You are on page 1of 133

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU I

KHOA MÔI TRƯỜNG


    

GIÁO TRÌNH :

AN TOÀN LAO ĐỘNG


VÀ VỆ SINH MÔI TRƯỜNG

Trang 1
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG

1.1. KHÁI NIỆM CHUNG


1.1.1. Điều kiện lao động
Điều kiện lao động là tổng thể các yếu tố về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật, kinh tế, tổ chức thể
hiện qua quy trình công nghệ, công cụ lao động, đối tượng lao động, môi trường lao động,
con người lao động và sự tác động qua lại giữa chúng tạo điều kiện cần thiết cho hoạt
động của con người trong quá trình sản xuất.
Điều kiện lao động có ảnh hưởng đến sức khoẻ và tính mạng con người. Những công cụ
và phương tiện có tiện nghi, thuận lợi hay ngược lại gây khó khăn nguy hiểm cho người
lao động, đối tượng lao động. Đối với quá trình công nghệ, trình độ cao hay thấp, thô sơ,
lạc hậu hay hiện đại đều có tác động rất lớn đến người lao động. Môi trường lao động đa
dạng, có nhiều yếu tố tiện nghi, thuận lợi hay ngược lại rất khắc nghiệt, độc hại, đều tác
động rất lớn đến sức khỏe người lao động.
1.1.2. Các yếu tố nguy hiểm và có hại:
Yêú tố nguy hiểm có hại là trong một điều kiện lao động cụ thể, bao giờ cũng xuất hiện
các yếu tố vật chất có ảnh hưởng xấu, nguy hiểm, có nguy cơ gây tai nạn hoặc bệnh nghề
nghiệp cho người lao động. Cụ thể là:
- Các yếu tố vật lý như nhiệt độ, độ ẩm, tiếng ồn, rung động, các bức xạ có hại, bụi…
- Các yếu tố hoá học như hoá chất độc, các loại hơi, khí, bụi độc, các chất phóng xạ…
- Các yếu tố sinh vật, vi sinh vật như các loại vi khuẩn, siêu vi khuẩn, ký sinh trùng, côn
trùng, rắn…
- Các yếu tố bất lợi về tư thế lao động, không tiện nghi do không gian chổ làm việc, nhà
xưởng chật hẹp, mất vệ sinh…
- Các yếu tố tâm lý không thuận lợi...
1.1.3. Tai nạn lao động:
Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể
người lao động hoặc gây tử vong, xảy ra trong qúa trình lao động, gắn liền với việc thực
hiện công việc hoặc nhiệm vụ lao động. Nhiễm độc đột ngột cũng là tai nạn lao động.
Tai nạn lao động được phân ra: Chấn thương, nhiễm độc nghề nghiệp và bệnh nghề nghiệp
* Chấn thương: Là tai nạn mà kết quả gây nên những vết thương hay huỷ hoại một phần
cơ thể người lao động, làm tổn thương tạm thời hay mất khả năng lao động vĩnh viễn hay
thậm chí gây tử vong. Chấn thương có tác dụng đột ngột.
* Bệnh nghề nghiệp: Là bệnh phát sinh do tác động của điều kiện lao động có hại, bất lợi
(tiếng ồn, rung...) đối với người lao động. Bênh nghề nghiệp làm suy yếu dần dần sức
khoẻ hay làm ảnh hưởng đến khả năng làm việc và sinh hoạt của người lao động. Bệnh
nghề nghiệp làm suy yếu sức khoẻ người lao động một cách dần dần và lâu dài.
*Nhiểm độc nghề nghiệp: là sự huỷ hoại sức khoẻ do tác dụng của các chất độc xâm nhập
vào cơ thể người lao động trong điều kiện sản xuất
1.2. KHÁI NIỆM, MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA, TÍNH CHẤT CỦA CÔNG TÁC BẢO

Trang 1
HỘ LAO ĐỘNG
1.2.1.Khái niệm về bảo hộ lao động:
-Bảo hộ lao động là môn khoa học nghiên cứu các vấn đề hệ thống các văn bản pháp luật,
các biện pháp về tổ chức kinh tế-xã hội và khoa học công nghệ để cải tiến điều kiện lao
động nhằm:
• Bảo vệ sức khoẻ, tính mạng con người trong lao động.
• Nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
• Bảo vệ môi trường lao động nói riêng và môi trường sinh thái nói chung →
góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người lao động.
-Từ khái niệm trên có thể thấy rõ tính pháp lý, tính khoa học, tính quần chúng của công tác
bảo hộ lao động luôn gắn bó mật thiết với nhau và nội dung của công tác bảo hộ lao động
nhất thiết phải thể hiện đầy đủ các tính chất trên.
1.2.2.Mục đích bảo hộ lao động:
- Bảo đảm cho mọi người lao động những điều kiện làm việc an toàn, vệ sinh, thuận lợi và
tiện nghi nhất.
- Không ngừng nâng cao năng suất lao động, tạo nên cuộc sống hạnh phúc cho người lao
động.
- Góp phần vào việc bảo vệ và phát triển bền vững nguồn nhân lực lao động.
- Nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người mà trước hết là của người lao
động.
⇒ Đây cũng là chính sách đầu tư cho chiến lược phát triển kinh tế, xã hội trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.2.3.Ý nghĩa của công tác bảo hộ lao động:
Bảo hộ lao động trước hết là phạm trù của lao động sản xuất, do yêu cầu của sản xuất và
gắn liền với quá trình sản xuất. Bảo hộ lao động mang lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi
người nên nó mang ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Mặt khác, nhờ chăm lo sức khoẻ của người
lao động mà công tác BHLĐ mang lại hiệu quả xã hội và nhân đạo rất cao.
BHLĐ là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, là nhiệm vụ quan trọng không thể
thiếu được trong các dự án, thiết kế, điều hành và triển khai sản xuất. BHLĐ mang lại
những lợi ích về kinh tế, chính trị và xã hội. Lao động tạo ra của cải vật chất, làm cho xã
hội tồn tại và phát triển. Bất cứ dưới chế độ xã hội nào, lao động của con người cũng là
yếu tố quyết định nhất. Xây dựng quốc gia giàu có, tự do, dân chủ cũng nhờ người lao
động. Trí thức mở mang cũng nhờ lao động (lao động trí óc) vì vậy lao động là động lực
chính của sự tiến bộ loài người .
1.2.4. Tính chất của công tác bảo hộ lao động:
BHLĐ Có 3 tính chất chủ yếu là: Pháp lý, Khoa học kỹ thuật và tính quần chúng. Chúng
có liên quan mật thiết và hỗ trợ lẫn nhau.
1.2.4.1. BHLĐ mang tính chất pháp lý:
Những quy định và nội dung về BHLĐ được thể chế hoá chúng thành những luật lệ, chế
độ chính sách, tiêu chuẩn và được hướng dẫn cho mọi cấp mọi ngành mọi tổ chức và cá
nhân nghiêm chỉnh thực hiện. Những chính sách, chế độ, quy phạm, tiêu chuẩn, được ban
hành rong
Trang 2
công tác bảo hộ lao động là luật pháp của Nhà nước. Xuất phát từ quan điểm: Con người
là vốn quý nhất, nên luật pháp về bảo hộ lao động được nghiên cứu, xây dựng nhằm bảo
vệ con người trong sản xuất, mọi cơ sở kinh tế và mọi người tham gia lao động phải có
trách nhiệm tham gia nghiên cứu, và thực hiện. Đó là tính pháp lý của công tác bảo hộ lao
động .
1.2.4.2. BHLĐ mang tính KHKT:
Mọi hoạt động của BHLĐ nhằm loại trừ các yếu tố nguy hiểm, có hại, phòng và chống tai
nạn, các bệnh nghề nghiệp... đều xuất phát từ những cơ sở của KHKT. Các hoạt động điều
tra khảo sát phân tích điều kiện lao động, đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố độc hại đến
con người để đề ra các giải pháp chống ô nhiễm, giải pháp đảm bảo an toàn đều là những
hoạt động khoa học kỹ thuật.
Hiện nay, việc vận dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mới vào công tác bảo hộ lao
động ngày càng phổ biến. Trong quá trình kiểm tra mối hàn bằng tia gamma (γ), nếu
không hiểu biết về tính chất và tác dụng của các tia phóng xạ thì không thể có biện pháp
phòng tránh có hiệu quả. Nghiên cứu các biện pháp an toàn khi sử dụng cần trục, không
thể chỉ có hiểu biết về cơ học, sức bền vật liệu mà còn nhiều vấn đề khác như sự cân bằng
của cần cẩu, tầm với, điều khiển điện, tốc độ nâng chuyên...
Muốn biến điều kiện lao động cực nhọc thành điều kiện làm việc thoải mái, muốn loại trừ
vĩnh viễn tai nạn lao động trong sản xuất, phải giải quyết nhiều vấn đề tổng hợp phức tạp
không những phải hiểu biết về kỹ thuật chiếu sáng, kỹ thuật thông gió, cơ khí hoá, tự động
hoá... mà còn cần phải có các kiến thức về tâm lý lao động, thẩm mỹ công nghiệp, xã hội
học lao động... Vì vậy công tác bảo hộ lao động mang tính chất khoa học kỹ thuật tổng
hợp.
1.2.4.3. BHLĐ mang tính quần chúng
Tất cả mọi người từ người sử dụng lao động đến người lao động đều là đối tượng cần được
bảo vệ. Đồng thời họ cũng là chủ thể phải tham gia vào công tác BHLĐ để bảo vệ mình và
bảo vệ người khác.
BHLĐ có liên quan đến tất cả mọi người tham gia sản xuất. Công nhân là những người
thường xuyên tiếp xúc với máy móc, trực tiếp thực hiện các qui trình công nghệ... do đó
họ có nhiều khả năng phát hiện những sơ hở trong công tác bảo hộ lao động, đóng góp xây
dựng các biện pháp về kỹ thuật an toàn, tham gia góp ý kiến về mẫu mã, quy cách dụng cụ
phòng hộ, quần áo làm việc…
Mặt khác dù các qui trình, quy phạm an toàn được đề ra tỉ mỉ đến đâu, nhưng công nhân
chưa được học tập, chưa được thấm nhuần, chưa thấy rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của nó
thì rất dễ vi phạm.
Muốn làm tốt công tác bảo hộ lao động, phải vận động được đông đảo mọi người tham
gia. Cho nên BHLĐ chỉ có kết quả khi được mọi cấp, mọi ngành quan tâm, được mọi
người lao động tích cực tham gia và tự giác thực hiện các luật lệ, chế độ tiêu chuẩn, biện
pháp để cải thiện điều kiện làm việc, phòng chống tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
BHLĐ là hoạt động hướng về cơ sở sản xuất và trước hết là người trực tiếp lao động. Nó
liên quan với quần chúng lao động. BHLĐ bảo vệ quyền lợi và hạnh phúc cho mọi người,
mọi nhà, cho toàn xã hội, vì thế BHLĐ luôn mang tính quần chúng sâu rộng.
1.3. NHỮNG NỘI DUNG CỦA CÔNG TÁC BHLĐ

Trang 3
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người. Lao động tạo ra của cải vật chất cho
xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát
triển của đất nước. Công tác BHLĐ được thể hiện rõ nét trong Bộ Luật Lao động.
Bộ Luật Lao động đã thể chế hoá đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và cụ thể hoá
các quy định của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lao động, về sử
dụng và quản lý lao động. Bộ Luật Lao động bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền
khác của người lao động, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng
lao động, tạo ra được mối quan hệ lao động được hài hoà và ổn định, góp phần phát huy trí
sáng tạo và tài năng của người lao động trí óc và lao động chân tay nhằm đạt năng suất,
chất lượng và tiến bộ xã hội trong lao động, sản xuất, dịch vụ góp phần công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn
minh.
Để đạt được những mục tiêu đề ra ở trên và thực hiện đầy đủ ba tính chất của BHLĐ và để
phục vụ tốt công tác BHLĐ của Đảng và Nhà nước, BHLĐ phải được thể hiện trong ba
nội dung chủ yếu sau:
1.3.1. Nội dung khoa học kỹ thuật
Trong các nội dung của công tác BHLĐ thì nội dung khoa học kỹ thuật chiếm một vị trí
quan trọng, là phần cốt lõi để loại trừ các yếu tố nguy hiểm và có hại, cải thiện điều kiện
lao động.
Khoa học kỹ thuật BHLĐ là lĩnh vực khoa học tổng hợp và liên ngành, được hình thành và
phát triển trên cơ sở kết hợp và sử dụng thành tựu các kết quả nghiên cứu từ khoa học tự
nhiên đến khoa học kỹ thuật chuyên ngành.
Trong thời gian qua, khi nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ, các thành phần kinh tế
không ngừng phát triển, đô thị ngày càng nhiều và điều tất yếu xảy ra là ô nhiễm môi
trường ngày một nặng nề. Trước tình hình đó, các nhà khoa học đã vào cuộc và liên tục có
các phương án, thiết kế, thu giữ và xử lý các ô nhiễm đó. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
của khoa học kỹ thuật BHLĐ rất rộng nhưng cũng rất cụ thể, gắn liền với điều kiện khí
hậu, đặc điểm tự nhiên và con người cũng như điều kiện sản xuất và trình độ kinh tế. Khoa
học kỹ thuật BHLĐ kết hợp chặt chẽ giữa các khâu điều tra khảo sát, nghiên cứu cơ bản
với nghiên cứu ứng dụng và triển khai.
Những nội dung nghiên cứu chính của khoa học kỹ thuật BHLĐ gồm các vấn đề vệ sinh
lao động, kỹ thuật vệ sinh, kỹ thuật an toàn và phương tiện bảo vệ. Kỹ thuật phòng chống
cháy nổ có những tính chất và đặc thù riêng nhưng cũng được coi là bộ phận quan trọng
liên quan đến công tác BHLĐ.
1.3.1.1. Khoa học vệ sinh lao động:
Trong quá trình lao động, dây chuyền công nghệ dù có hiện đại bao nhiêu thì bụi vẫn phát
sinh và hiện tượng rò rỉ khí, các yếu tố độc hại vẫn cứ xảy ra. Bởi vậy, môn khoa học Vệ
sinh lao động đi sâu khảo sát, đánh giá các yếu tố nguy hiểm và nghiên cứu sự ảnh hưởng
có hại đến sức khoẻ người lao động. Trên cơ sở đó, khoa học Vệ sinh lao động có nhiệm
vụ đề ra các tiêu chuẩn giới hạn cho phép của các yếu tố có hại, nghiên cứu và đề ra các
chế độ nghỉ ngơi hợp lý và đưa ra được các biện pháp y học và các phương hướng cho các
giải pháp để cải thiện điều kiện làm việc và đánh giá hiệu quả của các giải pháp đó với sức
khoẻ của người lao động. Khoa học Vệ sinh lao động có nhiệm vụ quản lý và theo dõi sức
khoẻ người lao động, sử dụng các kết quả đã nghiên cứu để phát hiện sớm các bệnh nghề
nghiệp cho người lao động, đề xuất các biện pháp để phòng ngừa và điều trị. Từ yêu cầu
của khoa học vệ sinh lao động, các nhà khoa học phải nghiên cứu các công nghệ mới hơn,
Trang 4
hiện đại hơn, đưa ra được các loại thiết bị công nghệ làm việc có hiệu quả và loại trừ các
yếu tố có hại ảnh hưởng tới sức khoẻ người lao động.
1.3.1.2. Khoa học về kỹ thuật vệ sinh:
Khi khoa học Vệ sinh lao động đã phát hiện và đưa ra được những ảnh hưởng lớn của quá
trình công nghệ đến sức khoẻ người lao động thì căn cứ vào từng vấn đề cụ thể, khoa học
kỹ thuật vệ sinh sẽ cho ra các thiết bị công nghệ để làm giảm hoặc loại trừ các yếu tố có
hại đến dưới mức cho phép, không gây hại cho người lao động. Các ngành về kỹ thuật vệ
sinh như thông gió, chống nóng điều hoà không khí, chống bụi và hơi khí độc, chống ồn
và rung động, chống các bức xạ có hại, kỹ thuật chiếu sáng,... Đó là những lĩnh vực khoa
học của các chuyên ngành đi sâu nghiên cứu và ứng dụng các giải pháp khoa học kỹ thuật
để loại trừ các yếu tố nguy hiểm, độc hại, cải thiện môi trường làm việc, tạo ra điều kiện
lao động tốt hơn cho người lao động. Trên cơ sở đó, nâng cao được năng suất lao động và
tai nạn lao động giảm đi và các bệnh nghề nghiệp của người lao động cũng ít xuất hiện.
Mỗi giải pháp kỹ thuật vệ sinh đều nhằm mục đích cải thiện điều kiện lao động và góp
phần giữ gìn môi trường xung quanh. Bởi vậy, BHLĐ và bảo vệ môi trường là hai khâu
của một quá trình, gắn bó mật thiết với nhau, hai quá trình đó luôn hỗ trợ nhau ngày càng
hoàn thiện hơn.
Các quy trình công nghệ và các thiết bị xử lý các yếu tố độc hại đảm bảo an toàn phải phù
hợp với trình độ, sức khoẻ của người lao động trong suốt quá trình lao động.
1.3.1.3. Khoa học về kỹ thuật an toàn:
Kỹ thuật an toàn là ngành khoa học nghiên cứu các thiết bị công nghệ được đưa vào sử
dụng trong lao động sản xuất để loại trừ các yếu tố nguy hiểm.
Các hệ thống biện pháp an toàn không ngừng được cải tiến nhằm bảo vệ người lao động
tránh được các yếu tố nguy hiểm và có hại, gây chấn thương trong sản xuất. Để đạt được
các vấn đề đó, khoa học kỹ thuật an toàn cần đi sâu nghiên cứu và đánh giá tình trạng an
toàn của các thiết bị và quá trình sản xuất, đề ra những yêu cầu an toàn khi sử dụng các
thiết bị, các cơ cấu an toàn bảo vệ con người khi tiếp xúc với các bộ phận nguy hiểm, tiến
hành xây dựng các tiêu chuẩn, quy trình, hướng dẫn nội quy an toàn để buộc người lao
động phải chấp hành đầy đủ. Sự hoạt động của các thiết bị an toàn cần phải được theo dõi
thường xuyên.
Việc áp dụng các thành tựu về tự động hoá, điều khiển học để có thể cách ly người lao
động ra xa các vùng nguy hiểm và độc hại là một phương hướng hết sức quan trọng trong
Kỹ thuật an toàn. Điều đó sẽ làm cho người lao động an tâm lao động sản xuất.
Việc loại trừ các yếu tố nguy hiểm và có hại ngay từ khâu thiết kế là một phương hướng
tích cực để thực hiện việc chuyển từ “Kỹ thuật an toàn” sang “An toàn kỹ thuật”.
1.3.1.4. Khoa học về phương tiện bảo vệ người lao động:
Với các biện pháp vệ sinh lao động, kỹ thuật vệ sinh và các biện pháp kỹ thuật an toàn
không loại trừ được hết các yếu tố ảnh hưởng tới sức khoẻ người lao động thì khoa học về
các hương tiện bảo vệ người lao động có nhiệm vụ nghiên cứu, thiết kế chế tạo những
phương tiện bảo vệ tập thể hoặc cá nhân sử dụng trong sản xuất nhằm chống lại những yếu
tố nguy hiểm và có hại. Để có được những phương tiện bảo vệ hiệu quả, chất lượng và có
độ thẩm mỹ cao, ngành khoa học về phương tiện bảo vệ đã sử dụng rất nhiều thành tựu
của các ngành khoa học, từ vật lý, hoá học, khoa học về vật liệu, mỹ thuật công nghiệp,
công nghệ hoá học,...

Trang 5
Khi nền kinh tế phát triển nhanh, nhiều ngành kỹ thuật mới ra đời thì ngành sản xuất các
phương tiện BHLĐ cũng phát triển theo. Các loại phương tiện bảo vệ cá nhân như mũ bảo
vệ đầu, găng tay và ủng chống cháy, mặt nạ lọc hơi khí độc, kính hàn chống bức xạ có
hại,... là những thứ tối thiểu cần phải có trong quá trình lao động.
1.3.1.5. Khoa học về ứng dụng:
Nhiều ngành khoa học mới ra đời đã được ứng dụng nhiều và có hiệu quả lớn trong
BHLĐ. Các ngành khoa học, điện tử, điều khiển, kỹ thuật tin, ... đã được ứng dụng trong
khi giải quyết các vấn đề về BHLĐ. Đặc biệt khoa học về Ecgônômi, với tính đa dạng và
phong phú của nó đã thâm nhập nhanh chóng vào hầu hết của nội dung BHLĐ. Khoa học
Êgônômi đã giúp các nhà thiết kế nghiên cứu, đánh giá và chế tạo ra nhiều thiết bị, công
cụ lao động phù hợp với từng dân tộc, Êgônômi đã đi sâu nghiên cứu kích cỡ phương tiện
bảo hộ cho từng người lao động, sao cho người lao động có tâm lý làm việc thoải mái, để
họ yên tâm sáng tạo trong lao động, cống hiến nhiều nhất cho xã hội về tư duy cũng như
về của cải vật chất. Êgônômi đã làm tăng các yếu tố thuận lợi và giảm bớt các yếu tố
không thuận lợi cho người lao động, đặc biệt là giảm hoặc làm mất hẳn các yếu tố dễ gây
tai nạn và các bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
1.3.2. Nội dung xây dựng và thực hiện pháp luật về BHLĐ
ở mỗi quốc gia công tác BHLĐ được đưa ra một luật riêng hoặc thành một chương về
BHLĐ trong bộ luật lao động, ở một số nước, ban hành dưới dạng một văn bản dưới luật
như pháp lệnh điều lệ...
Các nhà lý luận tư sản lập luận rằng: “Tai nạn lao động trong sản xuất là không thể tránh
khỏi, khi năng suất lao động tăng thì tai nạn lao động cũng tăng lên theo”. Họ nêu lên lý lẽ
như vậy nhằm xoa dịu sự đấu tranh của giai cấp công nhân và che dấu tình trạng sản xuất
thiếu các biện pháp an toàn.
Thực ra, số tai nạn xảy ra hàng năm ở các nước tư bản tăng lên có những nguyên nhân
của nó. Chẳng hạn, công nhân phải làm việc với cường độ lao động quá cao, thời gian quá
dài, thiết bị sản xuất thiếu các cơ cấu an toàn cần thiết. Nơi làm việc không đảm bảo điều
kiện vệ sinh, chưa có chế độ bồi dưỡng thích đáng đối với người lao động v.v...
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, khi người lao động đã được hoàn toàn giải phóng và trở
thành người chủ xã hội, lao động đã trở thành vinh dự và nghĩa vụ thiêng liêng của con
người. Bảo hộ lao động trở thành chính sách lớn của Đảng và Nhà nước.
ở Việt Nam quá trình xây dựng và phát triển hệ thống luật pháp chế độ chính sách BHLĐ
đã được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm.
1.3.3. Nội dung giáo dục, vận động quần chúng làm tốt công tác BHLĐ
Muốn cho các biện pháp khoa học kỹ thuật cũng như các quy định về BHLĐ được thực
hiện, trước hết là phải làm cho người lao động nhận thức được họ vừa là đối tượng vận
động vừa là chủ thể của hoạt động BHLĐ. Nội dung giáo dục và vận động quần chúng bao
gồm tuyên truyền vận động và tổ chức thực hiện.
1.3.3.1. Tuyên truyền vận động:
Phải thường xuyên tuyên truyền cho người lao động hiểu được sự cần thiết phải đảm bảo
an toàn trong sản xuất, phải nâng cao sự hiểu biết về BHLĐ, phải có hiểu biết về kỹ thuật
và thành thạo các công việc để tránh xảy ra tai nạn lao động và bảo vệ quyền lợi lao động
của mình.

Trang 6
Giáo dục ý thức lao động có kỷ luật, bảo đảm nguyên tắc an toàn, thực hiện nghiêm chỉnh
tiêu chuẩn, quy định, nội quy an toàn, chống làm bừa, làm ẩu. Vận động quần chúng phát
huy sáng kiến tự cải thiện điều kiện làm việc, biết làm việc với các phương tiện bảo vệ cá
nhân.
1.3.3.2. Tổ chức thực hiện:
Phải biết tổ chức tốt chế độ tự kiểm tra của các cơ sở sản xuất, duy trì tốt mạng lưới vệ
sinh viên hoạt động ở các cơ sở sản xuất. Người sử dụng lao động phải tổ chức học tập,
giáo dục, dạy nghề khi tuyển dụng lao động, làm cho họ thấy được công tác BHLĐ mang
lại quyền lợi sát thực, nâng cao mức sống của bản thân gia đình họ và sản xuất ra được
nhiều của cải vật chất cho xã hội. Đồng thời người sử dụng lao động cũng phải giáo dục
cho người lao động phải có nghĩa vụ tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng về BHLĐ,
để mọi người cùng có ý thức thực hiện.
Tổ chức công đoàn là một tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của người lao động. Công
đoàn có nhiệm vụ tổ chức và chỉ đạo phong trào quần chúng làm công tác BHLĐ. Phong
trào “Bảo đảm an toàn và vệ sinh lao động” do Công đoàn phát động đã phát triển rộng rãi
và đã được quần chúng lao động trong cả nước tham gia tích cực.
1.4. Mối quan hệ giữa BHLĐ và môi trường
Vấn đề môi trường nói chung hay môi trường lao động nói riêng là một vấn đề thời sự cấp
bách được đề cập đến với quy mô toàn cầu.
Các nhà khoa học từ lâu đã biết được sự thải các khí gây “ Hiệu ứng nhà kính” có thể làm
trái đất nóng dần lên. Hiệu ứng nhà kính là kết quả hoạt động của con người trong quá
trình sử dụng các loại nhiên liệu hoá thạch (dầu mỏ, than đá, khí đốt ...) đã thải ra bầu khí
quyển một khối lượng rất lớn các chất độc hại ( trong số đó quan trọng nhất là CO2 ).
Những khí độc này có xu hướng phản xạ ánh sáng, làm trái đất nóng dần lên.
Các nhà khoa học cho rằng trong vòng 50 năm nữa sự phát thải đó sẽ làm cho nhiệt độ
tăng lên từ 1,50 đến 4,50 . Trong suốt 30 năm qua, cứ 10 năm khu vực này lại tăng thêm
1độ Fahrenheit ( 10 F tương đương 0,550 C). Giờ đây các dòng sông băng ở Alaska và Bắc
Xiberie đang bắt đầu tan chảy. Điều này sẽ dẫn đến mực nước biển dâng cao, nhấn chìm
một số miền duyên hải và những hòn đảo, là mầm móng của những trận bão lụt thế kỷ và
những nguy cơ của thảm hoạ sinh thái. Trong năm 1997, hiện tượng EnNino đã làm nhiệt
độ trung bình của bầu khí quyển tăng 0,430 C.
Mấu chốt của tai họa, một phần chính nằm ở các hoạt động của con người. Mỗi năm, con
người đổ ít nhất 7 tỉ tấn Cácbon vào bầu khí quyển. Ngày nay khí CO2 trong không khí
nhiều hơn khoảng 30% so với năm 1860. Thế giới công nghiệp cung cấp khoảng một nửa
lượng khí thải trên trái đất. Trong bản danh sách về hiệu ứng nhà kính ( do vệ tinh Mỹ xác
định), vùng bị ô nhiễm nhiều nhất là khu vực ở biển Ban Tích, tiếp theo là bờ biển phía tây
Hàn Quốc...
Nếu con người hôm nay không thực hiện các biện pháp hữu hiệu để giảm bớt sự nóng lên
của trái đất, thì không chỉ hôm nay mà cả thế hệ mai sau sẽ phải hứng chịu hậu quả to lớn
do sự " nổi giận" của thiên nhiên.
Để có được một giải pháp tốt tạo nên một môi trường lao động phù hợp cho người lao
động, đòi hỏi sự tham gia của nhiều ngành khoa học, được dựa trên 4 yếu tố cơ bản sau:
- Ngăn chặn và hạn chế sự lan tỏa các yếu tố nguy hiểm và có hại từ nguồn phát sinh. Biện
pháp tích cực nhất là thay đổi công nghệ sản xuất với các nguyên liệu và nhiên liệu sạch,
thiết kế và trang bị những thiết bị, dây chuyền sản xuất không làm ô nhiễm môi trường...

Trang 7
- Thu hồi và xử lý các yếu tố gây ô nhiễm.
- Xử lý các chất thải trước khi thải ra để không làm ô nhiễm môi trường.
- Trang bị các phương tiện bảo vệ cá nhân.

Trang 8
CHƯƠNG 2
LUẬT PHÁP, CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH BHLĐ

2.1. Hệ thống luật pháp chế độ chính sách BHLĐ của Việt nam
Trong thập niên 90 nhằm đáp ứng nhu cầu của công cuộc đổi mới và sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chúng ta đã đẩy mạnh công tác xây dựng pháp luật nói
chung và pháp luật BHLĐ nói riêng. Đến nay chúng ta đã có một hệ thống văn bản pháp
luật chế độ chính sách BHLĐ tương đối đầy đủ.
Hệ thống luật pháp chế độ chính sách BHLĐ gồm 3 phần:
Phần I: Bộ luật lao động và các luật khác có liên quan đến ATVSLĐ.
Phần II: Nghị định 06/CP và các nghị định khác liên quan đến ATVSLĐ.
Phần III: Các thông tư, chỉ thị, tiêu chuẩn qui phạm ATVSLĐ.
Có thể minh họa hệ thống luật pháp chế độ chính sách BHLĐ của Việt Nam bằng sơ đồ
sau:

2.1.1. Bộ luật lao động và các luật pháp có liên quan đến ATVSLĐ
a/ Một số điều của Bộ luật Lao động ( ngoài chương IX ) có liên quan đến ATVSLĐ:
Căn cứ vào quy định điều 56 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam: "
Nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động, Nhà nước quy định thời gian lao
động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ nghơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức
Nhà nước và những người làm công ăn lương..." Bộ luật Lao động của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội thông qua ngày 23/6/1994 và có hiệu lực từ
01/01/1995.
Pháp luật lao động quy định quyền và nghĩa vụ của người lao động và của người sử dụng
lao động, các tiêu chuẩn lao động, các nguyên tắc sử dụng và quản lý lao động, góp phần
thúc đẩy sản xuất.
Trong Bộ luật Lao động có chương IX về " An toàn lao động, vệ sinh lao động" với 14
điều ( từ điều 95 đến điều 108 sẽ được trình bày ở phần sau).

Trang 9
Ngoài chương IX về “ An toàn lao động, vệ sinh lao động” trong Bộ luật Lao động có
nhiều điều thuộc các chương khác nhau cùng đề cập đến những vấn đề có liên quan đến
BHLĐ với những nội dung cơ bản của một số điều chính sau:
- Điều 29. Chương IV qui định hợp đồng lao động ngoài các nội dung khác phải có nội
dung điều kiện về an toàn lao động, vệ sinh lao động.
- Điều 39. Chương IV qui định một trong nhiều trường hợp về chấm dứt hợp đồng là:
Người sử dụng lao động không được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động khi người
lao động ốm đau hay bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đang điều trị, điều dưỡng theo
quyết định của thầy thuốc.
- Điều 46. Chương V qui định một trong những nội dung chủ yếu của thoả ước tập thể là
an toàn lao động, vệ sinh lao động.
- Điều 68 tiết 2 Chương VII qui định việc rút ngắn thời gian làm việc đối với những người
làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.
- Điều 69 Chương VII quy định số giờ làm thêm không được vượt quá trong một ngày và
trong một năm.
- Điều 71 Chương VII quy định thời gian nghỉ ngơi trong thời gian làm việc, giữa hai ca
làm việc.
- Điều 84 Chương VIII qui định các hình thức xử lý người vi phạm kỹ luật lao động trong
đó có vi phạm nội dung ATVSLĐ.
- Điều 113 Chương X quy định không được sử dụng lao động nữ làm những công việc
nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại đã được quy định.
- Điều 121 Chương XI quy định cấm người lao động chưa thành niên làm những công việc
nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục quy định.
- Điều 127 Chương XI quy định phải tuân theo những quy định về điều kiện lao động,
công cụ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động phù hợp với người tàn tật.
- Điều 143 tiết 1 Chương XII quy định việc trả lương, chi phí cho người lao động trong
thời gian nghỉ việc để chữa trị vì tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp.
- Điều 143 tiết 2 Chương XII quy định chế độ tử tuất, trợ cấp thêm một lần cho thân nhân
người lao động bị chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Ngày 02/04/2002 Quốc hội đã có luật Quốc Hội số 35/2002 về sửa đổi, bổ sung một số
điều của Bộ luật Lao động ( vđược Quốc hộikhoá IX kỳ họp thứ 5 thông qua ngày
23/6/1994)
Ngày 11/4/2007 Chủ tịch nước đã lệnh công bố luật số 02/2007/LưCTN về luật sử đổi, bổ
sung điều 73 của Bộ luật Lao động. Theo đó từ năm 2007, người lao động sẽ được nghỉ
làm việc hưởng nguyên lương ngày giỗ tổ Hùng Vương ( ngày 10/3 âm lịch) và như vậy
tổng ngày lễ tết được nghỉ trong năm là 09 ngày.
b/ Một số luật, pháp lệnh có liên quan đến an toàn vệ sinh lao động:
Bộ luật Lao động chưa có thể đề cập mọi vấn đề, mọi khía cạnh có liên quan đến ATLĐ,
VSLĐ, do đó trong thực tế còn nhiều luật, pháp lệnh với một số điều khoản liên quan đến
nội dung này. Trong số đó cần quan tâm đến một số văn bản pháp lý sau:
- Luật bảo vệ môi trường (1993) với các điều 11, 19, 29 đề cập đến vấn đề áp dụng công
nghệ tiên tiến, công nghệ sạch, vấn đề nhập khẩu, xuất khẩu máy móc thiết bị, những hành

Trang 10
vi bị nghiêm cấm ... có liên quan đến bảo vệ môi trường và cả vấn đề ATVSLĐ trong
doanh nghiệp ở những mức độ nhất định.
- Luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân (1989) với các điều 9, 10, 14 đề cập đến vệ sinh trong sản
xuất, bảo quản, vận chuyển và bảo vệ hoá chất, vệ sinh các chất thải trong công nghiệp và
trong sinh hoạt, vệ sinh lao động.
- Pháp lệnh qui định về việc quản lý nhà nước đối với công tác PCCC (1961). Tuy cháy
trong phạm vi vĩ mô không phải là nội dung của công tác BHLĐ, nhưng trong các doanh
nghiệp cháy nổ thường do mất an toàn, vệ sinh gây ra, do đó vấn đề đảm bảo an toàn
VSLĐ, phòng chống cháy nổ gắn bó chặt chẽ với nhau và đều là những nội dung kế hoạch
BHLĐ của doanh nghiệp.
- Luật Công đoàn (1990). Trong luật này, trách nhiệm và quyền Công đoàn trong công tác
BHLĐ được nêu rất cụ thể trong điều 6 chương II, từ việc phối hợp nghiên cứu ứng dụng
khoa học kỹ thuật BHLĐ, xây dựng tiêu chuẩn quy phạm ATLĐ, VSLĐ đến trách nhiệm
tuyên truyền giáo dục BHLĐ cho người lao động, kiểm tra việc chấp hành pháp luật
BHLĐ, tham gia điều tra tai nạn lao động...
- Luật hình sự (1999). Trong đó có nhiều điều với tội danh liên quan đến ATLĐ, VSLĐ
như điều 227 (Tội vi phạm quy định về ATLĐ, VSLĐ...), điều 229 (Tội vi phạm quy định
về xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng), điều 236, 237 liên quan đến chất phóng xạ, điều
239, 240 liên quan đến chất cháy, chất độc và vấn đề phòng cháy...
2.1.2. Nghị định 06/CP và các nghị định khác có liên quan
Trong hệ thống các văn bản pháp luật về BHLĐ các nghị định có một vị trí rất quan trọng,
đặc biệt là nghị định 06/CP của Chính phủ ngày 20/1/1995 qui định chi tiết một số điều
của Bộ luật Lao động về ATLĐ, VSLĐ.
Nghị định 06/CP gồm 7 chương 24 điều:
Chương I. Đối tượng và phạm vi áp dụng.
Chương II. An toàn lao động, vệ sinh lao động.
Chương III. Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Chương IV. Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động, người lao động.
Chương V. Trách nhiệm của cơ quan nhà nước.
Chương VI. Trách nhiệm của tổ chức công đoàn.
Chương VII. Điều khoản thi hành.
Trong nghị định, vấn đề ATLĐ, VSLĐ đã được nêu khá cụ thể và cơ bản, nó được đặt
trong tổng thể của vấn đề lao động với những khía cạnh khác của lao động, được nêu lên
một cách chặt chẽ và hoàn thiện hơn so với những văn bản trước đó.
Ngày 27/12/2002 chính phủ đã ban hành nghị định số 110/2002/NĐưCP về việc sủa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định 06?CP ( ban hành ngày 20/01/1995) quy định chi tiết
một số điều của Bộ luật lao động về an toàn lao động, vệ sinh lao động.
Ngoài ra còn một số nghị định khác với một số nội dung có liên quan đến ATVSLĐ như:
- Nghị định 195/CP (31/12/1994) của Chính phủ qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Bộ luật Lao động về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi.

Trang 11
- Nghị định 38/CP (25/6/1996) của Chính phủ qui định xử phạt hành chính về hành vi vi
phạm pháp luật lao động trong đó có những qui định liên quan đến hành vi vi phạm về
ATVSLĐ.
- Nghị định 46/CP (6/8/1996) của Chính phủ qui định xử phạt hành chính trong lĩnh vực
quản lý Nhà nước về y tế, trong đó có một số quy định liên quan đến hành vi vi phạm về
VSLĐ.
2.1.3. Các Chỉ thị, Thông tư có liên quan đến ATVSLĐ
a. Các chỉ thị:
Căn cứ vào các điều trong chương IX Bộ luật Lao động, Nghị định 06/CP và tình hình
thực tế, Thủ tướng đã ban hành các chỉ thị ở những thời điểm thích hợp, chỉ đạo việc đẩy
mạnh công tác ATVSLĐ, phòng chống cháy nổ...
Trong số các chỉ thị được ban hành trong thời gian thực hiện Bộ luật Lao động, có 2 chỉ
thị quan trọng có tác dụng trong một thời gian tương đối dài, đó là:
- Chỉ thị số 237/TTg (19/4/1996) của Thủ tương Chính phủ về việc tăng cường các biện
pháp thực hiện công tác PCCC. Chỉ thị đã nêu rõ nguyên nhân xảy ra nhiều vụ cháy, gây
thiệt hại nghiêm trọng là do việc quản lý và tổ chức thực hiện công tác PCCC của các cấp,
ngành cơ sở và công dân chưa tốt.
- Chỉ thị số 13/1998/CTưTTg (26/3/1998) của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường
chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác BHLĐ trong tình hình mới. Đây là một chỉ thị rất
quan trọng có tác dụng tăng cường và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, vai trò, trách
nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm ATVSLĐ, phòng chống cháy nổ, duy
trì và cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm sức khỏe và an toàn cho người lao động trong
những năm cuối của thế kỷ XX và trong thời gian đầu của thế kỷ XXI.
b. Các Thông tư:
Có nhiều thông tư liên quan đến ATVSLĐ, nhưng ở đây chỉ nêu lên những thông tư đề
cập tới các vấn đề thuộc nghĩa vụ và quyền của người sử dụng lao động và người lao
động:
- Thông tư liên tịch số 14/1998/TTLT-BLĐTBXH-BYT-TLĐLĐVN (31/10/1998) hướng
2.2. Những nội dung về ATVSLĐ trong bộ luật lao động
Những nội dung này được quy định chủ yếu trong Chương IX về " An toàn lao động, vệ
sinh lao động " của Bộ luật Lao động và được quy định chi tiết trong Nghị định 06/CP
ngày 20/1/1995 của Chính phủ.
2.2.1. Đối tượng và phạm vi áp dụng chương IX Bộ luật Lao động và nghị định
06/CP:
(Được quy định trong điều 2, 3, 4 chương I Bộ luật Lao động và được cụ thể hóa trong
điều 1 Nghị định 06/CP)
Đối tượng và phạm vi được áp dụng các qui định về ATLĐ, VSLĐ bao gồm: Mọi tổ
chức, cá nhân sử dụng lao động, mọi công chức, viên chức, mọi người lao động kể cả
người học nghề, thử việc trong các lĩnh vực, các thành phần kinh tế, trong lực lượng vũ
trang và các doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan nước ngoài, tổ chức quốc tế đóng trên lãnh
thổ Việt Nam.
2.2.2. An toàn lao động, vệ sinh lao động:

Trang 12
Được thể hiện trong từng phần hoặc toàn bộ các điều 96, 97, 98, 100, 101, 102, 103, 104
của Bộ luật lao động và được cụ thể hóa trong chương II của NĐ06/CP từ điều 2 đến điều
8 bao gồm các nội dung chính sau:
- Trong xây dựng, mở rộng, cải tạo các công trình, sử dụng, bảo quản, lưu giữ các loại
máy, thiết bị, vật tư, các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về ATLĐ, VSLĐ, các chủ đầu tư,
người sử dụng lao động phải lập luận chứng về các biện pháp đảm bảo ATLĐ, VSLĐ.
Luận chứng phải có đầy đủ nội dung với các biện pháp phòng ngừa, xử lý và phải được cơ
quan thanh tra ATVSLĐ chấp thuận. Phải cụ thể hoá các yêu cầu, nội dung, biện pháp
đảm bảo ATVSLĐ theo luận chứng đã được duyệt khi thực hiện.
- Việc thực hiện tiêu chuẩn ATLĐ, VSLĐ là bắt buộc. Người sử dụng lao động phải xây
dựng qui trình đảm bảo ATVSLĐ cho từng loại máy, thiết bị, vật tư và nội quy nơi làm
việc.
- Việc nhập khẩu các loại máy, thiết bị, vật tư, các chất có yêu cầu nghiêm nghặt về
ATLĐ, VSLĐ phải được phép của cơ quan có thẩm quyền.
- Nơi làm việc có nhiều yếu tố độc hại phải kiểm tra đo lường các yếu tố độc hại ít nhất
mỗi năm một lần, phải lập hồ sơ lưu giữ và theo dõi đúng qui định. Phải kiểm tra và có
biện pháp xử lý ngay khi thấy có hiện tượng bất thường.
- Quy định những việc cần làm ở nơi làm việc có yếu tố nguy hiểm độc hại dễ gây tai nạn
lao động để cấp cứu tai nạn, xử lý sự cố như: trang bị phương tiện cấp cứu, lập phương án
xử lý sự cố, tổ chức đội cấp cứu...
- Quy định những biện pháp khác nhằm tăng cường bảo đảm ATVSLĐ, bảo vệ sức khỏe
cho người lao động như: trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân, khám sức khoẻ định kỳ,
huấn luyện về ATVSLĐ, bồi dưỡng hiện vật cho người lao động...
2.2.3. Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp:
Được quy định trongcác điều 105, 106, 107, 108 của Bộ luật Lao động và được cụ thể hóa
trong các điều 9, 10, 11, 12 chương III nghị định 06/CP với những nội dung chính sau:
- Trách nhiệm người sử dụng lao động đối với người bị tai nạn lao động: Sơ cứu, cấp cứu
kịp thời. Tai nạn lao động nặng, chết người phải giữ nguyên hiện trường và báo ngay cho
cơ quan Lao động, Y tế, Công đoàn cấp tỉnh và Công an gần nhất.
- Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người mắc bệnh nghề nghiệp là phải
điều trị theo chuyên khoa, khám sức khỏe định kỳ và lập hồ sơ sức khỏe riêng biệt.
- Trách nhiệm người sử dụng lao động bồi thường cho người bị tai nạn lao động hoặc bệnh
nghề nghiệp.
- Trách nhiệm người sử dụng lao động tổ chức điều tra các vụ tai nạn lao động có sự tham
gia của đại diện BCH Công đoàn, lập biên bản theo đúng quy định.
- Trách nhiệm khai báo, thống kê và báo cáo tất cả các vụ tai nạn lao động các trường hợp
bị bệnh nghề nghiệp.
2.2.4. Cơ chế 3 bên trong công tác BHLĐ:
Cơ chế 3 bên bắt nguồn từ mô hình tổ chức và hoạt động của tổ chức lao động quốc tế
(ILO). Tổ chức này được thành lập năm 1919, từ năm 1944 hoạt động như một tổ chức
chuyên môn gắn liền với Liên hợp quốc. Các thành viên Liên hơp quốc đương nhiên là
thành viên của ILO. Hàng năm ILO họp hội nghị toàn thể. Đoàn đại biểu mỗi nước gồm 3
bên: 1 đại diện chính phủ, 1 đại diện người sử dụng lao động và 1 đại diện người lao động
( Công đoàn) BHLĐ là một vấn đề quan trọng thuộc phạm trù lao động, nó có liên quan
Trang 13
đến nghĩa vụ và quyền của 3 bên: Nhà nước, Người sử dụng lao động, Người lao động (đại
diện là tổ chức công đoàn), mặt khác BHLĐ là một công tác rất đa dạng và phức tạp, nó
đòi hỏi phải có sự cộng tác, phối hợp chặt chẽ của 3 bên thì công tác BHLĐ mới đạt kết
quả tốt.
2.2.5. Nghĩa vụ và quyền của các bên trong công tác BHLĐ
a/ Nghĩa vụ và quyền của Nhà nước. Quản lý Nhà nước trong BHLĐ:
(Điều 95, 180, 181 của Bộ luật Lao động, điều 17, 18, 19 của NĐ06/CP)
*Nghĩa vụ và quyền của nhà nước:
- Xây dựng và ban hành luật pháp, chế độ chính sách BHLĐ, hệ thống tiêu chuẩn, quy
trình, quy phạm về ATLĐ, VSLĐ.
- Quản lý nhà nước về BHLĐ: Hướng dẫn chỉ đạo các ngành, các cấp thực hiện luật pháp,
chế độ chính sách, tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm về ATVSLĐ. Kiểm tra, đôn đốc, thanh
tra việc thực hiện. Khen thưởng những đơn vị, cá nhân có thành tích và xử lý các vi phạm
về ATVSLĐ.
- Lập chương trình quốc gia về BHLĐ đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân
sách Nhà nước. Đầu tư nghiên cứu khoa học kỹ thuật BHLĐ, đào tạo cán bộ BHLĐ.
* Bộ máy tổ chức quản lý công tác BHLĐ ở trung ương, địa phương:
- Hội đồng quốc gia về ATLĐ, VSLĐ (gọi tắt là BHLĐ) được thành lập theo điều 18 của
NĐ06/CP. Hội đồng làm nhiệm vụ tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ và tổ chức phối hợp
hoạt động của các ngành, các cấp về ATLĐ, VSLĐ.
- Bộ LĐTBXH thực hiện quản lý nhà nước về ATLĐ đối với các ngành và các địa phương
trong cả nước, có trách nhiệm:
+ Xây dựng, trình ban hành hoặc ban hành các các văn bản pháp luật, chế độ chính sách
BHLĐ, hệ thống quy phạm Nhà nước về ATLĐ, tiêu chuẩn phân loại lao động theo điều
kiện lao động.
+ Hướng dẫn chỉ đạo các ngành các cấp thực hiện văn bản trên, quản lý thống nhất hệ
thống quy phạm trên.
+ Thanh tra về ATLĐ.
+ Thông tin, huấn luyện về ATVSLĐ.
+ Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ATLĐ.
- Bộ Y tế thực hiện quản lý Nhà nước trong lĩnh vực VSLĐ, có trách nhiệm:
+ Xây dựng, trình ban hành hoặc ban hành và quản lý thống nhất hệ thống quy phạm
VSLĐ, tiêu chuẩn sức khỏe đối với các nghề, công việc.
+ Hướng dẫn, chỉ đạo các ngành, các cấp thực hiện các quy định về VSLĐ.
+Thanh tra về vệ sinh lao động.
+ Tổ chức khám sức khỏe và điều trị bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
+ Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực VSLĐ.
- Bộ Khoa học công nghệ và môi trường có trách nhiệm:
+ Quản lý thống nhất việc nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật về ATLĐ, VSLĐ.

Trang 14
+ Ban hành hệ thống tiêu chuẩn chất lượng, quy cách các phương tiện bảo vệ cá nhân
trong lao động.
+ Phối hợp với Bộ LĐTBXH, Bộ Y tế xây dựng, ban hành và quản lý thống nhất hệ thống
tiêu chuẩn kỹ thuật Nhà nước về ATLĐ, VSLĐ.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm chỉ đạo việc đưa nội dung ATLĐ, VSLĐ vào
chương trình giảng dạy trong các trường Đại học, các trường Kỹ thuật, quản lý và dạy
nghề.
- Các bộ và các ngành khác có trách nhiệm ban hành hệ thống tiêu chuẩn, quy phạm
ATLĐ, VSLĐ cấp ngành mình sau khi có thỏa thuận bằng văn bản của Bộ LĐTBXH, Bộ
Y tế.
Việc quản lý nhà nước về ATLĐ, VSLĐ trong các lĩnh vực: Phóng xạ, thăm dò khai thác
dầu khí, các phương tiện vận tải đường sắt, đường bộ, đường hàng không và trong các đơn
vị thuộc lực lượng vũ trang do các cơ quan quản lý ngành đó chịu trách nhiệm có sự phối
hợp của Bộ LĐTBXH và Bộ Y tế.
- Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm:
+ Thực hiện quản lý Nhà nước về ATLĐ, VSLĐ trong phạm vi địa phương mình.
+ Xây dựng các mục tiêu đảm bảo an toàn, vệ sinh và cải thiện điều kiện lao động đưa
vào kế hoạch phát triển kinh tếư xã hội và ngân sách địa phương.
b/ Nghĩa vụ và Quyền của Người sử dụng lao động:
*Nghĩa vụ của Người sử dụng lao động : Điều 13 chương IV của NĐ06/CP quy định
người sử dụng lao động có 7 nghĩa vụ sau:
- Hàng năm khi xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của xí nghiệp phải lập kế hoạch,
biện pháp ATLĐ, VSLĐ và cải thiện điều kiện lao động.
-Trang bị đầy đủ phương tiện bảo vệ cá nhân và các chế độ khác về an toàn, vệ sinh lao
động theo quy định của Nhà nước.
-Có kế hoạch giám sát việc thực hiện các quy định, nội quy, biên pháp an toàn, vệ sinh lao
động. Phối hợp với công đoàn cơ sở xây dựng và duy trì sự hoạt động của mạng lưới an
toàn viên và vệ sinh viên.
-Xây dựng nội quy, quy trình an toàn, vệ sinh lao động.
-Tổ chức huấn luyện, hướng dẫn các tiêu chuẩn, quy định, biện pháp an toàn, vệ sinh lao
động đối với người lao động.
-Tổ chức khám sức khoẻ định kỳ cho người lao động theo tiêu chuẩn chế độ quy định.
- Chấp hành nghiêm chỉnh quy định khai báo, điều tra tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
và định kỳ 6 tháng, hàng năm báo cáo kết quả, tình hình thực hiện ATLĐ, VSLĐ, cải thiện
điều kiện lao động với Sở LĐTBXH nơi doanh nghiệp hoạt động.
* Quyền của Người sử dụng lao động:
Điều 14 chương IVcủa NĐ06/CP quy định người sử dụng lao động có 3 quyền sau:
- Buộc người lao động phải tuân thủ các quy định, nội quy, biện pháp ATLĐ, VSLĐ.
Khen thưởng người chấp hành tốt và kỷ luật người vi phạm trong việc thực hiện ATLĐ,
VSLĐ.

Trang 15
- Khiếu nại với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về quyết định của Thanh tra về ATLĐ,
VSLĐ nhưng vẫn phải nghiêm chỉnh chấp hành quyết định đó.
c/ Nghĩa vụ và Quyền của người lao động trong công tác BHLĐ:
* Nghĩa vụ của Người lao động:
Điều 15 chương IV Nghị định 06/CP quy định người lao động có 3 nghĩa vụ sau:
- Chấp hành các quy định, nội quy về ATLĐ, VSLĐ có liên quan đến công việc, nhiệm vụ
được giao.
- Phải sử dụng và bảo quản các phương tiện bảo vệ cá nhân đã được trang bị, nếu làm mất
hoặc hư hỏng thì phải bồi thường.
- Phải báo cáo kịp thời với người có trách nhiệm khi phát hiện nguy cơ gây tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, gây độc hại hoặc sự cố nguy hiểm, tham gia cấp cứu và khắc
phục hậu quả tai nạn lao động khi có lệnh của Người sử dụng lao động.
* Quyền của Người lao động:
Điều 16 chương IV Nghị đinh 06/CP quy định Người lao động có 3 quyền sau:
- Yêu cầu Người sử dụng lao động đảm bảo điều kiện làm việc an toàn, vệ sinh, cải thiện
điều kiện lao động, trang cấp đầy đủ phương tiện bảo vệ cá nhân, huấn luyện, thực hiện
biện pháp ATLĐ, VSLĐ.
- Từ chối làm công việc hoặc rời bỏ nơi làm việc khi thấy rõ nguy cơ xảy ra tai nạn lao
động, đe doạ nghiêm trọng tính mạng, sức khoẻ của mình và phải báo ngay người phụ
trách trực
tiếp, từ chối trở lại làm việc nơi nói trên nếu những nguy cơ đó chưa được khắc phục.
- Khiếu nại hoặc tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi Người sử dụng lao động
vi phạm quy định của Nhà nước hoặc không thực hiện đúng các giao kết về ATLĐ, VSLĐ
trong hợp đồng lao động, thoả ước lao động.
d/ Tổ chức Công đoàn ( gọi tắt là Công đoàn):
* Trách nhiệm và quyền của Công đoàn:
Căn cứ vào điều 156 của Bộ luật Lao động, điều 67 chương II luật Công đoàn năm 1990,
các điều 20, 21 của NĐ 06/CP, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam đã cụ thể hóa các
nghĩa vụ và quyền của Công đoàn về BHLĐ trong nghị quyết 01/TLĐ ngày 21/4/1995 của
Đoàn chủ tịch TLĐLĐVN với 8 nội dung sau:
- Tham gia với các cấp chính quyền, cơ quan quản lý và Người sử dụng lao động xây dựng
các văn bản pháp luật, các tiêu chuẩn an toàn VSLĐ, chế độ chính sách về BHLĐ, kế
hoạch BHLĐ, các biện pháp đảm bảo an toàn và VSLĐ.
- Tham gia với các cơ quan Nhà nước xây dựng chương trình BHLĐ quốc gia, tham gia
xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, đề tài nghiên cứu KHKT về BHLĐ. Tổng
Liên đoàn quản lý và chỉ đạo các Viện nghiên cứu KHKT BHLĐ tiến hành các hoạt động
nghiên cứu và ứng dụng KHKT BHLĐ.
- Cử đại diện tham gia vào các đoàn điều tra tai nạn lao động, phối hợp theo dõi tình hình
tai nạn lao động, cháy nổ, bệnh nghề nghiệp.
- Tham gia việc xét khen thưởng, xử lý các vi phạm về BHLĐ.
- Thay mặt Người lao động ký thoả ước lao động tập thể với Người sử dụng lao động
trong đó có các nội dung BHLĐ.
Trang 16
- Thực hiện quyền kiểm tra giám sát việc thi hành luật pháp, chế độ, chính sách, tiêu
chuẩn, quy định về BHLĐ, việc thực hiện các điều về BHLĐ trong thỏa ước tập thể đã ký
với Người sử dụng lao động.
- Tham gia tổ chức việc tuyên truyền phổ biến kiến thức ATVSLĐ, chế độ chính sách
BHLĐ, Công đoàn giáo dục vận động mọi người lao động và người sử dụng lao động thực
hiện tốt trách nhiệm, nghĩa vụ về BHLĐ. Tham gia huấn luyện BHLĐ cho người sử dụng
lao động và người lao động, đào tạo kỹ sư và sau đại học về BHLĐ.
- Tổ chức phong trào về BHLĐ, phát huy sáng kiến cải thiện điều kiện làm việc, tổ chức
quản lý mạng lưới an toàn vệ sinh viên và những đoàn viên hoạt động tích cực về BHLĐ.
* Nhiệm vụ và quyền hạn của Công đoàn doanh nghiệp
MụcV thông tư liên tịch số14/1998/TTLTưBLĐTBXHưBYTưTLĐLĐVN ngày
31/10/1998 quy định Công đoàn doanh nghiệp có 5 nhiệm vụ và 3 quyền sau:
+ Nhiệm vụ:
- Thay mặt người lao động ký thoả ước lao động tập thể với người sử dụng lao động trong
đó có các nội dung BHLĐ.
- Tuyên truyền vận động, giáo dục người lao động thực hiện tốt các quy định pháp luật về
BHLĐ, kiến thức KHKT BHLĐ, chấp hành quy trình, quy phạm, các biện pháp làm việc
an toàn và phát hiện kịp thời những hiện tượng thiếu an toàn vệ sinh trong sản xuất, đấu
tranh với những hiện tượng làm bừa, làm ẩu, vi phạm qui trình kỹ thuật an toàn.
- Động viên khuyến khích người lao động phát huy sáng kiến cải tiến thiết bị, máy nhằm
cải thiện môi trường làm việc, giảm nhẹ sức lao động.
- Tổ chức lấy ý kiến tập thể người lao động tham gia xây dựng nội quy, quy chế quản lý về
ATVSLĐ, xây dựng kế hoạch BHLĐ, đánh giá việc thực hiện các chế độ chính sách
BHLĐ, biện pháp đảm bảo an toàn, sức khỏe người lao động. Tổng kết rút kinh nghiệm
hoạt động BHLĐ của Công đoàn ở doanh nghiệp để tham gia với Người sử dụng lao động.
- Phối hợp tổ chức các hoạt động để đẩy mạnh các phong trào bảo đảm an toàn VSLĐ, bồi
dưỡng nghiệp vụ và các hoạt động BHLĐ đối với mạng lưới an toàn viên.
+ Quyền:
- Tham gia xây dựng các quy chế, nội quy về quản lý BHLĐ, ATLĐ và VSLĐ với người
sử dụng lao động.
- Tham gia các đoàn kiểm tra công tác BHLĐ do doanh nghiệp tổ chức, tham gia các cuộc
họp kết luận của các đoàn thanh tra, kiểm tra, các đoàn điều tra tai nạn lao động.
- Tham gia điều tra tai nạn lao động, nắm tình hình tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và
việc thực hiện kế hoạch BHLĐ và các biện pháp đảm bảo an toàn, sức khỏe người lao
động trong sản xuất. Đề xuất các biện pháp khắc phục thiếu sót, tồn tại.
2.3. Những vấn đề khác có liên quan đến công tác BHLĐ trong bộ luật lao động
2.3.1. Thời giờ làm việc và thời giờ nghỉ ngơi
Vấn đề này được quy định trong các điều 68, 70, 71, 72, 80, 81 chương XII Bộ luật Lao
động, được quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành trong nghị định 195/CP ngày
31/12/1994 và thông tư số 07/LĐTBXH ngày 11/4/1995.
a/ Thời giờ làm việc:

Trang 17
- Thời gian làm việc không quá 8 giờ trong một ngày hoặc 40 giờ trong một tuần. Người
sử dụng lao động có quyền quy định thời giờ làm việc theo ngày hoặc tuần và ngày nghỉ
hàng tuần phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng không được
trái với quy định trên và phải thông báo trước cho người lao động biết.
- Thời giờ làm việc hàng ngày được rút ngắn từ một đến hai giờ đối với những người làm
các công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo danh mục do Bộ LĐTBXH ban
hành kèm theo quyết định số 1453/LĐTBXHưQĐ ngày 13/10/1995, số
915/LĐTBXHưQĐ ngày 30/7/1996 và số 1629/LĐTBXH ngày 26/12/1996.
- Người sử dụng lao động và người lao động có thể thoả thuận làm thêm giờ, nhưng không
được quá 4 giờ/ngày và 200 giờ/năm. Đối với công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy
hiểm người lao động không được làm thêm quá 3 giờ/ ngày và 9 giờ / tuần.
- Thời giờ tính làm việc ban đêm được quy định như sau:
+ Từ 22 đến 6 giờ sáng cho khu vực từ Thừa Thiên - Huế trở ra phía Bắc.
+ Từ 21 đến 5 giờ sáng cho khu vực từ Đà Nẵng trở vào phía Nam.
b/ Thời gian nghỉ ngơi
- Người lao động làm việc 8 giờ liên tục thì được nghỉ ít nhất nửa giờ, tính vào giờ làm
việc.
- Người làm việc ca đêm được nghỉ giữa ca ít nhất 45 phút, tính vào giờ làm việc.
- Người làm việc theo ca được nghỉ ít nhất 12 giờ trước khi chuyển sang ca khác.
- Mỗi tuần người lao động được nghỉ ít nhất một ngày ( 24 giờ liên tục) có thể vào ngày
chủ nhật hoặc một ngày cố định khác trong tuần.
- Người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương những ngày lễ sau đây: Tết
dương lịch:1 ngày, tết âm lịch: 4 ngày, ngày chiến thắng(30/4 Dương lịch): 1 ngày, ngày
Quốc tế lao động(1/5 Dương lịch): 1 ngày, ngày Quốc khánh(2/9): 1 ngày. Nếu những
ngày nghỉ nói trên trùng vào ngày nghỉ hàng tuần thì người lao động được nghỉ bù vào
ngày tiếp theo.
- Người lao động có 12 tháng làm việc tại một doanh nghiệp hoặc với một người sử dụng
lao động thì được nghỉ phép hàng năm, hưởng nguyên lương theo quy định sau đây:
+ 12 ngày nghỉ phép, đối với người làm công việc trong điều kiện bình thường.
+ 14 ngày nghỉ phép, đối với người làm việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc những
nơi có điều kiện sống khắc nghiệt và đối với người dưới 18 tuổi.
+ 16 ngày nghỉ phép, đối với người làm việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.
- Người lao động được nghỉ về việc riêng mà vẫn hưởng nguyên lương trong những
trường hợp sau: Kết hôn nghỉ 3 ngày, con kết hôn nghỉ một ngày, bố mẹ (cả bên vợ và bên
chồng) chết, vợ hoặc chồng chết, con chết nghỉ 3 ngày.
2.3.2. Quy định về an toàn - vệ sinh lao động
a/ Lập luận chứng an toàn - vệ sinh lao động:
- Việc xây dựng mới hoặc mở rộng, cải tạo cơ sở để sản xuất, sử dụng, bảo quản, lưu giữ
vàtàng trữ các loại máy, thiết bị, vật tư, các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về ATLĐ,
VSLĐ, phải có luận chứng về các biện pháp đảm bảo ATLĐ, VSLĐ đối với nơi làm việc
của người lao động và môi trường xung quanh theo quy định của pháp luật.

Trang 18
- Việc sản xuất, sử dụng, bảo quản, vận chuyển các loại máy, thiết bị, vật tư, năng lượng,
điện, hoá chất, việc thay đổi công nghệ, nhập khẩu công nghệ mới phải được thực hiện
theo tiêu chuẩn ATLĐ, VSLĐ. Phải được khai báo, đăng ký và xin cấp giấy phép với cơ
quan thanh tra nhà nước về ATLĐ,VSLĐ.
b/ Bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp:
- Người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi
điều trị xong cho người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Người lao động được
hưởng chế độ bảo hiểm xã hội về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
- Người sử dụng lao động có trách nhiệm bồi thường ít nhất bằng 30 tháng lương cho
người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người
chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà không do lỗi của người lao động. Trường
hợp do lỗi của người lao động, thì cũng được trợ cấp một khoản tiền ít nhất bằng 12 tháng
lương.
2.3.3. Bảo hộ lao động đối với lao động nữ, lao động vị thành niên, lao động tàn tật
a/ Đối với lao động nữ:
Lao động nữ có những đặc thù so với lao động nam, ngoài lao động còn có chức năng
sinh đẻ, nuôi con. Điều 113 của Bộ luật Lao động, điều 11 của nghị định 23/CP
(18/4/19960), thông tư số 03/TTLBưLĐTBXHưBYT (28/11/1994) quy định các điều kiện
lao động có hại và các công việc không được sử dụng lao động nữ. Nội dung chính của
các điều và văn bản trên như sau:
- Người sử dụng lao động không được sử dụng người lao động nữ làm những công việc
nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại có ảnh hưởng xấu tới chức năng
sinh đẻ và
nuôi con.
- Doanh nghiệp đang sử dụng lao động nữ làm các công việc nói trên phải có kế hoạch đào
tạo nghề, chuyển dần người lao động nữ sang công việc khác phù hợp, tăng cường các
biện pháp bảo vệ sức khỏe, cải thiện điều kiện lao động hoặc giảm bớt thời giờ làm việc.
Ngoài ra còn một số văn bản hướng dẫn nội dung thực hiện chế độ đối với lao động nữ :
- Nghiêm cấm người sử dụng lao động có hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm
danh dự và nhân phẩm phụ nữ. Phải thực hiện nguyên tắc bình đẳng nam nữ về tuyển
dụng, sử dụng, nâng bậc lương và trả công lao động.
- Người lao động nữ được nghỉ trước và sau khi sinh con là 6 tháng. Không được sử dụng
lao động nữ có thai từ tháng thứ 7 hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng làm thêm giờ, làm
việc ban đêm và đi công tác xa. Trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng được nghỉ mỗi
ngày 60 phút.
- Nơi có sử dụng lao động nữ phải có chổ thay quần áo, buồng tắm và buồng vệ sinh nữ.
- Trong thời gian nghỉ việc để đi khám thai, do sẩy thai, nghỉ để chăm sóc con dưới 7 tuổi
ốm đau, người lao động được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội.
b/ Đối với lao động chưa thành niên:
Những vấn đề BHLĐ đối với lao động chưa thành niên ( người lao động dưới 18 tuổi)
được quy định trong các điều121, 122 của Bộ luật Lao động và thông tư số 09/TTLT-
LĐTBXH-BYT ngày 13/4/1995 bao gồm một số nội dung chính sau:

Trang 19
- Người sử dụng lao động chỉ được sử dụng lao chưa thành niên vào những công việc phù
hợp với sức khỏe để đảm bảo cho sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách và có trách
nhiệm quan tâm chăm sóc người lao động chưa thành niên về các mặt lao động, tiền
lương, sức khỏe, học tập trong quá trình lao động. Cấm sử dụng người lao động chưa
thành niên làm những công việc
nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại.
- Thời giờ làm việc của lao động chưa thành niên không được quá 7 giờ / ngày. Người sử
dụng lao động chỉ được sử dụng người lao động chưa thành niên làm thêm giờ, làm việc
ban đêm trong một số nghề và công việc không nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.
- Nơi có sử dụng người lao động chưa thành niên phải lập sổ theo dọi riêng, ghi đầy đủ họ
tên, ngày sinh, công việc đang làm, kết quả kiểm tra sức khỏe định kỳ.
- Nghiêm cấm nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc, trừ 1 số nghề do Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội quy định.
c/ Đối với lao động là người tàn tật:
Nhà nước bảo hộ quyền làm việc của người tàn tật và có những quy định về ATLĐ,
VSLĐ phù hợp với trạng thái sức khỏe của lao động là người tàn tật trong các điều 125,
126, 127 của Bộ luật Lao động. Cụ thể như sau:
- Nhà nước bảo hộ quyền làm việc của người tàn tật và khuyến khích việc thu nhận, tạo
việc làm cho người tàn tật. Thời giờ làm việc của người tàn tật không quá 7 giờ/ ngày.
- Những nơi dạy nghề cho người tàn tật hoặc sử dụng lao động là người tàn tật phải tuân
theo những quy định về điều kiện lao động, công cụ lao động, ATLĐ, VSLĐ phù hợp và
thường xuyên chăm sóc sức khỏe của người tàn tật.
- Cấm sử dụng người tàn tật đã bị suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên làm thêm
giờ, làm việc ban đêm.

Trang 20
CHƯƠNG 3
HOẠT ĐỘNG BHLĐ TRONG DOANH NGHỆP

3.1. Bộ máy tổ chức quản lý công tác BHLĐ trong doanh nghiệp
3.1.1. Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý công tác BHLĐ trong doanh nghiệp:
BHLĐ trong doanh nghiệp là một công tác bao gồm nhiều nội dung phức tạp, nó có liên
quan đến nhiều bộ phận, phòng ban, cá nhân và phụ thuộc vào đặc điểm của doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp có thể chọn một mô hình bộ máy tổ chức quản lý công tác BHLĐ có
những nét riêng phù hợp với đặc điểm của mình, tuy nhiên phải đáp ứng đư ợc các yêu cầu
sau:
- Phát huy được sức mạnh tập thể của toàn doanh nghiệp đối với công tác BHLĐ.
- Thể hiện rõ trách nhiệm chính và trách nhiệm phối hợp của các bộ phận phòng ban, cá
nhân đối với từng nội dung củ thể của công tác BHLĐ, phù hợp với chức năng của mình.
- Bảo đảm sự chỉ đạo tập trung thống nhất và có hiệu quả của giám đốc trong công tác này
và phù hợp với quy định của pháp luật.
Trên hình VI.1 trình bày sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý thư ờng đư ợc dùng trong các
doanh nghiệp:

3.1.2. Hội đồng BHLĐ trong doanh nghiệp:


a/ Cơ sở pháp lý và ý nghĩa của hội đồng BHLĐ doanh nghiệp:
Hội đồng BHLĐ đư ợc thành lập theo quy định của Thông tư liên tịch số 14 giữa bộ
LĐTHXH, Bộ Y tế và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam ngày 31/10/1998.
Hội đồng BHLĐ do Giám đốc doanh nghiệp quyết định thành lập.
Hội đồng BHLĐ là tổ chức phối hợp giữa ngư ời sử dụng lao động và Công đoàn doanh
nghiệp nhằm tư vấn cho ngư ời sử dụng lao động về các hoạt động BHLĐ ở doanh nghiệp,
qua đó đảm bảo quyền tham gia và quyền kiểm tra giám sát về BHLĐ của công đoàn.
b/ Thành phần hội đồng BHLĐ:
1. Chủ tịch HĐ ư đại diện có thẩm quyền của ngư ời sử dụng lao động (thư ờng là Phó
Giám đốc kỹ thuật).
Trang 21
2. Phó chủ tịch HĐ ư đại diện của Công đoàn doanh nghiệp (thư ờng là Chủ tịch hoặc phó
chủ tịch Công đoàn doanh nghiệp).
3. Uỷ viên thư ờng trực kiêm thư ký hội đồng (là trư ởng bộ phận BHLĐ của doanh
nghiệp hoặc cán bộ phụ trách công tác BHLĐ của doanh nghiệp).
Ngoài ra đối với các doanh nghiệp lớn, công nghệ phức tạp, có nhiều vấn đề về ATVSLĐ
có thể có thêm các thành viên đại diện phòng kỹ thuật, y tế, tổ chức…
c/ Nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng: ư Tham gia ý kiến và tư vấn với ngư ời sử dụng
lao động về những vấn đề BHLĐ trong doanh nghiệp.
- Phối hợp với các bộ phận có liên quan trong việc xây dựng các văn bản về quy chế quản
lý, chư ơng trình, kế hoạch BHLĐ của doanh nghiệp.
- Định kỳ 6 tháng, hàng năm tổ chức kiểm tra tình hình thực hiện công tác BHLĐ ở các
phân xư ởng sản xuất.
- Yêu cầu ngư ời quản lý sản xuất thực hiện các biện pháp loại trừ các nguy cơ mất an toàn
trong sản xuất.
3.1.3. Trách nhiệm quản lý công tác BHLĐ trong khối trực tiếp sản xuất:
a/ Trách nhiệm và quyền của quản đốc phân xư ởng hoặc chức vụ tư ơng đư ơng:
Quản đốc phân xư ởng là người chịu trách nhiệm trư ớc giám đốc doanh nghiệp về công
tác BHLĐ tại phân xưởng.
* Trách nhiệm:
- Tổ chức huấn luyện, kèm kặp, hư ớng dẫn đối với lao động mới tuyển dụng hoặc mới
chuyển đến làm việc tại phân xư ởng về ATVSLĐ khi giao việc cho họ.
- Bố trí ngư ời lao động làm việc đúng nghề đư ợc đào tạo, đã đư ợc huấn luyện và đã qua
sát hạch kiến thức ATVSLĐ đạt yêu cầu.
- Thực hiện và kiểm tra đôn đốc các tổ trư ởng sản xuất và mọi ngư ời thực hiện tiêu
chuẩn, quy phạm, quy trình, biện pháp làm việc an toàn và các quy định về BHLĐ.
- Tổ chức thực hiện đầy đủ các nội dung kế hoạch BHLĐ, xử lý kịp thời các thiếu sót đư
ợc phát hiện qua kiểm tra, qua các kiến nghị của các tổ sản xuất, các đoàn thanh tra, kiểm
tra có liên quan đến trách nhiệm của phân xư ởng và báo cáo với cấp trên những vấn đề
ngoài khả năng giải quyết của phân xư ởng.
- Thực hiện khai báo, điều tra tai nạn lao động xẩy ra trong phân xư ởng theo quy định của
nhà nư ớc và phân cấp của doanh nghiệp.
- Phối hợp với chủ tịch công đoàn bộ phận định kỳ tổ chức kiểm tra về BHLĐ ở đơn vị,
tạo điều kiện để mạng lư ới an toàn, vệ sinh viên của phân xư ởng hoạt động có hiệu quả.
* Quyền:
- Không để ngư ời lao động làm việc nếu họ không thực hiện các biện pháp bảo đảm
ATVSLĐ, không sử dụng đầy đủ các trang bị, phư ơng tiện làm việc an toàn, trang bị phư
ơng tiện bảo vệ cá nhân đã đư ợc cấp phát.
- Từ chối nhận ngư ời lao động không đủ trình độ và đình chỉ công việc đối với ngư ời lao
động tái vi phạm cấc quy định bảo đảm an toàn, VSLĐ và phòng chống cháy, nổ..
b/ Trách nhiệm và quyền của tổ trư ởng sản xuất hoặc chức vụ tư ơng đư ơng:

Trang 22
Tổ trư ởng sản xuất là ngư ời chịu trách nhiệm trư ớc quản đốc phân xư ởng điều hành
công tác BHLĐ trong tổ.
* Trách nhiệm:
- Hư ớng dẫn và thư ờng xuyên đôn đốc ngư ời lao động thuộc quyền quản lý, chấp hành
đúng quy trình, biện pháp làm việc an toàn, quản lý sử dụng tốt các trang bị, phư ơng tiện
bảo vệ cá nhân, trang bị phư ơng tiện kỹ thuật an toàn và cấp cứu y tế.
- Tổ chức nơi làm việc đảm bảo an toàn và vệ sinh, kết hợp với an toàn viên của tổ thực
hiện tốt việc tự kiểm tra để phát hiện và xử lý kịp thời các nguy cơ đe dọa đến an toàn và
sức khỏe phát sinh trong quá trình lao.
- Báo cáo với cấp trên mọi hiện tư ợng thiếu an toàn vệ sinh trong sản xuất mà tổ không
giải quyết đư ợc và các trư ờng hợp xảy ra tai nạn lao động, sự cố thiết bị để có biện pháp
xử lý kịp thời.
- Kiểm điểm đánh giá tình trạng ATVSLĐ và việc chấp hành các quy định về ATLĐ trong
các kỳ họp kiểm điểm tình hình lao động sản xuất của tổ.
* Quyền:
- Từ chối nhận ngư ời lao động không đủ trình độ nghề nghiệp và kiến thức về ATVSLĐ.
- Từ chối nhận công việc hoặc dừng công việc của tổ nếu thấy có nfguy cơ đe dọa tính
mạng, sức khỏe của tổ viên và báo cáo kịp thời với phân xư ởng để xử lý.
3.1.4. Công tác chuyên trách về BHLĐ:
a/ Định biên cán bộ BHLĐ trong doanh nghiệp:
- Các doanh nghiệp có dư ới 300 lao động, phải bố trí ít nhất 1cán bộ bán chuyên trách
BHLĐ.
- Các doanh nghiệp có từ 300 đến dư ới 1000 lao động, phải bố trí ít nhất 1 cán bộ chuyên
trách BHLĐ.
- Các doanh nghiệp có từ 1.000 lao động trở lên phải bố trí ít nhất 2 cán bộ chuyên trách
BHLĐ và có thể tổ chức phòng Ban BHLĐ.
- Các Tổng công ty Nhà nư ớc quản lý nhiều doanh nghiệp có nhiều yếu tố độc hại nguy
hiểm phải tổ chức phòng hoặc ban BHLĐ.
b/ Nhiệm vụ và quyền hạn của phòng, ban hoặc cán bộ làm công tác BHLĐ:
* Nhiệm vụ:
- Phối hợp với bộ phận tổ chức lao động xây dựng nội quy, qui chế quản lý công tác
BHLĐ của doanh nghiệp.
- Phổ biến các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, qui phạm về ATVSLĐ của Nhà nư ớc và
của doanh nghiệp đến các cấp và ngư ời lao động.
- Đề xuất việc tổ chức các hoạt động tuyên truyền về ATVSLĐ và theo dõi đôn đốc việc
chấp hành.
- Dự thảo kế hoạch BHLĐ hàng năm, phối hợp với bộ phận kỹ thuật, quản đốc phân xư
ởng, các bộ phận liên quan cùng thực hiện đúng các biện pháp đã đề ra trong kế hoạch
BHLĐ.

Trang 23
- Phối hợp với bộ phận kỹ thuật, quản đốc phân xư ởng, các bộ phận liên quan xây dựng
quy trình, biện pháp ATVSLĐ, phòng chống cháy nổ, quản lý, theo dõi việc kiểm định,
xin giấy phép sử dụng đối với các thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về ATVSLĐ.
- Phối hợp với bộ phận tổ chức lao động, bộ phận kỹ thuật, quản đốc phân xư ởng huấn
luyện về BHLĐ cho ngư ời lao động.
- Phối hợp với bộ phận y tế tổ chức đo đạc các yếu tố có hại trong môI trư ờng lao động,
theo dõi tình hình bệnh nghề nghiệp, tai nạn lao động, đề xuất với ngư ời sử dụng lao động
các biện pháp quản lý và chăm sóc sức khỏe ngư ời lao động.
- Kiểm tra việc chấp hành các chế độ, thể lệ BHLĐ, tiêu chuẩn ATVSLĐ trong doanh
nghiệp và đề xuất biện pháp khắc phục những tồn tại.
- Điều tra và thống kê các vụ tai nạn lao động xảy ra trong doanh nghiệp.
- Tổng hợp và đề xuất với ngư ời sử dụng lao động giảI quyết kịp thời các đề xuất, kiến
nghị của các đoàn thanh tra, kiểm tra.
- Dự thảo trình lãnh đạo doanh nghiệp ký các báo cáo về BHLĐ theo quy định hiện hành.
* Quyền hạn:
- Đư ợc tham dự các cuộc họp giao ban sản xuất, sơ kết, tổng kết tình hình sản xuất kinh
doanh và kiểm kiểm việc thực hiện kế hoạch BHLĐ.ư Đư ợc tham dự các cuộc họp về xây
dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, lập và duyệt các đồ án thiết kế, thi công, nghiệm thu
và tiếp nhận đư a vào sử dụng nhà xư ởng mới xây dựng cải tạo, mở rộng hoặc máy, thiết
bị mới sửa chữa, lắp đặt để có ý kiến về mặt ATVSLĐ.
- Trong khi kiểm tra các bộ phận sản xuất nếu phát hiện thấy các vi phạm hoặc có nguy cơ
xảy ra tai nạn lao động có quyền ra lệnh tạm thời đình chỉ công việc( nếu thấy khẩn cấp)
hoặc yêu cầu ngư ời phụ trách bộ phận sản xuất ra lệnh đình chỉ công việc để thi hành các
biện pháp cần thiết bảo đảm an toàn lao động, đồng thời báo cáo ngư ời sử dụng lao động.
3.1.5. Phòng, ban, trạm y tế doanh nghiệp hoặc cán bộ làm công tác y tế doanh
nghiệp:
Tùy theo mức độ độc hại của môi trư ờng sản xuất và tùy theo số lư ợng lao động, các
doanh nghiệp phải bố trí ytá, y sỹ, bác sỹ làm công tác y tế doanh nghiệp.
a/ Định biên cán bộ y tế:
- Doanh nghiệp có nhiều yếu tố độc hại:
+ Số lao động < 150 ngư ời phải có 1 y tá.
+ Số lao động từ 150 đến 300 ngư ời phải có ít nhất 1 y sĩ.
+ Số lao động từ 301 đến 500 ngư ời phải có 1 bác sĩ và 1 y tá.
+ Số lao động từ 501 đến 1000 ngư ời phải có 1 bác sĩ và mỗi ca làm việc có1 y tá.
+ Số lao động >1000 ngư ời phải thành lập trạm y tế ( phòng, ban) riêng.
- Doanh nghiệp có ít yếu tố độc hại:
+ Số lao động < 300 ngư ời, ít nhất phải có 1 y tá.
+ Số lao động từ 301 đến 500 ngư ời, ít nhất phải có 1 y sĩ và 1 y tá.
+ Số lao động từ 501 đến 1000 ngư ời, ít nhất phải có 1 bác sĩ và 1 y tá.
+ Số lao động >1000 ngư ời phải thành lập trạm y tế ( phòng ban) riêng.

Trang 24
b/ Nhiệm vụ và quyền hạn của bộ phận hoặc cán bộ y tế doanh nghiệp về BHLĐ:
* Nhiệm vụ:
- Tổ chức huấn luyện cho ngư ời lao động về cách sơ cứu tai nạn lao động, mua sắm, bảo
quản trang thiết bị, thuốc phục vụ sơ cứu, cấp cứu và tổ chức tốt việc thư ờng trực theo ca
sản xuất để cấp cứu kịp thời các trư ờng hợp tai nạn lao động.
- Theo dõi tình hình sức khỏe, tổ chức khám sức khỏe định kỳ, tổ chức khám bệnh nghề
nghiệp.
- Kiểm tra việc chấp hành điều lệ vệ sinh, phòng chống dịch bệnh và phối hợp với bộ phận
BHLĐ tổ chức đo, kiểm tra, giám sát các yếu tố có hại trong môi trư ờng lao động, hư ớng
dẫn các phân xư ởng và ngư ời lao động thực hiện các biện pháp về VSLĐ.
- Quản lý hồ sơ VSLĐ và môi trư ờng lao động.
- Theo dõi và hư ớng dẫn việc tổ chức thực hiện chế độ bồi dư ỡng bằng hiện vật cho
những ngư ời làm việc trong điều kiện lao động có hại đến sức khỏe.
- Tham gia điều tra các vụ tai nạn lao động xảy ra trong doanh nghiệp.
- Thực hiện các thủ tục để giám định thư ơng tật cho ngư ời lao động bị tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp.
- Đăng ký với cơ quan y tế địa phư ơng và quan hệ chặt chẽ, tham gia các cuộc họp, hội
nghị ở địa phư ơng để trao đổi kinh nghiệm và nhận sự chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ.
- Xây dựng các báo cáo về quản lý sức khỏe, bệnh nghề nghiệp theo đúng quy định.
* Quyền hạn:
- Đư ợc tham dự các cuộc họp có liên quan để tham gia các ý kiến về mặt VSLĐ để bảo vệ
sức khỏe ngư ời lao động.
- Có quyền yêu cầu ngư ời phụ trách bộ phận sản xuất ra lệnh đình chỉ công việc khi phát
hiện nguy cơ đe dọa nghiêm trọng sức khỏe ngư ời lao động để thi hành các biện pháp cần
thiếtkhắc phục kịp thời nguy cơ trên, đồng thời báo cáo với ngư ời sử dụng lao động.
- Đư ợc sử dụng con dấu riêng theo mẫu quy định của ngành y tế để giao dịch trong
chuyên môn nghiệp vụ.
3.1.6. Mạng lư ới an toàn vệ sinh viên:
Mạng lư ới an toàn vệ sinh viên là hình thức hoạt động về BHLĐ của ngư ời lao động
được thành lập theo thỏa thuận giữa ngư ời SDLĐ và BCH Công đoàn doanh nghiệp nhằm
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của ngư ời lao động và ngư ời SDLĐ.
a/ Tổ chức mạng lư ới:
Tất cả các doanh nghiệp đều phải tổ chức mạng lư ới ATVS viên. Mỗi tổ sản xuất phải bố
trí ít nhất một ATVS viên. Tất cả ATVS viên trong các tổ tạo thành mạng lư ới ATVS
viên của doanh nghiệp.
ATVS viên do tổ bầu ra, là NLĐ trực tiếp, có tay nghề cao, am hiểu tình hình sản xuất và
ATVS trong tổ, có nhiệt tình và gư ơng mẫu về BHLĐ. Để đảm bảo tính khách quan và
hiệu quả cao trong hoạt động, ATVS viên không đư ợc là tổ trư ởng sản xuất.
Ngư ời SDLĐ phối hợp với BCH Công đoàn cơ sở ra quyết định công nhận ATVS viên
và thông báo công khai để mọi NLĐ biết.
Tổ chức Công đoàn quản lý hoạt động hoạt động của mạng lư ới ATVS viên.

Trang 25
ATVS viên có chế độ sinh hoạt, đư ợc bồi dư ỡng nghiệp vụ và đư ợc động viên về mặt
vật chất và tinh thần để hoạt động có hiệu quả.
b/ Nhiệm vụ và quyền hạn của ATVS viên:
- Đôn đốc, kiểm tra giám sát mọi ngư ời trong tổ chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về
ATVS trong sản xuất, bảo quản các thiết bị an toàn, sử dụng trang thiết bị bảo vệ cá nhân,
nhắc nhở tổ trư ởng sản xuất chấp hành các chế độ BHLĐ, hư ớng dẫn biện pháp làm an
toàn đối với công nhân mới tuyển dụng hoặc mới chuyển đến làm việc ở tổ.
- Tham gia góp ý với tổ trư ởng sản xuất trong việc đề xuất các nội dung của kế hoạch
BHLĐ có liên quan đến tổ hoặc phân xư ởng.
- Kiến nghị với tổ trư ởng hoặc cấp trên thực hiện đầy đủ các chế độ BHLĐ, biện pháp
ATVS LĐ và khắc phục kịp thời những hiện tư ợng thiếu ATVS của máy móc thiết bị nơi
làm việc.
3.1.7: Khối các phòng, ban chức năng:
Các phòng, ban trong doanh nghiệp nói chung đều đư ợc giao nhiệm vụ có liên quan đến
công tác BHLĐ của doanh nghiệp. Các phòng, ban chức năng có trách nhiệm sau:
a/ PhòngTổ chức lao động:
- Phối hợp với các phân xư ởng và các bộ phận có liên quan tổ chức và huấn luyện lực lư
ợng phòng chống tai nạn, sự cố trong sản xuất phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp.
- Phối hợp với bộ phận BHLĐ và các phân xư ởng sản xuất tổ chức thực hiện các chế độ
BHLĐ, đào tạo, nâng cao tay nghề kết hợp với huấn luyện về ATVSLĐ, trang bị phư ơng
tiện bảo vệ cá nhân, thời gian làm việc, nghỉ ngơi, bồi dư ỡng hiện vật, bồi thư ờng tai nạn
lao động, bảo hiểm xã hội…
- Bảo đảm việc cung cấp đầy đủ, kịp thời nhân công để thực hiện tốt các nội dung, biện
pháp đề ra trong kế hoạch BHLĐ.
b/ Phòng kỹ thuật:
-Nghiên cứu cải tiến trang thết bị, hợp lý hóa sản xuất và các biện pháp về kỹ thuật an
toàn, kỹ thuật vệ sinh để đư a vào kế hoach BHLĐ và hư ớng dẫn giám sát việc thực hiện
các biện pháp này.
- Biên soạn, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy trình, các biện pháp làm việc an toàn
đối với các máy móc, thiết bị, hóa chất và từng công việc, các phư ơng án ứng cứu khẩn
cấp khi có sự cố, biên soạn tài liệu giảng dạy về ATVSLĐ và phối hợp với bộ phận BHLĐ
tổ chức huấn luyện cho NLĐ.
- Tham gia kiểm tra định kỳ về ATVSLĐ và tham gia điều tra tai nạn lao động.
- Phối hợp với bộ phận BHLĐ theo dõi việc quản lý, đăng ký, kiểm định và xin cấp giấy
phép sử dụng các máy móc, thiết bị, vật tư , các chất có yêu cầu nghiêm nghặt về
ATVSLĐ và chế độ thử nghiệm đối với các loại thiết bị an toàn, trang bị bảo vệ cá nhân
theo quy định.
c/ Phòng kế hoạch, phòng vật tư và phòng tài vụ:
- Tham gia vào việc lập kế hoạch BHLĐ, tổng hợp các yêu cầu về nguyên vật liệu, nhân
lực và cung cấp kinh phí trong kế hoạch BHLĐ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và tổ chức thực hiện.

Trang 26
- Cung cấp kinh phí mua sắm, bảo quản cấp phát đầy đủ, kịp thời, đúng chất lư ợng những
vật liệu, dụng cụ, trang bị, phư ơng tiện BHLĐ, phư ơng tiện khắc phục sự cố sản xuất có
chất lư ợng theo đúng kế hoạch.
d/ Phòng bảo vệ:
Phòng bảo vệ ngoài chức năng tham gia công tác BHLĐ trong doanh nghiệp, có thể đư ợc
giao nhiệm vụ tổ chức và quản lý lực lư ợng chữa cháy của doanh nghiệp nên nhiệm vụ
của phòng bảo vệ là:
- Tổ chức lực lư ợng chữa cháy với số lư ợng và chất lư ợng đảm bảo.
- Trang bị đầy đủ các phư ơng tiện, thiết bị, dụng cụ chữa cháy.
- Huấn luyện nghiệp vụ chữa cháy cho lực lư ợng phòng cháy chữa cháy.
- Phối hợp với công an phòng chống chữa cháy ở địa phư ơng xây dựng các tình huống
cháy và phư ơng án chữa cháy của doanh nghiệp.
3.2. Nội dung công tác BHLĐ trong doanh nghiệp
3.2.1. Kế hoạch bảo hộ lao động:
Đư ợc thực hiện theo Thông tư liên tịch số 14 giữa Bộ LĐTBXH, Bộ Y tế và Tổng Liên
đoàn lao động Việt Nam ngày 31/10/1998.
a/ ý nghĩa của kế hoạch BHLĐ:
Kế hoach BHLĐ là một văn pháp lý của doanh nghiệp nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn
chặn tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc những tác động xấu đến sức khỏe ngư ời lao
động Kế hoạch BHLĐ là nghĩa vụ đầu tiên của ngư ời SDLĐ về BHLĐ đã đư ợc quy định
trong điều 13 chư ơng IV Nghị định 06/CP.
Dựa vào kế hoạch BHLĐ ngư ời ta có thể đánh giá đư ợc ý thức trách nhiệm, tính chấp
hành pháp luật cũng như sự quan tâm cụ thể đến công tác BHLĐ của ngư ời SDLĐ. Chỉ
khi có kế hoạch BHLĐ thì công tác BHLĐ của doanh nghiệp mới đư ợc thực hiện tốt.
b/ Nội dung của kế hoạch BHLĐ:
Kế hoạch BHLĐ gồm 5 nội dung chính sau:
- Các biện pháp về kỹ thuật an toàn và phòng chống cháy nổ.
- Các biện pháp về kỹ thuật VSLĐ và cải thiện điều kiện làm việc.
- Trang bị phư ơng tiện bảo vệ cá nhân cho NLĐ làm công việc nguy hiểm có hại.
- Chăm sóc sức khỏe ngư ời lao động, phòng ngừa bệnh nghề nghiệp.
- Tuyên truyền, giáo dục, huấn luyện về BHLĐ.
c/ Yêu cầu của kế hoach BHLĐ:
- Kế hoạch BHLĐ phải đảm bảo ATVSLĐ, đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh
củadoanh nghiệp, phù hợp với tình hình doanh nghiệp.
- Kế hoạch BHLĐ phải bao gồm đủ năm nội dung trên với những biện pháp cụ thể kèm
theo kinh phí, vật tư , ngày công, thời gian bắt đầu, thời gian hoàn thành, trách nhiệm của
từng bộ phận, cá nhân trong việc tổ chức thực hiện.
d/ Lập và tổ chức thực hiện kế hoạch BHLĐ:
* Căn cứ để lập kế hoạch:
- Nhiệm vụ, phư ơng hư ớng kế hoạch sản xuất kinh doanh và tình hình lao động của năm
Trang 27
kế hoạch.
- Kế hoạch BHLĐ của năm trư ớc và những thiếu sót, tồn tại trong công tác BHLĐ đư ợc
rút ra từ các vụ tai nạn lao động, cháy nổ, bệnh nghề nghiệp, từ các báo cáo kiểm điểm
việc thực hiện công tác BHLĐ năm trư ớc.
- Các kiến nghị phản ánh của ngư ời lao động, ý kiến của tổ chức Công đoàn và kiến nghị
của đoàn thanh tra, kiểm tra.
- Tình hình tài chính của doanh nghiệp. Kinh phí trong kế hoạch BHLĐ đư ợc hạch toán
vào giá thành sản phẩm hoặc phí lư u thông của doanh nghiệp.
* Tổ chức thực hiện:
- Sau khi kế hoạch BHLĐ đư ợc ngư ời SDLĐ hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt thì bộ
phận kế hoạch của doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện.
-Ban BHLĐ hoặc cán bộ BHLĐ phối hợp với bộ phận kế hoạch của doanh nghiệp đôn đốc
kiểm tra việc thực hiện và thư ờng xuyên báo cáo với ngư ời SDLĐ, bảo đảm kế hoạch
BHLĐ đư ợc thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn.
-Ngư ời SDLĐ có trách nhiệm định kỳ kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện kế hoạch
BHLĐ và thông báo kết quả thực hiện cho ngư ời lao động trong đơn vị biết.
3.2.2. Công tác huấn luyện ATLĐ, VSLĐ:
a/ Cơ sở pháp lý và ý nghĩa của công tác huấn luyện:
Công tác huấn luyện về ATVSLĐ đã đư ợc điều 102 của Bộ luật Lao động quy định và
đư ợc cụ thể hóa trong điều 13 chư ơng IV Nghị định 06/CP, trong thông tư 08/LĐTBXH
ngày 11/4/1995 và Thông tư 23/LĐTBXH ngày 19/05/1995.
- Huấn luyện ATVSLĐ là một trong những biện pháp phòng tránh tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp có hiệu quả rất cao và rất kinh tế, không đòi hỏi mất nhiều tiền bạc cũng
như thời gian.
b/ Yêu cầu của công tác huấn luyện:
Công tác huấn luyện ATVS LĐ cần đạt đư ợc những yêu cầu sau:
- Tất cả mọi ngư ời tham gia quá trình lao động sản xuất đều phải đư ợc huấn luyện đầy đủ
về ATVSLĐ.
- Phải có kế hoạch huấn luyện hàng năm trong đó nêu rõ thời gian huấn luyện, số đợt huấn
luyện, số ngư ời huấn luyện ( huấn luyện lần đầu và huấn luyện lại).
- Phải có đầy đủ hồ sơ huấn luyện theo đúng quy định: sổ đăng ký huấn luyện, biên bản
huấn luyện, danh sách kết quả huấn luyện ...
- Phải đảm bảo huấn luyện đầy đủ các nội dung quy định: Mục đích, ý nghĩa của công tác
ATVSLĐ, những nội dung cơ bản pháp luật, chế độ, chính sách BHLĐ, các quy trình, qui
phạm an toàn, các biện pháp tổ chức quản lý sản xuất, làm việc ATV ...
- Phải bảo đảm chất lư ợng huấn luyện: Tổ chức quản lý chặt chẽ, bố trí giảng viên có chất
lư ợng, cung cấp đầy đủ tài liệu đáp ứng yêu cầu huấn luyện, tổ chức kiểm tra, sát hạch
nghiêm túc, cấp thẻ an toàn hoặc ghi kết quả vào sổ theo dõi huấn luyện đối với những
ngư ời kiểm tra đạt yêu cầu.
3.2.3. Quản lý vệ sinh lao động, sức khoẻ ngư ời lao động, bệnh nghề nghiệp:
a/ Quản lý vệ sinh lao động:

Trang 28
- Ngư ời sử dụng lao động phải có kiến thức về VSLĐ, bệnh nghề nghiệp và các biện pháp
phòng chống tác hại của môi trư ờng lao động, phải tổ chức cho ngư ời lao động học tập
các kiến thức đó.
- Phải kiểm tra các yếu tố có hại trong môi trư ờng lao động ít nhất mỗi năm một lần và có
biện pháp xử lý kịp thời. Có hồ sơ lư u trử và theo dõi kết quả đo theo quy định.
- Phải có luận chứng về các biện pháp bảo đảm ATVSLĐ đối với các công trình xây dụng
mới hoặc cải tao, các máy móc thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về VSLĐ, luận
chứng đó phải do thanh tra vệ sinh xét duyệt.
b/ Quản lý sức khoẻ ngư ời lao động, bệnh nghề nghiệp:
- Phải trang bị đầy đủ phư ơng tiện kỹ thuật y tế thích hợp, có phư ơng án cấp cứu dự
phòng để có thể sơ cấp cứu kịp thời.
- Phải tổ chức lực lư ợng cấp cứu, tổ chức huấn luyện cho họ phư ơng pháp cấp cứu tại
chỗ.
- Tổ chức khám sức khoẻ trư ớc khi tuyển dụng; khám sức khoẻ định kỳ 6 tháng hoặc một
năm một lần.
- Tổ chức khám bệnh nghề nghiệp cho những ngư ời làm việc trong điều kiện có nguy cơ
mắc bệnh nghề nghiệp để phát hiện và điều trị kịp thời.
c/ Chế độ báo cáo:
Ngư ời sử dụng lao động phải lập kế hoạch và thực hiện chế độ báo cáo định kỳ 3, 6, 12
tháng các nội dung trên cho sở Y tế địa phư ơng.
3.2.4. Khai báo, điều tra, thống kê, báo cáo định kỳ về tai nạn lao động.
a/ Khai báo, điều tra tai nạn lao động:
Tai nạn lao động đư ợc phân thành ba loại TNLĐ chết ngư ời, TNLĐ nặng và TNLĐ nhẹ.
Mục đích của công tác điều tra TNLĐ nhằm xác định rõ nguyên nhân của TNLĐ, quy rõ
trách nhiệm những ngư ời để xảy ra TNLĐ, có biện pháp xử lý, giáo dục đúng mức và từ
đó đề ra những biện pháp thích hợp đề phòng những tai nạn tư ơng tự xảy ra.
Yêu cầu của công tác điều tra TNLĐ là phải phản ánh chính xác, đúng thực tế tai nạn, tiến
hành điều tra đúng các thủ tục, đúng các mặt như hồ sơ, trách nhiệm, chi phí và thời gian
theo quy định.
b/ Thống kê báo cáo định kỳ:
* Nguyên tắc chung:
- Các vụ TNLĐ mà ngư ời bị tai nạn phải nghỉ 1ngày trở lên đều phải thống kê và báo cáo
định kỳ.
- Cơ sở có trụ sở chính đóng ở địa phư ơng nào thì báo cáo định kỳ TNLĐ với sở
LĐTBXH ở địa phư ơng đó và cơ quan quản lý cấp trên nếu có.
- Các vụ TNLĐ thuộc lĩnh vực đặc biệt ( phóng xạ, khai thác dầu khí, vận tải thủy, bộ,
hàng không…) ngoài việc báo cáo theo quy định còn phải báo cáo với cơ quan nhà nư ớc
về ATLĐ, VSLĐ chuyên ngành ở Trung ư ơng.
* Chế độ báo cáo định kỳ về TNLĐ:
Theo phụ lục thông tư 23/LĐTBXH- TT thì các doanh nghiệp phải tổng hợp tình hình
TNLĐ trong 6 tháng đầu năm trư ớc ngày 10/7, cả năm trư ớc ngày15/1 năm sau và báo
cáo với sở LĐTBXH. Ngoài ra doanh nghiệp còn phải thực hiện báo cáo chung định kỳ
Trang 29
như trên về công tác BHLĐ gửi cơ quan quản lý cấp trên theo mẫu phụ lục quy định.6.2.5.
Thực hiện một số chế độ cụ thể về BHLĐ đối với ngư ời lao động
a/ Trang bị phư ơng tiện bảo vệ cá nhân:
Đối tư ợng để đư ợc trang bị phư ơng tiện bảo vệ cá nhân là tất cả những ngư ời lao động
trực tiếp trong môi trư ờng có yếu tố nguy hiểm, độc hại, các cán bộ quản lý thư ờng
xuyên đi thanh tra, kiểm tra, giám sát hiện trư ờng có các yếu tố trên, các cán bộ nghiên
cứu, giáo viên giảng dạy, sinh viên thực tập, học sinh học nghề, ngư ời thử việc trong môi
trư ờng có yếu tố nguy hiểm, độc hại.
Yêu cầu đối với phư ơng tiện bảo vệ cá nhân là phải phù hợp việc ngăn ngừa có hiệu quả
các tác hại của các yếu tố nguy hiểm, độc hại trong môi trư ờng lao động như ng lại thuận
tiện và dễ dàng trong sử dụng cũng như bảo quản đồng thời bảo đảm đạt tiêu chuẩn quy
phạm về ATLĐ của nhà nư ớc ban hành.
b/ Chế độ bồi dư ỡng bằng hiện vật đối với ngư ời lao động làm việc trong điều kiện có
yếu tố nguy hiểm độc hại:
*Nguyên tắc bồi dư ỡng bằng hiện vật:
- Khi ngư ời lao động đã áp dụng các biện pháp kỹ thuật, các thiết bị an toàn vệ sinh lao
động để cải thiện điều kiện lao động như ng chư a khắc phục đư ợc hết các yếu tố độc hại
thì ngư ời SDLĐ phải tổ chức bồi dư ỡng bằng hiện vật cho ngư ời lao động để ngăn ngừa
bệnh tật và đảm bảo sức khoẻ cho ngư ời lao động.
- Việc tổ chức bồi dư ỡng bằng hiện vật phải thực hiện trong ca làm việc, bảo đảm thuận
tiện và vệ sinh, không đư ợc trả bằng tiền, không đư ợc đư a vào đơn giá tiền lư ơng ( đư
ợc hạch toán vào giá thành sản phẩm hoặc phí lư u thông).
* Mức bồi dư ỡng:
Bồi dư ỡng bằng hiện vật đư ợc tính theo định suất và có giá trị bằng tiền theo các mức
sau:
- Mức 1, có giá trị bằng 2.000 đ.
- Mức 2, có giá trị bằng 3.000 đ.
- Mức 3, có giá trị bằng 4.500 đ.
- Mức 4, có giá trị bằng 6.000 đ ( chỉ áp dụng với các nghề, công việc mà môi trư ờng lao
động có yếu tố đặc biệt độc hại nguy hiểm)
Hiện vật dùng bồi dư ỡng phải đáp ứng đư ợc nhu cầu về giúp cơ thể thải độc, bù đắp
những tổn thất về năng lư ợng, các muối khoáng và vi chất…Có thể dùng đư ờng, sữa,
trứng, chè, hoa quả… hoặc các hiện vật có giá trị tư ơng đư ơng.
c/ Chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Ngư ời lao động nếu bị tai nạn sẽ đư ợc:
- Ngư ời SDLĐ thanh toán các khoản chi phí y tế và tiền lư ơng từ khi sơ cứu, cấp cứu đến
khi điều trị ổn định thư ơng tật. Tiền lư ơng trả trong thời gian chữa trị đư ợc tính theo
mức tiền lư ơng đóng bảo hiểm xã hội của tháng trư ớc khi bị TNLĐ.
- Đư ợc hư ởng trợ cấp một lần từ 4 đến 12 tháng lư ơng tối thiểu nếu mức suy giảm khả
năng lao động từ 5 ư 30% hoặc hư ởng trợ cấp hàng tháng với mức từ 0,4 ư 1,6 tháng tiền
lư ơng tối thiểu nếu mức suy giảm khả năng lao động từ 31- 100%.

Trang 30
- Đư ợc phụ cấp phục vụ bằng 80% mức tiền lư ơng tối thiểu nếu mức suy giảm khả năng
lao động từ 81% trở lên mà bị liệt cột sống, mù 2 mắt, cụt 2 chi, tâm thần nặng.
- Đư ợc trang cấp phư ơng tiện trợ giúp cho sinh hoạt phù hợp với tổn thất chức năng do
tai nạn gây ra như : chân tay giả, mắt giả, răng giả, máy trợ thính, xe lăn…
- Ngư ời lao động chết khi bị tai nạn lao động ( kể cả chết trong thời gian điều trị lần
đầu)thì gia đình đư ợc trợ cấp một lần bằng 24 tháng tiền lư ơng tối thiểu và đư ợc hư ởng
chế độ tử tuất.
- Ngư ời lao động bị mắc bệnh nghề nghiệp theo danh mục bệnh nghề nghiệp hiện hành đư
ợc hư ởng chế độ trợ cấp bệnh nghề nghiệp như đối với ngư ời bị tai nạn lao động nói trên.
3.2.6. Khen thư ởng, xử phạt về BHLĐ trong doanh nghiệp
a/ Khen thư ởng:
- Khen thư ởng riêng về BHLĐ trong các đợt sơ, tổng kết công tác BHLĐ của doanh
nghiệp bằng hình thức giấy khen và vật chất.
- Khen thư ởng hàng tháng kết hợp thành tích BHLĐ với sản xuất và thể hiện trong việc
phân loại A, B, C để nhận lư ơng.
- Những ngư ời có thành tích xuất sắc trong một thời gian dài có thể đư ợc doanh nghiệp
đề nghị cấp trên khen thư ởng.
b/ Xử phạt:
Có thể xử phạt ngư ời lao động vi phạm BHLĐ với những mức sau:
- Không chấp hành quy định về BHLĐ như ng chư a gây tai nạn và chư a ảnh hư ởng đến
sản xuất sẽ bị trừ điểm thi đua và chỉ phân loại B, C, không đư ợc xét lao động giỏi, thậm
chí sẽ chậm xét nâng bậc lư ơng.
- Trư ờng hợp vi phạm nặng hơn tuỳ theo mức độ phạm lỗi có thể bị xử lý theo điều 84
của Bộ Luật lao động với các hình thức sau:
+ Khiển trách
+ Chuyển làm công việc khác có mức lư ơng thấp hơn tối đa là 6 tháng
+ Sa thải( chỉ áp dụng trong những trư ờng hợp ghi trong điều 85)
- Về trách nhiệm vật chất: Nếu ngư ời lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có
hành vi khác gây thiệt hại cho tài sản của doanh nghiệp thì phải bồi thư ờng theo quy định
của pháp luật về thiệt hại đã gây ra. Nếu gây thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất, thì
phải bồi thư ờng nhiều nhất 3 tháng lư ơng và bị khấu trừ dần vào lư ơng tuy nhiên không
đư ợc khấu trừ quá 30% tiền lư ơng tháng.

Trang 31
CHƯƠNG 4
KỸ THUẬT AN TOÀN TRONG CƠ KHÍ VÀ LUYỆN KIM

4.1. Những nguyên nhân gây ra tai nạn lao động trong Cơ khí và Luyện kim
4.1.1. Định nghĩa về những mối nguy hiểm trong Cơ khí và Luyện kim:
Mối nguy hiểm trong Cơ khí và Luyện kim là những nơi phát sinh nguy hiểm do hình
dạng, kích thước, chuyển động của các phương tiện làm việc, phương tiện trợ giúp,
phương tiện vận chuyển cũng như chi tiết bị tổn thương trong quá trình lao động như kẹp
chặt, cắt xuyên thủng, thủng, va đập, bắn té kim loại…gây ra sự cố tổn thương ở các mức
độ khác nhau.
Trên hình IV.1 giới thiệu các vùng nguy hiểm của các máy móc có thể gây ra tai nạn lao
động.

Trang 32
4.1.2. Những nguyên nhân gây ra tai nạn lao động trong gia công nguội-lắp ráp-sửa
chữa:

Trang 33
Do các dụng cụ cầm tay (cưa sắt, dũa, đục…) va chạm vào người lao động hoặc người lao
động dùng ẩu các dụng cụ cầm tay( búa long cán, chìa khoá không đúng cỡ, miệng chìa đã
biến dạng không còn song song nhau…)
Do các máy móc, thiết bị đơn giản (máy ép cỡ nhỏ, máy khoan bàn, đá mài máy...) có kết
cấu không đảm bảo bền, thiếu đồng bộ, thiếu các cơ cấu an toàn.
Do gá kẹp chi tiết không cẩn thận, không đúng kỹ thuật, bố trí các bàn nguội không đúng
quy cách kỹ thuật.
Do đá mài bị vỡ văng ra, chạm vào đá mài, vật mài bắn té vào…
Do động tác và tư thế thao tác không đúng .
Do thao tác các máy đột, dập không đúng quy trình, quy phạm về ATLĐ...
4.1.3. Những nguyên nhân gây ra tai nạn lao động trong gia công cắt gọt:
Trong máy công cụ, máy tiện chiếm tỷ lệ cao (40%) vì máy tiện được sử dụng khá phổ
biến vì vậy nguyên nhân gây chấn thương đối với máy tiện là do tốc độ cao, phoi ra nhiều
và liên tục, phoi ra thành dây dài, quấn và văng ra xung quanh, phoi có nhiệt độ cao, phoi
vụn có thể bắn vào người đứng ở phía đối diện người đang gia công.
Khi khoan, mũi khoan lắp không chặt có thể văng ra, bàn gá kẹp phôi không chặt làm cho
vật gia công bị văng ra.
Khi mài nếu đứng không đúng vị trí, khi đá mài vỡ có thể văng ra ngoài, tay cầm không
chắc hoặc khoảng cách ngắn làm cho đá mài có thể tiếp xúc vào tay công nhân…
Các cơ cấu truyền động trong các máy công cụ nói chung như bánh răng, dây cu roa,...
cũng có thể gây ra tai nạn. áo quần công nhân không đúng cở, không gọn gàng...có thể bị
quấn vào máy và gây nên tai nạn…
4.1.4. Những nguyên nhân gây ra tai nạn lao động trong Đúc- Luyện kim
Kim loại lỏng ở nhiệt độ cao tạo ra bức xạ nhiệt lớn vào môi trường, cột hồ quang khi nấu
luyện kim loại lỏng còn phát ra tia tử ngoại có năng lượng rất lớn có thể gây viêm mắt,
bỏng da…
Một nguyên nhân thường gây nên tai nạn phổ biến trong ngành luyện kim là bị bỏng do
nước kim loại bắn toé vào hoặc do các vật tiếp xúc với nước kim loại không được hong
khô hoặc do khuôn đúc chưa sấy khô nên hơi ẩm bám trên các vật đó bị kim loại lỏng làm
cho bốc hơi mạnh gây bắn toé, thậm chí gây nổ do tăng thể tích đột ngột.
Trong việc làm sạch hệ thống rót và chặt ba via trên vật đúc cũng dễ bị xây xát chân tay
do mặt xù xì và sắc cạnh của vật đúc gây nên.
Trong quá trình chuẩn bị nguyên vật liệu cho nấu luyện, sửa chữa thùng rót, máng đúc
liên tục, quá trình nấu luyện…cũng dễ gây tai nạn.
4.1.5. Những nguyên nhân gây ra tai nạn lao động trong hàn và cắt kim loại:
Khi hàn điện có thể bị điện giật. Hồ quang hàn bức xạ rất mạnh dễ làm bỏng da, làm đau
mắt. Khi hàn kim loại lỏng bắn toé dể gây bỏng da thợ hàn và những người xung quanh
Ngọn lửa hàn có thể gây cháy, nổ. Khi que hàn cháy sinh nhiều khí độc hại và bụi như CO
2 , bụi si líc, bụi măng gan, bụi ôxit kẽm,... rất có hại cho hệ hô hấp và sức khoẻ của công
nhân.
Khi hàn ở các vị trí khó khăn như: hàn trong ống, những nơi chật chội, nhiều bụi, gần nơi
ẩm thấp hoặc hàn trên cao đều là những nguy cơ gây tai nạn…

Trang 34
Khi hàn hơi dễ nổ bình hoặc sinh ra hoả hoạn…
4.1.6. Những nguyên nhân gây ra tai nạn lao động trong gia công áp lực:
Quá trình cán, rèn tự do hoặc dập thể tích thường tiến hành gia công ở trạng thá nóng do
đó nhiều nguyên nhân gây nên tai nạn như bị bỏng, tiếp xúc môi trường nhiệt độ cao..
Do vật rèn đang nóng ở nhiệt độ cao nên công nhân vô ý sờ, dẫm vào. Do cán búa tra vào
không chặt nên búa dễ bị văng ra khi quai búa hoặc kìm kẹp không chặt làm cho vật rèn bị
rơi ra khi lấy ra khỏi lò.
Do đặt sai vị trí vật rèn trên bệ đe nên dễ bị văng ra khi dùng máy búa.
Do kẹp phôi và điều chỉnh khuôn khi dập trên máy không đúng dễ bị bung khuôn…
4.2. Những biện pháp an toàn trong ngành Cơ khí-Luyện kim
4.2.1. Kỹ thuật an toàn trong khâu thiết kế máy và trang thiết bị:
Khi thiết kế máy và thiết bị phụ trợ phải đảm bảo khoa học về Ecgônômi (đã được nghiên
cứu trong chương I). Một số vấn đề cụ thể cần phải chú ý sau:
- Máy thiết kế phải phù hợp với thể lực và các đặc điểm của người sử dụng. Phải tính đến
khả năng điều khiển của con người, phù hợp với tầm vóc người, tầm với tay, chiều cao,
chân đứng, tầm nhìn quan sát xung quanh, khả năng nghe được v.v...
Máy thiết kế phải tạo được tư thế làm việc thoải mái, tránh gây cho người sử dụng ở tư thế
gò bó, chóng mỏi mệt ...
Hình thức, kết cấu máy, màu sơn cũng nên chọn cho có tính thẩm mỹ và phù hợp với
tâmsinh lý người lao động, tạo cảm giác dễ chịu khi làm việc, dể phân biệt khi dùng ...
Các bộ phận máy phải dể quan sát, kiểm tra, lắp ráp và sửa chữa, bảo dưỡng...Phải chú ý
bố trí trọng tâm của máy cho chuẩn, giá đỡ vững vàng... đảm bảo cho máy làm việc ổn
định. Phải thiết kế các cơ cấu bao che, cơ cấu tự ngắt, cơ cấu phanh, hãm. Phải có các cơ
cấu an toàn như đèn hiệu, phát tín hiệu âm thanh (còi, chuông reo...) hay các đồng hồ báo
các chỉ số trong phạm vi an toàn. Các cơ cấu phải bố trí thuận lợi cho thao tác, tránh nhầm
lẫn khi sử dụng…
4.2.2. Kỹ thuật an toàn khi lắp ráp, sửa chữa và thử máy:
Khi lắp ráp sửa chữa máy cần thiết phải đảm bảo các nội dung sau:
Đảm bảo an toàn khi di chuyển, tháo lắp và có chế độ kiểm tra sau khi lắp ráp.
Việc sửa chữa bảo dưỡng định kỳ hoặc đột xuất phải báo cho đốc công biết. Chỉ những
công nhân cơ điện, được qua huấn luyện mới sửa chữa, điều chỉnh máy móc thiết bị.
Trước khi sửa chữa, điều chỉnh phải ngắt nguồn điện, tháo đai truyền khỏi puli và treo
bảng “Cấm mở máy” trên bộ phận mở máy.
Khi sửa chữa, tháo dỡ hoặc lắp đặt thiết bị, tuyệt đối không được dùng các vì kèo, cột,
tường nhà để neo, kích kéo... để phòng quá tải đối với các kết cấu kiến trúc gây tai nạn sập
mái, đổ cột, đổ tường...
Sửa chữa những máy cao quá 2m phải có giàn giáo, có sàn làm việc, cầu thang leo lên
xuống và tay vịn chắc chắn.
Khi sử dụng các dụng cụ cầm tay bằng khí nén phải chú ý kiểm tra các đầu nối, không để
rò khí, các chổ nối phải chắc chắn, các van đóng mở phải dễ dàng. Cấm sử dụng các dụng
cụ khí nén làm việc ở chế độ không tải. Khi sửa chữa, điều chỉnh xong, phải kiểm tra lại

Trang 35
toàn bộ các thiết bị an toàn che chắn rồi mới được thử máy. Dò khuyết tật nếu cần thiết
sau khi đã lắp ráp hay sửa chữa xong.
Thử máy khi kiểm tra lắp đặt máy: bao gồm chạy thử không tải, chạy non tải, chạy quá tải
an toàn. Không sử dụng quá công suất máy, chú ý vận hành đúng hướng dẫn vận hành và
yêu cầu của quy trình công nghệ.
Để đề phòng công nhân bị vô tình chạm các nút điều khiển điện yêu cầu các nút điều khiển
phải lắp đặt thấp hơn mép hộp bảo vệ và phải ghi rõ chức năng “ Hãm”, “ Mở ”; “ Tắt “...
4.2.3. Kỹ thuật an toàn khi gia công nguội:
Bàn nguội phải phù hợp với kích thước quy định: chiều rộng khu làm việc một phía không
được nhỏ hơn 750 mm và khi làm việc hai phía phải > 1300mm. Chiều cao bàn nguội 850-
950 mm. Đối với bàn nguội làm việc hai phía, ở chính giữa bàn phải có lưới chắn với kích
thước quy định cho chiều cao không thấp hơn 800 mm và mắt lưới không lớn hơn 3x3
mm. Khi bàn nguội làm việc một phía phải tránh hướng phoi bắn về phía chỗ làm việc của
các công nhân khác. Các êtô lắp trên bàn nguội phải chắc chắn, khoảng cách giữa hai êtô
trên một bàn không được nhỏ hơn 1000 mm.
Khi mài các mũi khoan, dao tiện…phải mài theo đúng những góc độ kỹ thuật quy định.
Việc mài các dụng cụ này chỉ có những công nhân đã được qua huấn luyện mới được phép
làm.
Thiết bị phải được đặt trên nền có đủ độ cứng vững để chịu được tải trọng của bản thân
thiết bị và lực động do thiết bị khi làm việc sinh ra.
Chỗ làm việc của công nhân cần có giá, tủ, ngăn bàn, để chứa dụng cụ và phải có chỗ để
xếp phôi liệu và thành phẩm. Các bàn, giá, tủ phải bố trí gọn và không trở ngại đến các
đường vận chuyển trong nội bộ phân xưởng.
4.2.4. Kỹ thuật an toàn khi gia công áp lực:
Cán các loại búa tay, búa tạ phải làm bằng gỗ, thớ dọc, khô, dẻo, không có mắt và vết nứt.
Yêu cầu cán đối với búa tay có chiều dài từ 350ữ450 mm, và cán búa tạ chiều dài từ 650-
850 mm. Đầu búa phải nhẵn và hơi lồi, mép lỗ không có vết nứt. Trục cán búa phải vuông
góc với đường trục dọc của đầu búa. Khi nêm búa không được để cán búa có vết nứt dọc
trục .
Các dụng cụ rèn tự do như: đục, mũi đột... phải có chiều dài tối thiểu là 150 mm. Đầu
đánh búa phải phẳng, không bị vát nghiêng, nứt. Với các dụng cụ có chuôi phải có đai
chống lỏng và chống nứt cán.
Những dụng cụ cầm tay sử dụng hơi nén cần có lưới bao ở các khớp nối để tránh các chi
tiết này văng ra. Khóa các van điều khiển phải nhạy và có hiệu quả mở tốt. ống cao su dẫn
hơi nén phải phù hợp với kích thước của khớp ống và áp suất sử dụng.
Việc di chuyển các phôi rèn lớn phải tiến hành bằng cơ giới hoá, không được làm thủ công
dể xảy ra tai nạn do phôi tuột khỏi kìm kẹp bằng tay. Các đe rèn phải đặt trên gỗ thớ dọc,
gỗ chắc, dài và đế phải có đai xiết chặt và chôn sâu xuống đất tối thiểu nửa mét. Giữa các
đe với nhau phải có khoảng cách ít nhất 2,5 m để tránh các đường quai búa cắt nhau. Mặt
đe phải nhẵn, độ nghiêng không quá 2%.
Khoảng cách tối thiểu từ lò nung đến đe là 1,5 m. Giữa lò và đe không được bố trí đường
vận chuyển. Cửa lò phải chắc chắn, nếu bố trí cửa lò gần vùng nhiệt độ cao phải xây một
lớp gạch chịu nhiệt để khống chế nhiệt độ ở khu vực làm việc không nóng quá 40 0 C. Các
loại cửa lò đóng mở bằng đối trọng phải bao che đường di chuyển của đối trọng để đề

Trang 36
phòng cáp đứt, đối trọng rơi gây tai nạn. Việc đặt các ống khói lò nung phải đảm bảo có
độ cao, cao hơn những công trình kiến trúc xung quanh và phải có thiết bị chống sét, có
chụp che mưa và không đặt ống khói cạnh những phần dễ bắt lửa của cấu trúc nhà xưởng.
Khi thao tác búa máy không được để búa đánh trực tiếp lên mặt đe. Nếu búa đánh liền hai
lần của một lần đạp bàn đạp điều khiển phải ngừng làm việc để sữa chữa.
Sau khi điều khiển phải nhấc chân ra khỏi bàn đạp. Đối với các máy đột dập phải thường
xuyên kiểm tra các cơ cấu an toàn xem hoạt động của chúng có bình thường không và
tuyệt đối không dùng một tay để điều khiển các cơ cấu quy định điều khiển bằng hai tay.
Các khuôn dập phải bắt chặt trên bàn máy. Tất cả các bộ phận máy chịu áp lực của chất
lỏng hay chất khí đều phải kiểm tra định kì. Đối với máy đột dập tự động cấm không dùng
tay cấp phôi.
Ngoài ra cần thông gió tốt (chống nóng), nhắc nhở công nhân tránh mệt mỏi, buồn ngủ
dẫn đến đánh búa không chính xác.
4.2.5. Kỹ thuật an toàn trong quá trình Đúc-Luyện kim:
Khi làm khuôn phải chống nhiễm bụi ( bụi cát, bột grafit…). Khi sấy khuôn lõi cần chú ý
không để tiếp xúc vào lò sấy và tạo điều kiện thông gió tốt để cho hơi ẩm thoát dễ dàng.
Khi nấu luyện và rót kim loại phải có biện pháp chống nóng, chống bỏng và chống mất
nước (với năng lượng lớn có thể gây viêm mắt, bỏng da ). Phải có áo quần và dày dép
chuyên dụng để tránh bị bỏng do nước kim loại bắn té vào cơ thể hoặc do các vật tiếp xúc
với nước kim loại, phải đeo kính luyện kim để chống tia bức xạ. Không làm mát bằng
nước mà chỉ cho phép dùng quạt gió. Chú ý khi làm sạch vật đúc tránh va chạm với các ba
via của các vật đúc làm xây xát chân tay do mặt xù xì, sắc cạnh của vật đúc. Phải trang bị
phòng hộ lao động để tránh bụi và khí độc do quá trình nấu luyện sinh ra các như các bụi
Mn, Si, CO, Si0 2…
4.2.6. Kỹ thuật an toàn khi hàn và cắt kim loại :
* Khi hàn điện:
Cần phải có mặt nạ che mặt và áo quần bảo hộ lao động chuyên dùng trong khi hàn để
tránh làm cháy bỏng da, làm đau mắt cũng như kim loại lỏng bắn toé gây bỏng da thợ hàn.
Cần tránh hàn gần những nơi có vật dễ bắt lửa, dễ cháy nổ đề phòng hồ quang hàn có thể
gây cháy, nổ các vật xung quanh. Cần phải bao che xung quanh khu vực hàn để khỏi ảnh
hưởng đến những người làm việc lân cận.
Bố trí môi trường làm việc phải thoáng, mát, hoặc phải có quạt thông gió. Khi hàn ở các vị
trí khó khăn như: trong ống, những nơi chật chội, bụi nhiều…thì cần có quạt thông gió.
Khi hàn trên cao cần có dây an toàn. Trong khi hàn ở các thùng kín, nhà kín phải thông gió
tốt và phải có người canh chừng công nhân tránh tình trạng trạng trúng độc hơi hàn. Các
nữ công nhân có bệnh tim, phổi không được hàn trong các thùng kín.
Các vật hàn trước khi hàn phải cạo sạch các loại sơn, nhất là sơn có pha chì, lau sạch mỡ,
làm sạch vật hàn tối thiểu 50 mm hai bên đường hàn.
Tuyệt đối không được hàn các vật dụng đang chứa các chất có áp lực như hơi nén, chất
lỏng, cao áp... Đối với các bình chứa các chất dễ cháy, nổ trước khi hàn phải súc sạch và
khi hàn phải mở nắp để phòng cháy nổ.
Khi hàn trên cao, công nhân phải có dây bảo hiểm. Khi cắt các cấu kiện như: xà, dầm…
phải buộc chặt ở phần cắt để tránh các vật rơi xuống gây tai nạn.

Trang 37
Khu vực hàn cần có diện tích đủ để đặt máy, sản phẩm hàn và khoảng thao tác cho công
nhân. Diện tích thao tác cho một công nhân hàn không ít hơn 3 m 2 . Nền nhà phải bằng
phẳng, dẫn nhiệt kém và không cháy. Màu tường tránh dùng màu sáng để hạn chế sự phản
xạ ánh sáng, gây chói mắt cho khu vực xung quanh.
Máy hàn phải có bao che và được cách điện chắc chắn, cần nối đất các loại máy hàn để
tránh rò điện gây điện giật. Hết sức tránh làm máy bị ướt do mưa hoặc nước bắn vào. Điện
áp không tải của máy hàn phải đảm bảo quy định. Nguồn điện hàn phải đảm bảo an toàn,
không xảy ra sự cố. Máy hàn nên đặt càng gần nguồn điện càng tốt.
Trước khi làm việc cần kiểm tra hệ thống điện nguồn, điện áp vào máy hàn đã đúng chưa,
máy hàn có hoạt động bình thường không? Các đường dây điện có cách điện tốt không?
Cầu dao có an toàn không. Kiểm tra và vặn chặt các ốc vít trên máy, đảm bảo máy chạy
êm không rung động nhiều, không phóng điện do vặn không chặt... Dây cáp hàn phải có
cao su bao bọc. Khi bố trí các dây cáp hàn phải gọn, không gây khó khăn cho người khác,
không vướng đường đi lại dễ gây vấp ngã sinh ra tai nạn...
Khi vận hành máy cần đặt máy đúng vị trí, không bị vênh, nghiêng làm máy dễ bị đổ. Thổi
sạch bụi, chất dầu mở bẩn dính trên máy. Đây là những chất có thể sinh cháy, nổ. Khi làm
sạch có thể dùng các dụng cụ bằng khí nén, lau bằng giẻ khô... Khi sửa chữa máy hoặc khi
cần thay đổi dòng điện hàn (bằng cách thay đổi số vòng dây, thay đổi điện áp, hay đấu lại
đầu dây) nhất thiết phải cắt điện ở cầu dao và công nhân phải có găng tay cách điện. Khi
hết giờ làm việc, nhất thiết phải đóng ngắt cầu dao máy hàn và cầu dao chính.
*Khi hàn khí:
Kiểm tra bình chứa khí còn trong thời hạn sử dụng hay không. Bình đã được kiểm định an
toàn chưa. Nên xem trên bình có các vết nứt, vết lõm, hay các khuyết tật khác không và
khi phát hiện có các khuyết tật thì cần tìm cách khắc phục kịp thời hoặc phải báo ngay cho
đơn vị để tìm cách thay thế. Kiểm tra các van có vặn chặt không. Không để lẫn các bình
còn khí với các bình đã hết khí dễ gây nhầm lẫn khi sử dụng.
Không để các bình chứa khí nén cạnh nơi có nguồn nhiệt nhất là những nơi có ngọn lửa
như lò rèn, ngọn lửa hàn hơi. Khi áp suất trong bình tăng lên cộng với những khuyết tật
trên bình có thể gây nổ, vì thế các bình này cần cách xa nguồn nhiệt ít nhất là trên 1m và
cách xa ngọn lửa khoảng trên 5 m. Bình chứa khí phải đặt thẳng đứng (cho phép để
nghiêng trong 1 thời gian ngắn). Cần lau chùi sạch các vết bẩn, dầu mỡ, các chất dễ bắt
lửa trên các dây dẫn khí, van khí... vì những chất này dễ gây cháy, sinh ra nổ bình hoặc
sinh ra hỏa hoạn.
Khi mở van khí để lau chùi hay vận hành, công nhân không được đứng đối diện các van
trên mà phải đứng về một bên. Các van khí có thể vặn “mở ư đóng" dể dàng. Khi gặp
những van chặt quá phải cẩn thận khi mở hoặc phải trả lại nhà máy sản xuất để xử lý. Các
bình chứa khí như ôxy thường không gây cháy, nhưng khi tiếp xúc các chất như dầu mỡ,
thì chúng có thể bắt lửa và gây cháy nổ, vì thế tránh không cho dầu mỡ rơi dính vào các
bình chứa.
Các bình chứa khí cháy có thể phát lửa do sự ma sát khi đóng mở van vì vậy khi thao tác
mở bình phải làm nhẹ nhàng, nên tránh va đập khi vận hành, di chuyển, tránh gây ma sát
mạnh phát tia lửa...
Không nên để nhiều bình khí ( >10 bình) cùng nhiều công nhân trong một phân xưởng.
Khi có hiện tượng cháy quặt của ngọn lửa, thì lập tức phải khoá các van khí lại. Khi có
hỏa hoạn thì nhất thiết phải chuyển các bình axêtylen đi trước. Khi vận hành trong thời

Trang 38
gian dài, bọt xốp trong bình axêtylen có thể bị nhỏ vụn và nén chặt lại làm cho lượng khí
axêtylen tràn lên phía trên, rất nguy hiểm khi có hiện tượng cháy quặt của ngọn lửa.
Khi hàn cần để lại một ít khí axêtylen để không khí không vào bình thể gây nổ và để bảo
vệ lớp bọt xốp cùng axêtôn trong bình:
Không cho phép mang vác các bình trên vai, trên lưng mà phải dùng xe đẩy hay cáng
khiêng,...Cho phép lăn đẩy các bình trong các khoảng cách ngắn (khoảng 15 25 m).
- Kho chứa các bình khí nén phải cách xa các ngọn lửa khoảng trên 10 m. Các bình chứa
bị cháy có thể gây nổ, cho nên việc trước hết cần tách các bình gây cháy ra khỏi nơi nguy
hiểm, tách chúng khỏi các bình chứa khí khác.
Khi sử dụng bình điều chế khí axêtylen thì khoá bảo hiểm phải luôn luôn đổ đầy nước đến
mức quy định, phải đặt bình cách xa nơi có ngọn lửa trên 10 m, cần kiểm tra các van và
khoá an toàn trước khi làm việc. Không dùng các chổi kim loại để làm sạch các van, khoá,
không dùng chổi đồng để gạt đá vôi ra khỏi bình vì dễ gây tia lửa, gây cháy nổ. Khi mở
bình cần nhẹ nhàng, không hút thuốc khi tiếp xúc với các bình trước khi vận hành. Khi
đang làm việc, cần phải có người thường xuyên kiểm tra và quan sát, Không để đất đèn
trong các hộp vì dể sinh khí có thể làm cháy kho. Các bình chứa khí thường được bảo
quản nơi có tường xây bao quanh chắc chắn.
4.2.7. Kỹ thuật an toàn trong gia công cắt gọt:
* Biện pháp phòng ngừa chung:
Hướng dẫn cho công nhân cách sử dụng máy thành thạo. Phải chọn vị trí đứng gia công
cho thích hợp với từng loại máy. Phải mang dụng cụ bảo hộ lao động, ăn mặc gọn gàng,
đeo kính bảo hộ.
Trước khi sử dụng máy phải kiểm tra hệ thống điện, tiếp đất, siết chặt các bu lông ốc vít,
kiểm tra độ căng đai, kiểm tra các cơ cấu truyền dẫn động, tra dầu mỡ, trước khi gia công
cần chạy thử máy để kiểm tra. Những thiết bị trong khi sản xuất gây rung động lớn phải bố
trí xa nơi có mật độ công nhân lớn và nền móng phải có hào chống rung.
Các nút điều khiển phải nhạy, làm việc tin cậy. Các bộ phận điều khiển máy phải bố trí
vừa tầm tay cho công nhân thuận tiện thao tác, không phải với, không phải cúi. Đối với
các máy có dung dịch nước tưới làm mát, xí nghiệp phải cho công nhân sử dụng máy đó
biết tính chất, đặc điểm và mức độ độc hại để ngừa trước những nguy hiểm có thể xảy ra.
Khi hết ca, công nhân đứng máy phải ngắt nguồn điện, lau chùi máy, thu dọn dụng cụ gọn
gàng, bôi trơn những nơi quy định. Việc thu dọn phoi phải dùng các móc, cào, bàn chải,
chổi… Cấm không được dùng tay trực tiếp thu dọn phoi. Công nhân làm việc máy nào thì
chỉ được phép lau chùi máy đó vì họ hiểu rõ máy mình đang làm việc tốt hơn máy khác.
Cấm dùng tay không lau chùi máy mà phải dùng giẻ, bàn chải sắt. Các thiết bị làm sạch
phôi liệu phải bố trí ở buồng riêng, có thiết bị thông gió và có các thiết bị hút bụi cục bộ ở
những nơi sinh bụi.
Tất cả các bộ phận truyền động của các máy đều phải che chắn kín, có cửa cài chắc chắn
kể cả các khớp nối ma sát, khớp nối trục các đăng.
* Các biện pháp an toàn khi sử dụng một số máy công cụ:
+ Kỹ thuật an toàn đối với máy tiện:
Yêu cầu các đồ gá kẹp chi tiết gia công như mâm cặp, ụ động... phải được bắt chặt trên
máy. Khi tiện các chi tiết máy quay nhanh, mũi tâm của ụ động phải là mũi tâm quay. Nếu

Trang 39
chi tiết gia công có chiều dài lớn hoặc yếu phải có giá đỡ phía sau để đề phòng chi tiết
văng ra do lực ly tâm hoặc đề phòng phôi uốn.
Không được gá dao công sôn quá dài vì khi phôi không tròn hay kém cứng vững dễ gây ra
rung động làm dao bị gãy, mảnh dao bắn ra gây nguy hiểm cho người. Đối với máy tiện
vạn năng thông thường, chiều dài phôi nhô ra phía sau trục chính không được quá 0,5m.
Không cho phép dùng dũa để rà các cạnh sắc của chi tiết khi đang tiện, bởi vì có thể trượt,
mất đà làm tay tỳ dũa trượt vào vật đang quay gây tai nạn.
Để đảm bảo phoi tiện không đùn ra quá dài làm đứt tay, cuốn vào bề mặt chi tiết đang gia
công làm giảm độ nhẵn bề mặt chi tiết hoặc gây khó khăn cho việc quan sát chi tiết, dao
cắt người ta chọn loại dao bẻ phoi hoặc chọn thông số hình học của dao hợp lý. Ví dụ: Khi
tiện thép C45 hoặc thép hợp kim 20Cr với tốc độ cắt V = 100-300m/ph, nếu chọn thông số
hình học của dao sau: φ =450 ; λ = -100 ; γ = -50 sẽ có tác dụng bẻ phoi tốt.
+ Kỹ thuật an toàn đối với máy phay:
Đối với máy phay, tốc độ cắt gọt nhỏ hơn máy tiện, song cũng cần hết sức lưu ý vấn đề an
toàn.
Các đầu vít trên bàn phay, đầu phân độ và những chỗ có thể vướng phải được che chắn tốt.
Khi tháo lắp dao phay cần có gá kẹp chuyên dùng. Khi dao đang chạy không được đưa tay
vào vùng dao hoạt động.
Cơ cấu phanh hãm bánh đà của máy phay phải hoạt động tốt, nhạy và bảo đảm an toàn.
+ Kỹ thuật an toàn trên máy khoan:
Đối với máy khoan, khi gá lắp mũi khoan phải kẹp chặt mũi khoan và đảm bảo đồng tâm
với trục chủ động.
Các chi tiết gia công phải được kẹp chặt trực tiếp hoặc qua gá đỡ với bàn khoan. Tuyệt đối
không được dùng tay để giữ chi tiết gia công và không được dùng găng tay khi tiến hành
khoan.
Khi phoi ra bị quấn vào mũi khoan hoặc đồ gá mũi khoan, không được dùng tay trực tiếp
tháo gỡ phoi khoan.
+ Kỹ thuật an toàn đối với máy mài:
Đá mài gồm những hạt mài kết dính lại bằng các chất kết dính ( như bakelit, gốm…) nên
chịu kéo kém. Đá mài cứng nhưng dòn, dễ bị vở, không chịu được rung động và tải trọng
va đập. Độ ẩm của đá mài cũng ảnh hưởng nhiều đến độ bền của đá.
Đặc điểm chung của máy mài là tốc độ lớn ( V= 35- 300 m/s) vì vậy khi đá mài quay sẽ
gây ra lực ly tâm rất lớn, nếu đá mài không đảm bảo liên kết tốt, không cân bằng sẽ gây vỡ
đá. Việc chọn đá mài phải căn cứ vào yêu cầu kỹ thuật của quy trình gia công để chọn
đúng loại đá. Sau khi lắp đá phải cân bằng động và phải thử nghiệm độ bền cơ học của đá
như sau : đối với đá có đường kính từ ϕ30- ϕ90 phải kiểm tra với tốc độ cao hơn tốc độ
định mức 50%trong thời gian 3 phút, đường kính ϕ150- ϕ475 trong 5 phút và > 500 trong
7 phút. Nếu không biết tốc độ quay cho phép của đá thì phải thử với tốc độ lớn hơn 60%
tốc độ làm việc trong 10 phút.
Đá mài phải được bảo quản ở nơi khô ráo. Không được để trong môi trường có axit và có
chất ăn mòn khác. Cấm không được xếp đá chồng lên nhau hoặc chồng các vật nặng khác
lên đá để tránh rạn nứt. Các loại đá mài dùng chất kết dính bằng magiê, nếu thời hạn bảo
quản quá một năm thì không được sử dụng nữa vì chất kết dính không bảo đảm nữa.

Trang 40
Khi lắp vào trục chính, đá mài phải được kẹp đều giữa hai mặt bích bằng nhau. Giữa đá và
mặt bích kẹp phải độn một lớp vật liệu đàn hồi. Khi lắp và điều chỉnh đá cấm dùng búa
thép để gõ đá mài. Khe hở giữa trục và lỗ đá phải đảm bảo trong khoảng từ 2-5% đường
kính lỗ để đề phòng trục giãn nở nhiệt trong quá trình làm việc. Cần phải cân bằng tĩnh
hoặc cân bằng động.
Khi đường kính đá mài giảm và khoảng cách giữa đá và bích kẹp nhỏ hơn 3 mm thì phải
thay đá mới. Đá mài khi làm việc phải có bao che chắn, khe hở giữa đá và mặt bên phải
nằm trong khoảng từ 10-15mm, vật liệu che chắn không được quá mỏng và phải làm theo
tiêu chuẩn quy định (Bảng IV.1), góc mở của vỏ che chắn chọn sao cho nhỏ nhất để tránh
gây tai nạn.
Công nhân đứng máy không được đứng ở phía không có bao che chắn. Khi mài thô, mài
nhẵn bằng phương pháp khô thì yêu cầu phải có máy hút bụi.

+ Kỹ thuật an toàn đối với máy bào:


Tất cả các máy bào đều cần khống chế khoảng hành trình của đầu bào.
Trong khi máy chạy không được qua lại trước hành trình chuyển động của máy. Các thiết
bị phải có đầy đủ các cơ cấu an toàn. Những cụm kết cấu có chuyển động lui tới trên máy
bào giường hay bào ngang phải bố trí vị trí vươn xa nhất của bộ phận đó di chuyển quay
vào tường, cách tường tối thiểu 0,5 m hoặc cách mép đường vận chuyển tối thiểu 1m.
Phải bao che các cơ cấu bánh răng, thanh răng, cơ cấu dịch chuyển…Trong khi máy đang
chạy tuyệt đối không gá lắp điều chỉnh vật gia công.

Trang 41
CHƯƠNG 5
KỸ THUẬT AN TOÀN TRONG XÂY DỰNG

5.1. Kỹ thuật an toàn khi sử dụng máy xây dựng


5.1.1. Các nguyên nhân chính gây ra sự cố, tai nạn lao động
-Nguyên nhân sự cố, tai nạn khi sử dụng máy móc, thiết bị bao gồm thiết kế, chế tạo, lắp
đặt và sử dụng. Ở đây chỉ xem xét và phân tích những nguyên nhân chủ yếu về lắp đặt và
sử dụng.
4.1.1. 1. Máy sử dụng không tốt:
a) Máy không hoàn chỉnh:
• Thiếu thiết bị an toàn hoặc có những đã bị hỏng, hoạt động thiếu chính xác, mất tác
dụng tự động bảo vệ khi làm việc quá giới hạn tính năng cho phép.
• Thiếu các thiết bị tín hiệu âm thanh, ánh sáng (đèn, còi, chuông).
• Thiếu các thiết bị áp kế, vôn kế, ampe kế, thiết bị chỉ sức nâng của cần trục ở độ
vươn tương ứng...
b) Máy đã hư hỏng:
• Các bộ phận, chi tiết cấu tạo của máy đã bị biến dạng lớn, cong vênh, rạn nứt, đứt
gãy.
• Hộp số bị trục trặc làm cho vận tốc chuyển động theo phương ngang, phương đứng,
xoay không chính xác theo điều khiển của người vận hành.
• Hệ thống phanh điều khiển bị gỉ mòn không đủ tác dụng hãm.
5.1.1.2. Máy bị mất cân bằng ổn định:
• Đây là nguyên nhân thường gây ra sự cố và tai nạn.
• Do máy đặt trên nền không vững chắc: nền yếu hoặc nền dốc quá góc nghiêng cho
phép khi cẩu hàng hoặc đổ vật liệu.
• Cẩu nâng quá trọng tải.
• Tốc độ di chuyển, nâng hạ vật với tốc độ nhanh gây ra mômen quán tính, mômen ly
tâm lớn. Đặc biệt hãm phanh đột ngột gây ra lật đổ máy.
• Máy làm việc khi có gió lớn (trên cấp 6), đặc biệt đối với máy có trọng tâm cao.
4.1.1.3. Thiếu các thiết bị che chắn, rào ngăn nguy hiểm:
• Vùng nguy hiểm khi máy móc hoạt động là khoảng không gian hay xuất hiện mối
nguy hiểm cho sức khoẻ và tính mạng con người. Trong vùng này thường xảy ra các tai
nạn sau:
 Máy kẹp, cuộn quần áo, tóc, chân tay ở các bộ phận truyền động.
 Các mãnh dụng cụ và vật liệu gia công văng bắn vào người.
 Bụi, hơi, khí độc toả ra ở các máy gia công vật liệu gây nên các bệnh ngoài da, ảnh
hưởng cơ quan hô hấp, tiêu hoá của con người.
 Các bộ phận máy va đập vào người hoặc đất đá, vật cẩu từ máy rơi vào người trong

Trang 42
vùng nguy hiểm.
 Khoan đào ở các máy đào, vùng hoạt động trong tầm với cảu cần trục.
5.1.1.4. Sự cố tai nạn điện:
• Dòng điện rò rỉ ra vỏ và các bộ phận kim loại của máy do phần cách điện bị
hỏng.
• Xe máy đè lên dây điện dưới đất hoặc va chạm vào đường dây điện trên
không khi máy hoạt động ở gần hoặc di chuyển phía dưới trong phạm vi nguy
hiểm.
5.1.1.5. Thiếu ánh sáng:
• Chiếu sáng không đầy đủ làm cho người đIều khiển máy móc dễ mệt mỏi,
phản xạ thần kinh chậm, lâu ngày giảm thị lực là nguyên nhân gián tiếp gây chấn
thương, đồng thời làm giảm năng suất lao động và hạ chất lượng sản phẩm.
• Chiếu sáng quá thừa gây hiện tượng mắt bị chói, bắt buộc mắt phải thích
nghi. Điều này làm giảm sự thu hút của mắt, lâu ngày thị lực giảm.
• Thiếu ánh sáng trong nhà xưởng hoặc làm việc vào ban đêm, sương mù làm
cho người điều khiển máy không nhìn rõ các bộ phận trên máy và khu vực xung
quanh dẫn tới tai nạn.
5.1.1.6. Do người vận hành:
• Không đảm bảo trình độ chuyên môn: chưa thành thục tay nghề, thao tác
không chuẩn xác, chưa có kinh nghiệm xử lý kịp thời các sự cố.
• Vi phạm các điều lệ, nôị quy, quy phạm an toàn: sử dụng máy không đúng
công cụ, tính năng sử dụng.
• Không đảm bảo các yêu cầu về sức khoẻ: mắt kém, tai nghễnh ngãng, bị các
bệnh về tim mạch,...
• Vi phạm kỷ luật lao động: rời khỏi máy khi máy đang còn hoạt động, say
rượu bia trong lúc vận hành máy, giao máy cho người không có nghiệp vụ, nhiệm
vụ điều khiển...
5.1.1.7. Thiếu sót trong quản lý:
• Thiếu hoặc không có hồ sơ, lý lịch tài liệu hướng dẫn về lắp đặt, sử dụng
bảo quản máy.
• Không thực hiện đăng kiểm, khám nghiệm, chế độ trung tu bảo dưỡng, sửa
chữa theo định kỳ.
• Phân công trách nhiệm không rõ ràng trong việc quản lý sử dụng.
5.1.2. Kỹ thuật an toàn khi sử dụng các máy thi công
5.1.2.1.Đảm bảo sự cố định của máy:
-Các máy xây dựng phải đảm bảo ổn định khi làm việc, di chuyển và cả khi không hoạt
động.
-Sự mất ổn định do:
• Máy nghỉ hoặc làm việc ở nơi quá dốc.

Trang 43
• Nền không chắc chắn.
• Làm việc quá tải trọng cho phép.
• Lực quán tính và lực ly tâm lớn hoặc gặp khi gió lớn...
-Hệ số ổn định đặc trưng cho mức độ an toàn khỏi lật của máy là tỷ số giữa tổng mômen
của các lực giữ và tổng mômen các lực gây lật đối với điểm lật hoặc đường lật:

K=
∑M g
> 1 (4.1)
∑M l

Trong đó:
+K: hệ số ổn định.
+Mg: mômen giữ.
+Ml: mômen lật.
-Hệ số ổn định K được tính khi có tải trọng K1 và khi không có tải trọng K2.
Ổn định của cần trục tự hành:
a/Khi có tải:

Hình 4.1: Sơ dồ tính ổn định cần trục

[G (b + c) cos α − Gh1 sin α ] − M 1 − M 2 − M 3 − M 4 − M 5 − M 6


K1 = > 1.15 (4.2)
Q( a − b)
Trong đó:
+G: trọng lượng máy cần trục, điểm đặt tại trọng tâm (kg).
+Q: trọng lượng vật cẩu tối đa (kg).
+Gc: trọng lượng tay cần, đặt ở đầu tay cần (kg).
+M1: mômen do tác dụng ly tâm khi quay cần có tải trọng
Q × n2 × a × h
M1 =
900 − n 2 × H
+M2: mômen do lực quán tính khi phanh hạ vật
Q × v × (a − b)
M2 =
g ×t

Trang 44
+M3: mômen tạo ra khi di chuyển đầu tay cần theo phương ngang
(Qc + Q) × v1 × h
M3 =
g × t1
+M4: Mômen tạo ra khi thay đổi độ với tay cần
(Qc + Q) × v 2 × (a − b)
M4 =
g × t2
+M5=WxP: mômen do lực gió tác dụng lên cabin cần trục
+M6=W1xh: mômen do lực gió tác dụng lên vật cần cẩu
+a: khoảng cách từ trục quay của cần cẩu đến trọng tâm vật cẩu trên mặt phẳng ngang
(m).
+b: khoảng cách từ trục quay đến đường lật(m).
+c: khoảng cách từ trục quay đến trọng tâm cần trục (m).
+H: khoảng cách từ đầu tay cần đến trọng tâm vật cẩu (m).
+h: khoảng cách từ đầu tay cần đến mặt đất (m).
+h1: khoảng cách từ trọng tâm cần trục đến mặt đất (m).
+P: khoảng cách từ lực gió lên cabin đến mặt đất (m).
+v: tốc độ nâng vật (m/s).
+v1: tốc độ di chuyển ngang của đầu tay cần (m/s).
+v2: tốc độ di chuyển đứng của tay cần (m/s).
+n: số vòng quay cần trục trong 1 phút.
+t: thời gian khởi động, hãm cơ cấu nâng (s).
+t1: thời gian khởi động, hãm cơ cấu quay cần trục (s).
+t2: thời gian khởi động, hãm cơ cấu thay đổi độ với tay cần (s).
+W, W1: lực gió tác dụng lên cabin, vật cẩu (được tính an toàn với điểm đặt đầu tay
cần).
+α: góc nghiêng mặt đất so với phương ngang.
+g: gia tốc trọng trường, lấy bằng 9.81m/s2.
Trong trường hợp máy cẩn trục làm việc trên mặt đất nằm ngang, nếu không không xét
đến các thành phần lực ly tâm, quán tính, gió,...thì hệ số ổn định tảI trọng K1 là:
G × (b + c)
K1 = ≥ 1.4 (4.3)
Q × ( a − b)
b/Khi không có tải:

Trang 45
G × [(b − c) cos α −h1 sin α ]
K2 = ≥ 1.15 (4.4)
W 2 × h2
Hình 4.2: Sơ dồ tính ổn định cần trục khi không tải
Biện pháp an toàn khi sử dụng máy xây dựng:
-Để đảm bảo ổn định cho cần trục khi vận hành phải thực hiện:
• Không cẩu quá tải làm tăng mômen lật.
• Không đặt cần trục lên nền hoặc ray có độ dốc lớn hơn quy định.
• Không phanh đột ngột khi hạ vật cần cẩu.
• Không quay cần trục hoặc tay cần nhanh.
• Không nâng hạ tay cần nhanh.
• Không làm việc khi có gió lớn (cấp 6).
• Đối với cần trụ tháp thường có trọng tâm cao gấp 1.5-3 lần chiều rộng
đường ray, cho nên độ nghêng của đường ray ảnh hưởng rất lớn đến ổn định cần
trục tháp. Vì thế không cho phép ray có độ dốc ngang, độ dốc dọc có thể là 1-
2.5% tức khoảng 0o35-1o30.
5.1.2.2.An toàn khi di chuyển máy:
-Sử dụng các máy móc xây dựng ở trên các công trường xây dựng có liên quan đến việc
vận chuyển chúng trên đường sắt và các đường vận chuyển khác. Để ngăn ngừa sự dịch
chuyển của những máy đó thường được buộc chặt vào toa tàu.
-Lực tác dụng lên cần trục hoặc máy đào khi vận chuyển phát sinh không lớn. Nó phụ
thuộc vào điều kiện di chuyển của tàu và tác dụng của gió. Nguy hiểm nhất là lực gây ra
sự trượt dọc,đó là lực quán tính khi tăng tốc và hãm.
1. Lực quán tính khi hãm tàu:
Q × v2
Tqt = (4.5)
3. 6 2 × g × l
Trong đó:
+Q: trọng lượng máy được di chuyển (kg).
+v: tốc độ di chuyển của tàu khi bắt đầu hãm (km/h).
+g: gia tốc trọng trường, 9.81m2/s.
+l: chiều dài đường hãm (m).

Trang 46
2. Lực ly tâm:
Q × v2
Tlt = (4.6)
3. 6 2 × g × R
Trong đó:
+R: bán kính đường vòng (m).
→Thường trị số lực ly tâm lấy bằng 170kg/tấn nếu R=300m và v=80km/h.
3. Lực gió:
W = F ×q×k (4.7)
Trong đó:
+F: diện tích hứng gió của máy được di chuyển trên tàu (m2).
+q: áp lực gió đơn vị lấy bằng 100kg/m2.
+k: hệ số khí động học, lấy 1.0-1.4
5.2. KỸ THUẬT AN TOÀN KHI ĐÀO ĐẤT ĐÁ VÀ HỐ SÂU
5.2.1.Nguyên nhân gây ra tai nạn:
5.2.1.1. Nguyên nhân chung
-Trong xây dựng cơ bản, thi công đất đá là một loại công việc thường có khối lượng lớn,
tốn nhiều công sức và cũng thường xảy ra chấn thương.
-Các trường hợp chấn thương, tai nạn xảy ra khi thi công chủ yếu là khi đào hào, hố sâu và
khai thác đá mỏ.
-Các nguyên nhân chủ yếu gây ra tai nạn:
• Sụp đổ đất khi đào hào, hố sâu:
 Đào hào, hố với thành đứng có chiều rộng vượt quá giới hạn cho phép đối
với đất đã biết mà không có gia cố.
 Đào hố với mái dốc không đủ ổn định.
 Gia cố chống đỡ thành hào, hố không đúng kỹ thuật, không đảm bảo ổn
định.
 Vi phạm các nguyên tắc an toàn tháo dỡ hệ chống đỡ.
• Đất đá lăn rơi từ trên bờ xuống hố hoặc đá lăn theo vách núi xuống người
làm việc ở dưới.
• Người ngã:
 Khi làm việc mái dốc quá đứng không đeo dây an toàn.
 Nhảy qua hào, hố rộng hoặc leo trèo khi lên xuống hố sâu.
 Đi lại ngang tắt trên sườn núi đồi không theo đường quy định hoặc không có
biện pháp đảm bảo an toàn.
• Theo dõi không đầy đủ về trình trạng an toàn của hố đào khi nhìn không
thấy rõ lúc tối trời, sương mù và ban đêm.
• Bị nhiễm bởi khó độc xuất hiện bất ngờ ở các hào, hố sâu.

Trang 47
• Bị chấn thương do sức ép hoặc đất đá văng vào người khi thi công nổ mìn.
• Việc đánh giá không hoàn toàn đầy đủ về khảo sát, thăm dò và thiết kế bởi
vì:
 Hiện nay các tính chất cơ học của đất đá vẫn chưa thể hiện hoàn toàn trong
cơ học đất.
 Đất cũng không phải là 1 hệ tĩnh định theo thời gian, cho nên trong quá trình
thi công những yếu tố đặc trưng của đất có thể sai khác so với khi thiết kế.
5.2.1.2.Nguyên nhân làm sụt lỡ mái dốc:
-Sự sụp đổ mái dốc ở hào, hố xảy ra do các điều kiện cân bằng của khối lăng trụ ABC bị
phá hoại. Khối này được giữ bởi các lực ma sát và lực dính tác dụng lên mặt trượt AC:
-Khi mái dốc ổn định tức là khi khối lăng trụ ở trạng thái cân bằng giới hạn theo lực ma
sát và lực dính ở dạng chung có thể biểu hiện sau:

T = Ntgϕ + c (5.1)
tức là Q sin θ = Q cos sθtgϕ + c
Trong đó:
+Q: trọng lượng khối lăng trụ ABC (tấn).
+ϕ, c: góc mái dốc tự nhiên và lực dính của đất.
+θ: góc giữa mặt phẳng trượt và mặt nằm ngang.

Hình 5.1: Sơ đồ tính ổn định mái dốc

-Trị số lực dính và ma sát giảm đi khi độ ẩm của đất tăng. Khi tổng các lực này trở nên
nhỏ hơn lực trượt, điều kiện cân bằng của khối lăng trụ ABC sẽ bị phá hoại, mái dốc đào
sẽ bị sụp lở → Sự ổn định của mái dốc hố đào không gia cố cũng chỉ được giữ tạm thời
cho đến khi các tính chất cơ lý của đất thay đổi do nước ngầm và mưa lũ làm cho đất ẩm
ướt.
-Để loại trừ các nguyên nhân làm sụt lở đất đá khi đào móng, đào hố sâu, kênh mương, thì
việc thiết kế quy trình công nghệ hoặc sơ đồ thi công cần phải xét các yếu tố sau:
• Đặc trưng cụ thể của đất.
• Độ sâu, chiều rộng của khối đào và thời hạn thi công.

Trang 48
• Sự dao động của mực nước ngầm và nhiệt độ của đất trong suốt thời kỳ thi công
khối đào.
• Hệ thống đường ngầm có sẵn và vị trí phân bố của chúng.
• Điều kiện thi công.
→Trong quy trình công nghệ và sơ đồ thi công đất cần chỉ rõ phương pháp thi công và
biện pháp ngăn ngừa sụt lỡ, đảm bảo sự ổn định của đất và an toàn thi công.
5.2.2 Các biện pháp đề phòng chấn thương khi đào hố, hào sâu
-Để đề phòng chấn thương, ngăn ngừa tai nạn khi khai thác đất đá và đào các hố sâu,
đường hào thường dùng các biện pháp kỹ thuật sau đây:
5.2.2.1.Đảm bảo sự ổn định của hố đào:
Khi đào với thành đứng:
-Khi đào hố móng, đường hào không có mái dốc cần phải xác định đến một độ sâu mà
trong điều kiện đã cho có thể đào với thành vách thẳng đứng không có gia cố.
a/Xác định theo quy phạm:
-Đối với đất có độ ẩm tự nhiên, kết cấu không bị phá hoại và khi không có nước ngầm chỉ
cho phép đào thành thẳng đứng mà không cần gia cố với chiều sâu hạn chế do quy phạm
quy định như sau:
• Đất cát và sỏi: không quá 1m.
• Đất á cát: không quá 1.25m.
• Đất á sét và sét: không quá 1.5m.
• Đất cứng (dùng xà beng, cuốc chim): không quá 2m.
b/Xác định theo công thức:
-Chiều sâu tới hạn khi đào hố, hào thành đứng có thể xác định theo công thức của
Xôkôlôpski:
2c × cos ϕ
H gh = (5.2)
γ (1 − sin ϕ )
Trong đó:
+Hgh: độ sâu giới hạn của thành đứng hố đào (m).
+c, ϕ, γ: lực dính, góc ma sát trong và dung trọng của đất (t/m2, độ, t/m3).
-Khi xác định độ sâu giới hạn của hố móng hoặc đường hào với thành thẳng đứng nên đưa
hệ số tin cậy >1, thường lấy bằng 1.25:
H gh
H ch = (5.3)
1.25
-Khi đào hào, hố sâu hơn chiều sâu cực hạn thì phải gia cố thành hố hoặc đào thành dật
cấp.
Khi đào hào, hố có mái dốc:
-Đối với những khối đào sâu có mái dốc thì góc mái dốc có thể được xác định theo tính
toán. Tính góc mái dốc có thể tiến hành theo phương pháp của Matslôp dựa trên 2 giả
thiết:
Trang 49
• Góc mái dốc ổn định đối với bất kỳ loại đất nào là góc chống trượt của nó
Φt.
• Ứng suất cực hạn ở trong chiều dày lớp đất được xác định bằng đẳng thức
cảu 2 ứng suất chính do trọng lượng của của cột đất có chiều cao bằng khoảng cách
từ mốc đang xét đến bề mặt nằm ngang của đất.
-Hệ số chống trượt Ft thể hiện bằng đẳng thức:
c
Ft = tgϕ + (5.4)
Ptn
Trong đó:
+c, ϕ, γ: lực dính, góc nội ma sát và dung trọng của đất.
+Ptn=γH: tải trọng tự nhiên hay áp lực thẳng đứng của đất ở chiều sâu H.
-Đại lượng Ft=tgΦt khi hệ số an toàn ổn định n=1. Do đó khi lạp góc mái dốc α xuất phát
từ đẳng thức:
tgφ t
tgα = (5.5)
n
Trong đó:
+n: hệ số an toàn được lựa chọn xuất phát từ thời hạn tồn tại của khối đào. Nếu thời
gian đó trên 10 năm thì n=1.5-1.8 và khi đó sự ổn định của nó sẽ được đảm bảo ngay cả
lúc mưa lũ.
-Khi khai thác đất đá và đào hố sâu, điều nguy hiểm đặc biệt đối với công nhân là khả
năng sụt lỡ, trượt và xô đổ mái dốc. Ở những khối đào sâu từ 20-30m, nguy hiểm nhất là
hiện tượng trượt đất có thể lấp hố đào ở dưới cùng với máy móc, thiết bị và người làm
việc. Hiện tượng này thường xuyên xảy ra nhiều về mùa mưa lũ.
-Để đề phòng trượt đất và sụp lỡ khi đào có thể thực hiện các biện pháp như:
• Gia cố đáy mái dốc bằng cách đóng cọc bố trí theo hình bàn cờ.
• Làm tường chắn bằng loại đá rắn và vữa đảm bảo độ bền chịu lực.
• Làm giảm góc mái dốc hoặc chia mái dốc thành ra nhiều cấp, làm bờ thềm
trung gian và thải đất thừa ra khỏi mái dốc.
Khi đào hào, hố có thành dật cấp:
-Đối với hào, hố rộng chiều sâu lớn, khi thi công thường tiến hành đào theo dật cấp:
• Chiều cao mỗi đợt dật cấp đứng không được vượt quá chiều cao theo quy
định an toàn ở trường hợp đào với thành vách thẳng đứng.
• Khi dật cấp để theo mái dốc thì góc mái dốc phải tuân theo điều kiện đảm
bảo ổn định mái dốc.
-Giữa các đợt giật cấp có chừa lại cơ trung gian (bờ triền, thềm). Cần căn cứ vào chiều
rộng cần thiết khi thi công người ta phân ra cơ làm việc, cơ để vận chuyển đất và cơ để
bảo vệ;
• Cơ làm việc và cơ vận chuyển đất được xác định xuất phát từ điều kiện kỹ
thuật đào, cần phải có nền ổn định và chiều rộng đủ để hoàn thành các thao tác làm
việc 1 cách bình thường. Chiều rộng cơ để vận chuyển đất lấy như sau:
Trang 50
 Khi vận chuyển thủ công lấy rộng 3-3.5m.
 Khi vận chuyển bằng xe súc vật kéo lấy rộng 5m.
 Khi vận chuyển bằng xe cơ giới lấy rộng 7m.
• Trên mỗi dật cấp khối đào phải để lại cơ bảo vệ, khi tuân theo mái dốc tự
nhiên của đất thì chiều rộng cơ có thể xác định theo điều kiện:
a ≥ 0.1H (5.6)
Trong đó:
+a: chiều rộng của cơ (m).
+H: chiều cao đật cấp (m).
Bố trí đường vận chuyển trên mép khối đào:
-Thi công công tác đất ở trên công trường và khai thác mỏ có liên quan đến việc sử dụng
máy móc và công cụ vận chuyển cũng như việc bố trí đúng đắn đường vận chuyển ở gần
hố đào ngoài phạm vi sụp đổ của khối lăng trụ.

Hình 5.2: Bố trí đường vận chuyển trên mép hố đào

-Khoảng cách từ mép khối đào đến tuyến vận chuyển có thể được xác định theo công thức:
 1 1 
l = l1 + H  −  (5.7)
 tgϕ tg (ϕ + α ) 
Trong đó:
+l1: khoảng cách từ tuyến vạn chuyển đến cỗ giao nhau với đường được tạo bởi mái
dốc tự nhiên của đất (m).
+H: chiều sâu khối đào (m).
+ϕ: góc mái dốc tự nhiên của đất (độ).
+α: góc giữa mái đóc đào thực tế và mái dốc tự nhiên.
5.2.2.2.Biện pháp ngăn ngừa đất đá lăn rơi:
-Khi đào nếu trên thành hố đào ngẫu nhiên tạo ra các ụ đất đá treo thì đình chỉ công việc ở
dưới và phá đi từ phía trên sau khi đã chuyển người và máy ra nơi an toàn.
-Chừa bờ bảo vệ để ngăn giữ các tầng đất đá lăn từ phía trên xuống. Để đảm bảo tốt hơn, ở
mép bờ cần đóng các tấm ván thành bảo vệ cao 15cm.
-Đất đá đào lên phải đổ xa cách mép hố, hào ít nhất 0.5m.

Trang 51
-Khi đào đất tuyệt đối không đào theo kiểu hàm ếch. Nếu đào bằng máy gầu thuận thì
chiều cao tầng xúc không được lớn chiều cao xúc tối đa của gầu xúc, phải xúc theo góc độ
đã quy định theo thiết kế khoan đào.
-Trong quá trình đào hào, hố, người ta phải thường xuyên xem xét vách đất và mạch đất
phía trên nếu thấy có kẽ nứt hoặc hiện tượng sụt lỡ đe doạ thì phải đình chỉ việc đào ngay.
Cán bộ kỹ thuật phải tiến hành nghiên cứu để đề ra biện pháp giải quyết thích hợp và kịp
thời.
-Đặc biệt sau mỗi trận mưa phải kiểm tra vách đào trước khi để công nhân xuống hố đào
tiếp.
5.2.2.3.Biện pháp ngăn ngừa người ngã:
-Công nhân lên xuống hố, hào sâu phải có thang chắc chắn, cấm leo trèo lên xuống theo
các văng chống.
-Công nhân phải đeo dây an toàn và dây phải buộc vào chổ thật chắc trong trường hợp
sau:
• Khi làm việc trên mái dốc có chiều cao hơn 3m và độ dốc ≤ 45o.
• Khi bề mặt mái dốc trơn trượt, ẩm ướt và độ dốc ≤ 30o.
-Khi đã đào tới độ sâu 2m trở lên bằng thủ công thì không để công nhân làm việc 1 người
mà phải bố trí ít nhất 2 người.
-Tuyệt đối cấm đứng ngồi trên miệng hoặc sát dưới chân thành hào hố có vách đứng đang
đào dỡ để nghỉ giải lao hoặc đợi chờ công việc. Trường hợp dưới chân thành hào hố có
khoảng cách đất rộng thì có thể đứng hoặc ngồi cách chân thành hào hố 1 khoảng cách lớn
hơn chiều cao của thành hố từ 1m trở lên.
-Hố đào trên đường đi lại phải có rào chắn, ban đêm phải có đèn sáng để bảo vệ.
5.2.2.4.Biện pháp đề phòng nhiễm độc:
-Trước khi công nhân xuống làm việc ở các hố sâu, giếng khoan, đường hầm phải kiểm tra
không khí bằng đèn thợ mỏ. Nếu có khí độc phải thoát đi bằng bơm không khí nén.
Trường hợp khí CO2 thì đèn lập loè và tắt, nếu có khí cháy như CH4 thì đèn sẽ cháy sáng.
-Khi đào sâu xuống lòng đất, phát hiện có hơi hoặc khói khó ngửi thì phải ngừng ngay
công việc, công nhân tản ra xa để tránh nhiễm độc. Phải tìm nguyên nhân và áp dụng các
phương pháp triệt nguồn phát sinh, giải toả đi bằng máy nén không khí, quạt,...cho đến khi
xử lý xong và đảm bảo không còn khí độc hoặc nồng độ khí độc rất nhỏ không nguy hiểm
đến sức khoẻ thì mới ra lệnh cho tiếp tục thi công.
-Khi đào đất ở trong hầm, dưới hố móng có các loại ống dẫn hơi xăng dầu hoặc có thể có
hơi độc, khí mêtan, dễ nổ thì không được dùng đen đốt dầu thường để soi rọi, không được
dùng lửa và hút thuốc.
-Nếu cần phải làm việc dưới hố, giếng khoan, đường hầm có hơi khí độc, công nhân phải
trang bị mặt nạ phòng độc, bình thở và phải có ở trên theo dõi hỗ trợ.
5.2.2.5.Phòng ngừa chấn thương khi nổ mìn:
-Khi nổ mìn phải sử dụng các loại thuốc nào ít nguy hiểm nhất và kinh tế nhất được cho
phép dùng đối với mỗi loại công việc.
-Trường hợp phải dự trữ thuốc nổ quá 1 ngày đêm thì phải bảo quản thuốc nổ ở kho đặc
biệt riêng, được sự đồng ý của cơ quan công an địa phương nhằm hạn chế lượng thuốc nổ

Trang 52
và bảo đảm an toàn.
-Khu vực kho thuốc nổ phải bố trí xa khu người ở, khu vực sản xuất và có rào bảo vệ xung
quanh cách kho ít nhất 40m. Kho thuốc nổ nếu có thể làm chìm xuống đất hoặc đắp đất
bao quanh, mái làm bằng kết cấu nhẹ.
-Nếu thi công nổ mìn theo lúc tối trời thì chỗ làm việc phải được chiếu sáng đầy đủ và
phải tăng cường bảo vệ vùng nguy hiểm.
-Trong trường hợp nổ mìn bằng dây cháy chậm mà công nhân không chạy ra được vùng
an toàn kịp thời thì dùng phương pháp nổ bằng điện điều khiển từ xa hoặc bằng dây dẫn
nổ.
-Sau khi nổ mìn phải quan sát vùng nổ, kiểm tra phát hiện thấy mìn câm hay nghi ngờ có
mìn sót thì phải đánh dấu, cắm biển báo không cho người vào và tìm cách xử lý.
5.3. KỸ THUẬT AN TOÀN KHI SỬ DỤNG GIÀN GIÁO
4.3.1.Yêu cầu về mặt an toàn đối với giàn giáo:
- Hầu hết tất cả các công việc xây dựng và lắp ghép, trang trí, sữa chữa và các công việc
khác làm trên cao đều cần có giàn giáo. Do đó muốn đi sâu kỹ thuật an toàn của từng loại
công việc xây lắp trên cao, cần nắm vững kỹ thuật na toàn chung cho các công việc đó. Đó
chính là kỹ thuật an toàn trong trong việc lắp dựng và sử dụng giàn giáo.

Hình 5.3: Ví dụ cấu tạo giàn giáo


- Tác dụng của giàn giáo là kết cấu tạm để đỡ vật liệu và người làm việc trên cao, cho nên
yêu cầu cơ bản đối với giàn giáo về mặt an toàn là:
• Từng thanh của giàn giáo phải đủ cường độ và độ cứng, nghĩa là không bị
cong võng quá mức, không bị gục gãy.
• Khi chịu lực thiết kế thì toàn bộ giàn giáo không bị mất ổn định, nghĩa là
toàn bộ kết cấu không bị nghiêng, vặn, biến dạng quá lớn hoặc bị sập đổ dưới tác
dụng của tải trọng thiết kế.

Trang 53
- Nếu kết cấu của giàn giáo không tốt hoặc khi sử dụng không theo chỉ dẫn kỹ thuật an
toàn thì nhất định dễ xảy ra tai nạn nghiêm trọng cho những người làm việc trên giàn giáo
và cả người làm việc dưới đất gần giàn giáo. Cho nên để đảm bảo an toàn trong việc dùng
giàn giáo cần phải:
• Chọn loại giàn giáo thích hợp với tính chất công việc.
• Lắp dựng giàn giáo đúng yêu cầu của thiết kế, có kiểm tra kỹ thuật trước khi
sử dụng.
• Quá trình sử dụng phải tuân theo kỹ thuật an toàn khi làm việc trên giàn
giáo.
-Khi lựa chọn và thiết kế giàn giáo, phải dựa vào:
• Kết cấu và chiều cao của từng đợt đổ bêtông, đợt xây trát, loại công việc.
• Trị số tải trọng, vật liệu sẵn có để làm giàn giáo.
• Thời gian làm việc của giàn giáo và các điều kiện xây dựng khác.
-Khi lắp dựng và sử dụng giàn giáo, phải đảm bảo các nguyên tắc an toàn cơ bản sau:
• Bảo đảm độ bền kết cấu, sự vững chắc và độ ổn định trong thời gian lắp
dựng cũng như thời gian sử dụng.
• Phải có thành chắn để đề phòng người ngã hoặc vật liệu, dụng cụ rơi xuống.
• Bảo đảm vận chuyển vật liệu trong thời gian sử dụng.
• Bảo đảm các điều kiện an toàn lao động trên giàn giáo trong thời gian lắp
dựng và sử dụng.
• Chỉ được sử dụng giàn giáo khi đã lắp dựng xong hoàn toàn và đã được
kiểm tra đồng ý của cán bộ kỹ thuật.
5.3.2.Nguyên nhân sự cố làm đổ gãy giàn giáo và gây chấn thương:
4.3.2.1.Những nguyên nhân làm đổ gãy giàn giáo:
-Nguyên nhân thuộc về thiết kế tính toán: lập sơ đồ tính toán không đúng, sai sót xác định
tải trọng,...
-Nguyên nhân liên quan đến chất lượng gia công, chế tạo: gia công các bộ phận kết cấu
không đúng kích thước thiết kế, các liên kết hàn, buộc các mối nối kéo kém chất lượng,...
-Nguyên nhân do không tuân theo các điều kiện kỹ thuật khi lắp dựng giàn giáo:
• Thay đổi tuỳ tiện các kích thước thiết kế của sơ đồ khung không gian.
• Đặt các cột giàn giáo nghiêng lệch so với phương thẳng đứng làm lệch tâm
của các lực tác dụng thẳng đứng gây ra quá ứng suất.
• Không đảm bảo độ cứng, ổn định và bất chuyển vi của các mắt giàn giáo; sự
vững chắc của hệ gia cố giàn giáo với tường hoặc công trình.
• Giàn giáo tựa lên nền không vững chắc, không chú ý đến điều kiện địa hình
và các yêu cầu chất lượng lắp ghép khác.
-Nguyên nhân phát sinh trong quá trình sử dụng giàn giáo:
• Giàn giáo bị quá tải so với tính toán do dự trữ vật liệu hoặc tích luỹ rác rưỡi
trên sàng công tác quá nhiều.
Trang 54
• Không kiểm tra thường xuyên về tình trạng giàn giáo và sự gia cố của chúng
với tường hoặc công trình.
• Hệ gia cố giàn giáo với tường bị nới lỏng hoặc hư hỏng.
• Các đoạn cột ở chân giàn giáo bị hư hỏng do các công cụ vận chuyển va
chạm gây ra.
• Các chi tiết mối nối bị phá hoại hoặc tăng tải trọng sử dụng do tải trọng
động.
5.3.2.2.Những nguyên nhân gây ra chấn thương:
-Người ngã từ trên cao xuống, dụng cụ vật liệu rơi từ trên cao vào người.
-Một phần công trình đang xây dựng bị sụp đổ.
-Chiếu sáng chỗ làm việc không đầy đủ.
-Tai nạn về điện.
-Thiếu thành chắn và thang lên xuống giữa các tầng.
-Chất lượng ván sàn kém.
5.3.3.Yêu cầu đối với vật liệu làm giàn giáo:
-Thông thường giàn giáo có thể làm bằng tre, gỗ, kim loại, hoặc làm kết hợp gỗ và kim
loại. Hiện nay giàn giáo làm bằng gỗ và thép là chủ yếu.
-Nói chung trên công trường nên dùng các loại giàn giáo đã được chế tạo sẵn hoặc đã
được thiết kế theo tiêu chuẩn.. Trường hợp giàn giáo không theo tiêu chuẩn thì phải tiến
hành tính toán theo độ bền và ổn định.
5.3.4. Đảm bảo an toàn khi sử dụng giàn giáo
5.3.4.1.Độ bền của kết cấu và độ ổn định của giàn giáo:
-Độ bền và ổn định của giàn giáo là yếu tố cơ bản để đảm bảo an toàn, tránh sự cố gẫy đổ
khi sử dụng chúng. Tuy nhiên hệ số an toàn độ bền và ổn định cũng không lấy lớn quá
tránh lãng phí vật liệu, làm giảm các chỉ tiêu kinh tế.
Độ bền của kết cấu giàn giáo:
-Để đảm bảo an toàn làm việc trên giàn giáo, phải tính toán với sơ đồ tải trọng tác dụng
phù hợp với điều kiện làm việc thưc tế, tức là kết cấu phải chịu được trọng lượng bản thân
giàn giáo, người làm việc và số lượng máy móc vật liệu cần thiết.
-Thực chất tính toán độ bền làm việc của giàn giáo rất phức tạp. Vì vậy, người ta tính với
mức độ chính xác tương đối dựa trên 1 số giả thiết có chú ý đến sự dự trữ cần thiết của độ
bền. Các giả thiết đó là:
• Các cột giàn giáo liên tục theo chiều cao, những chỗ nối coi như tuyệt đối
cứng.
• Chiều cao của tất cả các tầng giàn giáo coi như bằng nhau.
• Tất cả các đầu mối đều được gắn chặt vào phần đổ và xây của công trình, có
đủ thanh giằng chéo để giữ khỏi bị chuyển vị theo mặt phẳng ngang.
• Liên kết giữa sàn chịu lực và cột bằng cốt thép đai đã tạo ra mômen phụ
thêm ở trong các cột ống do sự nén lệch tâm.

Trang 55
-Từ các giả thiết trên, ta có sơ đồ tính cho 1 cột giàn giáo sau:

+P: lực tác dụng ở từng tầng bao gồm lực thường xuyên, lực tạm thời,...(kg).
+h: chiều cao của tầng giàn giáo (m).
+eo: độ lệch tâm giữa điểm đặt lực và các bộ phận liên kết (m).
-Lực tác dụng vào cột được xác định theo công thức:
[
Ptt = K n.(Ptx + Pg ) + 3.P tth ] (5.14)
Trong đó:
+Ptx: tải trọng thường xuyên trên cột (kg).
+Pg: tải trọng gió, có thể lấy bằng 25kg ở mỗi tầng.
+Ptth: tải trọng tạm thời trên sàng công tác, có thể lấy bằng 200kg trên 1m2 sàng.
+n: số tầng của giàn giáo.
+K: hế số an toàn lấy bằng 2.
-Sau đó kiểm tra lực tới hạn trong cột theo công thức Euler:
π 2 .EJ
PE = (5.15)
h2
Trong đó:
+E, J: môđun đàn hồi và mômen quán tính của tiết diện cột.
-Điều kiện kiểm tra:
Ptt ≤ PE (5.16)
→Nếu không thoả mãn thì phải tăng độ bền của kết cấu giàn giáo.
Độ ổn định của giàn giáo:
-Sự ổn định của giàn giáo phụ thuộc vào:
• Trị số đặt các tải trọng thẳng đứng.
• Hệ thống liên kết của đoạn giàn giáo với các bộ phận cố định của công trình.
• Điều kiện làm việc của cột khi uốn dọc.
• Điều kiện tỳ lên đất của cột giàn giáo, sức chịu tải của đất nền dưới giàn
giáo.
-Khi tính ổn định của giàn giáo, coi rằng giàn giáo được lắp đặt trên nền đất chắc, dồng

Trang 56
chất, đáp ứng được những yêu cầu kỹ thuật và bảo đảm thoát nước.
-Những nguyên tắc cơ bản làm mất tính ổn định các bộ phận của những đoạn giàn giáo có
thể dẫn đến sự cố của cả giàn giáo và tai nạn có thể phân ra làm 4 loại chính sau đây:
• Số lượng gia cố không đủ so với yêu cầu kỹ thuật làm cho chiều dài tính
toán của cột tăng lên nhiều.
• Sự tăng giả tạo những trị số tính toán của các tải trọng tạm thời và thường
xuyên lên cột do việc tăng tuỳ tiện khoảng cách giữa các cột ở 2 phương của giàn
giáo làm cho cột bị quá tải.
• Sự lún của các chỗ tựa riêng biệt cũng gây ra quá tải ở các cột khác do sự
phân bố lại tải trọng tạm thời.
• Gió bão.
-Ngoài ra một nguyên nhân nữa là tổ hợp bất kỳ trong 4 nguyên nhân trên. Do đó để đảm
bảo ổn định của giàn giáo thì phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:
• Trước khi lắp dựng giàn giáo phải san nền cho phẳng, nếu độ dốc quá lớn thì
phải làm bậc, đầm lèn kỹ và phải có rãnh thoát nước tốt.
• Để tăng độ cứng của giàn giáo, thường làm các thanh giằng chéo.
• Chiều cao giàn giáo ứng với tiết diện của cột đã chọn không phải là vô hạn
bời vì ứng suất đoạn dưới của cột sẽ tăng lên khi tăng chiều cao của giàn giáo. Do
đó chiều cao tối đa của nó được xác định theo điều kiện sao cho ứng suất ở đoạn
dưới của cột không được vượt quá ứng suất cho phép, có nghĩa là lực tính toán cho
phép Ptt ở đoạn dưới sẽ là:
Ptt = ϕ .F .[σ ] (5.15)
Trong đó:
+F: diện tích tiết diện cột.
+ϕ: hệ số uốn dọc.
+[σ]: ứng suất cho phép của vật liệu cột.
5.3.5.Các điều kiện lao động an toàn trên giàn giáo:
-Sàn giàn giáo thường làm bằng gỗ, không nên dùng tre. Khi lát sàn cần đực biệt chú ý sự
liên kết chắc chắn giữa sàn và thanh ngang đỡ sàn. Mặt sàn công tác phải bằng phẳng,
không có lỗ hỗng, không để hụt ván, khe hở giữa các tấm ván không được rộng quá 5mm.
-Chiều rộng sàn trong công tác xây dựng không hẹp hơn 2m, trong công tác trát là 1.5m,
trong công tác sơn là 1m.
-Sàn công tác không nên làm sát tường:
• Nên chừa mép sàn và mặt tường để kiểm tra độ thẳng đứng bức tường khi
xây, khe hở không rộng hơn 6cm.
• Khi trát bức tường thì khe hở đó không rộng hơn 10cm.
-Trên mặt giàn giáo và sàn công tác phải làm thành chắn để ngăn ngừa ngã và dụng cụ, vật
liệu rơi xuống dưới. Thành chắn cao hơn 1m, phải có tay vịn. Thành chắn, tay vịn phải
chắc chắn và liên kết với các cột giàn giáo về phía trong, chịu được lực đẩy ngang của 1
công nhân bằng 1 lực tập trung là 25kg. Mép sàn phải có tấm gỗ chắn cao 15cm.

Trang 57
-Số tầng giàn giáo trên đó cùng 1 lúc có thể tiến hành làm việc không vượt quá 3 tầng,
đồng thời phải bố trí công việc sao cho công nhân không làm việc trên 1 mặt phẳng đứng.
-Để thuận tiện cho việc lên xuống, giữa các tầng phải đặt các cầu thang:
• Khoảng cách từ cầu thang đến chỗ xa nhất không quá 25m theo phương nằm
ngang.
• Độ dốc cầu thang không được quá 10o.
• Chiều rộng thân thang tối thiểu là 1m nếu lên xuống 1 chiều và 1.5m nếu lên
xuống 2 chiều.
• Nếu giàn giáo cao dưới 12m, thang có thể bắt trực tiếp từ trên sàn; khi cao
hơn 12m để lên xuống phải có lồng cầu thang riêng.
• Lên giàn giáo phải dùng thang, cấm trèo cột, bấu víu đu người lên, không
được mang vác, gánh gồng vật liệu nặng lên thang; không được phép chất vật liệu
trên thang.
-Để bảo vệ công nhân khi làm việc khỏi bị sét đánh phải có thiết bị chống sét đạt yêu cầu
kỹ thuật an toàn. Giàn giáo kim loại phải được tiếp đất.
-Trong thời gian làm việc phải tổ chức theo dõi thường xuyên tình trạng của giàn giáo nói
chung, đặc biệt sàn và thành chắn. Nếu phát hiện có hư hỏng phải sửa chữa ngay. Khi có
mưa dông hoặc gió lớn hơn cấp 6, sương mù dày đặc thì không được làm việc trên giàn
giáo. Sau cơn gió lớn, mưa dông phải kiểm tra lại giàn giáo trước khi tiếp tục dùng.
-Khi làm việc về ban đêm, chỗ làm việc trên giàn giáo phải được chiếu sáng đầy đủ. Tất cả
lối đi lại cầu thang trên giàn giáo và mặt đất xung quanh chân cầu thang cũng phải được
chiếu sáng theo tiêu chuẩn chiếu sáng chung.
-Giàn giáo lắp dựng ở cạnh các đường đi có nhiều người và xe cộ qua lại phải có biện
pháp bảo vệ chu đáo để các phương tiện vận tải khỏi va chạm làm đổ gãy giàn giáo.
-Công nhân làm việc trên giàn giáo phải có dây an toàn, đi giày có đế nhám, đầu đội mũ
cứng. Không cho phép:
• Đi các loại dép không có quai hậu, các giày dép trơn nhẵn dễ bị trượt ngã.
• Tụ tập nhiều người cùng đứng trên 1 tấm ván sàn.
• Ngồi trên thành chắn hoặc leo ra ngoài thành chắn.
-Những công nhân phải leo lên cao làm việc trên giàn giáo, công nhân làm việc dưới đất
xung quanh giàn giáo đều phải học tập về kỹ thuật an toàn có liên quan. Những người có
bệnh tim, động kinh, huyết áp cao, tai điếc, mắt kém, phụ nữ có thai, dưới 18 tuổi không
được làm việc trên cao.
5.3.6. An toàn vận chuyển vật liệu trên giàn giáo:
-Để đưa các bộ phận chi tiết giàn giáo lên cao trong khi lắp dựng, trên công trường thường
được dùng puli, ròng rọc và tời kéo tay. Lúc lắp giàn giáo ở trên cao, khi chưa có sàn công
tác, công nhân phải đeo dây an toàn buộc vào các bộ phận chắc chắn hoặc cột giàn giáo
bằng cáp hay xích.
-Để đưa vật liệu xây dựng lên giàn giáo trong quá trình sử dụng có thể áp dụng 2 dạng vận
chuyển:
• Khi phương tiện vận chuyển trực tiếp liên quan đến giàn giáo có thể dùng

Trang 58
cẩu thiếu nhi hoặc thăng tải. Chỗ đặt cần trục và chỗ nhận vật liệu phải nghiên cứu
trước trong thiết kế và tính toán đủ chịu lực.
• Khi cần trục và thang tải bố trí đứng riêng, độc lập với giàn giáo thì phải cố
định chúng với các kết cấu của công trình hoặc dùng neo xuống đất chắc chắn.
-Các thao tác bốc xếp vật liệu từ cần trục lên giàn giáo phải nhẹ nhàng, không được quăng
vứt vật liệu vỡ hoặc thừa không dùng đến. Muốn đưa xuống phải dùng cần trục hoặc tời.
-Chỉ cho phép vận chuyển vật liệu trên giàn giáo bằng xe cút kít hay xe cải tiến khi giàn
giáo đã được tính toán thiết kế với những tải trọng đó và phải lát ván cho xe đi.
5.3.7.An toàn khi tháo dỡ giàn giáo:
-Trong thời gian tháo dỡ giàn giáo, tất cả các cửa ra vào ở tầng 1 và ở các ban công các
tầng gác trong khu vực tiến hành tháo dỡ đều phải đóng lại.
-Trước khi lột ván sàn, giàn giáo phải dọn sạch vật liệu, dụng cụ, rác rưỡi trên sàn ván và
rào kín đường đi dẫn đến chỗ đó.
-Trong khu vực đang tháo dỡ giàn giáo phải có rào dậu di động đặt cách chân giàn giao ít
nhất bằng 1/3 chiều cao của giàn giáo, phải có biển cấm không cho người lạ vào.
-Các tấm ván sàn, các thanh kết cấu giàn giáo được tháo dỡ ra không được phép lao từ trên
cao xuống đất mà phải dùng cần trục hoặc tời để đưa xuống đất 1 cách từ từ.

Trang 59
CHƯƠNG 6: KỸ THUẬT AN TOÀN VỀ ĐIỆN

6.1. NGUYÊN NHÂN VÀ TÁC HẠI CỦA TAI NẠN ĐIỆN


6.1.1.Tác dụng của dòng điện đối với cơ thể con người:
-Khi người tiếp xúc với điện sẽ có 1 dòng điện chạy qua người và con người sẽ chịu tác
dụng của dòng điện đó.
-Tác hại của dòng điện đối với cơ thể con người có nhiều dạng: gây bỏng, phá vỡ các mô,
làm gãy xương, gây tổn thương mắt, phá huỷ máu, làm liệt hệ thống thần kinh,...
-Tai nạn điện giật có thể phân thành 2 mức là chấn thương điện (tổn thương bên ngoài các
mô) và sốc điện (tổn thương nội tại cơ thể).
6.1.1.1.Chấn thương điện:
-Là các tổn thương cục bộ ở ngoài cơ thể dưới dạng: bỏng, dấu vết điện, kim loại hoá da.
Chấn thương điện chỉ có thể gây ra 1 dòng điện mạnh và thường để lại dấu vết bên ngoài.
a/Bỏng điện:
-Do các tia hồ quang điện gây ra khi bị đoãn mạch, nhìn bề ngoài không khác gì các loại
bỏng thông thường. Nó gây chết người khi quá 2/3 diện tích da của cơ thể bị bỏng. Nguy
hiểm hơn cả là bỏng nội tạng cơ thể dẫn đến chết người mặc dù phía ngoài chưa quá 2/3.
b/Dấu vết điện:
-Là 1 dạng tác hại riêng biệt trên da người do da bị ép chặt với phần kim loại dẫn điện
đồng thời dưới tác dụng của nhiệt độ cao (khoảng 120oC).
c/Kim loại hoá da:
-Là sự xâm nhập của các mãnh kim loại rất nhỏ vào da do tác động của các tia hồ quang
có bão hoà hơi kim loại (khi làm các công việc về hàn điện).
6.1.1.2.Sốc điện:
-Là dạng tai nạn nguy hiểm nhất. Nó phá huỷ các quá trình sinh lý trong cơ thể con người
và tác hại tới toàn thân. Là sự phá huỷ các quá trình điện vốn có của vật chất sống, các quá
trình này gắn liền với khả năng sống của tế bào.
-Khi bị sốc điện cơ thể ở trạng thái co giật, mê man bất tỉnh, tim phổi tê liệt. Nếu trong
vòng 4-6s, người bị nạn không được tách khỏi kịp thời dòng điện co thể dẫn đến chết
người.
-Với dòng điện rất nhỏ từ 25-100mA chạy qua cơ thể cũng đủ gây sốc điện. Bị sốc điện
nhẹ có thể gây ra kinh hoàng, ngón tay tê đau và co lại; còn nặng có thể làm chết người vì
tê liệt hô hấp và tuần hoàn.
-Một đặc điểm khi bị sốc điện là không thấy rõ chỗ dòng điện vào người và người tai nạn
không có thương tích.
6.1.2.Các nhân tố ảnh hưởng tới mức độ trầm trọng khi bị điện giật:
6.1.2.1.Cường độ dòng điện đi qua cơ thể:
-Là nhân tố chính ảnh hưởng tới điện giật. Trị số dòng điện qua người phụ thuộc vào điện
áp đặt vào người và điện trở của người, được tính theo công thức:

Trang 60
U
I ng = (6.1)
Rng

Trong đó:
+U: điện áp đặt vào người (V).
+Rng: điện trở của người (Ω).
-Như vậy cùng chạm vào 1 nguồn điện, người nào có điện trở nhỏ sẽ bị giật mạnh hơn.
Con người có cảm giác dòng điện qua người khi cường độ dòng điện khoảng 0.6-1.5mA
đối với điện xoay chiều (ứng tần số f=50Hz) và 5-7mA đối với điện 1 chiều.
-Cường độ dòng điện xoay chiều có trị số từ 8mA trở xuống có thể coi là an toàn. Cường
độ dòng điện 1 chiều được coi là an toàn là dưới 70mA và dòng điện 1 chiều không gây ra
co rút bắp thịt mạnh. Nó tác dụng lên cơ thể dưới dạng nhiệt.
6.1.2.2.Thời gian tác dụng lên cơ thể:
-Thời gian dòng điện đi qua cơ thể càng lâu càng nguy hiểm bởi vì điện trở cơ thể khi bị
tác dụng lâu sẽ giảm xuống do lớp da sừng bị nung nóng và bị chọc thủng làm dòng điện
qua người tăng lên.
-Ngoài ra bị tác dụng lâu. dòng điện sẽ phá huỷ sự làm việc của dòng điện sinh vật trong
các cơ của tim. Nếu thời gian tác dụng không lâu quá 0.1-0.2s thì không nguy hiểm.
6.1.2.3.Con đường dòng điện qua người:
-Tuỳ theo con đường dòng điện qua người mà mức độ nguy hiểm có thể khác nhau. Người
ta nghiên cúu tổn thất của trái tim khi dòng điện đi qua bằng những con đường khác nhau
vào cơ thể như sau:
• Dòng điện đi từ chân qua chân thì phân lượng dòng điện qua tin là 0.4%
dòng điện qua người.
• Dòng điện đi tay qua tay thì phân lượng dòng điện qua tin là 3.3% dòng điện
qua người.
• Dòng điện đi từ tay trái qua chân thì phân lượng dòng điện qua tin là 3.7%
dòng điện qua người.
• Dòng điện đi từ tay phải qua chân thì phân lượng dòng điện qua tin là 6.7%
dòng điện qua người.
→ trường hợp đầu là ít nguy hiểm nhất nhưng nếu không bình tĩnh, người bị ngã sẽ rất dễ
chuyển thành các trường hợp nguy hiểm hơn.
6.1.2.4.Tần số dòng điện:
-Khi cùng cường độ, tuỳ theo tần số mà dòng điện có thể là nguy hiểm hoặc an toàn:
• Nguy hiểm nhất về mặt điện giật là dòng điện xoay chiều dùng trong công
nghiệp có tần số từ 40-60Hz.
• Khi tần số tăng lên hay giảm xuống thì độ nguy hiểm giảm, dòng điện có tần
số 3.106-5.105Hz hoặc cao hơn nữa thù dù cường độ lớn bao nhiêu cũng không giật
nhưng có thể bị bỏng.
6.1.2.5.Điện trở của con người:
-Điện trở của người có ảnh hưởng hết sức quan trọng. Điện trở của cơ thể con người khi

Trang 61
có dòng điện chạy qua khác với vật dẫn là nó không cố định mà biến thiên trong phạm vi
từ 400-500Ω và lớn hơn:
• Lớp da và đặc biệt là lớp sừng có trở điện trở lớn nhất bởi vì trên lớp da này
không có mạch máu và tế bào thần kinh:
 Điện trở của da người giảm không tỉ lệ với sự tăng điện áp. Khi điện
áp là 36V thì sự huỷ hoại lớp da xảy ra chậm, còn khi điện áp là 380V thì sự
huỷ hoại da xảy ra đột ngột.
 Khi lớp da khô và sạch, lớp sừng không bị phá hoại, điện trở vào
khoảng 8.104-40.104Ω/cm2; khi da ướt có mồ hôi thì giảm xuống còn
1000Ω/cm2 và ít hơn.
• Điện trở các tổ chức bên trong của cơ thể phụ thuộc vào trị số điện áp, lấy
trung bình vào khoảng 1000Ω. Đại lượng này được sử dụng khi phân tích các
trường hợp tai nạn điện để xác định gần đúng trị số dòng điện đi qua cơ thể con
người trong thời gian tiếp xúc, tức là trong tính toán lấy điện trở của người là
1000Ω (không lấy điện trở của lớp da ngoài để tính toán).
6.1.2.6.Đặc điểm riêng của từng người:
-Cùng chạm vào 1 điện áp như nhau, người bị bệnh tim, thần kinh, người sức khoẻ yếu sẽ
nguy hiểm hơn vì hệ thống thần kinh chóng tê liệt. Họ rất khó tự giải phóng ra khỏi nguồn
điện.
6.1.2.7.Môi trường xung quanh:
-Môi trường xung quanh có bụi dẫn điện, có nhiệt độ cao và đặc biệt là độ ẩm cao sẽ làm
điện trở của người và các vật cách điện giảm xuống, khi đó dòng điện đi qua người sẽ tăng
lên.
6.1.3.Phân tích một số trường hợp tiếp xúc với mạng điện:
-Khi người tiếp xúc với mạng điện, mức độ nguy hiểm phụ thuộc vào sơ đồ nối mạch giữa
người và mạng điện. Nói chung có thể phân ra 3 trường hợp phổ biến sau đây:
6.1.3.1.Chạm đồng thời vào hai pha khác nhau của mạng điện:
-Trường hợp chạm vào 2 pha bất kỳ trong mạng 3 pha hoặc với dây trung hoà và 1 trong
các pha sẽ tạo nên mạch kín trong đó nối tiếp với điện trở của người, không có điện trở
phụ thêm nào khác.

-Khi đó điện áp tiếp xúc bằng điện áp trong mạng, còn dòng điện qua người nếu bỏ qua
điện trở tiếp xúc được tính gần đúng theo công thức:

Trang 62
Ud
I ng = (6.2)
Rng

Trong đó:
+Ud: điện áp mạng đóng kín bởi sự tiếp xúc với 2 pha của người (V).
-Chạm vào 2 pha của dòng điện là nguy hiểm nhất vì người bị đặt trực tiếp váo điện áp
dây, ngoài điện trở của người không còn nối tiếp với một vật cách điện nào khác nên dòng
điện đi qua người rất lớn. Khi đó dù có đi giày khô, ủng cách điện hay đứng trên ghế gỗ,
thảm cách điện vẫn bị giật mạnh.
6.1.3.2.Chạm vào một pha của diòng điện ba pha có dây trung tính nối đất:

-Đây là trường hợp mạng điện 3 pha có điện áp ≤100V. Trong trường hợp này, điện áp các
dây pha so với đất bằng điện áp pha tức là người người đặt trực tiếp dưới điện áp pha Up.
Nếu bỏ qua điện trở nối đất Ro thì dòng điện qua người được tính như sau:
Up Ud
I ng = = (6.3)
Rng 3.Rng

Trong đó:
+Up: điện áp pha (V).
6.1.3.3.Chạm vào một pha của mạng điện với dây trung tính cách điện không nối đất:

-Người chạm vào 1 pha coi như mắc vào mạng điện song song với điện trở cách điện của
pha đó và nối tiếp với các điện trở cảu 2 pha khác.

Trang 63
-Trị số dòng điện qua người phụ thuộc vào điện áp pha, điện trở của người và điện trở của
cách điện được tính theo công thức:
Ud 3.U d
I ng = = (6.4)
Rc 3.Rng + Rc
3.Rng +
3
Trong đó:
+Ud: điện áp dây trong mạng 3 pha (V).
+Rc: điện trở của cách điện (Ω).
→Ta thấy rõ ràng dòng điện qua người trong trường hợp này là nhỏ nhất vì thế ít nguy
hiểm nhất.
6.1.4.Những nguyên nhân gây ra tai nạn điện:
-Tai nạn điện có thể chia làm 3 hình thức:
• Do tiếp xúc trực tiếp với dây dẫn hoặc bộ phận thiết bị có dòng điện đi qua.
• Do tiếp xúc bộ phận kết cấu kim loại của thiết bị điện hoặc thân của máy có
chất cách điện bị hỏng.
• Tai nạn gây ra do điện áp ở chỗ dòng điện rò trong đất.
→Ngoài ra, còn1 hình thức nữa là do sự làm việc sai lầm của người sữa chữa như bất ngờ
đóng điện vào thiết bị ở đó có người đang làm việc.
-Những nguyên nhân làm cho người bị tai nạn điện:
• Sự hư hỏng của thiết bị, dây dẫn điện và các thiết bị mở máy.
• Sử dụng không đúng các dụng cụ nối điện thế trong các phòng bị ẩm ướt.
• Thiếu các thiết bị và cầu chì bảo vệ hoặc có nhưng không đáp ứng với yêu
cầu.
• Tiếp xúc phải các vật dẫn điện không có tiếp đất, dịch thể dãn điện, tay quay
hoặc các phần khác của thiết bị điện.
• Bố trí không đầy đủ các vật che chắn, rào lưới ngăn ngừa việc tiếp xúc bất
ngờ với bộ phận dẫn điện, dây dẫn điện của các trang thiết bị.
• Thiếu hoặc sử dụng không đúng các dụng cụ bảo vệ cá nhân: ủng, găng, tay
cách điện, thảm cao su, giá cách điện.
• Thiết bị điện sử dụng không phù hợp với điều kiện sản xuất.
6.2 CÁC BIỆN PHÁP CHUNG AN TOÀN VỀ ĐIỆN
6.2.1. Sử dụng điện thế an toàn:
-Tuỳ thuộc vào mức độ nguy hiểm về điện của các loại phòng sản xuất mà yêu cầu an toàn
về điện có mức độ khác nhau. Một trong những biện pháp đó là việc sử dụng đúng mức
điện áp đối với các thiết bị điện. Điện áp an toàn là điện áp không gây nguy hiểm đối với
người khi chạm phải thiết bị mang điện.
6.2.1.1.Phân loại các nơi làm việc theo mức độ nguy hiểm về điện:
-Tất cả các phòng sản xuất tuỳ theo mức độ nguy hiểm về điện chia thành 3 nhóm:

Trang 64
a/Các phòng, các nơi ít nguy hiểm:
-Là các phòng khô ráo với quy định:
• Độ ẩm tương đối của không khí không quá 75%.
• Nhiệt độ trong khoảng 5-25oC (không quá 30oC).
• Sàn có điện trở lớn bằng vật liệu không dẫn điện (gỗ khô ráo, rải nhựa).
• Không có bụi dẫn điện.
• Con người không phải đồng thời tiếp xúc với cơ cấu kim loại có nối với đất
và với vỏ kim loại của thiết bị điện.
b/Các phòng, các nơi nguy hiểm nhiều:
-Các phòng ẩm với:
• Độ ẩm tương đối luôn luôn trên 75%.
• Độ ẩm tương đối có thể nhất thời tăng đến bão hoà.
• Nhiệt độ trung bình tới 25oC.
-Các phòng khô không có hệ thống lò sưởi và có tầng mái.
-Các phòng có bụi dẫn điện.
-Các phòng nóng với nhiệt độ không khí lớn hơn 30oC, trong thời gian dài con người phải
tiếp xúc đồng thời với vỏ kim loại của các thiết bị điện và với các cơ cấu kim loại công
trình của dây chuyền công nghệ có nối đất.
-Các phòng có sàn là vật liệu dẫn điện (bằng kim loại, đất, bêtông, gỗ bị ẩm, gạch,...)
c/Các phòng, các nơi đặc biệt nguy hiểm:
-Rất ẩm ướt trong đó độ ẩm tương đối của không khí thường xấp xĩ 100% (trần, tường, sàn
và các đồ đạc trong phòng có đọng hạt nước).
-Thường xuyên có hơi khí độc.
-Có ít nhất 2 trong những dấu hiệu của phòng hoặc nơi nguy hiểm nhiều (mục B).
-Nguy hiểm về mặt nổ (kho chứa chất nổ trên công trường).
6.2.1.2.Một số quy định an toàn:
-Đối với các phòng, các nơi không nguy hiểm mạng điện dùng để thắp sáng, dùng cho các
dụng cụ cầm tay,... được sử dụng điện áp không quá 220V. Đối với các nơi nguy hiểm
nhiều và đặc biệt nguy hiểm đèn thắp sáng tại chỗ cho phép sử dụng điện áp không quá
36V.
-Đối với đèn chiếu cầm tay và dụng cụ điện khí hoá:
• Trong các phòng đặc biệt ẩm, điện thế không cho phép quá 12V.
• Trong các phòng ẩm không quá 36V.
-Trong những trường hợp đặc biệt nguy hiểm cho người như khi làm việc trong lò, trong
thùng bằng kim loại,...ở những nơi nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm chỉ được sử dụng
điện áp không quá 12V.
-Đối với công tác hàn điện, người ta dùng điện thế không quá 70V. Khi hàn hồ quang điện
nhất thiết là điện thế không được cao quá 12-24V.

Trang 65
6.2.2.Làm bộ phận che chắn và cách điện dây dẫn:
6.2.2.1.Làm bộ phận che chắn:
-Để bảo vệ dòng điện, người ta đặt những bộ phận che chắn ở gần các máy móc và thiết bị
nguy hiểm hoặc tách các thiết bị đó ra với khoảng cách an toàn.
-Các loại che chắn đặc, lưới hay có lỗ được dùng trong các phòng khô khi điện thé lớn hơn
65V, ở trong các phòng ẩm khi điện thế lớn hơn 36V và trong các phòng đặc biệt ẩm điện
thế lớn hơn 12V.
-Ở các phòng sản xuất trong đó có các thiết bị làm việc với điện thế 1000V, người ta làm
những bộ phận che chắn đặc (không phụ thuộc vào chất cách điện hay không) và chỉ có
thể lấy che chắn đó ra khi đã ngắt dòng điện.
6.2.2.2.Cách điện dây dẫn:
-Dây dẫn có thể không làm cách điện nếu dây được treo cao trên 3.5m so với sàn; ở trên
các đường vận chuyển ôtô, cần trục đi qua dây dẫn phải treo cao 6m.
-Nếu khi làm việc có thể đụng chạm vào dây dẫn thì dây dẫn phải có cao su bao bọc,
không được dùng dây trần.
-Dây cáp điện cao thế qua chỗ người qua lại phải có lưới giăng trên không phòng khi dây
bị đứt.
-Phải rào quanh khu vực đặt máy phát điện hoặc máy biến thế.
6.2.3.Làm tiếp đất bảo vệ:
-Các bộ phận của vỏ máy, thiết bị bình thường không có điện nhưng nếu cách điện hỏng,
bị chạm mát thì trên các bộ phận này xuất hiện điện áp và khi đó người tiếp xúc vào có thể
bị giật nguy hiểm.
-Để đề phòng trường hợp nguy hiểm này, người ta có thể dùng dây dẫn nối vỏ của thiết bị
điện với đất hoặc với dây trung tính hay dùng bộ phận cắt điện bảo vệ.
6.2.3.1.Nối đất bảo vệ trục tiếp:
-Dùng dây kim loại nối bộ phận trên thân máy với cực nối đất bằng sắt, thép chôn dưới đất
có điện trở nhỏ với dòng điện rò qua đất và điện trở cách điện ở các pha không bị hư hỏng
khác.

-Hệ thống tiếp đất phải có điện trở đủ nhỏ để sao cho người khi tiếp xúc vào vỏ của thiết
bị có điện áp rò rỉ (coi như người mắc song song với mạch tiếp đất) thì dòng điện chạy qua
cơ thể không đến trị số có thể gây nguy hiểm cho sức khoẻ và sự sống. Hình thức này áp

Trang 66
dụng ở mạng 3 pha có trung hoà cách điện.
-Theo quy định hiện hành thì:
• Đối với thiết bị điện có điện áp đến 1000V trong các lưới điện có trung tính
đặt cách điện đối với mặt đất, trị số điện trở nối đất phải không lớn hơn 4Ω.
• Đối với thiết bị điện có công suất nguồn nhỏ hơn 100KVA cho phép điện trở
nối đất tới 10Ω.
-Trong trường hợp tiếp xúc như trên, người được coi là mắc vào dòng điện rò song song
với cựu nối đất. Theo định luật phân bố dòng diện, ta có:
I n .Rn = I d .Rnd (6.5)
Rnd
hay In = Id .
Rn
Trong đó:
+In: cường độ dòng điện qua người (A).
+Id: cường độ dòng điện rò (A). Trong các mạng với trung hoà cách điện có điện áp
dưới 1000V→Id không lớn quá 10A (thường 4-6A).
+Rn: điện trở tính toán của người (Ω).
+Rnd: điện trở cực nối đất (Ω).
⇒Khi trị số dòng điện rò nhỏ hơn và điện trở người lớn hơn, dòng điện đi qua người sẽ
còn nhỏ nữa, bảo đảm an toàn cho người.
6.2.3.2.Nối đất bảo vệ qua dây trung hoà:

-Dùng dây dẫn nối với thân kim loại của máy vào dây trung hoà được áp dụng trong mạng
có điện áp dưới 1000V, 3 pha 4 dây có dây trung tính nối đất, nối đất bảo vệ trực tiếp như
trên sẽ không đảm bảo an toàn khi chạm đất 1 pha. Bởi vì:
• Khi có sự cố (cách điện của thiết bị điện hỏng) sẽ xuất hiện dòng điện trên
thân máy thì lập tức 1 trong các pha sẽ gây ra đoản mạch và trị số của dòng điện
mạch sẽ là:
U
I nm = (6.6)
Rd + Ro
Trang 67
Trong đó:
+U: điện áp của mạng (V).
+Rd: điện trở đất (Ω).
+Ro: điện trở của nối đất (Ω).
• Do điện áp không lớn nên trị số dòng điện Inm cũng không lớn và cầu chì có
thể không cháy, tình trạng chạm đất sẽ kéo dài, trên vỏ thiết bị sẽ tồn tại lâu dài 1
điện áp với trị số:
Ud
U d = Rd .I nm = (6.7)
R d + Ro
-Rõ ràng điện áp này có thể đạt đến mức độ nguy hiểm. Vì vậy để cầu chì và bảo vệ khác
cắt mạch thì phải nối trực tiếp vở thiết bị với dây trung tính và phải tính toán sao cho dòng
điện ngắn mạch Inm với điều kiện:
• Lớn hơn 3 lần dòng điện định mức của cầu chì gần nhất Icc:
I nm
≥3
I cc

• Hoặc lớn hơn 1.5 lần dòng điện cần thiết để cơ cấu tự động cắt điện gần nhất
Ia :
I nm
≥ 1. 5
Ia
-Việc nối trực tiếp vỏ thiết bị điện với dây trung tính là nhằm mục đích tăng trị số dòng
điện ngắn mạch Inm để cho cầu chì và các bảo vệ khác cắt được mạch điện.
6.2.3.3.Cắt điện bảo vệ tự động:
-Dùng trong trường hợp khi 2 phương án trên không đạt yêu cầu an toàn. Cơ cấu này có
thể sử dụng cả ở mạng 3 pha cách điện đối với đất, lẫn ở mạng có trung tính nối đất.
-Đặc điểm cơ bản của nó là có thể cắt điện nhanh trong khoảng thời gian 0.1-0.2s khi xuất
hiện điện áp trên vỏ thiết bị đến trị số quy định.
-Đối với mạng 3 pha, cơ cấu này được mắc nối tiếp vào dây nối thân động cơ điện với cực
nối đất hoặc với dây trung hoà và sẽ hoạt động dưới tác dụng của dòng điện rò hoặc dòng
điện ngắn mạch trong thời gian điện mát ra thân máy và sẽ cắt điện khỏi máy.

1.Động cơ điện 2.Lò xo 3.Cầu dao 4.Lõi sắt 5.Cuộn dây

Trang 68
-Nguyên lý làm việc của cơ cấu cắt điện bảo vệ tự động như sau:
• Khi trên vỏ động cơ không có điện áp, đóng cầu dao, lò xo bị kéo căng và lõi
sắt giữ cầu dao ở tư thế đó, động có có điện làm việc.
• Nếu cách điện của động cơ hỏng, 1 pha chạm vỏ động cơ thì điện áp xuất
hiện, 1 dòng điện chạy trong cuộn dây rút lõi sắt xuống phía dưới, lò xo kéo cầu
dao cắt điện nguồn cung cấp.
-So với tiếp đất bảo vệ và nối dây trung tính thì cắt điện bảo vệ có những ưu điểm sau:
• Điện áp xuất hiện trên đối tượng bảo vệ không thể quá điện áp quy định nên
bảo đảm điều kiện tuyệt đối an toàn.
• Điện trở nối đất của cơ cấu không yêu cầu quá nhỏ mà có thể tới 100-500Ω.
Do đó đễ dàng bố trí và chế tạo hệ thống nối đất của cơ cấu máy.
6.2.4.Dùng các dụng cụ phòng hộ:
-Để bảo vệ người khỏi tai nạn điện khi sử dụng các thiết bị điện thì phải dùng các loại thiết
bị và dụng cụ bảo vệ.
6.2.4.1.Tuỳ theo điện áp của mạng điện:
-Các phương tiện bảo vệ chia ra loại dưới 1000V và loại trên 1000V. Trong mỗi loại lại
phân biệt loại dụng cụ bảo vệ chính và loại dụng cụ bảo vệ phụ trợ.
-Các dụng cụ bảo vệ chính là loại chịu được điện áp khi tiếp xúc với phân dẫn điện trong 1
thời gian dài lâu.
-Các dụng cụ phụ trợ là các loại bản thân không đảm bảo an toàn khỏi điện áp tiếp xúc nên
phải dùng kết hợp với dụng cụ chính để tăng cường an toàn hơn.
6.2.4.2.Tuỳ theo chức năng của phương tiện bảo vệ:
a/Các dụng cụ kỹ thuật điện:
-Bảo vệ người khỏi các phần dẫn điện của thiết bị và đất là bục cách điện, thảm cách điện,
ủng và găng tay cách điện.
-Bục cách điện dùng để phục vụ các thiết bị điện có điện áp bất kỳ, thường có kích thước
75*75cm hoặc 75*40cm, có chân sứ cách điện.
-Thản cách điện dùng để phục vụ các thiết bị điện có điện áp từ 1000V trỏ xuống, thường
có kích thước 75*75cm, dày 0.4-1cm.
-Găng tay cách điện dùng cho để phục vụ các thiết bị điện có điện áp dưới 1000V đối với
dụng cụ bảo vệ chính và điện áp trên 1000V đối với dụng cụ phụ trợ. Ủng, giày cách điện
là loại dụng cụ bảo vệ phụ trợ, ủng cách điện dung với điện áp trên 1000V, còn giày cách
điện dùng điện áp dưới 1000V.
b/Các dụng cụ bảo vệ khi làm việc dưới điện thế:
-Người ta dùng sào cách điện, kìm cách điện và các dụng cụ thợ điện khác.
-Sào cách điện dùng để đóng mở cầu dao cách ly và đặt thiết bị nối đất. Nó có phần móc
chắc chắn trên đầu, phần cách điện và cán để cầm (dài hơn 10cm làm bằng vật liệu cách
điện như ebonit, tectonit,...).
-Kìm cách điện dùng để tháo lắp cầu chì ống, để thao tác trên những thiết bị điện có điện
áp trên 35000V. Kìm cách điện cũng phải có tay cầm dài hơn 10cm và làm bằng vật liệu
cách điện.
Trang 69
-Các loại dụng cụ thợ điện khác dùng để kiểm tra xem có điện hay không, có thể sử dụng
các loại sau:
• Với thiết bị có điện áp trên 1000V thì sử dụng đồng hồ đo điện áp hoặc kìm
đo điện.
• Với các thiết bị có điện áp dưới 500V thì sử dụng bút thử điện, đèn ắc quy.
c/Các loại dụng cụ bảo vệ khác:
-Các loại phương tiện để tránh tác hại của hồ quang điện như kính bảo vệ mắt, quần áo
không bắt cháy, bao tay vải bạt, mặt nạ phòng hơi độc,...
-Các loại phương tiện dùng để làm việc trên cao như thắt lưng bảo hiểm, móc chân có quai
da, dây đeo, xích an toàn, thang xép, thang nâng, thang gá, chòi ống lồng,...
6.2.4.3.Các biển báo phòng ngừa:
-Ngoài ra để đảm bảo an toàn cần có các biển báo phòng ngừa dùng để:
• Báo và ngăn không cho người tới gần các trang thiết bị có điện.
• Ngăn không thao tác các khoá, cầu dao có thể phòng điện vào nơi đang sửa
chữa hoặc làm việc.
-Theo mục đích, các loại biển báo có thể chia làm 4 nhóm:
• Biển báo ngăn ngừa: “Cấm sờ mó-chết người”, “Điện cao áp-nguy hiểm chết
người”,...
• Biển báo cấm: “Không đóng điện-có người làm việc”, “Không đóng điện-
làm việc trên đường dây”,...
• Biển báo loại cho phép: “Làm việc ở đây” để chỉ rõ chỗ làm việc cho công
nhân,...
• Biển báo loại nhắc nhở để nhác nhở về các biện pháp cần thiết: “Nối đất”,...
-Các loại biển báo di động dùng trong các trang thiết bị có điện áp trên và dưới 1000V cần
làm bằng vật liệu cách điện hoặc dẫn điện xấu (chất dẻo hoặc bìa cứng cách điện). Cấm
dùng sắt tây làm biển báo. Phía trên biển báo phải có lỗ và móc để treo.
6.3 CẤP CỨU NGƯỜI BỊ NẠN
-Khi người bị tai nạn điện ở mức độ nguy hiểm thì phải được cấp cứu ngay. Cấp cứu chia
làm 2 giai đoạn:
• Cứu người ra khỏi mạng điện.
• Sau đó là hô hấp nhân tạo hoặc thổi ngạt.
-Cấp cứu ngưòi bị điện giật rất quan trọng. Nạn nhân có thể sống hay chết là do cấp cứu
có được nhanh chóng và đúng phương pháp hay không. Bất kỳ lúc nào cũng phải tiến hành
khẩn trương và kiên trì. Bởi vì chỉ trể 1 chút có thể dẫn đến hậu qủ không cứu chữa được
hoặc thiếu kiên trì hô hấp nhân tạo sẽ làm cho người bị nạn không hồi tỉnh được mặc dù
mới ở mức độ có thể cứu chữa được.
6.3.1.Cứu người bị nạn khỏi nguồn điện:
-Lập tức cắt công tắc, cầu dao.
-Nếu không làm như vậy được thì dùng dụng cụ ngắt điện để cắt đứt mạch điện như dùng
dao cắt có cán gỗ khô, đứng trên tấm gỗ khô và cắt lần lượt từng dây một.
Trang 70
-Cũng có thể làm ngắn mạch bằng cách quăng lên trên dây dẫn 1 đoạn kim loại hoặc dây
dẫn để làm cháy cầu chì. Khi làm như vậy phải chú ý đề phòng người bị nạn có thể bị ngã
hoặc chấn thương.
-Nếu không thể làm được bằng cách trên thì phải tách người bị nạn ra khỏi thiết bị bằng
sức người thật nhanh chóng nhưng như vậy dễ nguy hiểm cho người cứu nên đòi hỏi
người cứu phải khô ráo và chỉ cầm vào quần áo khô của người bị nạn mà giật.
-Đưa ngay người bị nạn ra nơi thoáng khí, đắp quần áo ấm và đi gọi bác sĩ. Nếu không kịp
gọi bác sĩ thì phải tiến hành hô hấp nhân tạo.
6.3.2.Phương pháp hô hấp nhân tạo:
-Hô hấp nhân tạo cần phải được tiến hành ngay khi thầy thuốc chưa đến. Nên làm ngay tại
chỗ bị nạn, không mang đi xa. Thời gian hô hấp cần phải kiên trì, có trường hợp phải hô
hấp đến 24 giờ. Làm hô hấp nhân tạo phải liên tục cho đến khi bác sĩ đến.
-Mặc dù không còn dấu hiệu của sự sống cũng không được coi là nạn nhân đã chết. Chỉ
được xem là chết nếu nạn nhân vỡ sọ hoặc cháy đen. Trước khi hô hấp cần phải cởi và nới
quần áo của nạn nhân, cạy miệng ra khi miệng cắn chặt.
-Có 2 phương pháp hô hấp nhân tạo là hô hấp do 1 người và hô hấp do 2 người.
6.3.2.1.Phương pháp hô hấp do 1 người:
-Đặt nạn nhân nằm sấp, mặt nghiêng sang 1 bên và kê tay phải gấp lại cho dễ thở, tay trái
duỗi thẳng về phía trước. Người cấp cứu quỳ sát đồi gối vào xương hông, để 2 tay lên
sườn nạn nhân:
• Lúc bóp sườn (án vào phần dưới của lồng ngực 1 cách nhịp nhàng) phải ngã
người về phía trước, đứng lên 1 tý cho có sức đè xuống. Đây là động tác thở ra,
miệng đếm 1, 2, 3 và tay vẫn để như cũ.
• Khi làm động tác hít vào, phải từ từ hạ người xuống, thả tay ra và đếm 4, 5,
6.
-Phương pháp này có ưu điểm:
• Đờm rải và những chất trong dạ dày không trồi lên họng.
• Lưỡi không tụt vào họng, do đó không làm cản không khí lướt qua.
6.3.2.2.Phương pháp hô hấp do 2 người:
-Nếu có 2 người cấp cứu thì 1 người chính và 1 người phụ:
• Nạn nhân đặt nằm ngữa, dùng gối hoặc quần áo kê ở lưng, đầu ngữa ra phía
sau.
• Người phụ cầm lưỡi của nạn nhân khẽ kéo ấn xuống dưới cằm.
• Người chính quỳ phía trước kéo 2 tay nạn nhân giơ lên và đưa về phía trước
đếm 1, 2, 3→ đây là động tác hít vào; còn động tác thở ra thì từ từ co tay nạn nhân
lại cho cùi tay nạn nhân ép vào lồng ngực đồng thời hơi đứng đứng người lên 1
chút cho có sức đè xuống và đếm 4, 5, 6.
-Đặc điểm của phương pháp này là tạo cho nạn nhân thở ra hít vào được nhiều không khí
hơn nhưng phải theo dõi cuống họng vì đờm rải và những chất trong dạ dày có thể làm cản
trở không khí đi qua.
*/Chú ý: Cấp cứu phải dúng nhịp thở bình thường tức là với tốc độ 13-16 lần trong 1
Trang 71
phút.
6.3.3..Phương pháp hà hơi thổi ngạt:
-Đây là phương pháp có hiệu quả và khoa học, tiện lợi và dễ làm.
-Trình tự làm như sau:
• Trước khi thổi ngạt cần móc hết đờm rải và lấy ra các dị vật như răng giả,
thức ăn,...kiểm tra xem khí quản có thông suốt không.
• Người làm cấp cứu kéo ngữa mặt nạn nhân ra phía sau, cằm ngữa lên trên.
• Hít 1 hơi thật mạnh, tay bịt mũi nạn nhân, áp mối vào mồm của nạn nhân và
thổi thật mạnh→Lúc này phổi nạn nhân đầy hơi.
• Người cấp cứu rời mồm nạn nhân để hít thật mạnh rồi lại thổi như cũ. Làm
10 lần liên tiếp đối với người lớn, 20 lần đối với trẻ em. Nhờ dưỡng khí thừa trong
hơi thở của người cấp cứu mà hồng cầu có dưỡng khí, cơ quan hố hấp và tuần hoàn
của người bị nạn có thể hồi phục lại.
-Nếu cấp cứu 2 người thì kết hợp 1 người thổi ngạt, 1 người xoa bóp tim ngoài lồng ngực.
6.4 BẢO VỆ CHỐNG SÉT
6.4.1.Khái niệm về sét:
-Sét là hiện tượng phóng điện của tĩnh điện khí quyển giữa đám mây dông mang điện tích
với mặt đất hoặc các đám mây dông mang điện tích trái dấu nhau.
-Tĩnh điện khí quyển xuất hiện là do sự ma sát của hơi nước và sau đó của các hạt nước
với không khí ở trong lớp không khí ẩm dưới thấp cũng như ở trong đám mây trên cao.
Khi các hạt nước trong đám mây chúng sẽ tích điện và đám mây sẽ trở thành vật mang
những điện tích đó. Do kết quả tác động tương hỗ của các hạt nước mang điện tích với các
luồng không khí sẽ có sự phân chia thành hạt lớn mang điện dương và hạt nhỏ mang điện
âm. Theo định luật khí động học thì:
• Các hạt nước nhỏ mang điện âm sẽ tụ lại và tụ thành đám mây mang điện
âm.
• Các hạt lớn sẽ lắng xuống dưới và sẽ tạo thành đám mây mang điện dương.
→Khi đám mây mang điện dương di chuyển do hiện tượng cảm ứng tĩnh điện trên bề mặt
đất sẽ xuất hiện điện tích âm. Như vậy sẽ tạo thành 1 tụ điện đặc biệt với lớp không khí ở
giữa, các bề mặt tụ điện là mây và đất. Nếu thế hiệu đạt đến trị số cực hạn sẽ xuất hiện sự
phóng tia lửa kèm theo tia chớp sáng chói và tiếng nổ dữ dội.
-Điện áp giữa đám mây dông và mặt đất có thể đạt tới trị số hàng chục, thậm chí hàng
trăm triệu volt. Tác hại của nó là:
• Đối với người và súc vật, sét nguy hiểm trước hết như 1 nguồn có điện áp và
dòng lớn.
• Dòng sét có nhiệt độ rất lớn có thể gây nên đám cháy rất nguy hiểm đối với
các kho nhiên liệu và vật liệu dễ nổ.
• Sét có thể phá huỷ về mặt cơ học có thể làm nổ tung các tháp cao, cây cối,
đường dây điện, đường ray, ống nước,...
-Nguy hiểm là sét đánh trực tiếp, khi đó kênh tia chớp đi qua nhà và công trình:

Trang 72
• Cường độ ở kênh tia chớp đạt tới 200.000A, điện áp tới 150.000.000V.
• Chiều dài kênh tia chớp có thể đạt tới hàng trăm, hàng nghìn mét.
• Thời gian phóng điện của tia chớp từ 0.1-1s, nhiệt độ đạt tới 6.000-
o
10.000 C.
-Khả năng các công trình trên mặt đất bị sét đánh trực tiếp càng lớn nếu công trình càng
cao và do đó khoảng cách các điểm giữa cao nhất của công trình đến đám mây mang điện
càng gần.
-Chống sét là biện pháp bảo vệ khỏi sự phóng điện của tĩnh điện khí quyển, đảm bảo an
toàn cho người, nhà cửa, công trình, thiết bị và vật liệu khỏi bị cháy nổ và phá huỷ.
6.4.2.Cấu tạo cột thu lôi:

1.Cột thép 2.Kim loại thu sét 3.Phạm vi bảo vệ cột thu lôi ở độ cao hx 4.Biên giới bảo vệ
-Để bảo vệ các công trình thường dùng cột chống sét còn gọi là cột thu lôi. Đây là cột thép
có độ cao lớn hơn độ cao của công trình cần được bảo vệ. Trên đỉnh cột có gắn mũi nhọn
kim loại thu sét. Kim này được nối với dây dẫn sét xuống đất để đi vào vật nối đất. Dây
dẫn sét đảm bảo cho dòng sét đi theo nó xuống nối đất và vật nối đất đảm bảo sự tiếp xúc
phân bố trực tiếp với đất trên 1 diện tích lớn.
-Không gian xung quanh cột thu lôi được bảo vệ bằng cách thu sét vào cột gọi là phạm vi
hoặc vùng bảo vệ.
-Cho đến nay chỉ có 1 cách duy nhất là xác định phạm vị bảo vệ bằng thực nghiệm trên
mô hình; tuy còn nhiều nhược điểm nhưng đã qua 1 thời gian khá dài được kiểm nghiệm
trong thực tế, kết quả nhận được với độ tin cậy lớn. Một cột thu lôi độc lập thì phạm vi bảo
vệ của nó là 1 hình nón xoáy với đường sinh theo công thức:
h − hx
rx = 1.6h p (6.8)
h + hx
Trong đó:
+h: độ cao của cột thu lôi.
+hx: độ cao công trình cần bảo vệ.
Trang 73
+rx: bán kính được bảo vệ ở độ cao hx.
+p: hệ số hiệu chỉnh theo độ cao của cột thu lôi được tính như sau:
 p = 1 ↔ h ≤ 30m.

 5.5
 p = h ↔ h > 30m

-Để đơn giản khi sử dụng, người ta thường thay thế đường cong bậc hai rx(hx) bằng 1
đường gãy khúc theo hình vẽ sau:

Khi đó các đường gãy khúc với các phương trình đơn giản sau:
  hx  2h
rx = 1.5h1 − 0.8h  = 1.5(h − 1.25h x ) ↔ 0 ≤ hx ≤ 3
  
 (6.9)
r = 0.75h1 − hx  = 0.75(h − h ) ↔ 2h ≤ h ≤ h
 x  h
x 3 x

6.4.3..Thu lôi kép:


-Thực tế cho thấy nên dùng nhiều cột thu lôi với độ cao không lớn để bảo vệ thay cho 1
cột thu lôi độc lập với độ cao quá lớn. Vì vậy sẽ xét phạm vi bảo vệ của 2, 3 hay nhiều cột
thu lôi.
-Thu lôi kép gồm từ 2 thanh thu lôi cao không quá 60m với khoảng cách a≤5h:

Mặt đứng cắt theo k-k Mặt bằng cắt theo x-x

1.Biên giới vùng bảo vệ ở độ cao hx 2.Biên giới vùng bảo vệ ở mặt đất.

-Biên giới vùng bảo vệ cột thu lôi kép:


Trang 74
• Phần trên là đường cong được vạch ra bởi bán kính R từ điểm O nằm trung
điểm của khoảng cách giữa 2 cột thu lôi trên độ cao H=4h.
• Những phần 2 bên của vùng bảo vệ sẽ thiết lập như vùng bảo vệ của cột thu
lôi độc lập.
-Hình dáng vùng bảo vệ ở tiết diện O-O cũng được xác định như thế nhưng thay h bằng ho,
tức là:
ho = 4h − R (6.10)
-Khi đã biết các trị số h và a thì chiều cao vùng bảo vệ ở giữa thu lối kép sẽ là:
ho = 4h − 9h 2 + 0.25a 2 (6.11)
Trong đó:
+h: chiều cao cột thu lôi.
+a: khoảng cách giữa 2 cột thu lôi.

Trang 75
CHƯƠNG 7
KỸ THUẬT AN TOÀN ĐỐI VỚI CÁC THIẾT BỊ CHỊU ÁP LỰC

7.1. Một số khái niệm cơ bản về thiết bị chịu áp lực.


* Thiết bị chịu áp lực: là những thiết bị dùng để tiến hành các quá trình nhiệt học, hoá
học, sinh học cũng như dùng để bảo quản, vận chuyển...các môi chất ở trạng thái có áp
suất như khí nén, khí hoá lỏng và các chất lỏng khác. Thiết bị áp lực gồm nhiều loại khác
nhau và có tên gọi riêng ( Ví dụ: nồi hơi, máy nén khí, máy lạnh, chai, bình điều chế C 2 H
2 , thùng chứa, bình hấp…)
* Nồi hơi: là thiết bị chịu áp lực dùng để thu nhận hơi có áp suất lớn hơn áp suất khí
quyển để phục vụ các mục đích khác nhau ngoài bản thân nó nhờ năng lượng được tạo ra
do đốt nhiên liệu trong các buồng đốt.
* Phân loại các loại thiết bị chịu áp lực: theo quan điểm an toàn người ta phân các thiết bị
áp lực thành các loại: hạ áp, trung áp, cao áp và siêu áp.
Việc phân loại theo áp suất còn tùy thuộc vào môi chất khác nhau ví dụ: Đối với bình điều
chế C 2 H 2 thì hạ áp là thiết bị có áp suất nhỏ hơn 0,1át, trung áp từ 0,1 đến 1,5át, cao áp
từ 1,5át trở lên nhưng với bình chứa ôxy thì hạ áp có áp suất tới 16 át, trung áp có áp suất
từ 16 đến 64 át còn cao áp có áp suất trên 64át.
7.2. Những yếu tố nguy hiểm đặc trưng của thiết bị áp lực
* Nguy cơ nổ: do thiết bị chịu áp lực luôn chứa áp suất lớn hơn áp suất khí quyển nên
luôn có xu hướng cân bằng áp suất kèm theo sự giải phóng năng lượng khi điều kiện thuận
lợi ( chẳng hạn khi thiết bị không đảm bảo đủ bền). Hiện tượng nổ xảy ra có thể đơn thuần
là nổ vật lý nhưng trong một số trường hợp có thể là sự kết hợp của hiện tượng nổ vật lý
và nổ hóa học.
* Nguy cơ bỏng: do thiết bị chịu áp lực thường làm việc với môi chất có nhiệt độ cao nên
dễ có nguy cơ gây bỏng khi va chạm , tiếp xúc, xì hở môi chất thậm chí có cả nguy cơ
bỏng do hóa chất…
* Các chất nguy hiểm có hại: Các thiết bị chịu áp lực sử dụng trong công nghiệp, trong
nghiên cứu khoa học đặc biệt là công nghiệp hóa chất thường có yếu tố nguy hiểm do các
chất hoặc sản phẩm của nó có tính nguy hiểm, độc hại.
7.3. Những nguyên nhân gây ra sự cố của thiết bị áp lực và biện pháp phòng ngừa
a/ Những nguyên nhân gây ra sự cố thiết bị áp lực:
* Nguyên nhân kỹ thuật:
- Thiết bị được thiết kế và chế tạo không đảm bảo quy cách, tiêu chuẩn kỹ thuật, kết cấu
không phù hợp, không đáp ứng tính toán an toàn hoặc thiết bị làm việc ở chế độ lâu dài
dưới tác động của các thông số vận hành.
-Thiết bị quá cũ, hư hỏng nặng, không được sửa chữa kịp thời, chất lượng sửa chữa kém.
- Không có thiết bị đo lường hoặc thiết bị kiểm tra không đủ độ tin cậy.
- Không có cơ cấu an toàn, hoặc cơ cấu an toàn không làm việc theo chức năng yêu cầu.
- Đường ống và thiết bị phụ trợ không đảm bảo đúng quy định.
- Tình trạng nhà xưởng, hệ thống chiếu sáng, thông tin không đảm bảo khả năng kiểm tra
theo dõi, vận hành, xử lý sự cố một cách kịp thời.
Trang 76
* Nguyên nhân tổ chức:
- Người quản lý thiếu quan tâm đến vấn đề an toàn trong khai thác, sử dụng thiết bị chịu
áp lực, đặc biệt là thiết bị làm việc với áp lực thấp, công suất và dung tích nhỏ dẫn tới tình
trạng quản lý lỏng lẻo, nhiều khi không đăng kiểm vẫn đưa vào sử dụng.
- Trình độ vận hành của công nhân yếu, thao tác sai quy trình hoặc nhầm lẫn…
b/ Những biện pháp phòng ngừa sự cố thiết bị chịu áp lực:
* Biện pháp tổ chức:
- Quản lý thiết bị theo các quy định trong hồ sơ kỹ thuật thiết bị.
- Đào tạo, huấn luyện người quản lý và công nhân vận hành.
- Xây dựng các tài liệu kỹ thuật.
* Biện pháp kỹ thuật:
- Thiết kế, chế tạo: Các giải pháp kỹ thuật nhằm ngăn ngừa sự cố các thiết bị chịu áp lực
thường bắt đầu từ khâu thiết kế chế tạo. Các giải pháp đó bao gồm việc chọn kết cấu, tính
độ bền, chọn lựa vật liệu và giải pháp gia công chế tạo…
- Kiểm nghiệm dự phòng: Bao gồm công tác kiểm nghiệm kỹ thuật như: xem xét thiết bị
để xác định tình trạng, thử nghiệm độ bền bằng áp lực nước, thử nghiệm độ kín bằng khí
nén, kiểm tra chiều dày thành thiết bị, khuyết tật các mối hàn…
* Sửa chữa phòng ngừa: Bao gồm các dạng sửa chữa sự cố và sửa chữa định kỳ.
7.4. Những yêu cầu an toàn đối với thiết bị chịu áp lực:
a/ Yêu cầu về mặt quản lý thiết bị:
- Nồi hơi và thiết bị chịu áp lực phải được đăng ký tại cơ quan thanh tra kỹ thuật an toàn
nồi hơi và chịu trách nhiệm khám nghiệm thiết bị đó.
- Nồi hơi và thiết bị chịu áp lực được đăng kiểm phải là những thiết bị có đủ hồ sơ theoquy
định trong các tiêu chuẩn quy phạm, sau khi đăng ký phải được ghi vào sổ theo dõi.
- Không được phép đưa vào vận hành các nồi hơi và thiết bị chịu áp lực chưa được đăng
kiểm.
- Nồi hơi và thiết bị chịu áp lực phải được kiểm tra định kỳ theo quy định( bình áp lực 3
năm khám nghiệm toàn bộ 1 lần, 1 năm thử áp lực 1 lần). Thanh tra an toàn lao động có
quyền đình chỉ sự hoạt động của nồi hơi và thiết bị chịu áp lực khi phát hiện thấy những
trục trặc, hư hỏng, hành vi vi phạm…có thể gây sự cố và tai nạn lao động.
b/ Yêu cầu thiết kế, chế tạo, lắp đặt và sữa chữa:
* Yêu cầu đối với công tác thiết kế:
- Việc thiết kế, chọn kết cấu của thiết bị phải xuất phát từ đặc tính của môi chất công tác,
của quá trình hoạt động thiết bị.
- Kết cấu của thiết bị phải đảm bảo độ cứng vững, ổn định, thao tác thuận tiện, đủ độ tin
cậy, tháo lắp và kiểm tra dễ dàng.
- Kết cấu, kích thước của thiết bị phải đảm bảo độ bền cơ học, hóa học và nhiệt học.
* Yêu cầu về chế tạo, lắp đặt và sửa chữa:
- Việc chế tạo và sửa chữa nồi hơi và thiết bị chịu áp lực chỉ được phép tiến hành ở những
nơi có đầy đủ các điều kiện về con người, máy móc, thiết bị gia công, công nghệ và điều
Trang 77
kiện kiểm tra thử nghiệm đảm bảo như các quy định trong tiêu chuẩn, quy phạm và phải
được cấp có thẩm quyền cho phép.
- Chế tạo và sửa chữa phải đảm bảo dung sai cho phép, thợ hàn phải có bằng hàn áp lực
mới được tiến hành hàn, phải kiểm tra đánh giá mối hàn theo các tiêu chuẩn, quy phạm.
- Khi lắp đặt các thiết bị cần phải đảm bảo kích thước khoảng cách giữa các thiết bị với
nhau, giữa các thiết bị với tường xây và các kết cấu khác của nhà xưởng.
c/ Yêu cầu đối với dụng cụ kiểm tra đo lường và cơ cấu an toàn:
Việc trang bị các dụng cụ kiểm tra, đo lường là bắt buộc đối với nồi hơi và thiết bị chịu áp
lực để giúp người vận hành theo dõi các thông số làm việc của thiết bị nhằm loại trừ
những thay đổi có khả năng gây sự cố thiết bị.
Các dụng cụ đo lường và kiểm tra gồm các loại như: dụng cụ đo áp suất, đo độ chân
không, đo nhiệt độ, đo mức, đo biến dạng và kiểm tra các tác động của áp suất và nhiệt
độ…
Các cơ cấu an toàncó rất nhiều loại và hoạt động theo nhiều nguyên lý khác nhau vì vậy
khi chọn phải đáp ứng với yêu cầu và chất lượng của cơ cấu an toàn, không được sử dụng
các cơ cấu an toàn khi chưa kiểm định, chưa có kẹp chì…và khi lắp phải theo đúng quy
trình quy phạm kỹ thuật lắp đặt của các cơ cấu an toàn.

Trang 78
CHƯƠNG 8
KỸ THUẬT AN TOÀN ĐỐI VỚI CÁC THIẾT BỊ NÂNG CHUYỂN

8.1. Những khái niệm cơ bản


a/ Phân loại thiết bị nâng:
Thiết bị nâng là những thiết bị dùng để nâng hạ tải. Theo TCVN 4244-86 về quy phạm an
toàn thì thiết bị nâng hạ bao gồm những thiết bị sau: Máy trục, xe tời chạy trên đường ray
ở trên cao, pa lăng điện, thủ công, tời điện, tời thủ công, máy nâng.
- Máy trục: là những thiết bị nâng hoạt động theo chu kỳ dùng để nâng, chuyển tải( được
giữ bằng móc hoặc các bộ phận mang tải khác nhau) trong không gian. Có nhiều loại máy
trục khác nhau như: Máy trục kiểu cần, máy trục kiểu cầu, máy trục kiểu đường cáp.
- Xe tời chạy trên đường ray ở trên cao.
- Pa lăng: là thiết bị nâng được treo vào kết cấu cố định hoặc treo vào xe con. Pa lăng dẫn
động bằng điện gọi là Palăng điện, Palăng có dẫn động bằng tay gọi là Palăng thủ công.
- Tời: là thiết bị nâng dùng để nâng hạ và kéo tải.
- Máy nâng: là máy có bộ phận mang tải được nâng hạ theo khung dẫn hướng. Máy nâng
dùng nâng những vật có khối lượng lớn, cồng kềnh nên dễ gây nguy hiểm.
b/ Các thông số cơ bản và độ ổn định của thiết bị nâng:
* Các thông số cơ bản của thiết bị nâng: là những thông số xác định đặc tính và kích
thước, động học và động lực học cũng như tính chất làm việc của thiết bị nâng. Bao gồm
các thông số sau:
-Trọng tải Q: là trọng lượng cho phép lớn nhất của tải được tính toán trong điều kiện làm
việc cụ thể.
- Mô men tải: là tích số giữa trọng tải và tầm với tương ứng và chỉ có ở các máy trục kiểu
cần.
- Tầm với: là khoảng cách từ trục quay của phần quay của máy trục đến trục quay của móc
tải.
- Độ dài của cần: là khoảng cách giữa các ắc cần lắc và ắc ròng rọc ở đầu cần
- Độ cao nâng móc: là khoảng cách tính từ mức đường thiết bị nâng xuống tâm của móc.
- Độ sâu hạ móc: là khoảng cách tính từ đường mức thiết bị nâng xuống tâm của móc.
- Vận tốc nâng ( hạ ): là vận tốc di chuyển tải theo phương thẳng đứng.
- Vận tốc quay: là số vòng quay trong một phút của phần quay.
* Độ ổn định của thiết bị nâng:
Độ ổn định là khả năng đảm bảo cân bằng và chống lật của thiết bị nâng. Mức độ ổn định
của thiết bị nâng được xác định bởi biểu thức của tỷ số giữa các mô men chống lật và lật:

Trong đó K là hệ số ổn định, M cl là mô mem chống lật và M l là mô men lật. Mức độ ổn


địnhcủa cần trục luôn luôn thay thay đổi tùy theo vị trí của cần, tầm với, tải trọng, mặt
bằng đặt cầu trục.
Trang 79
Độ ổn định của cần trục phải bảo đảm trong mọi trường hợp và mọi điều kiện. Để đảm
bảo các yêu cầu trên, cần trục thường được trang bị các thiết bị ổn định như: ổn trọng, đối
trọng cần, đối trọng cần trục, chân chống phụ, chằng buộc…
Nguyên nhân của sự mất ổn định là quá tải ở tầm với tương ứng, do chân chống không có
hoặc kê kích không hợp lý, mặt bằng làm việc dốc qua mức, phanh đột ngột khi nâng,
không sử dụng kẹp ray…
c/ Những sự cố, tai nạn thường xảy ra của thiết bị nâng:
Trong quá trình nâng hạ, các thiết bị nâng thường gây nên các sự cố sau:
- Rơi tải trọng: Do nâng quá tải làm đứt cáp nâng tải, nâng cần, móc buộc tải. Do công
nhân lái khi nâng hoặc lúc quay cần tải bị vướng vào các vật xung quanh. Do phanh của
cơ cấu nâng bị hỏng, má phanh mòn quá mức quy định, mô men phanh quá bé, dây cáp bị
mòn hoặc bị đứt, mối nối cáp không đảm bảo…
-Sập cần: là sự cố thường xảy ra và gây chết người do nối cáp không đúng kỹ thuật, khóa
cáp mất, hỏng phanh, cầu quá tải ở tầm với xa nhất làm đứt cáp.
- Đổ cầu: là do vùng đất mặt bằng làm việc không ổn định (đất lún, góc nghiêng quá quy
định…), cầu quá tải hoặc vướng vào các vật xung quanh, dùng cầu để nhổ cây hay kết cấu
chôn sâu…
-Tai nạn về điện: do thiết bị điện chạm vỏ, cần cẩu chạm vào mạng điện, hay bị phóng
điện hồ quang, thiết bị đè lên dây cáp mang điện…
8.2: Các biện pháp kỹ thuật an toàn:
a/ Yêu cầu an toàn đối với một số chi tiết, cơ cấu quan trọng của thiết bị nâng:
- Cáp sử dụng phải có khả năng chịu lực phù hợp với lực tác dụng lên cáp.
- Cáp phải có cấu tạo phù hợp với tính năng sử dụng.
- Cáp phải có đủ chiều dài cần thiết. Đối với cáp dùng để buộc thì phải đảm bảo góc tạo
thành giữa các nhánh cáp không lớn hơn 90 0 . Đối với cáp sử dụng ở các cơ cấu nâng, hạ
tải thì cáp phải có độ dài sao cho khi tải hoặc cần ở vị trí thấp nhất thì trên tang cuộn cáp
vẫn còn lại một số vòng dự trử cần thiết phụ thuộc vào cách cố định đầu cáp.
- Sau một thời gian sử dụng, cáp sẽ bị mòn do ma sát, rỉ, gãy, đứt các sợi do bị cuốn vào
tang và qua ròng rọc, hiện tượng đó phát triển dần đến khi quá tảI bị đứt. Ngoài ra sợi cáp
còn bị thắt nút, bị ket…do đó cần phải kiểm tra tình trạng dây cáp thường xuyên để cần
thiết loại bỏ khi thấy không đảm bảo an toàn.
Phương pháp buộc kẹp đầu dây cáp:
-Để buộc chặt đầu dây cáp, mối nối bện không được ngắn hơn 15 lần đường kính dây cáp
và 300mm:

Trang 80
-Nếu kẹp chặt bằng bulông thì số bulông phải tính toán nhưng không được ít hơn 3 và
bulông phải ép 2 nhánh dây cáp lại với nhau. Khoảng cách giưac 2 bulông phụ thuộc vào
số lượng bulông kẹp và đường kính dây cáp.
-Ngoài ra nếu không có phương pháp chằng buộc tốt thì vật dễ bị rơi. Có một số cách buộc
cáp như sau:

4.4.1.2.Tính toán sức chịu tải của cáp:


-Tính toán các loại dây cáp theo công thức sau:
P
S≤ (4.8)
k
Trong đó:
+P: lực kéo đứt dây cáp (kg).
+S: lực kéo thực tế dây cáp (kg).
+k: hệ số dự trữ sức bền, đối với loại cáp thép lấy như sau:
• Cáp uốn treo để nâng vật tải trọng đến 50 tấn → k=8
• Cáp uốn treo để nâng vật tải trọng nặng hơn 50 tấn → k=6
• Cáp buộc chặt vật nặng treo trên móc cẩu hoặc vòng treo → k=6
• Cáp kéo, dây chằng, dây giằng có xét đến lực gió → k=3.5
• Palăng với tời tay → k=4.5
• Palăng với tời điện → k=5
a/Khi dây cáp ở vị trí thẳng đứng:
Q
Sn = (4.9)
m×k
Trong đó:
+Q: khối lượng vật nặng (kg).
+Sn: lực kéo thực tế trên nhánh dây cáp (kg).
+m: số nhánh dây.
+k: hệ số dự trữ sức bền.
b/Khi dây cáp ở vị trí nằm nghiêng:
-Khả năng nâng vật của nó giảm vì sự tăng lên góc nghiêng thì lực kéo ở các nhánh cũng
tăng lên

Trang 81
Hình 4.3: Sự phân bổ các lực trong dây cáp

-Lực kéo trong mỗi nhánh đước xác định theo công thức:
1 Q Q
Sn = × = c× (4.10)
cos α m m
Trong đó:
+Q: khối lượng vật nặng (kg).
+c: hệ số phụ thuộc góc nghiêng của cáp, có thể lấy như sau:

Góc α (độ) 0 30 45 60

Hệ số c 1 1.15 1.42 2
4.4.1.3.Xác định độ dài của nhánh dây:
-Trong trường hợp có ≥4 nhánh dây thì độ dài dây của các nhánh đồng đều như nhau có ý
nghĩa rất quan trọng vì đảm bảo sự phân bố đồng đều tải trọng lên các nhánh, nếu không
sẽ có nhánh chịu vượt tải làm giảm tuổi thọ của dây và có khi gây tai nạn.
-Chiều dài của mỗi nhánh dây được xác định theo công thức sau:
2
b
L =   + h 2 (4.11)
2
Trong đó:
+L: độ dài của nhánh dây cáp (m).
+h: chiều cao tam giác tạo thành bởi các nhánh(m).

Trang 82
+b: khoảng cách giữa các điểm cố định dây cáp theo đường chéo (m).
4.4.1.4.Loại bỏ dây cáp trong quá trình sử dụng:
-Trong quá trình sử dụng cáp phải thường xuyên kiểm tra số sợi đứt hoặc mức độ gỉ của
cáp mà loại bỏ.
-Việc loại bỏ căn cứ vào số sợi đứt trên đoạn dài 1 bước bện, cũng như dựa vào sự hư
hỏng bề mặt hoặc mòn gỉ các sợi. (*Bước bện cáp là khoảng cách dọc trên mặt cáp trong
đó chứa tất cả số sợi cáp trong tiết diện ngang↔tương tự như bước xoắn*).
-Các quy định:
• Tiêu chuẩn quy định loại bỏ cáp phụ thuộc vào kết cấu dây cáp, phương
pháp bện (trái chiều hay cùng chiều) và hệ số dự trữ sức bền được xác định trong
bảng sau:

Hệ số Số sợi có trong tiết diện ngang của cáp


an toàn
ban đầu 6*19=114 6*37=222 6*61=366 18*19=342

Số sợi đứt trong 1 bước bện cáp khi cáp có dạng xoắn

Trái Cùng Trái Cùng Trái Cùng Trái Cùng


chiều chiều chiều chiều chiều chiều chiều chiều

≤6 12 6 22 11 36 18 36 18

6-7 14 7 26 13 38 19 38 19

>7 16 8 30 15 40 20 40 20

• Cáp của những máy nâng dùng cẩu người, vận chuyển các kim loại nóng,
nấu chảy, các chất độc, dễ nổ, dễ cháy thì phải loại bỏ đi khi số sợi đứt ít hơn 2 lần
so với loại dây cáp khác.
• Khi mặt cáp bị mòn hoặc gỉ thì số sợi đứt phải giảm đi tương ứng so với
phần trăm tiêu chuẩn quy định.
• Khi dây cáp bị mòn hoặc gỉ đến 40% kích thước đường kính ban đầu hoặc
bên ngoài bị xây xát thì coi như bị bỏ đi.

* Xích: Xích dùng trong máy nâng thường là loại xích lá và xích hàn. Khi chọn xích có
khả năng phù hợp với lực tác dụng lên dây. Khi mắt xích đã mòn quá 10% kích thước ban
đầu thì phải thay xích.
* Tang và ròng rọc:
Tang dùng cuộn cáp hay cuộn xích. Cần phải bảo đảm đúng đường kính yêu cầu và có
cấu tạo phù hợp với yêu cầu làm việc. Khi bị rạn nứt cần phải thay thế.
Ròng rọc dùng thay đổi hướng chuyển động của cáp hay xích để làm lợi về lực hay tốc
độ. Ròng rọc cũng cần phải đảm bảo đường kính puli theo yêu cầu, có cấu tạo phù hợp với
chế độ làm việc. Khi bị rạn, hay mòn sâu quá 0,5mm đường kính cáp cần phải thay thế.

Trang 83
Đường kính của tang quay, puli, ròng rọc:
-Đường kính của tang quay, puli và ròng rọc có ý nghĩa thiết thực đối với sự làm việc an
toàn của cáp khi sử dụng cáp thép trong những thiết bị nâng hạ.
-Để đảm bảo độ bền mòn của cáp và tránh cho cáp khỏi biến dạng thì đường kính của nó
phải tính theo đường kính của cáp bị uốn trong đó.
-Đường kính cho phép nhỏ nhất của rọng rọc hoặc tang cuộn cáp xác định theo công thức:
D ≥ d (e − 1) (4.12)
Trong đó:
+D: đường kính của tang quay hoặc ròng rọc ở chỗ cáp tiếp xúc (đo theo đáy rãnh)
của thiết bị nâng hạ (mm).
+d: đường kính cáp thép (mm).
+e: hệ số phụ thuộc vào kiểu dáng của máy nâng hạ và chế độ làm việc của nó:
 Đối với cần trục có tay cần, e=16-25.
 Đối với palăng điện, e=20.
 Đối với tời tay, e=16.
 Đối với tời để nâng người, e=25.
-Thể tích quấn của tang quấn cáp sẽ được xác định từ điều kiện là khi móc của cần trục ở
vị trí thấp nhất thì trên tang quấn cáp còn lại không được ít hơn 1.5 vòng cáp.
Quy định về tang hãm:
-Tất cả các máy vận chuyển và nâng hạ nhất thiết phải trang bị phanh hãm để phanh khi
nâng hoặc di chuyển vật nặng.
-Phanh hãm phải tốt. Đánh giá trạng thái phanh hãm bằng hệ số hãm. Hệ số này thường
lấy bằng 1.75, 2.00 và 2.50 tương ứng với chế độ sử dụng máy nhẹ, trung bình và nặng.
-Khi sử dụng tời quay nhất thiết phải có 2 phanh hãm: một phanh để giữ vật trên cao và
còn phanh kia để hạ vật từ từ. Trong một số tời, sự kết hợp này có thể thực hiện được dễ
dàng bằng cách sử dụng tay quay an toàn.
-Palăng cần được trang bị loại thiết bị hãm có thể tự hãm và giữ vật ở độ cao bất kỳ khi
nâng cũng như khi hạ. Thường có thể truyền động bằng trục vít, bánh vít hoặc bánh xe
cóc.
-Thiết bị ròng rọc phải có bulông chằng để phòng ngừa trường hợp cáp hoặc xích bị tụt
vào khe và kẹt lại trong đó.
* Phanh: Được sử dụng ở tất cả các loại máy trục và ở hầu hết các cơ cấu của chúng. Tác
dụng của phanh là dùng để ngừng chuyển động của một cơ cấu nào đó hoặc thay đổi tốc
độ của nó. Theo nguyên tắc hoạt động, phanh được chia ra hai loại: Phanh thường đóng
và phanh thường mở. Theo cấu tạo, phanh được chia thành các loại như: phanh má, phanh
đai, phanh đĩa, phanh côn.
Khi chọn phanh cần phải tính toán theo yêu cầu:

Trang 84
Trong đó: M p là mô men do phanh sinh ra, M t là mô men ổ trục truyền động, K p là hệ
số dự trử của phanh (phụ thuộc dạng truyền động và chế độ làm việc của máy).
Cần phải loại bỏ phanh trong các trường hợp sau: Khi má phanh mòn không đều, má
phanh mở không đều, má mòn tới đinh vít giữ má phanh, bánh phanh bị mòn sâu quá
1mm, phanh có vết rạn nứt, độ hở của má phanh và bánh phanh lớn hơn 0,5 mm khi đường
kính bánh phanh 150ữ200mm và lớn hơn1ư2mm khi đường kính bánh phanh 300mm,
bánh phanh bị mòn từ 30% trở lên, độ dày của má phanh mòn quá 50%.
Tời:
-Để ngăn ngừa hiện tượng trượt và lật của tời trong khi sử dụng thì phải cố định chúng
một cách chắc chắn. Có thể thực hiện theo các trường hợp sau:
• Đóng các cọc neo thẳng đứng vào đất để cố định tời bằng cữ chặn và đối
trọng.
• Chôn neo dưới hố thế, tức là dùng 1 cây hoặc bó gỗ chôn sâu (theo kiểu nằm
ngang) dưới đất 1.5-3.5m; dùng cáp buộc vào gỗ, còn đầu kia kéo lên mặt đất xiên
1 góc 30o-45o để nối vào dây neo tời.
-Trong tất cả mọi trường hợp, quấn dây cáp vào trục tời phải tiến hành từ phía dưới tang
quấn để giảm mômen ứng lực trong dây cáp.
4.4.3.2.Tính toán ổn định tời:

Hình 4.4: Sơ đồ tính toán ổn định của tời

a/Trường hợp có đối trọng 1 bên và dây cáp nằm ngang:


-Điều kiện ổn định khi kéo tời theo phương ngang:
G × a + Q × c = P × b (4.13)
Trong đó:
+P: lực kéo dây cáp.
+G: trọng lượng tời.
+Q: trọng lượng đối trọng.

Trang 85
+a, b, c: các cánh tay đòn các lực đối với điểm A.
⇒Từ công thức trên, trọng lượng của đối trọng là :
P×b −G×a
Q= ×k (4.14)
c
Trong đó:
+k: hệ số an toàn k=1.3-1.5

b/Trường hợp có đối trọng phụ và dây cáp có độ nghiêng:


-Điều kiện ổn định của tời khi kéo xiên:
P sin α × c = G × c + Q × d + Q1 × l + P cos α × b (4.15)
⇒Từ công thức trên, trọng lượng của đối trọng là :
P sin α × c − G × c − Q × d − P cos α × b
Q1 = × k (4.16)
l
Trong đó:
+Q1: trọng lượng đối trọng phụ.
4.4.3.3.Tính toán hố thế để cố định tời:
-Khi neo bằng hố thế cần tính toán kiểm tra cường độ chịu ép của đất và tiết diện thanh gỗ
neo.
a/Trường hợp neo không có gỗ gia cường:
-Kiểm tra ổn định của neo dưới tác dụng của lực thẳng đứng:
Q+T ≥ kN2 (4.18)
Trong đó:
+Q: trọng lượng đất tác dụng lên neo, tính theo công thức:
b1 + b2
Q= × H ×l ×γ (4.19)
2
+b1,b2: bề rộng phía dưới và phía trên hố thế.
+H: chiều sâu đặt neo.
+l: chiều dài thanh neo.
+γ: khối lượng đơn vị của đất.
+T: lực ma sát giữa đất và gỗ neo, tính theo công thức:
T = fN1
+f: hệ số ma sát giữa gỗ và đất, f=0.50
+N1: thành phần nằm ngang của lực S.
+k: hệ số ổn định, k=3.

Trang 86
-Kiểm tra áp suất cho phép lên đất do lực ngang N1:
N1
[σ d ]× µ ≥ (4.20)
h×l
Trong đó:
+µ: hệ số giảm áp suất cho phép của đất vì cường độ chịu lực của đất không đồng đều,
µ=0.25
+h: chiều cao bó gỗ neo.
-Kiểm tra tiết diện thanh neo:
• Khi kéo bằng 1 dây, mômen uốn lớn nhất gần đúng:
ql 2 Sl
M = =
8 8
Trong đó:
+q: lực phân bố của lực S trên suốt chiều dài của thanh gỗ neo.
+S: lực trong dây cáp.
• Khi kéo bằng 2 dây với góc nghiêng β, thanh neo được kiểm tra điều kiện
uốn và nén:
 Mômen uốn lớn nhất:
qa 2 Sa 2
M = =
2 2l
Trong đó:
+a: khoảng cách từ đầu thanh neo đến chỗ buộc dây cáp.
 Lực dọc trong thanh neo:
S
N= cos β
2
Trong đó:
+β: góc giữa dây néo và thanh neo trong mặp phẳng chứa 2 nhánh dây cáp.
-Ứng suất tính toán trong thanh neo:
M N
σg = + ≤ mR (4.21)
W F
Trong đó:

Trang 87
+W: mômen chống uốn của tiết diện thanh gỗ neo, W=0.1nd3.
+d,n: đường kính 1 thanh gỗ và số lượng thanh gỗ làm neo.
+F: diện tích tiết diện ngang của thanh neo.
+m: hệ số điều kiện làm việc của thanh neo.
+R: cường độ tính toán của gỗ làm neo.
b/Trường hợp hố thế có gỗ gia cường:
-Kiểm tra tính toán tương tự như trên nhưng trọng lượng Q của đất được tính Q=H.b.l.γ (b:
bề rộng hố thế).

-Kiểm tra áp suất cho phép lên đất do lực ngang N1:
N1
[σ d ]× µ ≥ (4.22)
(h1 + h2 ) × l
Trong đó:
+h1, h2: chiều cao của gỗ gia cường phía trên và phía dưới lực ngang N1.
b/ Những yêu cầu về an toàn khi lắp đặt, vận hành và sữa chửa thiết bị nâng:
* Yêu cầu về an toàn khi lắp đặt:
Yêu cầu chung:
- Phải lắp đặt thiết bị nâng ở vị trí tránh được sự cần thiết phải kéo lê tải trước khi nâng và
có thể nâng tải cao hơn chướng ngại vật 0,5m.
- Nếu là thiết bị nâng dùng nam châm điện để mang tải, thì cấm đặt chung làm việc trên
nhà, trên các công trình thiết bị.
-Đối với cầu trục, khoảng cách từ phần cao nhất của cầu trục và phần thấp nhất các kết cấu
ở trên phải lớn hơn 1800mm. Khoảng cách từ mặt đất, mặt sàn thao tác đến phần thấp nhất
của cầu trục phải lớn hơn 200mm. Khoảng cách theo phương nằm ngang từ điểm biên của
máy đến các dầm xưởng hay chi tiết của kết cấu xưởng không nhỏ hơn 60mm.
- Khoảng cách theo phương nằm ngang từ máy trục di chuyển theo phương đường ray đến
các kết cấu xung quanh, ở độ cao < 2m phải >700mm, ở độ cao>2m phải >400mm
-Những máy trục đứng làm việc cạnh nhau, đặt cách xa nhau một khoảng cách lớn hơn
tổng tầm với lớn nhất của chúng và bảo đảm khi làm việc không va đập vào nhau.
-Những máy trục lắp gần hào hố phải đảm bảo khoảng cách từ điểm tựa gần nhất của máy
trục đến miệng hào phải lớn hơn giá trị trên bảng IV.4:

Trang 88
Yêu cầu khi vận hành:
- Trước khi vận hành, cần phải kiểm tra kỹ tình trạng kỹ thuật của các cơ cấu và chi tiết
quan trọng. Nếu phát hiện có hư hỏng phải khắc phục xong mới đưa vào sử dụng.
- Phát tín hiệu cho những người xung quanh biết trước khi cho cơ cấu hoạt động.
- Tải được nâng không được lớn hơn trọng tải của thiết bị nâng. Tải phải được giữ chắc
chắn, không bị rơi, trượt trong quá trình nâng chuyển tải.
- Cấm để người đứng trên tải khi nâng chuyển hoặc dùng người để cân bằng tải.
- Tải phải nâng cao hơn các chướng ngại vật ít nhất 500mm.
- Cấm đưa tải qua đầu người.
- Không được vừa nâng tải, vừa quay hoặc di chuyển thiết bị nâng, khi nhà máy chế tạo
không quy định trong hồ sơ kỹ thuật. ư Chỉ được phép đón và điều chỉnh tải ở cách bề mặt
người móc tải đứng một khoảng cách không lớn hơn 200mm và ở độ cao không lớn hơn
1m tính từ mặt sàn công nhân đứng.
- Tải phải được hạ xuống ở nơi quy định, đảm bảo sao cho tả không bị đổ, trượt, rơi. Các
bộ phận giữ tải chỉ được phép tháo ra khi tải đã ở tình trạng ổn định.
- Cấm dùng thiết bị nâng để tháo dây đang bị đè nặng.
- Khi xếp dỡ tải lên các phương tiện vận tải phải tiến hành sao cho không làm mất ổn định
của phương tiện.
- Cấm kéo hoặc đẩy tải khi đang treo.
- Đảm bảo an toàn điện như nối đất hoặc nối “không” để đề phòng điện chạm vỏ.
Yêu cầu khi sửa chữa: Công tác sửa chữa được chia ra 4 loại sau:
- Bảo quản trong từng ca làm việc: Phải xem xét tình trạng thiết bị, các sơ đồ điện theo
quy định. Thời gian kiểm tra khoảng 15 ữ 20 phút.
- Kiểm tra định kỳ theo quy phạm.
- Sửa chữa nhỏ, chủ yếu để sửa các chi tiết dễ bị ăn mòn và hư hỏng hoặc thay thế định kỳ
các chi tiết có thời gian sử dụng nhất định.
- Sửa chữa toàn bộ ( đại tu).
c/ Khám nghiệm thiết bị nâng:
Nội dung khám nghiệm máy nâng bao gồm bao gồm:
- Kiểm tra bên ngoài: chủ yếu dùng mắt để phát hiện các khuyết tật hư hỏng biểu hiện bên
ngoài máy trục.
- Thử không tải: Thử tất cả các cơ cấu, các thiết bị an toàn( trừ thiết bị khống chế quá tải),
các thiết bị điện , thiết bị điều khiển, chiếu sáng, thiết bị chỉ báo…
Trang 89
- Thử tải tĩnh: nhằm mục đích kiểm tra khả năng chịu đựng của các kết cấu thép, tình trạng
làm việc của các chi tiết và cơ cấu nâng tải, nâng cần, hãm phanh…Trong máy trục có tầm
với thay đổi còn phải kiểm tra tình trạng ổn định của máy. Phương pháp thử tĩnh bằng
cách treo tải bằng 125% trọng tải quy định( ở vị trí bất lợi cho máy) trong thời gian 10
phút, ở độ cao 100ữ200mm đối với cần trục và từ 200ữ300mm cho cầu trục hoặc cần trục
công xôn. Sau đó hạ tải và kiểm tra máy trục để phát hiện các vết rạn nứt, biến dạng hoặc
hư hỏng.
- Thử tải động: Bao gồm thử tải động cho cơ cấu nâng cũng như cho tất cả các cơ cấu khác
của máy trục.
Phương pháp thử tải động bằng cách cho máy trục mang tải thử bằng 110% trọng tải và
tạo ra các động lực để thử từng cơ cấu của máy trục:
+ Thử cơ cấu nâng tải: nâng tải lên độ cao 1000mm, sau đó hạ phanh đột ngột, làm đi làm
lại 3 lần sau đó kiểm tra tình trạng máy.
+ Thử cơ cấu nâng cần: Nếu trong lý lịch máy có cho phép hạ cần khi nâng tải thì phải
thử động cho cơ cấu nâng cần và tải thử lấy bằng 110% trọng tải ở tầm với lớn nhất.
+ Thử cơ cấu quay: Đối với các máy trục có cơ cấu quay thì cho máy nâng tải thử và cho
cơ cấu quay hoạt động rồi phanh đột ngột cơ cấu quay.
+ Thử cơ cấu di chuyển: các thiết bị nâng vừa có cơ cấu di chuyển máy trục vừa có cơ cấu
di chuyển xe con thì phải thử tải trọng cho từng cơ cấu ( nếu cóp chức năng quay cho
phép) bằng cách cho máy mang tải thử lên độ cao 500mm rồi cho cơ cấu đó di chuyển,
phanh đột ngột, dừng máy kiểm tra…
8.3: Quản lý và thanh tra việc quản lý, sử dụng thiết bị nâng:
a/ Quản lý thiết bị nâng:
Nội dung công tác quản lý thiết bị nâng ở cơ sở bao gồm: ư Lập hồ sơ kỹ thuật từng thiết
bị nâng như lý lịch thiết bị nâng( theo mẫu quy định), thuyết minh hướng dẫn kỹ thuật lắp
đặt, bảo quản, và sử dụng…
- Tổ chức bảo dưỡng và sửa chữa định kỳ
- Tổ chức khám nghiệm thiết bị nâng.
b/ Thanh tra việc quản lý, sử dụng thiết bị nâng: Bao gồm các công việc sau:
* Nghe báo cáo:
- Để nắm được số lượng, chủng loại thiết bị nâng.
- Tình hình đăng ký, khám nghiệm thiết bị nâng.
- Tình trạng kỹ thuật của thiết bị nâng…
- Tình hình bảo dưỡng và sửa chữa định kỳ.
- Tình hình đào tạo và huấn luyện công nhân.
- Tình hình sự cố và tai nạn thiết bị nâng.
* Kiểm tra hồ sơ tài liệu:
- Các văn bản về phân công trách nhiệm.
- Các hồ sơ kỹ thuật ( lý lịch, biên bản khám nghiệm, tài liệu hướng dẫn kỹ thuật về lắp
đặt, bảo dưỡng sử dụng…).

Trang 90
- Sổ giao ca.
- Tài liệu về huấn luyện công nhân.
- Số liệt kê các bộ phận mang tải.
- Các biên bản nghiệm thu.
* Kiểm tra thực tế hiện trường
- Vị trí lắp đặt thiết bị nâng.
- Tình trạng kỹ thuật.
- Trình độ thợ.
- Các biện pháp an toàn.

Trang 91
CHƯƠNG 9
AN TOÀN TRONG HÓA CHẤT

9.1. Đặc tính chung của hoá chất độc.


Chất độc công nghiệp là những chất dùng trong sản xuất, khi xâm nhập vào cơ thể dù chỉ
một lượng nhỏ cũng gây nên tình trạng bệnh lý. Bệnh do chất độc gây ra trong sản xuất
gọi là nhiễm độc nghề nghiệp. Khi độc tính chất độc vượt quá giới hạn cho phép, sức đề
kháng của cơ thể yếu độc chất sẽ gây ra nhiễm độc nghề nghiệp.
Các hoá chất độc có trong môi trường làm việc có thể xâm nhập vào cơ thể qua đường hô
hấp, tiêu hoá và qua việc tiếp xúc với da. Các loại hoá chất có thể gây độc hại: CO, C 2 H
2 , MnO, ZnO 2 , hơi sơn, hơi ôxit Cr khi mạ, hơi các axit...
Tính độc hại của các hoá chất phụ thuộc vào các loại hoá chất, nồng độ, thời gian tồn tại
trong môi trường mà người lao động tiếp xúc với nó.
Các chất độc càng dễ tan vào nước thì càng độc vì chúng dể thấm vào các tổ chức
thầnkinh của người và gây tác hại.
Trong môi trường sản xuất có thể cùng tồn tại nhiều loại hoá chất độc hại. Nồng độ của
từng chất có thể không đáng kể, chưa vượt quá giới hạn cho phép, nhưng nồng độ tổng
cộng của các chất độc cùng tồn tại có thể vượt quá giới hạn cho phép và có thể gây trúng
độc cấp tính hay mãn tính.
4.7.2 Tác hại của các chất độc
a/ Phân loại các nhóm hoá chất độc:
Nhóm 1: Chất gây bỏng, kích thích da, niêm mạc: như axit đặc, kiềm đặc và loãng (vôi tôi,
NH 3 )... Nếu bị trúng độc nhẹ thì dùng nước lã dội rửa ngay. (chú ý bỏng nặng có thể gây
choáng, mê man, nếu trúng mắt có thể bị mù).
Nhóm 2: Các chất kích thích đường hô hấp trên và phế quản: hơi clo (Cl), NH 3 , SO 3 ,
NO, SO 2 , hơi fluo, hơi crôm v.v... Các chất gây phù phổi: NO 2 , NO 3 , Các chất này
thường là sản phẩm cháy các hơi đốt ở nhiệt độ trên 800 o C.
Nhóm 3: Các chất làm người bị ngạt do làm loãng không khí như: CO 2 , C 2 H 5 , CH 4 ,
N 2 CO...
Nhóm4: Các chất độc đối với hệ thần kinh như các loại hydro cacbua, các loại rượu, xăng,
H 2 S, CS 2 , v.v...
Nhóm 5: Các chất gây độc với cơ quan nội tạng như hydrocacbon, clorua metyl, bromua
metyl v.v...Chất gây tổn thương cho hệ tạo máu: Benzen, phenol. Các kim loại và á kim
độc như chì, thuỷ ngân, mangan, hợp chất asen, v.v...
b/ Một số chất độc và các dạng nhiễm độc nghề nghiệp thường gặp:
* Chì và hợp chất chì:
Tác hại của chì (Pb) là làm rối loạn việc tạo máu, làm rối loạn tiêu hoá và làm suy hệ thần
kinh, viêm thận, đau bụng chì, thể trạng suy sụp.
Nhiểm độc chì mản tính có thể gây mệt mỏi, ít ngủ, ăn kém, nhức đầu, đau cơ xương, táo
bón ở thể nặng có thể liệt các chi, gây tai biến mạch máu não, thiếu máu phá hoại tuỷ
xương. Nhiểm độc chì có thể xảy ra khi in ấn, khi làm ắc quy, ...

Trang 92
Chì còn có thể xuất hiện dưới dạng Pb(C 2 H 5 ) 4 , hoặc Pb(CH 3 ) 4 . Những chất này
pha vào xăng để chống kích nổ, song chì có thể xâm nhập cơ thể qua đường hô hấp, đường
da (rất dễ thấm qua lớp mỡ dưới da). Với nồng độ các chất này = 0,182 ml/lít không khí
thì có thể làm cho súc vật thí nghiệm chết sau 18 giờ.
* Thuỷ ngân và hợp chất của nó:
Thuỷ ngân (Hg) dùng trong công nghiệp chế tạo muối thuỷ ngân, làm thuốc giun
Calomen, thuốc lợi tiểu, thuốc trừ sâu…
Thủy ngân và hợp chất của nó thâm nhập vào cơ thể bằng đường hô hấp, đường tiêu hoá
và đường da.
Thủy ngân và hợp chất của nó gây ra nhiễm độc mãn tính, gây viêm lợi, viêm miệng, loét
niêm mạc, viêm họng, rối loạn chức năng gan, gây bệnh Parkinson, buồn ngủ, kém nhớ,
mất trí nhớ, rối loạn thần kinh thực vật…với nữ giới còn gây rối loạn kinh nguyệt và gây
quái thai, sẩy thai…
* Asen và hợp chất của Asen:
Các chất Asen như As 2 0 3 dùng làm thuốc diệt chuột, AsCl 3 để sản xuất đồ gốm, As 2 0
5 dùng trong sản xuất thuỷ tinh, bảo quản gỗ, diệt cỏ, nấm…
Asen và hợp chất của nó có thể gây ra các loại nhiễm độc sau:
+ Nhiễm độc cấp tính: đau bụng, nôn, viêm thận,viêm thần kinh ngoại biên, suy tủy, cơ
tim bị tổn thương và có thể gây chết người.
+ Nhiễm độc mãn tính: gây viêm da mặt, viêm màng kết hợp, viêm mũi kích thích, thủng
vách ngăn mũi, viêm da thể chàm, vẩy sừng và xạm da, gây bệnh động mạch vành, thiếu
máu, khí thải của ô tô hoặc gan to, xơ gan, ung thư gan và ung thư da…
* Cácbon ôxit (CO):
Cácbon ôxit là khí không màu, không mùi, không kích thích, tỉ trọng 0,967 được tạo ra do
cháy không hoàn toàn ( có trong lò cao, các phân xưởng đúc, rèn, nhiệt luyện và cả trong
động cơ đốt trong).
CO gây ngạt thở hóa học khi hít phải nó, hoặc làm cho người bị đau đầu, ù tai, ở dạng nhẹ
sẽ gây đau đầu ù tai dai dẳng, sút cân, mệt mỏi, chống mặt, buồn nôn, khi bị trúng độc
nặng có thể bị ngất xỉu ngay, có thể chết.
* Crôm và hợp chất của Crôm:
Gây loét da, loét mạc mũi, thủng vách ngăn mũi, kích thích hô hấp gây ho, co thắt phế
quản và ung thư phổi…
* Man gan và hợp chất của nó:
Gây rối loạn tâm thần và vận động, nói khó và dáng đi thất thường, thao cuồng và chứng
Parkinson, rối loạn thần kinh thực vật, gây bệnh viêm phổi, viêm gan, viêm thận.
* Benzen (C 6 H 6 ):
Benzen có trong các dung môi hoà tan dầu, mỡ, sơn, keo dán, trong kỹ nghệ nhuộm, dược
phẩm, nước hoa, trong xăng ô tô...Benzen vào trong cơ thể chủ yếu bằng đường hô hấp và
gây ra chứng thiếu máu nặng, chảy máu răng lợi, khi bị nhiễm nặng có thể bị suy tủy,
nhiểm trùng huyết, giảm hồng cầu và bạch cầu, nhiểm độc cấp có thể gây cho hệ thần kinh
trung ương bị kích thích quá mức.
* Xianua (CN):
Trang 93
Xianua( gốc CN) xuất hiện dưới dạng hợp chất như: NaCN, KCN khi thấm cácbon và ni
tơ. Đây là chất rất độc. Nếu hít phải hơi NaCN ở liều lượng 0,06 g có thể bị chết ngạt. Nếu
ngộ độc Xianua thì xuất hiện các chứng rát cổ, chảy nước bọt, đau đầu tức ngực, đái rắt, ỉa
chảy...Khi bị ngộ độc Xianua phải đưa đi cấp cứu ngay.
* Axit cromic (H 2 CrO 4 ):
Loại này thường khi mạ crôm cho các đồ trang sức, mạ bảo vệ các chi tiết máy. Hơi axit
crômic làm rách niêm mạc, gây viêm phế quản, viêm da…
* Hơi ôxit nitơ ( NO 2 ):
Chúng có nhiều trong các ống khói các lò phản xạ, trong khâu nhiệt luyện thấm than, trong
khí xả của động cơ Diezel và trong khi hàn điện. Hơi NO 2 làm đỏ mắt, rát mắt, gây viêm
phế quản, tê liệt thần kinh, hôn mê…
Khi hàn điện có thể các các hơi độc và bụi độc như: FeO, Fe 2 O 3 , SiO 2 , MnO, CrO 3 ,
ZnO, CuO…
8.3. Các biện pháp phòng tránh
a/ Biện pháp chung đề phòng về kỹ thuật:
- Hạn chế hoặc thay thế các hóa chất độc hại.
- Tự động hoá quá trình sản xuất hoá chất.
- Các hoá chất phải bảo quản trong thùng kín, phải có nhãn rõ ràng.
- Chú ý công tác phòng cháy chữa cháy.
- Cấm để thức ăn, thức uống và hút thuốc gần khu vực sản xuất.
- Tổ chức hợp lý hoá quá trình sản xuất: bố trí riêng các bộ phận toả ra hơi độc, đặt ở cuối
chiều gió. Phải thiết kế hệ thống thông gió hút hơi khí độc tại chổ…
b/ Biện pháp phòng hộ cá nhân:
Phải trang bị đủ dụng cụ bảo hộ lao động để bảo vệ cơ quan hô hấp, bảo vệ mắt, bảo vệ
thân thể, chân tay như: mặt nạ phòng độc, găng tay, ủng, khẩu trang...
c/ Biện pháp vệ sinh-ytế:
- Xử lý chất thải trước khi đổ ra ngoài.
- Có kế hoạch kiểm tra sức khoẻ định kỳ, phải có chế độ bồi dưỡng bằng hiện vật.
- Vệ sinh cá nhân nhằm giữ cho cơ thể sạch sẽ
d/ Biện pháp sơ cấp cứu: Khi có nhiễm độc cần tiến hành các bước sau:
- Đưa bệnh nhân ra khỏi nơi nhiễm độc, thay bỏ quần áo bị nhiễm độc, chú ýgiữ yên tính
và ủ ấm cho nạn nhân.
- Cho ngay thuốc trợ tim, hay hô hấp nhân tạo sau khi bảo đảm khí quản thông suốt, nếu bị
bỏng do nhiệt phải cấp cứu bỏng.
-Rửa sạch da bằng xà phòng nơi bị thấm chất độc kiềm, axit phải rửa ngay bằng nước
sạch.
-Sử dụng chất giải độc đúng hoặc phương pháp giải độc đúng cách( gây nôn, xong cho
uống 2 thìa than hoạt tính hoặc than gạo giã nhỏ với 1/3 bát nước rồi uống nước đường
gluco hay nước mía, hoặc rửa dạ dày…)
- Nếu bệnh nhân bị nhiễm độc nặng đưa cấp cứu bệnh viện.
Trang 94
CHƯƠNG 10
KỸ THUẬT PHÒNG CHÁY VÀ CHỮA CHÁY

10.1. KHÁI NIỆM VỀ CHÁY NỔ


10.1.1. Bản chất của sự cháy:
-Sự cháy là quá trình lý hoá phức tạp mà cơ sở của nó là phản ứng ôxy hoá xảy ra 1 cách
nhanh chóng có kèm theo sự toả nhiệt và phát ra tia sáng.
-Trong điều kiện bình thường, sự cháy xuất hiện và tiếp diễn trong tổ hợp gồm có chất
cháy, không khí và nguồn gây lửa. Trong đó chất cháy và không khí tiếp xúc với nó tạo
thành hệ thống cháy, còn nguồn gây lửa là xung lượng gây ra trong hệ thống phản ứng
cháy. Hệ thống chỉ có thể cháy được với 1 tỷ lệ nhất định giữa chất cháy và không khí.
-Quá trình hoá học của sự cháy có kèm theo quá trình biến đổi lý học như chất rắn cháy
thành chất lỏng, chất lỏng cháy bị bay hơi.
1.Diễn biến quá trình cháy:
-Quá trình cháy của vật rắn, lỏmg, khí đều gồm có những giai đoạn sau:
• Ôxy hoá.
• Tự bốc cháy.
• Cháy.
-Quá trình cháy của vật rắn, chất lỏng và khí có thể tóm tắt trong sơ đồ biểu diễn sau:

-Tuỳ theo mức độ tích luỹ nhiệt trong quá trình ôxy hoá làm cho tốc độ phản ứng tăng lên,
chuyển sang giai đoạn tự bốc cháy và xuất hiện ngọn lửa.
Trang 95
-Phản ứng hoá học và hiện tượng vật lý trong quá trình cháy còn có thể gây ra nổ. Nó là sự
biển đổi về mặt hoá học của các chất. Sự biến đổi này xảy ra trong ra trong 1 thời gian rất
ngắn 1.10-3-1.10-5s với 1 tốc độ mạnh toả ra nhiều chất ở thể khí đã bị đốt nóng đến 1 nhiệt
độ cao. Do đó sinh ra áp lực rất lớn đối với môi trường xung quanh dẫn đến hiện tượng nổ.
-Sự thay đổi nhiệt độ của vật chất cháy trong quá trình cháy diễn biến như ở đồ thị:

• Trong giai đoạn đầu từ tp-to: nhiệt độ tăng chậm vì nhiệt lượng phải tiêu hao
để đót nóng và phân tích vật chất.
• Từ nhiệt độ to-tt là nhiệt độ bắt đầu ôxy hoá thì nhiệt độ của vật chất cháy
tăng nhanh vì ngoài nhiệt lượng từ ngoài truyền vào còn có nhiệt lượng toả ra do
phản ứng ôxy hoá. Nếu lúc này ngừng cung cấp nhiệt lượng cho vật chấtcháy và
nhiệt lượng sinh ra do phản ứng ôxy hoá không lớn hơn nhiệt lượng toả ra bên
ngoài thì tốc độ ôxy hoá sẽ giảm đi và không thể dẫn đến giai đoạn tự bốc cháy.
• Ngược lại với trường hợp trên thì phản ứng ôxy hoá sẽ tăng nhanh chuyển
đến nhiệt độ tự bốc cháy tt.
• Từ lúc này nhiệt độ sẽ tăng rất nhanh nhưng đến nhiệt độ tn thì ngọn lửa mới
xuất hiện. Nhiệt độ này xấp xỉ bằng nhiệt độ cháy tc.
2.Quá trình phát sinh ra cháy:
-Nhiệt độ tự bốc cháy của các chất cháy thì rất khác nhau: 1 số chất cao hơn 500oC, 1 số
khác thì thấp hơn nhiệt độ bình thường.
-Theo nhiệt độ tự bốc cháy, tất cả các chất cháy chia làm 2 nhóm:
• Các chất có nhiệt độ tự bốc cháy cao hơn nhiệt độ ở môi trường xung quanh
chúng →các chất này có thể tự bốc cháy do kết quả đốt nóng từ bên ngoài.
• Các chất có thể tự bốc cháy không cần đốt nóng vì môi trường xung quanh
đã đốt nóng chúng đến nhiệt độ tự bốc cháy→những chất này gọi là chất tự cháy.
-Cần chú ý rằng sự tự bốc cháy và sự tự cháy cũng là 1 hiện tượng nhưng chỉ khác là:
• Sự tự bốc cháy có liên hệ với quá trình phát sinh cháy của các chất có nhiệt
độ tự bốc cháy cao hơn nhiệt độ môi trường xung quanh.
• Sự tự cháy có liên hệ với quá trình phát sinh cháy của các chất có nhiệt độ tự
bốc cháy thấp hơn nhiệt độ môi trường xung quanh.
-Quá trình phát sinh ra cháy do kết quả đốt nóng 1 phần nhỏ chất cháy bởi nguồn lửa gọi
là sự bốc cháy. Thực chất lý học của quá trình bốc cháy không khác gì quá trình tự bốc
cháy vì rằng sự tăng nhanh phản ứng ôxy hoá của chúng cũng như nhau. Sự khác nhau cơ

Trang 96
bản giữa chúng là:
• Quá trình bốc cháy bị hạn chế bởi 1 phần thể tích chất cháy.
• Còn quá trình tự bốc cháy xảy ra trên toàn thể tích của nó.
-Ta có sơ đồ biểu diễn quá trình phát sinh cháy:

Ta thấy ngoài sự phụ thuộcvà nhiệt độ của các chất cháy To đối với nhiệt độ tự bốc cháy
của chúng tt, trong quá trình phát sinh cháy của tất cả các hiện tượng đều có quá trình
chung là sự tự đốt nóng, bắt đầu từ nhiệt độ tự bốc cháy tt và kết thúc bằng nhiệt độ cháy
t c.

-Do đó quá trình nhiệt của sự phát sinh cháy trong tự nhiên chỉ là 1 và gọi là sự tự bốc
cháy, còn sự tự cháy và bốc cháy là những trường hợp riêng của quá trình chung đó.
10.1.2. Giải thích quá trình cháy:
-Có 2 cách giải thích:
1.Lý thuyết tự bốc cháy nhiệt:
-Theo lý thuyết này thì điều kiện để xuất hiện quá trình cháy là tốc độ phát nhiệt của phản
ứng ôxy hoá phải vượt qua hoặc bằng tốc độ truyền nhiệt từ vùng phản ứng ra ngoài.
-Quá trình cháy có thể bắt đầu từ 1 tia lửa hay bằng cách gia nhiệt toàn bộ hổn hợp đến 1
nhiệt độ nhất định. Phản ứng cháy bắt đầu với tốc độ chậm và tỉa nhiệt. Do nhiệt lượng
này mà hổn hợp được gia nhiệt thêm, tốc độ phản ứng ngày càng tăng.
-Nhờ lý thuyết tự bốc cháy nhiệt mà người ta đưa ra những biện pháp phòng cháy và chữa
cháy có hiệu quả.
-Tuy nhiên lý thuyết này không giải thích được 1 số trường hợp như: tác dụng của các chất
xúc tác và ức chế quá trình cháy; ảnh hưởng của áp suất đến giới hạn bắt cháy,...
2.Lý thuyết tự bốc cháy chuỗi:
_Theo lý thuyết này, sự cháy bắt đầu từ các phân tử hoạt động nào đó, nó chuyển động và
va chạm vào các phần tử khác trong hệ thống cháy và tạo ra những tâm hoạt động mới.
Những tâm hoạt động này lại chuyển động và va chạm vào các phần tử khác tạo thành 1
hệ thống chuỗi liên tục. Ngoài ra còn cho rằng khi đốt đốt nóng hệ thống cháy sẽ tạo ra n
tâm hoạt động: 1 trong số sẽ bi mất đi, số còn lại sẽ bị tái phản ứng lại.
-Nếu mỗi tâm hoạt động chỉ tạo ra 1 phần tử hoạt động mới thì tốc độ cháy không tăng.

Trang 97
Trái lại nếu nó tái tạo 2 hay nhiều tâm hoạt động mới thì 1 tâm hoạt động được coi là sự kế
tục của chuỗi, còn tâm hoạt động khác là sự phân nhánh. Lúc này tốc độ sẽ phát triển
mạnh.
-Nhờ lý thuyết tự bốc cháy chuỗi mà có thể giải thích được hiện tượng nhiều đám cháy lúc
ban đầu còn rất nhỏ nhưng khi phát triển thì tốc độ lan truyền rất mạnh. Đó là vì nhiệt độ
càng cao, mạch phản ứng sinh ra càng nhiều và số lượng tâm hoạt động tăng lên gấp bội.
3.Sự khác nhau giữa hai lý thuyết:
-Sự khác nhau cơ bản giữa 2 lý thuyết tự bốc cháy nhiệt và lý thuyết tự bốc cháy chuỗi là
ở chỗ:
• Ở lý thuyết tự bốc cháy nhiệt:
 Nguyên nhân tăng phản ứng ôxy hoá là do tốc độ phát nhiệt tăng
nhanh hơn so với tốc độ truyền nhiệt.
 Dựa vào sự tích luỹ nhiệt của phản ứng để giải thích quá trình cháy.
• Ở lý thuyết tự bốc cháy chuỗi:
 Nguyên nhân tăng phản ứng ôxy hoá là do tốc độ phân nhánh chuỗi
tăng nhanh hơn so với tốc độ chuỗi đứt.
 Dựa vào sự tích luỹ tâm hoạt động để giải thích quá trình cháy.
10.1.3. Điều kiện để cháy và nguồn gây lửa:
1.Điều kiện để cháy:
-Trong điều kiện thông thường, sự cháy là quá trình giữa ôxy của không khí và chất cháy.
Nhưng sự cháy có thể xảy ra khi không có ôxy trong không khí như C2H2 nén, Clorua,
N2,... nếu có nguồn nhiệt hoặc H2. Nhiều kim loại có thể cháy trong Cl2, Cu cháy trong hơi
S, Mg cháy trong khí than,... Tất cả các trường hợp trên đều thuộc phản ứng ôxy hoá.
-Sự cháy của chất cháy và không khí chỉ có thể bắt đầu khi chúng đạt được 1 nhiệt độ tối
thiểu nào đó. Trong điều kiện áp suất khí quyển, tốc độ cháy của ngọn lửa càng cao thì
ôxy càng nguyên chất, tốc độ cháy càng giảm thì lượng ôxy trong không khí càng giảm.
Khi lượng ôxy không khí giảm đến 14% thì sự cháy ngừng lại.
⇒Tóm lại, điều kiện để cháy là:
• Có chất cháy.
• Có ôxy.
• Có nhiệt độ cần thiết.
2.Cháy hoàn toàn và cháy không hoàn toàn:
-Tuỳ theo lượng ôxy đưa vào để đót cháy vật chất mà chia ra cháy hoàn toàn và cháy
không hoàn toàn.
a/Cháy không hoàn toàn:
-Khi không đủ không khí thì quá trình cháy sẽ xảy ra không hoàn toàn. Trong sản phẩm
cháy không hoàn toàn thường chứa nhiều hơi khí cháy, nổ và độc như CO, mồ hóng, cồn,
andehit, acid,... Các sản phẩm này vẫn còn khả năng cháy nữa.
b/Cháy hoàn toàn:
-Khi có thừa ôxy thì quá trình cháy xảy ra hoàn toàn. Sản phẩm của quá trình cháy hoàn
Trang 98
toàn là CO2, hơi nước, N2,... Khi cháy hoàn toàn ở trong khói cũng có các chất như trong
sản phẩm cháy không hoàn toàn nhưng với số lượng ít hơn; thường chúng tạo ra ở phía
trước tuyến truyền lan của sự cháy, ở đấy sẽ xảy ra sự phân tích vật chất bị đốt nóng
nhưng nhiệt độ không đủ để phát sinh cháy các sản phẩm bị phân tích tạo ra.
3.Nguồn bắt lửa (mồi bắt lửa):
-Là bất kỳ vật nào có nhiệt độ và nhiệt lượng dự trữ đủ để đốt nóng 1 thể tích nào đó của
hệ thống cháy cho đến khi xuất hiện sự cháy trong hệ thống.
-Nguồn gây lửa có thể là các nguồn nhiệt hoặc xuất hiện dưới hình thức năng lượng nào
đó: hoá năng (phản ứng toả nhiệt), cơ năng (va đập, nén, ma sát), điện năng (sự phóng
điện):
• Khi mồi bát lửa là ngọn lửa trần, tia lửa điện, hồ quang điện, tia lửa sinh ra
do ma sát, va đập, hay hạt than cháy dở,... thì gọi đó là những mồi lửa phát quang.
• Có những loại mồi bắt lửa không phát quang gọi là mồi lửa ẩn. Chúng là
những nhiệt lượng sinh ra khi nén đoạn nhiệt, khi ma sát, khi tiến hành các phản
ứng hoá học,...
10.1.4. Sự lan truyền của đám cháy:
-Người ta phân ra 2 hình thức truyền lan của đám cháy là tuyến tính và thể tích.
1.Truyền lan tuyến tính:
-Truyền lan tuyến tính của đám cháy là truyền lan của ngọn lửa theo bề mặt của chất cháy
về hướng nào đó và mặt phẳng nào đó có liên quan tới sự thay đổi diện tích bề mặt cháy,
gọi là diện tích đám cháy.
-Giải thích sự lan truyền của ngọn lửa theo bề mặt vật chất cháy: sự cháy phát sinh ra ở 1
chỗ sẽ toả nhiệt. Nhiệt lượng này sẽ truyền lên bề mặt của chất cháy trực tiếp tiếp xúc với
đốm cháy hoặc ở cách đốm cháy 1 khoảng cách nào đó. Khi bị đốt nóng đến nhiệt độ tự
bốc cháy, những bề mặt đó sẽ cháy và đốm cháy mới xuất hiện lại truyền lan ra nơi khác.
-Những thông số chính của đám cháy khi lan truyền tuyến tính là tốc độ tuyến tính và diện
tích qua nó:
• Tốc độ tuyến tính trung bình V1 của ngọn lửa truyền lan có thể biểu hiện
bằng công thức:
l 2 − l1 ∆l
V1 = = (m/phút) (7.1)
τ 2 − τ 1 ∆t
Trong đó:
+l2: khoảng cách từ đốm cháy trong thời điểm τ2 (m).
+l1: khoảng cách từ đốm cháy trong thời điểm τ1 (m).
• Tốc độ trung bình của diện tích đám cháy sẽ là:
F2 − F1 ∆F
VF = = (m2/phút) (7.2)
τ 2 − τ1 ∆t
Trong đó:
+F2 và F1: diện tích bề mặt cháy tương ứng với thời điểm τ2, τ1(m2).
2.Truyền lan thể tích:
Trang 99
-Truyền lan thể tích của đám cháy là sự phát sinh ra những đốm cháy mới cách đốm cháy
đầu tiên 1 khoảng cách nhất định và ở trong các mặt phẳng khác. Khi truyền lan thể tích
thì tốc độ của nó rất nhanh.
-Nguyên nhan chính của sự lan truyền thể tích là sự truyền nhiệt bằng bức xạ, đối lưu và
tính dẫn nhiệt. Theo mức tăng của đốm cháy đến 1 trị số nhất định, trong phòng sẽ chứa
đầy các sản phẩm cháy nóng, chúng có thể tự toả nhiệt và truyền cho các kết cấu, vật liệu
và thiết bị xung quanh. Tốc dộ truyền lan của các sản phẩm cháy trong đám cháy theo
phương đứng cũng như phương ngang có thể đạt tới 30m/phút và nhanh hơn. Tốc độ lan
của ngọn lửa theo các vật đã được nung nóng vựot rất nhiều tốc độ tuyến tính.
-Sự cháy lan không gian của đám cháy là 1 hiện tượng rất phức tạp. Muốn hạn chế cháy
lan giữa các nhà phải thiết kế và xây dựng các chướng ngại chống cháy, quy định khoảng
cách chống cháy, có các giải pháp quy hoạch thiết kế kết cấu nhà cửa đúng đắn, cũng như
huy động kịp thời các lưu lượng và các thiết bị chữa cháy.
10.2. NGUYÊN NHÂN GÂY RA CHÁY VÀ CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA
10.2.1. Nguyên nhân gây ra sự cháy:
-Các điều kiện mà khi đó khả năng phát sinh ra cháy bị loại trừ được gọi là các điều kiện
an toàn phòng cháy, tức là:
• Thiếu 1 trong những thành phần cần thiết cho sự phát sinh ra cháy.
• Tỷ lệ của chất cháy và ôxy để tạo ra hệ thống cháy không đủ.
• Nguồn nhiệt không đủ để bốc cháy môi trường cháy.
• Thời gian tác dụng của nguồn nhiệt không đủ để bốc cháy hệ thống cháy.
-Do sự vi phạm các điều kiện an toàn sẽ phát sinh ra những nguyên nhân gây ra cháy. Tuy
nhiên những nguyên nhân gây ra cháy có rất nhiều và cũng khác nhau. Những nguyên
nhân đó cũng thay đổi liên quan đến sự thay đổi các quá trình kỹ thuật trong sản xuất và
việc sử dụng các thiết bị, nguyên vật liệu, các hệ thống chiếu sáng đốt nóng,...
-Có thể phân ra những nguyên nhân chính sau đây:
• Lắp ráp không đúng, hư hỏng, sử dụng quá tải các thiết bị điện gây ra sự cố
trong mạng điện, thiết bị điện,...
• Sự hư hỏng các thiét bị có tính chất cơ khí và sự vi phạm quá trình kỹ thuật,
vi phạm điều lệ phòng hoả trong quá trình sản xuất.
• Không thận trọng và coi thường khi dùng lửa, không thận trọng khi hàn,...
• Bốc cháy và tự bốc cháy của 1 số vật liệu khi dự trữ, bảo quản không đúng
(do kết quả của tác dụng hoá học...).
• Do bị sét đánh khi không có cột thu lôi hoặc thu lôi bị hỏng.
• Các nguyên nhân khác như: theo dõi kỹ thuật trong quá trình sản xuất không
đầy đủ; không trông nom các trạm phát điện, máy kéo, các động cơ chạy xăng và
các máy móc khác; tàng trữ bảo quản nhiên liệu không đúng.
⇒Tóm lại trên các công trường, trong sinh hoạt, trong các nhà công cộng, trong sản xuất
có thể có nhiều nguyên nhân gây ra cháy. Phòng ngừa cháy là có liên quan nhiều tới việc
tuân theo các điều kiện an toàn khi thiết kế, xây dựng và sử dụng các công trình nhà cửa
trên công công trường và trong sản xuất.

Trang 100
10.2.2. Tính chịu cháy và bốc cháy của cấu kiện xây dựng:
1.Các kết cấu xây dựng và sự bảo vệ phòng chống cháy:
-Thiết kế đúng đắn các kết cấu xây dựng có ý nghĩa quan trọng hàng đầu để đảm bảo an
toàn phòng chống cháy và làm giảm thiệt hại do cháy gây ra. Bởi vì thông thường:
• Các kết cấu xây dựng làm từ vật liệu hữu cơ là 1 trong những nguyên nhân
làm phát sinh ra cháy và cháy lan.
• Các kết cấu làm từ vật liệu vô cơ không cháy nhưng lại tích luỹ 1 phần lớn
nhiệt lượng toả ra khi cháy; dần dần lượng nhiệt do các kết cấu tích luỹ sẽ tăng lên.
Khi nhiệt lượng tích luỹ đến 1 mức nhất định thì độ bền kết cấu sẽ giảm đến mức
gây ra sụp đổ hoặc bị đốt nóng đến nhiệt độ có thể gây ra cháy ở các phòng bên
cạnh.
-Kinh nghiệm cho biết các kết cấu xây dựng đã được tính toán theo định luật cơ học, kết
cấu đứng vững được trong nhiều năm có thể bị sụp đổ trong vòng vài chục phút khi cháy
xảy ra. Nhưng trong 1 số trường hợp, chính các kết cấu xây dựng lại được coi như công cụ
phòng chống cháy. Bất kỳ kết cấu bao che nào trong 1 chừng mực nhất định cũng hạn chế
được sự cháy lan.
-Như vậy thiết kế và xây dựng đúng đắn các kết cấu xây dựng đều có liên quan chặt chẽ
tới việc phòng cháy và hạn chế cháy truyền lan.
2.Tính bốc cháy của vật liệu xây dựng:
-Người ta chia tất cả các vật liệu xây dựng nhà cửa và kết cấu của công trình ra làm 3
nhóm theo tính bốc cháy của nó:
a/Nhóm vật liệu không cháy:
-Là vật liệu không bắt lửa, không cháy âm ỉ (không bốc khói) và bề mặt không bị than hoá
dưới tác dụng của ngọn lửa hoặc nhiệt độ cao. Đó là tất cả các chất vô cơ thiên nhiên hoặc
nhân tạo và kim loại dùng trong xây dựng.
b/Nhóm vật liệu khó cháy:
-Là vật liệu khó bắt lửa, khó cháy âm ỉ (chỉ cháy rất yếu) và bề mặt khó bị than hoá, chỉ
tiếp tục cháy khi có tác dụng thường xuyên của nguồn lửa. Sau khi bỏ ngọn lửa thì hiện
tượng cháy sẽ tắt. Đó là các vật liệu hỗn hợp vô cơ và hữu cơ, là kết cấu làm từ những vật
liệu dễ cháy nhưng được bảo quản bằng tráp ốp ngoài bằng vật liệu không cháy.
c/Nhóm vật liệu dễ cháy:
-Là các vật liệu cháy thành ngọn lửa, cháy âm ỉ dưới tác dụng của ngọn lửa hoặc nhiệt độ
cao, sau khi lấy nguồn đi rồi vẫn tiếp tục cháy hoặc cháy yếu. Đó là tất cả các chất hữu cơ.
3.Tính chịu cháy của các kết cấu xây dựng:
-Là khả năng giữ được độ chịu lực và khả năng che chở của chúng trong các điều kiện
cháy.
• Mất khả năng chịu lực khi cháy tức là khi kết cấu xây dựng bị sụp đổ. Trong
những trường hợp đặc biệt khái niệm mất khả năng chịu lực được xác định chính
xác hơn và nó phụ thuộc vào đại lượng biến dạng của kết cấu khi cháy mà vượt qua
đại lượng đó kết cấu mất khả năng sử dụng tiếp tục.
• Mất khả năng che chở của kết cấu khi cháy là sự đốt nóng kết cấu đến nhiệt
độ mà vượt qua nó có thể gây ra tự bốc cháy vật chất ở trong các phòng bên cạnh

Trang 101
hoặc tạo ra khe nứt, qua đó các sản phẩm cháy có thể lọt qua.
• Tính chịu cháy của các kết cấu xây dựng được đặc trưng bởi giới hạn chịu
cháy. Giới hạn chịu cháy là thời gian qua đó kết cấu mất khả năng chịu lực hoặc
che chở. Giới hạn chịu cháy được đo bằng giờ hoặc phút; chẳng hạn: giới hạn chịu
cháy của cột bằng 2 giờ tức là sau 2 giờ cột bắt đầu sụp đổ dưới chế độ nhiệt nhất
định trong các điều kiện cháy.
• Các kết cấu xây dựng đạt tới giới hạn chịu cháy tức là khi chúng mất khả
năng chịu lực hoặc che chở khi cháy xảy ra hoặc chúng bị đốt nóng đến nhiệt độ
xác định gọi là nhiệt độ tới hạn tth.
 Gọi giới hạn chịu cháy của các kết cấu thiết kế hoặc đang sử dụng là
giới hạn chịu cháy thực tế, ký hiệu Ptt.
 Giới hạn chịu cháy của các kết cấu xây dựng yêu cầu bởi quy phạm
hoặc xác định bởi các điều kiện an toàn là giới hạn chịu cháy yêu cầu, ký hiệu
Pyc.
→Điều kiện an toàn được thỏa mãn nếu tuân theo điều kiện sau đây: Ptt≥Pyc
4.Tính chịu cháy của ngôi nhà:
-Ngôi nhà được cấu tạo từ các bộ phận kết cấu khác nhau, chúng có tính chịu cháy và
thuộc các nhóm vật liệu bốc cháy khác nhau. Khả năng của toàn bộ ngôi nhà chống lại sự
phá huỷ trong các điều kiện cháy đặc trưng bởi giới hạn chịu cháy và nhóm vật liệu bốc
cháy của các bộ phận kết cấu được gọi là mức độ chịu cháy.
-Người ta phân ra mức độ chịu cháy thực tế và mức độ chịu cháy yêu cầu của ngôi nhà:
• Mức độ chịu cháy thực tế của ngôi nhà xác định theo giới hạn chịu cháy thực
tế nhỏ nhất và nhóm vật liệu bốc cháy của 1 trong những bộ phận kết cấu. Mức độ
chịu cháy thực tế của các ngôi nhà được quy định phụ thuộc vào chức năng và tính
cháy nguy hiểm của các quá trình sản xuất bố trí ở trong. Theo mức độ chịu cháy,
các ngôi nhà được chia làm 5 cấp: I. II. III. IV. V.
• Mức độ chịu cháy yêu cầu của ngôi nhà là mức độ chịu cháy tối thiểu mà
ngôi nhà cần phải đạt được để thoả mãn các yêu cầu an toàn nhất định. Mức độ chịu
cháy yêu cầu của ngôi nhà được quy định phụ thuộc vào tính cháy nguy hiểm của
các quá trình sản xuất bố trí ở trong, chức năng của ngôi nhà, diện tích, số tầng và
sự hiện có của các thiết bị chữa cháy tự động.
-Với mức độ chịu cháy thức tế của ngôi nhà ký hiệu Ott và mức độ chịu cháy yêu cầu ký
hiệu Oyc thì điều kiện an toàn sẽ được thoả mãn nếu tuân theo điều kiện sau đây:

Ott ≥ O yc (7.3)

10.2.3.Các biện pháp phòng ngừa:


-Phòng ngừa hoả hoạn trên công trường tức là thực hiện các biện pháp nhằm:
• Đề phòng sự phát sinh ra cháy.
• Tạo điều kiện ngăn cản sự phát triển ngọn lửa.
• Nghiên cứu các biện pháp thoát người và đồ đạc quý trong thời gian cháy.
• Tạo điều kiện cho đội cứu hoả chữa cháy kịp thời.

Trang 102
-Chọn các biện pháp phòng cháy phụ thuộc vào:
• Tính chất và mức độ chống cháy (chịu cháy) của nhà cửa và công trình.
• Tính nguy hiểm khi bị cháy của các xí nghiệp sản xuất (quy trình sản xuất).
• Sự bố trí quy hoạch nhà cửa và công trình.
• Điều kiện địa hình,...
1.Tiêu diệt nguyên nhân gây ra cháy:
a/Biện pháp kỹ thuật và biện pháp kết cấu:
-Khi thiết kế quá trình thao tác kỹ thuật phải thấy hết khả năng gây ra cháy như phản ứng
hoá học, sức nóng tia mặt trời, ma sát, va chạm, sét hay ngọn lửa,...để có biện pháp an toàn
thích đáng; đặt dây điện phải đúng theo quy tắc an toàn.
b/Biện pháp tổ chức:
-Phổ biến cho công nhân cán bộ điều lệ an toàn phòng hoả, tổ chức thuyết trình nói
chuyện, chiếu phim về an toàn phòng hoả.
-Treo cổ động các khẩu hiệu, tranh vẽ và dấu hiệu để phòng tai nạn do hoả hoạn gây ra.
-Nghiên cứu sơ đồ thoát người và đồ đạc khi có cháy.
-Tổ chức đội cứu hoả.
c/Biện pháp sử dụng và quản lý:
-Sử dụng đúng đắn máy móc, động cơ điện, nhiên liệu, hệ thống vận chuyển.
-Giữ gìn nhà cửa, công trình trên quan điểm an toàn phòng hoả.
-Thực hiện nghiêm chỉnh biện pháp về chế độ cấm hút thuốc lá, đánh diêm, dùng lửa ở
những nơi cấm lửa hoặc gần những vật liệu dễ cháy.
-Cấm hàn điện, hàn hơi ở những nơi phòng cấm lửa...
2.Hạn chế sự cháy phát triển:
a/Quy hoạch phân vùng xây dựng 1 cách đúng đắn:
-Bố trí và phân nhóm nhà trong khu công nghiệp, công trường tuân theo khoảng cách
chống cháy. Khoảng cách chống cháy ở giữa các nhà và công trình công nghiệp, nông
nghiệp, kho chứa, giữa các nhà ở và công cộng,... được xác định trong quy phạm phòng
cháy. Đó là những khoảng cách tối thiểu để đảm bảo cho công trình bên cạnh khỏi bị cháy
lan, do cường độ bức xạ nhiệt khí cháy trong 1 thời gian nhất định đủ để đưa lực lượng và
công cụ chữa cháy đến.
-Đối với nhà cửa, kho tàng nguy hiểm dễ sinh ra cháy như kho nhiên liệu, thuốc nổ,... phải
bố trí cuối hướng gió,...
b/Dùng vật liệu không cháy hoặc khó cháy:
-Khi bố trí thiết bị kho tàng, nhà cửa, láng trại, xí nghiệp,... phải căn cứ vào đặc điểm của
quá trình thao tác và sự nguy hiểm do hoả hoạn gây ra để chọn vật liệu có độ chịu cháy và
hình thức kết cấu thích hợp.
c/Bố trí chướng ngại vật phòng cháy:
-Bố trí tường phòng cháy, đài phòng cháy, bể chứa nước ,... hoặc trồng cây xanh.
3.Các biện pháp chuẩn bị cho đội cứu hoả:
Trang 103
-Để tạo cho đội cứu hoả chữa cháy được nhanh chóng và kịp thời cần phải chuẩn bị 1 số
công việc sau đây:
• Làm đường đặc biệt có đủ độ rộng thuận tiện cho ôtô cứu hoả đi lại dễ dàng.
• Làm đường tới những nơi khó đến, đường tới nguồn nước,...
• Bảo đảm tín hiệu báo tin cháy và hệ thống liên lạc. Hệ thông liên lạc có thể
dùng máy thông tin liên lạc điện thoại, tín hiệu báo tin cháy có thể dùng tín hiệu
báo cháy bằng điện hoặc phát hiện tín hiệu âm thanh và ánh sáng.
10.3. CÁC PHƯƠNG TIỆN CHỮA CHÁY
10.3.1. Các chất dập tắt lửa:
-Các chất chữa cháy là các chất khi đưa vào chỗ cháy sẽ làm đình chỉ sự cháy do làm mất
các điều kiện cần cho sự cháy.
-Yêu cầu các chất chữa cháy phải có tỷ nhiệt cao, không có hại cho sức khoẻ và các vật
cần chữa cháy, rẽ tiền, dễ kiếm và dễ sử dụng.
-Khi lựa chọn các chất chữa cháy phải căn cứ vào hiệu quả dập tắt của chúng, sự hợp lý về
mặt kinh tế và phương pháp chữa cháy.
1.Chữa cháy bằng nước:
-Nước có tỷ nhiệt rất cao, khi bốc hơi nước có thể tích lớn gấp 1700 lần thể tích ban đầu.
Nước rất dễ lấy, dễ điều khiển và có nhiều nguồn nước.
a/Đặc điểm chữa cháy bằng nước:
-Có thể dùng nước để chữa cháy cho các phần lớn các chất cháy: chất rắn hay chất lỏng có
tỷ trọng lớn hơn 1 hoặc chất lỏng dễ hoà tan với nước.
-Khi tưới nước vào chỗ cháy, nước sẽ bao phủ bề mặt cháy hấp thụ nhiệt, hạ thấp nhiệt độ
chất cháy đến mức không cháy được nữa. Nước bị nóng sẽ bốc hơi làm giảm lượng khí và
hơi cháy trong vùng cháy, làm loãng ôxy trong không khí, làm cách ly không khí với chất
cháy, hạn chế quá trình ôxy hoá, do đó làm đình chỉ sự cháy.
-Cần chú ý rằng:
• Khi nhiệt độ đám cháy đã cao quá 1700oC thì không được dùng nước để dập
tắt.
• Không dùng nước chữa cháy các chất lỏng dễ cháy mà không hoà tan với
nước như xăng, dầu hoả,....
b/Nhược điểm chữa cháy bằng nước:
-Nước là chất dẫn điện nên chữa cháy ở các nhà, công trình có điện rất nguy hiểm, không
dùng để chữa cháy các thiết bị điện.
-Nước tác dụng với K, Na, CaC2 sẽ tạo ra sức nóng lớn và phân hoá khi cháy nên có thể
làm cho đám cháy lan rộng thêm.
-Nước tác dụng với acid H2SO4 đậm đặc sinh ra nổ.
-Khi chữa cháy bằng nước có thể làm hư hỏng vật cần chữa cháy như thư viện, nhà bảo
tàng,...
2.Chữa cháy bằng bọt:
-Bọt chữa cháy là các loại bọt hoá học hay bọt không khí, có tỷ trọng từ 0.1-0.26 chịu
Trang 104
được sức nóng. Tác dụng chủ yếu của bọt chữa cháy là cách ly hổn hợp cháy với vùng
cháy, ngoài ra có tác dụng làm lạnh.
-Bọt là 1 hỗn hợp gồm có khí và chất lỏng. Bọt khí tạo ra ở chất lỏng do kết quả của các
quá trình hoá học hoặc hỗn hợp cơ học của không khí với chất lỏng. Bọt rất bền với nhiệt
nên chỉ cần 1 lớp mỏng từ 7-10cm là có thể dập tắt ngay đám cháy.
a/Bọt hoá học:
-Thường được tạo thành từ chất bọt gồm từ các loại muối khô: Al2(SO4)3, Na2CO3 và các
chất chiết của gốc thực vật hoặc chất tạo bọt khác và nước.
-Bọt hoá học dùng để chữa cháy dầu mỏ và các sản phẩm dầu, các hoá chất chất rất tốt.
Không được dùng bọt hoá học để chữa cháy:
• Những nơi có điện vì bọt dẫn điện có thể bị điện giật.
• Các khi loại K, Na vì nó tác dụng với nước trong bọt làm thoát khí H2.
• Các điện tử nóng chảy.
• Cồn và acêtôn vì các chất này hút nước mạnh và khi cháy toả ra 1 nhiệt
lượng lớn, khi bột rơi vào sẽ bị phá huỷ.
b/Bọt không khí:
-Là 1 hỗn hợp cơ học không khí, nước và chất tạo bọt, được chế tạo thành các chất lỏng
màu nâu sẫm.
-Bọt không khí cơ học dùng để chữa cháy dầu mỏ và các sản phẩm dầu, các chất rắn cũng
như các thiết bị vì nó ít dẫn điện so với bọt hoá học. Loại bọt này không có tính ăn mòn
hoá học cho nên có vào da cũng không nguy hiểm.
3.Chữa cháy bằng các chất khí trơ:
-Các loại khí trơ dùng vào việc chữa cháy là N2, CO2 và hơi nước. Các chất chữa cháy này
dùng đẻ chữa cháy dung tích vì khi hoà vào các hơi khí cháy chúng sẽ làm giảm nồng độ
ôxy trong không khí, lấy đi 1 lượng nhiệt lớn và dập tắt phần lớn các chất cháy rắn và lỏng
(tác dụng pha loãng nồng độ và giảm nhiệt).
-Do đó có thể dùng để chữa cháy ở các kho tàng, hầm ngầm nhà kín, dùng để chữa cháy
điện rất tốt. Ngoài ra dùng để chữa các đốm cháy nhỏ ở ngoài trời như dùng khí CO2 để
chữa cháy các động cơ đốt trong, các cuộn dây động cơ điện, đám cháy dầu loang nhỏ.
-Nó có ưu điểm không làm hư hỏng các vật cần chữa cháy. Tuy nhiên không được dùng
trong trường hợp nó có thể kết hợp với các chất cháy để tạo ra hổn hợp nổ, không có khả
năng chữa được các chất Na, K, Mg cháy.
→Ngoài những chất trên, người ta còn dùng cát, đất, bao tải, cói,... để dập tắt những đám
cháy nhỏ. Đối với đám cháy lớn dùng những chất này không hiệu quả.
10.3.2. Biện pháp dùng nước để chữa cháy:
1.Nguồn cấp nước chữa cháy:
-Theo quy định phòng cháy thỉ ở hiện trường xây dựng phải có mạng lưới cấp nước phòng
chữa cháy cho các công tác thi công chính. Mạng lưới cấp nước chữa cháy được xây dựng
phù hợp theo thiết kế sao cho nó có thể nối liền với đường ống dẫn nước và được giữ lại
để cấp nước sau này khi sử dụng khai thác công trình.
-Nếu hiện trường thi công cách nguồn nước tự nhiên (sông, ao hồ, hồ chứa nước nhân tạo)

Trang 105
không xa hơn 200m thì việc cấp nước cứu hoả có thể tổ chức lấy từ các nguồn nước đó.
Lúc này cần phải thiết lập bến bãi lấy nước hoặc những giếng lấy nước để tạo thành hệ
thông cấp nước phòng chữa cháy cho công trình.
-Ở hiện trường xây dựng mà vị trí của nó cách nguồn nước tự nhiên xa hơn thì người ta
thiết lập đường ống dẫn nước có vòi chữa cháy hoặc van chữa cháy. Những vòi chữa cháy
được bố trí trên mạng dẫn nước ở khoảng cách không lớn hơn 2m từ đường đi lại và phải
đảm bảo đường nhánh có bề rộng không nhỏ hơn 2.5m
-Nguồn cấp nước cho việc bố trí mạng đường ống dẫn nước hoặc bến bãi lấy nước cần
phải đảm bảo lưu lượng nước theo mục đích dập tắt đám cháy cho các công tác thi công
trên hiện trường.
2.Định mức nước và thời gian kéo dài để dập tắt đám cháy:
-Định mức lượng nước để dập tắt đám cháy khi xây dựng các nhà sản xuất, nhà sinh hoạt,
nhà làm việc phụ thuộc vào:
• Mức độ chịu cháy các ngôi nhà.
• Tính dễ cháy của sự bố trí sản xuất, thi công (hạng sản xuất theo tính cháy
nguy hiểm).
• Khối tích xây dựng của các ngôi nhà và được quy định trong bảng sau:

Mức độ Hạng sản xuất Lưu lượng nước (l/s) để dập tắt 1 đám cháy theo khối
chịu theo tính chất ngôi nhà (1000m3)
cháy nguy hiểm
≤3 >3 đến >5 đến >20 >50 >200 >400
5 20 đến 50 đến đến
200 400

I-II D, E 10 10 10 10 15 20 25

I-II A, B, C 10 10 15 20 30 35 40

III D, E 10 10 15 25 - - -

III C 10 15 20 30 - - -

IV-V D, E 10 15 20 30 - - -

IV-V C 15 20 25 - - - -

-Số lượng tính toán các đám cháy đồng thời trong khu xây dựng công nghiệp nên lấy:
• Một đám cháy khi diện tích khu vực xí nghiệp nhỏ hơn 150ha.
• Hai đám cháy khi diện tích 150ha và lớn hơn.
-Thời gian kéo dài tính toán để dập tắt đám cháy (thời gian chữa cháy tiêu chuẩn) trong
khu vực dân cư hoặc trên hiện trường xây dựng người ta lấy 3h.
3.Lượng nước dự trữ để chữa cháy:

Trang 106
-Lượng nước dự trữ tuyệt đối để chữa cháy được xác định phụ thuộc vào trị số tính toán
các đám cháy đồng thời, lưu lượng nước để dập tắt đám cháy và thời gian chữa cháy tiêu
chuẩn, tức là:
Q = q.τ (7.4)
Trong đó:
+Q: lượng nước dự trữ để chữa cháy theo thời gian chữa cháy tiêu chuẩn.
+q: định mức lưu lượng để dập tắt đám cháy.
+τ: thời gian kéo dài chữa cháy yêu cầu.
 Đối với các xí nghiệp thuộc hạng sản xuất A, B, C và các khu dân cư
thì thời hạn lớn nhất để loại trừ đám cháy không được lớn hơn 24h.
 Đối với các xí nghiệp công nghiệp thuộc hạng sản xuất D, E thì thời
hạn này không được lớn hơn 36h.
-Nếu lưu lượng nguồn cấp nước không đủ đảm bảo lượng nước dự trữ chữa cháy trong
thời hạn yêu cầu trên thì thời gian thực hiện chữa cháy cho phép tăng theo tỷ lệ của sự
tăng bổ sung lượng nước dự trữ chữa cháy tuyệt đối. Trị số thể tích tăng bổ sung của
lượng nước dự trữ này có thể xác định theo công thức:
k −1
∆Q = Q. (7.5)
k
Trong đó:
+∆Q: thể tích tăng bổ sung của lượng nước dự trữ chữa cháy.
+Q: thể tích cần thiết cửa lượng nước dự trữ phòng chữa cháy theo thời gian kéo dài
chữa cháy yêu cầu.
+k: tỷ số giữa thời hạn chữa cháy theo thực tế cửa lượng nước dự trữ phòng chữa cháy
và thời hạn chữa cháy giới hạn quy định.
4.Phương pháp tưới nước vào đám cháy:
-Tưới nước vào đám cháy có thể thự hiện bằng các vòi phụt mạnh hoặc phun với các tia
nhỏ dưới hình thức mưa:
• Để tạo ra các vòi phụt mạnh có thể dùng các ống phụt (vòi rồng) cầm tay và
ống phụt có giá. Các vòi nước phụt mạnh có đặc điểm là diện tích tác dụng nhỏ, tốc
độ lớn, sức phụt xa tập trung một khối nước lớn lên 1 diện tích nhỏ.. Ngoài tác
dụng làm mạnh, vòi nước phụt mạnh còn có tác dụng phân tích vật cháy ra những
phần nhỏ, tách ngọn lửa khỏi vật cháy. Vòi nước phụt mạnh nên áp dụng để chữa
cháy các vật rắn có thể tích lớn, chữa các đám cháy ở trên cao và xa không thể đến
gần được, những chổ hiểm hóc, để làm nguội các kết cấu và thiết bị.
• Để tạo ra các tia nước phun mưa có thể dùng ống phun mưa cầm tay, ống
phụt để tạo ra các tia nước nhỏ dưới áp suất lớn ở các đầu vòi phun, miệng phun
hình cầu xoắn, các loại vòi này thường sử dụng ở trong hệ thống chữa cháy tự
động. Tưới nước dưới hình thức phun mưa có ưu điểm làm tăng bề mặt tưới và
giảm lượng nước tiêu thụ. Thường áp dụng chữa cháy các chất như than, vải, giấy,
phốt pho, các chất chất rời rạc, chất có sợi, chất cháy lỏng và dễ làm nguội bề mặt
kim loại bị nung nóng.
10.3.3. Các dụng cụ chữa cháy:
Trang 107
-Các đội chữa cháy chuyên nghiệp được trang bị những phương tiện chữa cháy hiện đại
như: xe chữa cháy, xe thông tin, xe thang,... và các hệ thống báo cháy tự động. Ở xí
nghiệp, công trường, kho tàng, đường phố người ta trang bị cho các đội chữa cháy các loại
dụng cụ chữa cháy như: gàu vẩy, bơm, vòi rồng, thang, câu liêm, xô xách nước, bình chữa
cháy, bao tải,...
-Hiện nay ở nước ta dùng rất nhiều loại hình bọt bình chữa cháy của các nước và của ta
chế tạo. Tuy kết cấu có khác nhau, nhưng nguyên tắc tạo bọt và cách sử dụng khá giống
nhau. Dưới đây sẽ nêu ra 3 loại điển hình là:
1.Bình chữa cháy bọt hoá học OΠ3:
-Vỏ bình làm bằng thép hàn chịu được áp suất 20kg/cm2, có dung tích 10 lít trong đó chứa
dung dịch kiềm Na2CO3với chất tạo bọt chiết từ gốc cây.

1. Thân bình 2.Bình chứa H2SO4 3.Bình chứa Al2(SO4)3 4.Lò xo


5.Lưới hình trụ 6.Vòi phun bọt 7.Tay cầm 8.Chốt đập 9.Dung dịch kiềm Na2CO3.
-Trong thân bình có 2 bình thuỷ tinh: 1 bình chứa đựng acid sulfuaric nồng độ 65.5 độ, 1
bình chứa sulfat nhôm nồng độ 35 độ. Mỗi bình có dung tích khoảng 0.45-1 lít. Trên thân
bình có vòi phun để làm cho bọt phun ra ngoài. Khi chữa cháy đem bình đến gần đám
cháy cho chốt quay xuống dưới, đập nhẹ chốt xuống nền nhà. Hai dung dịch hoá chất trộn
lẫn với nhau, phản ứng sinh bọt và hướng vòi phun vào đám cháy. Loại bình này tạo ra
được 45 lít bọt trong 1.5phút, tia bọt phun xa được 8m.
2. Bình chữa cháy tetaccloruacacbon CCl4:
-Bình chữa cháy loại này có thể tích nhỏ, chủ yếu dùng để chữa cháy trên ôtô, động cơ đốt
trong và thiết bị điện.
-Cấu tạo có nhiều kiểu, thông thường nó là 1 bình thép chứa khoảng 2.5 lít CCl4, bên trong
có 1 bình nhỏ chứa CO2.

Trang 108
1.Thân bình 2.Bình nhỏ chứa CO2 3.Nắp 4.Ống xiphông 5. Vòi phun
6. Chốt đập 7.Màng bảo hiểm 8.Tấm đệm 9.Lò xo 10. Tay cầm.
-Khả năng dập tắt đám cháy của CCl4 là tạo ra trên bề mặt chất cháy 1 loại hơi nặng hơn
không khí 5.5 lần. Nó không nuôi dưỡng sự cháy, không dẫn điện, làm cản ôxy tiếp xúc
với chất cháy do đó làm tắt cháy.
-Kghi cần dùng, đập tay vào chốt đập, mũi nhọn của chốt đập chọc thủng tấm đệm và khí
CO2 trong bình nhỏ bay ra ngoài. Dưới áp lực của khí CO2, dung dịch CCl4 phun ra ngoài
theo vòi phun thành 1 tia. Bình được trang bị 1 màng bảo hiểm để phòng nổ. Một số bình
kiểu này người ta dùng không khí nén để thay thế CO2.
3. Bình chữa cháy bằng khí CO2 (loại OY-2):
-Vỏ bình chữa cháy bằng khí CO2 làm bằng thép dày chịu được áp suất thử là 250kg/cm2.
và áp suất làm việc tối đa là 180kg/cm2. Nếu quá áp suất này van an toàn sẽ tự động mở ra
để xả khí CO2 ra ngoài.
-Bình chữa cháy loại này có loa phun thường làm bằng chất cách điện để đề phòng khi
chữa cháy chạm loa vào thiết bị điện.
-Khi đem bình đi chữa cháy, cần mang đến thật gần chổ cháy, quay loa đi 1 góc 90o và
hướng vào chổ cháy, sau đó mở nắp xoáy. Dưới áp lực cao, khí tuyết CO2 sẽ qua ống
xiphông và loa phun rồi được phun vào ngọn lửa.
-Bình chữa cháy bằng khí CO2 không dùng để chữa cháy các thiết bị điện, những thiết bị
quý,... Không được dùng bình chữa cháy loại này đẻ chữa cháy kim loại như các nitơrat,
hợp
chất técmít,...

Trang 109
1.Thân bình 2.Ống xiphông 3.Van an toàn 4.Tay cầm
5.Nắp xoáy 6.ống dẫn 7.Loa phun 8.Giá kê
4.Vòi rồng chữa cháy:
-Hệ thống vòi rồng cứu hoả có tác dụng tự động dập tắt ngay đám cháy bằng nước khi nó
mới xuất hiện. Vòi rồng có 2 loại: kín và hở.
a/Vòi rồng kín:
-Có nắp ngoài làm bằng kim loại dễ chảy, đặt hướng vào đối tượng cần bảo vệ (các thiết
bị, các nơi dễ cháy). Khi có đám cháy, nắp hợp kim sẽ chảy ra và nước sẽ tự động phun ra
để dập tắt đám cháy. Nhiệt độ nóng chảy của hợp kim, phụ thuộc vào nhiệt độ làm việc
của gian phòng và lấy như sau:
• Đối với phòng có nhiệt độ dưới 40o là 72o.
• Đối với phòng có nhiệt độ từ 40o-60o là 93o.
• Đối với phòng có nhiệt độ dưới 60o-100o là 141o.
• Đối với phòng có nhiệt độ cao hơn 100o là 182o.
b/Vòi rồng hở:
-Không có nắp đậy, mở nước có thể bằng tay hoặc tự động. Hệ thống vòi rồng hở để tạo
màng nước bảo vệ các nơi sinh ra cháy.

Trang 110
CHƯƠNG 11: VỆ SINH LAO ĐỘNG TRONG SẢN XUẤT
11.1 MỞ ĐẦU
11.1.1.Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của khoa học vệ sinh lao động:
-Khoa học vệ sinh lao động sẽ nghiên cứu tác dụng sinh học của các yếu tố bất lợi ảnh
hưởng đến sức khoẻ và tổ chức cơ thể con người, cũng như các biện pháp đề phòng, làm
giảm và loại trừ tác hại của chúng.
-Tất cả các yếu tố gây tác dụng có hại lên con người riêng lẽ hay kết hợp trong điều kiện
sản xuất gọi là tác hại nghề nghiệp. Kết quả tác dụng của chúng lên cơ thể con người có
thể gây ra các bệnh tật được gọi là bệnh nghề nghiệp.
-Đối tượng của vệ sinh lao động là nghiên cứu:
• Quá trình lao động và sản xuất có ảnh hưởng đến sức khoẻ con người.
• Nguyên liệu, vật liệu, bán thành phẩm và vật thải ra có ảnh hưởng đến sức
khoẻ con người.
• Quá trình sinh lý của con người trong thời gian lao động.
• Hoàn cảnh, môi trường lao động của con người.
• Tình hình sản xuất không hợp lý ảnh hưởng đến sức khoẻ con người.
-Mục đích nghiên cứu là để tiêu diệt những nguyên nhân có ảnh hưởng không tốt đến sức
khoẻ và khả năng lao động của con người.
→Do đó, nhiệm vụ chính của vệ sịnh lao động là dùng biện pháp cải tiến lao động, quá
trình thao tác, sáng tạo điều kiện sản xuất hoàn thiện để nâng cao trạng thái sức khoẻ và
khả năng lao động cho người lao động.
11.1.2.Những nhân tố ảnh hưởng và biện pháp phòng ngừa:
11.1.2.1.Những nhân tố ảnh hưởng đến sức khoẻ công nhân trong lao động sản xuất:
-Tất cả những nhân tố ảnh hưởng có thể chia làm 3 loại:
• Nhân tố vật lý học: như nhiệt độ cao thấp bất thường của lò cao, ngọn lửa
của hàn hồ quang, áp lực khí trời bất thường, tiếng động, chấn động của máy,...
• Nhân tố hoá học: như khí độc, vật thể có chất độ, bụi trong sản xuất...
• Nhân tố sinh vật: ảnh hưởng của sinh vật, vi trùng mà sinh ra bệnh truyền
nhiễm.
-Các nhân tố trên có thể gây ra bệnh nghề nghiệp làm con người có bệnh nặng thêm hoặc
bệnh phát triển rộng, trạng thái sức khoẻ của người lao động xấu đi rất nhiều.
→Vì thế, vệ sinh lao động phải nghiên cứu các biện pháp để phòng ngừa.
11.1.2.2.Các biện pháp phòng ngừa chung:
-Các bệnh nghề nghiệp và nhiễm độc trong xây dựng cơ bản có thể đề phòng bằng cách
thực hiện tổng hợp các biện pháp kỹ thuật và tổ chức nhằm:
• Cải thiện chung tình trạng chỗ làm việc và vùng làm việc.
• Cải thiện môi trường không khí.
• Thực hiện chế độ vệ sinh sản xuất và biện pháp vệ sinh an toàn cá nhân.

Trang 111
-Tổng hợp các biện pháp trên bao gồm các vấn đề sau:
• Lựa chọn đúng đắn và đảm bảo các yếu tố vi khí hậu, tiện nghi khi thiết kế
các nhà xưởng sản xuất.
• Loại trừ tác dụng có hại của chất độc và nhiệt độ cao lên người làm việc.
• Làm giảm và triệt tiêu tiếng ồn, rung động.
• Có chế độ lao động riêng đối với một số công việc nặng nhọc tiến hành
trong các điều kiện vật lý không bình thường, trong môi trường độc hại,...
• Tổ chức chiếu sáng tự nhiên và nhân tạo ở chỗ làm việc hợp lý theo tiêu
chuẩn yêu cầu.
• Đề phòng bệnh phóng xạ có liên quan đến việc sử dụng các chất phóng xạ và
đồng vị.
• Sử dụng các dụng cụ phòng hộ cá nhân để bảo vệ cơ quan thị giác, hô hấp,
bề mặt da,...
11.2 ẢNH HƯỞNG CỦA TÌNH TRẠNG MỆT MỎI VÀ TƯ THẾ LAO ĐỘNG
11.2.1.Mệt mỏi trong lao động:
11.2.1.1.Khái niệm mệt mỏi trong lao động:
-Mệt mỏi là trạng thái tạm thời của cơ thể xảy ra sau 1 thời gian lao động nhất định. Mệt
mỏi trong lao đông thể hiện ở chỗ:
• Năng suất lao động giảm.
• Số lượng phế phẩm tăng lên.
• Dễ bị xảy ra tai nạn lao động.
-Khi mệt mỏi, người lao động cảm giác khó chịu, buồn chán công việc. Nếu được nghỉ
ngơi, các biểu hiện trên mất dần, khả năng lao động được phục hồi.
-Nếu mệt mỏi kéo dài sẽ dẫn đến tình trạng quá mệt mỏi thì không còn là hiện tượng sinh
lý bình thường mà đã chuyển sang tình trạng bệnh lý do sự tích chứa mệt mỏi làm rối loạn
các chức năng thần kinh và ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể.
11.2.1.2.Nguyên nhân gây ra mệt mỏi trong lao động:
• Lao động thủ công nặng nhọc và kéo dài, giữa ca làm việc không có thời
gian nghỉ ngơi hợp lý.
• Những công việc có tính chất đơn điệu, kích thích đều đều gây buồn chán.
• Thời gian làm việc quá dài.
• Nơi làm việc có nhiều yếu tố độc hại như tiếng ồn, rung chuyển quá lớn,
nhiệt độ ánh sáng không hợp lý...
• Làm việc ở tư thế gò bó: đứng ngồi bắt buộc, đi lại nhiều lần...
• Ăn uống không đảm bảo khẩu phần về năng lượng cũng như về sinh tố, các
chất dinh dưỡng cần thiết...
• Những người mới tập lao động hoặc nghề nghiệp chưa thành thạo...
• Bố trí công việc quá khả năng hoặc sức khoẻ mà phải làm những việc cần

Trang 112
gắng sức nhiều...
• Do căng thẳng quá mức của cơ quan phân tích như thị giác, thính giác.
• Tổ chức lao động thiếu khoa học.
• Những nguyên nhân về gia đình , xã hội ảnh hưởng đến tình cảm tư tưởng
của người lao động.
11.2.1.3.Biện pháp đề phòng mệt mỏi trong lao động:
• Cơ giới hoá và tự động hoá trong quá trình sản xuất. Không những là biện
pháp quan trọng để tăng năng suất lao động, mà còn là những biện pháp cơ bản đề
phòng mỏi mệt.
• Tổ chức lao động khoa học, tổ chức dây chuyền lao động và ca kíp làm việc
hợp lý để tạo ra những điều kiện tối ưu giữa con người và máy, giữa con người và
môi trường lao động...
• Cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động nhằm loại trừ các yếu tố có
hại.
• Bố trí giờ giấc lao động và nghỉ ngơi hợp lý, không kéo dài thời gian lao
động nặng nhọc quá mức quy định, không bố trí làm việc thêm giờ quá nhiều.
• Coi trọng khẩu phần ăn của người lao động, đặc biệt là những nghề nghiệp
lao động thể lực.
• Rèn luyện thể dục thể thao, tăng cường nghỉ ngơi tích cực.
• Xây dựng tinh thần yêu lao động, yêu ngành nghề, lao động tự giác, tăng
cường các biện pháp động viên tình cảm, tâm lý nhằm loại những nhân tố tiêu cực
dẫn đến mệt mỏi về tâm lý, tư tưởng.
• Tổ chức tốt các khâu về gia đình, xã hội nhằm tạo ra cuộc sống vui tươi lành
mạnh để tái tạo sức lao động, đồng thời ngăn ngừa mệt mỏi.
11.2.2.Tư thế lao động bắt buộc:
-Do yêu cầu sản xuất, mỗi loại nghề nghiệp đều có một tư thế riêng. Người ta chia tư thế
làm việc thành 2 loại:
• Tư thế lao động thoả mái là tư thế có thể thay đổi được trong quá trình lao
động nhưng không ảnh hưởng đễn sản xuất.
• Tư thế lao động bắt buộc là tư thế mà người lao động không thay đổi được
trong quá trình lao động.
11.2.2.1.Tác hại lao động tư thế bắt buộc: Xét 2 trường hợp:
a/Tư thế lao động đứng bắt buộc:
• Có thể làm vẹo cột sống, làm dãn tĩnh mạch ở kheo chân. Chân bẹt là một
bệnh nghề nghiệp rất phổ biến do tư thế đứng bắt buộc gây ra.
• Bị căng thẳng do đứng quá lâu, khớp đầu gối bị biến dạng có thể bị bệnh
khuỳnh chân dạng chữ O hoặc chữ X.
• Ảnh hưởng đến bộ phận sinh dục nữ, gây ra sự tăng áp lực ở trong khung
chậu làm cho tử cung bị đè ép, nếu lâu ngày có thể dẫn đến vô sinh hoặc gây ra
chứng rối loạn kinh nguyệt.

Trang 113
b/Tư thế lao động ngồi bắt buộc:
• Nếu ngồi lâu ở tư thế bắt buộc sẽ dẫn đến biến dạng cột sống.
• Làm tăng áp lực trong khung chậu và cũng gây ra các biến đổi vị trí của tử
cung và rối loạn kinh nguyệt.
• Tư thế ngồi bắt buộc còn gây ra táo bón, hạ trĩ.
⇒So với tư thế đứng thì ít tác hại hơn.
11.2.2.2.Biện pháp đề phòng:
• Cơ giới hoá và tự động hoá quá trình sản xuất là biện pháp tích cực nhất.
• Cải tiến thiết bị và công cụ lao động để tạo điều kiện làm việc thuận lợi cho
người lao động.
• Rèn luyện thân thể để tăng cường khả năng lao động và khắc phục mọi ảnh
hưởng xấu do nghề nghiệp gây ra, còn có tác dụng chỉnh hình trong các trưưòng
hợp bị gù vẹo cột sống và lấy lại sự thăng bằng do sự đè ép căng thẳng quá mức ở
bụng.
• Tổ chức lao động hợp lý: bố trí ca kíp hợp lý, nghỉ ngơi thích hợp để tránh
tư thế ngồi và đứng bắt buộc quá lâu ở một số ngành nghề.
11.3 ẢNH HƯỞNG CỦA ĐIỀU KIỆN KHÍ HẬU ĐỐI VỚI CƠ THỂ
-Điều kiện khí hậu của hoàn cánh sản xuất là tình trạng vật lý của không khí bao gồm các
yếu tố như nhiệt độ, độ ẩm tương đối, tốc độ lưu chuyển không khí và bức xạ nhiệt trong
phạm vi môi trường sản xuất của người lao động. Những yếu tố này tác động trực tiếp đến
cơ thể con người, gây ảnh hưởng đến sức khoẻ→làm giảm khả năng lao động của công
nhân.
11.3.1.Nhiệt độ không khí:
11.3.1.1.Nhiệt độ cao:
-Nước ta ở vùng nhiệt đới nên mùa hè nhiệt độ có khi lên đến 40oC. Lao động ở nhiệt độ
cao đoi hỏi sự cố gắng cao của cơ thể, sự tuần hoàn máu mạnh hơn, tần suất hô hấp tăng,
sự thiếu hụt ôxy tăng→cơ thể phải làm việc nhiều để giữ cân bằng nhiệt.
-Khi làm việc ở nhiệt độ cao, người lao động bị mất nhiều mồ hôi, trong lao động nặng cơ
thể phải mất 6-7 lít mồ hôi nên sau 1 ngày làm việc cơ thể có thể bị sút 2-4 kg.
-Mồ hôi mất nhiều sẽ làm mất 1 số lượng muối của cơ thể. Cơ thể co người chiếm 75% là
nước, nên việc mất nước không được bù đắp kịp thời dẫn đến những rối loạn các chức
năng sinh lý của cơ thể do rối loạn chuyển hoá muối và nước gây ra.
-Khi cơ thể mất nước và muối quá nhiều sẽ dẫn đến các hậu quả sau đây:
• Làm việc ở nhiệt độ cao, nếu không điều hoà thân nhiệt bị trở ngại sẽ làm
thân nhiệt tăng lên. Dù thân nhiệt tăng 0.3-1oC, trong người đã cảm thấy khó
chịu→gây đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, gây trở ngại nhiều cho sản xuất và công
tác. Nếu không có biện pháp khắc phục dẫn đến hiện tượng say nóng, say nắng,
kinh giật, mất trí.
• Khi cơ thể mất nước, máu sẽ bị quánh lại, tim làm việc nhiều nên dễ bị suy
tim. Khi điều hoà thân nhiệt bị rối loạn nghiêm trọng thì hoạt động của tim cũng bị
rối loạn rõ rệt.

Trang 114
• Đối với cơ quan thận, bình thường bàI tiết từ 50-70% tổng số nước của cơ
thể. Nhưng trong lao động nóng, do cơ thể thoát mồ hôi nên thận chỉ bài tiết 10-
15% tổng số nước→nước tiểu cô đặc gây viêm thận.
• Khi làm việc ở nhiệt độ cao, công nhân uống nhiều nước nên dịch vị loãng
làm ăn kém ngon và tiêu hoá cũng kém sút. Do mất thăng bằng về muối và nước
nên ảnh hưởng đến bài tiết các chất dịch vị đến rối loạn về viêm ruột, dạ dày.
• Khi làm việc ở nhiệt độ cao, hệ thần kinh trung ương có những phản ứng
nghiêm trọng. Do sự rối loạn về chức năng điều khiển của vỏ não sẽ dẫn đến giảm
sự chú ý và tốc độ phản xạ sự phối hợp động tác lao động kém chính xác..., làm cho
năng suất kém, phế phẩm tăng và dễ bị tai nạn lao động.
11.3.1.2.Nhiệt độ thấp:
-Tác hại của nhiệt độ thấp đối với cơ thể ít hơn so với nhiệt độ cao. Tuy nhiên sự chênh
lệch quá nhiều cũng gây ảnh hưởng xấu đến cơ thể:
• Nhiệt độ thấp, đặc biệt khi có gió mạnh sẽ làm cho cơ thể quá lạnh gây ra
cảm lạnh.
• Bị lạnh cục bộ thường xuyên có thể dẫn đến bị cảm mãn tính, rét run, tê liệt
từng bộ phận riêng của cơ thể.
• Nhiệt độ quá thấp cơ thể sinh loét các huyết quản, đau các khớp xương, đau
các bắp thịt.
• Nhiệt độ nơi làm việc lạnh có thể làm cho công nhân bị cóng, cử động không
chính xác, năng suất giảm thấp.
-Những người làm việc dưới nước lâu, làm việc nơi quá lạnh cần phải được trang bị các
phương tiện cần thiết để chống rét và chống các tác hại do lạnh gây ra.
11.3.2.Độ ẩm không khí:
-Độ ẩm không khí nói lên lượng hơi nước chứa trong không khí tại nơi sản xuất. Độ ẩm
tương đối của không khí cao từ 75-80% trở lên sẽ làm cho sự điều hoà nhiệt độ khó khăn,
làm giảm sự toả nhiệt bằng con đường bốc mồ hôi.
-Nếu độ ẩm không khí cao và khi nhiệt độ cao, lặng gió làm con người nóng bức, khó
chịu.
-Nếu độ ẩm không khí thấp, có gió vừa phải thì thân nhiệt không bị tăng lên, con người
cảm thấy thoả mái, nhưng không nên để độ ẩm thấp hơn 30%.
11.3.3.Luồng không khí:
-Luồng không khí biểu thị bằng tốc độ chuyển động của không khí. Tốc độ lưu chuyển
không khí có ảnh hưởng trực tiếp đến sự toả nhiệt, nó càng lớn thì sự toả nhiệt trong 1 đơn
vị thời gian càng nhiều.
-Gió có ảnh hưởng rất tốt đến với việc bốc hơi nên nơi làm việc cần thoáng mát.
-Luồng không khí có tốc độ đều hoặc có tốc độ và phương thay đổi nhanh chóng đều có ý
nghĩa vệ sinh quan trọng trong sản xuất.
11.3.4.Biện pháp chống nóng cho người lao động:
-Cải tiến kỹ thuật, cơ giới hoá và tự động hoá các khâu sản xuất mà công nhân phải làm
việc trong nhiệt độ cao.

Trang 115
-Cách ly nguồn nhiệt bằng phương pháp che chắn. Nếu có điều kiện có thể làm láng di
động có mái che để chống nóng.
-Bố trí hệ thống thông gió tự nhiên và nhân tạo để tạo ra luồng không khí thường xuyên
nơi sản xuất, đồng thời phải có biện pháp chống ẩm để làm cho công nhân dễ bốc mồ hôi:
• Để tránh nắng và bức xạ mặt trời và lợi dụng hướng gió thì nhà sản xuất nên
xây dựng theo hướng bắc-nam, có đủ diện tích cửa sổ, cửa trời tạo điều kiện thông
gió tốt.
• Ở những nơi cục bộ toả ra nhiều nhiệt như lò rèn, lò sấy hấp, ở phía trên có
thể đặt nắp hoặc chụp hút tự nhiên hay cưỡng bức nhằm hút thải không khí nóng
hoặc hơi độc ra ngoài không cho lan tràn ra khắp phân xưởng.
• Bố trí máy điều hoà nhiệt độ ở những bộ phận sản xuất đặc biệt.
-Hạn chế bớt ảnh hưởng từ các thiết bị, máy móc và quá trình sản xuất bức xạ nhiều nhiệt:
• Các thiết bị bức xạ nhiệt phải bố trí ở các phòng riêng. Nếu quá trình công
nghệ cho phép, các loại lò nên bố trí ngoài nhà.
• Máy móc, đường ống, lò và các thiết bị toả nhiệt khác nên làm cách nhiệt
bằng các vật liệu như bông, amiăng, vật liệu chịu lửa, bêtông bột. Nếu điều kiện
không cho phép sử dụng chất cách nhiệt thì xung quanh thiết bị bức xạ nhiệt có thể
làm 1 lớp vỏ bao và màn chắn hoặc màn nước.
• Sơn mặt ngoài buồng lái các máy xây dựng bằng sơn có hệ số phản chiếu tia
năng lớn như sơn nhủ, sơn màu trắng...
-Tổ chức lao động hợp lý, cải thiện tốt điều kiện làm việc ở chỗ nắng, nóng. Tạo điều kiện
nghỉ ngơi và bồi dưỡng hiện vật cho công nhân. Tăng cường nhiều sinh tố trong khẩu phần
ăn, cung cấp đủ nước uống sạch và hợp vệ sinh (pha thêm 0.5% muối ăn), đảm bảo chỗ
tắm rửa cho công nhân sau khi làm việc.
-Sử dụng các dụng cụ phòng hộ cá nhân, quần áo bằng vải có sợi chống nhiệt cao ở những
nơi nóng, kính màu, kính mờ ngăn các tia có hại cho mắt.
-Khám sức khoẻ định kỳ cho công nhân lao động ở chỗ nóng, không bố trí những người có
bệnh tim mạch và thần kinh làm việc ở những nơi có nhiệt độ cao.
11.4. BỤI TRONG SẢN XUẤT
11.4.1.Khái niệm bụi trong sản xuất:
-Nhiều quá trình sản xuất trong thi công và công nghiệp vật liệu xây dựng phát sinh rất
nhiều bụi. Bụi là những vật chất rất bé ở trạng thái lơ lững trong không khí trong 1 thời
gian nhất định.
-Khắp nơi đều có bụi nhưng trên công trường, trong xí nghiệp, nhà máy có bụi nhiều hơn.
11.4.1.1.Các loại bụi:
a/Căn cứ vào nguồn gốc của bụi: Có các loại sau:
-Bụi hữu cơ gồm có:
• Bụi động vật sinh ra từ 1 động vật nào đó: bụi lông, bụi xương...
• Bụi thực vật sinh ra từ 1 sinh vật nào đó: bụi bông, bụi gỗ...
-Bụi vô cơ gồm có:

Trang 116
• Bụi vô cơ kim loại như bụi đồng, bụi sắt...
• Bụi vô cơ khoáng vật: đất đá, ximăng, thạch anh,...
-Bụi hỗn hợp: do các thành phần vật chất trên hợp thành.
b/Theo mức độ nhỏ của bụi:
-Nhóm nhìn thấy được với kích thước lớn hơn 10mk.
-Nhóm nhìn thấy qua kính hiển vi vi kích thước từ 0.25-10mk.
-Nhóm kích thước nhỏ hơn chỉ nhìn qua kính hiển vi điện tử.
11.4.1.2.Các nguyên nhân tạo ra bụi:
-Bụi sản xuất thường tạo ra nhiều trong các khâu thi công làm đất đá, mìn, bốc dỡ nhà cửa,
đập nghiền sàng đá và các vật liệu vô cơ khác, nhào trộn bêtông, vôi vữa, chế biến vật
liệu, chế biến vật liệu hữu cơ khi nghiền hoặc tán nhỏ.
-Khi vận chuyển vật liệu rời bụi tung ra do kết quả rung động, khi phun sơn bụi tạo ra
dưới dạng sương, khi phun cát để làm sạch các bề mặt tường nhà.
-Ở các xí nghiệp liên hiệp xây dựng nhà cửa và nhà máy bêtông đúc sẵn, có các thao tác
thu nhận, vận chuyển, chứa chất và sử dụng một số lượng lớn chất liên kết và phụ gia phải
đánh đóng nhiều lần, thường xuyên tạo ra bụi có chứa SiO2.
2.4.1.3.Phân tích tác hại của bụi:
-Bụi gây ra những tác hại về mặt kỹ thuật như:
• Bám vào máy móc thiết bị làm cho máy móc thiết bị chóng mòn.
• Bám vào các ổ trục làm tăng ma sát.
• Bám vào các mạch động cơ điện gây hiện tượng đoãn mạch và có thể làm
cháy động cơ điện.
-Bụi chủ yếu gây tác hại lớn đối với sức khoẻ của người lao động.
→Mức độ tác hại của bụi lên các bộ phận cơ thể con người phụ thuộc vào tính chất hoá lý,
tính độc, độ nhỏ và nồng độ bụi. Vì vậy trong sản xuất cần phải có biện pháp phòng và
chống bụi cho công nhân.
11.4.2.Tác hại của bụi đối với cơ thể:
-Đối với da và niêm mạc: bụi bám vào da làm sưng lỗ chân lông dẫn đến bệnh viêm da,
còn bám vào niêm mạc gây ra viêm niêm mạc. Đặc biệt có 1 số loại bụi như len dạ, nhựa
đường còn có thể gây dị ứng da.
-Đối với mắt: bụi bám vào mắt gây ra các bệnh về mắt như viêm màng tiếp hợp, viêm giác
mạc. Nếu bụi nhiễm siêu vi trùng mắt hột sẽ gây bệnh mắt hột. Bụi kim loại có cạnh sắc
nhọn khi bám vào mắt làm xây xát hoặc thủng giác mạc, làm giảm thị lực của mắt. Nếu là
bụi vôi khi bắn vào mắt gây bỏng mắt.
-Đối với tai: bụi bám vào các ống tai gây viêm, nếu vào ống tai nhiều quá làm tắc ống tai.
-Đối với bộ máy tiêu hoá: bụi vào miệng gây viêm lợi và sâu răng. Các loại bụi hạt to nếu
sắc nhọn gây ra xây xát niêm mạc dạ dày, viêm loét hoặc gây rối loạn tiêu hoá.
-Đối với bộ máy hô hấp: vì bụi chứa trong không khí nên tác hại lên đường hô hấp là chủ
yếu. Bụi trong không khí càng nhiều thì bụi vào trong phổi càng nhiều. Bụi có thể gây ra
viêm mũi, viêm khí phế quản, loại bụi hạt rất bé từ 0.1-5mk vào đến tận phế nang gây ra
Trang 117
bệnh bụi phổi. Bệnh bụi phổi được phân thành:
• Bệnh bụi silic (bụi có chứa SiO2 trong vôi, ximăng,...).
• Bệnh bụi silicat (bụi silicat, amiăng, bột tan).
• Bệnh bụi than (bụi than).
• Bệnh bụi nhôm (bụi nhôm).
→Bệnh bụi silic là loại phổ biến và nguy hiểm nhất, có thể đưa đến bệnh lao phổi nghiêm
trọng. Ôxit silic tự do (cát, thạch anh) không những chỉ ảnh hưởng đến tế bào phổi mà còn
đến toàn bộ cơ thể gây ra phá huỷ nội tâm và trung ương thần kinh.
-Đối với toàn thân: nếu bị nhiễm các loại bụi độc như hoá chất, chì, thuỷ ngân, thạch
tín...khi vào cơ thể, bụi được hoà tan vào máu gây nhiễm độc cho toàn cơ thể.
11.4.3.Biện pháp phòng và chống bụi:
2.4.3.1.Biện pháp kỹ thuật:
-Phương pháp chủ yếu để phòng bụi trong công tác xay, nghiền, sàng, bốc dỡ các loại vật
liệu hạt rời hoặc dễ sinh bụi là cơ giới hoá quá trình sản xuất để công nhân ít tiếp xúc với
bụi. Che đậy các bộ phận máy phát sinh nhiều bụi bằng vỏ che, từ đó đặt ống hút thải bụi
ra ngoài.
-Dùng các biện pháp quan trọng để khử bụi bằng cơ khí và điện như buồng lắng bụi bằng
phương pháp ly tâm, lọc bụi bằng điện, khử bụi bằng máy siêu âm, dùng các loại lưới lọc
bụi bằng phương pháp ion hoá tổng hợp.
-Áp dụng các biện pháp về sản xuất ướt hoặc sản xuất trong không khí ẩm nếu điều kiện
cho phép hoặc có thể thay đổi kỹ thuật trong thi công.
-Sử dụng hệ thống thông gió tự nhiên và nhân tạo, rút bớt độ đậm đặc của bụi trong không
khí bằng các hệ thống hút bụi, hút bụi cục bộ trực tiếp từ chỗ bụi được tạo ra.
-Thường xuyên làm tổng vệ sinh nơi làm việc để giảm trọng lượng bụi dự trữ trong môi
trường sản xuất.
11.4.3.2.Biện pháp về tổ chức:
-Bố trí các xí nghiệp, xưởng gia công,...phát ra nhiều bụi, xa các vùng dân cư, các khu vực
nhà ở. Công trình nhà ăn, nhà trẻ đều phải bố trí xa nơi sản xuất phát sinh ra bụi.
-Đường vận chuyển các nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm mang bụi phải bố trí
riêng biệt để tránh tình trạng tung bụi vào môi trường sản xuất nói chung và ở các khu vực
gián tiếp. Tổ chức tốt tưới ẩm mặt đường khi trời nắng gió, hanh khô.
11.4.3.3.Trang bị phòng hộ cá nhân:
-Trang bị quần áo công tác phòng bụi không cho bụi lọt qua để phòng ngừa cho công nhân
làm việc ở những nơi nhiều bụi, đặc biệt đối với bụi độc.
-Dùng khẩu trang, mặt nạ hô hấp, bình thở, kính đeo mắt để bảo vệ mắt, mũi, miệng.
11.4.3.4.Biện pháp y tế:
-Ở trên công trường và trong nhà máy phải có đủ nhà tắm, nơi rửa cho công nhân. Sau khi
làm việc công nhân phải tắm giặt sạch sẽ, thay quần áo.
-Cấm ăn uống, hút thuốc lá nơi sản xuất.
-Không tuyển dụng người có bệnh mãn tính về đường hô hấp làm việc ở những nơi nhiều
Trang 118
bụi. Những công nhân tiếp xúc với bụi thường xuyên được khám sức khoẻ định kỳ để phát
hiện kịp thời những người bị bệnh do nhiễm bụi.
-Phải định kỳ kiểm ta hàm lượng bụi ở môi trường sản xuất, nếu thấy quá tiêu chuẩn cho
phép phải tìm mọi biện pháp làm giảm hàm lượng bụi.
11.4.3.5.Các biện pháp khác:
-Thực hiện tốt khâu bồi dưỡng hiện vật cho công nhân.
-Tổ chức ca kíp và bố trí giờ giấc lao động, nghỉ ngơi hợp lý để tăng cường sức khoẻ.
-Coi trọng khẩu phần ăn và rèn luyện thân thể cho công nhân.
11.5 TIẾNG ỒN VÀ RUNG ĐỘNG TRONG SẢN XUẤT
11.5.1.Tác hại của tiếng ồn và rung động:
-Trong công trình xây dựng có nhiều công tác sinh ra tiếng ồn và rung động. Tiếng ồn và
rung động trong sản xuất là các tác hại nghề nghiệp nếu cường độ của chúng vượt quá giới
hạn tiêu chuẩn cho phép.
2.5.1.1.Phân tích tác hại của tiếng ồn:
a/Đối với cơ quan thính giác:
-Khi chịu tác dụng của tiếng ồn, độ nhạy cảm của thính giác giảm xuống, ngưỡng nghe
tăng lên. Khi rời môi trường ồn đến nơi yên tĩnh, độ nhạy cảm có khả năng phục hồi lại
nhanh nhưng sự phục hồi đó chỉ có 1 hạn độ nhất định.
-Dưới tác dụng kéo dài của tiếng ồn, thính lực giảm đt rõ rệt và phải sau 1 thời gian khá
lâu sau khi rời nơi ồn, thính giác mới phục hồi lại được.
-Nếu tác dụng của tiếng ồn lặp lại nhiều lần, thính giác không còn khả năng phục hồi hoàn
toàn về trạng thái bình thường được, sự thoái hoá dần dần sẽ phát triển thành những biến
đổi có tính chất bệnh lý gây ra bệnh nặng tai và điếc.
b/Đối với hệ thần kinh trung ương:
-Tiếng ồn cường độ trung bình và cao sẽ gây kích thích mạnh đến hệ thống thần kinh trung
ương, sau 1 thời gian dài có thể dẫn tới huỷ hoại sự hoạt động của dầu não thể hiện đau
đầu, chóng mặt, cảm giác sợ hãi, hay bực tức, trạng thái tâm thần không ổn định, trí nhớ
giảm sút...
c/Đối với hệ thống chức năng khác của cơ thể:
-Ảnh hưởng xấu đến hệ thông tim mạch, gây rối loạn nhịp tim.
-Làm giảm bớt sự tiết dịch vị, ảnh hưởng đến co bóp bình thường của dạ dày.
-Làm cho hệ thống thần kinh bị căng thẳng liên tục có thể gây ra bệnh cao huyết áp.
-Làm việc tiếp xúc với tiếng ồn quá nhiều, có thể dần dần bị mệt mỏi, ăn uống sút kém và
không ngủ được, nếu tình trạng đó kéo dài sẽ dẫn đến bệnh suy nhược thần kinh và cơ thể.
11.5.12.Phân tích tác hại của rung động:
-Khi cường độ nhỏ và tác động ngắn thì sự rung động này có ảnh hưởng tốt như tăng lực
bắp thịt, làm giảm mệt mỏi,...
-Khi cường độ lớn và tác dụng lâu gây khó chịu cho cơ thể. Những rung động có tần số
thấp nhưng biên độ lớn thường gây ra sự lắc xóc, nếu biên độ càng lớn thì gây ra lắc xóc
càng mạnh. Tác hại cụ thể:

Trang 119
• Làm thay đổi hoạt động của tim, gây ra di lệch các nội tạng trong ổ bụng,
làm rối loạn sự hoạt động của tuyến sinh dục nam và nữ.
• Nếu bị lắc xóc và rung động kéo dài có thể làm thay đổi hoạt động chức
năng của tuyến giáp trạng, gây chấn động cơ quan tiền đình và làm rối loạn chức
năng giữ thăng bằng của cơ quan này.
• Rung động kết hợp với tiếng ồn làm cơ quan thính giác bị mệt mỏi quá mức
dẫn đến bệnh điếc nghề nghiệp.
• Rung động lâu ngày gây nên các bệnh đâu xương khớp, làm viêm các hệ
thống xương khớp. Đặc biệt trong điều kiện nhất định có thể phát triển gây thành
bệnh rung động nghề nghiệp.
• Đối với phụ nữ, nếu làm việc trong điều kiện bị rung động nhiều sẽ gây di
lệch tử cung dẫn đến tình trạng vô sinh. Trong những ngày hành kinh, nếu bị rung
động và lắc xóc nhiều sẽ gây ứ máu ở tử cung.
11.5.2.Nguồn phát sinh tiếng ồn và rung động:
11.5.2.1.Nguồn phát sinh tiếng ồn:
-Có nhiều nguồn phát sinh tiếng ồn khác nhau:
• Theo nơi xuất hiện tiếng ồn: phân ra tiếng ồn trong nhà máy sản xuất và
tiếng ồn trong sinh hoạt.
• Theo nguồn xuất phát tiếng ồn: phân ra tiếng ồn cơ khí, tiếng ồn khí động và
tiếng ồn các máy điện.
-Tiếng ồn cơ khí:
• Gây ra bởi sự làm việc của các máy móc do sự chuyển động của các cơ cấu
phát ra tiếng ồn không khí trực tiếp.
• Gây ra bởi bề mặt các cơ cấu hoặc các bộ phận kết cấu liên quan với chúng.
• Gây ra bởi sự va chạm giữa các vật thể trong các thao tác đập búa khi rèn,
gò, dát kim loại,...
-Tiếng ồn khí động:
• Sinh ra do chất lỏng hoặc hơi, khí chuyển động vận tốc lớn (tiếng ồn quạt
máy, máy khí nén, các động cơ phản lực...).
-Tiếng ồn của các máy điện:
• Do sự rung động của các phần tĩnh và phần quay dưới ảnh hưởng của lực từ
thay đổi tác dụng ở khe không khí và ở ngay trong vật liệu của máy điện.
• Do sự chuyển động của các dòng không khí ở trong máy và sự rung động
các chi tiết và các đầu mối do sự không cân bằng của phần quay.
11.5.2.2.Nguồn rung động phát sinh:
-Trong công tác đầm các kết cấu bêtông cốt thép tấm lớn từ vữa bêtông cũng khi sử dụng
các đầm rung lớn hoặc các loại đầm cầm tay.
-Từ các loại dụng cụ cơ khí với bộ phận chuyển động điện hoặc khí nén là những nguồn
rung động gây tác dụng cục bộ lên cơ thể con người.
11.5.2.3.Các thông số đặc trưng cho tiếng ồn và rung động:
Trang 120
a/Đặc trưng cho tiếng ồn:
-Đặc trưng là các thông số vật lý như cường độ, tần số, phổ tiếng ồn và các thông số sinh
lý như mức to, độ cao. Tác hại gây ra bởi tiếng ồn phụ thuộc vào cường độ và tần số của
nó.
-Tiếng ồn mức 100-120dB với tần số thấp và 80-95dB với tần số trung bình và cao có thể
gây ra sự thay đổi ở cơ quan thính giác. Tiếng ồn mức 130-150dB có thể gây huỷ hoại có
tính chất cơ học đối với cơ quan thính giác (thủng màng nhĩ).
-Theo tần số, tiếng ồn chia thành tiếng ồn có tần số thấp dưới 300Hz, tần số trung bình
300-1000Hz, tần số cao trên 3000Hz. Tiếng ồn tần số cao có hại hơn tiếng ồn tần số thấp.
-Tuỳ theo đặc đIểm của tiếng ồn mà phổ của nó có thể là phổ liên tục, phổ gián đoạn (phổ
thưa) và phổ hổn hợp. Hai loại sau gây ảnh hưởng đặc biệt xấu lên cơ thể con người.
b/Đặc trưng cho rung động:
-Đặc trưng là biên độ dao động A, tần số f, vận tốc v, gia tốc ω.
-Đặc trưng cảm giác của con người chịu tác dụng rung động chung với biên bộ 1mm như
sau:

Tác dụng của rung động ω (mm/s2) v (mm/s)


với f=1-10Hz với f=10-100Hz

Không cảm thấy 10 0.16

Cẩm thấy ít 125 0.64

Cẩm thấy vừa, dễ chịu 140 2

Cảm thấy mạnh, dễ chịu 400 6.4

Có hại khi tác dụng lâu 1000 16.4

Rất hại >1000 >16.4

11.5.3.Biện pháp phòng và chống tiếng ồn:


11.5.3.1.Loại trừ nguồn phát sinh ra tiếng ồn:
-Dùng quá trình sản xuất không tiếng ồn thay cho quá trình sản xuất có tiếng ồn.
-Làm giảm cường độ tiếng ồn phát ra từ máy móc và động cơ.
-Giữ cho các máy ở trạng thái hoàn thiện: siết chặt bulông, đinh vít, tra dầu mỡ thường
xuyên.
11.5.3.2.Cách ly tiếng ồn và hút âm:
-Chọn vật liệu cách âm để làm nhà cửa. Làm nền nhà bằng cao su, cát, nền nhà phải đào
sâu, xung quanh nên đào rãnh cách âm rộng 6-10cm.
• Mức độ cách âm yêu cầu được xác định theo trị số cách âm D. Trị số D là
hiệu số mức độ áp lực tiếng ồn trung bình ở trong phòng có nguồn ồn L1 và bên
Trang 121
ngoài phòng có nguồn ồn L2:
D = L1 - L2 (dB) (2.1)
• D phụ tuộc vào khả năng cách âm R của tường ngăn, xác định theo công
thức:
1
R = 10 × lg (2.2)
τ
Trong đó:
+τ: hệ số truyền tiếng ồn, là tỷ số năng lượng âm đi qua tường ngăn với năng lượng
đập vào tường ngăn.
-Lắp các thiết bị giảm tiếng động của máy. Bao phủ chất hấp thụ sự rung động ở các bề
mặt
rung động phát ra tiếng ồn bằng vật liệu có ma sát trong lớn; ngoài ra trong 1 số máy có bộ
phận tiêu âm.
11.5.3.3.Dùng các dụng cụ phòng hộ cá nhân:
-Những người làm việc trong các quá trình sản xuất có thiếng ồn, để bảo vệ tai cần có một
số thiết bị sau:
• Bông, bọt biển, băng đặt vào lỗ tai là những loại đơn giản nhất. Bông làm
giảm ồn từ 3-14dB trong giải tần số 100-600Hz, băng tẩm mỡ giảm 18dB, bông len
tẩm sáp giảm đến 30dB.
• Dùng nút bằng chất dẻo bịt kín tai có thể giảm xuống 20dB.
• Dùng nắp chống ồn úp bên ngoài tai có thể giảm tới 30dB khi tần số là
500Hz và 40dB khi tần số 2000Hz. Loại nắp chống ồn chế tạo từ cao su bọt không
được thuận tiện lắm khi sử dụng vì người làm mệt do áp lực lên màng tai quá lớn.
11.5.3.4.Chế độ lao động hợp lý:
-Những người làm việc tiếp xúc nhiều với tiếng ồn cần được bớt giờ làm việc hoặc có thể
bố trí xen kẽ công việc để có những quãng nghỉ thích hợp.
-Không nên tuyển lựa những người mắc bệnh về tai làm việc ở những nơi có nhiều tiếng
ồn.
-Khi phát hiện có dấu hiệu điếc nghề nghiệp thì phải bố trí để công nhân được ngừng tiếp
xúc với tiếng ồn càng sớm càng tốt.
11.5.4.Đề phòng và chống tác hại của rung động:
2.5.4.1.Biện pháp kỹ thuật:
-Thay các bộ phận máy móc thiết bị phát ra rung động.
-Kiểm tra thường xuyên và sửa chữa kịp thời các chi tiết máy bị mòn và hư hỏng hoặc gia
công các chi tiết máy đặc biệt để khử rung.
-Nền bệ máy thiết bị phải bằng phẳng và chắc chắn. Cách ly những thiết bị phát ra độ rung
lớn bằng những rãnh cách rung xung quanh móng máy.

Trang 122
1.Móng đệm cát 2.Cát đệm 1.Tấm lót 2.Móng máy gây rung
3.Máy gây rung động 3.Khe cách âm 4.Móng nhà

1.Tấm cách rung thụ động 2.Lò xo 3.Nền rung động 4.Hướng rung động 5và 6.
Các gối tựa và dây treo của tấm (chỗ làm việc)
Hình 2.1: Các giải pháp kỹ thuật chống rung động
-Thay sự liên kết cứng giữa nguồn rung động và móng của nó bằng liên kết giảm rung
khác để giảm sự truyền rung động của máy xuống móng.
11.5.4.2.Biện pháp tổ chức sản xuất:
-Nếu công việc thay thế được cho nhau thì nên bố trí sản xuất làm nhiều ca kíp để san sẽ
mức độ tiếp xúc với rung động cho mọi người.
-Nên bố trí ca kíp sản xuất bảo đảm giữa 2 thời kỳ làm việc người thợ có quảng nghỉ dài
không tiếp xúc với rung động.
11.5.4.3.Phòng hộ cá nhân:
-Tác dụng của các dụng cụ phòng hộ các nhân chống lại rung động là giảm trị số biên độ
dao động truyền đến cơ thể khi có rung động chung hoặc lên phần cơ thể tiếp xúc với vật
rung động.
-Giày vải chống rung: có miếng đệm lót bằng cao su trong đó có gắn 6 lò xo. Chiều dày
miếng đệm 30mm, độ cứng của lò xo ở phần gót 13kg/cm, ở phần đế 10.5kg/cm. Khi tần
số rung động từ 20-50Hz với biên độ tương ứng từ 0.4-0.1mm thì độ tắt rung của loại giày
này đạt khoảng 80%.
-Găng tay chống rung: được sử dụng khi dùng các dụng cụ cầm tay rung động hoặc đầm
rung bề mặt. Yêu cầu chủ yếu là hạn chế tác dụng rung động ở chỗ tập trung vào tay. Sử
dụng găng tay có lớp lót ở lòng bàn tay bằng cao su xốp dày sẽ làm giảm biên độ rung
động với tần số 50Hz từ 3-4 lần. Dùng găng tay chống rung có lót cao su đàn hồi giảm sự
truyền động rung động đi 10 lần.o

Trang 123
11.5.4.4.Biện pháp y tế:
-Không nên tuyển dụng những người có các bệnh về rối loạn dinh dưỡng thần kinh, mạch
máu ở lòng bàn tay làm việc tiếp xúc với rung động.
-Không nên bố trí phụ nữ lái các loại xe vận tải cở lớn vì sẽ gây ra lắc xóc nhiều.
11.6 CHIẾU SÁNG TRONG SẢN XUẤT
11.6.1.Ý nghĩa việc chiếu sáng trong sản xuất:
-Chiếu sáng hợp lý trong các phòng sản xuất và nơi làm việc trên các công trường và trong
xí nghiệp công nghiệp xây dựng là vấn đề quan trọng để cảI thiện điều kiện vệ sinh, đảm
bảo an toàn lao động và nâng cao được hiếu suất làm việc và chất lượng sản phẩm, giảm
bớt sự mệt mỏi về mắt của công nhân →giảm tai nạn lao động.
-Thị lực mắt của người lao động phụ thuộc vào độ chiếu sáng và thành phần quang phổ
của nguồn sáng:
• Độ chiếu sáng ảnh hưởng rất lớn đến thị lực. Độ chiếu sáng đạt tới mức quy
định của mắt phát huy được năng lực làm việc cao nhất và độ ổn định thị lực mắt
càng bền.
• Thành phần quang phổ của nguồn sáng cũng có tác dụng lớn đối với mắt,
ánh sáng màu vàng, da cam giúp mắt làm việc tốt hơn.
-Trong thực tế sản xuất, nếu ánh sáng được bố trí đầy đủ, màu sắc của ánh sáng thích hợp
thì năng suất lao động tăng 20-30%. Nếu không đảm bảo làm cho mắt chóng mỏi mệt, dẫn
tới cận thị, khả năng làm việc giảm và có thể gây tai nạn lao động.
-Việc tổ chức chiếu sáng hợp lý để phục vụ sản xuất trên công trường, trong xí nghiệp,
kho tàng, nhà cửa phải thoả mãn những yêu cầu sau:
• Đảm bảo độ sáng đầy đủ cho thi công ở từng môi trường sản xuất, không
chói quá hoặc không tối quá so với tiêu chuẩn quy định.
• Không có bóng đen và sự tương phản lớn.
• Ánh sáng được phân bố đều trong phạm vi làm việc cũng như trong toàn bộ
trường nhìn. Ánh sáng phải chiếu đúng xuống công cụ hoặc vật phẩm đang sản xuất
bằng các loại chao đèn khác nhau.
• Hệ thống chiếu sáng phải tối ưu về mặt kinh tế.
11.6.2.Tác hại của việc chiếu sáng không hợp lý:
11.6.2.1. Độ chiếu sáng không đầy đủ:
- Nếu làm việc trong điều kiện chiếu sáng không đạt tiêu chuẩn, mắt phải điều tiết quá
nhiều trở nên mệt mỏi. Tình trạng mắt bị mệt mỏi kéo dài sẽ gây ra căng thẳng làm chậm
phản xạ thần kinh, khả năng phân biệt của mắt đối với sự vật dần dần bị sút kém.
- Công nhân trẻ tuổi hoặc công nhân trong lứa tuổi học nghề nếu làm việc trong điều kiện
thiếu ánh sáng kéo dài sẽ sinh ra tật cận thị.
-Nếu ánh sáng quá nhiều, sự phận biệt các vật bị nhầm lẫn dẫn đến làm sai các động tác và
do đó sẽ xảy ra tai nạn trong lao động, đồng thời giảm năng suất lao động và chất lượng
sản phẩm.
11.6.2.2.Độ chiếu sáng quá chói:
-Nếu cường độ chiếu sáng quá lớn hoặc bố trí chiếu sáng không hợp lý sẽ dẫn đến tình
Trang 124
trạng loá mắt làm cho nhức mắt, do đó làm giảm thị lực của công nhân.
-Hiện tượng chiếu sáng chói loá buộc công nhân phải mất thời gian để cho mắt thích nghi
khi nhìn từ trường ánh sáng thường sang trường ánh sáng chói và ngược lại→làm giảm sự
thụ cảm của mắt, làm giảm năng suất lao động, tăng phế phẩm và xảy ra tai nạn lao động.
11.6.3. Độ rọi và tiêu chuẩn chiếu sáng:
11.6.3.1.Khái niệm về độ rọi E:
-Để xác định điều kiện và trình độ của thiết bị ánh sáng, người ta dùng khái niệm về độ
sáng của bề mặt được chiếu sáng hay độ rọi. Độ rọi E là mật độ quang thông bề mặt tức là
quang thông đổ lên 1 bề mặt xác định, nó bằng tỷ số quang thông F đối với diện tích bề
mặt được chiếu sáng S:
F
E= (2.3)
S
Trong đó:
+E: độ rọi (lx-lux).
+F: quang thông (lm-luymen).
+S: diện tích (m2).
11.6.3.2.Tiêu chuẩn chiếu sáng:
-Tiêu chuẩn chiếu sáng chung cho mọi lĩnh vực sản xuất được quy định trong quy phạm
chiếu sáng.
-Trên công trường và xí nghiệp, độ rọi được xác định bởi độ chính xác của sự nhìn khi làm
việc cà các yêu cầu đảm bảo an toàn trên khu vực làm việc.
-Quy định về độ rọi tối thiểu cho 1 số công tác thi công xây dựng như sau:
• Trên công trường:
 Trong khu vực thi công: 2lx.
 Trên đường ôtô: 1-3lx.
 Trên đường sắt: 0.5lx
• Công tác bốc dỡ và vận chuyển lên cao: 10lx.
• Công tác làm đất, đóng cọc, làm đường: 5-10lx.
• Công tác lắp ghép cấu kiện thép, bêtông và gỗ: 25lx.
• Công tác bêtông và bêtông cốt thép: 25lx.
• Công tác mộc và đóng bàn ghế: 50lx.
• Công tác làm mái: 30lx.
• Công tác hoàn thiện:
 Trát, lát, láng, sơn: 25-50lx.
 Làm kính: 75lx.
11.6.4.Phương pháp chiếu sáng trong sản xuất:
-Trong sản xuất thường lợi dụng 3 loại ánh sáng: tự nhiên, nhân tạo và hỗn hợp. Thường ở
1 nơi làm việc, tuỳ thời gian khác nhau mà sử dụng 1 trong 3 loại ánh sáng trên. Trong tất
Trang 125
cả trường hợp đều nên lợi dụng ánh sáng tự nhiên vì rẻ tiền nhất và có ảnh hưởng tốt đối
với con người.

11.6.4.1.Chiếu sáng tự nhiên:


-Có thể có các cách:
• Chiếu sáng qua cửa trời hoặc cửa sổ lấy ánh sáng trên cao.
• Chiếu sáng qua cửa sổ tường ngăn.
• Chiếu sáng kết hợp 2 hình thức trên.
-Đặc điểm ánh sáng tự nhiên là nó thay đổi trong phạm vi rất lớn, phụ thuộc thời gian
trong ngày, mùa trong năm và thời tiết. Trong một thời gian ngắn độ chiếu sáng tự nhiên
có thể thay đổi khác nhau 1 vài lần → cho nên độ chiếu sáng trong phòng không nên đặc
trưng và quy định bởi đại lượng tuyệt đối như đối với chiếu sáng nhân tạo.
-Chiếu sáng tự nhiên trong các phòng có thể đặc trưng bằng đại lượng tương đối, tức là
cho biệt độ chiếu sáng bên trong phòng tối hơn hay sáng hơn độ chiếu sáng bên ngoài
thông qua hệ số gọi là hệ số chiếu sáng tự nhiên e:
Et
e= × 100% (2.4)
En
Trong đó:
+Et: độ rọi bên trong phòng (lx).
+En: độ rọi bên ngoài phòng (lx).
11.6.4.2.Chiếu sáng nhân tạo:
-Chiếu sáng nhân tạo có thể là chiếu sáng chung, cục bộ và kết hợp. Trong điều kiện sản
xuất để cho ánh sáng phân bố đều chỉ nên tổ chức chiếu sáng chung hoặc kết hợp, không
được chiếu sáng cục bộ vì sự tương phản giữa những chỗ quá sáng và chỗ tối làm cho mắt
mệt mỏi, giảm năng suất lao động, có thể gây ra chấn thương.
-Nguồn sáng nhân tạo có thể là đèn dây tóc, đèn huỳnh quang, đèn đặc biệt và đèn hồ
quang điện.
a/Đèn dây tóc:

Loại bóng trong và mờ Loại 2 đèn huỳnh quang


Hình 2.2: Các loại bóng đèn dây tóc
-Một đặc trưng của của đèn dây tóc là độ chói quá lớn gây ra tác dụng loá mắt. Để loại trừ
tác dụng đó, người ta thường dùng chao đèn (loại chiếu thẳng đứng, phản chiếu và khuếch
tán).

Trang 126
-Mức độ bảo vệ mắt khỏi tia chói xác định bởi góc α được tạo nên bởi đường nằm ngang
đi qua tâm dây tóc và mặt phẳng đi qua mép của chao đèn và tâm dây tóc hoặc tiếp tuyến
với bóng đèn.
b/Đèn huỳnh quang:
-Loại này ngày càng được sử dụng rộng rãi trong 1 số lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là nơi
cần phân biệt màu sắc hoặc yêu cầu độ chính xác cao.
-Ưu điểm:
• Về mặt vệ sinh và kỹ thuật ánh sáng thì phân tán ánh sáng tốt, ít chói hơn
đèn dây tóc vài lần, hầu như gần xoá được ánh sáng đèn và ánh sáng tự nhiên.
• Về các chỉ tiêu kinh tế, đèn huỳnh quang tiêu thụ ít điện, phát quang tốt và
thời gian sử dụng được lâu hơn.
-Nhược điểm:
• Chịu ảnh hưởng của môi trường xung quanh, kết cấu đèn phức tạp.
• Hay bị nhấp nháy đối với mạng điện xoay chiều.
c/Tính toán chiếu sáng nhân tạo:
-Nội dung là xác định số lượng đèn chiếu và công suất chung của chúng khi biết diện tích
cần chiếu sáng và tiêu chuẩn chiếu sáng.
-Một trong nhứng phương pháp tính toán là tính độ rọi theo công suất riêng. Đây là
phương pháp đơn giản nhất nhưng kém chính xác hơn các phương pháp khác. Thường
dùng trong thiết kế sơ bộ, kiểm nghiệm kết quả của các phương pháp khác và so sánh tính
kinh tế của hệ thống chiếu sáng.
-Theo phương pháp này, độ rọi được xác định theo công suất riêng:
P = 0.25 × E × k (2.5)
Trong đó:
+P: công suất riêng W/m2.
+E: độ rọi tối thiểu (lx).
+k: hệ số an toàn.
+0.25: hệ số chuyển đổi đơn vị.
-Số lượng đèn được xác định:
P×S
n= (2.6)
Pd
Trong đó:
+n: số đèn.
+S: diện tích khu vực chiếu sáng (m2).
+Pd: công suất bóng đèn (W).
-Để tránh hiện tượng ánh sáng chói loá, khi bố trí chiếu sáng cần phải tuân theo chiều cao
tro đèn xác định. Chiều cao treo đèn h phụ thuộc vào công suất đèn, sự phản chiếu và trị
số góc bảo vệ α. Khoảng cách giữa các đèn thường lấy bằng 1.5-2.5 lần chiều cao h.

Trang 127
11.6.5.Đèn pha chiếu sáng:
-Ở trên công trình khi thi công về ban đêm, để chiếu sáng các khu vực xây dựng, diện tích
kho bãi lớn không thể bố trí các đèn chiếu thường trên bề mặt cần chiếu. Khi đó dùng đèn
pha chiếu sáng.
-Các loại đèn pha chiếu sáng có thể phân thành 2 loại:
• Đèn pha rãi ánh áng có chùm sáng toả ra tương đối rộng nhờ bộ phận phản
chiếu bằng kính tráng bạc hình parabol. Loại này thường được sử dụng để chiếu
sáng các diện tích xây dựng và kho bãi lớn.
• Đèn pha để chiếu sáng mặt đứng.
-Khi cần tạo ra độ rọi với quang thông phân bố đều trên diện tích lớn, đèn pha phải đặt
trên các trụ cao. Trên mỗi trụ có thể đặt 1 đèn hoặc cụm nhiều đèn. Cũng có thể lợi dụng
công trình cao sẵn có để đặt đèn như giàn giáo, trụ tháp cần trục,...
-Để chiếu sáng các diện tích lớn trên 1ha, theo kinh nghiệm người ta ghép cụm đèn pha
khi mức tiêu chuẩn chiếu sáng cao và trong những trường hợp theo điều kiện thi công bố
trí nhiều trụ đèn được, lúc này khoảng cách giữa các trụ đèn cho phép tới 400-500m.
-Tính toán chiếu sáng bằng đèn pha cần chú ý đến đặc điểm riêng là thiết bị chiếu đặt
nghiêng. Sự phân bố ánh sáng của nó tập trung cần tính toán chính xác các góc nghiêng θ
của đèn trong mặt phẳng đứng và góc quay τ trong mặt phẳng ngang.

Hình 2.3: Sơ đồ để xác định vị trí đặt đèn pha.

Chiều cao đặt đèn cho phép hmin để hạn chế độ chói có thể xác định theo công thức:
I max
hmin ≥ (2.6)
300
hoặc hmin ≥ 0.058 I max (2.7)
Trong đó:
+Imax: cường độ ánh sáng tối đa theo trục đèn pha (cd-Candela).
11.7. PHƯƠNG TIỆN BẢO VỆ CÁ NHÂN
Phương tiện bảo vệ cá nhân là các dụng cụ, trang bị mà người lao động phải sử dụng để
bảo vệ cơ thể khỏi tác hại của các yếu tố gây nguy hiểm và tác động xấu phát sinh trong
quá trình lao động do điều kiện thiết bị, công nghệ và tổ chức chưa hoàn chỉnh gây ra.
11.7.1. PHÂN LOẠI PHƯƠNG TIỆN BẢO VỆ CÁ NHÂN

Trang 128
Có nhiều cách phân loại phương tiện bảo vệ cá nhân nhưng cách phân loại theo các bộ
phận cơ thể người có nhiều thuận lợi. Theo cách phân loại này, phương tiện bảo vệ cá
nhân gồm:
- Phương tiện bảo vệ đầu: mũ, lưới bảo vệ;
- Phương tiện bảo vệ mắt và mặt: kính và tấm chắn;
- Phương tiện bảo vệ cơ quan hô hấp: khẩu trang, bán mặt nạ và mặt trùm;
- Phương tiện bảo vệ cơ quan thính giác: nút tai, bịt tai;
- Phương tiện bảo vệ thân thể: quần áo, yếm choàng;
- Phương tiện bảo vệ tay: các loại găng tay, bao lòng bàn tay và ngón tay;
- Phương tiện bảo vệ chân: các loại giày, ủng, tất;
- Phương tiện bảo vệ cá nhân khác.
Người lao động phải biết tính năng tác dụng và cách sử dụng đối với từng loại
phương tiện bảo vệ cá nhân và phải có ý thức sử dụng các loại phương tiện đó trong công
việc hàng ngày.
11.7.2. YÊU CẦU CHUNG
Bất kỳ một phương tiện bảo vệ cá nhân nào cũng phải đáp ứng được ba tính chất:
- Tính chất bảo vệ (cản hoặc làm giảm đến mức cho phép tác động của các yếu tố gây nên
nguy hiểm và tác động xấu;
- Tính chất sử dụng (nhẹ nhàng, thuận tiện, ít gây cản trở đến khả năng của người lao
động, bền, có tuổi thọ kéo dài);
- Vệ sinh lao động (không độc, không gây khó chịu, không cản trở đến chức năng hoạt
động của cơ thể).
11.7.3. MỘT SỐ PHƯƠNG TIỆN BẢO VỆ CÁ NHÂN CÓ CÔNG DỤNG ĐẶC
BIỆT
Phương tiện bảo vệ cá nhân có công dụng đặc biệt là những phương tiện bảo vệ chuyên
dùng tuỳ theo đặc thù của quá trình sản xuất hoặc bảo vệ một vùng nào đó của cơ thể
người lao động
11.7.3.1. Phương tiện bảo vệ đầu
Phương tiện này gồm các loại mũ, lưới bảo vệ... Trong thực tế, mũ được dùng nhiều nhất.
Có các loại mũ dùng cho lao động phổ thông chỉ có tác dụng che nắng mưa, giữ tóc và
ngăn cản các loại bụi và các loại dung dịch rơi vào đầu, có nhiều loại mũ có công dụng
đặc biệt (mũ chuyên dùng) phòng chống các chấn thương đầu do đất đá, vật nặng, hoá
chất,... rơi vào đầu hoặc điện giật.
Mũ chuyên dùng phải đáp ứng ba tính chất chung đã nêu. Mũ chống chấn thương sọ não
cho công nhân mỏ, hầm, lò chịu được năng lượng đập là 50J, giảm được lực đập xuống
đầu người không quá 5KN, cách điện (dòng điện rò I<1,0 mA khi thử ở điện áp 2,2KV
trong 5 phút. Ngoài ra, mũ phải có khối lượng nhẹ (m ≤ 450g). Độ giảm thị giác không
quá 11.7%, bền cháy, bền nước và hoá chất. Mũ chuyên dùng có tác dụng chống các chấn
thương đầu, do vậy trước khi xuất xưởng và sử dụng phải đánh giá chất lượng của chúng
theo đúng các tiêu chuẩn hiện hành.
Khi người lao động muốn sử dụng các mũ bảo hiểm, phải dựa vào các yêu cầu trên để
chọn và sử dụng loại mũ thích hợp cho mình để hiệu suất sử dụng cao và có hiệu quả trong
Trang 129
quá trình làm việc. Ngày nay, thị trường mũ ở Việt Nam ngày càng đáp ứng đầy đủ và phù
hợp với thẩm mỹ của người Việt Nam và vấn đề cơ bản là đáp ứng được mục đích an toàn
trong quá trình lao động. Bởi vậy, các loại mũ phục vụ cho công việc an toàn trong mọi
lĩnh vực được người lao động tiếp nhận và tự giác sử dụng.
11.7.3.2. Phương tiện bảo vệ mắt và mặt
Phương tiện bảo vệ này ngăn ngừa các chấn thương mắt và mặt do tác động của các yếu tố
vật lý gây ra các tia hồng ngoại và tia tử ngoại đối với các thợ hàn. Họ phải sử dụng loại
mũ bảo vệ có kính lọc ánh sáng để giảm đi phần lớn tia có năng lượng cao tác dụng lên thị
giác, lên vùng da mặt và các loại xỉ hàn rơi vào tóc, mặt gây bỏng.
Trong các phòng thí nghiệm sử dụng nhiều loại hoá chất như kiềm, axit, nếu không sử
dụng phương tiện bảo vệ mặt, mắt thì điều kiện mất an toàn xảy ra lớn, gây ra tâm lý
không ổn định cho người lao động.
Trong các loại phương tiện che chắn, ta thấy kính là loại vật liệu được sử dụng
nhiều. Khi những người lao động làm việc ở môi trường có nồng độ bụi lớn, nguồn ánh
sáng bức xạ có năng lượng cao thường phải dùng hai loại kính trắng chống bụi rơi vào mắt
và kính lọc màu chống bức xạ.
Loại kính trắng chuyên dùng trong bảo hộ lao động để chống bụi và các dị vật rơi vào mắt.
Các loại kính sử dụng phải đạt được các chỉ tiêu quang học và phi quang học.
Các chỉ tiêu quang học đối với kính trắng bao gồm: hệ số ánh sáng truyền qua lớn hơn
0,11.75 ở phổ ánh sáng có bước sóng 4000-7000A o , hệ số khúc xạ kép nhỏ hơn 50nm, hệ
số khúc xạ ± 0,15 điốp. Đối với kính lọc sáng chống các tia bức xạ (mật độ quang học D =
1,0-6,0 ở vùng tử ngoại và 2,5-3,5 ở vùng hồng ngoại).
Các chỉ tiêu phi quang học: Độ bền đập của mắt kính (0,2 ÷ 0,4J) và khả năng độ bền cọ
xát. Kính bảo vệ có yêu cầu cao về chỉ tiêu quang học và có tác dụng chống từng loại yếu
tố nguy hiểm và trên cơ sở đó chọn đúng loại kính để sử dụng.
11.7.3.3. Phương tiện bảo vệ cơ quan hô hấp
Trong thực tế lao động sản xuất, để bảo đảm làm việc lâu dài và tránh được các bệnh nghề
nghiệp, người lao động cần phải sử dụng các phương tiện để chống các loại bụi và hơi khí
độc xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp. Có hai nhóm chính đó là phương tiện bảo vệ
cơ quan hô hấp bằng cách lọc khí và phương tiện bảo vệ cơ quan hô hấp tự cấp khí hoặc
dẫn khí.
a) Phương tiện bảo vệ cơ quan hô hấp bằng cách lọc khí:
Phương tiện này sử dụng phin lọc để loại trừ hoặc làm giảm đến mức cho phép
nồng độ bụi và hơi khí độc trong khí thở của người lao động. Song chỉ dùng được ở những
nơi có hàm lượng oxy trên 11.71% và nồng độ hơi khí độc không quá 0,5%. Các thông số
kỹ thuật chính của phương tiện này là hệ số lọt bụi, thời gian có tác dụng bảo vệ, sức cản
thở, khối lượng và mức độ tác hại đến da ở phần tiếp xúc. Theo hình dáng, cấu tạo,
phương tiện bảo vệ cơ quan hô hấp bằng cách lọc khí gồm ba loại: khẩu trang, bán mặt nạ
và mặt nạ.
Khẩu trang chỉ có tác dụng lọc bụi. Khẩu trang làm bằng vải thông thường chỉ lọc bụi có
kích thước lớn hơn 5µm. Để lọc được bụi có kích thước nhỏ hơn, khẩu trang phải làm
bằng vải tổng hợp hoặc giấy đặc biệt.

Trang 130
Bán mặt nạ có thể lọc được bụi và hơi khí độc, tùy thuộc vào vật liệu lọc chứa trong hộp
lọc của mặt nạ. Song, bán mặt nạ có sự cản thở lớn hơn khẩu trang (tối đa là 11.70Pa),
giảm thị trường tới 30% và nặng tới 350g.
Mặt nạ lọc hơi khí độc có tác dụng tương tự bán mặt nạ nhưng hiệu quả lọc cao hơn, bảo
vệ tổng hợp cả cơ quan hô hấp lẫn mặt. Song, mặt nạ lọc do chứa nhiều vật liệu lọc, cấu
tạo phức tạp hơn nên khối lượng nặng (2kg), cồng kềnh cản trở các thao tác lao động, độ
giảm thị trường lớn tới 50% và cản trở hô hấp lớn (khoảng 100 - 150 Pa).
Ba loại phương tiện trên có tác dụng chống bụi và hơi khí độc trên là các phương tiện bảo
vệ cá nhân có công dụng đặc biệt nên khi sử dụng cần lưu ý là phải hiểu rõ tính độc hại
của bụi và khí độc và hàm lượng oxy có trong môi trường ô nhiễm để chọn đúng phương
tiện cần dùng và phải kiểm tra, khả năng làm việc của nó.
b) Phương tiện bảo vệ cơ quan hô hấp tự cấp khí hoặc có dẫn khí:
Loại phương tiện này bao gồm các loại mặt nạ trùm và mặt trùm gắn với quần áo. Vì
không dùng khí tại nơi ô nhiễm nên loại phương tiện này dùng tốt ở nơi có hàm lượng oxy
nhỏ hơn 11.71% và hàm lượng chất độc trên 0,5%. Tuy nhiên, phương tiện bảo vệ cơ quan
hô hấp tự cấp khí hoặc có dẫn khí thường có khối lượng nặng hơn, cản trở thao tác trong
khi làm việc. Đây là phương tiện có công dụng đặc biệt nên người sử dụng phải được huấn
luyện kỹ, độ an toàn của phương tiện phải được kiểm tra kỹ lưỡng.
11.7.3.4. Phương tiện bảo vệ cơ quan thính giác
Nút tai và bịt tai chống ồn là hai phương tiện chủ yếu bảo vệ cơ quan thính giác. Nút tai
thường được làm bằng chất dẻo, xốp hoặc bông, có nhiều hình dáng khác nhau. Nút tai
giảm tiếng ồn ở tần số thấp có hiệu quả hơn, có thể giảm từ 5-7dB ở tần số 200 - 500Hz.
Thường được sử dụng ở các nhà máy dệt thoi. Bịt tai thường được dùng ở những vị trí có
độ ồn cao từ 1200-2400Hz. Thường công việc như khoan đá, các trạm máy nổ, những nơi
có sử dụng công nghệ gia công áp lực. Có nhiều trường hợp phải dùng cả mũ bịt và nút tai
vì tiếng ồn có thể truyền qua hộp sọ (người lái xe tăng, lái xe bánh xích).
11.7.3.5. Phương tiện bảo vệ thân thể
Phương tiện này gồm các loại quần áo có công dụng đặc biệt (quần áo chuyên dùng) có
vai trò quan trọng. Loại này rất phong phú về chủng loại. Tuỳ thuộc vào công dụng phòng
chống các yếu tố gây nguy hiểm và tác động xấu, phương tiện bảo vệ thân thể có thể là
quần áo chống axit, kiềm, chống tia có năng lượng cao. Quần áo chuyên dùng phải đảm
bảo được ba yêu cầu:
- Đủ khả năng chống các yếu tố gây nguy hiểm và tác động xấu, cản trở được bụi, hoá
chất, phóng xạ,... xâm nhập vào cơ thể;
- Đủ bền để dùng được lâu, kích cỡ phù hợp với người lao động để bảo đảm các thao tác
trong quá trình lao động;
- Có khả năng thấm mồ hôi, không gây độc hại và thoáng khí. Các loại quần áo chuyên
dùng đáp ứng được các yêu cầu đặt ra. Khi chế tạo cần lưu ý lựa chọn vật liệu và kết cấu
thích hợp. Trước khi sử dụng cần phải kiểm tra quần áo theo các tiêu chuẩn hiện hành.
11.7.3.6. Phương tiện bảo vệ tay
Tuỳ vào điều kiện lao động, có thể dùng các phương tiện bảo vệ tay ở các dạng găng tay,
bịt bàn tay hoặc bịt ngón tay. Các loại trên được làm từ vật liệu vải, sợi, da cao su hoặc là
kết hợp hai loại. Găng tay là loại được sử dụng phổ biến và có công dụng lớn trong mọi
công việc, các loại găng tay phải đảm bảo được yêu cầu về tính chất bảo vệ, sử dụng và vệ

Trang 131
sinh. Nếu sử dụng găng tay chống axit H 2 SO 4 thì phải chịu được nồng độ 11.70% và
kiềm (NaOH) là 20%. Hoá chất không được ngấm qua lớp vật liệu găng tay gây bỏng cháy
da tay. Do tính chất nguy hiểm của hoá chất nên găng tay trước khi dùng phải kiểm tra và
có độ tin cậy 100%.
11.7.3.7. Phương tiện bảo vệ chân
Với phương tiện này gồm hai loại là giày và ủng; có loại là công dụng thường, có loại là
công dụng đặc biệt. Giầy và ủng thông thường có thể sử dụng trong nhiều công việc khác
nhau, chống môi trường thâm nhập vào da chân gây các bệnh mẩn ngứa, có khả năng
chống bụi cao và chống nước bẩn, nước ô nhiễm ngấm vào. Giày và ủng thông thường còn
bớt ẩm chân chống bệnh khớp vào mùa ẩm ướt, lạnh giá; ban đêm chúng là phương tiện
chống được các loại rắn, rết, côn trùng có hại.
Giày và ủng chuyên dùng (dưới đế lót kim loại) có thể chống được các vật cứng sắc nhọn
đâm vào chân, chống trơn trượt như giày cao cổ, chống điện giật như giày da đế crếp.
Ngoài ra, loại giày ủng đặc biệt còn chống hoá chất phá huỷ, chống được điện rò dưới đất.
Do công dụng của các trang bị này nên khi sử dụng phải chọn đúng cỡ và có chất lượng
tốt.
11.7.3.8. Các phương tiện bảo vệ cá nhân khác
Ngoài các phương tiện bảo vệ cá nhân như đã nêu trên, trong thực tế còn có nhiều loại
phương tiện như dây an toàn, phao cứu sinh,... cũng được dùng khá phổ biến để ngăn ngừa
tai nạn lao động. Trong đó dây an toàn là phương tiện làm cho người lao động yên tâm
làm việc ở nơi có độ cao, có tốc độ. Dây an toàn còn phục vụ đắc lực cho công trình xây
dựng ở trên cao, cũng vì tính chất công việc nên các loại dây an toàn cần phải có độ bền
cao để không bị phá huỷ với trọng lượng người lao động khi vô ý trượt ngã trên cao. Dây
phải có sự giảm chấn tốt để giảm lực tác dụng khi người lao động bị va đập, dây phải gọn,
nhẹ và tiện lợi khi sử dụng, không gây tâm lý khó chịu cho người sử dụng. Bởi vậy trước
khi sử dụng, dây an toàn cần phải được kiểm tra chặt chẽ.

Trang 132

You might also like