You are on page 1of 21

BÀI KIỂM TRA GIỮA KỲ

Môn: Kinh tế Phát triển

GVGD: TS. Nguyễn Văn Dư


Học viên: Nguyễn Thanh Truyền; MSHV: 196022246
Câu hỏi:
Bài tập 1: Tìm hiểu dữ liệu thống kê:
1. Cho biết tổng thu nhập quốc dân của 10 nước cao nhất và 10 nước thấp nhất
trên thế giới trong 10 năm qua?
2. Cho biết tổng thu nhập quốc nội, thu nhập quốc dân bình quân đầu người
của các nước trong khu vực ASEAN?
3. Cho biết tổng sản lượng quốc gia và đóng góp của các khu vực: Nông
nghiệp – Công nghiệp – Dịch vụ trong 10 năm gần đây?
Bài tập 2: Phân tích những mặt trái của FDI đối với môi trường tự nhiên/ môi
trường xã hội/ Vấn đề chuyển lãi/ Chuyển giá của các doanh nghiệp và bàn luận về
các biện pháp ngăn chặn của Chính phủ Việt Nam?
Bài tập 3: Trình bày thực trạng về thương mại quốc tế của Việt Nam trong
thời gian gần đây. Chỉ ra những cơ hội và thách thức của vấn đề này trong thời gian
tới?
Bài tập 4: Trình bày và so sánh những tiêu chí đánh giá về nghèo đói của Việt
Nam và trên thế giới. Đánh giá những thành tựu về giảm nghèo của Việt Nam trong
thời gian qua?
Bài làm:
Bài tập 1: Tìm hiểu dữ liệu thống kê:
Câu 1.1. Cho biết tổng thu nhập kinh tế quốc dân của 10 nước cao nhất và 10 nước
thấp nhất trên thế giới trong 10 năm qua?
a. 10 quốc gia có nền kinh tế cao nhất thế giới:
Dưới đây là 10 nền kinh tế hàng đầu thế giới trong 10 năm qua (2009 - 20190:
1. United States of America (Mỹ)
GDP danh nghĩa: 21,3 nghìn tỷ USD
GDP (PPP): 21 nghìn tỷ USD
Kể từ năm 1871, Hoa Kỳ đã duy trì vị thế là nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Hoa Kỳ thường được gọi là một siêu cường tài chính, và điều này là do nền
kinh tế tốt nhất chiếm gần một phần ba vốn toàn cầu được hỗ trợ bởi cơ sở hạ tầng,
công nghệ hiện đại và sự giàu có của tài nguyên thiên nhiên.
Mỹ cũng có nền kinh tế công nghệ mạnh nhất thế giới với các lĩnh vực đa dạng
như dầu mỏ, sắt, ô tô, hàng không vũ trụ, hóa chất, điện tử, chế biến thực phẩm và
hàng tiêu dùng.
Các tập đoàn lớn của Hoa Kỳ cũng thực hiện một phần đáng kể ở cấp độ toàn
cầu, với hơn một phần năm của Fortune Global 500 công ty đến từ GDP của Hoa Kỳ
được dự báo sẽ tăng 1,7% vào năm 2020.
2. China (Trung Quốc)
GDP danh nghĩa: 14,2 nghìn tỷ đô la
GDP (PPP): 27,3 nghìn tỷ đô la
Trong vài thập kỷ trước, nền kinh tế Trung Quốc đã chứng kiến sự tăng trưởng
theo cấp số nhân, phá vỡ những trở ngại của nền kinh tế cộng sản có kế hoạch tập
trung để trở thành trung tâm sản xuất và xuất khẩu của thế giới.
Gã khổng lồ châu Á đã chứng kiến sự phát triển tài chính trung bình hàng năm
là 10% mỗi năm kể từ khi nó tiến hành cải cách thị trường vào năm 1978.
3. Japan (Nhật Bản)
GDP danh nghĩa: 5,18 nghìn tỷ đô la
GDP (PPP): 5,75 nghìn tỷ đô la
Xét về dự báo GDP danh nghĩa, nền kinh tế Nhật Bản đứng thứ ba ở mức 5,2
nghìn tỷ USD vào năm 2019.
Trước những năm 1990, Nhật Bản ngày nay tương đương với China, bùng nổ
vào những năm 1960, 70 và 80.
Tuy nhiên, kể từ đó nền kinh tế Nhật Bản đã không còn ngoạn mục về mặt phát
triển.
4. Germany (Đức)
GDP danh nghĩa: 4 nghìn tỷ đô la
GDP (PPP): 4.356 nghìn tỷ đô la
Đức không chỉ lớn nhất mà còn là nền kinh tế mạnh nhất ở châu Âu.
Trên phạm vi toàn thế giới, với GDP 4 nghìn tỷ đô la, đây là nền kinh tế GDP
danh nghĩa lớn thứ tư.
5. India (Ấn Độ)
GDP danh nghĩa: 2.972 nghìn tỷ đô la
GDP (PPP): 11.468 nghìn tỷ đô la
Quốc gia này liệt kê vị trí thứ ba là nền kinh tế lớn nhất thế giới năm 2020 khi
so sánh GDP là 11,46 nghìn tỷ đô la tương đương sức mua.
Gần đây, tăng trưởng tài chính đã vượt Trung Quốc, khiến Ấn Độ trở thành
nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới.

2
6. United Kingdom (Anh)
GDP danh nghĩa: 2,829 nghìn tỷ đô la
GDP (PPP): 3.128 nghìn tỷ đô la
Vương quốc Anh với GDP danh nghĩa là 2.829 nghìn tỷ đô la, giữ vị trí thứ sáu
về GDP theo quốc gia.
Hiện tại, tất cả các hy vọng đều dành cho thủ tướng mới đắc cử của Anh, ông
Boris Johnson, để giải quyết vấn đề này càng sớm càng tốt để giảm tác động của
Brexit vào sự ổn định tài chính toàn cầu.
7. France (Pháp)
GDP danh nghĩa: 2.761 nghìn tỷ đô la
GDP (PPP): 3.054 nghìn tỷ đô la
Nền kinh tế Pháp chiếm khoảng một phần năm tổng sản phẩm quốc nội (GDP
EU) của liên minh châu Âu.
8. Italy (Ý)
GDP danh nghĩa: 2,072 nghìn tỷ đô la
GDP (PPP): 2,394 nghìn tỷ đô la
Nước Ý giữ vị trí thứ tám trong bảng xếp hạng nền kinh tế thế giới.
Bất chấp quốc gia bị bất ổn chính trị, kinh tế trì trệ và không có những thay đổi
quan trọng cản trở.
9. Brazil
GDP danh nghĩa: 1,847 nghìn tỷ đô la
GDP (PPP): 3,456 nghìn tỷ đô la
Brazil là một trong những nền kinh tế lớn thứ chín thế giới năm 2019. Quốc gia
này nổi tiếng với các ngành dệt, giày, xi măng, gỗ, quặng sắt và thiếc.
10. Canada
GDP danh nghĩa: 1,82 nghìn tỷ đô la
GDP (PPP): 1,93 nghìn tỷ đô la
Nền kinh tế lớn thứ mười thế giới đang đứng trước Nga.
Canada báo cáo sự phát triển tài chính mạnh mẽ từ năm 1999 đến 2008, với
GDP hàng năm tăng trung bình gấp 2,9%.
b. 10 quốc gia có nền kinh tế thấp nhất thế giới:
Dưới đây là 10 nền kinh tế thấp nhất thế giới trong 10 năm qua (2009 – 2019):
1. Burundi:
Thu nhập bình quân đầu người của Burundi: 727 USD/người/năm.
2. Cộng hòa Trung Phi:

3
Thu nhập bình quân đầu người của CH Trung Phi: 746 USD/người/năm.
3. Cộng hòa Dân chủ Congo (DRC):
Thu nhập bình quân đầu người của CHDC Congo: 791 USD/người/năm.
4. Ma-rốc:
Thu nhập bình quân đầu người của Ma-rốc: 1.234 USD/người/năm.
5. Nigeria:
Thu nhập bình quân đầu người của Nigeria: 1.280 USD/người/năm.
6. Mozambique:
Thu nhập bình quân đầu người của Mozambique: 1.310 USD/người/năm.
7. Liberia:
Thu nhập bình quân đầu người của Liberia: 1.413 USD/người/năm .
8. Nam Sudan:
Thu nhập bình quân đầu người của Nam Sudan: 1.613 USD/người/năm.
9. Comoros:
Thu nhập bình quân đầu người của Comoros: 1.662 USD/người/năm.
10. Madagascar:
Thu nhập bình quân đầu người của Madagascar: 1.699 USD/người/năm.
Câu 1.2. Cho biết tổng thu nhập quốc nội, thu nhập quốc dân bình quân đầu người
của các nước trong khu vực ASEAN?
a. Tổng thu nhập quốc nội của các nước trong khu vực ASEAN:
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo trong năm 2020, nền kinh tế (tổng sản
phẩm quốc nội - GDP) của các nước khu vực Đông Nam Á - ASEAN, như sau:
- Indonesia 1.088,8 tỷ USD;
- Thái Lan 509,2 tỷ USD;
- Philippines 367,4 tỷ USD;
- Việt Nam 340,6 tỷ USD;
- Singapore với 337,5 tỷ USD;
- Malaysia với 336,3 tỷ USD;
- Myanmar với 75,49 tỷ USD (2019);
- Campuchia với 27,03 tỷ USD (2019);
- Lào với 19,40 tỷ USD (2019);
- Brunei với 13,57 tỷ USD (2019);
Ngoài ra, quốc gia non trẻ Đông Timor với 2,581 tỷ USD (2019).

4
b. Thu nhập quốc dân bình quân đầu người của các nước trong khu vực
ASEAN:
Theo dự báo của IMF, thu nhập về GDP bình quân đầu người trong khu vực
Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), như sau: Singapore (58.483 USD),
Brunei (23.116 USD), Malaysia (10.192 USD), Thái Lan (7.295 USD), Indonesia
(4.038 USD), Việt Nam (3.497 USD), Philippines (3.372 USD), Lào (2.567 USD),
Campuchia (1.572 USD) và Myanmar (1.332 USD)
Câu 1.3. Cho biết tổng sản lượng quốc gia và đóng góp của các khu vực: Nông
nghiệp - Công nghiệp - Dịch vụ trong 10 năm gần đây?
a. Tổng sản lượng quốc gia:
GNP (viết tắt cho Gross National Product bằng tiếng Anh) tức Tổng sản lượng
quốc gia hay Tổng sản phẩm quốc gia là một chỉ tiêu kinh tế đánh giá sự phát triển
kinh tế của một đất nước nó được tính là tổng giá trị bằng tiền của các sản phẩm cuối
cùng và dịch vụ mà công dân của một nước làm ra trong một khoảng thời gian nào
đó, thông thường là một năm tài chính, không kể làm ra ở đâu (trong hay ngoài
nước).
Sản phẩm cuối cùng là hàng hóa được tiêu thụ cuối cùng bởi những người tiêu
dùng chứ không phải là những sản phẩm được sử dụng như là sản phẩm trung
gian trong sản xuất những sản phẩm khác. Ví dụ, một chiếc ô tô bán cho người tiêu
dùng là một sản phẩm cuối cùng; các thành phần như lốp được bán cho nhà sản xuất
ô tô là sản phẩm trung gian (a). Cũng chiếc lốp đó, nếu bán cho người tiêu dùng thì
nó lại là sản phẩm cuối cùng (b). Chỉ có sản phẩm cuối cùng mới được tính trong thu
nhập quốc gia, do việc đưa cả sản phẩm trung gian vào sẽ dẫn tới việc tính kép làm
tăng ảo giá trị thực sự của thu nhập quốc gia. Ví dụ, trong trường hợp (a) của chiếc
lốp, giá trị của nó đã được tính khi nó được nhà sản xuất lốp bán cho nhà sản xuất ô
tô và sau đó một lần nữa được tính trong giá trị chiếc ô tô khi nhà sản xuất ô tô bán
cho người tiêu dùng.
Người ta chỉ tính những sản phẩm được sản xuất mới. Việc kinh doanh những
hàng hóa đã tồn tại trước đó, chẳng hạn ô tô cũ, không được tính, do những mặt hàng
như vậy không tham gia vào việc sản xuất của các sản phẩm mới.
b. Đóng góp của các khu vực: Nông nghiệp - Công nghiệp - Dịch vụ trong
10 năm gần đây:
- Đối với lĩnh vực Nông nghiệp:
Với thế mạnh nông nghiệp, Việt Nam có ưu thế đảm bảo an ninh lương thực
hơn phần lớn các nước đang phát triển ở châu Á, và có vai trò ngày càng tăng trong
hỗ trợ an ninh lương thực cho các quốc gia khác.
Sau 10 năm thực hiện Kết luận số 53-KL/TW ngày 5/8/2009 của Bộ Chính trị
về Đề án “An ninh lương thực Quốc gia đến năm 2020,” sản lượng lúa của cả nước
tăng từ 39,17 triệu tấn (năm 2009) lên 43,4 triệu tấn (năm 2019); bình quân lương
thực đầu người tăng từ 497 kg/năm lên trên 525 kg/năm, đưa Việt Nam vào nhóm 6

5
nước hàng đầu về chỉ số này và vai trò của Việt Nam trong hỗ trợ an ninh lương thực
cho các quốc gia khác ngày càng tăng.
Xuyên suốt nhất là Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 Hội nghị lần thứ
7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Nghị quyết đã xác định “Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo
hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả
và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước
mắt và lâu dài."
Trong 10 năm qua, sản lượng lúa gạo tăng từ 39,2 triệu tấn năm 2009 lên 43,45
triệu tấn năm 2019, tăng 12,2%, sản lượng rau các loại tăng 80,5%, trái cây tăng
50%.
Với thế mạnh nông nghiệp, Việt Nam có ưu thế đảm bảo an ninh lương thực
hơn phần lớn các nước đang phát triển ở châu Á, và có vai trò ngày càng tăng trong
hỗ trợ an ninh lương thực cho các quốc gia khác.
Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng tính toán các
phương án để khi cần có thể tận dụng cơ hội về giá và nhu cầu lượng thực trên thế
giới đang tăng để tiếp tục xuất khẩu lương thực ở mức hợp lý.
Khẳng định vị thế và tìm cơ hội trong khó khăn, đó chính là điểm nhấn của
ngành nông nghiệp - điểm sáng trong phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
- Đối với lĩnh vực Công nghiệp:
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng sản phẩm trong nước (GDP) 9 tháng
năm 2019 ước tính tăng 6,98% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất của 9
tháng trong 9 năm gần đây. Cụ thể, tăng trưởng GDP 9 tháng năm 2011 tăng 6,03%;
năm 2012 tăng 5,10%; năm 2013 tăng 5,14%; năm 2014 tăng 5,53%; năm 2015 tăng
6,53%; năm 2016 tăng 5,99%; năm 2017 tăng 6,41%; năm 2018 tăng 6,96%; năm
2019 tăng 6,98%.
Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, riêng khu vực công nghiệp đã
đóng góp hơn một nửa, với mức tăng 9,36%, đóng góp 52,6%; tiếp theo là khu vực
dịch vụ tăng 6,85%, đóng góp 42,6%; cuối cùng là khu vực nông, lâm nghiệp và thủy
sản tăng 2,02% đóng góp 4,8% vào mức tăng trưởng chung.
Với mức đóng góp lớn nhất (52,6%), và tốc độ tăng cao nhất (9,36%) khu vực
công nghiệp có vai trò dẫn dắt động lực tăng trưởng và bù vào sự tăng trưởng chậm
lại của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản (2019 tăng 2,02%, cùng kỳ năm 2018
tăng 3,7%).
Cơ cấu nền kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng khu
vực nông nghiệp, tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ.  Khu vực
nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 13,20% GDP (cùng kỳ 2018 chiếm 13,94%);
khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 33,98% (cùng kỳ 2018 chiếm 33,50%); khu
vực dịch vụ chiếm 42,74% (cùng kỳ 2018 chiếm 42,51%); thuế sản phẩm trừ trợ cấp
sản phẩm chiếm 10,08% (cùng kỳ năm 2018 chiếm 10,05%).

6
Cùng với công nghiệp chế biến, chế tạo, xuất khẩu tiếp tục là một động lực
quan trọng dẫn dắt  tăng trưởng, cải thiện cán cân thanh toán và ổn định kinh tế vĩ
mô. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 194,3 tỷ USD, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm
trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước có tốc độ tăng cao 16,4%, cao hơn tốc độ
tăng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (5%).
- Đối với lĩnh vực Dịch vụ:
Thống kê cho thấy, đóng góp của ngành Dịch vụ vào tăng trưởng kinh tế ngày
càng tăng. Trong đó, khu vực dịch vụ tiếp tục giữ được đà tăng trưởng với 6,98% với
sự đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn như: Bán buôn và bán lẻ chiếm tỷ
trọng lớn nhất, đạt mức tăng 8,28%; Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng
7,79%; Hoạt động kinh doanh bất động sản được cải thiện hơn với mức tăng 4,00%;
Dịch vụ lưu trú và ăn uống có mức tăng trưởng khá cao 6,70%...
Thời gian qua, nước ta đã định hướng tập trung phát triển các ngành Dịch vụ
có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng khoa học, công nghệ cao như công nghệ thông
tin, truyền thông, logistics, hàng không, tài chính, ngân hàng, du lịch, thương mại
điện tử... Mạng lưới thương mại và dịch vụ nhờ đó đã phát triển mạnh trên phạm vi
cả nước, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Thị trường khoa học công nghệ có bước phát triển, giá trị giao dịch tăng
13,5%/năm. Nhiều công trình hạ tầng thiết yếu về giao thông, năng lượng, thủy lợi,
đô thị, thông tin truyền thông, y tế, giáo dục... được đưa vào sử dụng, thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, tạo diện mạo mới cho đất nước.
So với các nước trong khu vực và trên thế giới, quy mô và chất lượng dịch vụ
của Việt Nam quá thấp; Tốc độ chuyển dịch cơ cấu GDP của nền kinh tế theo hướng
dịch vụ hóa còn rất chậm, tỷ trọng của các ngành Dịch vụ trong GDP hầu như không
thay đổi và mức độ tác động lan tỏa thấp. Hiện ngành Dịch vụ chỉ đóng góp khoảng
40% GDP, tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế
giới.
Tuy nhiên, các ngành dịch vụ thậm dụng tri thức, khoa học và công nghệ phát
triển còn chậm. Các ngành dịch vụ mang tính chất “động lực” hay “huyết mạch”, có
hàm lượng tri thức cao như: Tài chính - tín dụng, khoa học và công nghệ, giáo dục và
đào tạo, y tế… còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong GDP của toàn nền kinh tế và cũng
thấp hơn so với nhiều quốc gia trong khu vực, phản ánh chất lượng tăng trưởng
không cao.
Bài tập 2: Phân tích những mặt trái của FDI đối với môi trường tự nhiên/ môi
trường xã hội/ Vấn đề chuyển lãi/ Chuyển giá của các doanh nghiệp và bàn luận về
các biện pháp ngăn chặn của Chính phủ Việt Nam?
- Đối với môi trường tự nhiên/ xã hội:
Theo kết quả thanh tra của Tổng cục Môi trường tại 28 tỉnh phía Bắc trong các
năm 2017, 2018 và 2019 thì tỷ lệ doanh nghiệp (DN) FDI vi phạm các quy định về
bảo vệ môi trường tăng lên trong các năm. Cụ thể, năm 2017 có 12/27 DN vi phạm,

7
chiếm tỷ lệ 44,5%; năm 2018 có 14/25 DN vi phạm, chiếm tỷ lệ 56% và năm 2019 là
13/19 DN vi phạm, chiếm tỷ lệ 68%.
Nhiều DN khi bước chân vào đầu tư tại Việt Nam đã không có ý thức đối với
việc bảo vệ môi trường khi thường xuyên có những sai phạm liên quan đến lĩnh vực
này. Formosa, Vedan là những ví dụ điển hình của các sai phạm.
Dư luận hẳn chưa quên sự vụ của Formosa, với sự vô trách nhiệm của mình
trong sản xuất đã xả thẳng chất thải ra môi trường biển khiến cho vùng biển miền
Trung Việt Nam đã bị ô nhiễm nặng nề.
Bên cạnh đó, nhiều ý kiến cho rằng chính sách pháp luật của chúng ta còn nhiều
kẽ hở. Đơn cử trong các quy định của các Luật Môi trường và Luật Đầu tư, Luật Bảo
vệ môi trường và Luật Xây dựng, giữa Luật Bảo vệ môi trường và Luật Tài nguyên
nước... vẫn còn sự thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất.
Bên cạnh đó, theo giới chuyên gia ngành môi trường, Việt Nam cần hạn chế thu
hút FDI vào các ngành sử dụng nhiều năng lượng, ngành gây ô nhiễm môi trường và
cần mạnh tay đối với các dự án có những tác động xấu đến môi trường, vì mục tiêu
phát triển bền vững.    
Có thể thông qua việc đầu tư để thực hiện hoạt động tình báo, gây rối an ninh
chính trị. Thông qua nhiều thủ đoạn khác nhau theo kiểu “diễn biến hòa bình”. Có thể
nói rằng sự tấn công của các thế lực thù địch nhằm phá hoại ổn định về chính trị của
nước nhận đầu tư luôn diễn ra dưới mọi hình thức tinh vi và xảo quyệt. Mục đích của
các nhà đầu tư là kiếm lời, nên họ chỉ đầu tư vào những nơi có lợi nhất sẽ làm tăng
thêm sự mất cân đối giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị. Sự mất cân đối này
có thể gây ra mất ổn định về chính trị, hoặc FDI cũng có thể gây ảnh hưởng xấu về
mặt xã hội.
- Đối với vấn đề chuyển lãi/ chuyển giá:
Thực tế cho thấy, vai trò của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam là khá rõ nét và đã được khẳng định.
Hiện nay, cả nước có khoảng trên 15.000 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng
ký đạt 218,8 tỷ USD, vốn thực hiện khoảng 106 tỷ USD.
Các dự án FDI góp phần tăng thu ngân sách, cải thiện cán cân thanh toán, là
nguồn vốn bổ sung quan trọng cho phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng hiện đại, nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ, phát triển kinh tế thị trường
ở Việt Nam, giải quyết công ăn việc làm, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao mức sống
cho người lao động.
Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực cho nền kinh tế, khu vực FDI
cũng đã và đang bộc lộ những vấn đề gây ảnh hưởng tiêu cực nổi bật là chuyển giá,
trốn thuế, tạo nên tình trạng lỗ giả, lãi thật, gây thất thu ngân sách, tạo ra sự cạnh
tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp (DN) trong nước, tác động không tốt
đến môi trường đầu tư…

8
Các báo cáo của cơ quan thuế cho thấy, các DN FDI khai kinh doanh thua lỗ
thường tập trung trong lĩnh vực gia công may mặc, da giày; sản xuất, kinh doanh chè
xuất khẩu; công nghiệp chế biến…
Trường hợp điển hình có những biểu hiện “đáng ngờ” về chuyển giá, phải nói
đến Công ty Coca-Cola Việt Nam. Trong hơn 20 năm đầu tư, kinh doanh tại Việt
Nam, Coca-Cola liên tục báo lỗ, lỗ lũy kế tính đến 30/9/2011 của công ty này đã lên
tới 3.768 tỷ đồng, vượt cả số vốn đầu tư ban đầu là 2.950 tỷ đồng.
Do lỗ liên tục như vậy nên Coca-Cola Việt Nam không phải đóng thuế thu nhập
DN, trong khi doanh thu liên tục tăng từ 20-30%/năm. Tuy lỗ lớn như vậy nhưng DN
này đã có kế hoạch đầu tư thêm 300 triệu USD tại Việt Nam.
Một công ty khác nằm trong diện nghi vấn chuyển giá với giá trị lớn lên đến
hơn 1.200 tỷ đồng là Công ty PepsiCo Việt Nam. Từ khi thành lập năm 1991, gần 20
năm qua PepsiCo lỗ liên tục, cho đến một số năm gần đây mới có lãi nhưng tỷ lệ lợi
nhuận trên doanh thu rất thấp, chỉ trên 2%. Mặc dù vậy, PepsiCo Việt Nam vẫn liên
tục mở rộng đầu tư, xây dựng các nhà máy mới ở Đồng Nai (45 triệu USD), Bắc
Ninh (73 triệu USD).
Có nhiều nghi vấn chuyển giá trong các giao dịch liên kết đang được cơ quan
thuế làm rõ, như Keangnam Vina trả lãi suất tiền vay tới 12%/năm (lãi suất của ngân
hàng Việt Nam từ 5-7%/năm) cho khoản vay 400 triệu USD từ ngân hàng Kookmin
bank (Hàn Quốc) - thành viên trong cùng tập đoàn; trả phí dàn xếp vốn tới 30 triệu
USD cho nhà thầu chính - Cty Keangnam Enterprises.Ltd. Và nhiều khoản chi phí
khác lên tới vài triệu USD…
Những thủ đoạn chuyển giá tinh vi
Hành vi, thủ đoạn chuyển giá của các DN FDI đã được lực lượng thanh tra thuế
làm rõ. Cụ thể, quá trình thu thập các thông tin, dữ liệu, thanh tra phát hiện các nhà
đầu tư nước ngoài thường góp vốn vào DN trong nước bằng máy móc, thiết bị công
nghệ lạc hậu hoặc đã khấu hao hết nhưng được đẩy giá lên rất cao so với giá trị thực.
Bằng cách này đã giúp nâng khống giá trị vốn góp, gây thất thu cho ngân sách và bất
lợi cho DN trong nước.
Một hình thức chuyển giá khác được các DN FDI áp dụng là bán hàng hóa,
nguyên vật liệu cho các bên có quan hệ liên kết với giá thấp hơn nhiều so với giá bán
cho các bên không có quan hệ liên kết. Đây là hành vi phổ biến nhất. Bởi với lợi thế
nắm giữ phần vốn lớn tại các DN Việt Nam, bên liên kết nước ngoài có quyền định
đoạt giá chuyển giao hàng hóa, nguyên liệu để chuyển được nhiều lợi nhuận trước
thuế ra nước ngoài.
Các tập đoàn, công ty mẹ tại nước ngoài ký hợp đồng sản xuất kinh doanh và
dịch vụ với các công ty của các nước với đơn giá gia công sản xuất dịch vụ rất cao.
Sau đó, các tập đoàn này giao lại cho các công ty con lập tại Việt Nam thực hiện sản
xuất gia công dịch vụ và xuất thẳng cho các đơn vị mà công ty mẹ đã ký hợp đồng.
Tuy nhiên, tiền không thu được trực tiếp từ các công ty đã xuất hàng mà chỉ thu được
theo đơn giá gia công, sản xuất dịch vụ do công ty mẹ quy định, đơn giá này rất thấp.

9
Bên cạnh đó, một hình thức chuyển giá khác thông qua chi trả lãi vay vốn sản
xuất kinh doanh cũng được các nhà “ảo thuật” FDI vận dụng. Hành vi này thông qua
giá bán hàng hóa dịch vụ xuất khẩu cho nước ngoài, chủ yếu bao tiêu sản phẩm qua
công ty mẹ với giá bán hoặc giá gia công thấp hơn giá vốn dẫn đến kết quả sản xuất
kinh doanh của DN FDI liên tục lỗ nhiều năm. Để tiếp tục hoạt động và mở rộng kinh
doanh, công ty mẹ thực hiện hình thức hỗ trợ vốn hoặc cho vay không tính lãi.
Ngoài ra, các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ, tiêu dùng có
các nhãn hàng nổi tiếng ở nước ngoài thường xuyên có hành vi chuyển giá thông qua
định giá tiền bản quyền thương hiệu rất cao so với giá trị thực. Thủ đoạn này giúp
nhà đầu tư nước ngoài thu được lợi nhuận từ nâng khống giá trị thương hiệu trong khi
bên phía Việt Nam vẫn phải chịu chi phí quảng cáo cho thương hiệu đó.
Điều đáng nói, quảng cáo tại thị trường trong nước với chi phí cao làm cho
thương hiệu này nổi tiếng hơn và bên nước ngoài có lý do yêu cầu bên Việt Nam phải
trả thêm tiền bản quyền thương hiệu, mặc dù thực chất các khoản chi phí này phải do
công ty mẹ tại nước ngoài trang trải.
- Các biện pháp ngăn chặn:
Trong tầm nhìn trung và dài hạn, việc thu hút FDI vẫn là nhiệm vụ trọng tâm để
tăng trưởng kinh tế, bù đắp sự thiếu hụt về vốn ngoại tệ của các nước nhận đầu tư,
đặc biệt là đối với các nước kém phát triển.
Tuy nhiên, Chính phủ cần chủ động nhận diện một cách tường tận các mặt trái
của việc thu hút đầu tư FDI đến kinh tế, chính trị, xã hội, đặc biệt là chú ý đến môi
trường, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp và xây dựng các kế hoạch cụ thể nhằm
khắc phục các bất cập, thách thức đang gặp phải. Định hướng thu hút FDI đến năm
2030; Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính và phòng, chống tham nhũng trong hoạt
động FDI; Xác định đối tác chiến lược trong thu hút FDI và cách tiếp cận hiệu quả.
Chọn lọc các lĩnh vực cho phép đầu tư và ưu tiên chọn các nhà đầu tư có công
nghệ cao, hiện đại, thân thiện với môi trường.
Xây dựng và hoàn thiện các chính sách đầu tư, chính sách thuế để bảo vệ kinh tế
đất nước. Đồng thời, trách sự lợi dụng trong việc ưu đãi khuyến khích thu hút đầu tư,
hiện tượng chuyển giá của các nhà đầu tư nước ngoài.
Tăng cường hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra về bảo vệ môi trường tại các
KCN, xử lý nghiêm các doanh nghiệp vi phạm, đình chỉ hoạt động theo quy định của
pháp luật.
Nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động đánh giá môi trường, chỉ cho phép xây
dựng các nhà máy, dự án trong KCN sau khi đã hoàn thành cơ sở hạ tầng kỹ thuật và
các công trình bảo vệ môi trường.
Các giải pháp chống chuyển giá:
Chuyển giá không chỉ làm thất thu ngân sách nhà nước, mà còn tạo ra môi
trường cạnh tranh không lành mạnh giữa các DN. Để hạn chế tình trạng này cần tập
trung thực hiện hiệu quả vào một số giải pháp sau:

10
Thứ nhất, hoàn thiện hành lang pháp lý. Trước mắt, Việt Nam cần hoàn thiện
hành lang pháp lý về chống chuyển giá và tiến tới ban hành Luật Chống chuyển giá;
thu hẹp các ưu đãi về thuế, cụ thể là hạn chế tối đa các chính sách xã hội trong ưu đãi
thuế;
Thứ hai, kiện toàn bộ máy. Đây là lực lượng chuyên trách làm việc chống
chuyển giá tại cơ quan Thuế Trung ương đến địa phương, cũng như tiến hành thu
thập xử lý thông tin từ các DN có quan hệ liên kết từ cơ quan thuế và bên thứ ba.
Thứ ba, áp dụng phương pháp định giá (APA - cơ chế thoả thuận trước về xác
định giá). Biện pháp này đang được áp dụng rộng rãi tại châu Âu và nhiều nước trong
khu vực như: Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan, Malaysia...
Theo cơ chế này, DN đa quốc gia phải chủ động đề xuất biện pháp tính giá hoặc
mức giá mua, bán hàng hóa, dịch vụ giữa các thành viên trong tập đoàn, trước khi kê
khai và nộp thuế. Cơ quan thuế sẽ phối hợp với cơ quan thuế nước ngoài đã ký kết
hiệp định tránh đánh thuế hai lần với Việt Nam tổ chức giám sát, kiểm soát để chống
gian lận thuế.
Thứ tư, Chính phủ và các cơ quan chức năng cũng cần rà soát, điều chỉnh theo
hướng thu hẹp khoảng cách về các ưu đãi thuế giữa các ngành, lĩnh vực và vùng
miền, địa phương.
Việt Nam đã bước qua giai đoạn thu hút FDI bằng mọi giá, do vậy nên cân
nhắc, chỉ cho phép ưu đãi thuế đối với một số ngành nghề, lĩnh vực, vùng miền và
trong những trường hợp có lợi nhất so với các hình thức ưu đãi khác.
Thứ năm, cơ quan thuế các cấp cần tăng cường thanh tra giá chuyển giao, xem
đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành Thuế. Chú trọng việc thanh
tra, kiểm tra giá chuyển giao đối với các DN có nhiều thành viên; các ngành nghề có
dấu hiệu rủi ro lớn về thuế do hành vi chuyển giá của DN liên kết, các DN đã và đang
thực hiện tái cơ cấu có khả năng lợi dụng chuyển giá để tránh thuế. Đối với các
trường hợp chuyển giá, phải có chế tài xử phạt theo hướng tăng mức phạt và hình
thức phạt so với quy định hiện tại để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Thứ sáu, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và liên thông dữ liệu, thông tin về DN
FDI trong các cơ quan chức năng của Việt Nam để có sự phối hợp đồng bộ, thông
suốt trong kiểm soát chuyển giá của các cơ quan chức năng. Tăng cường xây dựng cơ
sở dữ liệu và kết nối thông tin để có được một hệ thống thông tin đảm bảo cho quá
trình quản lý thuế nói chung và hoạt động phân tích rủi ro, thanh tra, xử lý vi phạm về
giá chuyển giao giữa các thành viên liên kết nói riêng.
Thứ bảy, tăng cường đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho ngành thuế để
chuyên theo dõi, kiểm soát chuyển giá, trong đó chú trọng đào tạo về kỹ năng xác
định giá thị trường, trang bị kiến thức về kinh tế ngành, kỹ năng tin học, ngoại ngữ...
Hoạt động chống chuyển giá có thể tác động đến khả năng thu hút đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam trong ngắn hạn theo hướng giảm số lượng dự án và vốn đầu tư,
song về dài hạn sẽ nâng cao chất lượng thu hút FDI bằng việc hạn chế các nhà đầu tư
không hiệu quả và tăng đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài, thu hút được các

11
nhà đầu tư có uy tín, môi trường đầu tư Việt Nam sẽ phát triển theo hướng tích cực,
lành mạnh hơn. Đã đến lúc các ngành chức năng, các địa phương cần kiên quyết và
quyết liệt hơn nữa trong thực hiện các biện pháp đồng bộ chống chuyển giá, để tránh
những thua thiệt khi thu hút FDI.
Bài tập 3: Trình bày thực trạng về thương mại quốc tế của Việt Nam trong
thời gian gần đây. Chỉ ra những cơ hội và thách thức của vấn đề này trong thời gian
tới?
a. Thực trạng về thương mại quốc tế của Việt Nam những năm gần đây:
Trong những năm gần đây (giai đoạn 2011-2020), Việt Nam đặt mục tiêu tốc
độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa bình quân đạt khoảng 11-12%/năm, trong đó, giai
đoạn 2016-2020 phấn đấu tăng trưởng bình quân đạt 11%/năm và duy trì tốc độ tăng
trưởng khoảng 10% thời kỳ 2021 - 2030.
Riêng năm 2019, mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đặt ra đạt khoảng 258 tỷ USD,
tăng 8% so với năm 2017. Tăng trưởng trong năm 2020 của Việt Nam được IMF dự
báo là 1,6%, thặng dư thương mại cao kỷ lục, đạt 18,7 tỷ USD, nâng tổng GDP ước
đạt 340,6 tỷ USD.
Theo Bộ Công Thương, 2011-2018 là giai đoạn tăng trưởng vượt bậc về kim
ngạch xuất khẩu (và nhập khẩu) của Việt Nam; trong đó, tăng trưởng xuất khẩu vượt
mục tiêu đề ra, góp phần quan trọng vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Xuất khẩu
trong 8 năm tăng gấp 2,51 lần (từ 96,91 tỷ USD năm 2011 lên 243,48 tỷ USD vào
năm 2018). Việt Nam đã nhanh chóng cải thiện vị thế trên bản đồ xuất nhập khẩu thế
giới.
Xét về quy mô thị trường xuất khẩu, nếu năm 2011, Việt Nam chỉ có 24 thị
trường xuất khẩu, đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD (trong đó có 3 thị trường trên 10 tỷ
USD) thì đến năm 2018, có 31 thị trường xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD
(trong đó, 4 thị trường đạt kim ngạch trên 10 tỷ USD, 7 thị trường trên 5 tỷ USD).
Trong giai đoạn 2011-2018, không ít doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp tục đẩy
mạnh khai thác các thị trường truyền thống và mở rộng tìm kiếm, phát triển thêm
nhiều thị trường mới. Tính đến nay, hàng hóa của Việt Nam đã có mặt trên 200 quốc
gia và vùng lãnh thổ. Trong đó, Trung Quốc và Hàn Quốc là hai thị trường có tốc độ
tăng trưởng bình quân cao nhất, với tốc độ tăng trưởng lần lượt là 21,7% và 21,5%.
Đặc biệt, 2018 là năm đạt nhiều kỷ lục về xuất khẩu hàng hóa. Số liệu của
Tổng cục Hải quan cho thấy tổng trị giá hàng hóa xuất nhập khẩu của cả nước, đạt
480,17 tỷ USD, tăng hơn 52 tỷ USD so với kết quả thực hiện của năm 2017. Trong
đó, xuất khẩu thiết lập những kỷ lục mới với kim ngạch đạt gần 243,5 tỷ USD, tăng
13,2% so với năm 2017. Nếu tính theo giá trị tuyệt đối, xuất khẩu năm 2018 tăng
thêm 28,36 tỷ USD so với năm trước. Nhóm mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của nước ta
trong năm 2018 là điện thoại và linh kiện các loại với trị giá ghi nhận lên đến 49,1 tỷ
USD, chiếm 1/5 tổng trị giá hàng xuất khẩu.
2018 cũng là năm thứ 3 liên tiếp xuất siêu của Việt Nam, khi mức thặng dư kỷ
lục lên gần 6,8 tỷ USD (cao hơn rất nhiều so với năm 2016 là 1,78 tỷ USD và năm

12
2017 là 2,11 tỷ USD). Trong năm 2018, Việt Nam có thặng dư cán cân thương mại
với 150 nước, vùng lãnh thổ và có thâm hụt với 85 nước, vùng lãnh thổ. Về việc duy
trì xuất siêu, Việt Nam đã đạt xuất siêu trong 6 năm kể từ năm 2012 đến nay, chỉ duy
nhất năm 2015 có cán cân thương mại thâm hụt. Kết quả này đã góp phần cân bằng
cán cân thanh toán và ổn định các chỉ số kinh tế vĩ mô của nền kinh tế.
Không chỉ chủ động tham gia các hoạt động ngoại thương, các DN cũng tận
dụng tốt hơn cơ hội từ hội nhập. Theo đó, ở tất cả các thị trường mà Việt Nam có ký
kết hiệp định thương mại tự do (FTA) đều ghi nhận sự tăng trưởng vượt trội, thị phần
xuất khẩu tại các thị trường trọng điểm được khẳng định. Tăng trưởng xuất khẩu trên
nhiều thị trường, đạt mức hai con số như: Xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 41,2 tỷ
USD, tăng 16,6% so với năm 2017; Xuất khẩu sang thị trường ASEAN đạt 24,74 tỷ
USD, tăng 13,9%; Xuất khẩu sang Nhật Bản đạt 18,85 tỷ USD, tăng 11,8%, xuất
khẩu sang Hàn Quốc đạt 18,2 tỷ USD, tăng 22,8%.
Bước vào năm 2019, trước diễn biến tình hình chiến tranh thương mại Mỹ -
Trung ngày càng căng thẳng, song hoạt động xuất khẩu của Việt Nam tương đối khả
quan. Báo cáo kinh tế - xã hội do Tổng cục Thống kê công bố, tính chung 5 tháng đầu
năm 2019, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam ước đạt 100,74 tỷ USD, tăng
6,7% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 30,33 tỷ
USD, tăng 11,6%, chiếm 30,1% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 70,41 tỷ USD, tăng 4,7%, chiếm 69,9% (tỷ trọng giảm
1,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước).
b. Cơ hội và thách thức trong thời gian tới:
Những chuyển biến tích cực trong hoạt động xuất khẩu
Với độ mở và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng lớn, trong bối cảnh tình hình
quốc tế và khu vực diễn biến hết sức phức tạp, khó đoán định, đặc biệt là những diễn
biến của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, xu thế bảo hộ mậu dịch gia tăng…
song hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vẫn có những chuyển biến tích cực. Cụ thể:
Một là, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo hướng tích cực, với
quy mô các mặt hàng xuất khẩu tiếp tục được mở rộng.
Số mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên tăng qua các năm,
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Nếu như năm 2011,
có 21 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 81% tổng kim ngạch
xuất khẩu thì đến năm 2018 có 29 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD
(trong đó, nhóm nông sản, thủy sản đóng góp 6 mặt hàng, nhóm hàng công nghiệp
đóng góp 21 mặt hàng và nhóm nhiên liệu, khoáng sản đóng góp 2 mặt hàng).
Hai là, thị trường xuất khẩu được mở rộng, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam
đã vươn tới hầu hết các thị trường trên thế giới. Ở tất cả các thị trường mà Việt Nam
có ký kết hiệp định thương mại tự do (FTA) đều ghi nhận mức tăng trưởng tốt. Tăng
trưởng xuất khẩu trên nhiều thị trường đạt mức hai con số như xuất khẩu sang Trung
Quốc đạt 41,2 tỷ USD, tăng 16,6% so với năm 2017; xuất khẩu sang thị trường
ASEAN đạt 24,74 tỷ USD, tăng 13,9%; xuất khẩu sang Nhật Bản đạt 18,85 tỷ USD,
tăng 11,8%; xuất khẩu sang Hàn Quốc đạt 18,2 tỷ USD, tăng 22,8%...

13
Ba là, việc tham gia các FTA nói chung và CPTPP nói riêng có tác động tích
cực đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh và công tác phát triển thị trường xuất
khẩu.
Thống kê cho thấy, tính 2019, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 55 đối
tác thương mại thông qua việc ký kết 13 FTA và đang đàm phán 03 FTA khác. Hiện
nay, DN Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường các nước thành viên tham
gia FTA đều có cơ hội hưởng lợi ích. Chẳng hạn, đối với CPTPP, DN xuất khẩu Việt
Nam được hưởng những cam kết cắt giảm thuế quan ở mức cao, cụ thể như: Với
Australia là trên 93% số dòng thuế (tương đương 95,8% kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam sang thị trường này); cam kết cắt giảm thuế của Canada lên đến 94,9% số
dòng thuế (tương đương 77,9% kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam); với Nhật Bản,
cam kết cắt giảm thuế tốt hơn nhiều so với trong Hiệp định FTA song phương giữa 2
nước (như cam kết xóa bỏ ngay 86% số dòng thuế, tương đương 93,6% kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản và gần 90% số dòng thuế sau 5 năm)…
CPTPP mở ra cơ hội để một số nhóm hàng phát triển bởi những cam kết rất
“mở”, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu ở cả nhóm hàng nông, lâm thủy sản và
nhóm hàng công nghiệp. Các ngành dự kiến có mức tăng trưởng lớn sẽ là thực phẩm,
đồ uống, thuốc lá, dệt may, hóa chất, sản phẩm nhựa và đồ da, trang thiết bị vận tải,
máy móc và các trang thiết bị khác. Bên cạnh đó, CPTPP tạo điều kiện để cơ cấu lại
thị trường xuất khẩu, nhập khẩu, bởi hiện nay, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt
Nam chủ yếu với khu vực châu Á (chiếm khoảng 80% kim ngạch nhập khẩu và 50%
kim ngạch xuất khẩu). Các FTA mới sẽ giúp DN có điều kiện thâm nhập, khai thác
các thị trường mới, thị trường còn nhiều tiềm năng cho xuất khẩu của Việt Nam.
Những thách thức đặt ra
Một là, sự cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu ngày càng lớn.
Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, trong đó có gạo, hiện giá trị
rất thấp và có nguy cơ mất giấy phép xuất khẩu. Đặc biệt, sức ép cạnh tranh ngày
càng lớn khi, xuất khẩu nhóm hàng nông, thủy sản đã gặp khá nhiều khó khăn, kể cả
về giá bán ngay trong những tháng đầu năm 2019.
Xuất khẩu gạo dự báo sẽ đối mặt với cạnh tranh lớn khi nhu cầu nhập khẩu
giảm ở một số thị trường lớn là Indonesia, Bangladesh và Trung Quốc giảm. Trong
khi đó, đối thủ cạnh tranh chủ yếu của Việt Nam tại các thị trường châu Âu, Hoa Kỳ
có ưu thế hơn hẳn về giá cả, điển hình như Trung Quốc chiếm lĩnh thị phần lớn trong
ngành hàng tiêu dùng tại Hoa Kỳ, với sự cạnh tranh khốc liệt về giá bán...
Hai là, khả năng thâm nhập các thị trường mới.
Thực tế cho thấy, mức độ đa dạng hóa thị trường của một số mặt hàng thuộc
nhóm nông sản, thuỷ sản của Việt Nam chưa cao, cụ thể là còn phụ thuộc nhiều vào
khu vực châu Á (chiếm tới 54%), đặc biệt là Trung Quốc. Đáng chú ý, một số mặt
hàng phụ thuộc vào một thị trường (sắn, cao su, thanh long…). Các mặt hàng nông,
thủy sản xuất khẩu còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận những thị trường có yêu
cầu cao về chất lượng và an toàn thực phẩm.

14
Thậm chí, ngay cả Trung Quốc - Thị trường xuất khẩu trái cây, rau quả lớn
nhất của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu trái cây, rau quả năm 2018 đạt 2,78 tỷ
USD, chiếm trên 70% tỷ trọng xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam thì xuất khẩu
nông sản sang thị trường này vẫn chưa bền vững, còn phụ thuộc khá nhiều vào đường
tiểu ngạch, quy mô nhỏ lẻ. Trung Quốc cũng không còn là thị trường dễ tính, yêu cầu
của người tiêu dùng với trái cây, rau quả nhập khẩu tại thị trường này ngày một khắt
khe. Đặc biệt, chính sách của Trung Quốc đã có nhiều thay đổi. Từ ngày 1/1/2019 trái
cây, rau quả xuất khẩu sang thị trường này bắt buộc phải có truy xuất nguồn gốc rõ
ràng, có giấy chứng nhận kiểm dịch động thực vật.
Ba là, những biến động khó lường trên thị trường thương mại toàn cầu.
Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung nổ ra từ tháng 7/2018 với việc Mỹ áp thuế
nhập khẩu lên 34 tỷ USD hàng Trung Quốc. Qua nhiều vòng, Mỹ tiếp tục áp thuế lên
tổng cộng 250 tỷ USD hàng Trung Quốc và Trung Quốc trả đũa với 110 tỷ USD. Đến
đầu tháng 5/2019, Mỹ tiếp tục công bố “sốc” khi nâng thuế 200 tỷ USD đối với các
mặt hàng của Trung Quốc, vì cho rằng Bắc Kinh đã thay đổi các cam kết.
Với những dự báo tăng trưởng toàn cầu, quy mô thị trường và nhu cầu hàng
hóa giảm, hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta sẽ bị ảnh hưởng. Mới đây, Trung
tâm Thông tin và dự báo kinh tế xã hội (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đưa ra ước tính,
chiến tranh thương mại Mỹ - Trung sẽ làm GDP Việt Nam giảm 0,09% vào 2019 và
đạt đỉnh điểm sụt 0,12% vào 2020-2021. Tuy nhiên, ước tính này đưa ra giữa năm
2018, với kịch bản Mỹ áp thuế 25% cho 34 tỷ USD hàng nhập từ Trung Quốc, trong
khi quy mô cuộc chiếm thương mại hiện nay đã tăng hơn so với trước. Lúc đó, cùng
với xu thế bảo hộ mậu dịch gia tăng, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam chắc chắc sẽ
đối mặt với nhiều thách thức lớn hơn.
Bốn là, các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu chưa phát huy tối đa hiệu quả.
Trong những năm qua, mặc dù đã có nhiều nỗ lực, song hoạt động xúc tiến
thương mại chưa được đồng đều và đồng bộ từ khâu sản xuất đến khâu tiếp thị và
thâm nhập thị trường. Việc tiếp cận thị trường để tìm kiếm khách hàng mới và giới
thiệu sản phẩm thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại còn hạn chế. Thực trạng
này khiến cho các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu chưa phát huy tối đa hiệu quả, chưa đạt
được như kỳ vọng đề ra.
Năm là, thách thức từ các biện pháp phòng vệ thương mại của các quốc gia
nhập khẩu.
Mặc dù, Việt Nam đã, đang rất tích cực, chủ động xử lý có hiệu quả các vấn đề
trong tranh chấp thương mại, xử lý các biện pháp phòng vệ thương mại, vượt qua các
rào cản thương mại của các thị trường nhập khẩu, nhưng tình hình thế giới đang có
những diễn biến hết sức phức tạp, khó lường, các nước phát triển ngày càng gia tăng
các biện pháp hạn chế thương mại, bảo hộ sản xuất trong nước.
Theo thống kê của Bộ Công Thương, tính hết năm 2018, đã có 144 vụ việc
phòng vệ thương mại do nước ngoài khởi xướng điều tra, áp dụng đối với hàng hóa
xuất khẩu của Việt Nam (trong đó, năm 2018 có 19 vụ việc mới được khởi xướng).
Hiện nay, Hoa Kỳ vẫn là quốc gia điều tra phòng vệ thương mại nhiều nhất với hàng

15
hóa xuất khẩu của Việt Nam (27 vụ việc), tiếp đến là Thổ Nhĩ Kỳ (21 vụ việc), Ấn
Độ (17 vụ việc) và EU (14 vụ việc).
Trong số 144 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại, có 81 vụ việc về chống
bán phá giá, 30 vụ việc tự vệ có liên quan đến hàng hóa Việt Nam, 14 vụ việc trợ cấp
và 19 vụ việc chống lẩn tránh thuế. Như vậy, nếu như năm 2017 chỉ có 13 vụ việc
phòng vệ thương mại được khởi xướng, thì năm 2018 đã tăng lên 19 vụ việc (trong
đó có 6 vụ việc chống bán phá giá, 7 vụ việc tự vệ, 4 vụ việc chống trợ cấp và 2 vụ
việc chống lẩn tránh thuế), tăng thêm xấp xỉ 50%.
Bên cạnh các biện pháp phòng vệ thương mại, nhiều quốc gia cũng đang có xu
hướng gia tăng bảo hộ sản xuất trong nước một cách khắt khe. Đơn cử như: Trung
Quốc liên tiếp thực hiện nghiêm các quy định, siết chặt nhập khẩu nông sản. Thời
gian tới, các DN xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục đối diện với khó khăn về xu hướng
bảo hộ, quy định tiêu chuẩn cao tại các thị trường nhập khẩu như: Các quy định kỹ
thuật khá khắt khe với mục đích là bảo vệ sức khoẻ con người, bảo vệ môi trường,
phát triển bền vững; chính sách bảo hộ cao đối với sản xuất nông nghiệp nội địa của
nhiều nước; các quy định mới về kiểm nghiệm kiểm dịch và thực hiện kiểm tra chặt
chẽ về vệ sinh an toàn thực phẩm, yêu cầu nghiêm ngặt và phức tạp về bao bì đóng
gói, ký mã hiệu, ngôn ngữ ghi trên bao bì…
Sáu là, năng lực tham gia thương mại quốc tế của DN Việt Nam còn hạn chế.
Mặc dù, có nhiều nỗ lực nhưng do khả năng về tài chính nên các DN Việt Nam
ít có điều kiện tham gia vào các hội chợ, triển lãm chuyên ngành tại các nước phát
triển châu Âu, châu Mỹ. Hơn nữa, trong quá trình khảo sát thị trường mới, việc tìm
hiểu và nắm bắt đầy đủ các quy định của các nước nhập khẩu thì không phải DN nào
của Việt Nam cũng chủ động thực hiện được khi kinh phí luôn là bài toán khó đối với
DN.
Tóm lại:
Nhằm tiếp tục thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, hoàn thành các mục tiêu đề ra
trong Chiến lược Xuất nhập khẩu hàng hóa giai đoạn 2011-2020, định hướng đến
năm 2030, trong thời gian tới, cần chú trọng một số giải pháp sau:
Một là, tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu. Việc mở rộng thị trường xuất
khẩu được coi là một chiến lược dài hạn nhằm giúp DN Việt Nam tham gia sâu vào
chuỗi giá trị khu vực, nâng cao năng lực sản xuất xuất khẩu và cạnh tranh. Đồng thời,
giúp DN Việt Nam cọ xát với thế giới bên ngoài, có điều kiện để phát triển hoạt động
sản xuất kinh doanh và khẳng định vị thế mới của mình trên trường quốc tế.
Hai là, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu sản phẩm xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ
trọng sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Trong đó, đối với nông sản xuất khẩu: Chuyển
từ xuất khẩu nguyên liệu thô sang sản phẩm đã chế biến, từ sản phẩm chế biến đơn
giản sang sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao. Đối với hàng công nghiệp xuất
khẩu: Chuyển từ sản phẩm giá trị gia tăng thấp sang sản phẩm giá trị gia tăng cao.
Ba là, nâng cao chất lượng đối với sản phẩm xuất khẩu: Đẩy nhanh việc xây
dựng và áp dụng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế, tiêu

16
chuẩn khu vực, tiêu chuẩn nước ngoài đối với hàng hóa xuất khẩu, bao gồm tiêu
chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn môi trường. Xây
dựng năng lực của tổ chức thử nghiệm, tổ chức chứng nhận, đáp ứng các tiêu chuẩn
quốc tế để phục vụ việc đánh giá sự phù hợp các tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc
tế, tiêu chuẩn khu vực, tiêu chuẩn nước ngoài và tiêu chuẩn riêng đối với hàng hóa
xuất khẩu.
Bốn là, nâng cao hiệu quả và đổi mới phương thức xúc tiến thương mại, tập
trung vào các hàng hóa có lợi thế xuất khẩu, các thị trường tiềm năng và các thị
trường ngách để mở ra các thị trường mới nhằm đa dạng hóa thị trường xuất khẩu.
Tiếp tục đàm phán, ký kết và triển khai các hiệp định thương mại song phương và đa
phương theo hướng tạo thuận lợi và nâng cao lợi thế cạnh tranh cho hàng xuất khẩu
Việt Nam trên thị trường thế giới…
Năm là, tăng cường xây dựng thương hiệu quốc gia, thương hiệu sản phẩm
xuất khẩu và thương hiệu DN Xây dựng thương hiệu quốc gia chung Việt Nam tại
các thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó, khuyến khích, hỗ trợ DN xây dựng sản phẩm
xuất khẩu đạt thương hiệu quốc gia và xây dựng thương hiệu DN. Hoàn thiện chính
sách hỗ trợ DN trong việc xác lập, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của DN ở thị trường
trong nước và tại các thị trường xuất khẩu.
Sáu là, tăng cường công tác theo dõi, nghiên cứu diễn biến chính sách và phân
tích tác động tới Việt Nam: Trong bối cảnh xu thế bảo hộ gia tăng, đặc biệt là các
diễn biến nhanh, khó lường của tranh chấp thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc,
các cơ quan quản lý, hiệp hội ngành hàng, DN cần tăng cường công tác nghiên cứu,
cập nhật các thay đổi về chính sách thương mại, quy định của các nước, đặc biệt tại
các thị trường xuất khẩu lớn; phân tích tác động của các thay đổi này tới sản xuất,
xuất khẩu của Việt Nam để có sự điều chỉnh, ứng phó thích hợp.
Đẩy mạnh công tác cảnh báo sớm để có biện pháp cần thiết, hạn chế thiệt hại
từ các vụ kiện phòng vệ thương mại của các nước nhập khẩu. Phổ biến, tư vấn, đào
tạo DN sản xuất xuất khẩu về áp dụng tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa của các thị
trường nước ngoài. Khuyến khích, hỗ trợ DN phát triển các sản phẩm xuất khẩu đạt
giải thưởng chất lượng quốc gia và giải thưởng chất lượng quốc tế…  
Bài tập 4: Trình bày và so sánh những tiêu chí đánh giá về nghèo đói của Việt
Nam và trên thế giới. Đánh giá những thành tựu về giảm nghèo của Việt Nam trong
thời gian qua?
a. Trình bày và so sánh những tiêu chí đánh giá về nghèo đói của Việt Nam
so với thế giới?
Sau hơn 30 năm đổi mới, từ một nước thiếu gạo do hậu quả chiến tranh phải
nhập khẩu, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới.
Trong ba thập kỷ qua, xoá đói giảm nghèo luôn là lĩnh vực đạt được nhiều
thành công ấn tượng trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam. Cùng với phát
triển kinh tế cao là hàng loạt các chính sách giảm nghèo được triển khai đồng bộ ở tất
cả các cấp, với nguồn kinh phí huy động từ Chính phủ, cộng đồng và các tổ chức xã

17
hội, quốc tế đã cải thiện đáng kể diện mạo nghèo đói ở tất cả các vùng, miền trong cả
nước.
Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, thì trong hai năm 2016 và 2017,
tỷ lệ nghèo bình quân của cả nước đã giảm 1,8%, cao hơn chỉ tiêu Quốc hội đề ra từ
1-1,5%. Năm 2018, tốc độ giảm nghèo của Việt Nam được kiểm soát, đặc biệt, đời
sống người dân được ổn định, cơ sở hạ tầng tại vùng sâu, vùng xa đã được cải thiện.
Thành tựu giảm nghèo đã góp phần trong việc phát triển bền vững của đất nước. Năm
2019, tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam giảm xuống còn 3,75%, trong đó tỷ lệ hộ nghèo ở
các huyện nghèo giảm còn 27,85%. Dự kiến, đến cuối năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo cả
nước giảm còn 2,75%, tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm còn 24%.
Giảm nghèo đa chiều để phát triển bền vững
Năm 2015, Chính phủ Việt Nam đã ban hành chuẩn nghèo đa chiều áp dụng
cho giai đoạn 2016-2020, đánh dấu bước quan trọng trong quá trình chuyển đổi của
Việt Nam từ đo lường nghèo theo thu nhập sang đo lường đa chiều. Theo đó, xác
định chuẩn nghèo mới thay thế cho chuẩn nghèo cũ với các tiêu chí thoát nghèo cao
hơn. Chuẩn nghèo xác định theo 10 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã
hội cơ bản gồm: Y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin.
Những chỉ tiêu này xác định mục tiêu giảm nghèo một cách bền vững bởi nguy
cơ đói nghèo, tái đói nghèo đều có thể xảy ra trong những biến cố của môi trường
thiên nhiên, của quá trình hội nhập và phát triển.
Việt Nam đã trở thành một trong số những nước đi đầu ở khu vực châu Á -
Thái Bình Dương trong áp dụng phương pháp đo lường nghèo đa chiều để giảm
nghèo ở tất cả các khía cạnh. Trong Kế hoạch phát triển Kinh tế Xã hội (2016-2020),
Việt Nam đã đặt mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo đa chiều bình quân cả nước là 1%-
1,5%/năm, và riêng các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn giảm 4%/năm.
Việc sử dụng chuẩn nghèo quốc gia không những cần thiết cho việc xây dựng
các chính sách, chương trình giảm nghèo và cho công tác giám sát nghèo ở Việt Nam
mà còn giúp Việt Nam theo dõi tiến độ trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển
bền vững của Liên hợp quốc (SDG).
Tăng trưởng mang tính bao trùm
Trong giai đoạn 2016-2020, Việt Nam thực hiện hàng loạt các chương trình,
chính sách nhằm hướng tới giảm nghèo đa chiều một cách bền vững. Mặc dù mới
chuyển đổi phương pháp đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều, hệ thống chính
sách giảm nghèo ở Việt Nam được đánh giá là có tính chất toàn diện, tiếp cận đa
chiều và đã bao phủ hầu hết các nhu cầu, thiếu hụt của người nghèo, gồm hệ thống
chính sách giảm nghèo chung, các chính sách giảm nghèo đặc thù.
Đặc biệt, hầu hết các chính sách trong giai đoạn 2016-2020 không phải là
chính sách mới mà đã được duy trì từ giai đoạn trước, với những điều chỉnh phù hợp.
Cùng với tăng trưởng kinh tế mang tính bao trùm, những chương trình, chính sách
này đã góp phần giúp Việt Nam giảm nghèo ấn tượng.

18
Tạo việc làm có năng suất nhằm tăng thu nhập bền vững cho mọi người lao
động; mở rộng diện bao phủ hướng tới phổ cập hóa các dịch vụ xã hội cơ bản; củng
cố hệ thống an sinh xã hội cho các nhóm yếu thế để đảm bảo không có ai bị bỏ lại
phía sau; lấy sự khác biệt của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội và địa lý giữa các
nhóm dân tộc thiểu số làm trọng tâm để nghiên cứu, đề xuất chính sách phù hợp, hiệu
quả.
Những chỉ tiêu này xác định mục tiêu giảm nghèo một cách bền vững bởi nguy
cơ đói nghèo, tái đói nghèo đều có thể xảy ra trong những biến cố của môi trường
thiên nhiên, của quá trình hội nhập và phát triển. Việc sử dụng chuẩn nghèo quốc gia
không những là cần thiết cho việc xây dựng các chính sách, chương trình giảm nghèo
và cho công tác giám sát nghèo ở Việt Nam mà còn giúp Việt Nam theo dõi tiến độ
trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc (SDG).
Việt Nam đã trở thành một những nước đi đầu ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương trong việc áp dụng phương pháp đo lường nghèo đa chiều để giảm nghèo ở tất
cả các chiều cạnh. 
b. Thành tựu giảm nghèo của Việt Nam trong thời gian qua:
Việt Nam đã hoàn tất mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ.
Thực tế, việc xóa đói, giảm nghèo là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục của mọi
quốc gia, mọi dân tộc, cho đến mọi cá nhân trên thế giới.
Trong vòng 1 thập niên, tỷ lệ nghèo tính trên chi tiêu đã giảm từ 58% năm
1993 xuống còn 19,5% năm 2004, giúp đưa 20 triệu người thoát nghèo. Giai đoạn
2011-2015, tỷ lệ nghèo cũng giảm từ 14,2% năm 2010 còn 9,8% năm 2013. Việt
Nam đã hoàn thành Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ như: xóa đói giảm nghèo cùng
cực; đạt phổ cập giáo dục tiểu học; thúc đẩy bình đẳng giới và đạt nhiều tiến bộ trong
các chỉ tiêu về y tế như giảm tỷ số tử vong mẹ và tỷ suất tử vong trẻ em; đạt mục tiêu
về kiểm soát sốt rét và bệnh lao cũng như đẩy lùi tỷ lệ lây lan HIV/AIDS…
Những thành tựu đầy ấn tượng và thuyết phục của Việt Nam trong việc
xóa đói giảm nghèo đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.
Từ những chủ trương, chính sách lấy con người làm trung tâm phát triển mà
Việt Nam kiên trì theo đuổi với quyết tâm và nỗ lực cao độ đã mang tới “trái ngọt”
khi cuộc sống của người dân không ngừng được cải thiện. Việt Nam là một trong
những quốc gia trên thế giới có tốc độ xóa đói giảm nghèo, gia tăng các chỉ số phát
triển con người nhanh nhất thế giới.
Ngay từ năm 2006, Việt Nam đã tuyên bố hoàn thành Mục tiêu phát triển
Thiên niên kỷ (MDGs) về xóa nghèo, về đích trước 10 năm so với thời hạn mà Liên
hợp quốc đề ra (năm 2015). Tỷ lệ nghèo về thu nhập ở nước ta đã giảm nhanh trong
suốt giai đoạn từ năm 1998-2016. Tỷ lệ nghèo giảm từ 7% năm 2015 xuống 5,2%
năm 2016. Tỷ lệ nghèo đa chiều giảm từ 9,88% năm 2015 xuống còn 9,2% năm 2016
và 7,69% năm 2017.
Thành tựu xóa đói, giảm nghèo đã tạo thêm cơ sở vững chắc cho Việt Nam bảo
đảm các quyền của người dân. Các chính sách an sinh xã hội đã được triển khai trên

19
toàn quốc và thu được một số kết quả khả quan. Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế
tiếp tục tăng từ 77% (năm 2015) lên 86,4% (năm 2017) tương đương với 78,2 triệu
người.
Tỷ lệ người nghèo và cận nghèo tham gia bảo hiểm y tế đạt 77% năm 2016. Số
lượng đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng và cấp thẻ bảo hiểm y tế không
ngừng tăng từ 2.506.705 người năm 2013 lên 2.839.568 (năm 2017) trong đó có
42.434 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, 1.617.367 người cao tuổi, 1.006.923
người khuyết tật, và 172.844 đối tượng khác, trong đó có người nhiễm HIV/AIDS
thuộc hộ nghèo, người đơn thân nuôi con thuộc hộ gia đình nghèo.
Trong năm 2019, sẽ tiếp tục phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo cả nước bình quân 1
- 1,5%/năm. Riêng các huyện nghèo, xã nghèo giảm 4%/năm. Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc
thiểu số giảm 3% đến 4% theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016-2020.
Cùng với đó, cần thực hiện cải thiện sinh kế và nâng cao chất lượng cuộc sống của
người nghèo, bảo đảm thu nhập đầu người của hộ nghèo cả nước cuối năm 2020 tăng
lên 1,5 lần so với cuối năm 2015. Riêng thu nhập của hộ nghèo ở các huyện nghèo,
xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn, hộ nghèo dân tộc thiểu số tăng gấp hai lần.
Những nỗ lực của Việt Nam sẽ tiếp tục với việc thực hiện cải thiện sinh kế và
nâng cao chất lượng cuộc sống của người nghèo, bảo đảm thu nhập đầu người của hộ
nghèo cả nước cuối năm 2020 tăng lên 1,5 lần so với cuối năm 2015. Riêng thu nhập
của hộ nghèo ở các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn, hộ nghèo
dân tộc thiểu số tăng gấp hai lần.
Công cuộc xóa đói, giảm nghèo bền vững của Việt Nam có sự tham gia của cả
hệ thống chính trị và toàn xã hội như thể hiện trong Phong trào thi đua “Cả nước
chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”. “Không để ai bị bỏ lại
phía sau” - đó luôn chính là phương châm hành động, quyết tâm của cả hệ thống
chính trị Việt Nam, để mọi địa phương, mọi người dân Việt Nam đều được hưởng
thành quả của phát triển kinh tế.
Mặc dù các chương trình, các chính sách xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam
được thực hiện rất hiệu quả, được thế giới ghi nhận nhưng các chương trình, chính
sách ấy vẫn liên tục được đổi mới để nâng cao hiệu quả. Ngày 19/11/2015, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định 59/2015/QĐ-TTg về chuẩn nghèo tiếp cận đa
chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020.
Theo đó, xác định chuẩn nghèo mới thay thế cho chuẩn nghèo cũ với các tiêu
chí thoát nghèo cao hơn. Cùng với đó đã xác định rõ 10 chỉ số đo lường mức độ thiếu
hụt các dịch vụ xã hội cơ bản. Từ 10 chỉ số này để xác định mức độ thiếu hụt tiếp cập
đối với 5 dịch vụ xã hội cơ bản bao gồm: Y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh,
thông tin.
Việc ban hành mức chuẩn nghèo mới và xác định những căn cứ để đo lường;
giám sát mức độ thiếu hụt về thu nhập và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của
người dân chính là cơ sở để thực hiện các chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội
bền vững, giảm nghèo đa chiều, cũng như hoạch định các chính sách kinh tế-xã hội
khác trong giai đoạn 2016-2020.

20
Các chương trình như: Xây dựng nông thôn mới, cho các hộ nghèo vay vốn để
có sinh kế... đã giúp phát triển hạ tầng ở các vùng quê mà người dân cũng từng bước
có sinh kế bền vững.
Một điều thú vị là tại Việt Nam, mạng viễn thông 4G, 3G được đưa tới tận
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Có nghĩa là Internet tốc độ cao có mặt ở khắp
nơi tại Việt Nam với giá rẻ, khiến mọi người dân đều có thể tiếp cận, sử dụng.
“Không để ai bị bỏ lại phía sau” thực chất luôn là phương châm hành động,
luôn là quyết tâm của cả hệ thống chính trị Việt Nam, để mọi địa phương, mọi người
dân Việt Nam đều được hưởng thành quả của phát triển kinh tế.

21

You might also like