You are on page 1of 18

CHƯƠNG 5:

CƠ CẤU XÃ HỘI – GIAI CẤP VÀ LIÊN MINH GIAI CẤP, TẦNG LỚP TRONG THỜI KÌ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I. Cơ cấu xã hội – giai cấp trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.1. Khái niệm và vị trí của cơ cấu xã hội – giai cấp trong cơ cấu xã hội
1.1.1. Cơ cấu
- Khái niệm cơ cấu và so sánh cơ cấu với cấu trúc
Cơ cấu Cấu trúc

- Biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ và mối - Sự sắp xếp và tổ chức các yếu tố bên trong
quan hệ giữa các bộ phận hợp thành hệ thống của một vật hay hệ thống nào đó
- Tập hợp những mối quan hệ liên kết hữu - Vật liệu cấu trúc bao gồm do con người chế
cơ, các yếu tố khác nhau của một hệ thống tạo ra như tòa nhà hay máy móc và do tự
nhất định. nhiên như sinh vật, các chất khoáng và hóa
chất.
- Cơ cấu nói lên điều gì của sự vật?
Trong Triết học có nói: Thế giới được cấu tạo từ các dạng vật chất. Sự khác nhau, sự phong
phú đa dạng của các dạng vật chất do cách sắp xếp cấu tạo khác nhau. Ví dụ về kim cương và
than chì đều được cấu tạo từ cacbon nhưng cách liên kết các nguyên tử cacbon khác nhau thì
tạo ra các dạng vật chất khác nhau. Vậy nên cơ cấu rất quan trọng. Với kim cương, 1 nguyên
tử cacbon liên kết với 4 nguyên tử cacbon khác tạo ra khối lập phương vững chắc, chặt chẽ với
nhau nên kim cương rất rắn và cứng. Nhưng với than chì, 1 nguyên tử cacbon liên kết với 3
nguyên tố cacbon còn lại nhưng không liên kết theo dạng hình lập phương mà lại liên kết theo
hình chuỗi, chạy trên một mặt phẳng và xếp lớp lên nhau, vì thế mức độ liên kết của nó vô
cùng lỏng lẻo, không vững chắc như khối lập phương. Chỉ vì cách liên kết như vậy, kim cương
có giá trị hơn than chì rất nhiều. Liên hệ với cơ cấu trong chủ nghĩa xã hội khoa học, xã hội
được cấu tạo bởi rất nhiều giai cấp, tầng lớp. Mỗi giai cấp, tầng lớp đều có vai trò khác nhau
nhưng chung một mục đích cuối cùng là cùng nhau hợp tác để phát triển xã hội. Nếu các giai
cấp này có cơ cấu tốt, vững mạnh thì sẽ mang lại được nhiều lợi ích về kinh tế, chính trị,... cho
xã hội. Vì vậy cho nên, trong Chủ nghĩa xã hội khoa học, phải nghiên cứu về cơ cấu giai cấp.
1.1.2. Cơ cấu xã hội
- Cơ cấu xã hội là những cộng đồng người cùng toàn bộ những mối quan hệ xã hội do sự
tác động lẫn nhau của các cộng đồng ấy tạo nên. Ở triết học khi nói đến bản chất con người
C.Mac nói bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ khác nhau và chính các mối quan
hệ của con người tạo thành cộng đồng và bản thân ta là thành viên của nhiều cộng đồng khác
nhau.
- Cơ cấu xã hội có nhiều loại như :
+ Cơ cấu xã hội - dân cư
+ Cơ cấu xã hội - nghề nghiệp
+ Cơ cấu xã hội - giai cấp
+ Cơ cấu xã hội - dân tộc
+ Cơ cấu xã hội - tôn giáo
1.1.3. Cơ cấu xã hội giai cấp
- Cơ cấu xã hội giai cấp là hệ thống các giai cấp, tầng lớp xã hội tồn tại khách quan trong
một chế độ xã hội nhất định, thông qua những mối quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất, về tổ
chức quản lí quá trình sản xuất, về địa vị chính trị - xã hội.. giữa các giai cấp và tầng lớp đó.

- Cơ cấu xã hội trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội: là tổng thể các giai cấp, tầng
lớp, các nhóm xã hội có mối quan hệ hợp tác và gắn bó chặt chẽ với nhau. Yếu tố quyết định
mối quan hệ của họ đó là cùng chung sức cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Các giai cấp, tầng lớp, các nhóm xã hội cơ bản trong cơ cấu xã
hội - giai cấp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân, tầng lớp trí thức, tầng lớp doanh nhân, tầng lớp tiểu chủ, tầng lớp thanh niên, phụ
nữ,…Mỗi giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội này có những vị trí và vai trò xác định song
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản – đội tiền phong của giai cấp công nhân cùng hợp lực, tạo
sức mạnh tổng hợp để thực hiện những mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ của thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, tiến tới xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản với tư
cách là một hình thái kinh tế - xã hội mới thay thế hình thái kinh tế - xã hội đã lỗi thời.
1.1.4. Vị trí của cơ cấu xã hội giai cấp
- Trong hệ thống xã hội, mỗi loại hình cơ cấu xã hội đều có vị trí xác định và phụ thuộc
lẫn nhau. Tuy nhiên, những vị trí của các loại cơ cấu xã hội này không ngang nhau, trong đó
cơ cấu xã hội- giai cấp là loại hình cơ bản, có vị trí quyết định nhất, chi phối các loại hình cơ
cấu xã hội khác bởi những lý do:
+ Cơ cấu xã hội- giai cấp liên quan đến các đảng phái chính trị và nhà nước; đến quyền
sở hữu tư liệu sản xuất, quản lí tổ chức lao động,… trong một hệ thống sản xuất nhất định.
Trong khi đó các loại hình cơ cấu xã hội khác không có những mối quan hệ quan trọng và
quyết định này.
+ Sự biến đổi của cơ cấu xã hội- giai cấp tất yếu sẽ ảnh hưởng đế sự biến đổi của cơ cấu
xã hội khác và tác động đến sự biến đổi của toàn bộ cơ cấu xã hội. Những đặc trưng và xu
hướng biến đổi ấy sẽ tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, các hoạt động cũng
như là thành viên trong xã hội đó. Vì vậy, cơ cấu xã hội - giai cấp là căn cứ cơ bản để từ đó
xây dựng chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi xã hội trong từng giai đoạn
lịch sử cụ thể.
- Mặc dù cơ cấu xã hội- giai cấp giữ vị trí quan trọng, song không vì thế mà tuyệt đối hóa
nó, xem nhẹ các loại hình cơ cấu xã hội khác.
1.2. Sự biến đổi có tính quy luật của cơ cấu xã hội - giai cấp trong thời kì quá độ lên
CNXH
- Cơ cấu xã hội – giai cấp là một hình thức vật chất vì thế không tồn tại một cách cố định,
biệt lập mà luôn luôn có trạng thái vận động, phát triển, biến đổi cùng với sự biến đổi của đất
nước, của một quốc gia, dân tộc.
- Có 3 sự biến đổi
+ Một là, cơ cấu xã hội- giai cấp biến đổi gắn liền và bị quy định bởi cơ cấu kinh tế của
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Cơ cấu kinh tế là yếu tố quan trọng, tác động trực tiếp nhất đến sự biến đổi của cơ cấu xã
hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế trong thời kì quá độ tuy vận động theo cơ chế thị trường, song có
sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội.
Ở những nước bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm thấp, cơ
cấu kinh tế sẽ có những biến đổi đa dạng: từ cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và công
nghiệp sơ khai chuyển sang cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ;
chuyển từ cơ cấu vùng lãnh thổ còn chưa định hình sang hình thành các vùng, trung tâm kinh
tế lớn; chuyển từ cơ cấu lực lượng sản xuất hiện đại nhưng không cân đối, trình độ công nghệ
lạc hậu sang phát triển lực lượng sản xuất áp dụng trình độ công nghệ cao, tiên tiến.
Xu hướng biến đổi này diễn ra rất khác nhau ở mỗi gia khi bắt đầu thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội do có sự khác nhau về trình độ phát triển kinh tế, hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ
thể của mỗi nước.
Ví dụ: Có 3 loại hình cơ cấu kinh tế cơ bản:
+ Cơ cấu ngành kinh tế
+ Cơ cấu thành phần kinh tế
+ Cơ cấu vùng kinh tế
Cả 3 loại hình kinh tế này đều tác động trực tiếp đến sự biến đổi của cơ cấu xã hội giai cấp.
* Cơ cấu ngành kinh tế tác động trực tiếp tới sự biến đổi của cơ cấu xã hội giai cấp: Với những
đất nước kinh tế thiên về nông nghiệp, giai cấp nông dân sẽ chiếm vị trí đông đảo trong xã hội.
Với những quốc gia có cơ cấu ngành kinh tế công nghiệp và dịch vụ là chủ đạo, giai cấp công
nhân là giai cấp chiếm đa số. Ở các nước tư bản: Mĩ, Nhật Bản, Tây Âu,... là những nước công
nghiệp, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của họ được thực hiện từ rất sớm. Do đó, ở các
nước này, trên 90% lao động của xã hội là công nhân. Ở Việt Nam, cơ cấu kinh tế chưa có sự
chuyển biến mạnh mẽ, kinh tế nông nghiệp chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu nghành kinh tế
của nước ta, vì thế nông dân chiếm tỉ lệ đông đảo nhất trong xã hội, trong lực lượng lao động.
Khi bắt đầu bước vào công nghiệp hóa hiện đại hóa, những cơ sở kinh tế công nghiệp mới
được xác nhận số lượng công nhân rất ít chỉ chiếm từ 10 đến 15% lực lượng lao động xã hội.
Nhưng cùng với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, số lượng công nhân bắt đầu
có sự gia tăng, đồng nghĩa với nông dân giảm => Cơ cấu ngành kinh tế tác động trực tiếp đến
cơ cấu xã hội giai cấp
* Cơ cấu thành phần kinh tế không chỉ tác động đến cơ cấu giai cấp mà còn tác động tới cơ cấu
từng giai cấp. Ở Việt Nam, trước thời kỳ đổi mới, có hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể => Trong giai cấp công nhân việt nam có 1 bộ phận là công nhân nhà
nước. Sau thời kì đổi mới, chúng ta bắt đầu thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân => Trong cơ cấu giai cấp công nhân có sự thay đổi rất
nhanh chóng. Nếu trước đổi mới 100% công nhân là công nhân trong doanh nghiệp nhà nước
thì hiện nay công nhân trong doanh nghiệp nhà nước chỉ còn chiếm chưa đến 90%, trên 60% là
các công nhân trong doanh nghiệp tư nhân => Sự thay đổi trong thành phần kinh tế cũng dẫn
đến sự thay đổi trong cơ cấu giai cấp xã hội.
* Cơ cấu vùng miền tác rất lớn đến cơ cấu xã hội giai cấp ở góc độ tập trung quy mô. Cách đây
khoảng tầm 20 năm thì Bắc Ninh, Bắc Giang chưa phải là những khu công nghiệp lớn nhưng
gần đây công ty Samsung bắt đầu phát triển mạnh ở Bắc Ninh, Bắc Giang, và cũng có rất nhiều
công ty có vốn đầu tư nước ngoài ở hai tỉnh này => Có sự di chuyển rất lớn lực lượng lao động
từ các nơi khác trở về Bắc Ninh Bắc Giang. Có hai sự biến đổi ở đây: Một là những người
nông dân trở thành những người công nhân làm việc cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, Hai là quy mô lao động bắt đầu có sự dịch chuyển từ những vùng đồng bằng Bắc bộ di
chuyển về Bắc Ninh, Bắc Giang. Khi lao động tập trung lớn ở Bắc Ninh, Bắc Giang thì cũng
tạo điều kiện thuận lợi nhất định để phát triển kinh tế xã hội ở hai tỉnh này. Tuy nhiên, song
song với quá trình tạo điều kiện thuận lợi để phát triển ở Bắc Ninh, Bắc Giang cũng đặt ra vấn
đề rất lớn ở hai tỉnh này đó là lực lượng lao động bị sa thải ở tuổi 40 ở các công ty có vốn đầu
tư nước ngoài, đặc biệt là những công ty kinh doanh trong lĩnh vực điện tử => Tạo ra gánh
nặng về lao động việc làm rất lớn đối với hai tỉnh này. Sự thay đổi về cơ cấu vùng kinh tế dẫn
đến sự thay đổi về quy mô sự dy chuyển về cơ cấu xã hội giai cấp và cũng tác động rất lớn đến
tình hình phát triển kinh tế xã hội ở những vùng kinh tế lớn.
+ Hai là, cơ cấu xã hội- giai cấp biến đổi phức tạp, đa dạng, làm xuất hiện các tầng lớp xã
hội mới.
Theo chủ nghĩa Mác- Leenin thì hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa đã được
“thai nghén” từ trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa, do vậy giai đoạn đầu sẽ còn những “dấu
vết của xã hội cũ”. Bên cạnh đó, nó cũng xuất hiện những yếu tố của xã hội mới do vậy sẽ có
sự tồn tại đan xen giữa yếu tố cũ và yếu tố mới. Đây là vấn đề mang tính quy luật, được thể
hiện rõ nét trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tồn tại kinh tế nhiều thành phần chính điều đó đã dẫn đến sự biến đổi phức tạp, đa dạng
trong cơ cấu xã hội- giai cấp mà biểu hiện của nó là trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
còn tồn tại các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau. Xuất hiện thêm tầng lớp xã hội mới như:
tầng lớp doanh nhân, tiểu chủ, tầng lớp người giàu có và thượng lưu trong xã hội…
Ví dụ: Những đất nước quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, trong thời kỳ
quá độ có sự biến động rất mạnh về cơ cấu xã hội giai cấp. Giai cấp tư sản sẽ dần dần mất đi
thông qua quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa. Nó cũng sẽ làm nảy sinh những giai cấp tầng lớp
mới. Ở những nước đang phát triển như Việt Nam, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bằng hình thức
gián tiếp, khi chúng ta thừa nhận thành phần kinh tế tư nhân, thì lúc đó ở Việt Nam bắt đầu
xuất hiện một tầm lớp mới mà trước đây không có đó chính là tầng lớp doanh nhân. Vì thế, sự
biến đổi của cơ cấu giai cấp trong thời kỳ quá độ xã hội sẽ diễn ra rất phức tạp, thậm chí tồn tại
những giai cấp tầng lớp mà lợi ích khác biệt nhau, ví dụ như doanh nhân và công nhân, có thể
làm mất đi một giai cấp tầng lớp nào đó hoặc làm xuất hiện một giai cấp tầng lớp nào đó và
đến cuối thời kỳ quá độ thì các tầng lớp trong giai cấp xã hội mới trở nên ổn định và đến chủ
nghĩa xã hội nó sẽ ổn định thật sự.
+ Ba là, cơ cấu xã hội- giai cấp biến đổi trong mối quan hệ vừa đấu tranh, vừa liên minh,
từng bước xóa bỏ bất bình đẳng xã hội dẫn đến sự xích lại gần nhau.
Trong thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu xã hội- giai cấp
biến đổi và phát triển trong mối quan hệ vừa có mấu thuẫn, đấu tranh, vừa có mối quan hệ liên
minh với nhau, xích lại gần nhau giữa các giai cấp, tầng lớp cơ bản trong xã hội, đặc biệt là
giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức.
Mức độ liên minh sẽ tùy thuộc vào điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước trong thời kì
quá độ. Sự đấu tranh trong thời kì này nhằm xóa bỏ tình trạng bóc lột, bất bình đẳng trong giai
cấp xã hội. Đây là một quá trình lâu dài thông qua những cải biến cách mạng toàn diện của
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là xu hướng tất yếu và là biện chứng của sự vận động,
phát triển cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kì này.
Trong cơ cấu xã hội- giai cấp ấy, giai cấp công nhân là lực lượng tiêu biểu cho phương
thức sản xuất mới giữ vai trò chủ đạo, tiên phong trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới. Vai trò chủ đạo của giai cấp công nhân còn
được thể hiện ở sự phát triển mối quan hệ liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội
ngũ tri thức ngày càng giữ vị trí nền tảng chính trị- xã hội và qua đó tạo nên sự thống nhất của
cơ cấu xã hội- giai cấp trong suốt thời kì quá độ xã hội chủ nghĩa
Ví dụ: Sự khác biệt trong cơ cấu giai cấp thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với cơ cấu giai
cấp của các chế độ trước đó: Các chế độ xã hội trước đó thường tồn tại hai hệ thống giai cấp
đối lập nhau, lợi ích mâu thuẫn với nhau, một bên thống trị với một bên bị trị, một bên bóc lột
với một bên bị bóc lột. Nhưng các giai cấp tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
chỉ là sự khác biệt nhất định về lợi ích giai cấp, nên sẽ có đấu tranh, tuy nhiên sự đấu tranh
giữa các giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội khác hoàn toàn với đấu tranh giai
cấp trong các chế độ xã hội trước đó. Đấu tranh giai cấp trong các chế độ xã hội trước đó là
đấu tranh một mất một còn, còn đấu tranh chống các giai cấp và tầng lớp của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội sẽ diễn ra theo xu hướng đấu tranh để loại bỏ những cái xấu, loại bỏ
những hạn chế để lợi ích của các giai cấp và tầng lớp xích lại gần nhau hơn, làm cho ranh giới
và khoảng cách càng ngày càng thu hẹp lại. Khi ranh giới và khoảng cách đó không còn nữa
thì sẽ không còn xung đột và không còn giai cấp nữa.
II. Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
2.1. Dưới góc độ chính trị
2.1.1. Tính tất yếu khách quan của liên minh giai cấp, tầng lớp trên lĩnh vực chính trị
- Trong một chế độ xã hội nhất định, chính cuộc đấu tranh giai cấp của các giai cấp có lợi
ích đối lập nhau đặt ra nhu cầu tất yếu khách quan mỗi giai cấp đúng ở vị trí trung tâm đều
phải tìm cách liên minh với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác có những lợi ích phù hợp với
mình để tập hợp lực lượng thực hiện những nhu cầu và lợi ích chung. Đó là quy luật mang tính
phổ biến và là động lực lớn cho sự phát triển của các xã hội có giai cấp.
- Liên minh giai cấp, tầng lớp là nguyên tắc cao nhất của chuyên chính vô sản.
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân phải liên minh với giai cấp
nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động để tạo sức mạnh tổng hợp đảm bảo cho thắng lợi
của cuộc cách mạng XHCN cả trong giai đoạn giành chính quyền và giai đoạn xây dựng xã hội
mới.
- Thông qua liên minh này, tập hợp được lực lượng đông đảo phấn đấu cho mục tiêu xây
dựng thành công CNXH, là điều kiện để GCCN giữ vững vai trò lãnh đạo XH.
- Tính tất yếu của liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp tri thức trong
thời kỳ quá độ lên CNXH:
+ Mục tiêu của cách mạng XHCN: giải phóng giai cấp công nhân, nông dân và
tầng lớp tri thức
+ Lợi ích của GCCN, nông dân và tri thức, hướng tới thống nhất
2.1.2. Nội dung của liên minh giai cấp, tầng lớp trên lĩnh vực chính trị
- Liên minh về chính trị giữa các giai tầng này trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền
là nhằm giành lấy chính quyền về tay giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động. Trong
quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, khối liên minh công- nông – trí thức cùng nhau tham gia
vào chính quyền nhà nước từ cơ sở đến trung ương trên lập trường chính trị của giai cấp công
nhân, tạo thành sức mạnh tổng hợp cùng nhau bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và thành quả
cách mạng, làm cho nhà nước xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh.
- Liên minh này trở thành cơ sở vững chắc cho nhà nước xã hội chủ nghĩa tạo thành nòng
cốt cho mặt trận thống nhất, thực hiện khối liên minh rộng rãi với các tầng lớp lao động khác.
- Dẫn chứng:
C. Mác khẳng định: “Đứng trước giai cấp tư sản phản cách mạng đã liên minh lại thì dĩ nhiên
là những phần tử đã được cách mạng hóa của giai cấp tiểu tư sản và của nông dân, phải liên
minh với người đại biểu chủ yếu cho những lợi ích cách mạng, tức là giai cấp vô sản cách
mạng”. Vì, “... người nông dân thấy rằng giai cấp vô sản thành thị, giai cấp có sứ mệnh lật đổ
chế độ tư sản là người bạn đồng minh, người lãnh đạo tự nhiên của mình”.
2.1.3. Sự khác biệt trong khối liên minh của giai cấp công nhân so với khối liên minh giai
cấp khác trước đây trong lịch sử
*So sánh với giai cấp Địa chủ phong kiến và giai cấp tư sản
Khối liên minh giai cấp công nhân Địa chủ phong kiến Tư sản
Công nhân bắt buộc phải liên Để chuyển từ chiếm hữ Giai cấp tư sản muốn lật đổ
minh với nông dân thì mới có thể nô lệ sang chế độ phong giai cấp địa chủ phong kiến
giành được thắng lợi trong đấu tranh kiến, vai trò cách mạng phải liên minh với giai cấp
giành được chính quyền. Đây là thuộc về giai cấp địa chủ công nhân và nông dân.
điều mà Mác – Ăngghen đã rút ra phong kiến. Địa chủ
sau cuộc nội chiến ở Pháp. Khi phong kiến phải liên
phong trào đấu tranh giai cấp ở minh với nô lệ để đấu
Pháp diễn ra mạnh mẽ, rất nhiều tranh chống lại chủ nô
phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân đứng lên chống lại giai
cấp tư sản nhưng đều bị thất bại.
Mác và Ăngghen mới rút ra được
một kết luận rằng: “Công nhân
không liên minh với nông dân thì
cuộc cách mạng của giai cấp công
nhân chỉ là “bài ai điếu”.
Sau khi giành được chính quyền, Sau khi giai cấp nô lệ đã Sau khi giai cấp tư sản xác
“không đá đít” nông dân như địa giúp giai cấp địa chủ lập được chính quyền, nó
chủ phong kiến và tư sản đã từng phong kiến giành được lại quay lại “áp bức” công
làm. Trong quá trình công nhân sử chính quyền, nó lại quay nhân, nông dân.
dụng chính quyền để cải tạo xã hội lại “bóc lột” chính người
cũ, xây dựng xã hội mới thì công bạn đường của mình.
nhân cũng đưa nông dân và các tầng
lớp xã hội khác, lao động khác lên
địa vị làm chủ xã hội và có quyền
lực ngang bằng với công nhân.

 Đây là sự khác việt về chất trong cuộc cách mạng của giai cấp công nhân so với giai
cấp địa chủ phong kiến, so với giai cấp tư sản.
Liên minh của công nhân không Trong xã hội có phân Là khối liên minh tạm thời
phải là liên minh tạm thời mà liên chia giai cấp, liên minh
minh giữa công nhân với các tầng giai cấp là tất yêu để thực
lớp lao động khác là mối liên minh hiện những mục đích
bền vững, để hướng tới mục tiêu lâu chính trị, trong những
dài, mục tiêu cuối cùng là xóa sổ sự giai đoạn lịch sử nhất
tồn tại của các giai cấp. Muốn đi tới định, chứ không phải là
mục tiêu cuối cùng đó là xây dựng liên minh bền vững. Đây
một xã hội không giai cấp thì phải là khối liên minh tạm
liên minh với các tầng lớp lao động thời.
khác, giúp đỡ các tầng lớp lao động
khác phát triển và dần dần xóa nhòa
cái ranh giới phân biệt để lợi ích
giữa các giai cấp tầng lớp và đi đến
xóa bỏ giai cấp.

=> Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì giai cấp công
nhân phải liên minh với nông dân và các tầng lớp lao động khác để đảm bảo sức mạnh tổng
hợp cho cách mạng trong quá trình giành chính quyền và trong quá trình sử dụng chính quyền
để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Tuy nhiên, trong khối liên minh này thì phải đảm
bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân.
(Đảm bảo vai trò của giai cấp công nhân vì trong số các giai cấp tầng lớp này thì giai cấp công
nhân là giai cấp tiên tiến nhất, đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất, có hệ tư tưởng
chính trị rõ ràng, đó là chủ nghĩa Mác- Lênin)
2.2. Dưới góc độ kinh tế
2.2.1. Tính tất yếu khách quan của liên minh giai cấp, tầng lớp trên lĩnh vực kinh tế
- Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội – tức là cách mạng đã chuyển sang giai đoạn
mới, cùng với tất yếu chính trị – xã hội, tính tất yếu kinh tế của liên minh lại nổi lên với tư
cách là nhân tố quyết định nhất cho sự thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội. Liên minh
này được hình thành xuất phát từ yêu cầu khách quan của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, và chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền sản xuất nhỏ nông nghiệp là chính sang
sản xuất hàng hóa lớn, phát triển công nghiệp, dịch vụ và khoa học – công nghệ…, xây dựng
nền tảng vật chất – kỹ thuật cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. Mỗi lĩnh vực của nền kinh tế chỉ
phát triển được khi gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ cho nhau để cùng hướng tới phục vụ phát triển sản
xuất và tạo thành nền cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Chính những biến đổi trong cơ cấu
kinh tế này đã và đang từng bước tăng cường khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp xã hội khác.
- Việc hình thành khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức cũng xuất phát từ chính nhu cầu và lợi ích kinh tế của họ nên các chủ thể của các lĩnh vực
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, khoa học và công nghệ… tất yếu phải gắn bó, liên minh
chặt chẽ với nhau để cùng thực hiện những nhu cầu và lợi ích kinh tế chung của mình. Song
quan hệ lợi ích giữa công nhân, nông dân và trí thức cũng có những biểu hiện mới, phức tạp:
bên cạnh sự thống nhất về lợi ích kinh tế, xuất hiện những mâu thuẫn lợi ích ở những mức độ
khác nhau. Điều này có ảnh hưởng nhất định đến sự đoàn kết, thống nhất của khối liên minh.
Ví dụ: Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đòi
hỏi phải có sự gần bó chặt chẽ giữa các ngành kinh tế với nhau. Để thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, đưa người nông dân phát triển lên một trình
độ mới, có trí thức, có khoa học có công nghệ, có thu nhập cao thì buộc phải sử dụng máy
móc, phải sử dụng khoa học kĩ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp. Muốn sử dụng máy móc khoa
học kĩ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp thì phải liên minh với công nhân, trí thức thì mới có
thể phát triển được nông nghiệp. Hoặc công nhân muốn đảm bảo được công ăn việc làm ổn
định thì phải đảm bảo được nguồn tư liệu sản xuất đầu vào, mà nguồn tư liệu sản xuất đầu vào
đó được cung cấp bởi nông nghiệp. Vì thế bản thân các ngành kinh tế trong một nền kinh tế
cũng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nông - công nghiệp và dịch vụ là những ngành kinh
tế có mối quan hệ rất chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Vậy nên chính sự gắn kết giữa các
ngành kinh tế cũng đòi hỏi phải có sự gắn kết giữa các giai cấp tầng lớp trong xã hội. Có điều
phải lưu ý là trong quá trình liên minh giữa các giai cấp và tầng lớp, phải kịp thời phát hiện và
giải quyết những mâu thuẫn có thể xảy ra để tạo ra sự đồng thuận tốt nhất, để thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Tính tất yếu của liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức trong thời
kỳ quá độ lên CNXH:

+ Mục tiêu: phát hiện ra mâu thuẫn và có giải pháp kịp thời, phù hợp để giải quyết mâu
thuẫn nhằm tạo sự đồng thuận và tạo động lực thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, đồng thời tăng cường khối liên minh ngày càng bền chặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân.
2.2.2. Nội dung của liên minh giai cấp, tầng lớp trên lĩnh vực kinh tế
- Sau khi giành được chính quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công
nhân cùng các giai cấp tầng lớp xã hội khác trước hết phải đẩy mạnh, đẩy nhanh sự phát triển
lượng lực lượng sản xuất, khi lực lượng sản xuất phát triển thì phải xây dựng quan hệ sản xuất
mới phù hợp với lực lượng sản xuất, làm được điều đó thì sẽ xây dựng được cơ sở vật chất cho
chủ nghĩa xã hội.
- Nội dung kinh tế đóng vai trò quan trọng nhất, nó cần được thực hiện nhằm vừa thỏa
mãn các nhu cầu, lợi ích kinh tế thiết thân của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp
trí thức và các tầng lớp khác trong xã hội , đồng thời tạo cơ sở vật chất – kỹ thuật cần thiết cho
chủ nghĩa xã hội.
Ví dụ ở Việt Nam phải làm cái gì, đó là phải công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, mà trước
hết là phải công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, để xây dựng cơ sở vật chất kĩ
thuật cho chủ nghĩa xã hội.
- Nội dung kinh tế của liên minh giai cấp , tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội phải được thể hiện trong việc tạo ra quan hệ tác động lẫn nhau giữa công nghiệp - nông
nghiệp - khoa học , kỹ thuật , dịch vụ ... Quan hệ tương hỗ này chỉ được tạo lập bền vững khi
quan hệ kinh tế, lợi ích kinh tế được giải quyết thích hợp, hài hoà giữa các chủ thể lợi ích trong
khối liên minh.
Như vậy nội dung thứ 3 muốn nhấn mạnh đến sự tất yếu phải liên minh về giai cấp giữa công
nhân, nông dân, trí thức, đây là sự liên kết không thể tách rời. Vì chủ thể trong lĩnh vực công
nghiệp là giai cấp công nhân, chủ thể trong lĩnh vực nông nghiệp là giai cấp nông dân, chủ thể
trong khoa học, kĩ thuật, dịch vụ là giai cấp trí thức. Vì vậy chúng ta trước hết phải giải quyết
được bài toán hài hòa về lợi ích giữa các chủ thể .
III. Cơ cấu xã hội - giai cấp và liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
3.1. Cơ cấu xã hội - giai cấp trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Cơ cấu xã hội - giai cấp của Việt Nam ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bao gồm
những giai cấp, tầng lớp cơ bản sau:
- Giai cấp công nhân Việt Nam có vai trò quan trọng đặc biệt, là giai cấp lãnh đạo cách
mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho phương thức sản
xuất tiên tiến; giữ vị trí tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, là lực lượng đi
đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh và là lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ trung tâm là đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là trong điều
kiện khoa học – công nghệ hiện đại và cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng công
nghiệp 4.0) đang phát triển mạnh, giai cấp công nhân - lực lượng đi đầu của quá trình này sẽ có
những biến đổi nhanh cả về số lượng, chất lượng và về cơ cấu. Sự đa dạng của giai cấp công
nhân không chỉ phát triển theo thành phần kinh tế mà còn phát triển theo ngành nghề. Bộ phận
“công nhân tri thức" sẽ ngày càng lớn mạnh. Trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng nghề
nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp của công nhân cũng ngày càng
được nâng lên nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh
tế tri thức và từng bước đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0. Bên cạnh đó, một bộ
phận công nhân thu nhập thấp, giác ngộ chính trị, giai cấp chưa cao và còn nhiều khó khăn về
mọi mặt vẫn tồn tại.
- Giai cấp nông dân cùng với nông nghiệp, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là lực lượng xã hội quan
trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc
phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái; là chủ thể của
quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ
và phát triển đô thị theo quy hoạch; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp...
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp nông dân cũng có sự biến đổi cả về số
lượng, chất lượng và cơ cấu giai cấp: Về số lượng và tỉ lệ trong cơ cấu xã hội giai cấp có xu
hướng giảm dần, nhưng chất lượng được nâng lên rõ rệt. Trong giai cấp nông dân những chủ
trang trại lớn sẽ xuất hiện, đồng thời vẫn còn những nông dân mất ruộng đất trở thành người
làm thuê...và sự phân hóa giàu nghèo trong nội bộ nông dân cũng ngày càng rõ. Những biến
đổi mới trong giai cấp nông dân đòi hỏi phải có chiến lược, chính sách phù hợp để phát triển
nông nghiệp, nông dân, nông thôn đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
- Đội ngũ trí thức là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức,
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; là lực lượng trong khối liên
minh. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh
của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống
chính trị.
Hiện nay, cùng với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức trong điều kiện khoa học - công nghệ và cách mạng công nghiệp lần thứ tư
(4.0) đang phát triển mạnh mẽ, vai trò của đội ngũ trí thức càng trở nên quan trọng. Vì vậy,
đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững.
- Đội ngũ doanh nhân Việt Nam đang phát triển nhanh chóng cả về số lượng và qui mô
với vai trò không ngừng tăng lên. Đây là tầng lớp xã hội được Đảng ta chủ trương xây dựng
thành một đội ngũ vững mạnh của kinh tế thị trưởng định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đội
ngũ doanh nhân có các doanh nhân với tiềm lực kinh tế lớn, có những doanh nhân vừa và nhỏ
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Đội ngũ này đang đóng góp tích cực vào việc thực
hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động và tham gia
giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo. Vì vậy, xây dựng đội ngũ doanh
nhân lớn mạnh, có năng lực, trình độ và phẩm chất, uy tín cao sẽ góp phần tích cực nâng cao
chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, phát triển nhanh, bền vững và bảo đảm độc lập, tự chủ
của nền kinh tế..
Tóm lại, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, các giai cấp, tầng lớp
biến đổi liên tục. Trong quá trình này, cần phải có những giải pháp sát thực, đồng bộ và tác
động tích cực để các giai cấp, tầng lớp có thể khẳng định đầy đủ vị trí xứng đáng và phát huy
hiệu quả vai trò của mình trong cơ cấu xã hội và trong phát triển đất nước.
Sự biến đổi cơ cấu xã hội – giai cấp vừa đảm bảo tính quy luật phổ biến ( do cơ cấu kinh
tế quy định ), vừa mang tính đặc thù của xã hội Việt Nam ( biến đổi diễn ra trong nội bộ từng
giai cấp: chuyển hóa lẫn nhau giữa các giai tầng: xuất hiện tầng lớp xã hội mới ).
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cơ cấu xã hội - giai cấp cũng vận động,
biến đổi theo đúng quy luật về sự chi phối bởi những biến đổi của cơ cấu kinh tế. Từ Đại hội
VI (1986), dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu
với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp dần chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự chuyển đổi trong cơ cấu kinh tế đã dẫn
đến những biến đổi trong cơ cấu xã hội - giai cấp với việc hình thành một cơ cấu xã hội - giai
cấp đa dạng. Sự biến đổi phức tạp, đa dạng của cơ cấu xã hội - giai cấp Việt Nam diễn ra trong
nội bộ từng giai cấp, tầng lớp cơ bản của xã hội; thậm chí có sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các
giai cấp, tầng lớp. Chính những biến đổi mới này cũng là một trong những yếu tố có tác động
trở lại làm cho nền kinh tế đất nước phát triển trở nên năng động, đa dạng hơn và trở thành
động lực to lớn, quan trọng của sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng văn minh, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong sự biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp, vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp
ngày càng được khẳng định.
3.2. Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
3.2.1. Nội dung của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam
Sau hơn 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn. Điều này có được một phần là nhờ sự liên minh giai cấp, tầng lớp trên nhiều lĩnh
vực. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc tổ chức liên minh vững mạnh có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng để thực hiện những nội dung cơ bản của liên minh.
3.2.1.1. Nội dung kinh tế của liên minh
Đây là nội dung cơ bản quyết định nhất, là cơ sở vật chất – kĩ thuật của liên minh trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nội dung này thực chất là sự hợp tác giữa các giai tầng,
đồng thời mở rộng liên kết hợp tác với các lực lượng khác, đặc biệt là đội ngũ doanh nhân... để
xây dựng nền kinh tế mới xã hội chủ nghĩa hiện đại.
- Nội dung kinh tế xuyên suốt của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thực
hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc cần làm là phải chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới, nâng cao trình độ khoa học, công
nghệ của các ngành, các lĩnh vực; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của
nền kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tham gia có hiệu quả vào mảng sản xuất và
chuỗi giá trị toàn cầu. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển bền vững theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
- Xác định đúng tiềm lực kinh tế và nhu cầu kinh tế của công nhân, nông dân, trí thức và
toàn xã hội, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch đầu tư và tổ chức triển khai các hoạt động kinh tế
đúng trên tinh thần đảm bảo lợi ích của các bên và tránh sự đầu tư không hiệu quả, lãng phí.
- Xác định đúng cơ cấu kinh tế (của cả nước, của ngành, địa phương, cơ sở sản xuất,
v.v.). Từ đó, các địa phương, cơ sở, vận dụng linh hoạt và phù hợp vào địa phương mình,
ngành mình để xác định cơ cấu cho đúng.
- Tổ chức các hình thức giao lưu, hợp tác, liên kết kinh tế giữa công nghiệp - nông nghiệp
- khoa học và công nghệ - dịch vụ...; giữa các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế, các vùng
kinh tế giữa trong nước và quốc tế để phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống cho
công nhân nông dân trí thức và toàn xã hội.
3.2.1.2. Nội dung chính trị của liên minh
Khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức cần
thực hiện nhằm tạo cơ sở chính trị - xã hội vững chắc cho khối đại đoàn kết toàn dân, tạo thành
sức mạnh tổng hợp vượt qua mọi khó khăn, thử thách và đập tan mọi âm mưu chống phá sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta, nội dung chính trị của liên minh thể hiện ở:
- Giữ vững lập trường chính trị tư tưởng của giai cấp công nhân, đồng thời giữ vững vai
trò lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam đối với khối liên minh và đối với toàn xã hội để xây
dựng và bảo vệ vững chắc chế độ chính trị, kiên định mục tiêu, con đường độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
- Xét dưới góc độ chính trị, những hệ tư tưởng cũ lạc hậu vẫn còn ảnh hưởng trong đời
sống xã hội; thế lực thù địch đang tìm mọi cách chống phá chính quyền cách mạng chống phá
chế độ mới. Do đó, phải từng bước xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Động viên các lực lượng trong khối liên minh gương mẫu thực hiện đường lối
của Đảng, pháp luật, chính sách của nhà nước; sẵn sàng tham gia chiến đấu bảo vệ thành
quả cách mạng và chế độ xã hội chủ nghĩa; đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu
hiện tiêu cực và âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và phản động.
3.2.1.3. Nội dung văn hóa xã hội của liên minh
- Nội dung văn hoá, xã hội của liên minh giai cấp, tầng lớp đòi hỏi phải đảm bảo “gắn
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển, xây dựng con người và thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội”. Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện,
hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan
trọng bảo đảm cho sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
- Thực hiện xóa đói giảm nghèo; thực hiện tốt các chính sách xã hội với công nhân, nông
dân, trí thức và các tầng lớp nhân dân; chăm sóc sức khỏe và nâng cao chất lượng sống cho
nhân dân, nâng cao dân trí, thực hiện tốt an sinh xã hội.
3.2.2. Phương hướng cơ bản để xây dựng cơ cấu xã hội – giai cấp và tăng cường liên
minh giai cấp, tầng lớp trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy
biến đoi cơ cấu xã hội - giai cấp theo hướng tích cực.
- Hai là, xây dựng và thực hiện hệ thống chính sách xã hội tổng thể nhằm tác động tạo sự
biến đoi tích cực cơ cấu xã hội, nhất là các chính sách liên quan đến cơ cấu xã hội - giai cấp.
- Ba là, tạo sự đồng thuận và phát huy tinh thần đoàn kết thống nhất giữa các lực lượng
trong khối liên minh và toàn xã hội.
- Bốn là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh
phát triển khoa học và công nghệ, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để phát huy vai trò của
các chủ thể trong khối liên minh.
- Năm là, đổi mới hoạt động của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhằm tăng
cường khối liên minh và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
IV. Mục đích của việc nghiên cứu cơ cấu xã hội – giai cấp và liên minh giai cấp
- Mục tiêu của GCCN: Xây dựng 1 xã hội không có giai cấp, một xã hội mà tất cả các
giai cấp, tầng lớp trong xã hội có địa vị kinh tế, chính trị xã hội ngang hàng nhau.
- Nhận diện các giai cấp và địa vị của các giai cấp đó trong thời kỳ quá độ lên XHCN.
+ Những giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên XHCN:
● Giai cấp công nhân: Giai cấp lãnh đạo, đại diện phương thức sản xuất, là lực lượng đi
đầu trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
● Giai cấp nông dân: vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
nông thôn, nông nghiệp là chủ thể xây dựng nông thôn mới.
● Đội ngũ tri thức: đặc biệt quan trọng trong CNH, HĐH, xây dựng nền kinh tế tri thức,
phát triển nền văn hoá.
● Đội ngũ doanh nhân:phát triển nhanh về mặt số lượng và quy mô đóng góp tích cực,
phát triển kinh tế-xã hội, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo.
+ Mỗi giai cấp, tầng lớp đều có vị trí quan trọng trong từng lĩnh vực.
● Giai cấp nông dân không có hệ tư tưởng riêng mà phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai
cấp thống trị xã hội. Không có sự liên kết chặt chẽ về tư tưởng, kinh tế và tổ chức. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng giai cấp công nhân trở thành người làm chủ xã hội và đóng góp to
lớn vào sự nghiệp giải phóng đất nước và xây dựng CNXH.
● Giai cấp trí thức không có hệ tư tưởng riêng và phương thức sản xuất riêng. Khi được
sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, họ thành người làm chủ xã hội và đóng góp to lớn
vào sự nghiệp giải phóng đất nước và xây dựng CNXH. Ngày càng có vai trò, vị trí
quan trọng trong quá trình xây dựng kinh tế tri thức.
● Giai cấp công nhân có vai trò đặc biệt quan trọng, là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông
qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam và có vai trò chủ đạo trong sự phát triển
mối quan hệ liên minh công nhân-nông dân-trí thức.
Các giai cấp, tầng lớp liên minh, hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau nhằm thực hiện nhu cầu và lợi
ích của các chủ thể trong khối liên minh. Cùng nhau xây dựng kinh tế, phát triển đất nước, dựa
vào nhau để phát triển, khai thác các tiềm năng, lợi thế có sẵn trong các giai cấp, tầng lớp và
trong từng lĩnh vực. Nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, sức mạnh kinh tế và sự
giàu có, khắc phục những hạn chế, yếu kém về cơ sở hạ tầng, vốn, kinh nghiệm quản lý và
khoa học công nghệ; đưa đất nước ta phát triển nhanh và bền vững, xây dựng cơ sở vật chất
cho chủ nghĩa xã hội. Sự đoàn kết, hợp lực giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội để cùng thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng, phát huy dân chủ, bảo vệ nhân dân, xóa bỏ dần sự chênh
lệch, khác biệt giữa lao động trí óc với lao động chân tay, giữa thành thị với nông thôn, giữa
giàu và nghèo, giữa các vùng miền, cùng nhau bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, bảo vệ thành quả
cách mạng và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Hình thức và nội dung liên minh giai
cấp, tầng lớp ở nước ta ngày càng toàn diện phong phú, đoàn kết, giúp đỡ nhau trên các lĩnh
vực và ngày càng đi vào chiều sâu, do vậy, liên minh ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng của việc phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp
đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, với các mô hình liên kết giữa nhà
nước, nhà nông, nhà doanh nghiệp và nhà khoa học công nghệ, làm cho các ngành nghề, các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội không ngừng phát triển. vị thế, uy tín của nước ta
ngày càng cao trên trường quốc tế. Liên kết của công nhân, nông dân, trí thức vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Cơ cấu xã hội có một ý nghĩa hết sức quan trọng, nó cho chúng ta một bức tranh tổng
quát, một bộ khung, bộ dàn về xã hội, từ đó mà vạch ra được chiến lược xây dựng mô hình cơ
cấu xã hội tối ưu. Nghiên cứu cơ cấu xã hội, đặc biệt là nghiên cứu sự phân tầng xã hội cho
phép đi sâu vào phân tích thực trạng xã hội, nhận diện được một cách chân thực những đặc
trưng và xu hướng phát triển của đất nước, từ đó có cơ sở khoa học để vạch ra những chính
sách xã hội phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể ở nước ta, và từ đó có thể quản lý, điều
hành xã hội một cách có hiệu quả, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Trong những năm gần đây, cùng với sự nghiệp đổi mới, đặc biệt là bước
quá độ chuyển biến từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, trong cơ
cấu xã hội đã có những sự biến đổi căn bản ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để chủ
động đưa sự nghiệp đổi mới đạt được những thành tựu cao hơn nữa, hiện nay Đảng và Nhà
nước ta đã và đang triển khai một loạt công trình nghiên cứu khoa học về tất cả các lĩnh vực
đang đặt ra trong sự nghiệp đổi mới, trong đó có nghiên cứu những đặc trưng và xu hướng
chuyển đổi của cơ cấu giai cấp trong điều kiện hiện nay.

You might also like