You are on page 1of 13

ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

Khoa Tiếng Anh

----------

TIỂU LUẬN
MÔN NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU

Họ tên: Mai Thị Tư


Ngày sinh: 06/12/2001
MSV: 19C-71-17.3-02524
Lớp: 1971A12
Khóa học: 2021-2022

Hà Nội - 2021

1
ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
Khoa Tiếng Anh

----------

TÊN ĐỀ TÀI:
NGHIÊN CỨU THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT CÓ CHỨA TÊN GỌI
ĐỘNG VẬT TRONG TIẾNG VIỆT VỀ NGHĨA TRI NHẬN VĂN HÓA

Hà Nội - 2021
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .........................................................................................................1
1.Lý do chọn đề tài .....................................................................................1
2.Mục đích nghiên cứu ...............................................................................1
3.Nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................................1
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..........................................................1
5.Phương pháp nghiên cứu........................................................................2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN ....................................................................2
1.1.Những lí thuyết về thành ngữ .............................................................2
1.2.Khái quát về ngôn ngữ học đối chiếu .................................................3
CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ DỊ BIỆT CỦA
THÀNH NGỮ CÓ YẾU TỐ CHỈ LOÀI VẬT TRONG TIẾNG VIỆT
VÀ TIẾNG HÁN VỀ NGHĨA TRI NHẬN VĂN HÓA..............................4
2.1. Dẫn nhập ..............................................................................................4
2.2. Những điểm tương đồng về nghĩa tri nhận văn hóa ........................4
2.3. Những dị biệt về nghĩa tri nhận văn hóa ..........................................6
2.4. Tiểu kết .................................................................................................8
KẾT LUẬN.....................................................................................................9
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................10
MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài

Ngôn ngữ là một phương tiện giao tiếp không thể thiếu trong xã hội loài
người. Nhưng trong rất nhiều tình huống giao tiếp, chúng ta lại không dùng
những từ ngữ rõ ràng nhất, trực tiếp nhất để biểu đạt ý của mình, mà lại sử
dụng một số hình thức diễn đạt thay thế, chẳng hạn như thành ngữ. Thành
ngữ không chỉ có tác dụng làm cho lời văn hay, hình tượng đẹp mà còn có
tác dụng diễn tả ý tưởng một cách sâu sắc, tế nhị, hàm súc. Đặc biệt là ngữ
có chứa thành tố chỉ động vật.

2.Mục đích nghiên cứu

Mục đích chính của đề tài là làm sáng tỏ là làm sáng tỏ đặc điểm ngữ nghĩa
của thành ngữ có chứa yếu tố chỉ loài vật trong tiếng Việt và tiếng Hán. Qua
đó, góp phần xác định đặc điểm tri nhận, đặc trưng văn hóa dân tộc qua ngữ
nghĩa của thành ngữ có yếu tố chỉ loài vật trong tiếng Việt và tiếng Hán.
Thông qua đó cũng góp phần nâng cao chất lượng cho việc dạy học và
nghiên cứu, cũng như chất lượng dịch thuật thành ngữ được sử dụng trong
văn bản Hán – Việt đặc biệt là thành ngữ có chứa yếu tố chỉ loài vật.

3.Nhiệm vụ nghiên cứu

-Tìm hiểu sự pha trộn ý niệm của một số thành ngữ có yếu tố chỉ loài vật để
hiểu được quá trình tri nhận trong việc tạo ra ý nghĩa của thành ngữ
-Xác định được các đặc điểm ngữ nghĩa của thành ngữ thông qua các kiểu
cấu trúc thành ngữ.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của tiểu luận ở những thành ngữ có chứa
thành tố chỉ động vật trong tiếng Việt và tiếng Hán. Và trong các thành ngữ
này, tôi chỉ quan tâm đến mặt ý nghĩa văn hóa của các từ ngữ chỉ động vật
mà thôi.

5.Phương pháp nghiên cứu

-Phương pháp thống kê, nhằm thống kê tất cả những thành ngữ có chứa từ
ngữ chỉ động vật, từ ngữ chỉ bộ phận động vật, thành ngữ so sánh có chứa
thành tố chỉ động vật trong tiếng Việt và tiếng Hán.
-Phương pháp đối chiếu cũng sử dụng để so sánh đối chiếu ngữ nghĩa của
thành ngữ có thành tố động vật trong hai ngôn ngữ Việt – Anh. Qua việc so
sánh đối chiếu này, những nét tương đồng và dị biệt về ngôn ngữ - văn hóa –
xã hội giữa hai ngôn ngữ được nhìn thấy một cách rõ ràng.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1.Những lí thuyết về thành ngữ

1.1.1. Quan niệm về thành ngữ trong tiếng Việt


Chúng ta có thể tìm thấy khá nhiều quan niệm về thành ngữ tiếng Việt được
các nhà nghiên cứu trình bày trong các sách nghiên cứu cũng như trong tạp
chí ngôn ngữ. Về cơ bản, các khái niệm đều có nội dung chính, nêu rõ đặc
điểm của thành ngữ là những cụm từ cố định. Theo tác giả Nguyễn Thiện
Giáp (2003) trong quyển ―Từ vựng học đã chỉ rõ: “Thành ngữ là những
cụm từ cố định vừa có tính hoàn chỉnh về nghĩa, vừa có tính gợi cảm.” [8,
tr.77]. Trong khi đó, tác giả Hoàng Văn Hành (2004) trong quyển Thành ngữ
học tiếng Việt đã định nghĩa thành ngữ: “Thành ngữ là một loại tổ hợp từ cố
định, bền vững về hình thái - cấu trúc, hoàn chỉnh và bóng bẩy về ý nghĩa

2
được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp hàng ngày, đặc biệt là trong khẩu
ngữ.” [10, tr.27]
1.1.2. Quan niệm về thành ngữ trong tiếng Hán
Người Trung Quốc lại quan niệm về thành ngữ như sau:
Tác giả 陆尔奎 (Lục Nhĩ Khuê) và 方毅等 (Phương Nghị Đẳng) (1915)
trong quyển ―辞源‖ (Từ Nguyên) đã quan niệm: “Thành ngữ là cổ ngữ,
phàm những gì lưu hành trong xã hội, dẫn đến biểu thị ý nghĩa của mình đều
là thành ngữ.” [74, tr.653]. Trong khi đó tác giả 胡育受 (Hồ Dục Thụ)
(1939) trong quyển ―现代汉语‖ (Tiếng Hán hiện đại) cho rằng: “Thành ngữ
là một loại từ tổ nhất định, tính chất của nó gần với quán ngữ, thường được
sử dụng như một đơn vị với ý nghĩa hoàn chỉnh, nhưng so với quán ngữ thì
thành ngữ có tính cố định hơn. Thông thường thì thành ngữ có kết cấu chặt
chẽ, không thể tùy ý thay đổi các thành phần khác, cũng không như quán ngữ
có thể tách rời hoặc chen vào một số thành phần khác.” [68, tr.175]

1.2.Khái quát về ngôn ngữ học đối chiếu

Ngôn ngữ học đối chiếu là một chuyên ngành của Ngôn ngữ học sử dụng
phương pháp so sánh đối chiếu giữa các ngôn ngữ khác nhau để tìm ra sự
tương đồng và khác biệt giữa chúng. Lịch sử hình thành của ngôn ngữ học
đối chiếu gắn liền với sự phát triển của các khuynh hướng nghiên cứu Ngôn
ngữ học. Ngôn ngữ học đối chiếu hình thành trong quá trình phát triển của
ngôn ngữ học so sánh. Tuy nhiên, theo cách hiểu hiện nay thì ngôn ngữ học
đối chiếu khác với ngôn ngữ học so sánh ở chỗ: nó bao quát nhiều ngôn ngữ ,
bất luận ngôn ngữ đó có loại hình giống nhau hay khác nhau, có cùng nguồn
gốc hay khác nguồn gốc. Ngôn ngữ học đối chiếu hình thành trong quá trình
tìm kiếm một cách học ngoại ngữ nhanh hơn và hiệu quả hơn. Như vậy, các

3
yêu cầu của việc học và dạy ngôn ngữ là nhân tố quan trọng dẫn đến sự hình
thành của ngôn ngữ học đối chiếu.

CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ DỊ BIỆT CỦA


THÀNH NGỮ CÓ YẾU TỐ CHỈ LOÀI VẬT TRONG TIẾNG VIỆT
VÀ TIẾNG HÁN VỀ NGHĨA TRI NHẬN VĂN HÓA

2.1. Dẫn nhập

Sự tri nhận về thế giới của con người thể hiện qua ngôn ngữ chịu sự chi phối
của môi trường sống và đặc điểm văn hóa của mỗi cộng đồng ngôn ngữ, mỗi
dân tộc. Nghiên cứu thành ngữ có yếu tố chỉ loài vật của tiếng Hán và tiếng
Việt từ góc nhìn tri nhận tôi thấy có những sự tương đồng và khác biệt giữa
hai ngôn ngữ và của hai nền văn hóa của hai dân tộc. Vậy muốn nghiên cứu
sâu về văn hóa thì phải nghiên cứu ngôn ngữ và tất nhiên muốn đi sâu vào
ngôn ngữ thì cũng phải chú ý đến văn hóa. Để hiểu rõ hơn về văn hóa của
một đất nước thì không thể không quan tâm đến thành ngữ một trong những
tinh hoa của văn hóa dân tộc.
2.2. Những điểm tương đồng về nghĩa tri nhận văn hóa
Văn hóa Trung Quốc và Việt Nam đều thuộc về văn hóa phương Đông. Do
đó cách xưng hô, chào hỏi, phong tục tập quán đến cả phương thức tư duy
đều có những điểm gần gũi. Văn hóa, lịch sử Trung Hoa và Việt Nam có
những mối liên hệ phong phú, tất nhiên cũng có nhiều điểm khác nhau rất
tinh tế. Nói chung, những quy định về lễ nghi, phong tục, cách ứng xử của
người Trung Quốc ngày nay vẫn còn phức tạp hơn người Việt Nam.
Để minh chứng cho những điểm tương đồng giữa Việt Nam và Trung Quốc
tôi đã lựa chọn hình ảnh con rồng. Hình ảnh con rồng là kiệt tác sáng tạo
nghệ thuật, vì nó không tồn tại trong thế giới tự nhiên mà là sự sáng tạo nghệ
thuật siêu tự nhiên. Cùng với sự phát triển của lịch sử, từ lâu các nước

4
phương Đông hình thành nên quan niệm phổ biến về con rồng, tổng hợp
trong con vật linh thiêng này là trí tuệ, tín ngưỡng, niềm tin, lý tưởng,
nguyện vọng, sức mạnh… Trải qua bao đời các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ ở
mỗi nước. Phương Đông đã dần tạo cho con rồng trở thành hình tượng cao
quý và sức sống vĩnh hằng, có sức ảnh hưởng to lớn, ý nghĩa sâu sắc đối với
đời sống xã hội ở mỗi nước. Trong tâm thức của người Việt và người Trung
Hoa thì ảnh hưởng của con rồng là một con vật tưởng tượng nhưng lại tượng
trưng cho sự ấm no thịnh vượng, biểu tượng cho quyền uy và sức mạnh. Từ
cách nhìn này, hình ảnh con rồng đã đi vào đời sống của người Việt và
người Trung Hoa một cách tự nhiên. Vào những dịp lễ hội, đám cưới… thì
tiết mục múa Rồng thường diễn ra tưng bừng náo nhiệt. Bên cạnh đó, do vị
trí cao cả của rồng trong dân tộc Trung Hoa và sự ảnh hưởng của nó rộng
khắp các mặt trong cuộc sống xã hội Trung Quốc, in đậm dấu ấn trong ý thức
tinh thần của người dân Trung Quốc, rồng đã trở thành biểu tượng tượng
trưng cho dân tộc Trung Hoa. Trải qua hàng ngàn năm, quan niệm và tín
ngưỡng về rồng đã đi sâu vào lòng người. Các hiện tượng và phong tục liên
quan đến rồng đã trở thành một nét văn hóa phong phú và đa dạng. Ví dụ:
trong tiếng Việt con rồng ngoài chức năng định danh là chỉ một con vật
tưởng tượng ra, là biểu tượng của nhà vua thời xưa và tượng trưng của dân
tộc Việt… Người Việt thường tự nhận là “con rồng cháu tiên”. Người Trung
Hoa cũng tự nhận là con cháu của Rồng. Trong quá trình phát triển lịch sử
của nhân loại thì loài người và con vật đã sống cùng nhau, nương tựa lẫn
nhau. Trong quan niệm của người Trung Quốc và người Việt Nam có một số
con vật được sùng bái, tôn thờ giống nhau. Những giá trị biểu trưng đó dù
mức độ nào cũng đều liên quan đến các hiện tượng trong đời sống, xã hội,
phản ánh quá trình lịch sử, phong tục tập quán tín ngưỡng của mỗi dân tộc.
Đó là những giá trị mang đậm màu sắc văn hóa dân gian.

5
Thành ngữ trong đời sống của người Trung Quốc và người Việt Nam, từ lâu
đã chiếm một vị trí đáng kể. Vẻ đẹp của thành ngữ có yếu tố chỉ loài vật về
mặt hình thức lẫn nội dung là sự kết hợp chặt chẽ hài hòa giữa tinh thần dân
tộc và bản sắc văn hóa. Cũng giống như mọi loại hình văn hóa dân gian thì
thành ngữ đã đi vào từng ngôi nhà, vào từng dòng tư duy của người dân từ
ông già đến trẻ thơ. Đặc điểm của thành ngữ là có tính chất dễ thuộc, dễ nhớ,
dễ đi vào lòng người, ngoài ra nó còn mang đậm tính dân tộc và văn hóa dân
gian. Thông qua những hình ảnh, sự vật, sự việc rất đổi bình thường ông cha
ta đã đúc rút thành những kinh nghiệm sống quý báu. Qua kho tàng thành
ngữ nói chung và những thành ngữ có yếu tố chỉ loài vật nói riêng, chúng ta
có thể thấy được tất cả mọi khía cạnh trong cuộc sống đời thường đều được
nhắc đến.

2.3. Những dị biệt về nghĩa tri nhận văn hóa

Do bối cảnh tâm lý xã hội và truyền thống văn hóa lịch sử không giống nhau
của hai dân tộc Trung Quốc và Việt Nam, một vài loài vật có ý nghĩa tên gọi
tương đồng nhưng nội hàm văn hóa lại không giống nhau nhưng trong tiếng
Việt và tiếng Hán mang ý nghĩa văn hóa khác nhau. Thứ hai là cùng một sự
vật, thuộc tính thì sử dụng những loài vật không giống nhau để ví von, so
sánh. Chẳng hạn trong tiếng Hán con bò già biểu trưng cho những người làm
việc cần cù, có đóng góp công sức lớn lao và không bao giờ khoe khoang, là
một danh hiệu rất quý. Nhưng trong tiếng Việt, con bò lại là biểu trưng cho
sự ngu đần. Người ta thường nói: “Ngu như bò” , “Đầu bò đầu bướu”…
Động vật là một phần của giới tự nhiên, là một phần quan trọng có liên quan
mật thiết trong đời sống của con người. Ngôn ngữ của các dân tộc trên thế
giới phần lớn các lớp từ ngữ có liên quân đến thành ngữ, tục ngữ đều thể
hiện các con vật, thông qua đó nó còn tàng trữ một nền văn hóa phong phú.

6
Từ lâu, ngựa không chỉ là một con vật có ích cho con người về việc chuyên
chở hàng hóa và làm sức kéo, mà còn là người bạn thân thiết, gắn bó trực
tiếp với đời sống của người dân. Qua bao năm tháng, hình ảnh và đặc trưng
của con ngựa đã đi vào tâm thức người dân, để rồi trong lời ăn tiếng nói hằng
ngày, trong ca dao, tục ngữ, những câu chuyện, đạo lý, triết sống đều mang
dáng dấp của con vật thân thương này. Qua tìm hiểu, ngựa trong thành ngữ
tiếng Hán chiếm số lượng khá nhiều. Quan hệ giữa loài người và con vật từ
xưa đến nay đều rất thân thiết và gần gũi, đây không phải là vì loài vật là yếu
tố vật chất cần thiết trong vấn đề sinh tồn của nhân loại, mà trên cơ sở chung
sống cùng nhau trong một thời gian, hình ảnh con ngựa được con người gắn
cho những màu sắc thần bí. Chính vì thế sắc thái biểu trưng của con vật này
gắn liền với một màu sắc độc đáo riêng, phản ánh tình cảm, nét thẩm mỹ
không giống nhau của mỗi dân tộc, cũng chính là hình thành ý nghĩa văn hóa
mang tính biểu trưng đặc sắc của hai dân tộc Trung Quốc, Việt Nam. Ngựa
là động vật gắn với đời sống của con người từ rất lâu trong lịch sử, ngựa đã
trở thành người bạn, người giúp việc trung thành của con người, được con
người yêu quý. Ngựa đã đi vào văn học dân gian và văn hóa nghệ thuật. Xuất
phát từ chính đặc điểm tự nhiên của loài ngựa mà hình ảnh con ngựa luôn
hiện diện với vẻ đẹp trong cách nhìn của con người được phản ánh qua lăng
kính văn hóa. Nhiều nơi trên thế giới con ngựa là hiện thân của năng lực,
may mắn, hạnh phúc, quyền thế lạ biểu tượng cho sự mau lẹ, sức mạnh, nghị
lực, sáng tạo, sự trung thành, táo bạo và sức sống mãnh liệt. Ngựa cũng là
loài vật tượng trưng của dân du mục. Văn hóa ngựa cũng góp phần quan
trọng trong việc hình thành văn hóa du mục và đã tỏa sáng trong nền lịch sử
văn hóa Trung Quốc. Nói đến ngựa người ta thường liên tưởng đến cạnh
ngựa phi nhanh, tung vó ngang dọc, một hình dáng thanh tú, mạnh mẽ, ung
dung tự tại như: (Mã bất đỉnh đề = Ngựa không dừng vó, không nghỉ, luôn

7
luôn tiến lên); hay để miêu tả cuộc sống giàu có, sung túc như: (Tiên xa nộ
mã = xe mới ngựa tốt, cuộc sống xa hoa)… Trong khi đó, con ngựa ở Việt
Nam lại biểu trưng cho những đức tính xấu của con người như: “Ngựa non
háu đa”, “Ngựa quen đường cũ”…

2.4. Tiểu kết

Qua đó chúng ta thấy được sự tương đồng và khác biệt về đặc điểm ngữ
nghĩa của thành ngữ có yếu tố chỉ loài vật trong tiếng Hán và tiếng Việt.
Trung Quốc và Việt Nam là hai đất nước cùng thuộc một loại hình ngôn ngữ,
tuy cả hai nền văn hóa cổ truyền này đều thuộc phạm trù văn minh nông
nghiệp. Nhưng trong cách tri nhận của con người về thế giới khách quan
cũng có những điểm khác biệt.
Các hình ảnh ẩn dụ trong thành ngữ có yếu tố chỉ loài vật trong tiếng Hán và
tiếng Việt rất phong phú và đa dạng. Chúng đã tạo nên một bức tranh đa
dạng với muôn màu muôn vẻ về sự vật, sự việc, về con người trong đời sống,
trong thế giới nội tâm của hai dân tộc.

8
KẾT LUẬN

Thành ngữ là một trong những tinh hoa văn hóa của dân tộc, đó là cả một
kho tàng kinh nghiệm quý báu về tất cả những lĩnh vực như: lao động sản
xuất, về con người, về cuộc sống… được người xưa đúc rút qua nhiều thế hệ.
Thông qua những thành ngữ chúng ta còn hiểu thêm về nền văn hóa dân tộc.
Tìm hiểu đề tài “Thành ngữ có chưa yếu tố chỉ loài vật trong tiếng Hán và
tiếng Việt về tri nhận văn hóa” chúng ta có thể nghiên cứu so sánh và đối
chiếu hệ thống thành ngữ để thấy được những điểm tương đồng và khác biệt
về văn hóa và tư duy của người Việt Nam và người Trung Quốc, chẳng hạn
như: Mượn hình ảnh “con rồng” để ẩn dụ cho hình tượng cao quý và sức
sống vĩnh hằng, có sức ảnh hưởng to lớn, ý nghĩa sâu sắc đối với đời sống xã
hội ở mỗi nước. Trong tâm thức của người Việt và người Trung Hoa thì ảnh
hưởng của con rồng là một con vật tưởng tượng nhưng lại tượng trưng cho
sự ấm no thịnh vượng, biểu tượng cho quyền uy và sức mạnh. Bên cạnh đó,
thông qua việc đối chiếu các thành ngữ có yếu tố chỉ loài vật trong tiếng Việt
và tiếng Hán cũng có những nét khác biệt, ví dụ như người Trung Quốc
thường hay dùng hình ảnh của những loài vật “tứ linh” như: rồng, kỳ lân ,
phượng hoàng , rùa để miêu tả về đồ vật quý giá, cuộc sống sung sướng giàu
có. Trong khi đó người Việt Nam với nền văn hóa lúa nước, chính vì thế mà
chọn những loài vật gần gũi với con người như: cá, ốc, cua… để miêu tả
cuộc sống sung túc, đủ đầy “Cơm trắng cá ngon”, “Cua nướng ốc lùi”. Mặc
dù thực hiện đề tài này còn nhiểu thiếu sót nhưng tôi cũng mong muốn mọi
người có một cách nhìn thấy đáo, đầy đủ hơn và thông qua đó thấy được
những nét đặc trưng văn hóa khác nhau của mỗi dân tộc.

9
TÀI LIỆU THAM KHẢO

 Liêu Linh Chuyên (2014), Sự khác nhau về


nội hàm văn hóa của hai từ Rồng và Chó trong ngôn ngữ Việt – Hán –
Anh
 Nguyễn Thiện Giáp (2003), Từ vựng học tiếng
Việt, Nxb Giáo Dục.
 Hoàng Văn Hành (2004), Thành ngữ học tiếng
Việt, Nxb Khoa học Xã Hội
 Bùi Mạnh Hùng (2008), Ngôn ngữ học đối
chiếu, Nxb Giáo dục, Hà Nội
 Trịnh Cẩm Lan (2009), Biểu trưng ngữ nghĩa
của thành ngữ tiếng Việt (trên cứ liệu thành ngữ có yếu tố chỉ tên gọi
động vật)
 Triều Nguyên (2007), Tìm hiểu thế giới động
vật dưới góc độ ngôn ngữ - văn hóa dân gian người Việt.
 Trần Thế Phi (2016), Ẩn dụ ý niệm cảm xúc
trong thành ngữ tiếng Việt (So sánh với thành ngữ tiếng Anh), luận án
Tiến sĩ ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học và XHNV, HCM.
 Phan Phương Thanh (2019), Thành ngữ có
yếu tố chỉ loài vật trong tiếng Hán và tiếng Việt từ lý thuyết ngôn ngữ
học tri nhận, Luận án Tiến sĩ.

10

You might also like