You are on page 1of 8

I/Sử dụng hợp lí tài nguyên, bảo vệ môi trường là

điều kiện để phát triển


* Hiện trạng của tài nguyên và môi trường:
*Các nguồn tài nguyên có hạn, đang bị cạn kiệt
(khoáng sản, sinh vật)
* Môi trường sinh thái đang bị ô nhiễm, suy thoái,
sự nóng lên của Trái Đất do các khí thải làm tăng
hiệu ứng nhà kính.
* Sự phát triển bền vững:
* Sử dụng hợp lí tài nguyên, bảo vệ môi trường để
cho sự phát triển của xã hội hôm nay không làm hạn
chế cho sự phát triển của ngày mai, phải tạo nền
tảng cho sự phát triển tương lai.
* Mục tiêu của sự phát triển bền vững: Sự phát
triển phải đảm bảo cho con người có đời sống vật
chất, tinh thần ngày càng cao,trong môi trường sống
lành mạnh.
* Cơ sở của sự phát triển bền vững:
* Giảm đến mức thấp của sự cạn kiệt tài nguyên
môi trường. Đảm bảo sử dụng lâu dài các tài nguyên
tái tạo lại được bằng cách tái chế, tránh lãng phí, tìm
ra nguyên liệu mới thay thế.
* Bảo tồn tính đa dạng sinh học, quản lí tốt
phương thức và mức độ sử dụng.
* Bảo vệ, duy trì các hệ sinh thái tự nhiên,phục hồi
lại các môi trường đã bị suy thoái, giữ gìn cân bằng
các hệ sinh thái.
* Hướng giải quyết các vấn đề môi trường:
* Phải có sự phối hợp,nỗ lực chung của các quốc
gia,mọi tầng lớp trong xã hội.
* Chấm dứt chạy đua vũ trang,chấm dứt chiến
tranh.
* Giúp các nước đang phát triển thoát khỏi đói
nghèo.
* Áp dụng các tiến bộ khoa học – kĩ thuật để kiểm
soát tình trạng môi trường, sử dụng hợp tài nguyên.
II. Vấn đề môi tường và phát triển
bền vững ở các nước phát triển
* Chủ yếu gắn với những tác động đến môi trường
của sự phát triển công nghiệp và đô thị.
* Những vấn đề toàn cầu đều từ các trung tâm khí
thải lớn
* Nhiều công ty tư bản đã chuyển cơ sở sản xuất gây
ô nhiễm -> làm vấn đề môi trường ở các nước đang
phát triển thêm phức tạp.
III. Vấn đề môi trường và phát triển ở các nước đang
phát triển
1. Các nước đang phát triển là nơi tập trung nhiều
vấn đề môi trường và phát triển:
* Chiếm hơn ½ diện tích lục địa, chiếm ¾ dân số thế
giới
* Là khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên
* Sự chậm phát triển – sự hủy hoại môi trường – sự
bùng nổ dân số là những vấn đề nan giải của các
nước đang phát triển.
2. Khai thác và chế biến khoáng sản ở các nước đang
phát triển
* Khai thác và chế biến khoáng sản là nguồn xuất
khẩu chủ yếu để thu ngoại tệ ở các nước đang phát
triển ( các nước Tây Á, nhiều nước Châu Phi, Mĩ La
Tinh)
* Việc khai thác mỏ lớn mà không chú trọng đến
biện pháp bảo vệ -> môi trường bị ô nhiễm.
3. Việc khai thác tài nguyên nông, lâm nghiệp ở các
nước đang phát triển
* Tài nguyên rừng rất phong phú
* Việc đốt rừng làm nương rẫy, phá rừng lấy củi,lấy
lâm sản xuất khẩu, mở rộng diện tích canh tác,… dẫn
tới rừng bị suy giảm về diện tích, chất lượnɢ, thúc
đẩy quá trình hoang hoá ở vùng
* nhiệt đới:
* Biến đổi khí hậu ảnh hưởng như thế nào tới môi
trường và phát triển nền kinh tế??
-Biến đổi khí hậu tác động tới tất cả các vùng, miền,
các lĩnh vực của nước ta, nhưng trong đó, sản xuất
nông nghiệp và phát triển nông thôn, công nghiệp và
vùng ven biển sẽ chịu tác động mạnh nhất. Biến đổi
khí hậu sẽ ảnh hưởng tới hơn 12% diện tích đất
nông nghiệp và khoảng 25% dân số của Việt Nam, đe
dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực và phát
triển nông nghiệp, là nguy cơ hiện hữu đối với thực
hiện mục tiêu xoá đói, giảm nghèo, thực hiện các
mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ và sự phát triển
bền vững của đất nước.
     -Trước những biến đổi của khí hậu, thực tế đòi
hỏi phải có các chính sách phù hợp nhằm thích ứng,
giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu và bảo vệ
môi trường cho phát triển bền vững trong dài hạn
thông qua tái cơ cấu lại các ngành kinh tế. Đồng
thời, hạn chế bớt những ngành phụ thuộc nhiều vào
khai thác tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên
không tái tạo, giá trị gia tăng và hiệu quả kinh tế
thấp. Biến đổi khí hậu ở Việt Nam sẽ dẫn đến một
thực trạng, trong những thập kỷ tới, Việt Nam sẽ
nằm trong số các nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất
bởi biến đổi khí hậu toàn cầu.[1] Một số lượng lớn
các nghiên cứu cho thấy Việt Nam đang trải qua biến
đổi khí hậu và sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực nghiêm
trọng trong những thập kỷ tới. Những tác động tiêu
cực này bao gồm mực nước biển dâng, xâm nhập
mặn và các vấn đề thủy văn khác như lũ lụt, diễn
biến cửa sông, bồi lắng cũng như tần suất gia tăng
của các thiên tai như sóng lạnh, triều cường đều sẽ
gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển
và kinh tế của đất nước bao gồm nông nghiệp, nuôi
trồng thủy sản, cơ sở hạ tầng đường bộ, v.v.
Mật độ dân số và độ cao so với mực nước biển ở
Thành phố Hồ Chí Minh (2010)
=>Mật độ dân số và độ cao so với mực nước biển ở
Thành phố Hồ Chí Minh (2010)
Một số vấn đề như sụt lún đất (do khai thác nước
ngầm quá mức) làm trầm trọng thêm một số tác
động mà biến đổi khí hậu sẽ mang lại (mực nước
biển dâng), đặc biệt là ở các khu vực như Đồng bằng
sông Cửu Long.[2] Chính phủ, các tổ chức phi chính
phủ và người dân đã thực hiện nhiều biện pháp khác
nhau để giảm thiểu và thích ứng với tác động.[3]
Thông qua các quan sát và phương pháp nghiên cứu
khác nhau, các học giả nhìn chung cho rằng trong
giai đoạn lịch sử đã qua và mô hình dự báo tương
lai, trên toàn lãnh thổ Việt Nam, các tín hiệu biến đổi
khí hậu đã được xác định thông qua sự thay đổi của
các yếu tố khí hậu quan trắc được. Nói chung, nhiệt
độ và lượng mưa nói chung đang có xu hướng gia
tăng; tần số của các giá trị cực trị đang tăng lên. Hơn
nữa, sự phân bố lượng mưa theo thời gian và không
gian không đồng đều hơn. Theo số liệu hàng ngày
được thu thập từ 23 trạm khí tượng ven biển Việt
Nam trong thời gian từ 1960 đến 2011, trong 52
năm (từ năm 1960 đến năm 2011), nhiệt độ trung
bình hàng năm ở các vùng ven biển Việt Nam đã
tăng lên đáng kể. Mức tăng cao 0,24 ℃ và 0,28 ℃
mỗi thập kỷ lần lượt được tìm thấy tại các trạm
Vũng Tàu và Cà Mau, nằm ở Duyên hải Nam Bộ. Hầu
hết các trạm ở Bắc Trung Bộ cho thấy mức tăng từ
0,15 ℃ đến 0,19 ℃ mỗi thập kỷ.
-Hơn nữa, sự thay đổi nhiệt độ tối đa ở Việt Nam
dao động trong khoảng từ −3 °C đến 3 °C. Sự thay
đổi của nhiệt độ tối thiểu chủ yếu dao động trong
khoảng từ -5 °C đến 5 °C. Cả nhiệt độ tối đa và tối
thiểu đều có xu hướng tăng, trong đó nhiệt độ tối
thiểu tăng nhanh hơn nhiệt độ tối đa, phản ánh xu
hướng nóng lên của khí hậu toàn cầu.
Lượng mưa
Không giống như nhiệt độ, những thay đổi về xu
hướng lượng mưa khác nhau đáng kể giữa các vùng.
Số liệu thống kê về lượng mưa trên Việt Nam trong
giai đoạn từ năm 1961 đến năm 2008 cho thấy xu
hướng gia tăng đáng kể ở Duyên hải Nam Trung Bộ
trong khi có xu hướng giảm ở ven biển phía Bắc (từ
khoảng 17N trở lên). Một chỉ số khác là lượng mưa
tối đa trong 1 ngày hàng năm .
Trong thời gian từ năm 1961 đến năm 2008, xu
hướng ngày càng tăng lên tới 14% mỗi thập kỷ đối
với RX1day, có nghĩa là giá trị cực đoan của lượng
mưa đang tăng lên.[8]
Hiện tượng thời tiết cực đoan
Thay đổi lượng mưa (%) trong 52 năm qua ở Việt
Nam [nguồn: MONRE (2012a, b)

Các hậu quả khác là tần suất các hiện tượng thời tiết
cực đoan gia tăng. Trong 40 năm qua, số lượng các
cơn bão ở Việt Nam đã giảm xuống, nhưng cường
độ lại tăng lên và phạm vi thiệt hại ngày càng mở
rộng. Theo kịch bản này, cường độ và khả năng khó
lường của bão sẽ tăng lên, phạm vi thiệt hại tiếp tục
mở rộng về phía Nam. Năm 2007-2008, lũ lụt ở các
tỉnh miền Trung vượt quá 48 năm; Miền Bắc Việt
Nam hứng chịu đợt lạnh chưa từng có, kéo dài 38
ngày, gây thiệt hại 30 triệu đô la Mỹ về cây trồng và
vật nuôi.[9]

Vào tháng 6 năm 2012, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh


Hóa, người dân lội bộ trên con đường ngập lụt. Đợt
lũ lụt bùng phát ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam
đã khiến 16 người thiệt mạng và 38 người bị
thương. Mực nước biển đang dâng với tốc độ trung
bình là 1,8 mm/năm trong thế kỷ qua, và gần đây,
trong kỷ nguyên sử dụng vệ tinh đo độ cao để xác
định mực nước biển, từ năm 1993 đến 2000, mực
nước biển đã dâng vào khoảng 2,9-3,4 ± 0,4-
0,6 mm/năm.Mực nước biển dâng có thể do hiện
tượng ấm lên toàn cầu - mà phần lớn là từ những
tác động của con người.[8] Điều này sẽ làm tăng
mực nước biển trong tương lai về lâu dài.[9][10]
Nhiệt độ gia tăng làm nước giãn nở, đồng thời làm
tan chảy các sông băng, núi băng và băng lục địa
khiến lượng nước bổ sung vào đại dương tăng lên.
Dự kiến, nhiệt độ tăng sẽ tiếp tục là nhân tố chủ yếu
làm mực nước biển dâng trong thế kỷ tới.

Mực nước biển ghi nhận từ 23 máy đo thủy triều


trong điều kiện môi trường ổn định cho thấy mức
dâng lên vào khoảng 200 mm mỗi thế kỷ, hay 2
mm/năm.

You might also like