Professional Documents
Culture Documents
Qtns & QT Ngu N Nhân L C (KT Gi A K )
Qtns & QT Ngu N Nhân L C (KT Gi A K )
Câu hỏi 1: Nguồn nhân lực là gì? Phân biệt quản trị nguồn nhân lực và
quản trịn nhân sự, cho ví dụ?
a. Nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực là những người tạo nên lực lượng lao
động của một tổ chức, lĩnh vực kinh doanh hoặc nền kinh tế. “Vốn con người”
đôi khi được sử dụng đồng nghĩa với "nguồn nhân lực", mặc dù vốn con người
thường đề cập đến hiệu ứng hẹp hơn (nghĩa là kiến thức mà các cá nhân thể hiện
và tăng trưởng kinh tế). Tương tự, các thuật ngữ khác đôi khi được sử dụng bao
gồm nhân lực, tài năng, lao động, nhân sự hoặc đơn giản là con người.
Bộ phận nhân sự (phòng nhân sự) của một tổ chức thực hiện quản lý nguồn nhân
lực, giám sát các khía cạnh khác nhau của việc làm, chẳng hạn như tuân thủ luật
lao động và tiêu chuẩn việc làm, quản lý lợi ích của nhân viên và một số khía
cạnh của tuyển dụng.
b. Sự khác biệt giữa Quản trị nhân sự và Quản trị Nguồn nhân lực
Có nhiều người nhầm lẫn giữa quản trị nhân sự và quản trị nguồn nhân lực, vậy
đâu là điểm khác biệt và tương đồng giữa chúng...
Thể hiện sự khác biệt giữa quản trị nhân sự và quản trị nguồn nhân lực
So sánh quản trị nhân sự và quản trị nguồn nhân lực
Tiêu chí Quản trị nhân sự Quản trị nguồn nhân lực
2
động. Do đó, tiền lương là một nhân tố mạnh mẽ để tăng năng suất lao động,
hay nói cách khác, đối với người lao động, tiền lương là khoản thu nhập chính,
để tăng tiền lương họ phải tăng năng suất lao động.
Theo ILO, trong các nước ASEAN, Việt Nam vẫn thuộc nhóm có mức lương tối
thiểu thấp nhất trong khu vực ASEAN. Mức lương bình quân của Việt Nam ở
mức 3,8 triệu đồng/tháng (181 USD) năm 2015. Mức lương này chỉ cao hơn Lào
(119 USD), Campuchia (121 USD) và thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực
ASEAN như Philippines (206 USD), Thái Lan (357 USD), Malaysia (609
USD), Singapore (3.547 USD).
Ngoài tiền lương, tiền thưởng, các phúc lợi xã hội cũng góp phần thúc đẩy nâng
cao năng suất lao động. Phúc lợi có thể là tiền, vật chất, chế độ…để động viên
hoặc khuyến khích và đảm bảo anh sinh cho người lao động. Phúc lợi đóng vai
trò quan trọng trong việc đảm bảo cũng như góp phần nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần cho người lao động, từ đó thúc đẩy và nâng cao năng suất lao
động.
Thứ hai, về đầu tư: (nguồn vốn, máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất, lao
động…). Đây cũng là yếu tố tác động mạnh đến năng suất lao động.
Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, nguồn vốn còn hạn
hẹp; công nghệ sản xuất lạc hậu và trung bình; cơ sở vật chất còn nghèo nàn;
trình độ khoa học công nghệ còn chưa cao nếu không muốn nói là lạc hậu, lỗi
thời; trình độ, chất lượng lao động chưa đạt yêu cầu; chính sách quản lý còn
nhiều bất cập; năng lực cạnh tranh còn thấp… trong khi các doanh nghiệp nước
ngoài có sự hỗ trợ mạnh về tài chính, đầu tư những máy móc thiết bị, dây
chuyền công nghệ hiện đại, tiên tiến, giúp quá trình sản xuất diễn ra liên tục, ổn
định và nâng cao được năng suất lao động.
Thứ ba, trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật:
Trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn thấp, lao động thủ công
còn nhiều, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp, dẫn đến khă năng tăng năng suất
lao động còn thấp.
Hiện nay, khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển với tốc độ cao, công cụ đưa
vào sản xuất ngày càng hiện đại, đòi hỏi người lao động phải có một trình độ
chuyên môn tương ứng để có khả năng sử dụng, điều khiển máy móc trong sản
xuất. Nâng cao trình độ văn hoá chuyên môn của con người có ý nghĩa lớn đối
với tăng năng suất lao động.
Đây là một yếu tố không thể thiếu được, bởi vì dù khoa học kỹ thuật ngày càng
phát triển với tốc độ cao và đưa vào sản xuất các loại công cụ hiện đại, thì càng
đòi hỏi người lao động có trình độ chuyên môn tương ứng. Nếu thiếu người lao
động có trình độ chuyên môn cao thì không thể điều khiển được máy móc,
không thể nắm bắt được các công nghệ hiện đại.
Việc áp dụng công nghệ sản xuất, trình độ khoa học công nghệ hiện đại, tiên tiến
vào sản xuất cũng ảnh hưởng không nhỏ tới năng suất lao động. Trong khi trình
3
độ ứng dụng công nghệ sản xuất của Việt Nam khá thấp. Năng suất, chất lượng,
hiệu quả của từng ngành cũng như sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa phụ
thuộc rất lớn vào trình độ công nghệ nhưng đến nay việc sử dụng công nghệ ở
nước ta vẫn còn lạc hậu và xếp vào loại thấp nhất khu vực ASEAN.
Hầu hết doanh nghiệp Việt Nam sử dụng công nghệ tụt hậu so với thế giới từ 2 -
3 thế hệ; Gần 80% các loại thiết bị máy móc đang sử dụng được nhập khẩu từ
thời kì 1960 -1970; hơn 75% thiết bị đã quá thời hạn khấu hao nhưng không
được thay thế; trong tổng số thiết bị máy móc nhập khẩu, có hơn 50% thuộc loại
tân trang...