You are on page 1of 9

BÀI 1

TÁCH CHIẾT VÀ KHẢO SÁT TÍNH CHẤT VẬT LÝ CỦA TINH


DẦU CAM, BƯỞI
I. Mục tiêu
- Nghiên cứu một phương pháp tách chiết tinh dầu vỏ quả: chưng cất lôi cuốn hơi
nước.
- Khảo sát hằng số vật lý, hóa học của tinh dầu.
Tinh dầu vỏ cam, bưởi có thành phần limonene cao. Limonene ngoài khả năng gây
ngán ăn trên sâu và côn trùng có hại (được ứng dụng vào việc diệt côn trùng gây
hại mùa màng), còn có dược tính. Limonene với khả năng ức chế tế bào ung thư
(khi sử dụng DMBA, NDEA, thử nghiệm gây tác động sinh khối u tại vú trên động
vật) đang được quan tâm nghiên cứu.
II. Phương pháp
Chiết xuất tinh dầu bằng chưng cất lôi cuốn hơi nước trực tiếp.
III. Tiến hành
- Cân 50g nguyên liệu, xắt nhỏ, xay.
Chưng cất lôi cuốn hơi nước
- Đong nước cất, cho cùng nguyên liệu vào bộ chưng cất (tỷ lệ thể tích là 1:2).
- Khởi động máy tăng nhiệt.
Chú ý: 5 mL nước chưng cất thu được đầu tiên phải để riêng.
1- Tắt nguồn nhiệt sau 1 giờ kể từ lúc nước trong bộ chưng cất sôi. Sau khi hoàn
thành, chờ nguội 20 phút để tháo và làm vệ sinh bộ chưng cất, đồng thời tiến hành
tách chiết tinh dầu.
IV. Kết quả
Tinh dầu vỏ cam có màu vàng đậm, mùi thơm đặc trưng phần vỏ quả, có vị đắng
nhẹ (vì thành phần hóa học của tinh dầu có chứa terpene), cay, ngọt, có tính sát
trùng, phản ứng trung tính với giấy quỳ.

V. Trả lời câu hỏi


1. Phương pháp chưng cất lôi cuốn hơi nước tinh dầu vỏ quả như: cam, bưởi,… có
thể thực hiện trong điều kiện nguyên liệu như thế nào? Giải thích?
Chưng cất bằng lôi cuốn hơi nước dựa trên sự thẩm thấu, hòa tan, khuếch tán và lôi
cuốn theo hơi nước của những hợp chất hữu cơ trong tinh dầu chứa trong các mô
khi tiếp xúc với hơi nước ở nhiệt độ cao.
Do đó: Phương pháp chưng cất lôi cuốn hơi nước tinh dầu vỏ quả như cam bưởi,...
có thể thực hiện trong điều kiện nguyên liệu còn nguyên, dạng mảng lớn và không
bị ảnh hưởng quá nhiều bởi nhiệt độ cao.
2. Phương pháp tách tinh dầu vỏ quả bằng lực cơ học như ép, vắt… có thể
thực hiện trong điều kiện nguyên liệu như thế nào? Giải thích?
Các trái thuộc họ Rutaceace như cam, chanh, bưởi, quýt,… có các túi tinh dầu nằm
sát mặt ngoài vỏ và với hàm lượng cao nên có thể dùng lực cơ để giải phóng tinh
dầu. Sau đó có thể vắt lấy tinh dầu. Tinh dầu thu được trong trường hợp này có
mùi tự nhiên hơn do không bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ. Tuy vậy, hiệu suất theo
cách này không cao.
Do đó: phương pháp tách tinh dầu vỏ quả bằng lực cơ học như ép vắt,... có thể
thực hiện trong điều kiện nguyên liệu còn tươi, ở dạng đã được cắt nhỏ, mỏng.
3. Nguyên tắc lóng tách hai chất lỏng từ một hỗn hợp?
a. Chiết lỏng-lỏng:
Chiết lỏng – lỏng là quá trình chuyển một chất ở dạng hòa tan hay huyền
phù từ pha lỏng này sang pha lỏng khác. Tùy theo bản chất của chất cần chiết và
môi trường chúng đang tồn tại ta chọn dung môi chiết thích hợp sao cho chỉ hòa
tan chất định chiết mà không hòa tan các chất của môi trường. Quá trình chiết kết
thúc khi chất đã chiết hết. Kiểm tra bằng màu hay sắc ký.
Nguyên tắc chọn dung môi.
- Dung môi phải chọn là dung môi có khả năng hòa tan lớn hơn dung môi cũ.
- Dễ tách ra khi tinh chế lại thành chất tinh khiết không trộn lẫn vào dung môi cũ.
- Có sự khác biệt nhiều về tỉ khối so với dung môi cũ.
- Ít có khả năng tạo nhũ và ít nguy hiểm.
- Có nhiệt độ sôi thấp vì sau khi chiết ta thường dùng phương pháp chưng cất để
tách dung môi ra.
- Dung môi không phân cực (ether dầu hỏa…) hòa tan tốt hợp chất không phân
cực.
34
- Dung môi phân cực trung bình (diethyl ether, chloroform…) hòa tan tốt hợp chất
phân cực trung bình (vd như bài tinh dầu…,chất nhóm chức ether, aldehyde,
ketone, ester,..)
- Dung môi phân cực mạnh (metanol…) hòa tan chất phân cực mạnh (ancohol,
acid carboxylic…)
b. Những lưu ý khi sử dụng bình lóng:
Trước hết khóa kín bình, đổ dung dịch vào, rồi cho dung môi vào bình đựng
dung môi, thường dùng từ 1/5 – 1/3 thể tích dung dịch. Đậy nút, tay phải giữ nắp
và bình, tay trái giữ khóa bình, lắc nhẹ cẩn thận, đảo ngược nhiều lần. Khi lắp áp
suất trong bình tăng lên nên thỉnh thoảng mở khóa bình để cân bằng áp suất với
bên ngoài, sau đó đóng khóa lại, tiếp tục lắc. Khi lắc xong, để bình trên giá, mở
nắp đậy chờ dung dịch tách thành hai lớp. Mở khóa bình cho lớp chất lỏng phía
dưới chảy xuống, còn lớp trên được lấy ra bằng cách đổ qua miệng bình.
Chú ý: Nếu sau khi lắc và lắng, nếu không thấy 2 chất lỏng phân riêng ra mà tạo
nhũ tương lúc này ta thêm dung dịch NaCl bão hòa tinh khiết vào cho đến khi tách
thành hai lớp chất lỏng, hoặc có thể thêm vào bình lóng khoảng 30ml nước cất.
4. Nguyên tắc làm khan hợp chất hữu cơ:
- Đây là phương pháp loại nước hoặc dung môi ra khỏi sản phẩm hoặc hóa chất
ban đầu.
- Làm khô trong hóa hữu cơ là làm khô nước. Một chất làm khô được gọi là tốt khi
cường độ làm khô mạnh và khả năng làm khô lớn. Cường độ làm khô được đánh
giá bằng áp suất hơi nước của chất đó, khả năng làm khô được đánh giá bằng
lượng nước hấp thụ được.
- Các chất như P4O10, H2SO4 đặc, CaCl2, MgSO4, Na2SO4.... đều là các chất làm
khô mạnh. Người ta còn chia chất làm khô thành 3 loại: Acid như P4O10, H2SO4
đặc...; base như KOH, NaOH viên... và chất làm khô trung tính: MgSO4, Na2SO4... tùy
theo tính chất của đối tượng được làm khô mà người ta chọn chất làm khô thích
hợp theo nguyên tắc không làm biến chất chất được làm khô về cả tính chất vật lý
lẫn hóa học.
Chất làm khô phải thỏa mãn các điều kiện sau
- Không có tác dụng hóa học với chất lỏng.
- Có khả năng hút nước mạnh.
- Không hòa tan trong chất lỏng.
- Có tác dụng làm khô nhanh.
Chú ý: Cho vào chất lỏng không hút nước một lượng quá lớn chất làm khô dạng
rắn vì nếu dùng nhiều sẽ hao hụt chất lỏng, sau đó loại chất làm khô, có thể dùng
dung môi thay chất làm khô.
5. Nguyên tắc xác định hằng số vật lý tinh dầu nhằm mục đích gì?
Mục đích là để xác định độ tinh khiết của tinh dầu cam thu được, khảo sát được
lượng nước còn lẫn trong tinh dầu, hiệu suất chiết cũng như độ tan của tinh dầu
cam.
BÀI 2
TÁCH CHẤT BÉO TỪ DẦU THỰC VẬT
(HOẶC MỠ ĐỘNG VẬT)
I. Đại cương
1. Chất béo toàn phần (lipid): gồm 3 nhóm chính: Các chất béo dầu mỡ, sáp,
phospholipid.
a. Các chất béo dầu mỡ: gồm các chất acid béo (dạng dầu hoặc hơi sệt),
hydroxyacid, các acetylenic acid và hỗn hợp các glycerid.
- Acid béo: là acid carboxylic có số chẵn carbon.
+ Acid béo không no (thường dạng dầu): chứa 1 – 6 liên kết đôi trong phân tử.
Trong thiên nhiên đa số là acid béo không no có cấu trúc dạng cis: acid oleic, acid
linoleic, acid linolenic.
+ Acid béo no (thường dạng mỡ, hơi sệt). Ví dụ: acid caproic – C6, acid myristic
– C14, acid palmitic – C16, acid stearic – C18, acid arachidic – C20, acid behenic –
C22 và acid montanic – C28.
+ Các acid béo cũng tham gia trong phản ứng xà phòng hóa tạo thành muối.
- Acid acetylenic: nhóm hợp chất acid carboxylic dạng dầu chứa liên kết ba trong
phân tử (liên hợp với nhau hoặc liên hợp với liên kết đôi). Ngoài ra có thể có thêm
các liên kết đôi và gồm các dẫn xuất có oxygen tương ứng. Ví dụ: acid tariric, acid
stearolic, acid ximenynic.
- Glycerid: hợp chất không phân cực, khi bị xà phòng hóa tạo thành glycerol và
muối của acid béo. Có 2 loại glycerid: loại đơn glycerid và loại hỗn hợp glycerid.
Ví dụ: Oleodistearin là glycerid hỗn hợp.
b. Sáp: chủ yếu gồm các acid béo dây hở, ester của acid béo và các alcol
monohydric, thường chứa từ 24 - 36 carbon. Ví dụ: sáp ong, mỡ sáp từ lông cừu
6(lanolin), mỡ sáp trong dầu cá nhà táng – spermaceti. Các sáp chịu được sự xà
phòng hóa hơn là dầu và các chất béo.
c. Chất béo biến dưỡng thứ cấp: Sphingomyelin, phospholipid.
- Sphingomyelin: có mạch acid béo hóa hợp với một polyhydroxyamine mạch hở
tạo nối amide, có thể có liên kết glycosidic với carbohydrate.
- Phospholipid: chứa acid phosphoric và một base nitơ (như choline,
ethanolamine, serine) và một polyhydroxyalcol.
2. Tổng quan về sterol:
- Sterol là một dạng chất béo thuộc nhóm chất hữu cơ bậc hai, không bị xà phòng
hóa, có cấu trúc hệ vòng cyclopentano perhydrophenanthrene, với nhóm –OH ở vị
trí C-3 trên vòng; và trong số ít trường hợp có cấu trúc biến đổi của hệ vòng đó.
Nhờ cấu trúc này mà cách định tính và định lượng sterol có những phương pháp
riêng.
- Sterol là nhóm chất rất phong phú, có trong động vật, thực vật và nấm men. Sinh
tổng hợp sterol từ chuyển hóa acetate thành squalene, đồng thời có phối hợp đóng
vòng và demethyl hóa. Sterol có thể ở dạng tự do hoặc hóa hợp như ester hoặc
glycosidic.
- Do sterol không tan trong nước và không bị xà phòng hóa nên có thể tách ra
khỏi dung dịch chất béo đã bị xà phòng hóa bằng cách chiết lỏng – lỏng với dung
môi hữu cơ kém phân cực.
3. Tính chất, vai trò và cách khảo sát chất béo.
- Chất béo không tan trong nước, tan trong dung môi hữu cơ kém phân cực. Vì
vậy có thể sử dụng các dung môi như: ether dầu hỏa, hexane, chloroform để tách
lấy chất béo từ nguyên liệu khô, hoặc chiết lỏng – lỏng để tách lấy chất béo từ
dịch chiết alcol của nguyên liệu.
78
- Vai trò của chất béo với cơ thể động, thực vật rất quan trọng. Đặc biệt vai trò
của các sterol khác hẳn các lipid, không những ảnh hưởng trực tiếp lên chủ thể
mà còn ảnh hưởng đến các sinh vật khác có liên hệ đến chủ thể.
II. Mục đích yêu cầu
Khảo sát sơ bộ thành phần chất béo của dầu đậu nành bằng sắc ký lớp mỏng
(TLC).
III. Tiến hành
1. Chiết chất béo trong đậu nành
- Cân 150g bột khô đậu nành đã giã nhuyễn.
- Dùng eter dầu hỏa ngâm bột đậu chiết lấy các hợp chất béo, ngâm chiết 3 lần, lần
lượt với thể tích 200ml, 150ml, 100ml. Khi cho dung môi vào ngâm túi, dùng đũa
khuấy động lên túi 10 phút rồi để yên 5 phút vắt lấy dịch eter dầu hỏa (mang bao
nhựa để thực hiện). Gom dịch chiết, lọc qua giấy lọc, cô quay thu hồi dung môi.
-Ngâm chiết phần bã đậu nành với diclomethane 2 lần, mỗi lần 100ml dung môi.
-Thu lấy dịch chiết, đuổi dung môi bằng máy cô quay thu hồi dung môi, đến thể tích
còn khoảng 3ml.

Ngâm trong eter dầu hỏa Dịch eter dầu hỏa


hỏa

2. Phân tích sắc ký dung dịch chất béo của đậu nành
- Chuẩn bị 2 bản mỏng sắc ký, vạch đường xuất phát và đường mốc đến của dung
môi.
- Trên mỗi bảng mỏng chấm 2 vết sắc ký ứng vói 2 loại dịch chiết thu được: dịch
eter dầu hoả (E) và dịch dichloromethane (C).
- Chuẩn bị giải ly từng bản mỏng trong trong 2 loại hệ dung môi khác nhau.
Dung môi giải ly (1): eter dầu hoả : etyl acetate (0,5:1,5).
Dung môi giải ly (2): dichloromethane: metanol = 99:1 (dùng 2ml
dichloromethane và cho vào một giọt metanol).
Ghi nhận kết quả sắc ký ứng với 2 loại dịch chiết và so sánh khi giải ly trong 2 loại
dung môi khác nhau đã nêu.
IV. Báo cáo kết quả
1. Kết quả sắc ký
(1)Dung môi eter dầu hỏa : etyl acetate (0.5:1.5)
(2)Dung môi dichloromethane : metanol (99:1)
Nhận xét:
- (1) thì chất chạy cao hơn (2).
- Hai chấm ở cả 2 bảng mỏng thì có Rf bằng nhau
nhưng với dịch chiết từ eter dầu hỏa thì đậm hơn
dịch chiết từ dichloromethane.

2. Tìm hiểu về nhóm chất béo dầu mỡ, chất béo biến dưỡng thứ cấp.
- Từ ngàn xưa, người châu Á đã sử dụng đậu nành như một nguyên liệu quen thuộc
để chế biến các món ăn và loại đồ uống khác nhau. Thành phần dinh dưỡng của
đậu nành rất đa dạng và phong phú, giúp mang đến giá trị cao.
- Đậu nành (Glycine max) là một cây họ đậu có nguồn gốc từ Đông Á. Đây là một
loại nguyên liệu quan trọng trong chế độ ăn của người dân châu Á và được sử dụng
từ rất lâu. Ngày nay, loại đậu này chủ yếu được trồng ở châu Á, Nam và Bắc Mỹ.
- Người châu Á thường dùng cả đậu nành tươi và khô hoặc ươm thành mầm đậu
nành để chế biến thực phẩm, trong khi đó các sản phẩm đậu nành đã qua chế biến
phổ biến hơn ở nhiều nước phương Tây. Chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều sản
phẩm khác nhau bao gồm bột đậu nành, protein đậu nành, đậu phụ, sữa đậu nành,
nước tương và dầu đậu nành. Loại đậu này chứa các chất chống oxy hóa và các
dưỡng chất từ thực vật có lợi cho sức khỏe. Tuy nhiên, nhiều người cũng lo ngại
về tác dụng phụ tiềm ẩn của loại hạt này.
- Thành phần dinh dưỡng của đậu nành
Đậu nành chủ yếu chứa nhiều protein nhưng cũng chứa một lượng lớn đường và
chất béo. Các thành phần dinh dưỡng có trong 100g đậu nành luộc là:
 Calo: 173
 Nước: 63%
 Protein: 16,6g
 Carbohydrate: 12,9g
 Chất xơ: 6g
 Chất béo: 9g
 Chất béo bão hòa: 1,3g
 Chất béo không no đơn nguyên: 1,98g
10 Chất béo không no đa nguyên: 5,07g
o Omega-3: 0,6g
o Omega-6: 4,47g
- Có hai phương pháp trích ly dầu nành:
 Phương pháp một, dùng máy ép lấy dầu. Phương pháp này đơn giản, dễ
thực hiện nhưng hiệu quả không cao.
 Phương pháp hai, dùng dung môi để ly trích, phương pháp này đòi hỏi quy
trình và công nghệ phức tạp nhưng hiệu suất cao. Phương pháp này được áp
dụng cho quy mô công nghiệp để sản xuất ra dầu nành tinh luyện.
- Để có được dầu tinh luyện như trên thị trường, dầu nành trích ly được từ phương
pháp trích ly dung môi (n-hexan). Trước đó nguồn nguyên liệu được xử lí sơ bộ:
phân loại, làm sạch, gia nhiệt (ram), cracking...sau đó được chuyển đến công đoạn
trích ly lấy dầu. Dầu được lấy ra được gọi là dầu thô, có chứa nhiều dung môi và
tạp chất tan trong dầu. Dầu thô được đưa vào một hệ thống phân lập lấy dầu phức
tạp, dung môi được làm bay hơi và được tái sử dụng. Để tẩy màu của dầu, dầu
được cho vào đất sét ẩm chuyên dùng cho hấp phụ vài ngày. Tiếp theo, dầu được
khử mùi bằng cách cho bay hơi những chất có mùi, sau đó được làm bền hóa-tinh
luyện và làm sạch dầu (loại nhựa, loại xà phòng...) để được dầu thành phẩm. Trên
thị trường, dầu thành phẩm là hổn hợp của nhiều loại dầu oliu, dầu nành, dầu
phộng...
- Chất béo trong đậu nành sẽ được chiết xuất qua ép nóng và tinh chế. Dầu tinh
chế sẽ có màu vàng nhạt, không có vị và chứa hơn 60% axit béo đa không bão
hoà.
- Lợi ích của dầu đậu nành:
 Dầu đậu nành có chứa các loại chất béo không bão hòa đa, là một loại chất
béo tốt cho hệ thống tim mạch. Loại dầu thực vật này cung cấp dinh dưỡng
tốt cho cơ thể, lại không chứa cholesterol giúp ngăn chặn quá trình hình
11thành mảng bám ở mạch máu, phòng tránh được nguy cơ mắc bệnh về tim,
xơ vữa động mạch.
 Vitamin K có trong dầu đậu nành giúp tăng cường hoạt động của hoạt chất
osteotrophic trong xương giúp tốc độ phục hồi xương nhanh hơn. Vitamin
K trong đậu nành có thể kích thích sự phát triển xương một cách tích cực
và mạnh mẽ, việc chuyển sang dùng dầu đậu nành để thay thế cho những
loại dầu hiện tại nếu muốn tránh nguy cơ bị loãng xương.
 Dầu đậu nành chứa một lượng lớn acid béo omega-3, đóng vai trò quan
trọng trong việc tăng cường sức khỏe và ngăn ngừa bệnh mạn tính. Tăng
lượng acid béo omega-3 trong bữa ăn hàng ngày có thể giúp giảm viêm,
được cho là có liên quan đến sự phát triển của các bệnh mạn tính như bệnh
tim, ưng thư và đái tháo đường. Ngoài dầu đậu nành bạn có thể kết hợp
nhiều loại thực phẩm khác chứa acid béo omega-3 như cá hồi, hạt lanh, hạt
óc chó…
 Dầu đậu nành rất giàu vitamin E, một chất dinh dưỡng có thể giúp tăng
cường sức khỏe làn da. Vitamin E có thể bảo vệ chống lại tổn thương và
giúp điều trị một số tình trạng xấu của da như mụn trứng cá, viêm da, dị
ứng…
- Lưu ý khi dùng dầu đậu nành
 Mặc dù dầu đậu nành mang đến nhiều lợi ích cho sức khỏe, nhưng việc tiêu
thụ quá thường xuyên có thể gây ra những mối nguy hại tiềm ẩn.
 Dầu đậu nành chứa tỷ lệ chất béo omega-6 cao. Mặc dù cả chất béo omega-6
và omega-3 đều cần thiết cho chế độ ăn uống, nhưng hầu hết mọi người tiêu
thụ quá nhiều thực phẩm giàu chất béo omega-6 và quá ít chất béo omega-3.
Sự mất cân này có thể dẫn đến một số tình trạng như béo phì, suy giảm nhận
thức…
12 Một số nghiên cứu trên chuột cho thấy, chế độ ăn quá nhiều dầu đậu nành
dẫn đến những thay đổi bất lợi về trao đổi chất bao gồm tăng mỡ trong cơ
thể, lượng đường trong máu cao, gan nhiễm mỡ…

BÀI 3
TÁCH CHIẾT STEROL TỪ HỖN HỢP KHÔNG BỊ XÀ PHÒNG HÓA CỦA CHẤT
BÉO
I.Đại cương
Sterol là một dạng chất béo thuộc nhóm chất hữu cơ biến dưỡng thứ cấp,khác hẳn các
chất béo dầu mỡ,và cũng khác nhóm phospholopid.Sterol thường có cấu trúc hệ vòng
cyclopentano perhydrophenantren, với nhóm –OH ở vị trí C-3 trên vòng và trong một số
ít trường hợp có cấu trúc biến đổi của hệ vòng đó. Nhờ cấu trúc này mà cách định tính
và định lượng sterol có những phương pháp riêng.
Sterol không bị xà phòng hóa nên có thể vẫn giữ được tính chất kém tan trong nước,
không tan trong dung dịch chất béo đã xà phòng hóa, có thể tách ra khỏi hệ dung dịch
bằng cách chiết lỏng lỏng dung dịch này với dung môi hữu cơ kém phân cực.
II.Mục tiêu
-Sử dụng soxhlet để xà phòng hóa chất béo trong vật liệu tách rời sterol
-Sử dụng bình lóng để chiết lỏng-lỏng, tách lấy sterol ra khỏi dầu thực vật.
-Khảo sát, so sánh sản phẩm sterol và chất béo ban đầu bằng sắc ký lóp mỏng.
-Thực hiện bằng cách kéo ống vi quản, sắc ký lớp mỏng.
III.Thực hành

You might also like