động và ngôn ngữ.
Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu tồn
tại và phát triển của mình. Lao động cũng là quá trình vừa làm thay đổi cấu trúc cơ thể người, vừa làm
giới tự nhiên bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động,...của nó qua những
hiện tượng mà con người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của các
giác quan, tác động đến bộ óc người và bằng hoạt động của bộ óc, tri thức nói riêng, ý thức nói chung
về thế giới khách quan hình thành và phát triển.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức. Không có ngôn
ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính xã hội. Mối quan hệ
giữa các thành viên trong quá trình lao động làm nảy sinh ở họ nhu cầu phải có phương tiện để giao
tiếp, trao đổi tư tưởng. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình lao
động. Nhờ ngôn ngữ, con người đã không chỉ giao tiếp, trao đổi mà còn khái quát, tổng kết, đúc kết
thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế hệ này qua thế hệ khác
Như vậy, nguồn gốc cơ bản, trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức
là lao động. Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã
ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, đã làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thanh bộ óc của con
người, khiến cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức.
Kết luận: Ý thức là phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần phản ánh thế giới vật chất,
diễn ra trong bộ óc người, được hình thành trong quá trình lao động và được diễn đạt nhờ ngôn
ngữ.
5. Nguyên lý về sự phát triển. Phát triển và tăng trưởng
Phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà rất quanh co phức tạp, thậm chí có bước lùi tạm
thời.
Sự phát triển là kết quả quá trình thay đổi dần về lượng, dẫn đến thay đổi dần về chất, là quá trình
diễn ra theo đường xoáy ốc.
Nguyên lý sự phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan của sự vật,
hiện tượng. Đây là quá trình thống nhất giữa các nhân tố tiêu cực và kế thừa. Nhằm nâng cao
nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng cũ trong hình thái của sự vật, hiện tượng mới.
So sánh
Vận động
Phát triển
là biến đổi nói chung, chưa nói lên Là khuynh hướng vận động đi lên, từ đơn
khuynh hướng cụ thể: tiến bộ hay lạc hậu giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn
Nguyên lý về sự phát triển:
Quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển
Quy luật lượng - chất chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển
Quy luật phủ định chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển
b. Tính chất của sự phát triển
* Tính khách quan:
- Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân SV, do mâu thuẫn chính bên trong SV quy
định. Đó là quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn bên trong SV.
- Sự phát triển của các SV, hiện tượng không phụ thuộc vào ý muốn, của con người.
* Tính phổ biến
Sự phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, tư duy, ở bất cứ sự vật nào, hiện tượng nào của
thế giới khách quan
*Tính đa dạng, phong phú
- Mọi SV, HT lại có quá trình phát triển khác nhau. Tồn tại ở thời gian, không gian khác nhau, SV sẽ
phát triển khác nhau.
- Trong quá trình phát triển, SV còn chịu tác động của các SV, HT khác, của các điều kiện, có thể thúc
đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của SV, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của SV,
thậm chí làm cho sự vật thụt lùi.
* Tính kế thừa:a
Các SV, HT mới ra đời tiến bộ hơn so với cái cũ bởi nó kế thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ
Ý nghĩa phương pháp luận:
Quan điểm phát triển
Khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến
Nhìn nhận sự vật theo con đường biện chứng, bao hàm mâu thuẫn
Quan điểm lịch sử cụ thể: giải quyết các vấn đề phù hợp với thực tiễn
Phát Triển và tăng trưởng (cái này t ko rõ):
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần để phát triển kinh tế. ở những nước đang phát triển, đặc biệt
là những nước đang phát triển có mức thu nhập bình quân đầu người thấp, nếu không đạt được
mức tăng trưởng tương đối cao và liên tục trong nhiều năm, thì khó có điều kiện kinh tế để cải
thiện mọi mặt của đời sống kinh tế- xã hội.
Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế chỉ là điều kiện cần, không phải là điều kiện đủ để phát triển kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế có thể được thực hiện bởi những phương thức khác nhau và do đó có thể
dẫn đến những kết quả khác nhau. Nếu phương thức tăng trưởng kinh tế không gắn với sự thúc
đẩy cơ cấu kinh tế xã hội theo hướng tiến bộ, không làm gia tăng, mà thậm chí còn làm xói
mòn năng lực nội sinh của nền kinh tế, sẽ không thể tạo ra sự phát triển kinh tế. Nếu phương
thức tăng trưởng kinh tế chỉ đem lại lợi ích kinh tế cho nhóm dân cư này, cho vùng này, mà
không hoặc đem lại lợi ích không đáng kể cho nhóm dân cư khác, vùng khác thì tăng trưởng
kinh tế như vậy sẽ khoét sâu vào bất bình đẳng xã hội. Những phương thức tăng trưởng như
vậy, rốt cuộc, cũng chỉ là kết quả ngắn hạn, không những không thúc đẩy được phát triển, mà
bản thân nó cũng khó có thể tồn tại được lâu dài.
6. Khái niệm, mối quan hệ biện chứng Nguyên nhân-kết quả, ý nghĩa. Nêu ví dụ
Khái niệm nguyên nhân và kết quả
– Nguyên nhân là phạm trù triết học chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong cùng một sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một hoặc hơn một sự biến đổi nhất định.
– Kết quả là phạm trù triết học chỉ sự biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau của các mặt trong
một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
Ví dụ: Sự tác động qua lại giữa chiếc dùi và mặt trống là nguyên nhân của tiếng trống kêu. Tiếng trống
kêu là kết quả của sự tác động giữa chiếc dùi và mặt trống.
Tính chất của mối quan hệ nhân quả:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguyên nhân và kết quả có mối quan hệ qua
lại như sau
1. Nguyên nhân sản sinh ra kết quả.
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết quả. Còn kết quả chỉ xuất
hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu tác động.
Tuy nhiên, không phải sự nối tiếp nào trong thời gian của các hiện tượng cũng đều biểu hiện mối liên
hệ nhân quả. Ví dụ: Ngày không phải là nguyên nhân của đêm và ngược lại.
Cùng một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể.
Ngược lại, cùng một kết quả có thể được gây nên bởi những nguyên nhân khác nhau tác động
riêng lẻ hoặc cùng một lúc.
Nếu nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì sẽ gây nên ảnh hưởng
cùng chiều, đẩy nhanh sự hình thành kết quả. Ngược lại, nếu các nguyên nhân khác nhau tác
động lên sự vật theo các hướng khác nhau thì sẽ làm suy yếu, thậm chí triệt tiêu các tác dụng
của nhau.
Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả, có thể phân loại
nguyên nhân thành:
Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu.
Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài.
Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
2. Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân.
Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không giữ vai trò thụ động đối
với nguyên nhân, mà sẽ có ảnh hưởng tích cực ngược trở lại đối với nguyên nhân.
Ví dụ: Nhúng một thanh sắt vừa mới nung đỏ vào chậu nước nguội, thì nhiệt độ của nước trong chậu
sẽ tăng lên. Sau đó, nước trong chậu do tăng nhiệt độ sẽ kìm hãm tốc độ tỏa nhiệt của thanh sắt.
3. Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả
Điều này xảy ra khi ta xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối quan hệ khác nhau. Một hiện
tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong mối quan hệ khác là kết quả và
ngược lại.
Một hiện tượng nào đó là kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra, đến lượt mình sẽ trở thành
nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba… Và quá trình này tiếp tục mãi không bao giờ kết thúc,
tạo nên một chuỗi nhân quả vô cùng tận. Trong chuỗi đó không có khâu nào là bắt đầu hay
cuối cùng.
Liên hệ: là liên hệ giữa 2 đối tượng mà sự thay đổi của 1 trong số chúng nhất định
làm đối tượng kia thay đổi
Mối liên hệ: chỉ sự quy định, sự tác động chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, htg,
hay giữa các mặt, các bộ phận của sự vật ở trong thế giới.
Mối liên hệ phổ biến: chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ, chỉ những mối liên hệ
tồn tại ở nhiều sự vật, htg của thế giới hay nói cách khác: chỉ tính phổ biến của
các mối liên hệ; chỉ sự khái quát các mối liên hệ có tính phổ biến. VD: mlh giữa
cái chung- riêng, nguyên nhân- kết quả…
Trong thế giới, không có sv, htg nào không bị quy định. Mỗi sv, htg của thế giới vật
chất bằng cách này hay cách khác có liên hệ với các sv, htg khác, bị quy định bởi
chúng, đến lượt mình lại quy định sv, htg xung quanh mình.
Mối liên hệ làm điều kiện, tiền đề, quy định lần nhau giữa các sv, htg
mlh tác động qua lại giữa các mặt của sv, htg
chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt của sv, htg
=) Phạm vi bao quát của mlh phổ biến k chỉ giới hạn ở các đtg vật chất mà còn mở rộng
sang liên hệ giữa các dtg tinh thần và giữa chúng với dtg vật chất sinh ra chúng.
Tính khách quan: Sự vật, htg đa dạng, nhưng cũng đều là các dạng tồn tại của
vật chất, mà vật chất là thực tại khách quan, vậy nên, ,mối liên hệ phổ
biến diễn ra khách quan, độc lập với ý thức của con người. Con nguwoif
chỉ nhận thức sự vật thông qua các mối liên hệ vốn có của nó. VD: mối
liên hệ giữa một con vật với quá trình đồng hóa, dị hóa, sinh trưởng...nếu
con vật đó tách rời khỏi các mối liên hệ đó thì nó sẽ chết
Tính phổ biến: Bất kỳ sự vật nào, ở k gian nào, lĩnh vực nào cũng đều có mối
liên hệ với các sv khác, các bộ phận trong cấu trúc của sv cũng có mối
liên hệ. VD: Trong tự nhiên: định luật vạn vật hấp dẫn của Niuton ; trong
xã hội: mlh giữa ng với ng, với cộng đồng, mlh giữa kte và ctri, đọa
đức…; trong tư duy: từ tư duy đơn giản đến phức tạp, trừu trượng…
Tính đa dạng, phong phú: Mỗi sv có nhiều mlh, mỗi mlh có vai trò riêng
trong tồn tại của sv. VD: cùng là con ng nhưng ở mỗi giai đoạn phát triển
có nhu cầu về nước khác nhau...
Ý nghĩa ppl:
Khi xem xét sv, htg ta phải dựa trên Quan điểm toàn diện:
% xem xét mlh giữa các bộ phận của chính sv đó cũng như mlh với các sv khác
% hoạt động thực tiễn cần biến đổi mlh nội tại của sv cũng như mlh vơi sv khác
Quan điểm lịch sử - cụ thể: nhận thức sv cần phải chú ý tới điều kiện, hoàn cảnh lịch
sử cụ thể, moi trg cụ thể sv đó tồn tại và phát triển
“Chân lý sẽ sai lầm nếu như nó bị đẩy ra ngoài giới hạn tồn tại của nó”
8. Khái niệm, mối quan hệ biện chứng Nội dung-Hình thức và ý nghĩa. Nêu ví dụ.
I. Khái niệm
– Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật.
Ví dụ: Nội dung của chiếc xe hơi là có 04 bánh cao su, chứa được 4-6 người, sử dụng nhiên liệu là
xăng hoặc dầu, tốc độ chạy từ 30 – 200 km/h.
– Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền
vững giữa các yếu tố của nó.
Cần phân biệt giữa phạm trù “hình thức” trong triết học với hình thức bên ngoài của sự vật. Phạm trù
“hình thức” chủ yếu để chỉ hình thức bên trong của sự vật, tức là cơ cấu bên trong của nội dung.
Hình thức bên trong là quan trọng nhất, hình thức bên ngoài chỉ biểu hiện những nét riêng biệt của nội
dung.
Ví dụ: Hình thức của chiếc xe hơi là các bộ phận được làm từ thép, nhựa, cao su…, động cơ được bố
trí ở phần trước của xe, có nút đề khởi động động cơ, có ghế lái xe và ghế ngồi đệm mút…
II. Mối quan hệ biện chứng
1. Nội dung và hình thức thống nhất và gắn bó khăng khít với nhau.
– Bất kỳ sự vật nào cũng phải có đồng thời nội dung và hình thức. Không có sự vật nào chỉ có nội
dung mà không có hình thức, hoặc chỉ có hình thức mà không có nội dung. Do vậy, nội dung và hình
thức phải thống nhất với nhau thì sự vật mới tồn tại.
– Sự vật được cấu tạo nên từ những mặt, những yếu tố… Nhưng những mặt, những yếu tố này không
tách rời nhau, mà thống nhất, gắn kết với nhau.
Như thế, những mặt, những yếu tố… vừa là chất liệu làm nên nội dung, vừa tham gia vào các mối liên
hệ tạo nên hình thức. Do đó, nội dung và hình thức không tách rời nhau mà gắn bó hết sức chặt chẽ
với nhau.
Không có một hình thức nào không chứa đựng nội dung, và cũng không có nội dung nào lại không tồn
tại trong hình thức.
– Cùng một nội dung, trong tình hình phát triển khác nhau, có thể có nhiều hình thức. Ngược lại, cùng
một hình thức có thể thể hiện những nội dung khác nhau.
Ví dụ:
Nội dung của ngôi nhà là để ở, ở trong có nhiều đồ gia dụng. Hình thức ban đầu của ngôi nhà là có 02
phòng ngủ, 01 phòng khách… Chủ nhà thu hẹp diện tích phòng khách để có 03 phòng ngủ. Như vậy,
hình thức ngôi là đã thay đổi.
Một thời gian sau, chủ nhà bán nhà, người khác sử dụng chính căn nhà đó làm văn phòng. Khi đó, nội
dung căn nhà đã thay đổi.
2. Nội dung quyết định hình thức.
Trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, nội dung có vai trò quyết định đến hình thức.
Nội dung bao giờ cũng là mặt động nhất; nó có khuynh hướng chủ đạo là biến đổi. Còn hình thức là
mặt tương đối bền vững; khuynh hướng chủ đạo của nó là ổn định.
Sự biến đổi, phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi, phát triển của nội dung. Còn
hình thức cũng biến đổi, nhưng chậm hơn, ít hơn so với nội dung.
Khi nội dung biến đổi thì hình thức buộc phải biến đổi theo cho phù hợp với nội dung mới.
Ví dụ: Nội dung quan hệ giữa anh A và chị B là quan hệ bạn bè, khi đó hình thức quan hệ giữa hai
người không có “giấy chứng nhận”. Khi anh A và chị B kết hôn, nội dung quan hệ đã thay đổi, thì
hình thức quan hệ buộc phải thay đổi khi hai người buộc phải có “giấy chứng nhận kết hôn”.
3. Hình thức không thụ động mà tác động trở lại nội dung.
– Tuy nội dung giữ vai trò quyết định so với hình thức nhưng điều đó không có nghĩa là hình thức chỉ
“ngoan ngoãn” đi theo nội dung. Trái lại, hình thức luôn độc lập nhất định và tác động tích cực trở lại
nội dung.
Khi phù hợp với nội dung, hình thức sẽ thúc đẩy sự phát triển của nội dung. Ngược lại, nếu không phù
hợp, hình thức sẽ kìm hãm nội dung phát triển tích cực.
– Sự tác động qua lại giữa nội dung và hình thức diễn ra trong suốt quá trình phát triển của sự vật. Lúc
đầu, những biến đổi trong nội dung chưa ảnh hưởng đến hệ thống mối liên hệ tương đối bền vững của
hình thức. Nhưng khi những biến đổi đó tiếp tục diễn ra thì tới một lúc nào đó, hệ thống mối liên hệ
tương đối cứng nhắc đó trở nên chật hẹp và kìm hãm sự phát triển của nội dung. Lúc này, hình thức
không phù hợp với nội dung nữa.
Tới một lúc nào đó, nội dung và hình thức xung đột sâu sắc. Nội dung mới sẽ phá bỏ hình thức cũ,
hình thức mới sẽ hình thành. Trên cơ sở hình thức mới, nội dung mới tiếp tục biến đổi, phát triển và
chuyển sang trạng thái mới về chất.
III. Ý nghĩa phương pháp luận
1. Không tách rời nội dung với hình thức.
Do nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau nên trong hoạt động thực tiễn, ta cần chống
lại mọi khuynh hướng tách rời nội dung với hình thức. Ở đây cần chống lại hai thái cực sai lầm:
+ Hoặc là tuyệt đối hóa hình thức, xem thường nội dung.
Ví dụ: Trong cuộc sống chỉ coi trọng vật chất xa hoa mà coi nhẹ tâm hồn con người.
+ Hoặc là tuyệt đối hóa nội dung, xem thường hình thức.
Ví dụ: Trong cuộc sống, chỉ biết đến rèn luyện nhân cách, tâm hồn mà không chú ý đến phương tiện
vật chất tối thiểu.
2. Cần căn cứ trước hết vào nội dung để xét đoán sự vật.
Vì nội dung quyết định hình thức nên để xét đoán sự vật nào đấy, cần căn cứ trước hết vào nội dung
của nó. Và nếu muốn làm biến đổi sự vật thì cần tác động để thay đổi trước hết nội dung của nó.
3. Phải theo dõi sát mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.
Vì hình thức có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triển của dung, nên trong hoạt động thực tiễn cần
luôn theo dõi mối quan hệ giữa hình thức và nội dung của sự vật để có thể kịp thời phát hiện, can
thiệp vào tiến trình phát triển của sự vật theo hướng có lợi nhất.
Nếu muốn sự vật phát triển tiếp, cần tạo điều kiện để hình thức phù hợp với nội dung. Ngược lại, nếu
thấy sự vật phát triển lên sẽ có hại, cần tìm cách để hình thức không phù hợp với nội dung.
4. Cần sáng tạo lựa chọn các hình thức của sự vật.
– Vì cùng một nội dung, trong tình hình phát triển khác nhau, có thể có nhiều hình thức, ngược lại,
cùng một hình thức có thể thể hiện những nội dung khác nhau, nên cần sử dụng một cách sáng tạo mọi
loại hình thức có thể có (mới và cũ), kể cả phải cải biến những hình thức cũ vốn có, để phục vụ hiệu
quả cho việc thực hiện những nhiệm vụ thực tiễn.
Ở đây cũng cần tránh hai thái cực sai lầm:
+ Hoặc chỉ bám lấy hình thức cũ, bảo thủ, trì trệ mà không áp dụng cái mới.
+ Hoặc phủ nhận, bỏ qua hoàn toàn cái cũ trong hoàn cảnh mới. Chủ quan, nóng vội, thay đổi hình
thức một cách tùy tiện, không có căn cứ.
9. Nội dung quy luật từ những sự thay đổi về lượng dẫn tới thay đổi về chất và ngược
lại. Lấy ví dụ để vận dụng:
Thực tiễn và nhận thức không ngừng phát triển trong sự tác động lẫn
nhau, trong đó thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, nguồn gốc, động lực,
mục đích của nhận thức và là cơ sở của chân lý.
a) Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc, động lực của nhận thức
- Con người muốn tồn tại thì phải lao động sx để tạo ra những sản phẩm
phục vụ cho con người, muốn lao động sx con người phải tìm hiểu thế
giới xung quanh. Vậy, hoạt động thực tiễn tạo ra động lực đầu tiên để
con người nhận thức thế giới.
- Trong hoạt động thực tiễn , con người dung cac song cụ, các phương
tiện để tác động vào thế giới, làm thế giới bộc lộ những đặc điểm,
thuộc tính, kết cấu, quy luật vận động; con người nắm bắt lấy các đặc
điểm thuộc tính đó, dần dần hình thành tri thức về thế giới.
- Trong hoạt động thực tiễn, con người dần tự hoàn thiện bản thân mình,
các giác quan của con người ngày càng phát triển. do đó, làm tăng khả
năng nhận thức của con người về thế giới.
- Trong bản thân nhận thức có động lực trí tuệ. Nhưng suy cho cùng thì
đông lực cơ bản của nhận thức là thực tiễn. Trong hoạt động thực tiễn
con người đã vấp phải nhiều trở ngại, khó khăn và thất bại. Điều đó
buộc con người phải giải đáp những câu hỏi do thực tiễn đặt ra. Ănghen
nói: Chính thực tiễn đã “đặt hàng” cho cac nhà khoa học phải giải đáp
những bế tắc của thực tiễn (ngày càng nhiều ngành khoa học mới ra đời
để đấp ứng yêu cầu của thực tiễn như KH vật liệu mới, KH đại dương, KH
vũ trụ…)
- Trong hoạt động thực tiễn, con người chế tạo ra các công cụ, phương
tiện có tác dụng nối dài các giác quan, nhờ vậy làm tăng khả năng nhận
thức của con người về thế giới.
b) Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Mục đích của mọi nhận thức
không phải vì bản thân nhận thức, mà vì thực tiễn nhằm cải biến giới
tự nhiên, biến đổi xã hội vì nhu cầu của con người. Mọi lý luận khoa
học chỉ có ý nghĩa khi nó được ứng dụng vào thực tiễn.
c) Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý: Làm sao để nhận biết được nhận
thức của con người đúng hay sai? Tiêu chuẩn để đánh giá cuối cùng
không nằm trong lý luận, trong nhận thức mà ở thực tiễn. Khi nhận thức
được xác nhận là đúng, nhận thức đó sẽ trở thành chân lý.
Tuy nhiên cũng có trường hợp không nhất thiết phải qua thực tiễn
khiêpr nghiệm mới biết nhận thức đó là đúng hay sai, mà có thể thông
qua quy tắc logic vẫn có thể biết được nhận thức đó là thế nào. Nhưng
xét đến cùng thì những nguyên tắc đó cũng đã được chứng minh từ trong
thực tiễn.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính tuyệt đối lại vừa có
tính tương đối:
Tuyệt đối là ở chỗ: Thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm
chân lý, thực tiễn có khả năngg xác định cái đúng, bác bỏ cái sai.
Là tương đối ở chỗ: Thực tiễn ngay một lúc không thể khẳng định được
cái đúng, bác bỏ cái sai một cách tức thì. Hơn nữa, bản thân thực tiễn
không đứng yên một chỗ mà biến đổi và phát triển liên tục, nên nó
không cho phép người ta hiểu biết bất kỳ một cái gì hóa thành chân lý
vĩnh viễn.
Cách 2:
Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc (điểm xuất phát), động lực
của nhận thức
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết được cấu trúc, tính
chất và các mối quan hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức về đối
tượng. Hoạt động thực tiễn bổ sung và điều chỉnh những tri thức đã được
khái quát. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuya hường
vận động và phát triển của nhận thức. Chính nhu cầu giải thích, nhận thức
và cải tạo thế giới buộc con người tác động trực tiếp vào đối tượng bằng
hoạt động thực tiễn của mình.
– Con người muốn tồn tại thì phải lao động sản xuất để tạo ra những sản
phẩm phục vụ cho con người, muốn lao động sản xuất con người phải tìm
hiểu thế giới xung quanh. Vậy, hoạt động thực tiễn tạo ra động lực đầu tiên
để con người nhận thức thế giới.
– Trong hoạt động thực tiễn , con người dùng các song cụ, các phương
tiện để tác động vào thế giới, làm thế giới bộc lộ những đặc điểm, thuộc
tính, kết cấu, quy luật vận động; con người nắm bắt lấy các đặc điểm thuộc
tính đó, dần dần hình thành tri thức về thế giới.
– Trong hoạt động thực tiễn, con người dần tự hoàn thiện bản thân mình,
các giác quan của con người ngày càng phát triển. do đó, làm tăng khả
năng nhận thức của con người về thế giới.
– Trong bản thân nhận thức có động lực trí tuệ. Nhưng suy cho cùng thì
đông lực cơ bản của nhận thức là thực tiễn. Trong hoạt động thực tiễn con
người đã vấp phải nhiều trở ngại, khó khăn và thất bại. Điều đó buộc con
người phải giải đáp những câu hỏi do thực tiễn đặt ra. Ănghen nói: Chính
thực tiễn đã “đặt hàng” cho các nhà khoa học phải giải đáp những bế tắc
của thực tiễn (ngày càng nhiều ngành khoa học mới ra đời để đáp ứng yêu
cầu của thực tiễn như khoa học vật liệu mới, khoa học đại dương, khoa
học vũ trụ…)
– Trong hoạt động thực tiễn, con người chế tạo ra các công cụ, phương
tiện có tác dụng nối dài các giác quan, nhờ vậy làm tăng khả năng nhận
thức của con người về thế giới.
Thứ hai, thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Mục đích cuối cùng của nhận thức là giúp con người hoạt động thực tiễn
nhằm cải biến thế giới. Nhấn mạnh vai trò này của thực tiễn Lenin đã cho
rằng: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và
cơ bản của lý luận về nhận thức”.
Mục đích của mọi nhận thức không phải vì bản thân nhận thức, mà vì thực
tiễn nhằm cải biến giới tự nhiên, biến đổi xã hội vì nhu cầu của con người.
Mọi lý luận khoa học chỉ có ý nghĩa khi nó được ứng dụng vào thực tiễn.
Thứ ba, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý: Làm sao để nhận biết được
nhận thức của con người đúng hay sai? Tiêu chuẩn để đánh giá cuối cùng
không nằm trong lý luận, trong nhận thức mà ở thực tiễn. Khi nhận thức
được xác nhận là đúng, nhận thức đó sẽ trở thành chân lý.
Tuy nhiên cũng có trường hợp không nhất thiết phải qua thực tiễn trải
nghiệm mới biết nhận thức đó là đúng hay sai, mà có thể thông qua quy
tắc logic vẫn có thể biết được nhận thức đó là thế nào. Nhưng xét đến
cùng thì những nguyên tắc đó cũng đã được chứng minh từ trong thực
tiễn.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính tuyệt đối lại vừa có tính
tương đối:
Tuyệt đối là ở chỗ: Thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm
chân lý, thực tiễn có khả năng xác định cái đúng, bác bỏ cái sai.
Là tương đối ở chỗ: Thực tiễn ngay một lúc không thể khẳng định được cái
đúng, bác bỏ cái sai một cách tức thì. Hơn nữa, bản thân thực tiễn không
đứng yên một chỗ mà biến đổi và phát triển liên tục, nên nó không cho
phép người ta hiểu biết bất kỳ một cái gì hóa thành chân lý vĩnh viễn.