You are on page 1of 10

ĐỀ TÀI

" Thực trạng ứng dụng

CNTT trong nhà trường phổ thông hiện nay "

1
MỤC LỤC
Trang

A. ĐẶT VẤN ĐỀ 2
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu 5
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 5
B GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 6
1. Cơ sở lý luận 6
2. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường hiện nay 6
3.Các hình thức ứng dụng CNTT trong dạy học và quản 8

4. Một số biện pháp chỉ đạo ứng dụng CNTT trong dạy 10
học và quản lý giáo dục có hiệu quả
4.1 Các giải pháp cơ bản 10
4.2 Các biện pháp cụ thể
5. Kết quả 22
C KẾT LUẬN 23

2
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Lý do khách quan
a.Tầm quan trọng của công nghệ thông tin:
*) Máy tính, mạng Internet và thế giới ảo trên Internet
Máy vi tính với các phần mềm phong phú đã trở thành một công cụ đa năng ứng
dụng trong mọi lĩnh vực của nghiên cứu, sản xuất và đời sống. Tuy nhiên nếu như
công dụng của máy là tính là có thể đo đếm được thì sự ra đời của mạng máy tính
toàn cầu (Internet) đem lại những hiệu quả vô cùng lớn, không thể đo đếm được.
Chính vì vậy, ngày nay chúng ta thường nghe nói đến thuật ngữ CNTT&Truyền
thông (ICT) thay vì CNTT (IT).
Một máy tính nối mạng không phải chỉ giúp chúng ta đọc báo điện tử, gửi email
mà nó là kênh kết nối chúng ta với tất cả thế giới. Chúng ta có thể tiếp cận toàn bộ tri
thức nhân loại, có thể làm quen giao tiếp với nhau hoặc tham gia những tổ chức ở xa
nửa vòng trái đất. Mạng máy tính toàn cầu thực sự đã tạo ra một thế giới mới trong
đó cũng có gần như các hoạt động của thế giới thực: thương mại điện tử
(ecommerce), giáo dục điện tử (elearning), trò chơi trực tuyến (game online), các
diễn đàn (forum), các mạng xã hội (social network), các công dân điện tử
(blogger),…
* ) Lợi ích mà thể giới ảo trên Internet mang lại
Tuy gọi là thế giới ảo nhưng nó đem lại lợi ích thực sự cho những người tham
gia, thậm chí những lợi ích đem lại còn nhiều hơn so với trong thế giới thật. Ví dụ
những cá nhân tham gia thương mại điện tử có thể ngồi ở nhà, thông qua máy tính
nối mạng để buôn bán trao đổi và có thể thu được rất nhiều lợi nhuận. Học sinh có
thể tham gia các hệ thống học trực tuyến trên mạng mà không phải tốn một đồng học
phí, mà kiến thức thu được còn nhiều hơn là theo lớp học thật. Một học sinh ở Hà
Nội có thể thông qua một hệ thống học trực tuyến để theo học một thầy giáo ở tận
TP HCM. Một thầy giáo có thể dạy cùng một lúc hàng vạn học sinh.
Thông qua các diễn đàn và mạng xã hội, tất cả mọi người có thể trao đổi, chia sẻ
với nhau các tài nguyên số, cũng như các kinh nghiệm trong công việc trong đời
sống và công việc. Ví dụ mọi người có thể chia sẻ các đoạn phim hoặc các bài hát,
có thể chia sẽ các bài viết về những kiến thức khoa học, xã hội, v.v… Ví dụ các bậc
phụ huynh trên cả nước có thể chia sẻ kinh nghiệm về cách chăm sóc con cái. Các
giáo viên có thể chia sẻ các tư liệu ảnh, phim, các bài giảng và giáo án với nhau, để
xây dựng một kho tài nguyên khổng lồ phục vụ cho việc giảng dạy của mỗi người.
Học sinh cũng có thể thông qua các mạng xã hội để trao đổi những kiến thức về học
tập và thi cử.
*) Những thế mạnh của thế giới ảo so với thế giới thật
Trong nhiều lĩnh vực, các hoạt động của thế giới ảo trên mạng Internet tỏ ra có
nhiều ưu điểm vượt trội so với ở thế giới thực. Bởi vì đó là một “Thế giới phẳng”
(tên một cuốn sách nổi tiếng của Thomas L.Friedman đã được dịch sang tiếng Việt)
nơi mà tất cả mọi người tham gia sẽ ở cùng một điểm xuất phát, không phân biệt vị

3
trí địa lý, nghề nghiệp, tuổi tác, địa vị xã hội. Trong thế giới này, các hoạt động có
thể diễn ra vô cùng lớn mạnh với hàng triệu người tham gia. Các kết quả mà thế giới
ảo đạt được có thể không bao giờ làm được trong thế giới thật (ví dụ xây dựng thư
viện trực tuyến khổng lồ hoặc các công cụ tìm kiếm tri thức toàn cầu).
Chi phí để vận hành thế giới ảo này hầu như không đáng kể so với thế giới thật,
ví dụ thương mại điện tử sẽ không cần phải có cửa hàng, kho bãi, không cần nhân
viên tiếp thị phải đi khắp nơi, học trực tuyến không cần trường học, lớp học, đồ dùng
dạy học, v.v... hay các diễn đàn hội thảo không cần hội trường, chi phí đi lại ăn ở cho
các đại biểu v.v...
Mặc dù ở nhiều lĩnh vực thì hoạt động của thế giới ảo trên Internet không thể
thay thế, mà chỉ có thể hỗ trợ cho các hoạt động thật, tuy nhiên thực tế nó đang phát
triển mạnh mẽ và ở nhiều lĩnh vực đã lấn át các hoạt động thật (ví dụ đọc báo điện
tử, nghe nhạc trực tuyến...). Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, mỗi chúng ta đều phải
nhanh chóng thích nghi với những thay đổi mới của thế giới nếu như không muốn tụt
hậu.
Trong thời đại của chúng ta, sự bùng nổ CNTT đã tác động lớn đến công cuộc
phát triển kinh tế xã hội người. Đảng và Nhà nước đã xác định rõ ý nghĩa và tầm
quan trọng của tin học và CNTT, truyền thông cũng như những yêu cầu đẩy mạnh
của ứng dụng CNTT, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, mở cửa
và hội nhập, hướng tới nền kinh tế tri thức của nước ta nói riêng - thế giới nói chung.
*) Tầm quan trọng của CNTT trong nhà trường
Khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc phát ứng dụng công nghệ thông
tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo,
CNTT bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, một số nơi đã đưa tin học
vào giảng dạy, học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay, việc ứng dụng
CNTT trong giáo dục ở các trường nước ta còn rất hạn chế. Chúng ta cần phải nhanh
chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy, nghiệp vụ quản lý, chúng ta không
nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận
dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu quả cho công việc của mình, mục đích của
mình.
Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ hông tin có tác dụng mạnh mẽ,
làm thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới “xã
hội học tập”. Mặt khác, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát
triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT.
Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên Nhà nước ta đã đưa môn tin
học vào trong nhà trường và ngay từ Tiểu học học sinh được tiếp xúc với môn tin
học để làm quen dần với lĩnh vực CNTT, tạo nền móng cơ sở ban đầu để học những
phần nâng cao trong các cấp tiếp theo.
Với tầm quan trọng đó, năm học 2008-2009 Bộ giáo dục và đào tạo đã đưa ra
chủ đề “ Năm ứng dụng CNTT " trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học,
ngành học theo hướng dẫn học CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi
mới phương pháp dạy học ở các môn.

4
Nhưng làm thế nào để ứng dụng CNTT hiệu quả trong các tiết dạy đó là vấn đề mà
bất cứ một giáo viên nào cũng gặp phải khi có ý định đưa CNTT vào giảng dạy.
Trong bản sáng kiến này, tôi sẽ đưa ra những ý kiến, kinh nghiệm của cá nhân mình
trong các năm học vừa qua để cùng các bạn đồng nghiệp thảo luận tìm ra những giải
pháp tốt nhất cho những tiết dạy của mình.
b. Tác dụng của CNTT trong dạy học ở bậc học THCS
Môn Tin học ở bậc THCS bước đầu giúp học sinh làm quen với một số kiến
thức ban đầu về CNTT như: Một số bộ phận của máy tính, một số thuật ngữ thường
dùng, rèn luyện một số kỹ năng sử dụng máy tính, …
Hình thành cho học sinh một số phẩm chất và năng lực cần thiết cho người lao
động hiện đại như:
+ Góp phần hình thành và phát triển tư duy thuật giải.
+ Bước đầu hình thành năng lực tổ chức và xử lý thông tin.
+ Có ý thức và thói quen sử dụng máy tính trong hoạt động học tập, lao động
xã hội hiện đại.
+ Có thái độ đúng khi sử dụng máy tính và các sản phẩm tin học.
+ Bước đầu hiểu khả năng ứng dụng CNTT trong học tập.
+ Có ý thức tìm hiểu CNTT trong các hoạt động xã hội.
*) Đặc biệt khi học sinh học các phần mềm như:
+ Phần mềm soạn thảo văn bản: Học sinh ứng dụng từ các môn học Tập Làm
Văn để trình bày đoạn văn bản sao cho phù hợp, đúng cách. ứng dụng soạn thảo văn
bản để soạn thảo giải những bài toán, bài văn... đã học ở các môn học khác.
+ Phần mềm sử dụng bảng tính: Học sinh ứng dụng từ các môn học như toán,
vật lý... để tính toán một cách nhanh chóng, chính xác.
+ Phần mềm vẽ: Học sinh ứng dụng trong môn Mỹ thuật, học được từ môn mỹ
thuật để vẽ những hình ảnh sao cho sinh động, hài hoà thẩm mĩ.
+ Phần mềm tập gõ bàn phím bằng mười ngón tay Mario: Giúp HS luyện tập
cách làm việc với bàn phím một cách chuẩn xác nhanh chóng và hiệu quả cao.
+ Trong chương trình tin học THCS thì một số bài học được phân bố xen kẽ
giữa các bài vừa học, vừa chơi. Điều đó sẽ rèn luyện cho học sinh óc tư duy sáng tạo
trong quá trình chơi những trò chơi mang tính bổ ích giúp cho học sinh thư giãn sau
những giờ học căng thẳng ở lớp …

1.2 Lý do chủ quan


Năm học 2008- 2009 là năm Bộ GD&ĐT phát động là năm học ứng dụng công
nghệ thông tin và năm học 2009 – 2010 là năm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin nhưng tôi không cảm thấy bỡ ngỡ, xa lạ bởi tôi nhận ra những công dụng và ích
lợi của việc ứng dụng công nghệ thông tin và bản thân tôi đã có một quá trình trong
việc ứng dụng CNTT trong dạy học.
Phong trào ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý giáo dục
nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, của nghành giáo dục, sự
ủng hộ của giáo viên, học sinh và nhân dân đã có sự phát triển mạnh mẽ, rộng lớn

5
nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn lúng túng, chưa có chiều sâu và chưa mang lại
hiệu quả đúng với vai trò của nó.
Thời gian gần đây, phong trào thi đua soạn bài giảng điện tử để đổi mới cách
dạy và học đã được nhiều Cán bộ giáo viên hưởng ứng tích cực. Đây được coi là con
đường ngắn nhất để đi đến đích của chất lượng dạy học trong các nhà trường.
Xuất phát từ thực trạng giảng dạy của đội ngũ cán bộ, giáo viên của Ngành.
Mặc dù hầu hết trình độ giáo viên của các trường đều đạt trên chuẩn và trên chuẩn
cao, tuy vậy vẫn còn nhiều giáo vên dạy theo phương pháp truyền thống, nặng về
phương pháp thuyết trình, độc thoại, ngại sử dụng phương pháp mới mà đặc biệt là
việc ứng ứng dụng CNTT trong giảng dạy. Việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy ở
các trường hầu hết thông qua các đợt hội giảng, ứng dụng CNTT chưa thường xuyên,
còn mang tính hình. Để thúc đẩy việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy và quản lý
giáo dục tại các trường phổ thông, góp phần nâng cao chất lượng chúng tôi mạnh
dạn xây dựng đề tài “Chỉ đạo Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
và quản lý giáo dục”
2. Mục đích nghiên cứu
- Đề tài này nhằm mục đích trao đổi cùng đồng nghiệp vai trò của ứng dụng
công nghệ thông tin trong dạy học.
- Cung cấp kiến thức ban đầu về việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng
dạy và việc đổi mới phương pháp dạy học.
- Hình thành những kĩ năng cơ bản khi thực hành trên máy tính và biết vận
dụng phương pháp dạy học mới trong giảng dạy
- Luôn say mê và nghiên cứu công nghệ thông tin phục vụ cho giảng dạy.
- Thực hiện đề tài này nhằm rút ra được những bài học kinh nghiệm qua thực
tế giảng dạy của bản thân và của đồng nghiệp.
- Đồng thời là một số kinh nghiệm cho đồng nghiệp tham khảo, vận dụng
trong quá trình công tác và trong giảng dạy để đảm bảo việc đổi mới phương pháp
dạy học.
- Bên cạnh đó còn góp phần khắc phục những khó khăn cho một số giáo viên
khi sử dụng giáo án điện tử để dạy học.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về việc ứng dụng CNTT trong dạy học.
- Tìm hiểu những khó khăn của giáo viên khi soạn giáo án điện tử
- Những yêu cầu cơ bản để soạn được một giáo án điện tử.
- Xây dựng quy trình soạn giáo án điện tử
- Đưa ra một số kinh nghiệm ứng dụng CNTT trong dạy học, đề xuất một số
biện pháp nâng cao hiệu quả của ứng dụng CNTT trong dạy học và đẩy mạnh phong
trào ứng dụng CNTT trong năm học mới.

6
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận về “Ứng dụng công nghệ thông tin”
- Chỉ thị số 58-CT/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đẩy mạnh ứng
dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa .
- Chỉ thị 29/CT của Trung Ương Đảng về việc đưa CNTT vào nhà trường.
Chỉ thị 29 nêu rõ : “Ứng dụng và phát triển CNTT trong giáo dục và đào tạo sẽ tạo ra
một bước chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung, chương trình, phương
pháp giảng dạy, học tập và quản lí giáo dục” .” Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong
giáo dục và đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng
CNTT như một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp giảng dạy và
học tập ở tất cả các môn học” .
- Trong nhiệm vụ năm học 2005 - 2006 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
nhấn mạnh: Khẩn trương triển khai chương trình phát triển nguần nhân lực CNTT từ
nay đến năm 2010 của chính phủ và đề án dạy Tin học ứng dụng CNTT và truyền
thông giai đoạn 2005 - 2010 của ngành.
- Chiến lược phát triển giáo dục 2005 – 2010 chỉ rõ :”Nhanh chóng áp dụng
CNTT vào giáo dục để đổi mới phương pháp giáo dục và quản lí”
- Chỉ thị 08/203 của Bộ bưu chính viễn thông, ngày 02/06/2003 : “Đưa
Internet đến tất cả các trường đại học, cao đẳng, THCN, THPT trên phạm vi cả nước
và kết nối tới các trường THCS và TH ở những nơi có điều kiện”
Công nghệ thông tin, viết tắt CNTT, (tiếng Anh: Information Technology hay là
IT) là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin. CNTT là sử dụng máy
tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền, và thu thập
thông tin. Ở Việt Nam khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị quyết
Chính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993 : Công nghệ thông tin là tập hợp các phương
pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật
máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn
tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của
con người và xã hội.
Trong hệ thống giáo dục Tây phương, CNTT đã được chính thức tích hợp vào
chương trình học phổ thông. Người ta đã nhanh chóng nhận ra rằng nội dung về
CNTT đã có ích cho tất cả các môn học khác.
Với sự ra đời của Internet mà các kết nối băng tần rộng tới tất cả các trường
học, áp dụng của kiến thức, kỹ năng và hiểu biết về CNTT trong các môn học đã trở
thành hiện thực.
Công nghệ thông tin là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng dạy,
học tập và hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả và
chất lượng giáo dục. Phát triển nguồn nhân lực CNTT và ứng dụng CNTT trong giáo
dục là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định sự phát triển CNTT của đất
nước.

7
2. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường phổ thông hiện nay
2.1. Những trở ngại khi sử dụng giáo án điện tử
Phần lớn các giáo viên ngại sử dụng giáo án điện tử, nghĩ rằng sẽ tốn thời gian
để chuẩn bị một bài giảng. Việc thực hiện một bài giảng một cách công phu bằng các
dẫn chứng sống động trên các slide trong các giờ học lý thuyết là một điều mà các
giáo viên không muốn nghĩ đến. Để có một bài giảng như thế đòi hỏi phải mất nhiều
thời gian chuẩn bị mà đó chính là điều mà các giáo viên thường hay tránh. Khảo sát
hiệu quả từ phía học sinh cho thấy, nếu sử dụng phương pháp dạy học truyền thống
với phấn trắng bảng đen thì hiệu qua mang lại chỉ có 30%, trong khi hiệu quả của
phương pháp multimedia (nhìn - nghe) lên đến 70%. Việc sử dụng phương pháp mới
đòi hỏi một giáo án mới. Thực ra, muốn “click” chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì
giáo viên phải vất vả gấp nhiều lần so với cách dạy truyền thống. Ngoài kiến thức
căn bản về vi tính, sử dụng thành thạo phần mềm Power point, Violet,… giáo viên
cần phải có niềm đam mê thật sự với công việc thiết kế đòi hỏi sự sáng tạo, sự nhạy
bén, tính thẩm mỹ để săn tìm tư liệu từ nhiều nguồn.
Hơn nữa trong quá trình thiết kế, để có được một giáo án điện tử tốt, từng cá
nhân giáo viên còn gặp không ít khó khăn trong việc tự đi tìm hình ảnh minh hoạ, âm
thanh sôi động, tư liệu dẫn chứng phù hợp với bài giảng. Đây cũng chính là một
trong những nguyên nhân mà một số giáo viên thường đưa ra để tránh né việc thực
hiện dạy ứng dụng CNTT.
Trong tổ chuyên môn đa số giáo viên mới nên ngoài việc hoàn thiện về chuyên
môn bên cạnh đó còn phải trang bị cho bản thân những kiến thức Tin học về các
phần mềm ứng dụng trong giảng dạy. Mặc dù đã bước đầu soạn giảng nhưng kinh
nghiệm xử lí còn nhiều hạn chế.
Thường trình chiếu nội dung bài dạy suốt cả tiết học làm cho học sinh mỏi mắt,
đưa vào tình trạng mệt mỏi, kém tích cực.
Có một số nội dung không nhất thiết phải trình chiếu cũng thể hiện lên. Chưa
chắt lọc được phần kiến thức nào thì dùng phần mềm để hỗ trợ.
Một số hoạt động tiếp cận khái niệm, mô tả khái niệm, quy tắc, tiếp cận định lý
chưa biết khai thác thế mạnh của các phần mềm ứng dụng như Power point,
Sketchpat, . . .
Qua thăm dò, đánh giá học sinh thì các em làm phần trắc nghiệm trả lời rất tốt
nhưng cho làm bài toán có tính suy luận thì gặp rất nhiều khó khăn.
Chính vì những khó khăn trên mà các giáo viên chỉ ứng dụng CNTT khi có nhu
cầu. Tức là chỉ có thao giảng, thì mới sử dụng và việc làm này chỉ mang tính chất đối
phó. Tình trạng này cũng phổ biến trong các trường phổ thông. Mục đích sử dụng
máy tính phục vụ cho công tác giảng dạy chỉ được áp dụng trong các tình huống này.
2.2. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường hiện nay
Từ khá sớm, các trường học, THCS đã bắt đầu đưa công nghệ thông tin vào giảng
dạy. Hầu hết các trường đều chưa có phòng máy tính riêng. Mặc dù một số trường
được trang bị phòng mày tính tuy nhiên chỉ nhằm mục đích cho học sinh thực hành
môn Tin học (chỉ là một môn trong rất nhiều môn học), hoặc ứng dụng trong công tác
lưu trữ, quản lý hồ sơ nhân sự hay trợ giúp việc thi cử. Như vậy, có thể thấy chúng ta

8
đã bỏ phí rất nhiều tiềm năng của máy tính, chưa khai thác hết những ứng dụng to lớn
của công nghệ thông tin, mà một trong những ứng dụng đó là việc sử dụng các phần
mềm hỗ trợ giảng dạy cho các tiết học trên lớp đối với các môn văn hoá khác như:
Toán, Vật lý, Hoá học, Sinh học, Lịch sử, Địa lý, Ngoại ngữ v.v...
Chính vì vậy, nhu cầu sử dụng phần mềm trong giảng dạy hiện nay là rất lớn.
Hầu hết các giáo viên đều nhận thấy đây là vấn đề cấp thiết cần thực hiện ngay. Các
sinh viên sư phạm cũng đều coi khả năng thiết kế bài giảng bằng máy tính như một
tiêu chuẩn nâng cao giá trị của mình khi xin việc vào các trường tốt. Các lãnh đạo
trường cũng như các cơ quan giáo dục đều khuyến khích và coi khả năng sử dụng giáo
án điện tử, bài giảng điện tử là ưu điểm của giáo viên. Do đó, các lớp tập huấn Tin học
sử dụng Powerpoint, Violet,... thường được các giáo viên tham gia rất đông. Trong các
cuộc thi giáo viên dạy giỏi, gần như 100% là các bài giảng là dùng phần mềm. Ở các
tỉnh thành lớn, đa số các trường học đều đã trang bị máy chiếu để phục vụ việc giảng
dạy bằng máy tính.
Trên thực tế thì các phần mềm giáo dục của Việt Nam cũng đã xuất hiện rất
nhiều, phong phú về nội dung và hình thức như: sách giáo khoa điện tử, các website
đào tạo trực tuyến, các phần mềm multimedia dạy học,... Trên thị trường có thể dễ
dàng lựa chọn và mua một phần mềm dạy học cho bất cứ môn học nào từ lớp một cho
đến luyện thi đại học. Tuy nhiên, các "Sách giáo khoa điện tử" không tỏ ra nổi trội hơn
SGK truyền thống, Website đào tạo từ xa khó triển khai rộng được vì Internet ở VN
còn là một vấn đề lớn. Các phần mềm dạy học cho học sinh, dù đã có rất nhiều cố
gắng về mặt hình thức và nội dung, tuy nhiên sự giao tiếp giữa máy với người chắc
chắn không thể bằng sự giao tiếp giữa thầy với trò...
Hiện nay, các công ty thiết bị giáo dục cũng thường xây dựng các video quay các
tiết giảng mẫu để đưa về các trường. Tuy nhiên định hướng này khó phát huy được
hiệu quả, vì sản phẩm cũng chỉ như một giáo án tham khảo trong khi chi phí để xây
dựng rất lớn (vài chục triệu đồng/tiết dạy) mà hầu như không thể chỉnh sửa về sau
được. Nó thậm chí còn có thể gây phản tác dụng khi tạo ra sự áp đặt cho giáo viên, tạo
ra tư duy lười suy nghĩ vì chỉ cần dạy theo giáo án mẫu, làm giảm đi sự sáng tạo của
giáo viên trong việc giảng dạy...
3. Các hình thức ứng dụng CNTT trong dạy học
Hiện nay, trên thế giới người ta phân biệt rõ ràng 2 hình thức ứng dụng CNTT
trong dạy và học, đó là Computer Base Training, gọi tắt là CBT (dạy dựa vào máy
tính), và E-learning (học dựa vào máy tính). Trong đó:
- CBT là hình thức giáo viên sử dụng máy vi tính trên lớp, kèm theo các trang
thiết bị như máy chiếu (hoặc màn hình cỡ lớn) và các thiết bị multimedia để hỗ trợ
truyền tải kiến thức đến học sinh, kết hợp với phát huy những thế mạnh của các phần
mềm máy tính như hình ảnh, âm thanh sinh động, các tư liệu phim, ảnh, sự tương tác
người và máy.
- E-learning là hình thức học sinh sử dụng máy tính để tự học các bài giảng mà
giáo viên đã soạn sẵn, hoặc xem các đoạn phim về các tiết dạy của giáo viên, hoặc có
thể trao đổi trực tuyến với giáo viên thông mạng Internet. Điểm khác cơ bản của hình

9
thức E-learning là lấy người học làm trung tâm, học viên sẽ tự làm chủ quá trình học
tập của mình, giáo viên chỉ đóng vai trò hỗ trợ việc học tập cho học viên.
Như vậy, có thể thấy CBT và E-learning là hai hình thức ứng dụng CNTT vào
dạy và học khác nhau về mặt bản chất. Một bên là hình thức hỗ trợ cho giáo viên, lấy
người dạy làm trung tâm và cơ bản vẫn dựa trên mô hình lớp học cũ. Còn một bên là
hình thức học hoàn toàn mới, lấy người học làm trung tâm, trong khi giáo viên chỉ là
người hỗ trợ. Tuy nhiên, ở Việt Nam nhiều người vẫn bị nhầm lẫn 2 khái niệm này,
trong đó có không ít các chuyên gia giáo dục, nên nhiều khi dẫn đến những sai lầm
trong đường hướng chỉ đạo. Vì vậy, tôi sẽ phân tích kỹ hơn nhưng mặt mạnh mặt yếu
của CBT và E-learning để có thể hiểu rõ hơn chúng ta đã làm gì, cần làm gì và nên
làm gì trong giai đoạn hiện nay.
CBT E-learning
Có thể phát triển, cải tiến từ phương Thay đồi hoàn toàn cách dạy và học.
pháp dạy học truyền thống. Vẫn dựa Người học có thể học riêng rẽ, học ở nhà
trên những hình thức cơ bản của một hoặc ở nơi làm việc. E-learning khai thác
lớp học thông thường được tối đa sức mạnh của thế giới
Internet: khả năng phổ biến rất cao (có
thể 1 bài giảng hàng triệu người học),
hay có khả năng cập nhật các thông tin
mới ngay lập tức.
Chi phí đầu tư ban đầu thấp. Chỉ cần Chi phí đầu tư ban đầu rất cao. Mỗi lớp
trang bị cho lớp học máy tính, máy học phải là một phòng máy tính nối mạng
chiếu và các thiết bị multimedia. Internet, mỗi học sinh và giáo viên phải
có máy tính riêng và những phần mềm
chuyên dụng.

CBT là phương pháp kết hợp được cả Chỉ dựa trên thế mạnh của các bài giảng
những thế mạnh của phương pháp dạy điện tử, hầu như không có giao tiếp thầy
học truyền thống (dựa trên giao tiếp trò.
thầy-trò) và khai thác được những ưu
thế của các công nghệ hiện đại (ví dụ
những bài giảng điện tử).
Phù hợp hơn với giáo dục phổ thông, vì Phù hợp hơn với giáo dục Đại học, Sau
là ở giáo dục phổ thông, giáo viên đại học và những người đã đi làm.
không chỉ dạy kiến thức mà còn phải
theo dõi hướng dẫn cách tư duy. Vả lại
học sinh nhỏ tuổi chưa đủ khả năng để
làm chủ được quá trình học tập của
mình.
Đây là phương pháp mà các giáo viên ở Chưa phải là hình thức phổ biến lắm ở
Việt Nam hay dùng phổ biến hiện nay Việt Nam. Mới chỉ có một số trường ĐH
như dùng Powerpoint, Violet để thiết có hệ thống E-learning riêng như ĐH Sư
kế bài giảng và dạy học dùng máy phạm HN, ĐH Xây dựng HN, ĐH Cần

10

You might also like