You are on page 1of 21

ĐẠI HỌC KINH TẾ LUẬT

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

MÔN KINH TẾ VĨ MÔ 2

TIỀU LUẬN :

TÁC ĐỘNG CỦA COVID 19 ĐẾN TỔNG THỂ NỀN KINH TẾ


VIỆT NAM - ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CHÍNH SÁCH TÀI
KHÓA VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ NHẰM ỨNG PHÓ
VỚI ĐẠI DỊCH COVID-19

Giáo viên hướng dẫn: Th.s Trần Lục Thanh Tuyền


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Tường Vy (MSSV: K184131511)

MÃ LỚP HP: 211KT0901

1
LỜI CẢM ƠN

Đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Trường Đại học Kinh tế - Luật cũng
như Khoa Toán Kinh tế đã đưa môn học Kinh tế học vĩ mô 2 vào chương trình giảng
dạy. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giảng viên bộ môn - Cô Trần Lục
Thanh Tuyền đã mang đến, truyền đạt những kiến thức quý báu cho chúng em trong
suốt thời gian học tập vừa qua. Trong thời gian tham gia lớp học Kinh tế vĩ mô 2 của
cô, em đã có thêm cho mình nhiều kiến thức bổ ích, tinh thần học tập hiệu quả,
nghiêm túc. Đây chắc chắn sẽ là những kiến thức quý báu, là hành trang để em có thể
vững bước sau này.

Môn Kinh tế học vĩ mô 2 là môn học thú vị, vô cùng bổ ích, tạo tiền đề cho công việc
của chúng em sau tốt nghiệ . Đảm bảo cung cấp đủ kiến thức, sự nhìn nhận về thị
trường, kinh tế Việt Nam và cả trên thế giới. Tuy nhiên, do vốn kiến thức còn nhiều
hạn chế và khả năng tiếp thu thực tế còn nhiều bỡ ngỡ. Mặc dù em đã cố gắng hết sức
nhưng chắc chắn bài tiểu luận khó có thể tránh khỏi những thiếu sót và nhiều chỗ còn
chưa chính xác, kính mong cô xem xét và góp ý để bài tiểu luận của em được hoàn
thiện hơn. 

Em xin chân thành cảm ơn!

TP.HCM, tháng 12 năm 2021

Tác giả

2
MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài...................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu........................................................................................1
3. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................2
4. Phạm vi nghiên cứu.........................................................................................2
5. Nội dung nghiên cứu.......................................................................................2
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.................................................................................3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN...............................................................................3
1.1. Khái niệm chính sách tài khóa & chính sách tiền tệ.....................................3
1.2. Bối cảnh nghiên cứu........................................................................................3
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA COVID 19 VÀ CÁC CHÍNH
SÁCH KINH TẾ VĨ MÔ CỦA CHÍNH PHỦ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT
NAM............................................................................................................................5
2.1. Những ảnh hưởng của đại dịch Covid -19 đến nền kinh tế Việt Nam............5
2.2. Những chính sách của chính phủ nhằm khôi phục kinh tế trong giai đoạn dịch
bệnh Covid-19........................................................................................................9
CHƯƠNG 3: KHUYẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÁC CÔNG CỤ
CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ VỚI COVID 19 TRONG TƯƠNG LAI.......................13
C. KẾT LUẬN.........................................................................................................14
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................15

3
A. MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ở nước ta, trong bối cảnh dịch COVID 19 đang ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế,
kể từ khi xảy ra biến chủng vào cuối tháng 4/ 2021, cả cơ quan chính trị và toàn dân
phải đẩy mạnh công tác chống dịch. Bệnh dịch đã ảnh hưởng nặng nề đến đời sống
kinh tế xã hội, sức khoẻ và mọi mặt của đời sống nhân dân.
Với tinh thần “chống dịch như chống giặc”; “bảo vệ sức khỏe cho nhân dân là ưu tiên
hàng đầu”, chính phủ đã có những chỉ đạo kịp thời, những kế hoạch thiết thực, và
những chiến lược phù hợp, hiện nay nước ta đã dần kiểm soát được phạm vi của dịch.
Dưới tác động nặng nề của dịch bệnh và suy giảm kinh tế của khu vực và thế giới,
thậm chí là âm, GDP 9 tháng ước tính tăng trưởng với tốc độ 1,42%. Đây là kết quả
đáng ghi nhận đạt được dưới nỗ lực chung “phòng chống dịch bệnh, đảm bảo sản
xuất, thúc đẩy phát triển”, nhất là khi nhiều nơi ở Việt Nam là trung tâm công nghiệp
và kinh tế miền Nam phải thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 15 và Chỉ thị 16 theo
quy định của Chính phủ.
Là một quốc gia đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, với sự
phát triển mạnh mẽ của hoạt động thương mại và đầu tư, những thành tựu to lớn về
xuất khẩu và sản xuất công nghiệp đã góp phần quan trọng làm tăng trưởng kinh tế
của đất nước. Đồng thời, ngành nông nghiệp ngày càng phát huy vai trò là trụ cột của
nền kinh tế, tạo việc làm và đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm của người dân.

Đợt dịch bệnh COVID 19 lần thứ tư ở Việt Nam đã làm cho nhiều nơi phải rơi vào
tình trạng giãn cách xã hội kéo dài. Trong bối cảnh đó, về chính sách tài khoá và
chính sách tiền tệ, các ban ngành liên quan đã triển khai rất nhiều cách hỗ trợ thiết
thực.

Đã có khá nhiều khảo sát về tác động của COVID 19 tới các ngành kinh tế ở Việt
Nam. Trọng tâm của các nghiên cứu này chủ yếu là đánh giá tác động kinh tế của đại
dịch và cách thức ứng phó của doanh . Trong khi đó vẫn chưa có nhiều thông tin về sự
đánh giá các chính sách nhằm ứng phó với COVID 19 và các khuyến nghị.
Với ý nghĩa đó, chủ đề được lựa chọn là “Tác động của Covid 19 đến tổng thể nền
kinh tế Việt Nam – Đánh giá hiệu quả chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ nhằm
ứng phó với Covid 19”

2. Mục tiêu nghiên cứu


Để nền kinh tế nhanh chóng quay trở lại trạng thái bình thường mới, cú sốc dịch bệnh
này cần được xử lý kịp thời, không để kéo dài và không để các vấn đề phát sinh trong

4
thời kỳ dịch bệnh kéo dài dai dẳng, làm chậm tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ
cấu nền kinh tế.
Hướng đến mục tiêu dài hạn, Chính phủ cần phải có giải pháp giúp nền kinh tế trong
thời gian sắp tới vừa phát triển kinh tế, vừa ổn định xã hội, tạo nền tảng cho tăng
trưởng nhanh và bền vững.
Đối mặt với tác động của đại dịch COVID 19 lên nền kinh tế, Chính phủ nhanh chóng
đưa ra các chính sách tài khoá, tiền tệ, an sinh xã hội nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và
người dân vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của đại dịch COVID 19.
Các gói hỗ trợ trong nền kinh tế đang được triển khai và chưa thể đánh giá đầy đủ hiệu
quả ngay được. Nền kinh tế chưa kịp hồi phục từ đợt COVID 19 lần thứ nhất khi cả
nước thực hiện giãn cách toàn xã hội vào tháng 4-2020 và kết thúc sau một tháng,
nhưng vào cuối tháng 7-2020, những ca lây nhiễm vi-rút trong cộng đồng bùng phát
mạnh trở lại gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế.

Mục tiêu phát triển kinh tế kết hợp phòng chống dịch đang dần trở nên khó khăn,
thách thức hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, với sự quyết tâm của Chính phủ, sự nỗ lực của
các lực lượng tuyến đầu và sự chung tay góp sức của người dân cả nước trong cuộc
chiến chống lại đại dịch Covid 19 thì mục tiêu này không phải là bất khả thi.

3. Đối tượng nghiên cứu


Đại dịch COVID 19 đã tác động đồng thời hầu hết tới toàn bộ các nền kinh tế trên thế
giới nhưng theo các cơ chế khác nhau cả về phía cung và phía cầu. Mức độ ảnh hưởng
phụ thuộc rất nhiều vào cấu trúc của mỗi nền kinh tế cũng như sự liên kết của nền
kinh tế đó với phần còn lại của thế giới. Về phía cung Biện pháp chống dịch được các
quốc gia sử dụng phổ biến là cách ly và tạo khoảng cách xã hội khiến nguồn cung lao
động giảm mạnh, đặc biệt trong những khu vực đòi hỏi sự tham trực tiếp của lao động
vào quá trình sản xuất. Ngoài ra, với những vùng tâm dịch, việc đóng cửa những hoạt
động không thiết yếu, thực thi những quy tắc hạn chế đi lại, khiến cho nhiều hoạt động
sản xuất bị ngưng trệ. Việc hoạt động sản xuất được thiết kế dựa trên chuỗi cung ứng
toàn cầu, sự đứt gãy trong sản xuất đầu vào tại một quốc gia sẽ dẫn đến sự ảnh hưởng
tiêu cực tới quá trình sản xuất tiếp theo tại các quốc gia khác.

4. Phạm vi nghiên cứu

4.1. Phạm vi về nội dung


Đề tài tập trung nghiên cứu về tình hình dịch bệnh Covid 19 diễn ra và đánh giá
mức độ hiệu quả của các chính sách tiền tệ, tài khóa của chính phủ Việt Nam và ngoại
tác Covid – 19 đối với nền kinh tế trong nước

4.2. Phạm vi về thời gian


Trong giai đoạn từ tháng 1/2020 đến hết tháng 12/2021 và thực hiện từ 29/11/2021
đến hết ngày 12/12/2021

5
5. Nội dung nghiên cứu
Kết cấu bài nghiên cứu bao gồm:
 Chương 1: Cơ sở lý thuyết của đề tài
 Chương 2: Thực trạng tác động của Covid 19 đến tổng thể nền kinh tế
Việt Nam và hiệu quả chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ trong đại
dịch Covid- 19
 Chương 4: Các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của các công cụ chính
sách ứng phó với Covid 19 giai đoạn tới

6
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN

Xu hướng dịch bệnh và biến đổi khí hậu ngày càng mang tính chất quốc tế. Độ mở
của nền kinh tế Việt Nam cũng khiến cho đại dịch trên thế giới như COVID 19 dễ
dàng lây lan đến Việt Nam và ảnh hưởng nghiêm trọng tới các doanh nghiệp, cá nhân,
tổ chức trong nền kinh tế.
Hiện tại, 5 lĩnh vực ưu tiên của Việt Nam chưa có nội dung hỗ trợ các doanh nghiệp,
tổ chức nằm trong lĩnh vực này. Lãi suất trần có hiệu quả ngắn hạn và tác động trực
tiếp nhất định trong một số trường hợp tại Việt Nam.

Trên cơ sở đánh giá, khảo sát nhanh tác động của dịch COVID 19 đến các ngành,
nghề cụ thể và có điều kiện, tiêu chí. Về lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực để ưu tiên hỗ
trợ; qua đánh giá tác động của dịch COVID 19 đối với các ngành nghề trong 8 tháng
đầu năm 2020, chúng ta nhận thấy những ngành nghề chịu tác động tiêu cực theo thứ
tự giảm dần, đó là: du lịch; vận tải; dệt may, da giày; bán lẻ; giáo dục – đào tạo. Trong
khi đó một số ngành vẫn có cơ hội phát triển tốt (công nghệ thông tin, thương mại
điện tử, ..). Cần tránh hiện tượng trục lợi các chính sách hỗ trợ và rủi ro đạo đức. Về
điều kiện và tiêu chí doanh nghiệp nhận hỗ trợ; Chính phủ có thể căn cứ vào một số
tiêu chí chủ yếu như : tính lan tỏa (tác động tích cực tới các ngành, lĩnh vực khác), lao
động (tạo nhiều công ăn việc làm, có khả năng phục hồi sau đại dịch. )

7
CHƯƠNG 2 :

THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA COVID 19 VÀ CÁC CHÍNH SÁCH KINH
TẾ VĨ MÔ CỦA CHÍNH PHỦ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Các biện pháp phong tỏa và giãn cách xã hội được thực hiện bởi các quốc gia khác
nhau đã dẫn đến sự gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu từ cung cấp nguyên liệu thô,
sản xuất đến thị trường tiêu dùng. Tại Việt Nam, cú sốc đầu tiên đến từ việc đóng cửa
biên giới với Trung Quốc vào ngày 31/1/2020, khiến 70% nguồn cung nguyên liệu
trong ngành may mặc, da giày và điện tử bị gián đoạn. Đồng thời, lệnh phong tỏa của
Trung Quốc cũng khiến nhu cầu về lưu trú du lịch, đồ gỗ, nông sản và các ngành khác
sụt giảm. Vào ngày 6/3/2020, Việt Nam bước vào giai đoạn 2. Chính phủ hạn chế tụ
tập và giảm mạnh mức tiêu thụ trong nước đối với các sản phẩm và dịch vụ không
thiết yếu. Vào giữa tháng 3/2020, Hoa Kỳ và nhiều nước châu Âu đã áp dụng các biện
pháp phong tỏa và giãn cách xã hội, dẫn đến cú sốc kinh tế thứ ba, đặc biệt là trong
lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam. Mặc dù các biện pháp phong tỏa của Trung Quốc,
Việt Nam và một số nước Châu Á đã được dỡ bỏ, Hoa kỳ và châu Âu vẫn bị ảnh
hưởng nặng nề bởi đại dịch. Điều này có nghĩa khu vực xuất khẩu của Việt Nam phụ
thuộc vào thị trường Hoa kỳ và châu Âu sẽ chưa thể phục hồi nhanh chóng. Các chỉ số
kinh tế trong Quý I/2020 cho thấy rất rõ tác động của đại dịch tới nền kinh tế. Tốc độ
tăng trưởng GDP, xuất khẩu và nhập khẩu trong Quý I/2020 ở mức thấp nhất trong
thập kỷ vừa qua trong khi tỉ lệ lạm phát lên tới 5.56%, mức cao nhất trong 4 năm qua.

Các thương hiệu bán lẻ phản ứng khác với chuỗi cung ứng của họ khi họ hoãn hoặc
hủy đơn đặt hàng. Một số thương hiệu hứa hẹn sẽ chia sẻ gánh nặng với các nhà cung
cấp bằng cách trả tiền mua nguyên vật liệu và thành phẩm. Ví dụ: trong ngành may,
Inditex, H&M, Adidas, hay Uniqlo15 là các thương hiệu thời trang hứa sẽ thanh toán
đầy đủ cho các đơn hàng đã hoàn thành hoặc chưa hoàn thành. Sản xuất các đơn hàng
giúp nhà máy giữ việc làm và thu nhập cho người lao động. Bị ảnh hưởng bởi dịch
bệnh, nhiều hoạt động kinh tế ngừng hoặc giảm sút đã ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn
thu ngân sách quốc gia, nhu cầu chi tiêu cho công tác phòng chống dịch bệnh và khám
chữa bệnh tăng cao trong những năm qua do chính sách tiền tệ gắn với mục tiêu lạm
phát và tỷ giá hối đoái. , Việt Nam không thể theo đuổi các chính sách kinh tế vĩ mô
theo cách tương tự các nước lớn của thế giới, việc nới lỏng tiền tệ trên diện rộng sẽ
khiến đồng tiền mất giá, khiến môi trường đầu tư trở nên rủi ro hơn và làm trì trệ dòng
vốn nước ngoài vào Việt Nam.

Do vậy, nhằm thực hiện các chính sách hỗ trợ thiên tai cũng như về dịch bệnh, trong
thời gian tới, Chính phủ nên thực hiện biện pháp huy động nguồn lực tài chính theo
thứ tự ưu tiên như sau: cắt giảm chi thường xuyên tối thiểu 10%, đặc biệt là các chi
phí chưa thực sự thiết yếu như hội thảo, hội nghị, công tác trong và ngoài nước,…; tận

8
dụng các nguồn vốn vay ưu đãi (không lãi suất hoặc lãi suất rất thấp) nếu có từ các tổ
chức quốc tế với mục tiêu phòng chống và khắc phục hậu quả của thiên tai và dịch
bệnh; phát hành trái phiếu chính phủ với lãi suất thấp trong điều kiện dư thừa thanh
khoản trong hệ thống tài chính hiện nay. Tiến hành các biện pháp huy động vốn thông
qua phát hành trái phiếu chính phủ sử dụng ở mức vừa phải để đảm bảo khu vực tư
nhân có thể tiếp cận vốn dễ dàng nhất là giai đoạn sau bệnh dịch. Nguyên tắc cần
được giữ vững khi đưa ra chính sách là phải luôn giữ vững và ổn định kinh tế vĩ mô.
Cho dù dịch bệnh kéo dài bao lâu, nhiều doanh nghiệp có thể sẽ phá sản, Chính phủ
vẫn nên cần đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Nên giữ lạm phát và lãi suất ở mức thấp,
tỷ giá ổn định, đầu tư công được thực hiện đúng mục đích và được giám sát tốt, môi
trường đầu tư được cải thiện, thì nền kinh tế mới hồi phục nhanh chóng sau dịch bệnh.
Ngược lại sẽ mất nhiều năm tiếp theo để giải quyết các vấn đề khác không phải bệnh
dịch, nền kinh tế sẽ trì trệ trong thời gian dài như giai đoạn hậu khủng hoảng kinh tế
năm 2007 – 2008.

9
CHƯƠNG 3

KHUYẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH
ỨNG PHÓ VỚI COVID 19 TRONG TƯƠNG LAI

Việc thực hiện chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ đối với các nước quốc tế:

10
Đối với Việt Nam:

a) Chính sách tài khoá


Trực tiếp ổn định đời sống cho nhân dân bằng các nguồn lực tài khoá và giúp nhân
dân bảo đảm các nhu cầu sinh hoạt cơ bản bằng hình thức hỗ trợ trực tiếp bằng tiền
trong thời kỳ cao điểm của dịch. Hỗ trợ trả lương cho nhân viên trong các kỳ nghỉ
cũng được áp dụng ở nhiều nước, từ chính sách thuế có thể thấy rằng gói hỗ trợ thuế
đất và gia hạn nộp thuế hiện nay có tác động rất ít. Cần cho phép hoãn, hoãn nộp thuế,
tiền thuê đất, bổ sung đối tượng được gia hạn (dự kiến là hết năm 2020 hoặc hết Quý
II/2021) để giúp doanh nghiệp giảm bớt khó khăn về chi phí, thanh toán. Cần xem xét
hỗ trợ cắt giảm thuế doanh nghiệp vì đây là loại thuế có phạm vi điều chỉnh lớn. Loại
thuế này không cần phải nộp như thuế thu nhập doanh nghiệp. Loại thuế này sinh ra
ngay khi cung cấp hàng hóa dịch vụ. Giảm VAT (Thuế giá trị gia tăng) nên tập trung
cho các dịch vụ như khách sạn, du lịch, vận chuyển, chuyên chở trang thiết bị phục vụ
phòng chống dịch… Xem xét hoàn lại VAT đầu vào cho doanh nghiệp xuất khẩu
trong vòng 3 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ.
Với các dự án đầu tư thuộc diện kiểm tra trước hoàn thuế sau, rút ngắn thời gian xét
hoàn trả từ 40 ngày xuống còn 20 ngày. Với những tổ chức, doanh nghiệp trực tiếp
tham gia sản xuất đồ bảo hộ (khẩu trang, găng tay, quần áo bảo hộ), trang thiết bị
phòng chống dịch COVID 19 nên cho phép doanh nghiệp được khấu trừ toàn bộ chi
phí TSCĐ (tài sản cố định) phát sinh khi mở rộng quy mô sản xuất vào chi phí hợp lý
để giảm trừ thuế TNDN (thu nhập doanh nghiệp). Các công ty nước ngoài mở rộng
hoạt động đầu tư trong nước sẽ được hỗ trợ thuế bao gồm giảm 30% thuế trong 3 năm.
Kéo dài thời gian chuyển lỗ từ 5 năm lên đến 8 năm. Miễn thuế nhập khẩu các hàng
hóa phục vụ cho nhu cầu chống dịch hoặc nguyên liệu đầu vào để sản xuất hàng hóa
giúp phòng ngừa và kiểm soát COVID 19. Cần phải xem lại chính sách giảm thuế
TNDN vì đa phần (chiếm 98% số lượng doanh nghiệp) các doanh nghiệp đang đối
mặt với các khó khăn hoặc đứng trước nguy cơ phá sản do gánh nặng chi phí mà hỗ
trợ giảm thuế TNDN là không phù hợp với họ. Chỉ có 2% doanh nghiệp tạm thời chưa
bị ảnh hưởng bởi COVID 19 được hưởng lợi từ chính sách này. Việc giảm thuế
TNDN là một phương thức hỗ trợ chưa đúng cách, làm lãng phí nguồn lực, đồng thời
đã tạo ra sự bất bình đẳng trong cộng đồng doanh nghiệp và khiến môi trường kinh
doanh trở nên xấu đi. Việc giãn hay giảm thuế chỉ nên áp dụng đối với VAT thì đối
tượng được hưởng sẽ nhiều hơn.
Đầu tư công vẫn là hình thức chống đỡ chính cho tăng trưởng kinh tế trong thời gian
tới. Trong khi cầu về chi tiêu từ khu vực doanh nghiệp và người dân giảm mạnh, Nhà
nước nên đóng vai trò là đối tượng chi tiêu chính. Vì vậy, đẩy mạnh chi tiêu đầu tư

11
công đóng vai trò vô cùng quan trọng. Phải có sự giám sát chặt chẽ của Quốc hội để
tránh xảy ra những hệ lụy tiêu cực và rủi ro đạo đức.
Thúc đẩy đầu tư công không là việc tăng chi tiêu công một cách dàn trải, vội vàng,
thiếu kiểm soát, Việt Nam chỉ nên đẩy nhanh những dự án, nhất là các dự án trọng
điểm của quốc gia, đã được phê duyệt và đã được bố trí sẵn vốn thực hiện. Việc phân
chia ra làm nhiều gói thầu và thực hiện dàn trải ở nhiều địa phương (ví dụ như các gói
thầu trong dự án Cao tốc Bắc - Nam) để cho các doanh nghiệp và nhiều địa phương có
thể tiếp cận, tạo nên sự lan tỏa tốt hơn cũng có thể được cân nhắc như một giải pháp
đặc biệt, nhưng vẫn phải đảm bảo tính hiệu quả cao. Thêm vào đó, việc khảo sát thực
tế và rà soát thủ tục hành chính cần được thực hiện để phát hiện và khắc phục những
trở ngại nhằm giảm gánh nặng cho cơ quan thực hiện dự án. Nhất là trong lĩnh vực
phát triển nguồn nhân lực như giáo dục, trường dạy nghề; nên xem xét để miễn/giảm
các điều kiện như tài sản thế chấp, vì vốn con người là yếu tố quan trọng để phát triển
bền vững.
Những chính sách về an sinh xã hội như chi trả bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ người
thất nghiệp/tạm ngưng việc, trợ cấp cho người nghèo, người bị mất kế sinh nhai,…
cần phải được ưu tiên hàng đầu về nguồn lực và thực hiện nhanh chóng, đặc biệt là
nếu bệnh dịch tái bùng phát trong nước. Những chính sách hỗ trợ cần phải bao phủ
được những nhóm đối tượng dễ bị tổn thương - người lao động trình độ thấp và lao
động trong khu vực phi chính thức khi họ chiếm một tỷ trọng lớn, dễ tổn thương, chịu
tác động nặng nề nhất, tốc độ suy giảm thu nhập nhanh nếu kinh tế rơi vào suy thoái.
Phải triển khai nhanh, gọn, đúng đối tượng, chuyển hỗ trợ bằng nhiều kênh khác nhau
(trong đó, hết sức chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin như: Dịch vụ mobile
money, ví điện tử…) mới đảm bảo chính sách nhân văn sớm đi vào cuộc sống. Liên
quan đến bảo hiểm tự nguyện, Nhà nước nên cho phép doanh nghiệp sử dụng quỹ
BHTN trong việc đào tạo kỹ năng cho người lao động trong thời gian giãn việc, nghỉ
việc để một mặt nâng cao trình độ cho người lao động, mặt khác giúp doanh nghiệp
giảm chi phí tuyển dụng khi nền kinh tế cũng như doanh nghiệp hoạt động bình
thường trở lại. Đồng thời, người lao động, dù tạm thời chưa có việc làm, nên được
phép tiếp tục duy trì tham gia BHXH, từ đó được bảo đảm các quyền lợi về BHTN và
bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Cải cách cải cách tài khóa theo hướng
bền vững và hỗ trợ tăng trưởng. Cụ thể, cần cải cách hệ thống thuế nhằm giảm bớt
gánh nặng thuế khóa, tạo nguồn thu ngân sách ổn định và cân bằng cần được coi là
quan điểm chủ đạo. Đồng thời, cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước theo hướng ổn định
và gia tăng hiệu quả đầu tư phát triển - chỉ bố trí vốn ngân sách cho những công trình
thật sự cần thiết, có hiệu quả cao và kiểm soát chặt chẽ đầu tư công nhằm tránh đầu tư
dàn trải gây lãng phí, thất thoát, tham nhũng. Việc quản lý công nợ cũng phải bảo
đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, kỷ luật, giám sát chặt chẽ, sử dụng hiệu quả và
đánh giá theo kết quả đầu ra, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế.

12
b) Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là công cụ hỗ trợ, phòng tránh đổ vỡ tài chính trong ngắn hạn.
Chính sách tiền tệ có đặc điểm là độ trễ lớn, do vậy sẽ chỉ phát huy tác dụng kích thích
kinh tế khi quốc gia bắt đầu kiểm soát được dịch, bắt đầu quá trình phục hồi. Vì vậy,
trong giai đoạn hiện tại vai trò chủ yếu của chính sách tiền tệ là đảm bảo hệ thống tài
chính vận hành xuyên suốt, duy trì khả năng thanh khoản cho các tổ chức tài chính, hỗ
trợ khả năng thanh toán cho doanh nghiệp.
Chính sách tiền tệ, cụ thể là công cụ lãi suất trong thời điểm hiện tại sẽ ít có hiệu quả.
Trong khi dịch bệnh vẫn còn tồn tại thì một số nhu cầu đặc thù sẽ biến mất, theo sau
đó các ngành kinh doanh phục vụ các nhu cầu đó cũng sẽ không quay trở lại được,
mặc dù lãi suất có giảm cũng không tạo được động lực để doanh nghiệp vay vốn đầu
tư sản xuất, kinh doanh. Nói cách khác, với phần lớn doanh nghiệp, yếu tố lãi suất
không hẳn quyết định hành vi đầu tư hay mở rộng kinh doanh vào lúc này. Do đó,
chính sách hỗ trợ tín dụng nên tập trung vào nhóm những nhóm doanh nghiệp ít hoặc
không bị ảnh hưởng, hay có hướng chuyển đổi hiệu quả. Đồng thời, chính sách ngành
và môi trường thể chế cần được cải thiện. Đối với gói tín dụng, nên sớm sửa đổi
Thông tư 01 theo hướng mở rộng đối tượng hỗ trợ và kéo dài thời gian cơ cấu lại
nhóm nợ đến cuối năm 2021, khi dịch bệnh đã kết thúc, còn tiềm lực của các doanh
nghiệp, ngân hàng đã vững hơn. Nếu không được phép giữ nguyên nhóm nợ thì chắc
chắn nợ xấu sẽ tăng đột biến và gây cú sốc cho hệ thống. Trong quá trình triển khai
chính sách, các chính sách hỗ trợ cần rõ ràng và minh bạch về thủ tục cũng như đối
tượng được hưởng các gói chính sách. Phải giảm thiểu những phiền phức về thủ tục và
quy trình tiếp cận các gói hỗ trợ, nhất là thủ tục chứng minh về tài chính. Thêm vào
đó, cần lưu ý một số rủi ro sau: rủi ro thể chế làm chậm tiến độ cung ứng tiền kích
thích tiêu dùng và đầu tư; rủi ro tham nhũng và trốn tránh trách nhiệm có thể làm giảm
hiệu lực và hiệu quả của gói kích thích; rủi ro chênh lệch mục tiêu, các chính sách hỗ
trợ cần hướng vào đúng và trúng đối tượng.

13
CHƯƠNG 4:
CÁC KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÁC CÔNG CỤ
CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ VỚI COVID 19 GIAI ĐOẠN
Ngoài những giải pháp ngắn hạn mang tính ứng phó với COVID 19, Chính phủ cần
thực hiện những giải pháp mang tính dài hạn để chuẩn bị những điều kiện cơ bản cho
phát triển bền vững sau dịch bệnh.

Thứ nhất, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng dựa vào công nghệ, có tư duy chấp
nhận rủi ro và khuyến khích tinh thần khởi nghiệp. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0
đang diễn ra mang lại những cơ hội lớn và cả những thách thức đối với Việt Nam.
Đây chính là thời điểm mà năng lực sáng tạo cần được thể hiện đúng vai trò, đúng xu
thế chung của thế giới: xây dựng quốc gia phát triển dựa vào khoa học – công nghệ,
đổi mới sáng tạo thay vì dựa vào nguồn vốn, tài nguyên và lao động như hiện nay.
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo bứt phá về công nghệ, thay đổi cơ bản phương
thức sản xuất kết hợp giữa hệ thống thực và hệ thống ảo; phá bỏ các giới hạn về vật
chất của quá trình phát triển; có thể tạo ra quy mô và tốc độ phát triển nhanh và mạnh
chưa từng có tiền lệ trong lịch sử về kinh tế, xã hội và môi trường trên toàn cầu, trong
khu vực và trong từng nền kinh tế. Do đó, chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng
cần chuyển dần sang dựa vào công nghệ và đổi mới sáng tạo. Việc chuyển đổi mô
hình tăng trưởng dựa trên sáng tạo và đổi mới công nghệ diễn ra trong bối cảnh thế
giới có nhiều biến động, vừa tạo ra cơ hội cho phát triển nhưng cũng nảy sinh nhiều
thách thức mới, đòi hỏi phải có những đổi mới tư duy và sáng tạo, có cam kết mạnh
mẽ và chỉ đạo quyết liệt, thống nhất từ Trung ương đến địa phương; phải có những cải
cách mạnh mẽ về thể chế thị trường để mở rộng không gian và tạo động lực mới cho
huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực; khuyến khích và tạo điều kiện để tất cả
tầng lớp nhân dân đều tham gia vào quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Để có
thể đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo, Việt Nam cần xây dựng
được nền tảng chính sách cho đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, bản chất của hoạt động
nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo là có rủi ro. Đổi mới sáng tạo là sẵn sàng làm
một cái gì đó mới mẻ và phải biết chấp nhận rủi ro từ cái mới đó. Chấp nhận rủi ro đòi
hỏi phải có sự kiên trì để đạt mục tiêu dài hạn, quyết định lựa chọn đầu tư mạnh mẽ
vào nghiên cứu và phát triển. Nếu không biết chấp nhận cái mới, chấp nhận rủi ro và
thiếu sự kiên trì thì không thể có đổi mới sáng tạo. Do đó, phải có tư duy chấp nhận
rủi ro và khuyến khích tinh thần khởi nghiệp nhằm tạo điều kiện cho đổi mới sáng tạo.

Thứ hai, tăng cường sử dụng công nghệ cao thông qua trực tiếp nhập khẩu, mua bán
bản quyền, thuê bao sản phẩm từ nước ngoài; thúc đẩy công tác nghiên cứu và phát
triển theo hướng tăng cường khởi nghiệp sáng tạo; và chuyển giao công nghệ. Bên
cạnh việc tăng cường đầu tư và tích lũy vốn, để đuổi kịp các quốc gia trong khu vực,
Việt Nam nên tận dụng lợi thế là nước đi sau, dựa theo đó, nên tập trung vào việc tiếp

14
nhận và tận dụng công nghệ thay vì phát minh mới. Việc lựa chọn con đường theo
hướng phát minh công nghệ mới chỉ nên thực hiện khi có đủ vốn con người và các
điều kiện thuận lợi khác. Việt Nam nên tận dụng triệt để lợi thế đi sau của mình, tập
trung chủ yếu vào lựa chọn và tạo ra không gian phát triển các ngành kinh tế ưu tiên
và phát triển doanh nghiệp ngang tầm khu vực, đủ sức cạnh tranh quốc tế. Điều này
đòi hỏi những chính sách khuyến khích, thúc đẩy hình thành các tập đoàn kinh tế lớn,
đa sở hữu, hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao, có khả năng tạo ra hiệu ứng lan
tỏa nội ngành và tới toàn bộ nền kinh tế. Kinh nghiệm phát triển của các nước công
nghiệp mới nổi cho thấy, các tập đoàn công nghệ có khả năng nâng tầm phát triển
trình độ công nghệ quốc gia nếu nhận được sự hỗ trợ phù hợp từ chính sách của nhà
nước, bao gồm cả các Quỹ đầu tư mạo hiểm có qui mô lớn. Đại dịch COVID 19 đã
bộc lộ rõ ràng sự mong manh của chuỗi cung ứng toàn cầu. Việc thu hút không chỉ các
doanh nghiệp lớn, mà cả các đối tác của họ tham gia vào quá trình sản xuất sẽ mang
lại nhiều lợi ích hơn cho Việt Nam về chuyển giao công nghệ. Theo đó, cần xem xét
ưu đãi thuế doanh nghiệp thống nhất cho tất cả các công ty trong chuỗi cung ứng, đặc
biệt là đối với các ngành công nghệ cao và đáp ứng đủ điều kiện như số tiền đầu tư
vượt qua một tiêu chuẩn nhất định.

Thứ ba, hoàn thiện về thể chế; xây dựng nhà nước kiến tạo, phát triển, liêm chính và
hành động qua việc cân bằng quyền lực trong bộ máy Nhà nước; tôn trọng và bảo vệ
sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; thực hiện phân cấp quản lý với phân cấp
ngân sách; tinh giảm và kiện toàn bộ máy. Tạo dựng nhà nước kiến tạo, phát triển,
liêm chính là khâu đột phá chiến lược của Việt Nam trong giai đoạn 10 năm tới. Điều
này càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết, khi những động lực truyền thống cho tăng
trưởng dường như đã được khai thác tới hạn. Quá trình xây dựng nhà nước kiến tạo
phát triển, liêm chính và hành động cần thực hiện những giải pháp cơ bản sau:
Cân bằng quyền lực trong bộ máy nhà nước và giải quyết các quan hệ lợi ích phù hợp
với điều kiện kinh tế thị trường. Phân chia vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý
của Nhà nước một cách rõ ràng. Chuyển đổi vai trò của Nhà nước từ Nhà nước kiểm
soát sang Nhà nước điều tiết và hỗ trợ một cách có hiệu quả, với chức năng chính là
phục vụ doanh nghiệp và người dân. T
ăng cường trách nhiệm giải trình và thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động
của các cơ quan Nhà nước. Bảo vệ và tôn trọng sự bình đẳng giữa các thành phần kinh
tế, quyền sở hữu tư nhân và quyền về tài sản. Hoàn thành hệ thống khung pháp lý đảm
bảo quyền tiếp cận thông tin của người dân và doanh nghiệp. Mở rộng sự tham gia của
doanh nghiệp và người dân vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách của nhà
nước thông qua các tổ chức xã hội đại diện lợi ích.
Thực hiện phân chia quản lý giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính
quyền địa phương đi đôi với phân cấp ngân sách nhằm đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm
vụ được giao với nguồn lực tài chính.

15
Tăng cường năng lực, tối giản và kiện toàn hệ thống tổ chức chính trị và bộ máy hành
chính các cấp. Kiểm soát tốt quyền lực, đề cao trách nhiệm giải trình và đạo đức công
vụ. Xây dựng và ban hành nghiêm các chế tài đủ mạnh nhằm nhận diện, ngăn chặn và
giải quyết hành vi lộng quyền; lợi ích nhóm; đẩy lùi tham nhũng, củng cố lòng tin của
các nhà đầu tư, doanh nghiệp và toàn xã hội.

16
17
C. KẾT LUẬN

1. Tóm tắt thực trạng


Nền kinh tế Việt Nam đang đối mặt với một đợt suy giảm lớn xuất phát từ một nguyên
nhân phi kinh tế. Trong hoàn cảnh này, các chính sách điều hành kinh tế vĩ mô có ảnh
hưởng quan trọng tới khả năng chịu đựng của nền kinh tế, giảm thiểu các tác động tiêu
cực của đại dịch. Đặc biệt, chúng sẽ quyết định khả năng phục hồi nhanh chóng hay
không của nền kinh tế khi bệnh dịch được kiểm soát. Tác động của Covid 19 tới các
ngành kinh tế có sự khác biệt rất lớn. Một vài ngành chịu ảnh hưởng nặng nề, các
doanh nghiệp có khả năng phá sản hàng loạt (hàng không, du lịch, dịch vụ). Những
ngành vẫn có cơ hội phát triển tốt (nông sản, thực phẩm, dược phẩm, …). Vì vậy, nên
có sự lựa chọn hợp lý các chính sách cũng như đối tượng hỗ trợ. Việc kích thích tổng
cầu trong bối cảnh hiện nay hầu như không có tác dụng trong ngắn hạn bởi sức mua ở
những ngành chịu ảnh hưởng trực tiếp sẽ không thể tăng một khi bệnh dịch chưa được
kiểm soát. Bản chất của đại dịch COVID 19 lần này cho thấy việc dự báo tác động của
nó đến nền kinh tế Việt Nam xảy ra trong thời gian bao lâu là rất khó. Mức độ kết nối
rất lớn của Việt Nam với chuỗi giá trị toàn cầu và các biện pháp giãn cách xã hội do
các nước áp dụng dẫn đến việc đại dịch nếu được kiểm soát ở Việt Nam cũng không
thể làm cho nền kinh tế phục hồi ngay nếu nó vẫn tiếp diễn ở các quốc gia khác. Qua
đó yêu cầu phải xây dựng nhiều kịch bản chính sách kinh tế khác nhau từ ngắn đến dài
hạn nhằm ứng phó với tình hình dịch ở cả Việt Nam và ở các quốc gia khác trên thế
giới.

2. Kết quả nghiên cứu


Nhìn chung, những chính sách, giải pháp đã ban hành có sự kết hợp giữa chính sách
tiền tệ và tài khoá cũng như các chính sách hỗ trợ ngành hoặc an sinh xã hội khác,
trong đó bao gồm nhóm giải pháp ngắn hạn, cơ chế, chính sách trong một số ngành,
lĩnh vực cụ thể, nhóm giải pháp căn bản, dài hạn để tháo gỡ khó khăn cho tăng trưởng
kinh tế, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp; cơ bản phù hợp diễn biến và tác động của
dịch bệnh, tương đồng với cách tiếp cận mới của nhiều quốc gia trên thế giới, được
người dân và cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao. Các chính sách được thực hiện
với chi phí thấp, do vậy không gây ảnh hưởng đến các cân đối lớn của nền kinh tế,
đồng thời bảo lưu dư địa để tiếp tục xây dựng, thực hiện các giải pháp trong giai đoạn
tiếp theo. Kết quả, đã góp phần quan trọng giúp ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an
sinh xã hội, giúp Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế dương trong năm
2020, duy trì triển vọng kinh tế tích cực của đất nước trong trung và dài hạn và củng
cố niềm tin của người dân, doanh nghiệp vào các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước.

18
Nguyên nhân chính do đại dịch COVID 19 diễn biến phức tạp, khó có thể dự báo, biến
chủng Delta lây lan rất nhanh, gây sức ép lớn về thời gian và khối lượng công việc
ban hành các chính sách hỗ trợ. Một vài cơ chế, chính sách chưa bảo đảm tính tổng
thể, chưa bao quát hết được tính chất, quy mô, mức độ khẩn cấp như đại dịch COVID
19. Năng lực dự báo, cơ sở dữ liệu còn yếu, trong khi năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế.

3. Hạn chế của nghiên cứu


Theo như những phân tích của các chuyên gia, việc thực thi chính sách còn một số bất
cập. Cụ thể là, lãi suất cho vay mặc dù đã được giảm nhưng vẫn còn ở mức cao và cao
hơn so với các nước trong khu vực. Lãi suất cho vay khách hàng là hộ nghèo và hộ
cận nghèo của Ngân hàng Chính sách Xã hội gần xấp xỉ lãi suất cho vay khách hàng
của các Ngân hàng Thương mại.
Các công cụ dự trữ bắt buộc chưa được Ngân hàng Nhà nước điều hành linh hoạt nên
chưa phát huy được hiệu quả trong việc tăng khả năng cung ứng tín dụng, giảm chi
phí tín dụng, tăng khả năng tạo tiền đề từ đó tác động làm giảm mặt bằng lãi suất
trong nền kinh tế.
Điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước chưa có tác động giảm lãi suất cho vay
của các tổ chức tín dụng. Ngân hàng Nhà nướcvẫn phải thông qua đầu mối Hiệp hội
Ngân hàng để kêu gọi, thuyết phục các Ngân hàng Thương mại giảm lãi suất cho vay,
giảm lãi suất đối với khách hàng.
Ngân hàng Nhà nước duy trì quá lâu công cụ hành chính đó là hạn mức tín dụng, thậm
chí là thông báo kế hoạch “nhỏ giọt”, tạo ra cơ chế xin - cho của Ngân hàng Nhà nước
đối với Ngân hàng Thương mại.
Phản ứng trong điều hành chính sách của Ngân hàng Nhà nước vẫn có lúc chưa kịp
thời, nhất là tái cấp vốn cho vay lúa gạo, cho vay hãng hàng không và mới chỉ tạo điều
kiện cho Vietnam Airlines, còn các hãng khác chưa được hưởng quyền lợi tử chính
sách.
Về các chính sách tài khóa hỗ trợ nền kinh tế đa số được thiết kế và ban hành theo
hướng bình quân hóa giữa các địa phương, ngành nghề, quy mô mà ít tính đến mức độ
ảnh hưởng và khả năng chống chịu. Thêm vào đó, liều lượng chính sách còn hạn chế
và số lượng đối tượng được hỗ trợ quá nhiều nên lợi ích từ chính sách bị dàn trải.
Mặt khác, các thủ tục để nhận hỗ trợ chính sách còn rườm ra, chưa thực sự tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tiếp cận của người dân và doanh nghiệp. Những văn bản
hướng dẫn còn tương đối rắc rối, thiếu tính khả thi. Quá trình thực hiện chính sách vẫn
đặt nặng vào khâu sàng lọc đối tượng thụ hưởng chính sách ngay từ ban đầu nên mất
khá nhiều thời gian trong việc thực thi chính sách.

19
Các cấp chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng trực tiếp chưa nắm rõ tinh
thần của các văn bản chính sách, một phần là do các quy định chưa đủ rõ ràng, mặt
khác là do sợ trách nhiệm của cán bộ nếu xảy ra sai sót, hỗ trợ sai đối tượng và một
phần là do sự thiếu hiệu quả của bộ máy hành chính.
Mức độ ứng dụng công nghệ trong việc thực hiện các chính sách còn thấp, cách tổ
chức thực hiện vẫn còn thủ công nên mất khá nhiều thời gian để chính sách thực sự
đến được với người dân và doanh nghiệp.
Về việc tuyên truyền thông tin về các chính sách, đối tượng thụ hưởng chính sách và
các bước cần thực hiện để được thụ hưởng chính sách còn hạn chế.
Các chính sách tài khóa hỗ trợ doanh nghiệp hiện nay tập trung chủ yếu vào miễn,
giảm, gia hạn thuế; miễn giảm, các khoản phí, lệ phí, tiền thuê đất. Các gói chính sách
này có tác dụng hỗ trợ chi phí, giảm áp lực tài chính ngắn hạn cho doanh nghiệp. Tuy
nhiên, khi lực cầu trong nền kinh tế còn yếu, cùng với đó là việc doanh nghiệp phải
tiêu tốn chi phí không nhỏ để đảm bảo phòng chống dịch, thì tác động của các chính
sách này tới sự hồi phục của nền kinh tế là hạn chế.

20
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tiếng Anh
Adams, A. E. Sullivan, C. M. Bybee, D.Greeson, M. R. (2008), Development of the
Scale of Economic Abuse. Violence Against Women, tr.145, 563
Brown, D. and Cao, E. (2017), The Impact of Unemployment on Child Abuse and
Neglect in the United States
(http://conference.iza.org/conference_files/Gender_2017/de_cao_e6099.pdf)
ILO Vietnam. (2020). Covid-19 and the labour market in Vietnam. Published on 21
April 2020

II. Tiếng Việt


Tổng cục Thống kê, Tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng năm
2020, https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=621&ItemID=19760.
Tổng cục Thống kê, Báo cáo số 154/BC-TCTK ngày 28/9/2020.
Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân của Thủ tướng (Ban 4). (2020), Báo cáo kết
quả khảo sát tác động của Covid-19 tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp (truy cập ngày 5/3/2020)
VASEP (2020), Báo cáo Thủ tướng chính phủ và khuyến nghị chính sách
(http://vasep.com.vn/Tin-Tuc/1217_59890/Tham-luan-cua-VASEP-tai-Hoi-nghi-Thu-
tuong-Chinh-phu-voi-DN-ngay-952020.htm)

You might also like