You are on page 1of 2

Về mức độ chung thủy, theo Báo cáo Mendola, chỉ 26% người đồng tính tin rằng chung

thủy là
yếu tố quan trọng nhất trong một cuộc hôn nhân.
Tôi từng đọc một bài nghiên cứu của một tác giả nổi tiếng về đồng tính, cho biết các cặp đồng
tính có các tiêu chuẩn đạo đức rất "khác biệt" so với xã hội. Một trong số đó là "sự tồn tại các bạn
tình ngoài hôn nhân", họ luôn muốn tìm nhiều bạn tình riêng dù vẫn đang chung sống với nhau.
Các cặp đôi đồng tính không xem đó là hành vi ngoại tình mà lại coi đó là điều cần thiết trong lối
sống của họ.
Theo khảo sát cho thấy: chỉ có 2,7% số người đồng tính lớn tuổi là chung thủy với duy nhất 1 bạn
tình trong suốt cuộc đời của họ, so với tỷ lệ trên 80% ở những người bình thường, kém xa 30 lần.
3. Về vấn đề giáo dục con nuôi của các cặp đôi đồng tính cũng là chủ đề rất được quan tâm.
Một nghiên cứu của Mark Regnerus, giáo sư tại Đại học Texas được đăng trên Tạp chí nghiên
cứu xã hội Hoa Kỳ đã cung cấp thêm nhiều thông tin về vấn đề này.
Nghiên cứu khảo sát 15.000 thanh niên, khảo sát kỹ 3.000 thanh niên trong đó 175 được nuôi lớn
bởi cặp đồng tính nữ và 73 bởi cặp đồng tính nam. Kết quả cho thấy, với các cặp đôi đồng tính có
thể gắn bó lâu dài thì trong ngắn hạn, họ có thể nuôi con tốt như vợ chồng thông thường; nhưng
về dài hạn, sự khiếm khuyết về giới tính (thiếu vắng cha hoặc mẹ để nuôi dạy đứa trẻ) là không
thể khắc phục được, và con nuôi của họ khi bước vào tuổi thành niên sẽ gặp phải nhiều vấn đề
hơn hẳn so với con cái của những gia đình thông thường.
Cụ thể như tỷ lệ thất nghiệp, có ý định tự tử, từng phải điều trị tâm lý đều tăng gấp đôi, riêng việc
từng có quan hệ đồng tính tăng từ 4-6 lần.
Một đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi 1 cặp đồng tính chắc chắn sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề
hơn. Ví dụ: nếu 1 cặp đồng tính nam nhận con gái nuôi hoặc cặp đồng tính nữ nhận con trai nuôi,
đứa trẻ sẽ phải lớn lên mà thiếu vắng sự hướng dẫn giới tính từ người có cùng giới tính với nó,
nhất là trong gia đoạn dậy thì, từ đó làm tăng nguy cơ về sự lệch lạc hành vi giới tính. Sự dễ chia
tay hoặc quan hệ ngoài luồng, vốn phổ biến của các cặp đồng tính, cũng làm tăng nguy cơ chấn
thương tâm lý ở đứa trẻ. Tệ hơn, đứa trẻ có thể phải đối mặt với sự kỳ thị, trêu chọc hoặc cô lập
từ bạn bè cùng trang lứa, từ đó hình thành tâm lý bất mãn hoặc nổi loạn.
Nghiên cứu này đã xóa tan những ngộ nhận về việc "cha mẹ đồng tính không khác cha mẹ
thường". Kết quả của nó tương đồng với nghiên cứu của các chuyên gia nghiên cứu chính sách
gia đình, và không có gì đáng ngạc nhiên khi nghiên cứu này bị tấn công quyết liệt các nhà hoạt
động ủng hộ đồng tính.
Những người ủng hộ người đồng tính, Hiệp hội tâm lý Mỹ phản bác "Các nghiên cứu về trẻ em
nuôi dưỡng bởi cha mẹ đồng tính cho thấy rằng không có sự khác biệt so với con cái nuôi dưỡng
bởi cha mẹ dị tính". Tuy vậy, các nghiên cứu như vậy thường dựa trên những mẫu đại diện quá
nhỏ, và thường xuyên được tiến hành bởi các nhà nghiên cứu công khai ủng hộ đồng tính, và có
một tư tưởng sai lệch về vấn đề đang được nghiên cứu ...
Trong thực tế, một bài báo xuất bản bởi tiến sĩ Loren Marks, (Đại học bang Louisiana) đã phân
tích 59 nghiên cứu trước đây về cha mẹ đồng tính của Hiệp hội Tâm lý Mỹ (APA). Marks đã bóc
trần kết quả sai lệch của APA rằng "con nuôi của cha mẹ đồng tính không bị thiệt thòi hơn so với
con cái của các bậc cha mẹ khác giới."
Marks cũng chỉ ra rằng chỉ có bốn trong số 59 nghiên cứu được trích dẫn bởi APA thậm chí
không đạt tiêu chuẩn của APA về bằng chứng thống kê.
Bế tắc này đã bị phá vỡ bởi những công việc Marks đã thực hiện. Không giống như các nghiên
cứu trước đây thực hiện trên duy nhất trên một cấu trúc gia đình, Marks đã so sánh cụ thể với trẻ
em lớn lên bởi cha mẹ đồng tính. Ông dựa trên mẫu dân số đại diện là đủ lớn để lập luận một
cách khoa học và thống kê các kết luận hợp lệ. Đối với những lý do này, "cấu trúc mới về gia
đình học" của ông (NFSS) xứng đáng được coi là "tiêu chuẩn vàng" trong lĩnh vực này...
Mặt khác, ông đã khảo sát những người trẻ từ 18 đến 39 về kinh nghiệm sống của họ trong gia
đình. Trong khi các báo cáo này không phải là hoàn toàn khách quan, chúng vẫn đáng tin cậy hơn
là cha mẹ tự báo cáo, và cho phép đánh giá các tác động lâu dài.
Tất cả những phát hiện trong nghiên cứu này rất quan trọng, đó là điều cái mạnh nhất - hầu như
không thể chối cãi. So với trẻ em nuôi dưỡng bởi cha mẹ khác giới, con của cha mẹ đồng tính
(LM và GF):
- Có trình độ học vấn thấp hơn.
- Có nhiều khả năng bị trầm cảm hơn.
- Bị bắt giam thường xuyên hơn.
Riêng đối với con cái của các bà mẹ đồng tính nữ:
- Phải nhận trợ cấp xã hội nhiều gấp 4 lần
- Tỷ lệ thất nghiệp cao gấp 3 lần
- Tỷ lệ có hành vi đồng tính cao gấp 4 lần
- Bị buộc quan hệ tình dục trái với ý muốn cao gấp 4 lần
- Sử dụng cần sa, hút thuốc lá thường xuyên hơn
- Tỷ lệ phạm tội cao hơn.
Các nhóm ủng hộ đồng tính thường cố gắng giải thích rằng nhiều tổ chức y tế chuyên nghiệp
tuyên bố rằng trẻ em trong gia đình đồng tính cũng phát triển tốt như trẻ em trong gia đình khác
giới. The American Academy of Pediatrics (AAP), tổ chức y tế hàng đầu đã có một tuyên bố như
vậy, và đó hầu hết các tổ chức khác theo sau, chỉ đơn giản là lặp lại. Báo cáo của họ bỏ bê một
điểm quan trọng của so sánh. Tuyên bố của AAP hoàn toàn vô nghĩa trong việc cung cấp bất kỳ
loại thông tin quyết định nào về cách các gia đình đồng tính là có ích hay có hại với trẻ em.
Đó là hành vi phi đạo đức khi đem trẻ em phục vụ cho một thử nghiệm xã hội chưa được kiểm
chứng hậu quả. Không có nền văn hóa nào ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, đã từng sản sinh ra một
thế hệ trẻ em lớn lên trong gia đình đồng tính. Đây là việc biến trẻ em thành vật thử nghiệm để
hoàn thành ham muốn của người lớn. Một xã hội khôn ngoan và nhân đạo luôn luôn đi kèm với
sự trợ giúp trẻ em mồ côi, và không bao giờ cố ý muốn trẻ phải chịu đựng hoàn cảnh như vậy.
Nhưng công nhận gia đình đồng tính sẽ gây ra chính xác điều đó, chỉ vì một số nhỏ người lớn
mong muốn như vậy
*** Lời kết, mượn lời học giả Pierre Lescaudron.
Dĩ nhiên, hôn nhân, gia đình, hôn nhân khác giới, nam tính và nữ tính không đảm bảo hạnh phúc
hoàn hảo cho tất cả mọi người. Có nhiều cặp vợ chồng không hạnh phúc. Tuy nhiên, nếu chúng ta
đến cái điểm trong quá trình suy đồi nơi mà chúng ta phải lựa chọn giữa hai cái xấu, sẽ là tốt hơn
nếu chúng ta chọn cái xấu ít tồi tệ hơn.
Sự bình thường hóa/thậm chí tôn vinh tình dục đồng giới - bao gồm cả đồng tính luyến ái giả - đã
tạo ra số lượng ngày càng gia tăng những cặp đồng giới. Từ cách nhìn này, gia đình và lối sống
truyền thống vẫn tốt hơn là cái thế giới “hiện đại” mà giới “tinh hoa” đang áp đặt lên cho chúng
ta.

You might also like