Professional Documents
Culture Documents
Tailieuxanh Giao Duc So Sanh NXB Dai Hoc Quoc Gia Phan 2 6053 PDF
Tailieuxanh Giao Duc So Sanh NXB Dai Hoc Quoc Gia Phan 2 6053 PDF
M Ộ T SỐ H Ư Ớ N G D Ẳ N V Ể N G U Y Ê N TẮC
K H I N G H IÊ N C Ữ U s o S Á N H G IÁ O D Ụ C
của mình trong bài tiểu luận, đó là điều rất đáng khuyên
khích. Họ thường có nhiều hiểu biết và kinh nghiệm ờ một
nơi mình công tác, nên hay đề xuất một đề tài nghiên cứu so
sánh giáo dục gắn với tình hình nơi mình. Thí dụ, đề tài so
sánh kết quà học tập hay một tiêu chí nào khác giữa lớp này
với lớp kia; cấp bậc đào tạo, hệ đào tạo, hình thức đào tạo này
so với kia; khoa, phòng, ban, đơn vị công tác này so với kia
trong cùng một cơ sở đào tạo, hay giáo dục công lập và tư
thục ở cùng một địa phương V . V . . . . là các đề tài giáo dục trong
nội bộ một nơi, không thuộc lĩnh vực Giáo dục so sánh theo
đúng định nghĩa của nó, vì địa bàn của nó chỉ là một nơi có
cùng một bối cảnh.
Yêu cầu của môn học này là xác định một đề tài không
quá lớn, phù hợp với nâng lực và thời gian của học viên, và
phải đúng là thuộc lĩnh vực của Giáo dục so sánh. Đó chính là
điều quan trọng khi bước đầu thực hiện đề tài nghiên cứu so
sánh giáo dục. Các đề tài lớn hơn trong lĩnh vực Giáo dục so
sánh nên dành cho sau này khi có đủ điểu kiện về các nguồn
lực, nếu học viên tiếp tục đi sâu vào lĩnh vực này.
Hiêng tin xác thực ià vân đề cỏ ý nghĩa quyết dinh dôi với
kết tuá cúa việc diủn tả và phân tích so sánh sau này, vì thế
trưỚL khi nghiên cứu so sánh giáo dục bắt buộc phải làm một sô
việc đem tra nguổn thông tin. Một loạt các càu hỏi có thê đặt ra
như sau: Nguồn thông Ún là gì? Ai là người cung cấp thông tin?
Ngu< II thông tin có dáng tin cậy không, hay rõ ràng có một sự
nhận định sai lạc? Nguồn thõng tin đã là toàn bộ, hay là không
dầy cù hoặc phiến diện? Trong nhiều thòng tin thu thập được, dộ
tin ciy của thông tin nào nhiều hơn và ít hưu?
Một thí dụ vé thông tin xác thực là như sau: Sự thiêu hụt
giác viên so với yêu cầu là một vấn đề của ngành giáo dục,
nghèn cứu vấn đề này sẽ dần đến giải pháp tăng cường đào
tạo ịiáo viên đến mức độ như thế nào. Những thông tin về vấn
dc rày có thổ đến từ nhiều nguồn khác nhau: có thể từ một
cán 5Ộ của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của sờ giáo dục và dào
tạo nọt tỉnh, của Công đoàn Giáo dục, của một cơ sờ giáo
dục ìoặc đào tạo và của một giáo viên. Thí dụ, cán bộ của Bộ
cunị cấp nguồn thông tin cho rằng nói chung giáo viên các
cấp ;ác ngành thiếu hụt và kết luận là yêu cầu tăng quy mỏ
đào tạo sinh viên sư phạm lên 25%. Cán bộ của một Sở lại
phát biểu giáo viên phổ thông trong tỉnh thiếu hụt nghiêm
trọnỊ, đặc biệt ở các vùng xa, cần có gấp đỏi sô giáo viên hiện
có nới đáp ứng được nhu cầu. Cán bộ Công đoàn Giáo dục
một thành phô lớn cho rằng số giáo vicn hiện nay đang rất
thừa vì quá nửa sô sinh viên tốt nghiệp sư phạm không đi làm
giáo viên mà đang tìm con đường chuyển sang nghé khác, đặc
biệt à sinh viên sư phạm ngoại ngữ, và yêu cầu giảm quy mỏ
dào tạo giáo viên. Cán bộ một cơ sờ đào tạo lại cung cấp
thôn» tin cho rằng khó có thể nói giáo viên thừa hay thiếu,
76 NGUYỄN TIỂNĐẠT
nhái quán thường xảy ra trong các nguồn thông tin. Thí dụ,
một tác giả khi di tìm một sỏ sỏ liệu thống kê về giáo dục của
Úc dã phát hiện rằng về cùng một ván đề ớ cùng một năm
trong Niên giám thống kê của quốc gia và của bang là khác
nhau; cũng tương tự như vậy có thể phát hiện ờ nước Việt
Nam ta, sỏ liệu về giáo dục giữa cơ sở đào tạo, địa phương và
trung ương chưa hẳn đã hoàn toàn trùng khớp với nhau. Dù
rằng sự khác nhau không thuộc về bàn chất, nhưng nó tạo ra
vân đề phải lựa chọn nguồn nào là xác thực. Nếu sẩn sàng
chap nhận mọi nguồn thông tin khác nhau mà không đề ra
câu hỏi hoặc không có sự xác nhận cần thiết, thì người nghiên
cứu so sánh giáo dục đã rơi vào cạm bẫy.
Nói tóm lại, thông tin thu thập được đê phục vụ nghiên
cứu so sánh giáo dục phải là xác thực, cẩn chọn nguồn đáng
Ún cậy và thòng tin sát với thực tế, nguồn mới tốt hem là
nguồn cũ. nguồn toàn diện tốt hơn nguồn phiên diện và không
day dủ.
III. ĐẢM BẢO KHẢ NẢNG s o SÁNH ĐUỢC VỚI NHAU
Sau khi đã thu thập dược nhung thông tin xác thực, nếu
người nghiên cứu so sánh giáo dục không đảm bảo khả năng
có thể so sánh được với nhau (com parability) giữa các đỏi
tượng nghiên cứu về giáo dục, thì sẽ mắc phải một cạm bảy
khác đặc biệt nguy hiểm, trên thực tê đó là một tập hợp các
cạm bảy, mà mỗi cái có thể sẩn sàng làm mất giá trị kết quả
nghiên cứu so sánh. Nhu cầu đảm bảo khả năng có thể so sánh
được với nhau còn cần được nghiên cứu bổ sung, bơi vì người
ta thường nói nhiều lần về sự cần thiết phải thiết lập các cơ sở
chãc chắn và các tiêu chí cho sự so sánh, nghĩa là các đói tượng
78 NGUYỄN TIÊN DAT
phải có khả năng so sánh được với nhau, nếu chúng dược so
sánh, cho nên việc thiết lập khả năng so sánh được với nhau
vẫn còn là một vấn đề trung tâm và chưa được giải quyết.
Một số câu hỏi sau đây một mặt sẽ minh hoạ các hình
thức khác nhau của vấn để, mặt khác sẽ nhắc nhờ một sự cảnh
giác đề phòng mắc phải. Các học viên Iĩiôn này có thể tự
mình bổ sung thêm các câu hỏi khác về điểm này cho nội
dung thêm đầy đủ.
Người ta phân biệt hai loại khả nãng so sánh được với
nhau: một là vé định nghĩa (comparabilité des définitions) và
hai là về ý nghĩa (com parabilité des significations).
1. Khả năng so sánh với nhau về định nghĩa
Khả năng thứ nhất này có đối tượng là định nghĩa, được
đặt ra đối với cả các đại lượng thống kê và chắc chắn là có
cùng một định nghĩa.
Một câu hỏi đặt ra ở đây là: Các đại lượng đã có cùng
một định nghĩa chính xác, đã có đủ khả nàng so sánh với
nhau hay chưa?
Thí dụ tỷ lệ di học được định nghĩa trong tất cả các nước
là tỷ số giữa số người đi học ở một lứa tuổi nhất định và dân
số cũng ở lứa tuổi ấy:
T, = H,: D,
Nhiều người cứ tưởng rằng có một định nghĩa chính xác
thể hiện bằng một công thức toán học chặt chẽ như vậy là
đảm bảo khả năng so sánh được với nhau; thực tế khổng phải
như vậy, cần phải có thêm điểu kiện.
GIÁO DUC SO SÁNH 79
của cấp bậc học như tiêu học, trung học và đại học liên quan
đến sỏ học sinh hay sinh viên của từng trình độ phù hợp vái
lứa tuổi lý thuyết của trình độ đó, dù cho tuổi của người học
là bao nhiêu. Do đó ta có:
T, = H,: D,
trong đó ; chỉ trình độ cấp bậc học (tiểu học, trung học, đại
học). Đó là “tỷ lệ nhập học điều chỉnh” (taux ajusté
cl "inscription scolaire) của Unesco.
Về việc cãn cứ vào định nghĩa còn nảy sinh các vấn đề
khác. Thí dụ, việc đi học muộn hay lưu ban nhiều ỉà quan trọng
đối với các nước kém phát triển (ở đó lứa tuổi đi học tiểu học là
5 đến 16 hoặc còn lớn hơn không phải là hiếm); trong phân số
của tỷ lệ đi học, tử số (sô học sinh) sẽ tăng lên, trong khi đó mẫu
sỏ (dân số ờ lứa tuổi đi học) là con sô chính xác có giới hạn. Ta
chú ý đến các tỷ lệ cao hơn 100%. Năm 1965, tỷ lệ đi học tiểu
học ở Réunion là 151%, Congo 146%, Gabon 136%, Pháp
135%, Chilê 116%, Canada va Cuba 117%, Anh 111%, Sri
Lanka 110%, Đông Đức 109%, Mỹ và Liên x ỏ 104% v.v...
Một thí dụ khác là thời gian học ở mỗi trình độ kliác
nhau giữa các nước. Riêng ở khu vực châu Á và Thái Bình
Dương, thời gian học tiểu học ở Acmêni là 3 nãm, Đức là
4 năm, Thái Lan trước đây cũng là 4 năm nhưng hiện nay
6 năm, Việt Nam, Lào và Iran 5 năm, Campuchia, Hàn Quốc,
Inđônêxia, Malaixia, New Zealand, Nhật Bản, Philippin Mỹ
và Trung Quốc 6 năm, Ân Độ 8 năm. Riêng ở khu vực châu
Âu, thời gian học tiểu học ở Nga là 3 năm, Đức và Rumani
4 năm, Pháp 5 năm, Anh 6 năm, Scotland 7 năm và Albani
8 năm. Nếu phổ cập giáo dục được thực hiện, việc so sánh
GIÁC DUC SO SÁNH 81
d('nAĩl. Cần phải thừa nhận ở đây sự phân chia sỏ học sinh theo
năm học và hiểu ngầm rằng chất lượng giáo dục sẽ gần như
nhau trong các nước có trình độ kinh tế và vãn hoá ngang
nhau. Người ta đã khẳng định rằng giả thuyết này cũng đúng
đối với các nước công nghiệp phát triển.
Nói tóm lại, dù ta đã có một định nghĩa chính xác được
mọi người thừa nhận, thậm chí có thể biểu đạt bằng các công
thức toán học, vẫn chưa đủ đảm bảo khả năng so sánh được
với nhau. Cần phải đặc biệt chú ý thêm sự khác nhau giữa các
hệ thống giáo dục về đặc điểm, trình độ phát triển giáo dục và
trình độ thống kê.
thàp (chuyên khoa) đến cao (bản khoa) và đến sau đại học
(thạc sĩ. bác sĩ). Bác sĩ ở Việt Nam là bằng tốt nghiệp đại học
cúa ngành y tê, còn ở Trung Quốc và Nhật Bản đó lại là văn
bàng cao nhất của giáo dục đại học tương dưưng với tiến sĩ
của Việt Nam. Học vị ở Việt Nam dược hiểu là các vãn bằng
sau đại học (thạc sĩ và tiến sĩ), còn ở Trung Quốc có kê thêm
cà văn băng “học sĩ” tương đương với tốt nghiệp đại học,
giống như hệ thống học vị của nước Đức. Nếu thực hiện các
dề tài nghiên cứu so sánh giáo dục liên quan đốn vân đề cao
đảng, bác sĩ hoặc học vị ở những nước kể trên mà không chú
ý đến sự khác nhau về ý nghĩa của thuật ngữ ở từng nơi, thì
kết quả so sánh sẽ hoàn toàn không thể chấp nhận được.
Một thuật ngữ có thể xuất phát từ một nước, được lan
truyển sang các nước khác, theo thời gian và không gian đã
dịch chuyển ý nghĩa. Ta có thê dẻ dàng tìm thấy trong máy
tính hiện nay trên thế giới có 5 nước dùng tiếng Trung Quốc,
5 nước dùng tiếng Đức, 15 nước dùng tiếng Pháp, 18 nước
dùng tiếng Anh và 20 nước dùng tiếng Tây Ban Nha. Trong
mỗi thứ tiếng kê trên có thê tìm thấy các thuật ngữ không còn
giữ nguyên ý nghĩa gốc ban đầu.
Phương Tây cũng có những thuật ngữ chung mà ý nghĩa
khác nhau tương tự như trường hợp ở phương Đông kê’ trên.
Thí dụ, thuật ngữ “public schooĩ' ở Anh có nghĩa là trường
độc lập hoặc tư thục, ở Mỹ lại có nghĩa là trường địa phương
mờ cho công chúng, ờ úc tại bang New South Wales thì đó là
trường quốc lập do nhà nước đầu tư, còn tại bang Victoria thì
lại có nghĩa tương tự như ờ Anh là trường độc lập và thuộc
khu vực phi chính phủ. Trong tiếng Anh, các thuật ngữ như
decentralised system , compreliensỉve school, curriculum ,
84 NGUYỄN TIẾN ĐẠT
- 'lhuậl ngữ giáo dục ngưùi 1(111 tiếng lliáp, Anh, Tây BíU! Nlia47;
- Thuật ngữ giáo dục kỹ thuật và dạy nghề tiếng Pháp,
Anl, Nga, Tây Ban Nha4l<.
Nghiên cứu một hệ thống thuật ngữ chuẩn về giáo dục
liêng, Việt có so sánh với các tiếng nước ngoài cũng dã là một
đè tai được thực hiện ở Viện Nghiên cứu Phát triển Giáo dục,
nlnng cán được phát triển tiếp tục.
Nói tóm lại, khả nàng có thể so sánh được với nhau
không phải là ở sự giống nhau về từ ngữ mà là sự giống nhau
vé \ nghĩa. Vì thế thuật ngữ có thể khác nhau tuỳ theo thói
quen hoặc truyền thông, nhưng ý nghĩa là như nhau lại có thể
so sinh được với nhau. Thí dụ, trong tiếng Anh dù các nước
có Jùng thuật ngữ khác nhau như primary school hay
eỉenentưry school đéu có nghĩa là tiểu học; lower secondary
scluot hay junior secondary school hay junior high school
hay middle school hay đôi khi school o f intermediate
education dcu có nghĩa là trung học cơ sở; và upper
secftidary school hay senior secondary school hay senior
hii>! school đểu có nghĩa là trung học phổ thông; các thuật
ngữ cùng nghía có thể so sánh với nhau được. Nhưng trên
thực tê có những nhân tô sâu xa về nhiều mặt ảnh hưửng dến
ý njhĩa của thuật ngữ, cho nên cũng ành hưởng đến khả năng
so sính được với nhau trong giáo dục. Có thê kể ra một sô
mặt sau đây:
tháng ra ngav lập tức, biến “nhu” thành “cương”, kết quà của
luyện tập không phái là ớ chỗ tăng cương sức mạnh de chống
lại sức mạnh, mà đê giải phóng nội lực, vượt qua cái tỏi, thoát
khỏi sức căng hướng về một sự vô cùng cần đạt tới. “Đó là
tinh thán dicu chinh mục tiêu” cùa xạ thủ giỏi hắn cung.
Nói tóm lại, khả năng so sánh được với nhau vổ ý nghĩa
phải xét thêm cả các yếu tô ảnh hưởng theo các mặt như lịch
sử, văn hoá, chính trị. kinh tế và xã hội đã nêu ở trên.
IV. CHÚ Ý TỚI CÁC MỤC TIÊU VÀ CÁC NHÓM Đối TUỢNG
KHÁC NHAU
1. Chú +ý tới các muc tièu khác nhau
♦
rằng kết quả của sự nhân mạnh mục tiêu như thê sẽ là học tập
có kỷ luật tự giác. Nếu đem hai loại trường kê trên mà so sánlì
với nhau theo ý nghĩa chung nào đó, các tiêu chí so sánh phái
xem xét đến sự khác nhau về mục tiêu đã kể ở trên.
Vấn đề sẽ không gay gắt lắm nếu như chúng ta chỉ so
sánh thành tích học môn toán hoặc kỹ năng ngoại ngữ giữa
hai trường, dù rằng hình thức của các trắc nghiệm vẫn có thể
có lợi cho một trường. Gay gắt hơn là xu hướng dùng thànli
tích kiểm tra các môn học vãn hoá truyền thống như là một
tiêu chí duy nhất và chủ yếu để đánh giá hiệu quả của toàn bộ
nhà trường. Trong những trường hợp này, sự so sánh sẽ thiên
vị có lợi cho trường nào phù hợp với các tiêu chí sử dụng. Sự
so sánh chung cần phải bao gồm một loạt các tiêu chí licn
quan đến các mục tiêu hoặc mục đích của nhà trường. Nếu
không chú ý tới điều này chẳng khác gì ta so sánh một vận
động viên chạy tốc độ với một vận động viên chạy đường dài
và chỉ dùng khoảng chạy có 200m, hay là chê bai rằng người
diễn viên múa ba lê không biết hát.
Xu hướng sử dụng các tiêu chí như nhau cho mọi loại
mục tiêu, hoặc nhấn mạnh các tiêu chí ấy chỉ đối với các mục
tiêu đặc biệt, có thê là rõ ràng, nhưng nó đã làm rối loạn giáo
dục trung học nước Anh trong nhiều năm. Bởi vì trường trung
học truyền thống (grammar stiool) đã được xác định là mong
muốn của nhiều người trong nền giáo dục nước Anh, còn trường
trung học hiện đại và hỗn hợp (modern and comprehensivc
schools) được phát triển sau Luật Giáo dục năm 1944 được
mọi người nhận định một cách rộng rãi rằng nó có mục tiêu
như trường truyền thống. Khi người ta thấy rõ không phải như
GIAO DUC SO SANH
va\ va có các nhún định rát kliác nhau, các việc so sánh là rát
không thuận lợi. Trôn thực tó. có xu hướng công chúng coi
trườn!» truyền thõng như là chuán mực, có mục tióu là phát
tricn ĩiíỉuòn cho các luổng hàn lâm, và các trường khác nhăm
các mục tiêu khác hán.
Dĩ nhiên những sự khác nhau ve mục tiêu không chí gây
khó khăn cho việc so sánh các loại hình trường, mà còn ớ việc
xem xét các hệ thống giáo dục có chức năng rát khác nhau
troiìii các xã hội, mà các xã hội lại dựa trên các cư sỏ khác
nhau. Một sự đóng góp đặc biệt của Giáo dục so sánh là
kháng định sự cần thiết phải xem xét nhà trường và thực tiẻn
giáo dục trong hối cảnh vãn hoá và tránh so sánh hấp tấp, coi
mọi hiện tượng như là biệt lập và không chú ý đến các mục
tiéu khác nhau mà giáo dục nham vào.
2. Chú ý tới các nhóm đỏi tượng khác nhau
Liên quan den đặc điểm của dôi tương, một câu hỏi khác
có thế đặt ra là: Các đối tượng cán so sánh có thuộc về cùng
một nhóm hay không? Để trá lời câu hỏi, ta hãy xem thí dụ
sau dây: Khi thảo luận các nghiên cứu so sánh thành tích đào
tạo vé trình độ trí tuệ của sinh viên đại học ở Mỹ và ở nhiều
nước châu Âu, một nhà nghiên cứu Thuỵ Điển đã thắc mắc về
kết luận cho ràng các nước châu Âu cao hơn Mỹ. Khi đo
lường tỷ lệ sỏ người tốt nghiệp đại học trên sô người di học đại
học thì rõ ràng là như vậy. Tuy nhiên, thắc mác là ớ chỗ sô
người di học đại học ở nước Mỹ và các nước châu Âu là khác
nhau. Sinh vicn ừ các nước châu Ấu chiếm từ 3 den 6% dân sô
ở lứa tuổi di học đại học, rút ra từ các tiêu chí đã được kiểm tra;
sinh viên ớ Mỹ chiếm từ 25 đến 35% dân sỏ ở lứa tuổi đi học
90 NGUYỄN TIẾN ĐẠT
đại học và còn đang tãng lên liên tục. Giáo dục đại học ở các
nước châu Âu còn đào tạo tinh hoa, trong khi đó ờ Mỹ đã phát
triển đào tạo đại chúng và tiến tới phổ cập, với hai đặc diêm
khác nhau như vậy, kết quả so sánh sẽ không có ý nghĩa49.
Vào giữa những năm 70 có một hội thảo trong đó có háo
cáo nghiên cứu ở bốn nước về vai trò cùa giáo viên. Người
báo cáo trình bày những phát hiện từ phiếu điểu tra lấy từ
mẫu đại diện của các giáo viên ở Mỹ, Anh, ức và New
Zealand. Từ đó tác giả nhận định rằng các giáo viên Mỹ thì
dễ dãi hơn rõ rệt trong việc cư xử với học sinh, lấy học sinh
làm trung tâm, thân mật hơn trong mối quan hệ với học sinh
và cảm thấy vui trong công việc hem là nghỉ ngơi. Các giáo
viên Anh thì có đặc trung là tiến bộ nhất trong phương pháp
dạy học, còn giáo viên úc và New Zealand thì độc đoán nhất
và lấy việc học tập và hoàn thành nhiệm vụ làm trung tâm.
Tuy nhiên khi thảo luận người ta nêu lên một sự khác nhau
khi xem xét sự cân đối giữa giáo viên tiểu học và trung học
trả lời phiếu điều tra ở từng nước. Liệu có hợp lý không trong
việc so sánh giáo viên, khi mà ở nước này mẫu điều tra giáo
viên chiếm 60% còn nước kia lại chiếm 40%. Trong số người
được hỏi ở một nước phụ nữ chiếm 90%, còn ở nước khác lại
ít hơn nhiều. Câu hỏi đặt ra là: Các đặc điểm của giáo viên kê
trên phản ánh thế nào sự khác nhau về vai trò của giới tính?
Vể mặt cơ bản giá trị của việc so sánh rất đáng nghi ngờ, bởi
vì các mẫu điều tra sử dụng không thuộc cùng một nhóm.
nước nhiều bang, nhiểu địa phương khác biệt. Nhưng nnặt
khác nếu quá đi sâu vào các đặc điểm địa phương, ta lại nnât
cơ hội khẳng định các đặc điểm chung hơn, các xu thế hoặc
các hướng vận động. Khi so sánh giáo dục giữa hai nưrớe
người ta phải phân biệt giữa cái chung và cái ricng, không tthc
lấy cái chung của nước này so sánh với cái riêng của nước kia
rồi đưa ra các nhận định hấp tấp.
Khi nghiên cứu so sánh giáo dục, người ta đặt hiện tượnng
cần quan sát vào trong bối cảnh chung, và bối cảnh đó sẽ gũải
thích được hiện tượng. Thí dụ, người úc quan tâm đến sự plnát
triển của một loại hình trường mới ở Thuỵ Điển là “trường cơ
sở” (grundskola) so sánh với “trường hỗn hợp” (comprehensiive
school) ở nước mình. Người ta đã tập hợp các thông tin ờ miức
tối đa về loại hình trường mới này, và thây cần hiểu chung vé
hệ thống giáo dục Thuỵ Điển và vị trí của trường cơ sờ troing
hệ thông đó. Nhưng ngoài ra người ta cũng cần theo rõi các
cuộc cải cách giáo dục của Thuỵ Điển, trong đó trường cơ sứ
là một bộ phận, để hiểu được những lý luận giáo dục và xã
hội làm cơ sở cho các cuộc cải cách, hoặc xem xét sự pliiát
triển giáo dục như là kết quả của sự tác động lẫn nhau giiữa
các lực lượng chính trị, xã hội, kinh tế và giáo dục.
Giả dụ người ta nghiên cứu một đề tài về những sự thiav
đổi chương trình các môn khoa học xã hội ở năm nước đuíỢc
coi là dẫn đầu trong lĩnh vực này. Sau khi mô tả và phân tíích
nội dung các chương trình riêng của từng nước, người ta pltià
chuyển sang phân tích các bôi cảnh của sự phát triển.
Nói tóm lại khi nghiên cứu so sánh giáo dục, cần phiâi
biệt giữa cái riêng và cái chung, nhưng cái riêng nằm tro>nị
GilÁ) DUC SO SÁNH 93
c ái -'hung, cho nên chúng không tách rời nhau, mà phái kết
hiỢỊ với nhau khi xem xét và phán tích, đặc hiệt là luôn phái
li êi hệ với bôi cảnh.
trường liợp được chọn lựa đẽ kiếm nghiệm già thu vết trên sẽ
bao gồm một loạt các xã hội có các hệ thống xã hội với các
mức dô mở từ thấp nhất dến cao nhát.
hợp có những nhận định về giáo dục đỏi lập với nhau hoàn
toàn ở cùng một xã hội trong đó yếu tô khác nhau quan trọng
nhất là quan điểm về giá trị riêng của người quan sát.
Thành kiến và thiên vị có thể nảy sinh từ các quan diêm
chính trị, điều đó mọi người đều công nhận và cho phép,
nhung nguồn gốc của nó trong nhận thức không được chấp
nhận thoải mái hoặc thậm chí còn hoài nghi. Một giảng viên
dạy Giáo dục so sánh ở một nước đã từng liệt kê một sỏ nước
và hỏi học viên phát biểu ngay cảm giác của mình vổ từng
nước về ý định iấy đó làm đối tượng so sánh trong giáo dục.
Giảng viên đó phát hiện ra rằng trước khi bắt dầu học tập
chính quy về giáo dục, người ta đã từng có các cảm giác và
định kiến, thiên vị về từng đất nước, và đôi khi về cả con
người ở đó. Thảo luận với nhau đê tìm ra nguồn gốc của các
cảm giác này, các học viên phát hiện ra rằng rất ít người (iựa
vào kinh nghiệm trực tiếp của cá nhân, và hầu hết là tiếp nhận
từ những người đi trước. Vài người phản ánh các khuôn mẫu
đặc biệt của các nhóm nước khác, một số khác đề cao kinh
nghiệm của gia đình và bạn bè trong các trường hợp đã ra
nước ngoài. Một số khác lại dựa trên sự diễn tả vai trò của
từng nước trong các sự kiện của thế giới hiện tại, và một sò
khác nữa lại nêu lên phản ứng với các khuôn mầu thường
được thảo luận ở bản thân đất nước mình và trong nhân dân
nước mình.
Dĩ nhiên, sự khác nhau về nhận thức, cách diễn tả và quan
điểm là không thể tránh khỏi, và như vậy nhiệm vụ của người
GIAO DUC so SÁNH 97
m>hien cứu so sánh giáo dục không chi là lìm tòi một sự cân
banu và tránh những sự thành kiến và thiên vị lộ liỏu trong
cỏn«c tác cua mình, mà còn là khuyến
J khích nhữnc
<-• người
<-■ khác
cõng Iihặn có những mỏi nguy hiếm cần đồ phòng do thành
kiến và itiiẽn vị gáy ra. Trên thực tê, đó cũng là một trong
những dóng góp của người nghiên cứu món Giáo dục so sánh'".
Các diêu hướng dẫn kế trên về nguyên tác khi nghiên cứu
so sanh giáo dục, được tập hợp lại từ các tài liệu cùa một sỏ
lác già, kèm theo các thí dụ minh hoạ, có thê coi mới chi là
một phác thảo sơ bộ nhằm mục đích rõ ràng là giúp cho
những ngưừi mới nghiên cứu Giáo dục so sánh tránh dược
những sai lầm đáng tiếc ảnh hưởng xâu đến kết quả nghiên
c ứu cùa mình. Nội dung chương này còn chưa đáy đủ. rất cần
(lược hổ sung và phát triển tiếp cho hoàn chỉnh hơn và trờ
ĩ hành một phán riêng của giáo trình nói về các nguyên tắc khi
nghién cứu so sánh giáo dục.
1. Tại sao trước khi học các cách tiếp cận và phương pháp,
ta cần biết một số điểu hướng dẫn nghiên cứu so sánh
giáo dục?
2. Làm cách nào để phân biệt một để tài nghiên cứu thuộc
hay không thuộc lĩnh vực của Giáo dục so sánh?
3. Tại sao thu thập thông tin và số liệu xác thực ià quan
trọng và đáng chú ý đối với đề tài nghiên cứu thuộc hay
không thuộc lĩnh vạrc của Giáo dục so sánh hơn là thuộc
các lĩnh vực khác?
4. Để nghiên cứu so sánh giáo dục, có thê dựa vào các
nguồn số liệu nào?
5. Thử chọn một đề tài nghiên cứu so sánh giáo dục và chỉ
rõ cần chú ý các điều hướng dẫn nào xếp theo thứ tự từ
1. đến 7.
C H Ư O N G IV
C Á C C Á C H T IẾ P C Ậ N N G H IÊ N c ứ u
S O S Á N H G I Á O D Ụ# C %
MỞ ĐẦU
Các cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu so sánh
giáo dục là một chủ đề đã được nhiểu học giả trình bày hơn
nửa thế kỷ vừa qua. Về từ ngữ, các tác giả dùng các thuật ngữ
khác nhau để nói về chủ để này: Theo các tài liệu tham khảo,
người ta đã dùng trong tiếng Anh các từ “cách tiếp cận so
sánh” (Comparative Approach, Mellviile J. Herskovits,
1949), “phương pháp so sánh” (Com parative Method, George
Bereday, 1960; Phillip Jones, 1972), “phương pháp luận so
100 NGUYẾN TIÊN ĐẠT
Dưới đây nêu sự khác nhau cơ bản giữa cách tiếp cận,
phương pháp và kỹ thuật.51
Có tính chất tièn đề Có tính chất quy trình Có tính chất thực thi
(có chất lượng hoăc (bao gổm một loạt các (có một sự áp dụng trực
nguyên tắc hoặc quy tắc hành động được sắp tiếp ở nơi thực hiện, có
được chấp nhân chúng xếp một cach iôgic để đãc điểm riêng, có tính
dùng làm cơ sỏ cho toàn hoạt động trôi chảy môt khả thi và thuận tiện cho
bộ quá trình). nhiệm vụ cụ thể). việc sử dụng).
Giới thiệu các cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
so sánh giáo dục là một nhiệm vụ khó khăn và nặng nề trong
các giáo trình Giáo dục so sánh, bời vì phạm vi này rất rộng,
mặt khác các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này rất quan tâm
và xác định nhiệm vụ này bằng các cách khác nhau cũng như
sử dụng một loạt các phương pháp và quy trình không giống
nhau. Tuy nhiên ở trình độ phát triển hiện nay của giáo trình
này, việc giới thiệu ấy vẫn phải làm, và trong nhiều năm qua,
có sự áp dụng các khung phương pháp luận của các môn khoa
học xã hội, mà bản thân các môn này cũng còn các vấn đề
phải nghiên cứu tiếp.
Trong tình hình này không thể cung cấp một hộ thống
hoàn chỉnh các cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu so
sánh giáo dục. Cách trình bày giúp ích nhiều nhất cho các nhà
nghiên cứu là mô tả và thảo luận những gì mà các học giả dẫn
đầu trong lĩnh vực này đã nêu lên, các cách tiếp cận của họ
không chỉ khác nhau, mà được mọi người tìm đọc rộng rãi và
vcu can phát triển hơn nữa. Dù rằng các tác giả như Issac
Kandel và Nicholas Hans không còn sông dương thời, những
nghiên cứu cùa hai ỏng trong lĩnh vực này và ành hường về sau
của họ đòi hỏi các cách tiếp cận của họ được kiểm tra lại. đặc
biệt là phán xem xét vị trí của các nghiên cứu lịch sử trong
Giáo dục so sánh. Sự đóng góp độc đáo của George Bcrcdav
trong việc áp dụng cách tiếp cận liên món vào nghiên cứu so
sánh giáo dục, sự tìm tòi của Brian Holmes về một phương
pháp khoa học chặt chẽ hơn thông qua cách tiếp cận vấn đé, sự
khám phá của Edmund King về cách tiếp cận mục đích và mối
quan tâm của ỏng về các nghiên cứu hướng vào chính sách, sự
cô gắng của Harold Noah và Max Eckstein đặt thẳng Giáo dục
so sánh vào lĩnh vực nghiên cứu của khoa học xã hội, tất cả
những điều kể trên đòi hỏi chúng ta phải đặc biệt chú ý.
DI nhiên một sự giới thiệu chung tất cả các cách tiếp cận
không bao giờ có thể thay thế được việc đọc cẩn thận và xem
xét kỹ tác phẩm “gốc” cùa các tác giả kể trên, và trong sự
phân tích cuối cùng cũng không thể đánh gjá được những sự
đóng góp cùa họ nhiều năm qua. Tuy nhiên việc đó có thể
cung cấp một cái nhìn tổng quan cho những người mới bước
vào nghiên cứu so sánh giáo dục về một sô nét chủ yếu trong
Giáo dục so sánh, về một sô vấn đề trung tâm trong việc cô
gắng phát triển các phương pháp nghiên cứu đúng đắn và có
hiệu quả. Sau khi đã học qua các ví dụ tiêu biểu về một số
cách tiếp cận, học vicn có the mạnh dạn theo đuổi các phương
pháp riêng của mình hoặc đi sâu vào các vấn đề chi tiết hơn
thông qua các tài liệu tham khảo hoặc thông qua các nghiên
cứu tình huống.
104 NGUYỄN TIỂN ĐẠT
Trong sở các sách nổi tiếng nhất của Isaac Kandcl có cuốn Lịch sử giáo (lục
trung học ịHistory o f Secondary Education), Harrap, 1931, Giáo dục so sánh
ịConiỊXirative Education), Houghton Miflin, 1933, Các loại hình quán lý giáo
dục (Types o f Administration), Melbourne University Press, 1938 và Sự tôn
sùng tíulỉ bất định (The Cult o f Uncertainty), A m o Press, 1943. Ong sang
Ỏxtrâylia thỉnh giảng cùng một nhóm chuyên gia giáo dục quốc tê do Quv học
bổng Giáo dục mới năm 1937 tài irợ. Một vài suy nghĩ của ông viết trong cuốn
sách Các loại hìnli quán lý giáo dục, trong đó, ổng nôu hộ thông giáo dục cúa
Oxtrâylia là “nén giáo dục nhầm vào hiệu quả”. Ồng cho xuất ban sách Niên
giám thống kê giáo dục (Educational Yearbook) từ nủm 1924 đến 1944. Nhà
trường v à XÜ h ộ i (School and Society) từ năĩp 1946 đốn 1953 và Tap chí hàng
quý Trường đại học (University Quarterly) từ năm 1948 đốn 1959. Khi ông
mát các điếu vàn được in trong Tạp chí Giáo dục so sánh (The Comparative
Review ix. 3!1965) do George Be red ay viết và trong Tạp chí Quốc tế về Giáo
dục (International Review ix, 3ỈI965) do Robert Ulich viết.
GIÁO DUC SO SÁNH
cliũt “mó tá (Um thuần”, trong khi những điéu hay trong đó lại
khõng truyền dược từ nước này sang nước kia; hai là những
nghiên cứu dó viết theo quan điểm giáo dục dưn độc, không
có sự xem xét bối cảnh văn hoá và giải thích; ba là những
Iighiõn cứu đỏ hiếm khi cô gắng xác định các xu hướng hoặc
các nguyên tấc chung; và bôn là những nghiên cứu đó nhận
định rằng mỗi hệ thống giáo dục là độc đáo, cho nên thực tiễn
của nó và tư tưởng mà nó dựa vào không thê áp dụng cho
nước khẩc dược. Dù ràng Kandel không chuyển những lời phê
bình kể trên thành lời phát biểu tích cực, mọi người đã thấy là
hợp lý khi dưa ra kết luận rằng những nghiên cứu so sánh
giáo dục cần phải thừa nhận khả nâng chuyển giao và khả
nang áp dụng các tư tưởng giáo dục từ nước này sang nước
kia, cần phải biến chuyển từ chỗ mỏ tá sang chỗ phân tích và
giải thích trong bối cảnh chính trị, xã hội và vãn hoá, và cần
phải cỏ gắng xác định các xu thế và các nguyên tắc cho việc
áp dụng chung. Các bước nghiên cứu so sánh giáo dục lập
thành một chuỗi nối tiếp nhau, và được kiến nghị sắp xếp theo
thứ tự như sau: Bước đầu là mô tả, tiếp theo sau là giải thích,
rồi dến pliân tích so sánh, và cuối cùng là xác dịnh các mô
hình, xu thê lioặc nguyên tắc của giáo dục.
Nhưng một câu hỏi đặt ra là: Cái gì cẩn được mô tả, giải
thích hoặc so sánh? Đối với Kanđel, điểm xuất phát là các
vấn đề mà mỗi nước gặp phải. Thí dụ như: Ai là người quản
lý g áo dục học sinh? Xã hội và Nhà nước có trách nhiệm đến
đâu đối với giáo dục? Tự do có nghĩa là gì trong một xã hội
trât :ự? Phạm vi của giáo dục trước tiểu học, tiểu học và trung
học đến dâu? Chương trình giảng dạy nên là thế nào? Ai là
ngươi làm ra chương trình giảng dạy? Quàn lý và tổ chức việc
108 NGUYỄN TIẾN ĐAr
giáo dục nên tập trung hay phân cấp, nghĩa là nên tập trung <v
trung ương hav phân cấp về địa phương?
Đi sâu vào các bước nghiên cứu nối tiếp nhau, cách tiếp
cận nghiên cứu của Kandel có thể trình bày thành một quy
trình như sau:
1) Mỏ tả: Đó là nêu lên các mặt lý luận và thực tiễn cho
một hoặc nhiểu vấn đề chung của tất cả các nước. Tuy nhiên
“nội dung sẽ là nghèo nàn và khô khan nếu chỉ nghiên cứu bộ
máy, tổ chức và quản lý hệ thống giáo dục, chương trình và
quá trình dạy học, các quy trình thực hiện trong lớp học”,
Kandel viết như vậy. Do đó cần có bước tiếp sau:
2) Giải thích hoặc diễn giải: Đó là làm rõ các nguyên
nhân đã nảy sinh ra các vân đề đã nêu trong phấn mô tả.
Kandel viết: “Để đánh giá ý nghĩa thực chất của hệ thông
giáo dục một nước, cần phải biết một sô điểm về lịch sử và
truyền thống nước đó, về các nguồn lực và quan điểm chi
phối tổ chức xã hội nước đó, về các điều kiện chính trị và xã
hội xác định sự phát triển nước đó”. Như vậy theo Kandel
nghiên cứu so sánh bắt đầu bằng “sự đánh giá các nguồn lực
không sờ thấy và khó cảm thấy được thuộc về tinh thần và xã
hội làm cơ sở cho hệ thông giáo dục” và “dựa trên một sự giải
thích rõ các tư tưởng chính trị và xã hội mà nhà trường phản
ánh...”. Do đó ở bước thứ hai này, người nghiên cứu so sánh
giáo dục chủ yếu dùng các phương pháp của nhà sử học đò
giải thích tại sao có những sự sắp xếp đặc biệt và những thực
tiẽn trong giáo dục đã từng phát triển trong mỗi nước mà ta
nghiên cứu. Tiếp theo sau là bước thứ ba:
GIAO DUC SO SÁNH
tại, mờ ra các mối quan hệ mật thiết cần phải tồn tại giữa giáo
dục và mô hình văn hoá của nhóm nước mà nó phục vụ. Trêu
thực tế, không thể hiểu một hệ thống giáo dục và sự khác
nhau giữa các hệ thống, nếu không đi sâu vào đàng sau các họ
thống để khám phá ra những ảnh hưởng giúp vào sự hình
thành nên các hệ thống đó”.
Trong bài báo viết nãm 1959 về cách tiếp cận nghiên cứu
so sánh giáo dục, ông nhắc lại điểm kể trên và viết rằng:
“Liên quan đến cách tiếp cận nghiên cứu, Giáo dục so sánh
được coi là bộ môn tiếp tục sự nghiên cứu Lịch sử giáo dục
cho tới ngày nay”.
giữa giáo dục và chủ nghĩa dân tộc, sự phát triến cúa các hệ
thông giáo dục coi như những sự phản ánh và biên chuyến
của dặc điểm quốc gia, dược trình bày trong hai chương đầu
trong cuốn sách của ông.
Sau khi đã thiết lập nên cái khung chung cho các tài liệu
tham khảo về cách tiếp cận nghiên cứu so sánh giáo dục,
Kandel bàn thèm đến một loạt vấn đé bổ sung như: Nhà nước
và giáo dục, tổ chức các hệ thống giáo dục quốc gia, quản lý
giáo dục, giáo dục tiểu học, giáo dục trung học, và sự đào tạo
giáo viên các trường tiểu học và trung học của từng nước
trong “sáu phòng thí nghiệm giáo dục dẫn đầu thế giới”. Các
chương đéu bắt đầu hằng một phát biểu chung về vấn để và
tiến hành mò tả tình hình trong từng nước, sau đó diễn giải
tình hình dó về các mặt lịch sử rộng, có tham khảo các mục
tiêu và các nét đặc trung quốc gia. Trên thực tế, có thê nói
rằng phần lớn của cuốn sách đề cập đến một loạt nghiên cứu
tình huống có sự đôi chiếu, không phủi là so sánh, vì có sự
hạn chế trong những phát biểu tổng quan khi mở dầu mỗi
chương, nhưng những phát biểu đó thu hút sự chú ý của mọi
người vé các xu thế và các mô hình.
Một kho khăn chủ yếu đối với Kandel là khôi lượng tài
liệu không quản lý được quá lớn để có thể khái quát hoá cho
sáu hệ thông giáo dục quốc gia, khi mà mỗi hệ thống phải
được mổ tả sau đó được phân tích về mặt các nguồn lực chính
trị, kinh tế và văn hoá đã sản sinh ra nó. Kandel vấp phải ở
đây một vân đề mà mọi người nghiên cứu so sánh giáo dục
đều thường gặp. Giải pháp của ỏng là sử dụng một cách tiếp
cận lịch sử bao trùm rộng rãi về khoảng cách thời gian, sử
112 NGUYỄN TIẾN ĐẠT
dụng chú nghĩa dàn tộc và đặc điểm quốc gia làm quan điếm
đc xác định và giải thích vấn đề. Tác phẩm của ông cũng gây
nên những sự phê phán, tranh cãi về cả hai mặt ưu và nhược
điểm, và cần có sự thảo luận tiếp.
Dù rằng Kandel nói rằng cách tiếp cận của ỏng là một
sự “tiếp tục nghiên cứu Lịch sử giáo dục cho tới ngày nay”,
trên thực tế khó có thể đưa gọn nó vào một phạm trù hay cơ
cấu khung của một môn khoa học. Các bài viết của ông
không bị bó hẹp chắc chắn trong một môn học xác định hẹp
nào. Thực vậy, năm 1959, ông viết: “Nghiên cứu so sánh
giáo dục là một sự nghiên cứu liên môn” và đề nghị rằng
người nghiên cứu so sánh giáo dục phải làm quen với tình
hình các nước khác thông qua ngôn ngữ và du lịch, do đó
cần có kiến thức nhiều mặt về Lý luận chính trị, Lịch sử giáo
dục và Kinh tế hục.
Kandel là một học giả uyên bác, và qua các bài viết của
ông người ta thấy ông là một người đọc nhiều, hiểu sâu và
biết rộng. Chắc chắn là ông không theo các tiêu chuẩn của sử
ký, mà làm cho độc giả có thể kiểm tra lại các nguồn tài liệu
của ông hoặc xem xét lại chứng cứ của ông một cách độc lập.
Thí dụ, có rất ít tư liệu trong các sách của ông. Thực vậy, đó
là một phần lý do tại sao khiến Noah và Eckstein cho rằng
các kết luận của ông thực sự là các giả thuyết đang chờ mộ!
sự kiểm nghiệm lại, và điểm mạnh trong nghiên cứu tình
huống của ông là ở chỗ uy tín cá nhân cùa ông chứ chưa phải
là những nghiên cứu khách quan có thể lập lại hoặc là để tài
được người khác kiểm nghiệm. Ý kiến bảo vệ cho Kandel cho
GIÁO DUC SO SÁNH 113
ràng cóng trình cùa ỏng là điển hình thiên vổ cách viết triết lý
lịch sử ở cái thời cúa ông, và (rong mọi trường hơp các kết
luận của ống bao giờ cũng mở ra các ý kiến đồng tình hoặc
phàn bác của các học già khác. Một sô các ý kiến phê phán
của họ được nêu trong cuốn sách Nhập môn Giáo dục so sánh
cua Alan Trethevvey, trong đó có mấy V sau đây: Tên gọi cách
tiếp cận là nghiên cứu lịch sử nhưng có quá ít chỗ phán tích
lịch sư trong so sánh giáo dục hiện đại; chi dùng đặc điểm
quốc gia và bản sắc dân tộc dê giải thích sự khác nhau về cơ
cáu và chính sách giáo dục của các nước thì chưa đủ; mức độ
khái quát của kết quả nghiên cứu cũng bị hạn chế, không dẫn
tới các nguyên tắc và lý luận trong giáo dục; cách tiếp cận
này cần đến một sô lượng lớn thòng tin và tư liệu, dễ biến
mòn Giáo dục so sánh thành môn Sử ký56.
Khi ỏng thấy điều này, Giáo dục so sánh đã đang đi theo
cung một con đường của các môn học so sánh khác như Luật
học so sánh, Tôn giáo so sánh và Giải phẫu học so sánh. Các
môn này bắt đầu so sánh các tổ chức thê chế hoặc cơ quan
cũng như các bộ phận của con người, tìm chứng cứ của những
nguồn gốc chung và sự phân hoá khác nhau qua sự phát triển
lịch sử. và rồi thì không thê tránh được, òng nói, đã tìm cách
néu lên các nguycn tắc khái quát đứng đầng sau những sự
khác nhau đó. Giáo dục so sánh cũng như vậy, bao hàm việc
mô tả và so sánh các hiện tượng đang tồn tại trong giáo dục,
phân tích sự giống nhau và khác nhau thông qua nghiên cứu
lịch sử, và cố gắng rút ra các nguyên tắc khái quát đứng đằng
sau những sự khác nhau.
Tuy nhiên Hans viết nãm 1949 rằng nhiệm vụ này thực
sự chỉ mới hắt đầu. Bước đầu tiên là “nghiên cứu mỗi hệ
thống giáo dục quốc dân trong hoàn cảnh lịch sử cùa nó một
cách riêng biệt và trong mối liên hệ chặt chẽ với sự phát triển
của bản sắc dàn tộc và vãn hoá”.60 Việc này ông coi là công
việc của nhà nghiên cứu triết học và lịch sử, và vẫn còn được
thực hiện ở nhiều nước.
^ Nicholas llans: Com ixirative Educalion, Routledge and Kegan Paul, London,
1964.
116 NGUYỄN TIẾN ĐẠI
Bước thứ hai là thu thập các dữ liệu về các hệ thống giáo
dục hiện có. Các dữ liệu này có thê’ bao gồm các sô liệu thông
kê về quản lý và tổ chức giáo dục, các trắc nghiệm về trình độ
trí tuệ và thành tích đạt được, nhưng ở thời đó, Hans coi như
việc này chưa được phát triển thích đáng và có quá nhiều vấn
đề để xây dựng các nền móng cho so sánh giáo dục quốc tế.
Giống như Kandel, ông xoay sang một cách tiếp cận khác, lập
luận rằng: “...các hệ thống giáo dục quốc dân cũng như hiến
pháp của các nước và văn học dân tộc là những biểu hiện bên
ngoài của bản sắc dân tộc và như vậy đại diện cho một quốc
gia khác biệt với các quốc gia khác. Nếu chúng ta có thể tách
bạch và phân tích các nhân tô' đã là tích cực về mặt lịch sử tạo
nên các quốc gia khác nhau, chúng ta phải đi một con đường
dài đến một định nghĩa về các nguyên tắc làm cơ sở cho các
hệ thống giáo dục quốc dân”.33
Tuy nhiên trong khi dùng quan niệm đặc điểm quốc gia
và một cách tiếp cận lịch sử, Hans khác với Kandei ờ cách mà
ông xác định, tách bạch và phân tích các nhân tố giúp tạo nên
và tiếp tục gây ảnh hưởng cho các hệ thống giáo dục quốc dân
khác nhau. Ông cung cấp một cơ cấu khung phát triển hơn
nữa cho những nghiên cứu so sánh, đồng thời đó là câu trả lời
của ông cho khó khăn gây ra bởi việc thu thập và khả năng
quản lý số liệu.
Theo quan điểm của ỏng, sự phát triển các quốc gia (và
bản sắc dân tộc) đã chịu ảnh hưởng của ba nhóm nhân tô' sau
đây: tự nhiên, tôn giáo và chủ nghĩa.
Trong nhóm tôn ịỊÍáo có các tôn giáo khác nhau như
Thiên chúa giáo, Hổi giáo, Ân Độ giáo, và các tôn giáo
pliưong Đông như Phật giáo, Khổng giáo, Thần giáo... Vì
cuốn sách của ông viết cho sinh viên trong thê giới nói tiếng
Anh, óng giới hạn việc thảo luận các nhân tô tôn giáo ở Cơ
dốc giáo, Công giáo, Anh giáo và Thanh giáo.
Trong nhóm chù nghĩa có chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa dân tộc. Trong nhóm này Hans còn bàn cả
đến mỗi quan hệ giữa dân chủ và giáo dục, nêu lên định nghia
dán chủ, dân chủ chính trị và dân chủ xã hội, bình đảng về cơ
hội được giáo dục, quan niệm phương Đông và phương Tây,
nhà nước và nhà thờ, độc quyền và không độc quyền, giáo
dục phụ nữ.
Trong tác phẩm của ông, Hans nói về từng nhân tố, xác
định các nhân tô ấy là tổn tại và các ảnh hưởng chính là chấp
nhận được, tiếp theo là sự giải thích những sự khác nhau giữa
các hệ thống giáo dục tìm ra qua tác động tương hỗ giữa các
hệ thống. Dĩ nhiên sự phân tích tổng quát là rất khó và Hans
cho phép có những nghiên cứu riêng biệt về từng nước hoặc
ảnh hưởng của một nhân tố đến một hệ thống giáo dục. Thực
vậy, các nhân tô phối hợp với nhau không chỉ cung cấp một
sơ đồ hợp lý hoặc một cơ cấu khung cho sự phân tích, mà còn
đại diện cho các lĩnh vực vấn đề có giá trị cho bản thân việc
nghiên cứu so sánh.
Đóng gổp của Hans do đó không chỉ là cung cấp một
phiên bản vượt qua Đại Tây Dương của cách tiếp cận Kandel,
dù rằng công việc của hai người có nhiều nét chung. Sự đóng
góp đặc biệt của ông là phát triển một cơ cấu khung cho
nghiên cứu so sánh giáo dục bao gồm các nhân tố mà ông tin
118 NGUYỄN TIÉN ĐẠT
rằng đại diện cho các lực lượng sinh dộng và thường xuyên
hình thành nên các quốc gia cũng như các hệ thông giáo dục.
Giá trị của một cơ cấu khung như vậy là ở trật tự hoặc cấu
trúc mà nó đề ra với một khối lượng dữ liệu liên quan không
thể quản lý được do tiềm lực hạn chế, dĩ nhiên áp dụng được
và có ích trong nghiên cứu. Tuy nhiên cần nhớ rằng đó là mội
cấu trúc đề ra thời đó và có thể còn có các cấu trúc khác và
cũng hữu ích, vì thế không nên cho rằng nó đã hoàn hảo và
người ta có thể luôn cải tiến để có một cấu trúc tốt hơn.
Hai mục dưới đây bổ sung cho việc thảo luận về các cách
tiếp cận của Kandel và Hans trong so sánh giáo dục, đặc biệt
là chúng ta xem xét về ứng dụng của chúng cho tới ngày nay.
Mục thứ nhất liên quan đến vị trí của đặc điểm quốc gia trong
những nghiên cứu so sánh, và mục thứ hai liên quan dến cái
gọi là cách tiếp cận lịch sử.
Hans thấy được các xu hướng các nhóm dân tộc khác
nhau có các hành vi khác nhau là do “một kết quả tổng hợp của
sự hỗn hợp dân tộc, thích nghi ngôn ngữ, trào lun tôn giáo, tình
Qua nhiều năm, đặc điểm quốc gia đã được sử dụng theo
hai cách: Một là mô tả những gì người ta nghĩ là các nét đặc
trirrụ riêng biệt của quốc gia, và hai là giải thích sự phát triển
quốc gia. và trong trường hợp này là các chính sách và thực
tiễn íỉiáo dục. Cả hai cách sử dụng đều có vấn để. Xu hướng
gộp các quốc gia hoặc chủng tộc khác vào cùng một phe là
rấtOmạnh, dù theo hướng ca ngợi hoặc chê bai. Ông nhắc nhớ
độc »iả rằng: “ ...c ó một sự nguy hiểm lớn khi sử dụng một sự
khái quát hoá thành đặc điểm quốc gia. Không có gì có hại
cho tiến bộ của sự hiểu biết quốc tế hơn là những điều khái
quát hoá gắn liền các phe với các nhóm quốc gia khác nhau,
và tất cả các phe đều đáng chỉ trích nhiều hơn nêu trở thành
cố định trong ý nghĩ không thắc mắc và chưa chín chắn”.64
Nhóm câu hỏi thứ nhát liên quan đến bản thân khái
niệm. Thí dụ, tất cả những người ú c, hoặc Nhật, hoặc Mỹ có
phài hành động theo các cách như nhau trước khi hành vi của
họ là đặc tính quốc gia? Hav là chỉ có 50% hoặc 60%? Ỏ
điểm nào và theo tiêu chí nào các nét đặc trưng về một tỷ lệ
trở thành đặc điểm quốc gia? Tại một nước người dân có thể
được xác định những ai quen thuộc với ngôn ngữ trong địa
phương mình và ngôn ngữ của người đến từ miền Bắc, miền
Trung hav miền Nam. Vậy thì thê nào là mối quan hệ giữa
đặc điếm địa phương và đặc điểm quốc gia, hoặc giữa đặc
điểm quốc gia và đặc điểm xã hội? Yếu tô chung nổi trội nào
cùng chia sỏ trong đặc điểm quốc gia giữa một nông dân
miền Bắc, một công nhân khuân vác cảng miền Nam và một
bà dòng dõi quý tộc miền Trung? Nói cách khác, những gì
thực sự là cơ sở cho những đặc điểm quốc gia, và làm thế nào
ta làm cho khái niệm này chính xác, có ý nghĩa và có the sử
dụng được?
Mộl câu hỏi khác là đặc điểm quốc gia có thay đổi theo
thời gian hay không? Nếu có, thì hình như là chỉ hợp lý khi ta
xem xét bàn chất thời gian của các nhân tô đã tạo ra đặc điểm
quốc gia, ta có thể làm thế nào để phát hiện ra những đổi thay
dã xảv ra? Có một điều lạ là những mô tả về đặc điểm quốc
gia Anh nẻu ra do Sadler năm 1900, Kandel năm 1930 và
Mallinson năm 1950 hầu như đổng nhất với nhau. Liệu trong
122 NGUYEN Tl£:N OAT
tram nam qua co nhung bien d6i rat manh trong cac diCu kien
xa hoi va kinh te nude Anh ma khong tac dong gi den dac
diem quoc gia Anh. Rieng v£ giao due, sir phat trien va van
hanh mot he thong giao due dai ehung trong thdi gian qua
lam thi du co phai la da khong co tac dong gi den ngudi Anh?
Mot nhom cau hoi thu hai cung chan lai con duefng sir
dung khai niem dac diem quoc gia. Thi du, phai chang la hop
ly khi giai thich lich sir giao due nude Anh b^ng su khong ira
thich ciia ngudi Anh trong viec lap ke hoach, hay xu huong
thoa hiep ciia ho, hoac lam cho van d£ trd nen roi tung? Lieu
co kha thi neu nhu de nghi r^ng nhung sir phat trien khac
nhau la san pham cua cac xu huong “dac diem trong cac xa
hoi co y thiic giai cap, co tinh chat quy toe, va theo thuyet dan
lap”, nhu Kazamias va Massialas de nghi65? Boi vi dac diem
quoc gia la mot thu khai niem dua tren co so khai quat va chu
quan, no cung cap mot n£n tang nong can cho nhung lap luan
ve su tao nen ket qua trong lich sir. DI nhien do la mot vong
tuan hoan - lich sir, truyen thong, trinh do tri tue nuoc Anh,
va tir do san sinh ra dac diem quoc gia Anh de’ lai tac dong
vao lich sir, truyen thong, trinh do tri tue nude Anh.
Trên thực tế, sự tác động của các khoa học xã hội và sự
chuyên môn hoá ngày càng tăng rất đáng kể đã trở thành một
xu thế mạnh mẽ để gạt bỏ cách tiếp cận cũ đặc trưng cho
“phương pháp lịch sử” của Giáo dục so sánh. Thí dụ, người ta
đề nghị rằng một sự hiểu biết các nhân tô' khác nhau gắn với
quá khứ để sản sinh ra các hệ thống hoặc các vấn đề giáo dục
hiện nay thì ít có ý nghĩa hơn giải pháp cho các vấn đé và sự
phát triển các k ế hoạch và chiến lược dài hạn dựa trên một sự
hiểu biết động lực của hệ thống giáo dục và các mối quan họ
của nó với các hệ thống khác của xã hội.
quan và thiếu sự chặt chẽ, và phương pháp của một nhà khoa
học xã hội bao giờ cũng khách quan và chặt chẽ.
Trên thực tế, những gì xảy ra nổi bật trong tình hình lộn
xộn trước đây là một sự nhận thức ngày càng tàng về những vai
trò bổ sung của nhiều môn học thích hợp cho việc nghiên cứu
giáo dục. Câu hỏi không phải là một cách tiếp cận đặc biệt nào
là có thể chấp nhận được hcm cả, mà là những cách tiếp cận
nào tạo ra được các câu trả lời có giá trị nhất cho một vấn đé
hoặc một nhóm vấn đề đặc biệt. Một số vấn đề có thể được giải
quyết tốt nhất do một nhà kinh tế học, một sỏ khác do một nhà
khoa học chính trị, một số khác lại do một nhà xã hội học hoặc
một nhà sử học, hoặc độc lập hoặc hợp tác với nhau.
Trong những trường hợp này ta có thể đồng ý với Hans
rằng một sự hiểu biết về bối cảnh lịch sử là không thể thiếu
được đê diễn đạt một số lớn các số liệu so sánh đối với các vấn
để và các mối quan hộ hiện tại, ít khi chỉ có riêng hiện tại, mà
có cả quá khứ, chắc chắn là nhà sử học có thể làm sáng tỏ tốt
nhất. Bằng cách này nhà sử học có thể bổ sung cho công việc
của những người khác, hoặc khi có vấn đề thích hợp có thể tiến
hành việc nghiên cứu so sánh riêng của bản thân mình. Và nếu
làm được như vậy, nhà sử học có thể tìm thấy một sự cải tiến
rất có giá trị hỗ trợ cho phương pháp của Kandel và Hans.
Điều cơ bản ở đây là công nhận những điểm mạnh và
những điểm hạn chế của các môn học khác nhau và để ra các
nhiệm vụ thích hợp cho các môn đó. D ĩ nhiên điều này làm
nảy sinh một số vấn để, quan trọng nhất là những vấn đế liên
quan đến mối quan hệ giữa Giáo dục so sánh với nhiều môn
học khác có thể đóng góp cho nó, và do đó liên quan đến bản
chất của bản thân môn này. Chúng ta cần biết các nhà nghiên
GIAO DUC SO SÁNH 127
cứu vé cách tiếp cận nghiên cứu so sánh giáo dục trá lời câu
hói này như thế nào trong phán tiếp sau eúa chương này.
George Bereday, Giám đốc Trung tâm G iáo dục các nước
Công nghiệp, thuộc Viện Nghiên cứu G iáo dục Quốc tế,
Đại học Columbia. Ông là Chủ tịch Hội Giáo dục so sánh,
Tổng biên tập tạp chí của Hội, biên tập viên Niên giám
Thống kê Giáo dục Thế giới, một nhà du lịch thế giới và
chuyên gia tư vấn quốc tế. tác giả của nhiều tác phẩm giáo
dục về Mỹ và đặc biệt là về Liên Xô. Ân tượng rõ nhất
trong cách tiếp cận so sánh giáo dục của ông trình bày
trong cuốn sách Phương pháp so sánh trong giáo dục
(1964) và trong bài báo Những suy nghĩ vể phương pháp
luận so sánh trong giáo dục (1 9 6 4 -1 9 6 6 ).66
Bereday viết trong lúc có sự bột phát của môi quan tâm
trong lĩnh vực Giáo dục so sánh và có sự lộn xộn vể một định
nghĩa thích hợp cho môn này, ông lập luận rằng Ciiáo dục so
sánh không thể được mô tả bằng thuật ngữ của một môn học
nào, mà nhiệm vụ của nó là “đưa nhiều môi quan hộ của các
khoa học nhân văn và xã hội cùng vận dụng vào bối cảnh địa
dư của giáo dục”.67 Đ ối với ông, Giáo dục so sánh không phải
là lịch sử hiện đại của giáo dục, hoặc là một nhánh của xã hội
học giáo dục hay khoa học chính trị, mà có thể bao gồm tất cả
các môn kể trên và nhiều hơn nữa. Mối quan tâm của môn
này là tìm ra các bài học để rút ra được từ sự khác biệt trong
thực tiễn giáo dục ở các nước khác nhau, và ỏng cho rằng các
bài học này có thể rút ra được hiệu quả hơn bằng cách áp
dung các phương pháp của nhiều môn khoa học liên quan. Tuy
nhiên Bereday đã không dẻ dàng đưa ra định nghĩa phương
pháp so sánh giáo dục vứi tên gọi “tiếp cận liên môn”, vì lý do
la nếu mất đi sự tiếp xúc với một môn học cụ thế dã này sinh ra
nó, thì hình như hạ thấp giá trị các tiêu chuẩn trí tuệ cùa môn
học. Do đó ỏng loay hoay tìm kiếm và đề nghị răng địa lý
chính trị, chính thể so sánh hoặc quan hệ quốc tê có thể là thích
hợp hưn cả. Tuy nhiên đặc điểm liên món trong so sánh giáo
dục là nổi bật nhất trong phương pháp của ông.
Bereday bắt đầu bằng việc phân chia thông thường các
phạm vi thành “nghiên Cidt từiig khu vực liên quan đến từng
nước và từng vùng” và “ nghiên citii so sánh liên quan đổng
thời đến nhiéu nước và nhiều vùng”. Sau đó ông đề nghị mỗi
phạm vi lai phân chia tiếp - nghiên cứu từng khu vực chia
thành hai giai đoạn: mỏ tà và iỊÌái thích hay diễn dạt; nghiên
cứu so sánh chia thành hai giai đoạn: đối chiếu nhau và so
sánh với nhau. Nghiên cứu từng khu vực dĩ nhiên là được
hoàn thành sau hai giai đoạn đầu - mô tả (“thu thập các số
liệu giáo dục thuần tuy”) và giải thích (“vận dụng các phương
pháp của các môn khoa học xã hội khác để diễn đạt các số
liệu giáo dục . . nhung nghiên cứu so sánh bao gồm đầy đủ
cà bốn giai đoạn, hắt đầu vẫn là mô tả và giải thích, sau mới
chuvển sang đôi chiếu nhau (“đối chiếu sơ bộ các sô liệu của
các nước khác nhau đổ đề nghị thiết lập các tiêu chí so sánh”)
và sau cùng là so sánh với nhau (“phân tích đồng thời về giáo
dục vượt qua biên giới quốc gia hoặc vùng”).
mỗi loại nghiên cứu có thể được nghiên cứu hiện nay một
cách đầy đủ hơn. Đặc điểm có giá trị đầu tiên là vị trí trung
tâm, ông dành cho những nghiên cứu từng khu vực. Trên thực
tế, ông viết rất dứt khoát rằng: “sinh viên học Giáo dục so
sánh phải bắt đầu lĩnh hội được sự hiểu biết toàn diện hệ
thống giáo dục của một khu vực văn hoá”, và khẳng định rằng
“nghiên cứu từng khu vực không chỉ là hợp lý mà còn là
không thể thiếu được, đặc biệt xét về mặt những đòi hỏi to lớn
về trang thiết bị và nguồn lực mà một nghiên cứu so sánh sẽ
cần có sau này”.
Tuy nhiên có một câu hỏi trung tâm là chiểu sâu của
nghiên cứu khu vực đến mức độ nào là cần thiết trước khi
GIÁO DUC so SÁNH 131
những nghiên cứu so sánh hữu ích cổ thê bắt đầu, hoặc là có
những yêu cầu nào đé ra cho bản thân những nghicn cứu tùng
kim vực. Bcreday đề ra ba ycu cầu cơ bản sau đây: kiến thức
vé ngôn ngữ trong lĩnh vực nghiên cứu, cư trú ở khu vực đó và
kiếm soát những sự thiên vị thuộc về văn hoá và cá nhân.
Trẽn các cơ sở này. bước đầu tiên là mô tả hệ thống giáo dục
và những thực tiễn ở khu vực đã chọn. Việc này được thực
hiện thông qua một sự phôi hợp giữa đọc sách vở tài liệu và
tham quan tlìực tê trong một chương trình chặt chẽ, và ở đâv
Bereday đưa ra lời góp ý thực tê có giá trị hỗ trợ về nguồn tài
liệu tham khào và nhu cầu thu thập sô liệu một cách hệ thông.
DI nhiên không phải là tất cả các tài liệu thu thập được theo
cách ông đề nghị sẽ thuần tuý thuộc về giáo dục hay thuần
tuý thuộc loại rnô tả, nhưng sự nhấn mạnh chủ yếu ở giai
đoạn này lù thu thập các thông tin đáng tin cậy.
Nhiệm vụ tiếp sau là “trình bày đầy đủ thông tin giáo
dục đã thu thập được về các trường thành một trắc nghiệm về
sự liên quan xã hội” . Ông muôn nói ờ đàv về sự kiểm tra các
sô liệu trong bối cảnh xã hội rộng lớn hơn bằng cách vận
dụng một môn khoa học xã hội và các môn học khác liên
quan. Mực đích ở đây là giải thích hoặc diễn đạt các hiện
tượng đã mô tả một cách hết sức đầy đủ. Như vậy, nếu ta
nghiên cứu việc lổ chức giáo dục cho trẻ em di cư vào các
trường trong thành phố chẳng hạn, ta có thể bắt đầu bằng việc
thu thập sỏ liệu về việc tổ chức việc dạy học đã tiến hành,
nghĩa là đội ngũ giáo viên, phương tiện dạy học, cơ sở vật
chất và nguồn ỉực hỗ trợ. Ta cũng có thê thu thập sô liệu về
các vấn đề được xác định trong việc tổ chức dạy học này bởi
các giáo viên hoặc nhóm người di cư và về hành động được
132 NGUYỄN TIẾN ĐẠT
coi là cần thiết để khắc phục các vấn đề. Như vậy chắc chắti
sẽ dẫn ta vượt ra ngoài khuôn khổ chật hẹp của vấn đề trong
nhà trường hoặc giáo dục, và khi ta chuyển vào giai đoạn diẻn
đạt của Bereday, ta sẽ quay trở lại một cách thận trọng và hệ
thống các lĩnh vực nghiên cứu khác cần phải đóng góp. Từ
môn Dân số học ta có thể có các thông tin về thành phần dân
số và các xu hướng phát triển dân sô ở khu vực thành thị; từ
môn Nhân chủng học ta sẽ có được những nghiên cứu về các
nền vãn hoá của các nhóm người di cư đặc biệt và các vấn đé
của sự hội nhập vãn hoá; từ môn Khoa học chính trị ta sẽ có
được nhũng nghiên cứu về chính sách của chính phủ về dân di
cư hoặc sức mạnh bầu cử của các nhóm người di cư; từ môn
Lịch sử ta sẽ có được những phân tích về sự phát triển của
chương trình di cư trong nước hoặc về sự phát triển thái độ
của nhà nước đối với người mới nhập cư; từ môn Xã hội học
ta sẽ có được những nghiên cứu về đặc điểm xã hội của những
nhóm người di cư và quan hệ của họ với hộ thống giáo dục và
hệ thống xã hội hiện tại; từ môn Kinh tế học, từ môn nghiên
cứu vể tôn giáo và các môn khác, ta cũng có được các đóng
góp đặc biệt.
Rõ ràng rằng một cách tiếp cận như vậy mà Bereday gọi
là “bông hoa hồng nhiều cánh là các môn học khác nhau” là
một cách tiếp cận rất có nhu cầu đòi hỏi, và trong thực tế, nó
đã là trọng tâm của sự phê phán cách tiếp cận của ông. Tuy
nhiên Bereday dàn xếp và đề nghị rằng sinh viên “cần có ít
nhất một môn học cung cấp kiến thức làm việc, và nếu có thổ
thì hai hoặc ba môn ngoài môn Giáo dục học... Các sinh
viên có học vấn khác nhau, nhung tất cả đều được yêu cầu
mang lại sự đa dạng của cách tiếp cận trong nghiên cứu so
■ sánh giáo dục của mình.
GIÁO DUC SO SÀNH
Kiêm nghiệm tiến hành ờ giai đoạn cuối cùng cùa việc so
sánh mà Bereday mô tả là “một sự xử lý đồng thời về nhiều
hoặc tất cả các nước đã được nghiên cứu dể kiểm chứng các
giả thuyết rút ra từ sự đôi chiếu với nhau” . Trong bài báo sau
này viết những suy nghĩ về cách tiếp cận, ông xác định hai
dạng so sánh: so sánh dược càn dõi và so sánh minh hoạ. So
sánh dược cún đối là một sự lật đi lật lại giữa các khu vực
nghiên cứu, hoặc là xoay chuyển trong đó một đề tài đặc biệt
hay một bộ phận của việc nghiên cứu cùng được xử lý lần lượt
trong các nước khác nhau, hoặc là hợp nhất lại trong đó có
một sự ăn khớp giữa các tài liệu với nhau. Điểm cơ bản của
dạng so sánh này là ở chỗ có các sỏ liệu đã được làm cho phù
hợp và cân đỏi từ từng nước được đem so sánh với nhau; diều
nguy hiểm thường là sự biến dạng đỏi với những so sánh, ở đó
các sô liệu không được làm cho phù hợp kỹ với nhau. So sánh
minh lioạ là rút ra các thí dụ về những thực tiễn giáo dục
trong các nước khác nhau để minh hoạ các điểm so sánh được
đề ra bằng các sô liệu. Qua phương pháp này không thổ có
những sự khái quát hoá, và bao giờ cũng có một sự nguy hiểm
134 NGUYỄN TIẾN ĐẠT
khi chọn những thí dụ để minh hoạ một điểm, trong khi né
tránh những thí dụ khác có thể tạo nên sự nghi ngờ. D o đó so
sánh được cân đối hay dùng hơn cho nhiều nước, nhưng khi
mà các sô' liệu làm cho phù hợp hoặc cân đối không đầy đủ
đối với nhiều nước, so sánh minh hoạ có thể dùng thử ở mức
hạn chế nhưng vần là hữu ích.
Dù rằng Bereday có một tầm nhìn phân tích tổng thể về
tác động của giáo dục đối với xã hội trong một viễn cảnh đẹp
của thế giới được coi là mục đích cao nhất của Giáo dục so
sánh, ông thừa nhận rằng một cách tiếp cận trong nghiên cứu
so sánh giáo dục thông thường thể hiện bằng bốn bước mà
ông đã nghiên cứu. Qua đó ông muốn nói rằng cần “lựa chọn
đề tài, hay chủ đề, và kiểm tra sự tổn tại hay sự biến đổi thông
qua các hộ thống giáo dục làm đại diện” . Viết theo dạng quy
trình có từng bước, cách tiếp cận so sánh giáo dục của
Bereday như sau:
(1) Lụa chọn một đề lài, một chủ đề hay một vấn đề gay cán;
(2) Thu thập và sắp xếp thứ tự các số liệu giáo dục liên
quan đến chủ đề ở các nước lựa chọn;
(3) Diễn đạt các sô' liệu, vận dụng các môn học có liổn
quan để hiểu biết số liệu trong bối cảnh xã hội;
(4) Đối chiếu các số liệu đã diễn tả để phát hiện các cơ
sở có khả năng so sánh;
(5) Phát triển các giả thuyết;
(6) Kiểm nghiệm các giả thuyết bằng cách phân tích so
sánh các số liệu đã diễn tả;
Môi quan hệ giữa hai giai đoạn nghiên cứu từng khu vực
và nghiên cứu so sánh gây ra một vấn đề khác nữa. Nêu
những mô tả của Bereday về nghiên cứu từng khu vực là chấp
nhận được ở mọi chiều rộng yêu cầu như những nển tảng cán
thiết cho những nghiên cứu so sánh, thì sự băn khoăn về
chuyện người ta luôn hi vọng bổ sung những nghiên cứu về
giáo dục là hợp lý. Nếu ta muốn so sánh việc dạy môn toán ờ
ba nước Nga, M ỹ và ú c chẳng hạn, ta có cần phải hoàn thành
ba nghiên cứu tùng khu vực riêng biệt trước khi đi sâu vào
chủ đề riêng hay không.
LY. I
L ... .
138 NGUYẾN TIẾN ĐẠT
Một học giả khác cũng có các ý tưởng liên quan đến
cách tiếp cận liên môn, đó là Arthur Moehlman, g iá c sư về
Lịch sử và Triết lý giáo dục Đại học Tổng hợp Texas ờ Mỹ.
GIÁO DUC SO SÁNH 139
llieo ỏng sự định hướng của các hệ thống giáo dục trước hết
dựa trên cơ sớ Triết học. Triết học theo con đường phân hoá
mà phái triển thành nhiều nhánh. Nãm 1963 trong cuốn sách
Các hệ thống giáo dục so sánh, ồng viết ràng Triết học nói
chưng có nãm lĩnh vực của các vấn đề, mỗi lĩnh vực nghiên
cứu một nhánh của Triết học. Các nhánh này và các vấn đề
trong nhánh liên quan trực tiếp đến các vân đề nảy sinh trong
giáo dục, được trình bày trong bảng dưới dây6*:
Các nhánh lớn của triết học phát triển bằng nhiều cách
song song nhau và hữu ích trong việc giải quyết không chỉ
các vấn đ ề chủ yếu của triết học mà cả các vấn d ề của giáo
dục. Mỗi nhánh của triết học không chỉ có môi quan hệ trực
tiếp và song song với một vấn đề chủ yếu nảy sinh trong
giáo dục, mà còn có thể rất có hiệu quả trong việc hỗ trợ các
nhánh khác của triết học giải quyết các vấn đề chủ yếu của
giáo dục. Môn lôgic học không chỉ liên quan trực tiếp với
các phương pháp dạy học, mà còn liên quan đến việc làm
sáng tỏ vậ phác hoạ mục tiêu và mục đích chung trong một
hệ thông giáo dục, và nói chung sẽ cung cấp những sự phê
phán rất giá trị về lý thuyết và thực tiễn trong các lĩnh vực
khác của giáo dục.
Vói sự phát triển phân hoá của triết học cách đây gần nửa
thế kỷ, người ta có thể chấp nhận việc trình bày môi liên quan
trực tiếp của các vấn đề trong triết học và trong giáo dục như
đã kể trên. Có thê thấy rằng với xu thế phân hoá ngày càng
chi tiết hơn cho đến nay và sau này nữa, việc trình bày các
mối liên quan trực tiếp ấy cũng sẽ thay đổi, trở nên phong phú
hơn và cần có sự nghiên cứu tiếp.
Kinh té học
Giáo dục
Mỹ học
Nghệ thuật tạo hình và hội hoạ
Ngôn nqữ’9.
Phán 1ỚI1 các lĩnh vực vãn hoá do Herskovits nêu lèn đã
trở thành môn học, còn lại một số không biết sau này có thể
tiến triển thành môn học hay không, do đó cách phàn tích của
ông đã băt dầu mở rộng ra không còn ở trong phạm vi của
cách tiếp cận liên môn, mà là một gợi ý cho một sự phát triển
w Melville J. Hcrskovits: Man and His Works. New York. 1949. p.239.
142 NGUYỄN TIẾN ĐẠT
cách nghiên cứu so sánh giáo dục sang một cách tiếp cận
khác sẽ được trình bày kỹ ở mục dưới.
Sự phát triển của các môn khoa học và sự thay đổi cấu
trúc của các môn không bao giờ ngừng, do đó cơ cấu khung
của cách tiếp cận liên môn luôn được bổ sung và cải tiến.
Người ta hi vọng nó có được sự phát triển hơn nữa.
Cách tiếp cận nghiên cứu so sánh giáo dục của Brian
Holmes, một phương pháp khoa học đê cải cách giáo dục
Brian Holmes là giáo sư Giáo dục so sánh ở Viện Nghiên
cứu Giáo dục Đại học London và là chủ tịch Hội đồng thế
giới của Hội Giáo dục so sánh. Ông đã có những đóng góp
lớn cho lĩnh vực này thông qua Niên giám Thống kê Thế giới
về Giáo dục và các tác phẩm khác, nhưng một cuốn sách nổi
tiếng nhất của ông là Các vấn đề trong giáo dục: Một cách
tiếp cận so sánh (1965), trong đó chứa đựng phát biểu đầy đủ
nhất về phương pháp nghiên cứu so sánh của ông70.
Holmes bắt đầu bằng cách làm cho các nhận định riêng
của ông về Giáo dục so sánh rất rõ ràng. Theo ông, nó vừa là
công cụ để cải cách giáo dục hay phát triển giáo dục có kế
hoạch, vừa là một phương pháp điều tra nghiên cứu để dẫn tới
sự phát triển kiến thức và lý thuyết về giáo dục. Thực vậy,
ông tin rằng một môn khoa học giáo dục cho sức mạnh chỉ
đạo và dự báo có thể được phát triển thông qua những nghiên
cứu so sánh giáo dục, và de hoàn thành việc này, ỏng chọn
cách tiếp cận vân đé ma ông tin ràng vừa có tính chất khoa
học. vừa hữu ích như một phương tiện của cải cách.
Thực hiện suy nghĩ kê trên về một môn của Khoa học
giáo dục, và sau này dùng các thuật ngữ như những “dự báo”
và “quv luật” có vẻ như hay được tranh cãi trong một lĩnh vực
có gốc rẻ trong các khoa học nhân vãn, Holmes cỏ gắng giải
thích một sô đặc trưng cùa phương pháp khoa học mà ỏng
bênh vực. Thí dụ, ỏng quan sát thấy răng phương pháp khoa
học thì không cứng nhắc hoặc cô định, mà là một vấn đề tiếp
tục tranh cãi, và hem nữa ông nói rang đã có một sự vận động
tách rời khỏi quan niệm cũ về tính chắc chắn của khoa học và
các quv luật khoa học là vững chắc vô điêu kiện và là sự thật
không thể bác bỏ được. Thay thế cho điều đó, óng xem xét mỏi
quan hệ sau này và cho răng các quy luật khoa học là những
phái biếu khái quát từ những sự kiện tương lai có thể dược suy
ra bằng cách diễn dịch với một mức độ chắc chắn có thê chấp
nhận được và được phán xét vé tính hữu ích của chúng hơn là
về chán lý. Như thế chúng có tác dụng khá có ích như một cơ
sứ đê lập nên giả thiết, để dự báo và để hành động.
đi để có thể kiểm tra và phê phán, và liên quan đến tính khách
quan thể hiện trong nhu cầu đồi hỏi sự rõ ràng, sự vận dụng
được của các quy trình và sự kiểm nghiệm các kết luận.
Khi phát triển phương pháp giải quyết vấn đề của mình,
Holmes quay trở về cách phân tích suy nghĩ của John Dewey
trong cuốn sách Chúng ta suy nghĩ thế nào? và thê hiện trong
một chuỗi các bước sau đây:
1) Nêu sự lộn xộn, tình huống rắc rối hoặc vấn dề;
Holmes viết rằng: “Đ ối mặt với một tình hình rắc rối có
thể nảy sinh ngay trong óc các giải pháp có thê đùng. Sau đó
GIAO DUC SO SÁNH 1 '15
su suy nghĩ tham gia vào một quá trình đầu tư trí tuệ đê cho
vàn đề cán giải quyết được nêu lên rõ ràng. Giai đoạn này
hướng sự chú ý vào các sô liệu thuộc một loại nhất định có
liên quan đen vãn đổ. Từ đó nảy sinh ra một giải pháp có thể
chinh lại hoặc mới, sau dó được nêu lẽn thành các già thuyết
căn lán lưựt được kiểm nghiệm. Việc kiểm nghiệm tham gia
tạo nên các diẻn giải lôgic từ các giả thiết trong phạm vi bôi
cánh của các nhân tô liên quan và sau dó sơ sánh với các sụ
kiện đã dự báo (có lính lý tường) với sự kiện thực tế đã quan
sát để đi tới một loạt hành động lựa chọn. Sự thông nhất giữa
các sự kiện dự báo và quan sát được sẽ tạo ra được sự kiêm
chứng giả thuyết, một sự giải thích sự kiện, và xâv dựng nên
một cách giải quyết thành công tình hình rắc rối kê trẽn. Nó
cũng tạo nên cư sở ban đáu cho hành động tiếp sau. Sự không
thông nhất giữa hai loại sự kiện (dự báo và quan sát) sẽ tạo
nõn sự hác bỏ giả thuyết, nhưng nên dản tới một sự kiểm tra
lại mức độ, để mọi giai đoạn tư duy đirợc hoàn thành một
cách thoả mãn.”
Thể hiện bằng một chuỗi các bước, quy trình sẽ là như sau:
1) Ncu vấn đề (hoặc tình hình rắc rối);
2) Ncu các giải pháp có thế;
3) Suy nghĩ về vấn đề (phân tích đê đi tới việc nêu lên rõ ràng);
4) Phân tích bôi cảnh của vân đề mà các sô liệu licn quan
đirợc xem xét;
5) Nêu các giải pháp mới hoặc được chỉnh sửa lại - thể
hiện như các già thuyết (hoặc sự lựa chọn chính sách);
146 NGUYỄN TIẾN ĐẠT
Trước khi có thể đưa ra các dự đoán kết quả của các
phương án giải pháp, cần phải xác định tất cả các nhân tô'
GIÁO DUC SO SÁNH 147
quan trọng hoặc các tác nhân xác định sẽ tác động đến các
giãi pháp trong một bôi cảnh dặc biệt. Holmes công nhận
ráng đó là một hành dộng cực kỳ phức tạp đòi hỏi sự phân
tích sâu sac, có phê phán và sự mô tả chính xác. Đổ tóm tắt,
Holmes nói rằng việc xác định đặc điểm của tình hình mà ta
làm ciự báo bao gồm ba hoạt động sau đây:
ì) Xác (lịnh và phân tích các diêu kiện ban dầu hoặc các
lác nhân xác định bôi cảnh, điêu đó có nghĩa là một sự mô tả
chi tiết và phân tích hệ thông giáo dục và các nhân tô chính
trị, kinh tế, văn hoá và xã hội trong mỏi quan hệ với hệ thống
dó và xây dựng nén bôi cảnh của vấn đề.
(ii) Lựư chọn các tác nhân xác định quan trọng đối với
vấn để đặc biệt mà ta nghiên cứu.
(iii) Đánh giá các tác nhân xác định đã lựa chọn, vì các
tác nhân đó có ý nghĩa và ảnh hưởng khác nhau.
Trên thực tế, ta không thể hiểu được hết tất cả các tài liệu
có thể dược coi là quan trọng. Việc lựa chọn đã tiến hành
xong rồi, và các cơ sở lựa chọn được xác iập tốt và rõ ràng là
điểu quan trọng. Đê làm được như vậy, Holmes cung cấp một
cơ cấu khung hoặc một phương pháp phân loại cho phép
nghiên cứu để phát triển với một trình tự và trên cơ sở một lý
do căn bản rõ ràng, khác biệt hẳn với sự dựa vào trực giác
hoặc phán đoán biến đổi theo suy nghĩ của các nhà nghiên
cứu. Nhìn qua ta có thể thấy cơ cấu khung này rút ra từ quan
niệm vể “thuyết nhị nguyên phê phán” (critical dualism) của
Karl Fopper trong tập I của cuốn sách “Aứ hội mở và những kẻ
148 NGUYỄN TIẾN ĐẠT
thù của nó”71. Nói tóm lại, Holmes đề nghị rang sự phân tích
cả hai vấn đề và bối cảnh trong đó các giải pháp được áp dụng
cần phải nằm trong phạm vi một cơ cấu khung của các nhân
tô' sau đây:
(iii) Cúc nhân tô' hỗn hợp - như là khí hậu, đất đai,
nhũng thứ vốn có trong nguồn lực tự nhiên không trực tiếp
nằm dưới sự kiểm soát của con người.
Về mặt cơ bản đây là một giai đoạn kiểm nghiệm lại các
giải pháp khả thi so với bối cảnh đã được phân tích ở trên để
tìm ra giải pháp “thích hợp nhất”, đó là một giải pháp hoặc
các giải pháp có thể được dự đoán là tốt nhất để giải quyết
ván đề một cách hiệu quả. Dĩ nhiên điều đó có nghĩa là một
số tiêu chí của các giải pháp thành công và có hiệu quả dã
được đặt ra từ trước. Cuối cùng, một chính sách đặc biệt có
thể nêu ra để thực hiện, sẽ có giá trị cao hơn là nhiều khả
năng được đưa ra xem xét, và được xác định ỉà cần thiết cho
giải pháp hữu hiệu của vấn để.
71 Karl Popper: T he Open Society and Its E nem ies. Roulledge and Kcgan Paul,
London, 1965.
GIÁO DUC SO SÁNH 149
rỏm lại, Holmes hênh vực cho một cách tiếp cận giải
tịuyct vãn dề trên cơ sở là I1 Ó nhìn vé phía trước, ngược hán lại
với cách tiếp cận dựa trên cơ sớ phân tích lịch sử, cách tiếp
cận Iiày thể hiện một sự nỗ lực làm cho những nghiên cứu so
sánh trớ thành khoa học, và như vậy sẽ có ích hơn trong việc
lập kê hoạch và cải cách giáo dục. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn
của quá trình giải quyết vân đề, nhũng phán xét cần phải được
tiến hành liên quan đến việc lựa chọn, sắp xếp và xử lý những
số liệu quan trọng, và Holmes quan tăm đến việc làm cho
những phán xét này trên các cơ sở cung cấp một cơ cấu khung
có thể làm việc được phục vụ việc nghiên cứu, có thê nhìn
thấy rất rõ ràng, và như vậy mớ ra sự thách thức và tranh luận,
ỉ ỉolmes đã tìm thày các cơ sở cho một cơ cấu khung như vậy
trong khái niệm của Popper về “thuyết nhị nguyên phê phán”.
những “chân lý”; các quy luật chuẩn mực ngược lại thể hiện sự
mong đợi về hành vi, thay đổi trong các nền văn hoá khác nhau
và là chủ điểm để cá nhân hoặc một nhóm người quyết định.
Tuy nhiên Popper lập luận rằng các quy luật tự nhiên
không bị hạn chế trong phạm vi vật chất, vì cũng có những sự
lặp lại có tính quy luật trong phạm vi xã hội có thê được thế
hiện là các quy luật xã hội hoặc các quy luật tự nhiên trong
đòi sống xã hội. Nói cách khác, Popper phủ nhận điều sau
đây: “Mọi sự lặp lại có tính quy luật của đời sông xã hội là
chuẩn mực mà người ta phải theo”, và ỏng khẳng định rằng có
những sự lặp lại trong xã hội có thể được thể hiện như các quy
luật giống như các quy luật áp dụng trong môi trường vật
chất. Xác lập nên các quy luật như vậy là nhiệm vụ của những
người nghiên cứu khoa học xã hội. Một khi đã xác lập được,
các quy luật ấy có thể được dùng để giúp ta giải thích hoạt
động của các thể chế xã hội như các hệ thống xã hội và nhà
trường hoặc các tổ chức thương mại, chính trị và tôn giáo, và
cũng có thổ dùng để dự báo các hệ quả của sự tác động giữa
hoặc trong phạm vi các hệ thống và tổ chức kể trên. Đ ó là sự
xác định và sự vận dụng các quy luật xã hội xây dựng nên cái
gọi là sự nghiên cứu khoa học về giáo dục, và một khi được
xác lập một cách vững chắc hơn, các quy luật này sẽ cung cấp
cho ta các cơ sở chắc chắn cho việc lập kế hoạch và cải cách
giáo dục.
Đồng thời, các quy luật xã hội không bao giờ là đủ cho
việc phân tích và giải quyết các vấn đề xã hội. Trong các tình
hình ấy các quy luật ấy tồn tại trong một “thuyết nhị nguyên
phê phán” với các quy luật chuẩn mực. Bao giờ cũng có một
GIÁO DUC so SÁNH 151
mối quan hệ quan trọng giữa các “sự kiện” và các “quyết
dinh”, giữa các yếu tỏ dược coi như là đã cho hoặc “thuộc về
bàn chất của các thê chê xã hội” hoặc không thay đổi và phản
ánh các chuan mực, giá trị và niềm tin phổ hiên có ánh hường
nhưng tác dộng đến sự biến đổi và quyết định.
Nếu một thuyết nhị nguyên như vậy dược thừa nhận, nó
se cung cấp một cơ cấu khung quan niệm cho việc phân tích
các vấn dề và các giải pháp khả thi cho các vấn đề đó. Nó
không chỉ hướng sự chú V của mọi người vào các bộ phận của
vàn đề là bản chất của thể chê xã hội và về những tiên đoán
hợp lý cho tương lai, mà còn giúp đỡ ta xác định các yếu tô
ảnh hưởng đến các chuẩn mực phổ biến. Để cho một giải
pháp khả thi cho một vấn đề trở thành có hiệu quà, cần chú V
tới cả hai mặt ké trên.
- Mô hình chuẩn mực gồm các tiêu chuẩn và các quy luật
chuẩn mực
- Mõ hình thể chê gồm các thổ chế và các quy luật xã hội
phụ trợ
dân sô, giúp ta xác định đãc điểm của cả các vân dé và các
giải pháp. Phân tích các vấn để giáo dục ở một sỏ vùng của
Úc, thí dụ, cần phải chú ý đến sự phân tán của một sô dân cư
nhỏ trên các vùng khô cằn rộng lớn. Lãnh thổ miền núi ở
Papua New Guinea và sự khó khăn tuyển sinh ớ các vùng đặc
biệt sẽ tác động cả đến bản chất của một số vấn đề giáo dục
và các giải pháp của các vấn để đó.
Holmes để nghị tập trung phân tích các vấn đê trong giáo
dục, xác định sơ bộ các giải pháp khả thi, và phân tích bôi
cảnh trong đó các vấn đề nảy sinh và các giải pháp phải phù
hợp coi như là phức tạp và không quản lý được. Bởi vì các vấn
đề có nhiều mặt và không phải là tất cả các số liêu đều cho là
thích hợp để có thể xem xét đến, cần phải phân xừ tính phù
hợp, và một số số liệu dùng được và một số phải bỏ đi. Do đó
cần phải thiết lập các tiêu chí về tính phù hợp. Vì mục tiêu là
dự đoán giải pháp hữu hiệu cho các vấn đề, cần có sự kiểm tra
cuối cùng các tiêu chí để xem các tiêu chí ấy có giúp đỡ tìm
ra giải pháp hay không.
Tuy nhiên, một mặt người ta cung cấp một cơ cấu khung
rộng rãi cho việc phân tích, mặt khác người ta xây dựng các
mô hình thể chế, chuẩn mực và vật chất, và mỗi mô hình đòi
hỏi các số liệu và kỹ thuật khác nhau. Trên thực tế, Holmes
kết luận rằng nghiên cứu so sánh cần trở thành một nghiên
cứu liên môn, có sự tham gia hợp tác của các nhà kinh tế,
khoa học chính trị, xã hội học, triết học, giáo dục so sánh ỏ
mỗi giai đoạn giải quyết vấn để, đó là một sự phối hợp của
nhiều nhà khoa học tuỳ thuộc vào vấn đề. Trong khi từng nhà
khoa học đưa môn khoa học của mình vận dụng trong tình
hình cụ thể, người nghiên cứu so sánh giáo dục sẽ đảm bào
GIÁO DUC SO SÁNH
hình các mói quan hệ chính thức giữa các cơ quan, mà nó thể
hiện các veil tô trong tình hình đang dien hiên và ổn định, chắc
chán là không phải tĩnh tại. Các môi quan hệ hiện tại có thể
thay đối nhanh chóng, người ta cho rằng mọi giải pháp cho các
van đổ khác nhau sỗ phù hợp với mô hình thể chê đã mô tả.
Holmes cũng đề nghị rằng việc xây dựng một cơ cấu hợp
lý có thể sử dụng sự phân biệt giữa những những giá trị cao và
thấp theo Myrdal72. Giá trị thấp nói về các chuẩn mực liên
quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày của một con người, đó
là chính trị, giáo dục, tôn giáo, nghề nghiệp; giá trị cao nói vể
các chuẩn mực áp dụng rộng rãi hơn không nằm trong những
giá trị thấp. Một sự phân biệt hữu ích khác, đó là phân biệt
giữa các cơ cấu lý tưởng và thực tế, chỉ rõ một sự khác nhau
giữa điểu phải tuân theo và thực tế. Holmes để nghị rằng các
cơ sở cho các cơ cấu lý tưởng là không khó tìm - thí dụ các
tôn giáo lớn trên thế giới là các xuất phát điểm hữu ích. Cơ
cấu thực tế thể hiện những sự cải biến của cơ cấu lý tưởng, và
dĩ nhiên thay đổi theo thời gian và địa điểm.
,JMyrdal, (>.: The American Dilemma. Harper and Row. Revised edition. 1997.
GIÁO DUC SO SÁNH 157
với việc tiên hành thực nghiệm lum là có găng xây dựng cơ
cau hợp lý theo kiêu của Holmes.
Nói tóm lại, Holmes chỉ rõ rằng cung cấp mãi mộl sự mô
tả đầy đủ một hệ thống giáo dục trong toàn bộ bôi cảnh văn
hoá là không thè được, và do đó cần thiết phải cung cấp một
cơ cấu khung hữu ích cho việc nàv để tiến hành nghiên cứu
giáo dục trong riêng một nước hoặc so sánh giữa các nước.
Ông khẳng định rằng trong phạm vi chiến lược chung dể giải
quyết vấn đề, sự vận dụng “thuyết nhị nguyên phê phán” sẽ
cung cấp các tiêu chí lựa chọn và phân loại sô liệu và một cơ
sớ đúng đắn cho sự phân tích. Sau cùng sự kiểm tra tính hữu
ích của phương pháp nằm ở chỗ mỡ rộng các giải pháp rút ra
từ sự vận dụng phương pháp để giải quyết các vấn đê trong
thực tế.
tiêu chí chọn lựa từ một loạt các sô liệu phù hợp và việc quán
lý các sỏ liệu đã chọn đè tạo nên các kết luận chác chắn và
hữu hiệu. Vổ nhiều phương diện, các Vấn dổ này rất khó, phan
lớn phụ thuộc vào quyền lực và khả năng trực giác của nhà
nghiên cứu. Holmes tìm tòi một cơ cấu khung cung cấp một
cơ sở hợp lý và rõ ràng dê tiến hành. Ông tìm thấy một câu trả
lời trong việc vận dụng “thuyết nhị nguyên phê phán”.
Đáng tiếc là ông không cung cấp một thí dụ rõ ràng về
phương pháp hoàn chỉnh của ông trong các bài viết ờ phần
còn lại của cuốn sách, và sinh viên thường gặp khó khăn khi
vận dụng nó. Tuy nhiên khi phân tích các mối quan hệ giữa
giáo dục và các vấn để chính trị và kinh tế, ông không chứng
minh từng phần cách tiếp cận của mình, và chỉ rõ giá trị của
nó là lớn trong việc xây dựng quan niệm nói chung và lôgic
cùa nó khi vận dụng đầy đù trong mọi trường hợp. Trong bôn
nghiên cứu tình huống mà ông tiến hành - đào tạo giáo viên
và chuyên nghiệp hoá giáo dục (ở nước Mỹ), giáo dục trung
học cho mọi người (ở xứ Wales và cả nước Anh), giáo dục và
đào tạo nghề (ở Liên Xô), sự tự do cá nhân và trách nhiệm xã
hội (ở nước Nhật), ông cũng cung cấp các đầu mối để đật các
nghiên cứu khu vực vào trong cách tiếp cận của mình. Rõ
ràng rằng ỏng quan tâm đến các nghiên cứu tình huống cùa
một vấn đề đặc biệt, không đi vào nhũng nghiên cứu khu vực
khái quát hơn đã được mô tả ỉà trung tâm trong cách tiếp cận
của Bereday. Quan niệm tổng quát về Giáo dục so sánh thông
qua một cách tiếp cận vấn để vẫn tồn tại, và có một vị trí
trong nghiên cứu đặc biệt một vấn để trong một khung cảnh
vãn hoá. Khư vậy có thể nói rằng những nghiên cứu khu vực
thuộc loại giới thiệu sơ bộ hơn đôi với người tập sự không bị
loại trừ. Holm es tham gia tích cực vào các công việc ấy. Có lẽ
160 NGUYỄN TIẾN ĐẠT
chúng ta cần nhớ rằng Holmes tìm ra một cách tiếp cân
nghiên cứu so sánh giáo dục để cung cấp chiến lược giáo dục
và đào tạo cho một quốc gia, ông không cung cấp một chiến
lược giáo dục và dạy học cho các khoá học ờ một trường cao
đẳng hoặc đại học, đặc biệt cho những người mới bãt đầu đi
vào lĩnh vực này, mà ông tìm các cách đê làm cho Giáo dục
so sánh trở thành một môn học rõ ràng hơn. là nhân tô đóng
góp có hiệu quả cho giải pháp của các vân đề và sự hiểu biết
lý luận của giáo dục.
Theo cách tiếp cận liên môn, Arthur Moehlman đã nêu ra
quan hệ giữa các vấn đề của giáo dục và các nhánh của môn
Triết học, còn M ellville Herskovits lại nêu ra quan hệ giữa
các vấn đề của giáo dục và các môn học trong lĩnh vực ván
hóa. Theo cách tiếp cận vấn đề, Arthur Moehlman trong cuốn
sách Các hệ thống giáo dục so sánh73 lại nêu ra quan hệ giữa
các vấn đề nổi bật (paramount issues) của giáo dục và các
vấn đề lớn của xã hội gọi là các nhân tố vĩ mô ị long-range
factors). Các nhân tô' này xác định sự định hướng, tổ chức và
hiệu quả của một hệ thống giáo dục trong một nền văn hoá
hay một quốc gia. Giáo dục đáp ứng những thách thức trong
bối cảnh thời gian, không gian và vãn hoá của địa phương
mình. Một mô hình lý thuyết mà Moehlman nêu lên để phân
tích sự đáp ứng giáo dục con người bao gồm 14 nhân tô vĩ mỏ
sau đây: dân tộc, không gian, thời gian; ngôn ngữ, nghệ thuật,
tín ngưỡng; cấu trúc xã hội, quản trị, kinh tế; công nghệ, khoa
học, sức khoẻ và giáo dục.
nước Nga xô viết đã đào tạo nên một đội ngũ nhân tài vững
vàng vé mọi mặt trong một thời gian tương đôi ngắn, khiến
cho nhiều nước đang phát triển học tập. Trong các tài liệu về
giáo dục so sánh có thê tìm thây trong bôi cảnh thời gian nhất
định ở Pháp có sự nhấn rất mạnh giáo dục tinh hoa so với đại
chúng, ở Đức có sự nhấn rất mạnh giáo dục chuyên môn hoá
so v ới phổ cập, nhưng ờ Pháp về vấn đề này thì ngược lại, còn
ở Nhật có sự rất nhấn mạnh giáo dục nhà trường so với giáo
dục xã hội v.v...
Nối tiếp suy nghĩ của Hail và Moehlman về quan hộ giữa
các nhân tố vĩ mô cùa xã hội và các vấn đề nổi bật của giáo
dục, người ta có thể lập nên các đề tài trong lĩnh vực giáo dục
so sánh về sự phát triển chiến lược giáo dục giữa một nước
với một hay vài nước khác, có n nhân tô vĩ mô và n vấn để nổi
bật trong giáo dục của một quốc gia hay một địa phương, để
xây dựng nên chiến lược giáo dục ở nơi mình. Chiến lược giáo
dục của một nơi coi như một hàm số đa biến với n đối số biến
thiên từ thái cực này tói thái cực kia phù hợp với bối cảnh thời
gian, không gian và văn hoá của mỗi nơi, có thể tạm viết gọn
bằng một biểu thức toán học như sau: y = f(X/, x2, Xj, ... x„).
Số n càng lớn thì để tài càng cần có nhiểu nguồn lực để thực
hiện, nhân lực cần đến nhiều người tài giỏi thực sự am hiểu
tùng vấn đề và tập hợp được tất cả các vấn đề, tài lực và vật
lực lớn, và thời gian thực hiện không thể quá ngắn, hơn nữa
định kỳ phải nghiên cứu bổ sung vì chiến lược giáo dục cũng
biến đổi theo bối cảnh.
Một đề tài lớn như vậy chưa thấy xuất hiện, nhưng nó
phù hợp với xu hướng phát triển mới nhất của nghiên cứu so
164 NGUYẾN TIỂN ĐẠT
sánh giáo dục là chuyển từ định tính sang định lượng, và phù
hợp v ớ i mục đích quan trọng cùa giáo dục so sánh là phát
triển, cải tiến hoặc cải cách giáo dục.
Cách tiếp cận nghiên cứu so sánh giáo dục của Edmund
King, dóng góp vào việc ra quyết định trong giáo dục
Edmund King là Giáo sư Giáo dục so sánh ở trường
King”s College thuộc Đại học Tổng hợp London, là một
người viết nhiều và nổi tiếng nhất trong lĩnh vực này. Khổng
giống như Bereday và Holmes, ông không bênh vực một cách
tiếp cận đặc biệt nào trong nghiên cứu so sánh giáo dục, cho
rằng nó phụ thuộc chủ yếu vào các mục đích và đặc điểm của
từng việc nghiên cứu cụ thể. Người nghiên cứu so sánh giáo
dục phải tự rút ra cách tiếp cận nào thích hợp với mục đích
của vấn đề gay cấn đang cần giải quyết.
Ông viết: “Chúng ta ngày càng ít tin cậy vào những đòi
hỏi về sự duy nhất của nội dung, phương pháp hoặc sự cam
kết ... Những nhận thức và thiên kiến đa dạng của môn khoa
học khác nhau có tính hàn lâm, những bối cảnh văn hoá và sự
cam kết thực tế có thể dựa vào các vấn đề chung hoặc so sánh
được thuộc một loại chính xác và cụ thể75”.
Tuy nhiên cách tiếp cận so sánh giáo dục không thuộc
loại lý luận suông, vì nó được phát triển để cung cấp câu trả
lời về các vân dề đang xảy ra khi so sánh giữa các hệ thông
giáo dục, và Edmund King đã bị phê phán về một sự miễn
cưỡng rõ ràng khi đôi mặt với các vấn đề mà cách tiếp cận
cần giải quyết, và người ta cho rằng cách giải quyết của ông
có tính thực dụng. Không biết sự phê phán như vậy có đúng
hay không, nhung chắc chắn rằng năm 1968, ông đã chú ý
rất nhiều đến vấn đề cách tiếp cận hơn trước, đặc biệt là khi
lập luận mạnh mẽ chống lại cách tiếp cận của người đồng
nghiệp Holmes.
Một trong các chủ để nhất quán cùa King là xác định nội
dung và các phương pháp theo các mục đích mà ông muôn
phục vụ trong các trường hợp khác nhau. Thí dụ năm 1959,
ông phân biệt những gì thích hợp đối với sinh viên là người
166 NGUYẾN TIẾN ĐẠT
mới bắt đầu đi vào lĩnh vực này, đối với người đã từng có một
số hiểu biết và những người đã từng tham gia nghiên cứu
trong lĩnh vực này.76 Nhưng sự phân biệt tương tự như vậy
được nhắc lại trong các tác phẩm của ông năm 1962 và năm
1968, có bổ sung thêm những năm sau với sự nhấn mạnh mới
vể một mức độ hoặc hình thức nghiên cứu được nêu lên để hỗ
trợ trong việc hình thành chính sách và hành động cải cách
giáo dục.77 Năm 1973, King lại thu hút sự chú ý vào sự thất
bại trong việc “thừa nhận rằng nghiên cứu không giống như
trong giảng dạy, và trong bản thân việc giảng dạy, ta có các
trách nhiệm khác nhau tuỳ theo mức độ và thể loại tính sẩn
sàng của sinh viên”, và một lần nữa ông viết về sự áp dụng
nghiên cứu “nhu cầu của những người nhận các quyết định
giáo dục và thực hiện chúng” .7*
thời) cùng với các tài liệu tham khảo đặc biệt về sự diễn đạt
khái quát và đỉnh điểm phát triển của một hay nhiều mô hình
van hoá xa lạ với người quan sát”.79 ờ mức độ này, các hệ
thống giáo dục hay một phần của các hệ thống đó được mô tả
trong bối cảnh, liên hệ vứi sự giao tiếp thông tin càng gần càng
tốt đạt tới một cảm giác về đời sông và tất cả những gì liên
quan. Như vậy nghĩa là một sự mỏ tả kỹ lưỡng về những sự tổ
chức trong giáo dục và diễn đạt chúng như một phần của nền
vãn hoá tổng thể với những nổ lực “đi sâu vào bên trong” đời
Sống của con người. Cuối cùng. King đề nghị rằng những phim
ảnh, tiểu thuyết và các cuộc tham quan được chuẩn bị kỹ và
giao tiếp nhiệt tình là những sự hỗ trợ hữu ích, tất cả những
sách báo mới viết ra và đặc sắc sẽ giúp đỡ ta rất nhiều.
Chính vì một mục đích như vậy mà ông viết cuốn “Các
nhà trường nước khác và nhà trường chúng ta”1* xuất bản lần
thứ nhất năm 1958 và đã tái bản nhiều lần. Đó là một trong
những cuốn sách giới thiệu có nhiểu độc giả nhất trong lĩnh
vực Giáo dục so sánh, và sau đó gây nên mội sự thảo luận kéo
dài về sự phát triển thời đó của môn học này, trong đó có các
nghiên cứu tình huống rất đáng chú ý về giáo dục ở Đan
Mạch, Pháp, Anh, Mỹ, Liên Xồ, Ấn Độ và Nhật Bản. Trong
mỗi tình huống, King mô lả “bối cảnh truyền thống đã tạo
nên sự khác biệt trong mỗi nước” , ghi chú các xu thế và sự
kiện - cả về mặt quốc gia và quốc tế - tác động vào bối cảnh,
xem xét lại cơ cấu giáơ dục hiện tại, và cuối cùng bàn về một
sô vấn đề đang xảy ra hiện nay trong một thời kỳ biến đổi
nhanh chóng. Từ đầu đến cuối, ông để mất đến những đặc
điểm nổi bật hoặc các điểm rắc rối, đối với ông là một sự điển
hình và đặc trưng hoá đất nước hoặc con người đặc biệt. Ông
nói đó là cuốn sách cần đọc và thưởng thức, đồng thời nó
cung cấp các thông tin và sự hiểu biết, gợi ý cho những thắc
mắc và thảo luận sau này.
khoa học xã hội. Như ta sẽ thây, King đã nhạy cảm đối với sự
phê phán và sự thay đổi, và trong khi bảo vệ luận điếm của
mình chông lại những người cho rằng hình như ông áp đật sự
cứng nhắc không có tác dụng vào lĩnh vực Giáo dục so sánh
với cái tên là khoa học, ông cũng đã chú ý nhiều hơn trong
các bài viết sau nàv về nhu cầu các cơ câu khung nhận thức rõ
ràng và chắc chấn. Thí dụ trong lần xuất bản năm 1973 cuốn
Nhà trường các nước khác vù nhà trường chúng ta, ông cô
gắng giữ lại tính hãng hái và nhanh nhạy của các lần xuất bản
trước trong phạm vi một cơ cấu khung đã phát biểu và đặt
cuốn sách của mình trong phạm vi khái niệm về một kết quả
phát triển cùa việc nghiên cứu so sánh. Trên thực tế, ông thú
nhận bị đặt vào một tình huống khó khàn. Ông lưu ý “những
lán xuất bản trước đây chú ý quá nhiều đến khẩu vị thưởng
thức của một sỏ vị giáo sư ... Điều tồi tệ nhất là một sỏ ít sinh
viên và học giả nghiêm túc muốn đưa “Nhà trường các nước
khác và nhà trường chúng ta ” đến một sự phân tích hệ thống
hơn, đôi khi cảm thấy rằng tôi đã không phục vụ họ với một
“lý luận” có cơ sờ hoặc ít nhất có một mô hình hoặc cơ cấu
khung cho một sự phân tích như vậy”.78 Đổ làm thoả mãn họ,
ông đã dành ba phần của sách xuất bản mới cho những sự
phát triển gần thời gian đó trong Giáo dục so sánh và sự hiểu
biết của ông về các cơ cấu khung nghiên cứu.
Tuy nhicn, các tiếp cận cơ bản cho bài viết giới thiệu này
vãn giữ nguyên - giao lưu tri thức và hiểu biết các hệ thống
giáo dục khác một cách tóm tất nhưng chính xác và khuyến
khích các bài tiểu luận cung cấp một cơ sở cho sự nghiên cứu
chi tiết và cụ thổ hơn sau này. Một cách tiếp cận như vậy, còn
170 NGUYỄN TIẾN ĐẠT
có thể được bàn cãi, nhưng hoàn toàn thích hợp đối với những
sinh viên mới bắt đầu đi vào Giáo dục so sánh. Theo đề nghị
của King, các mức độ của vấn đề và sự nghiên cứu cần được
xem xét kỹ lưỡng một cách chặt chẽ hơn, vì ở đây ông phải
đối mặt với các vấn đề so sánh. Mặt khác cũng cần nói rằng
một sự nhất quán của cách tiếp cận là cần thiết, không xét đến
trình độ khác nhau của các độc giả. Thí dụ, khi lập kế hoạch
các khoá học ba hoặc bốn năm về lịch sử cho các sinh viên
đại học, bạn có thể chú ý chi tiết và cụ thể đến các vấn đề của
sử ký ở các năm cuối, nhưng bạn phải mong đợi ờ các khoá
học ở tất cả các cấp để chứng minh cái gọi là môn học Lịch
sử. Những gì được coi là thích hợp về chiểu rộng và chiểu sâu
của việc nghiên cứu và trong phương pháp dạy và học cũng có
thể thay đổi, nhưng những nội dung được cung cấp phải là
nhất quán với chủ để của môn học. Cũng theo cách đó, các
khoá học hay sách giáo khoa trong Giáo dục so sánh, tuy rằng
được viết sinh động, nhưng cần phải nhất quán trong môn
học. Tuy nhiên như chúng ta đã thấy, không có một sự nhất
trí chung nào về phương pháp nghiên cứu so sánh giáo dục, và
như vậy chúng ta bỏ qua sự kiểm tra tính nhất quán trong
phạm vi các cơ cấu khung đặc biệt. Như vậy nếu Bereday và
Holmes đã cung cấp các khoá học giới thiệu, bạn sẽ mong đợi
nội dung các khoá đó nhất quán với các cơ cấu khung đầy đủ
hơn. Các phương pháp và chiến lược được rút ra từ các lĩnh
vực đóng góp khác trên cơ sở tính hữu ích trong các trường
hợp đặc biệt. Các để nghị của ông về mức độ đầu tiên của
Giáo dục so sánh là đơn giản đối với những ai ông coi là thích
hợp nhất với mục đích của ông; ở các mức độ khác, cần có
các cách tiếp cận khác.
GIÁO DỤC SO SÁNH 171
vào cải cách giáo dục, tìm ra các giải pháp cho các vấn để
thực tiễn. Một lần nữa các phương pháp phụ thuộc vào các
vấn đề hay sự gay cấn cần nghiên cứu, và ở đây King thừa
nhận rằng một cách tiếp cận tập thể đưa nhiều môn học vào
để giải quyết vấn đề là cần thiết. Tuy nhiên ông đề nghị trong
các bài viết mới nhất của mình rằng có thể phân biệt ba giai
đoạn phân tích kể dưới đây trong việc nghiên cứu so sánh các
vấn de.78
Thứ nhất là giai đoạn có các phương diện về khái niệm
trong công việc của chúng ta và các vấn đề cần xem xét. Câu
hỏi đặt ra là: Ta đang đảm đương một phần của việc nghiên
cứu, và nếu vậy thì mục đích của nó là gì? Hoặc ta đang có ý
tưởng xây dựng các khoá học về Giáo dục so sánh, vậy khoá
học nào dành cho những sinh viên nào? Nhưng vấn đề nào ta
thực sự muốn đặt ra để hỏi? Ta sẽ trả lời các câu hỏi đó như
thế nào? Các lĩnh vực liên quan nào có thể giúp đỡ ta? Các
khái niệm hoặc ý tưởng nào còn đang thiếu sót trong các vấn
đề và cần làm sáng tỏ?
Từ một sự cố gắng làm sáng tỏ ý định và khái niệm của
ta còn đang thiếu sót trong vấn đề nghiên cứu, ta chuyển sang
giai đoạn thứ hai có các phương diện về thể chế, trong đó các
khái niệm đã được hình thành rồi và các vấn đề có lẽ đã tập
trung vào. Thí dụ như nếu vấn đề phải thực hiện liên quan đến
những sự không công bằng trong cơ hội được giáo dục, giai
đoạn xây dựng khái niệm sẽ chắc chắn bao gồm các vấn để
như xem xét các mục đích của chúng ta, làm rõ các khái niệm
vể “sự công bằng”, về “cơ hội được giáo dục” và xác định rõ
các mặt của vấn đề mà ta xem xét. Tuy nhiên, các khái niệm
GIÁO DUC SO SÁNH 173
đã dược diễn đạt dưới các dạng cụ thê - trong các loại hình
trường đặc biệt, trong những sự sắp xếp về tổ chức, các quy
trình và quy định - và xét về các phương diện thê chê đó hay
khác nữa của vấn đổ ta phải chú ý trong giai đoạn này. Mục
đích của chúng ta là xác định và mỏ tả các tổ chức thuộc về
thể chế nào đó và các mối liên kết tương hỗ giữa chúng phù
hợp với ván đề.
Khi đã vạch ra được một sơ đồ bô trí về thể chế chính
thức hơn cùng với sự tham gia của các thành phần, cần phải
khám phá ra nó sẽ hoạt động như thê nào, do đó cần phải
chuyến sang giai đoạn thứ ba có phương diện vổ h oạt động.
Trên cơ sở của sự phân tích này, ta có thể trong giai đoạn này
đổ nghị những sự cải tiến hay những sự đổi mới giúp ta giải
quyết vấn đề, hoặc thích hợp hơn là đề ra một loạt các giải
pháp khả thi, trong đó có các quyết định hoặc kiên nghị có
thê được thông báo, do những người được chỉ định hoặc đề cử
để làm việc đó.
DI nhiên, King đề nghị một cơ cấu khung rất rộng mà ông
nói rằng nó ià “rõ ràng thực sự”, nhưng có nghĩa là “làm sáng
tỏ và xúc tiến hành động”. Ai sẽ là thành phần của tập thể
nghiên cứu (cán bộ nghiên cứu Triết học, Kinh tế học, Xã hội
học, Khoa học chính trị...), nhưng vấn để nào họ nghiên cứu,
họ sử dụng cách tiếp cận nào, đó là các vấn đề cần phải quyết
định. Tuy nhiên ta sẽ tìm thấy một số thí dụ thực tê về cách
tiếp cận chung của King trong phần phụ lục của cuốn Nhà
trưcmg các nước khác và nhà trường chúng ta (1973), trong đó
ông dùng cơ cấu khung của ông trong việc thảo luận sơ bộ về
ba sự gay cấn —đó là “đô thị hoá và giáo dục”, “giáo dục và sự
174 NGUYẾN TIẾN ĐẠT
tập trung hay phân cấp quản lý” và “các vấn đề sinh viên”. Một
thí dụ đầy đủ hơn nữa có thể tìm thấy trong cuốn G iá o dụ c sau
p h ổ cập: M ộ t sự p h â n tích m ới ở châu Au (Sage, London,
1974), báo cáo về viộc nghiên cứu ở năm nước do King tiến
hành với hai người trợ lý - một là nhà xã hội học và một là
chuyên gia nghiên cứu về chương trình dạy học.
Do đó trong trường hợp của King rất khó kết luận với
một bộ quy trình hoặc các bước nối tiếp để được xác định là
cách tiếp cận cơ bản của ông. Thích hợp hơn sẽ là xác định
một sô' đề xuất về Giáo dục so sánh, là các phần quan trọng
trong quan niệm của ông về lĩnh vực này. Như ta đã thấy,
đ iều đầu tiên là c á c ph ư ơ n g p h á p và ch iến lược phụ thuộc
và o c á c m ụ c đích , và những cố gắng nhằm xác định một cách
tiếp cận đặc biệt là một sự lạc đường. Đ iều thứ hai là sự cam
k ết nghiên cứu hưcrng và o việc hình thành chính sách , qu vết
định và hành độn g. Đỉnh điểm của các mức độ tiến bộ của
Giáo dục so sánh không phải là sự nghiên cứu mang tính chất
bí hiểm ngày càng tăng, mà là một sự cam kết đối với dịch vụ
công cộng - sử dụng kiến thức và kỹ năng sắp đặt sự hình
thành, minh hoạ những sự lựa chọn chính sách, xác định tính
khả thi và đề xuất các phương pháp thực hiện. Một sự gợi ý rõ
ràng là mở rộng trọng tâm từ trường cao đẳng hay đại học tới
các diễn đàn công khai hơn trong sự tranh luận các vấn đề
giáo dục và xã hội. Trên thực tế, King coi tương lai của Giáo
dục so sánh thuộc về sự cộng tác với rất nhiều cơ quan và tổ
chức vói trụ cột là giáo dục. Ông viết rằng: “Xung quanh ta
luôn xảy ra những trường hợp, lúc thì người ta giúp đỡ sự tiến
bộ của giáo dục, lúc thì lại đặt ra những sự hạn chế những gì
có thể làm được trong giáo dục, đó đểu là những sự nỗ lực to
GIÁO DUC SO SÁNH 175
lớn của mọi loại chính phủ, các cơ quan, tổ chức nghiên cứu
và lập kê hoạch nhà nước. Nghiên cứu so sánh giáo dục đói
mật với bối cảnh phải khác hẳn những hành động đề xuất hấp
tấp trước khi nghiên cứu so sánh hoặc không chú ý gì đến
việc ấy”.?* Do đó ỏng bênh vực sự cởi mở đôi với mọi sự quan
tâm, nhóm người, vấn đề và cách tiếp cận.
Một thành phần thứ ba trong quan niệm của Edmund
King VC Giáo dục so sánh là sự nhấn mạnh cái ông gọi là bối
cảnh sinh thái. Mọi người làm việc trong lĩnh vực này công
nhận sự cần thiết phải nghiên cứu các hệ thông giáo dục, các
cơ quan, tổ chức và thê chê cũng như thực tiễn trong bối cảnh,
nhưng King đã làm nên một sự tương tự sinh học khác
thường. Thí dụ ở mức độ giới thiệu, ông băn khoãn chia sẻ sự
nhạy cảm về “tình hình sinh thái năng động trong hoàn cảnh
một nền vãn hoá khác”.76
Trên cùng một cơ sở, ông đã viết nhiều về những gì ông
thấy được và yêu cầu chân thật rằng tính khách quan là điểu
mong muốn và đạt được trong việc nghiên cứu các hệ thống
giáo dục. Theo quan điểm của ông, điều kiện vãn hoá riêng
của tùng nước và sự không thổ hoà nhập hoàn toàn vào một
nền vãn hoá khác gây ra những đòi hỏi về “tính khách quan”
hoặc dừng lại ớ chỗ “mô tả thuần tuý”, điều đó ít có ý nghĩa.
Tương tự như vậy, ông phản ứng mạnh mẽ đối với sự bàn luận
về “sự tiên đoán” hoặc “những quy luật” trên cơ sở đó bản
chất nàng động của các nền văn hoá trong đời sống và các
hình thức vô cùng khác nhau là cho rằng nó không bao giờ
tiên đoán được một cách chắc chắn hoặc xác định được các
mối quan hệ tương hỗ. Đó là tất cả những gì xảy ra trong thời
đại đổi mới nhanh chóng, và tác động của “sự xuất hiện ào ạt
176 NGUYẾN TIẾN ĐẠT
những sự kiện mới ” đang làm biến đổi thế giới và đưa ra
thách thức đối với các hệ thống giáo dục cũng như các truyén
thống, là một chủ đề khác mà King thường nói tới. DI nhiên
quá trình hình thành chính sách và quyết định mà ông nhấn
mạnh cũng gợi ý cho những sự đổi mới để đạt được hiệu quả,
nhưng đối với ông, điều này khác vói những gì ông tin là
Holmes định thể hiện. Ông khẳng định rằng: “Ta không thể
tiên đoán, ta có lẽ chỉ có thể đưa ra các giả thuyết về những gì
có thể xảy ra trong các nhà trường hoặc các cơ sở giáo dục
khác”.77 Trên thực tế, “Giáo dục so sánh càng đòi hỏi trở
thành một môn khoa học, có một loại hình bắt buộc phải tiên
đoán, thì nó càng mang lại cho bản thân nó một sự kỳ quái”.75
Tương tự như vậy, ông xác định các vấn đề, xu hướng và xu
thế, nhưng ỏng viết: “Cho rằng trong Giáo dục so sánh người
ta vẫn tìm tòi “các quy luật” và các nguyên tắc phổ biến khác
là một điều rất vô lý. Đó là một sự lãng mạn quá đơn giản
người ta đã bỏ đi từ lâu trong các môn khoa học xã hội cơ bản
mà ta lấy làm chỗ dựa chắc chắn”.75
Như ta thấy từ những bình luận này, King phê phán kịch
liệt những gì ông xác định là nhận định và cách tiếp cận mà
Holmes đề ra. Trên thực tế, ông đã viết rất nhiều và với cảm
giác rõ ràng ngược lại cách tiếp cận của đồng nghiệp mình.
Một sự phân tích chi tiết về sự khác nhau giữa họ nằm ngoài
phạm vi của bài này, nhưng các độc giả quan tâm có thể theo
rõi trong tài liệu tham khảo đã liệt kê hoặc trong tác phẩm của
Phillip Jones ở Đại học New England, Armidale, nước ức.
Trong luận án tiến sĩ của mình, Jones không những chỉ phân
tích các cách tiếp cận của họ một cách chi tiết, mà còn so
sánh chúng trong thực tế vận dụng vào cùng một vấn đề giáo
GIÁO DUC SO SÁNH 177
tluc.xl Joncs tin rằng ngoài sự khác nhau vổ những nhận định
và sự nhân mạnh, cả hai có nhiều điểm chung. Một chướng
ngại chú yếu, dù không phải chỉ có một, là có một sự thiếu
thông nhát với nhau về ý nghĩa của các từ thông dụng. Như
Joseph Lauwerys nhận xét trong bài diễn vãn trước Uỷ ban
nước Anh cùa Hội Giáo dục so sánh ở châu Âu nãm 1968,
“nhu cầu thống nhất với nhau vé định nghĩa được minh hoạ
báng sự vò ích của một số tranh luận và biện luận đang xảy
ra, trong đó những người phát biểu dùng cùng những từ ngữ
nhưng gán cho chúng các nghĩa khác nhau”.82 Bài diễn văn
của Lauwerys trên thực tế nhằm vào câu hỏi phương pháp
khoa học có thể được khái quát hoá hay không - cùng một
cách tiếp cận và các phương pháp có thể được áp dụng mọi
nơi hay không - đó là một câu hỏi nằm ở trung tâm của cuộc
tranh cãi vé cách tiếp cận nghiên cứu so sánh giáo dục thời
đó. Ông bãt đầu xem xét một sô từ ngữ trong cuộc tranh luận
và đưa ra một sô định nghĩa hướng dẫn và bình luận, nêu dưới
đây như là cơ sở cho sự thảo luận riêng của chúng ta:
(i) Khoa học: là một tập hợp các kiến thức dựa trên cơ sở
sự quan sát và kiểm nghiệm các sự thật và tạo nên một hệ
thông trật tự, có tác dụng như một cơ sở cho kiến thức mới và
như một sự hướng dẫn để đạt tới kiến thức đó. Một số khoa
học không phụ thuộc vào thực nghiệm (thí dụ thiên vãn học),
nhưng mọi môn khoa học đều phụ thuộc vào sự kiểm nghiệm
những điều khẳng định trong phạm vi cơ cấu khung của nó và
tuỳ thuộc vào các quy luật mà nó rút ra. Nó phải có tính chất
khám phá (nghĩa là dần tói sự nghiên cứu tìm tòi tiếp tục) và
có giá trị tiên đoán (nghĩa là tăng thêm độ chắc chắn khi
chỉnh lý các điểu phỏng đoán vế tương lai).
(ii) Quy luật: là một sự phát biểu vể tính tất yếu xảy ra
trong sự tiến triển hay hành vi của sự vật, thực vật, động vật
và con người. Không có quy luật nào là hoàn toàn đúng và
tuyệt đối. Việc tìm tòi và nghiên cứu sẽ theo thời gian mà chỉ
rõ giới hạn của sự vận dụng. Lauwerys lưu ý rằng quy luật đôi
khi nói tắt là luật dùng để bao hàm các quy tắc thực hiện
mong muốn và đã được chấp thuận (chuẩn mực của hành vi).
Một số người phân biệt quy luật khoa học và quy luật chuẩn
mực của hành vi, ông tin rằng trong trường hợp sau dùng từ
“điều quy định” hay “quy tắc” thích hợp hơn.
(iii) Giả thuyết: là một sự giả định nêu lên làm cơ sở cho
sự suy luận, chưa nhận định đó là sự thật, và coi đó là xuất
phát điểm cho việc nghiên cứu.
(iv) Lý thuyết: là một sự giả định giải thích một điều gì
đó, đặc biệt là nó dựa trên các cơ sở các nguyên tắc độc lập
với hiện tượng được giải thích. Lý thuyết thường được cho
rằng là một lý luận tốt có thể tập hợp được nhiều quy luật vào
trong một hệ thống và phải có thể diễn dịch các quy luật này
từ lý thuyết. Tuy nhiên không cần nói rằng lý thuyết là “chân
lý”, vì nó vẫn không hơn gì một sự giả định, chi có nghĩa là
hữu ích như một sự tiết kiệm trong tư duy và là một sự hướng
dẫn cho sự tiếp tục khám phá và nghiên cứu. Vấh để không
phải là “nó có là chân lý hay không?” mà là “nó có làm viộc
được hay không?”.
GIÁDDỤC SO SÁNH 179
(v) Tiên đoán: là mục đích chính trong việc theo đuổi
kiến thức khoa học, nêu lên một phát biểu về sự vận động của
tư rhiên giúp ta chỉ đạo hành động, một cách tiết kiệm và có
mục tiêu, theo các phương hướng mong muốn. Các quy luật và
lý tnuyết tiên đoán được điều đó nhưng không nói trước rõ ràng
cái gì là tuyệt đôi và chắc chắn. Các quy luật và lý thuyết có
liên quan đến tính chắc chắn, và nhiệm vụ của nghiên cứu làm
tàng mức độ chắc chắn của sự tiên đoán đúng đắn.
Trong ý kiến của Lauvverys, mọi mặt của giáo dục có thể
đưọc nghiên cứu một cách khoa học, vì phương pháp phải
thực hiện với sự quan sát, những phát biểu khái quát về những
gì cuan sát được (các quy luật), những giải thích về những gì
đã cuan sát (các lý thuyết), kiểm nghiệm lại các lý thuyết với
nhiéu trường hợp (kiểm tra các điều tiên đoán) và thay đổi lý
thuvết hoặc quy luật (xác định giới hạn của sự vận dụng một
cách chính xác hơn).
Ông kết luận rằng hiện nay có các nhà nghiên cứu so
sánh giáo dục khác nhau về nguồn gốc và sự đào tạo, và do đó
có nột sự hỗn hợp các cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên
mọi người đều quan tâm đến sự vận dụng được đằng sau sự
mô :ả nhằm phân tích và diễn đạt, và trong số các cách tiếp
cận phải là những sự cố gắng thiết lập một tập hợp các quy
luật và lý thuyết dựa trên sự quan sát các hiện tượng giáo dục.
Mặc dầu xảy ra sự tranh luận, ờ đó chắc chắn cần phải làm
sáng tỏ những đặc điểm căn bản, như King đã định nghĩa một
sô' thuật ngữ mà Holmes dùng theo cách khác.
Tuy nhiên, điểu quan trọng là ta xem các cuộc tranh luận
này ìhư một bộ phận của sự phát triển Giáo dục so sánh và rất
180 NGUYỄN TIẾN ĐẠT
đáng đê tiếp tục theo rõi, không có lý do gì gạt sang một bên
theo kiểu bảo thủ hay cho rằng không có những sự khác nhau
hoặc những khó khăn. Dĩ nhiên, như King đã nói, có thể đi
sâu vào vấn để phương pháp mà ta không chú ý đầy đủ tới các
vấn đề và những sự biến đổi về giáo dục, coi đó như chất liệu
thực sự cho lĩnh vực Giáo dục so sánh. Mặt khác, nếu môn
này có mục đích đóng góp cơ bản cho những vấn đổ như vậy,
nó cần phải tìm ra các giải pháp cho các vấn để khó khăn của
cách tiếp cận so sánh. Như ta đã thấy, một vấn đề như vậy là
thiết lập các tiêu chí lựa chọn các số liệu thích hợp. Theo ý
kiến của Jones, trong khi Holmes đưa ra một cơ cấu khung,
King đã không đối mặt với vấn đề đó một cách thích hợp
trong các cuộc thảo luận về cách tiếp cận. Tuy nhiên King đã
thừa nhận sự hạn chế của Giáo dục so sánh trong các trường
cao đẳng, đại học và các khoa SƯ phạm của các trường đ ó . Sự
kêu gọi của ông về sự tham gia trực tiếp hơn nữa vào các vấn
đề cấp bách của giáo dục và sự đóng góp cởi mở hơn nữa vào
vấn đề khác chính là những sự cống hiến lớn nhất của ông.
dóng góp nhiều ý kiến thảo luận về vấn đề cách tiếp cận
nghiên cứu so sánh giáo dục. Họ thấy ràng để tự khảng định
mình, Giáo dục so sánh phải cung cấp “một sự hỗ trợ duy
nhất và rát đặc trưng trong việc giải thích các hiện tượng quan
sát được trong giáo dục và trong xã h ội...”.8'1 Đê làm được
như vậy, họ quay sang các phương pháp của các khoa học xã
hội đương đại mà họ khảng định rằng chúng được đặc trưng
bởi sự nghicn cứu có hệ thống, có kiểm soát, thực nghiệm và
định lượng (ờ những phần có Ihể) những giả thuyết đã dược
phát biêu tường minh. Thông qua một cách tiếp cận như vậy,
họ sẽ khám phá ra các mối quan hệ giữa giáo dục và xã hội và
họ sẽ kiểm nghiệm lại các giả thuyết với các số liệu của các
nước, đây chính là sự đóng góp đặc biệt của Giáo dục so
sánh. Nhu vậy môn học này đối với họ thể hiện “sự giao nhau
cùa các khoa học xã hội, nghiên cứu giáo dục và phương diện
liên quốc gia”.*3 Bản báo cáo đầu tiên về sự cộng tác của họ
in năm 1967 và một lời phát biểu đầy đủ hơn in năm 1969
trong cuốn sách Tiến tới một kh oa học giáo dục so sánh.**
Một cuốn sách được tập hợp lại các ý kiến để minh hoạ cách
tiếp cận khái quát của họ in cùng năm đó là Nghiên ám khoa
học trong Giáo dục so sánh.*4
Trong lời nói đầu cuốn sách của mình, Noah và Eckstein
nêu rằng họ nói lên cùng một giọng điệu - chủ đề là nghiên
cứu thực nghiệm và định lượng, và nói rõ ràng “các vấn để
giáo dục và xã hội cũng bao gồm các hiện tượng dễ có thể xử
sáng tỏ bằng việc nghiên cứu rộng hơn có tính liên quốc gia.
Một lần nữa đọc tài liệu và suy nghĩ, ta có thể đề ra những lời
giái thích, và từng bước bắt đầu làm sáng tỏ vấn đề, phát triển
một bộ câu hỏi hoặc phỏng đoán các mối quan hệ hoặc các đề
xuất giải thích. Thí dụ, ta có thể quan sát thấy rằng hệ thống
giáo dục ở một sô nước có tiếng là canh tân, trong khi ở một
sô nước khác được coi là bảo thủ. Sau đó ta có thể suy nghĩ về
các cách đổi mới liên quan đến các đặc điểm riêng biệt của
các xã hội. Có lẽ có một môi quan hệ giữa sự đổi mới và các
hệ thống chính trị riêng biệt, hoặc sự ngự trị của các hệ thống
tôn giáo và truyền thống riêng biệt, hoặc đặc điểm của các hệ
thống xã hội riêng biệt, hoặc các cách khác nhau trong tổ
chức và quản lý các trường. Như vậy ta có thể tiến tới một sự
cụ thể hoá sâu hem mỏi quan tâm, tới một sự phát hiện các tài
liệu tham khảo sẵn có về một mối quan hệ đặc biệt trong
nhiều xã hội, tới một sự chỉnh lý vấn đề hoặc các vấn đề ở
một mức cao hơn. Đến đày ta sẵn sàng chuyển sang bước sau:
(ii) Phát triển giả thuyết: Không giống như Bereday đã
đề nghị có các giai đoạn mô tả và giải thích rông rãi, tiếp theo
là đôi chiếu các số liệu đã dược thu thập và diễn tả trước khi
nêu các giả thuyết, Noah và Eckstein tranh luận rằng sự tích
luỹ quá rộng rãi các sô liệu là một loại công việc nói chung
rất lãng phí thời gian và sức lực, và thường có nghĩa rằng nhà
nghiên cứu không tuân theo một cách đơn giản các bước suốt
giai đoạn so sánh. Dĩ nhiên, nghicn cứu sơ bộ các tài liệu
tham khảo và thu thập thông tin là cần thiết, nhưng chỉ nên
tập trung vào việc làm sáng tỏ vấn đề để cho giai đoạn này có
thể vạch ra để nghiên cứu một cách hệ thống và chi tiết. Giai
184 NGUYỄN TIẾN ĐẠT
đoạn này tiến hành thông qua việc nêu các giả thuyết, nó sẽ
cung cấp cho ta đồng thời một trọng tâm nghiên cứu và một
sự khởi đầu hữu ích trong việc giới hạn các số liệu phù hợp.
Như ta mong đợi, các loại giả thuyết được phát triển phụ
thuộc vào tình trạng kiến thức và lý luận trong lĩnh vực
nghiên cứu - cơ cở nghiên cứu trước đây là kiến thức và các
giải thích đã xây dựng nên càng vững chắc, thì các giả thuyết
càng chính xác và cụ thể. Như trong thí dụ đã nói, ta có thể
nêu một giả thuyết rằng “trong một hộ thống xã hội càng mở,
thì hệ thống nhà trường và hệ thống giáo dục càng có nhiều
đổi mới”. Ta có thể biết được rằng các tài liệu tham khảo về
các hệ thống xã hội “mở” và “đóng” và sự đổi mới trong giáo
dục sẽ giúp ta xác định các khái niệm và chọn các biện pháp
sau này, nhưng ở giai đoạn này ta có thể vừa lòng với việc
kiểm nghiệm mối quan hệ phỏng đoán giữa “sự mờ” và “sự
đổi mới” theo các từ ngữ chung nhất.
(iii) Xác định các khái niệm, các chỉ sô và tiêu chí: Như
ta đã thấy, sự mơ hồ về định nghĩa các thuật ngữ và khái niệm
là một cái bầy vì sự không cẩn thận trong lĩnh vực Giáo dục
so sánh, vì thế ta cần làm rõ ràng ý nghĩa của mọi thuật ngữ
và khái niộm liên quan. Trong thí dụ minh hoạ ở đây xác định
các khái niệm “sự mở”, “hộ thống xã hội”, “sự đổi mới”, “hộ
thống nhà trường” và “hệ thống giáo dục”. Tuy nhiên, chúng
ta đặc biệt phải làm cho các khái nhiệm “sự mở” và “sự đổi
mới” trỏ nên có tác dụng, có nghĩa là xác định chúng bằng
những sự đo lường qua các chỉ sô và tiêu chí khác nhau. Bằng
cách này ta bước tới một giai đoạn thứ hai của giải pháp cho
vấn đề lựa chọn các số liệu thích hợp. Ta thực sự cho rằng
GIÁO DỤC SO SÁNH 185
không thế đo lường “sự IĨ1Ờ” của một hệ thông xã hội một
cách đầy dủ, vì vậy ta sẽ chọn các chí sô khác nhau vổ sự mở
đó. Rõ ràng rằng việc lựa chọn các chỉ sô chắc chắn (nghĩa là
các chi số thực sự cung cấp một sự đo lường khái niệm) là rất
quan trọng. Nếu ta xác định “sự mớ” là khả năng vận động
trong hệ thống xã hội, ta có thể có các chỉ sô như thành phần
kinh tế xã hội của những người nắm các vị trí cấp cao nhất
được thừa nhận trong thương mại và công nghiệp, thành phần
kinh tế xã hội của sinh viên đại học. Nhận định ở đây là trong
một xã hội IT1Ở sự đại diện của các nhóm thuộc thành phần
kinh tế xã hội ờ cấp cao nhất hoặc ở trình độ đại học sẽ gần
sát đúng như sự đại diện của họ trong xã hội so với các xã hội
mở; diều đó có nghĩa là các vị trí cao trong xã hội và và cơ
hội tiếp tục được giáo dục sẽ mở rộng hơn cho các nhóm kinh
tế xã hội khác nhau so với các xã hội đóng. Còn bao nhiêu chỉ
sô và tiêu chí cần được chọn và chúng cần phải rộng hay hẹp
như thế nào, điều đó phụ thuộc vào bản chất của khái niệm và
những gì đã biết về khái niệm ấy.
đích, có thể các khu vực như châu Mỹ Latinh hoặc Đỏng Nam
A có thế là phạm vi so sánh, và theo các mục đích khác đó lại
là các vùng trong một nước. Trong trường hợp sau, so sánh có
thể dựa trên cơ sở các đơn vị hành chính-chính trị các bang,
các tính, các huyện, hoặc có thể được xác định trên phạm vi
khác, thí dụ như thành thị và nông thôn, thậm chí tới cơ sở
đào tạo. Tương tự như vậy, so sánh không cần bị hạn chế ở
một thời điểm. Thí dụ, các mối quan hộ giữa hệ thông giáo
dục và các hệ thông chính trị hoặc kinh tê ở một nước có thể
được xem xét kỹ ở các khoảng thời gian dùng để kiểm
nghiệm lại các giả thuyết, và các nghiên cứu liên quốc gia
cũng có thê phát triển trên cơ sở này.
(v) Tliu thập sô'liệu: Đến đây nhà nghiên cứu đôi mặt với
với cả hai vấn đê là thực tiễn và phương pháp luận. Một số
vấn đề thực tiễn là chung cho nhiều lĩnh vực và bao gổm
những khó khăn về truy cập các nguồn, các loại sỏ liệu đặc
biệt và các hình thức thu thập, cũng như các câu hỏi về sự đại
diện, sự đầy đủ và sự tin cậy của số liệu. Tuy nhiên có một số
số liệu khác thường đôi với Giáo dục so sánh và nhảy hẳn ra
ngoài phạm vi liên quốc gia. Các vấn đề đi tham quan và tiện
nghi sinh hoạt khi đi, vấn đề ngôn ngữ, vấn đề diễn tả những
sự khác nhau về văn hoá là những thí dụ chung. Nếu ta nhờ
người khác thu thập số liệu, các khó khăn khác vé thông tin
giao tiếp và dộ tin cậy thường xảy ra. Mặt khác, giới hạn số
liệu ở những gì sẩn có thường quá chật hẹp đối với một
phương án có thê chấp nhận được. Người ta nói rằng chắc
chắn nhiểu nhà nghiên cứu so sánh giáo dục, nhất là những ai
dạy học ờ nhiều cấp khác nhau, hoạt động trên cơ sở tìm các
188 NGUYỄN TIẾN ĐẠT
tài liệu có sẩn, chỉ một tỷ lệ rất ít mới có được các nguồn
hoặc vai trò chuyên môn cho phép nghiên cứu liên quốc gia ở
mọi phạm vi. Tuy nhiên, Noah và Eckstein đưa ra phương
pháp của mình cho tất cả những ai tham gia vào lĩnh vực Giáo
dục so sánh và mong đợi rằng khi thu thập số liệu họ sẽ làm
việc trong giới hạn của những gì có sẵn. Như vậy, biết loại tài
liệu nào là quan trọng, đã có nguồn tài liệu chủ yếu nào và
thông tin nhận được như thế, đó là những điều rất quan trọng.
Và phát triển các phương pháp hữu hiệu để quản lý số liệu,
nghĩa là thu thập, ghi lại và tổ chức các điểm chi tiết về thư
mục và các số liệu khác phù hợp với mục đích nghiên cứu, đó
là những điều cần thiết.
Giống như Holmes, Noah và Eckstein thừa nhận rằng số
lượng tài liệu có sẵn và việc lựa chọn từ đó các số liệu thích
hợp với các giả thuyết là một vấn đề chủ yếu của cách tiếp
cận. Họ thấy trước rằng nêu sớm một hay vài giả thiết, sử
dụng một sô' giới hạn các chỉ số, và lựa chọn có suy xét các
trường hợp sẽ giúp ta giải quyết vấn đề. Họ cũng hy vọng
rằng nơi nào có thể, sự lượng hoá kết quả sẽ khắc phục được
các vấn đề về khả năng quản lý số liệu và cung cấp cho ta sự
so sánh sẵn sàng và chính xác hơn. Trong thí dụ vể “sự mở và
sự đổi mới”, ta có thổ thu thập sô' liệu về tình hình kinh tế-xã
hội của những người giữ vị trí cấp cao trong thương mại và
công nghiệp và sinh viên đại học ở mỗi nưóe trong số sáu
nước đã chọn theo cách đã mô tả trước đây. Ta có thể xem xét
các chi số có ý nghĩa tương đương hoặc đo lường “mức độ
mở” của hệ thống xã hội, và sau đó xếp hạng các nước từ độ
mở nhỏ nhất với sự phối hợp của hai chỉ số. Nếu ta thấy một
GIÁO DỤC SO SÁNH 189
chí sò này có ý nghĩa nhiéu h(Tn một (hay vài) chỉ sô khác, ta
cần phải cho nó một hệ sô thích hợp - dựa trên một sô tiêu chí
khách quan nếu có thể, nhưng, nêu không được thì dựa trên
một sò cơ sở phát biểu nào đó nhưng rõ ràng.
Ngoài ra ta sẽ xác định “mức độ đổi mới” trong thuật
ngữ làm việc thông qua nhiều chỉ sỏ - thí dụ đo số lần đổi
mới đã lập kế hoạch trong mời năm qua vé chương trình,
phương pháp dạy học, tổ chức nhà trường, mô hình quản lý và
kiểm tra đánh giá. Sau khi đã thu thập và phân tích các sô
liệu, ta cần phải phát triển một sự xếp hạng hệ thông giáo dục
của các nước theo thứ tự từ nhiều đến ít đổi mới nhất.
(vi) À'ử lý sô liệu: Các quy trình vừa mô tả như trên đã
được đơn giản hoá nhiều để phổ biến dưới dạng chung. Thí
dụ, khái niệm “mức độ đổi mới” cần phải được xem xét rất
cẩn thận - không chỉ xem xét xem có sự mơ hồ về dịnh nghĩa
trong các tài liệu tham khảo, mà chú ý tới một xu hướng đặt
một giá trị tích cực về đổi mới như “một tố chất trong bản
thân nó”. Câu hỏi “đổi mới theơ hướng nào?” có thể nhắc ta
rằng một sự đổi mới có kế hoạch, thí dụ như đưa việc trừng
phạt nghiêm trọng đến thê lực học sinh và một chế độ nghiêm
ngặt trong lớp học, lại có thể chứng minh đó là sự đổi mới
trong một hệ thống giáo dục đặc biệt. Việc làm sáng tỏ các
nhận định và định nghĩa cẩn thận các khái niệm là không đơn
giản, mà cũng không phải là sự phát triển các hình thức thích
hợp để phân tích và xử lý số liệu. Kỹ thuật mới được áp dụng
sẽ làm thay đổi tình hình và thích hợp với các hình thức đo
lường hoặc các chỉ số được quyết định trong việc thiết kế
190 NGUYỄN TIẾN ĐẠT
nghiên cứu cơ bản. Trong trường hợp ta đã theo một quy trình
đơn giản dựa trên cơ sở những gì mà Noah và Eckstein đã
nêu, ta sẽ có thể so sánh thứ tự của sáu nước vể “mức độ mở”
và “mức độ đổi mới”. Nếu xảy ra trường hợp thứ hạng được
xếp như nhau ở mọi phạm vi, ta có thể kết luận rằng giả
thuyết đã đứng vững. Trong trường hợp có hay không một
mối quan hệ tích cực hay tiêu cực hoàn hảo, ta cần thiết lập
các tiêu chí được thoả mãn trước khi giả thuyết có thể duy trì
hoặc bỏ đi.
(vi) Diễn tà các kết quả: Trong giai đoạn này, cả các kết
luận và quá trình đi tới kết luận được xem xét lại. Thí dụ,
trong suy nghĩ người ta có thể cho rằng giả thuyết đã nêu
không thích hợp, hoặc trong thực tế các chỉ số là không chắc
chắn, hoặc các quy trình lượng hoá không được chi đạo tốt vể
một số mặt. Nhận định như vậy có thể dẫn tới việc tiếp tục
nghiên cứu để cố gắng khắc phục các điểm yếu. Tuy nhiẽn,
dù cho đã thoả mãn vói các quy trình, sự vận dụng những tìm
tòi trong kiến thức và lý luận hiện có vào những vấn đề hoặc
các quyết định về chính sách cần phải được xem xét.
Khi bênh vực cách tiếp cận dựa trên quy trình này, Noah
và Eckstein không đòi hỏi nó là một phương thuốc trị bách
bộnh - trên thực tế họ nói vể các vấn đề bổ sung được đ ưa
thêm vào bằng sự cố gắng vận dụng các phương pháp c ủa
khoa học xã hội vào công việc so sánh giáo dục. Một số ván
để đã được chỉ rõ trong phần mô tả ở trên, nhung ngoài ra ta
cũng phải chi rõ một sự đặt câu hỏi trong nhưng năm gần đây
về định nghĩa của các phương pháp trong khoa học xã hội.
Đặc biệt là hiện nay xuất hiện sự chấp nhận các cách tiếp cán
GIÁO DỰC SO SÁNH 191
khòng có cùng những đòi hỏi về tính khách quan, hoặc cùng
một nhận định vổ những gì tạo nên kiến thức, hoặc cùng một
sự nhấn mạnh về sự định lượng. Tuy nhiên, Noah và Eckstein
tin rằng một “cách tiếp cận bao gồm những sự hiểu thấu trực
giác và những ngẫm nghĩ suy đoán của người quan sát, đưa
đến sư kiểm nghiệm thực nghiệm có hệ thống sẽ cho ta hi
vọng tốt nhất về sự tiến bộ của giáo dục so sánh”.*4
bằng tiếng Anh và nhiều bài bằng các thứ tiếng khác đáng để
nghiên cứu một cách nghiêm túc.
Tuy nhiên, nếu thừa nhận điểu này, ta có thể khẳng định
chắc chắn rằng các nhà nghiên cứu so sánh giáo dục đã nêu
chính là những ngời đóng góp tiêu biểu cho lĩnh vực này và
họ cũng được coi là đại diện cho một số cách tiếp cận khác
nhau cùa Giáo dục so sánh. Thí dụ, người ta đẽ nghị rằng
Kandel và Hans đại diện cho cách tiếp cận lịch sử-triết học,
Bereday đại diện cho một cách tiếp cận liên môn, Holmes đại
diện cho cách tiếp cận vấn đề hay tiếp cận giải quyết vấn để
bằng cách áp dụng một phương pháp khoa học, King đại diện
cho cái mà người úc gọi là “ngựa đua”, đó là phương pháp
đặc biệt (tiếp cận mục đích) dùng để thực hiện các mục đích
đặc biệt, còn Noah và Eckstein đại diện cho một sự cố gắng
phát triển Giáo dục so sánh trong phạm vi khoa học xã hội với
cách tiếp cận khoa học xã hội. Có những vấn để trong việc
phân loại các học giả trên, đặc biệt là có thể có nhiều sự trùng
lặp, nhưng nói rộng ra, việc phân loại giúp ta mô tả tính đa
dạng và phức tạp của Giáo dục so sánh hiện nay.
Tuy nhiên điều quan trọng là hầu hết các học giả nêu
trên, người này có thể liên hệ với người kia, chia sẻ rộng rãi
những nhận định và cách tiếp cận của mình. Thí dụ, sinh viên
và giáo viên với một bối cảnh lịch sử, triết lý, ngôn ngữ và
văn học nhất định sẽ tìm thấy một số sự cải tiến trong cách
tiếp cận của Kandel và Hans, cho là đối với họ hấp dẫn hơn
đối với cách tiếp cận của Noah và Eckstein. Họ cũng là nhóm
người rất thích tìm ra một chỗ cho trực giác, suy nghĩ và phán
GIÁO DUC s o SÁNH 193
Tabuggaree nói về đời sông trong hoàn cảnh nước nàv khi bộ
phim truyền hình sáu tập M a r i o n cùa C lif f Green tliường
được coi là tác phấm gợi nên các điểu đắng cay trong kinh
nghiệm của m ột giáo viên trẻ trong m ột nhà trường nông thôn
ớ bang V ic to ria trong những năm 40. Cuốn G i á o dục Young
mom Im ơ nhfmiz kicn thức tìm dược một cách khoa học và
x u n xét str n h ì n nhận cua ca n h a n với Iĩìột sự Iìiĩhi
c I1ÍZC1
C- M ót
só người khác lại đumi hoà ca hai trong một sự cản băng,
ninrơi
V
này hổ sune
cr
cho nuười
c.
khác. Ho• thừa nhân rang
cr
các tư
truyện và lieu thu vết thường là các tài liệu riêng vé cá nhân,
đói khi phán ánh kinh im hiệm và ký ức nhưng đói khi là dặc
sác và khỏntỉ nhát thiết phái đúng là kinh nghiệm cùa nmrừi
khác. Trongc khi nehiôn
c cứu hình ánh <1;i *y đú nhát hay cân
ba nu họ sè dật các tác plìám áv bên cạnh kiến thức và sư hiểu
hiél khái quất hoá dưới các dạnỉĩ câu hòi khác. T u y nhiên, sự
đỏììíi góp của các nhà sans tác khỏng chì là cunR cấp một
phiên han dãy màu sác và gáv án tượns những gì họ khám
pha hàng các cách khác xác thực hơn, hoặc bầng cách cun«
cap một sô tài liệu bổ sung nhưng thứ yếu. N ó có giá trị riêng
của nỏ tronc việc thoát khỏi các nhặn thức mới vê các sự kiện
và mối quan hệ và hằng cách phát trien các cách khác đế phân
tích hiện thực. V à dó không chi có nhà sáng tác có thể xác
định sự dóng ẹóp cua m ình theo cách nàv. Holm es hênh vực
cho phmmu phấp nghiên cứu so sánh khoa học dã viết: uSự
hiếu thấu của những người viết tiếu thuyết đi sâu vào các vấn
dể lớn trong một nước cũng giống như cách của nhà xã hội
học. Sự hicu biết của họ vé nhân cách con người theo cách
nhận thức giống như nhà tâm lý học. Nhận thức cùa họ về
truycn thốnc của một quốc gia dược làm sáng ló giống như
cách cùa nhá sử học. Nói tóm lại sáng tác văn học cỏ thế bổ
sunII
C- rát nhiều cho một
• SƯ hiêu biết ve các vấn dể cgiáo dục và
Rõ ràng ràng nhũng nhận định và các cách tiếp cận của
các nhà sáng tác văn học, các nhà khoa học xã hội và các Iihà
sử học là khác nhau, nhưng mỗi người đều đi tìm sự hiểu thấu
con người và xã hội, mỗi người đều đóng góp vào sự hiểu biết
của chúng ta về giáo dục và những sự khác nhau về các loại
hlnh và những thực tiễn giữa xã hội này và xã hội khác. Có lõ
nhiệm vụ quan trọng là khám phá ra những điểm mạnh dặc
biệt và những giới hạn của từng điểm, để chấp nhận những sự
đóng góp hiệu quả nhất của những điểm ấy, và để mở ra các
khả năng quan hệ với nhau hoặc liên kết các hoạt dộng.
Cũng giông như Kandel và Hans có thê là đại diện cho
một nhóm người mà những nhận định và hoạt động trong
Giáo dục so sánh là rất giỏng nhau, Noah và Eckstein đại diện
cho một sô người ngày càng nhiều thêm nhìn thấy con đường
phía trước đi theo các nhận định và các phương pháp của khoa
học xã hội. Xét về mặt này ta có thể chọn các đóng góp của
Arnold Anderson ở Trung tâm Giáo dục so sánh Đại học
Tổng hợp Chicago trong việc xem xét đặc biệt hoặc chú ý một
cách chi tiết đến các dự án của IEA (Hội Giáo dục quốc tế)
cho rằng Noah và Eckstein được coi là tiêu biểu cho các cách
tiếp cận mới nhất của Giáo dục so sánh.
Trong một bản ghi nhớ nãm 1957, nhà xã hội học
Anderson và nhà kinh tế học Mary Jean Bowman vạch ra một
loại dự án nghiên cứu mà họ tin rằng Trung tâm Giáo dục so
sánh mới ở Chicago có thể tiến hành. Thí dụ họ đề nghị tiến
hành các dự án về sự so sánh quỗc tế và quốc nội về quy mô,
sự phân bố mạng lưới và sự tuyển sinh của nhà trường; nghiên
cứu so sánh vổ thái độ giá trị, nội dung dạy học và vai trò của
nha trườnẹ trong giáo duc; nghiên cứu so sánh về chi phí xét
vé mật kinh tô và những thu hoạch của giáo dục chính quv, và
sự đánh giá giáo dục như một sự đầu tư vào nguồn vốn con
người và các những lợi ích khác đem lại. '4 Trong các thí dụ
như thố, G iáo dục so sánh được xác định là một lĩnh vực gắn
liến với inỏị quan hệ giữa giáo dục và xã hội, đặc hiệt là theo
một ý nghĩa về chức năng, và một điểm trong đó là các sỏ liệu
phái là điển hình liên quốc gia, nhưng phương pháp phải phù
họp với các khoa học xã hội.
dục trong các nền vãn hoá.'w’ Tuy nhiên, có lẽ phát biêu rõ
ràng nhất vé cách tiếp cận của mình dược viết trong hài
Phươnq pháp luận của Giáo dục so sánh, in năm 1961. Theo
ỏng, Giáo dục so sánh không đòi hỏi phải có một phương
pháp nghiên cứu mới - mà “chỉ vận dụng các phưưng pháp
nghiên cứu khoa học xã hội phụ thuộc dược hướng dần bới
các vấn đề phù hợp và gav Cấn hơn”.97 Các phương pháp này
có thể vận dụng vào việc phân tích giáo dục quốc nội. nghĩa
là nghiên cứu được khoanh gọn ở các sỏ liệu giáo dục (thí dụ
như sự biến đổi chương trình dạy học giữa các nước) hay vào
việc phân tích giáo dục thuộc xã hội, nghĩa là nghiên cứu các
vấn đề và các nhân tố của giáo dục trong một xã hội nhất
định, diễn tả với các sô liệu song song từ các nước khác.
Anderson viết: “Giáo dục so sánh được xác định như sự so
sánh giữa các nền vãn hoá về cơ cấu, hành động, mục tióu,
phương pháp và thành lựu cùa các hệ thống giáo dục khác
nhau, và các mỏi quan hệ của các hệ thống này với các yếu tố
của các hệ thông khác”.95
Khi đưa định nghĩa này vào trong hành động, Anderson
lưu V cần phải nhấn manh các cách phân tích các mỏi quan hệ
giữa giáo dục và xã hội, sử dụng các sô liệu liên quổc sia, và
sự cần thiết phái xây dựng các mó hình và hệ thông loại hình.
Thừa nhận một xu hướng giữa các cách tiếp cận cá nhân hoá
và khái quát hoá, giữa sự nghiên cứu tính duy nhất của các
Im . II:' hợp nciiiỉ b k i vãviệc tim tòi các mo hình hay tinh quy
lita! tronji Ithieu trườn lĩ liơp. Amleison thay rõ nội cỉmm cân
co cua tác klioá liọc vé (ìiáo dục so sánh sau này -- đó la sự
11111 loi cơ sớ và các mói quan hẹ chung giữa giáo dục và xã
hụi. Tiieo orm Giáo dục so sánh pliái xứ lý “hệ thống phức tạp
các moi quan hẹ giữa các đặc dicm của giáo dục và các nét
(lạc trưng cùa cấu trúc xã hội với một chút tham kháo tính ca
biet cua các xã hội từ số liệu ta dã rút ra"."' Đ ặc hiệt ông tin
ranu can phai chú V nhiêu hưn đèn những thành tựu và các san
phàm cùa giáo dục. ỈTÚ dụ. õng lạp luận rằng sỏ liệu thòng ké
vẽ so lượn«CT học sinh ngày
CP càng
c tăiiíi
c ớ các bậc học khác nhau
cach khac nhau dung lie m o tá, phán í ích va diên ciat hiên
thuv xa họi.
I'uy nhiên khôn ụ nên cườim điệu kicii thoa hiệp. C ó the
ncn lam m ôn" như thái đỏ của một nhỏm nu ười làm chính trị
hoac theo tôn <11 áo tin ránư cỏ một chân lý lu vệt đòi, nlìirne
cluiãn hí hợp tấc với nhínm nmrời khác (V một số điem khác
nhau tron ụ niêm tin mà lịch sử. hoặc thời gian, hoặc quyổn lợi
v.v. clứnu ve phía họ. Như vay, Noah va Eckstein kliong muốn
loai bõ những sư quan tám và phươníi pháp của nhà khoa học
nhãn vãn, nlnrnsz van m uon làm rỏ ráng lương lai của G iá o
dục so sanh nằm tron ạ phạm Vỉ các khoa hoc xã hội. Holmes
cĩinaV hv- \ one
‘ c rãne
c “ lĩnh vưe Giáo due so sánh sẽ thu hút
những nhà triết hoc. xã hội học, kinh tế hoc, khoa học tư
nlìicih tlìònc«L- kê hoc,
- nsiôn
cr nuữ hoc
. và khoa hoc clìính tri" vì
mói niurời có the “đóne góp cho khoa hoc ẹiáo dục...”.
“Khoa học” ở đáy có liên quan đến kiên thức hoặc chân lý
lìm toi hoạt động, nlìimg chắc chấn là một sỏ nhà triết học, sử
học và ntỉỏn Iiíũr học cớ thó muốn biết phán đóng góp của họ
ờ đây là như thế nào.
Việc tiếp tục mớ rộng Giáo dục so sánh thành một sự tập
hợp đa dạng các mòn học dóng góp vào nó đã đật thành cáu
hỏi vổ sự tư kháng dinh cùa nó. Thí dụ. nếu có các vấn đc dặc
biệt trong giáo dục dược xem xét ớ phạm vi giữa các nén V tin
hoá. được trá lời tốt nhát trong khuôn khổ một môn hoặc
nhiều môn học hợp tác vứi nhau, thì việc làm cho Giáo dục so
sánh trớ thành một mồn học hoặc một lĩnh vực nghiên cứu sẽ
được giúi thích như thô nào? Hiện Iiav ít nhất có ít Iihât ba
cách trá lời câu hói ké trên. Một là kháng định Giáo dục so
204 NGUYỄN TIẾN ĐẠT
sánh là một môn học riêng biệt, có phương pháp riêng của nó
— đó là phương pháp so sánh. Đ iề u này có thê coi như là một
phản ứng của quan niệm cũ đã nêu lên trước đây. Như Foster
đã viết năm 1960: “ Người nghiên cứu so sánh giáo dục có xu
hướng trở thành một người nghiên cứu thứ yếu, một người
phối hợp các thông tin không đồng nhất thường xuyên tập hợp
bởi các môn khoa học xã hội phát triển hơn. Trên thực tế,
điều này khuyến khích một kiến thức tương đối nông cạn về
một sự đa dạng rộng rãi của các môn học, thí dụ như K in h tế
học, X ã hội học và Nhân chủng xã hội học, và một mức dộ
cao hơn tương đối về sự khái quát hoá lỏng lẻo và sự quan sát
không hoàn hảo. N hu cầu có một cách tiếp cận môn học riêng
chuyên cho phân tích so sánh các vấn đề giáo dục, không chỉ
có mô tả, là một diều rất rõ ràng” . 11X1
Cách trá lời thứ hai the hiện quan diem ngược lại — đó là
G iáo dục so sánh không thê dược xác định nhu một lĩnh vực
khoa học hay mòn học riêng hiệt. Sự so sánh đơn giàn là một
quy trình mà các nhà nghiên cứu sir dụng trong các môn học
dã hình thành trong các thời gian khác nhau. Luống suy nghĩ
chính cùa các nhà nghiên cứu hoặc giáo viên là cổ một món
khoa học rient’ biệt và vận dụng dưực vào giáo dục, bao gồm
cá việc so sánh, họ cho ràn tì dó là lời khuyên thích hợp nhất
và là cần thiết. Trong trường hợp G iáo dục so sánh không có
một cơ sớ xác định rõ ràng ớ một món học đã được chấp nhận
và đã là một cái thùng đựng mọi loại tiếp cận, lôgic của một
quan điém như vậv bị phàn đối. T u y nhiên người ta cho rằng
những ai làm việc trong môn X ã hội học, hoặc K in h tế học,
hoặc Sử học sẽ chú ý một cách hệ thống và liên tục tới những
nghiên cứu so sánh giáo dục. Kinh nghiệm cho thấy rằng đó
là một diều rát không chắc chắn. Ngoài ra người ta cho rằng
nghiên cứu và điều tra bao giờ cũng giới hạn trong các môn
học truyền thông và có tính thừa kế, và các lĩnh vực mới đó
đòi hỏi cách xử lý khác sẽ không xảy ra. Nhung điều quan
trọng hem là thực sự có một sự cô gắng xác định G iáo dục so
sánh không tổn tại, trong khi đó người ta đã chứng minh rõ
ráne lĩnh vực nàv không chi đã xuất hiện lâu rồi, mà còn đang
tồn tại và phát trien. H iện Iiav, trên W ebsite C o m p a ra tive
E ducation (G iáo dục so sánh) cùa mạng máy tính thường
xuyên có bốn chục thư mục lớn bao gồm gần ba vạn thư mục
nhỏ. Chác chán là có các vàn đề trong việc xác định sự tồn tại
cùa G iáo dục so sánh, nhưng đó là các vấn đề của sự phát
trien, biến đổi và đổi mới.
206 NGUYEN TIEN DAT
Cách trả lời thứ ha bãt đáu hằng việc khắng dinh rằng đó
là một nhu cấu liên tục trong việc nghiên cứu giáo dục giữa
các quốc gia và giữa các nén vãn hoá, và điểu này đòi hói các
nhà nghiên cứu cùng nhau rút ra một lĩnh vực hữu ích rộng rãi
từ các bối cảnh khác nhau. Những người tham gia làm việc
bên ngoài các môn học cơ bàn của m ình nhưng có một sự
cam kết chung đối với giáo dục, đặc biệt là ở phạm vi giữa
các nến vãn hoá, và có một mỏi quan tâm chung dổi với các
vấn để và phương phap so sánh. Trong phạm vi lĩnh vực hữu
ích rộng lớn này có chỗ cho sự nghiên cứu chính xác và chắc
chắn ờ một sô mức độ (m ỏ tả, phân tích, diễn đạt); có chỗ cho
sự nghiên cứu các loại nghiên cứu khác nhau (nghiên cứu khu
vực, nghiên cứu tình huống các vân đé riêng biệt, và nghiên
cứu so sánh; có chỗ cho sự nghiên cứu hướng tới các mục đích
khác nhau (như mớ rộng các chân trời giáo dục và vãn hoá cho
học sinh/sinh viên, kiểm nghiệm các giả thuyết về mói quan hệ
giữa giáo dục và xã hội bằng cách sử dụng các sô liệu liên
quốc gia, cung cấp các phương án vé chính sách được thiết kế
dể giải quyết các vàn đé giáo dục). T iế p theo là cũng có chỗ
cho những người đóng góp bằng một phạm vi rộng các kỹ năng
làm việc độc lập hoặc tập thổ, và phải có chỗ cho sự nghiên cứu
tiếp tục các vấn đé mới về cách tiếp cận so sánh.
nlũrnii u f cau eiáo dục chính quy va thực licn mao dục. nlurng
tron ự các 11CI1 van hoa khác và các truvcn thõng khác sự săp
XCỊ) các bộ phận lú áo dục la một phán trong đó. Bàng cách này.
sinh \ lẽn va giáo vịcn sẽ dược khuyên khích nhìn ròng ra nuoài
Nen mơi quôc eia cua mình \ã phát trien ca kiên thức và mỏi
quan tâm ve các xã hội khác, bớl di các quan niệm thiên cận.
họp hòi và tư cao dân tộc cua mình. Những nghiên cứu khu vực
và nehiên cứu tình IIUOI1" các vàn dề riéns biệt có thè cung cấp
mọt sự khơi đau cho mọt sự phát trien như vậy.
Tuy nhicn nhieu sinh viên có thế không lien xu hơn giai
đoạn giới
o thiêu,
• nhưng
C- nhữne
CT ai muốn đối mật
. với. một. loạt
các phương án da lla n o , mỏi phương án nêu lên sự nhan manh
cố phán khác nhau và đòi hỏi cấc phươns pháp nghiên cứu có
phan khác nhau. M ộ t số sinh viên sẽ trở nôn quan tâm đến
IMUO dục và vãn hoá của các xã hội khác dạc biệt, và thônq
qua kiến thức về ngôn nạữ, các chuyến thãin và nghiên cứu
dài ncày sẽ m an« lại sư hiếu biết sáu sắc vổ các xà hội đó.
M ộ t sô sinh viên sẽ trớ nên quan tâm đến một sỏ m ối quan hệ
giữa hộ thống giáo dục và các hệ thống kinh tố, chính trị, xă
hội hoặc tôn giáo và tìm hiểu các mối quan hệ áy trong phạm
vi cũng như giữa các xã hội đó. Cách tiếp cận của Noalì và
íx k s te in va một sò cách tiếp cận tương tự có the là những
khới điên ì hưu ích. T u y nhiên, những người khác có the quan
tâm đến sự đòi phó dang hiến dổi của các nước khác nhau
t r o i m í h ờ i u i a n v ừ a q u a d ố i v ơ i c á c v ấ n đ ổ c h u n n như m ở r ộ n SI
cỉổne nhiổu hơn vào việc quán lý giáo dục cũng như đúc kết
nhữnẹ nẹhicn cứu của họ trong khuôn mầu cùa nhà sử học
cân đại.
208 NGUYẺN TIẾN ĐẠT
Trong khi một sô người tập trung vào những nghiên cứu
giáo dục giữa các nền vãn hoá, được thiết kế ra đe phát triển
hơn nữa kiến thức về các hệ thông giáo dục, các quá trình và
các môi quan hệ với xã hội, một số người khác lại bị thu hút
nhiều hơn vào những nghiên cứu thuộc loại thực tế và cải
cách. Và đó cũng là mối quan tâm chủ yếu của nhiều nhà
quản lý giáo dục và các cơ quan quốc tế. Trường hợp xảy ra
cho vấn đề này và những nghiên cứu định hướng vào chính
sách được thiết kế ra để thông báo với các nhà hoạch định
chính sách hoặc tạo ra những sự lựa chọn chính sách trước khi
việc lựa chọn này được lập luận theo cách của King trong
những năm vừa qua, và người ta còn quan tâm tiếp những bài
viết sau này của ông vé vấn đê đó. Tuy nhiên trung tâm cúa
khuyến cáo chính sách là vấn đề dự báo rất khó khăn, vì rõ
ràng rằng việc làm ra quyết định sẽ có lợi ích từ sự dự báo
chính xác và các kết quả đem lại từ những sự thay đổi chính
sách. Trong số những người nghiên cứu so sánh giáo dục,
Holmes chú ý nhiều nhất đến vấn để này, và điểu thú vị là
thấy được cách tiếp cận của ổng hoặc một dạng khác của cách
tư duy diễn dịch theo giả thuyết sẽ cung cấp cho ta một mỏ
hình làm việc được để phân tích và giải quyết vấn để.
Với những mục tiêu rộng của lĩnh vực này, sự đa dạng
của Giáo dục so sánh là không thể tránh khỏi và được hoan
nghênh. Dù rằng các vấn đề của tính đa dạng là một sự tản
mạn, thiếu sự khảng định và các mục đích thống nhất, và đói
khi là một sụ chiết trung nông cạn, hiện nay có chứng cứ đầy
đủ trong các tài liệu tham khảo về sự nhận thức những vấn đề
GIAO DUC SO SANH
na\ \ ,\ Illum e CO Jianiz l(Vn đe tranh hoặc klìãc phục tình hình
tin. V “U cac cuộc tháo luận vê mục đích va phương pháp đa
co phan <ii sau vào hên trong và dói klìi khỏ hieu, đặc biệt đối
với nl ùrniỉ
c
Hi*ười
V
mới bước vào nuhiên cứu và ntìửne ai khôĩìuC- C-c
4. Chọn cách tiếp cận cho một để tài nghiên cứu so sánh
giáo dục như thế nào?
CHƯƠNG V
K Ỷ T H U Ậ T SO S Á N H G IÁ O D Ụ C
I. M Ở Đ Ầ U
Thuật ngữ “kỹ thuật so sánh giáo dục” mới xuất hiện hơn
hai chục nãm nay, gắn liền với sự phát triển gần đây nhất của
Giáo dục so sánh theo xu hướng tâng cường nghiên cứu định
lượng nhiều hơn so với định tính. Trong giáo trình G iáo dục so
sánh cùa Lê Thành K hôi, ông dành phần thứ hai gần 150 trang
nói về “các phương pháp và kỹ thuật” , và giải thích rằng phương
pháp và kỹ thuật so sánh giáo dục không tách rời nhau./ữ/
bao (sự tương quan, sư hói quy,.. ). Phàn lớn kv thuât phục VII
cho Iihiéu mon khoa học. Thòng kẽ háu như dùng cho tát cả
cae món. điéu tra kháo sát chù yếu dùng cho Xã hội học, Tâm
lý học, Khoa học chính trị,... Sự phát trien và sự tinh vi cùa
kỹ thuật có thế gây nén áo tưởng cho răng nám vững kỹ thuật
là đú để tiến hành một việc nghiên cứu khổng cấn có sự suy
nglu trước vé phương pháp.
Kỹ thuât iuỏn luôn là rất cần thiết, không thế thiếu được
v à gàn liên với đòi tương. Nhưng sự tranh cãi về phương pháp
“đinh tính” hay “định lượng” ngày nav đã qua rồi. Người ta
cho ráng có hai cách tiếp cận bố sung cho nhau, tuy rằng sự
cõng hiên cua mỗi cách là khác nhau IuV theo dối tượníí
nghicn cứu. Nhưng người ta cũng đã cho rằng không có các
dữ liệu nào hoặc kỹ thuật nào là truna lập. Nếu các kỹ thuật
do phưcmg pháp xác định, thì kỹ thuật lại xác định các kết
quả, và ta cần có ý thức về diều này đê đừng có những sự diễn
tá và kết luận hão huyen, đưa ra các kết luận định tính Iììơ hồ
hoàn toàn khônẹ dựa trên cơ sở định lượng. Một trong các
quv tác cùa tính khách quan là chỉ rõ các phương pháp và kỹ
thuật sử dụng sao cho các nhà nghiên cứu khác có thể lặp lại
sự quan sát và lại rút ra kinh nghiệm, xác nhận được các kết
quả và có thể khái quát hoá, hoặc ngược lại là bác bỏ. Cần
nhắc lại rằnụ phát triển các dể tài nghiên cứu so sánh giáo dục
thiên vé định lượng hơn là thiên về định tính là xu hưứng Iĩiới
nhất hiên nay của Giáo duc so sánh.
Nội dung của kỹ thuật so sánh giáo dục bao gổm việc thu
thập, thống kẽ, mô tả thống kê, xây dựng các số liệu trên cơ
sờ các hộ thông phân loại giáo dục tiêu chuẩn hoá, xác định
các tỷ lệ và chỉ sô eiáo dục và lien quan đến giáo dục, diẻn tả
‘214 NGUYẺN TIẾN ĐẠT
các sô liệu nhằm mục đích nghiên cứu và giải thích, và diễn
giải các kết quả nghiên cứu so sánh giáo dục mang tính định
lượng. N ó i cách khác, xử lý sô liệu giáo dục, xác dịnh các tý
lệ, chỉ số giáo dục hoặc liên quan đến giáo dục, xác lập các
tiêu chí, giải thích hiện tựợng và vấn đề giáo dục, phát hiện
các nhận định so sánh, giải thích/diễn tả kết quả nghiên cứu
so sánh giáo dục bằng các phương tiện kỹ thuật mới là trọng
tâm của kỹ thuật so sánh giáo dục. Phạm vi thời gian giới hạn
dành cho môn học này ở chương trình đào tạo cao học về
quản lý giáo dục không cho phép trình bày tất cả các nội
dung trên, vì thế chương này chỉ tập trung vào mội số đề mục
dưới đây:
Sự quan trọng của thống kê trong xã hội hiện đại, vai trò
của thống kê trong sự quan niệm và việc đưa ra quyết định, cũng
như trong việc kiểm tra và đánh giá các chương trình kinh tế và
xã hội đòi hỏi các tiêu chuẩn chặt chẽ về định nghĩa, về danh
mục và sự thu thập các số liệu. Đ iều này liên quan đến việc đảm
bảo khả năng so sánh tối đa với nhau về số liệu giữa nguồn này
và nguồn khác, cho dù các nguồn số liệu có khác nhau.
Nếu như trong phạm vi quốc gia, các số liệu thông kê là rất
nhiều và chi tiết, thì trên phạm vi quốc tế việc so sánh có thể giới
hạn ở các đại lượng đặc trưng nhất, được định nghĩa và phân loại
theo một hệ thống được tất cả các nước chấp nhận, hay ít nhất là
phần lớn các nước. Chính vì vậy mà các cơ quan của Liên hợp
quốc đã cô gắng nghiên cứu ra sự phân loại tiêu chuẩn quốc tế
về các ngành hoạt động kinh tế (O .N .U ., 1968), về nghề nghiệp
GIÁO DUC SO SANH
ĩ. Mục dich của phán loại tiêu chuán quốc té VC giáo dục
1'lian loại tiêu chuẩn quốc tê về giáo dục (I.S.C .E.:
International Standard Classification of Education) mà
U N E S C O đề nghị nhằm cung cấp một cái khung kiểu mẫu dế
thu thập và dien tà các sô liệu thống kê liên quan đến các hoạt
dộng giáo dục (sô lượn« học sinh; giáo viên; văn bằng; tài
c h ín h ...). Sự phân loại này không thay thế được những sự
phán loại quốc gia, bởi vì cấu trúc của nó không bao giờ
tương ứng một cách chính xác tình hình đặc biệt của từng
nước. Đ ây là một sự phân loại về trình đỏ và nội duna giáo
due, khống phải là sự phân loại ve con người, cơ sớ đào tạo và
vãn hãng; nhưng dĩ nhiên việc phân chia theo các loại khác
nhau của hệ thông phân loại tiêu chuẩn quốc tê về giáo dục sẽ
trò nên phần nào dê dàng hơn. T h í dụ, phân loại sô lượng học
sinh chi tiết ít phức tạp hơn phân loại giáo viên, vì giáo viên
có thổ dồng thời tham gia nhiều chương trình giáo dục và
giáng dạy ở nhiều trình độ.
(chế độ liên hang hoặc khống, mức độ tự trị cua chính quyên
hoặc cơ quan địa phương)... Tuy nhiên các hệ thông phân
loại quốc gia có thể dựa vào các thành phần của hệ thông
phân loại quốc tế để cung cấp các sô liệu so sánh được với
nhau trẽn phạm vi quốc tế.
Hệ thông phân loại tiêu chuẩn quốc tế vể giáo dục cũng
tạo điều kiện dẻ dàng cho sự liên hệ giữa nhân lực và kinh tế
nhằm lập kế hoạch tốt hơn, nghĩa là tạo điều kiện dẻ dàng cho
sự liên hệ với hệ thống phân loại liêu chuẩn quốc tế về nghề
nghiệp (I.s.c.p.) do Tổ chức Lao động Quốc tế thiết lập. Hệ
thòng phân loại tiêu chuẩn quốc tế về nghề nghiệp dựa trên cơ
sở khái niệm nghề nghiệp, có nghĩa là một loại lao động
thường dược thực hiện, không có gì liên quan đến các ngành
hoạt động cũng như trình độ giáo dục phố thông hay dại học
của con người. Nhưng hệ thông phân loại tiêu chuẩn quóc tê
về giáo dục lại thể hiện các tiêu chí giáo dục, không liên quan
đến nghề nghiệp hoặc việc làm do cá nhân thực hiện. Nhung
cả hai hệ thống phân loại có liên hệ với nhau với ý nghĩa là có
nhiều chương trình giáo dục và đào tạo hướng về phía nghé
nghiệp, và ngược lại một số nghề nghiệp đòi hỏi có những vãn
bằng nhất định của các trường kế cả đại học. Người ta thây có
trong cả hai hệ thống các nhóm gần tưưng tự như nhau, nhiều
nhất là trong lĩnh vực giáo dục, các nghề như kiến trúc, y và
luật, kỹ thuật và công nghiệp.
2. Đ ịn h n g h ĩa giáơ d ụ c
Theo các mục đích của hệ thông phân loại tiêu chuẩn
quốc tế về giáo dục, giáo dục là mọi sự giao tiếp có tổ chức
GIAO DUC s o SANH 21
đe theo đuổi mục (lích học tập. Sự giao tiep đòi hoi mot moi
quan hộ mửa hai hay nhiêu người va kèm theo Iiìột sư liuyêii
dai thõng tin. V iệ c này dược tổ chức bàIIự một cơ quan iíiao
liuc, cơ quan này xác định các mục tiêu, chươim trinh và
plnrơniỉ thức, sư cỉụnu iiiao vieil, rheo đuổi ờ đây có imhia là
giáo (lục dược dặc trưim bới thời gian và sự liên lục. V iệc học
tập hao nom moi sư bien đổi vê hành VI, thông tin. kiên thức,
sư thoníi hieu. thái đỏ, các kv nãnc hoặc nãnu lue đe có thê
lăns cường thế lire và phát triến các đặc điểm nội tại.
Đ in h nehĩa ụiáo duc như trên bao ham mọi hoat dộng,
îroiiiz nìôt sô nước hoãc một sò thứ tiêna, niiười ta còn dùniỉ
thuãt ngữ khấc nliư là “đào tạo" hav “ phát triôii vãn hoa” , bao
uổrn mọi loai giao tiếp không đáp ứrm trực tiếp các niục tiêu
máo duc
cr . hoãc
. khòim^. được tổ chức theo mot trật tư hộ thóne..c.
Như vậy. inọi loại hình ciáo dục hàm ý học tạp. nhưnu nhiếu
hình thức học tập không thuộc vé giáo dục theo V nghĩa của hệ
thông phân loại liêu chuẩn quốc tế, chăng han như những hoạt
đon« nhàn dư (giai trí. thể thao, du lịch), tự học, giáo dục gia
đình và xã hội hoặc “ngẫu nhiên” hoặc các hành đông tách rời
không cẩn có sự I1Ô lực bàn thân (như các hội nỉỉhị. các cuộc
hội họp còng cận ” ): các chương trình giái trí, thónỉỊ háo hoặc
cóng bỏ trước cóng chúng; các hoạt dộng tập thế hoặc xã hội
khòng có mục đích giáo dục (các cuộc họp các càu lạc bộ hoặc
hiệp hội. các trại lao đ ộ n g ,... ).
Đ in
7 h nưhĩa
c như thế rộng
c? vổ một sò mặt
* và có sư
• hạn chê
o Iĩiột sổ mật khác. Nó đáp ứng cơ han sự cán thiết cúa sỏ liệu
thống ké. Nổ hao quát tất cả những gì có thể nám được, giáo
duc trong nhà trường và ngoài nhà (rường, uiáo dục thanh
218 NGUYỄN TIẾN DAT
T rìn h độ dạy học không được định nghĩa theo tuổi người
học, thời gian của chương trình dạy học và phương pháp trình
bày nội dung dạy học. Đ ó là các nhân tó biến đổi khác nhau
giữa nước này và nước khác và không thể sử dụng trên phạm
vi quổc tế làm các tiêu chí. Cũng như vậy, sự tưưng đương
văn bằng chỉ có thể thiết lập sau khi đã nghiên cứu chi tiết các
hệ thống giáo dục.
Trong tất cả các nước đéu tồn tại một liạt nluin do Ihệ
thông nhà trường phổ thông và đại học xây dựng nên. G ắ n
GIÁO DUC SO SÁNH
chal nhiéti hay ít với hạt nhân này là các chương trình dạy học
khác nhau, như các lớp xoá mù chữ, trường hoc buổi tối và
han thụ hay tại chức, các chương trìm h dào tạo và bồi dưỡng
đo cõng đoàn hoặc chú x í nghiệp tổ chức. Người ta có the xác
địnl. trình độ của các chương trình dào tạo này hăng cùng
nhíhg tiêu chí cho hệ thống các chương trình chính quv,
ngh’a là theo mức độ tôi thieu của việc học tập mà học sinh
phá: dạt được khi theo học để đạt kết quả. Đ ó không phải là
quá trình đi học trước dây, mà là các kiến thức tỏi thiểu cần
thiẽ. để theo được một chương trình đào tạo, cần phải sử dụng
tiêu chí dể xác định trình độ của chương trình đào tạo đó (và
đồru thời là trình độ học tập của học sinh).
7 G iâo duc bâc 3 (dai hoc) cap 2 dân toi mot hoc
vi dai hoc (thac si, tien si) hoâc mot danh hiêu
tuong duong.
Niioai
c ra I1Üười
vT ta cia tirnu
<-.• cic Iiizhi
c • có trình dỏ C
<ziao
T duc
ma so X . khi cân co the hổ sunu thêm de phán loại các số licu
thu tlìập dược qua dieu ira dán so ve Iììặt trình độ học van,
nhưng khónsz «Jùîiü đẽ thiet láp các so liệu ttìône ke cho các
loai h ì n h cUIÚO duc dào tao.
! ti\ theo nội dung eiáo duc và dao tạo, hệ thống phàn
loại ti'ju chuán quòc te vè uiáo dục phân hiệt các khoá học,
các chươnũ trình dào tạo và các lĩnh vực học tập. Khoá học
được đinh
' nehĩa
c là Iĩiỏl
• loạt kính nghiệm
c > cmáo duc đào tạo dà
Nlur vậy trình dộ giáo dục 6 ià giáo dục bậc ba, cáp 1
dan tới trình độ thứ nhất của dại học, bao gồm các lĩnh vực
học láp sau đay:
222 NGUYỄN TIẾN ĐẠT
học. T h í dụ. khoa học giáo dục và đào tạo giáo viên (lĩnh
vực 14) ta gặp trong giáo dục bậc hai (trung học) cấp 1 (mã sô
2 1 4 ) và cáp 2 (m ã sô 3 1 4 ), trong ha trình độ cùa giáo dục bậc
ba (các mã sô 514, 6 1 4 và 714) và trong giáo dục không thể
định Iigliĩa theo bậc (phổ biến kiên thức khoa học và các hình
thức giáo dục khác không thuộc về nhà trường, mã sỏ 914).
Sự tồn tại một hệ thống phân loại tiêu chuẩn hoá không
giải quyết các vân đề cơ bản của việc thu thập và biên soạn
các sô liệu thống kê về giáo dục. Sự chồng chéo, tán mạn và
rời rạc inà ta thấy trong các sô liệu về sô lượng học sinh/sinh
viên, giáo viên và tài chính cho giáo dục không biến mất đi
khi sử dụng hệ thông phân loại tiêu chuẩn quốc tế về giáo
dục. H ệ thống này đảm bảo không những khả năng so sánh
quốc tế các sô liệu thống kê, tạo nên sự tiến bộ mang tính
quyết định về mật các khái niệm , định nghĩa và quy trình thu
thập số liệu thống kê phù hợp với mục đích cuối cùng. Nhưng
bước đầu tiên phải làm nếu hệ thống tiêu chuẩn hoá đã được
áp dụng đồng nhất khi thu thập và trình bày các số liệu là tạo
cơ sở cho việc thành lập sự phân loại giáo dục ở cấp quốc gia.
Cần nhắc lại rằng điều này liên quan đến sự phán loại
các sô liệu thông kê. Sự phân loại này không giải quvết vấn
đề về thời gian khác nhau của mỗi cấp học, và để lại toàn bộ
vân đé khả năng so sánh định tính của hệ thông giáo dục,
không còn liên quan nữa đến khoa học và kỹ thuật, truyền
thống và văn hoá. N gay cả trong kế hoạch định lượng hiện
nay, sự phăn loại này không bao gồm các sô liệu vé tài chính.
NGUYỄN TIẾN ĐẠT
Phần cuối của tài liệu mới này có giải thích thêm vé
những nét mới trong các lĩnh vực học tập và chương trình đào
tạo. Các lĩn h vực học tập trong bảng phân loại cũ đã được cài
tiến đế tránh sự trùns lặp, tăng thêm một sô lĩnh vực mới.
Như vậy hiện nay có 25 lĩnh vực học tập, trong khi đó trước
đây chỉ có 21. M ộ t sự đổi mới khác nữa là thiết lập các nhóm
rộng các lĩn h vực học tập có cùng các nét tương tự. M ột thí dụ
về sự đổi mới này là thành lập nhóm rộng Y tê bao gồm các
chương trình đào tạo vé V học, các dịch vụ y tế, dịch vụ dieu
dưỡng, nha khoa và các dịch vụ xã hội.
Bảng 5.1. Trinh độ giáo dục trong hệ thống phân loại tiêu chuẩn vé
giáo dục theo UNESCO 1997
: f ’i! rĩ,í11viẽc hoc cóVno học cac; cơ * Giao ríuc tiểu ị 1 Không cỏ
; f thòng vo (Joc 710í sỏ ho3c chương 1 học I
Vi l/ỉrrt tinh trinh giáo duc tiểu ■ Gi.il đoan đáu I ị
hoc do Nhci nước ị tiên của giáo
thiẻt kế đuc cơsở
Bát đẩu giáo duc
.pt>ồcập___
i"!ỉ-h bay C.!ỈCrnõn Váo hoc sau 6 ị Trung hoc cơ ií 9 Kiểu mẫu cho giao ~j
hoc nămgiáo duc tiểu sỏ ị tíuc tiếp theo hoãc
TJC hién dấy đỏ h ọc o.iỉi đoan thứ mục đích dưđinh
CSCkỹ nâng cơbản Kết thúc cáp hoc htii cùa giáo của giáo dục
va xãy dưny nén sau 9 năm tinh tử duc ca sà Đinh hướng
tảng cho VIỎChọc tâp kh»bắt đấu vào ì chương trinh
Suói đOi giáo dục liểu hoc
Kết thúc giáo duc Ị
phổ cáp
Nhiểu giáo viên
dạy các lớp hoc
trong lĩnh vưc
chuyên món hoá
cùa mình _
Trinh đô nháp hoc Giảo dục trung 3 Kiểu mâu cho giáo !
điển hinh ị hoc phổ thông duc tiếp theo hoăc Ị
Yêu cáu nh.ĩp hoc tối mục đích dựđinh
i của giáo duc
thiểu
Đinh hướng
chương trinh
Thời gian hoc tích
luỹ từbắt đầu trình
đô 3
Ị ......
ịi Yêu cáu nháp hoc Giáo duc sau 4 Kiểu mẫu cho giáo
NÒI tíung trung hoc chưa duc tiếp theo hoâc
Tuổi phải là giáo mục đích dựđịnh
duc bảc ba cùa giáo dục
Thơi gianđào tao Thời gian hoc tích
1
1
1 luỹ tưbầt đầu trinh
đỏ 3
Trinh đô nháp học Giai đoan đầu 5 Kiểu mẩu của các
điển hình tiên của giáo chương trinh đào
Kiểu mảu chứng chỉ đục bàc ba tao Thời gian hoc
dat đươc (chưa trực tiếp lý thuyết tích luỹ ỏ
dẫn tới mỏt bậc ba Văn bẳng
trinh đỏ nghiẻn và cơcấu trùnh đỏ
cửu nâng cao) quốc gia
Nôi đung đinh hướng Đào tao người tốt Giai đoan thứ 6 Không có
nghiên cứu nghiêp có n«1ng hai của giáo
Nỏp lưânvân hoâc lưcvà VI trí nghiẻn duc bâc ba
luận an cứu (dàn tới môt
trinh độ nghiên
cửu nâng cao)
226 NGUYỄN TIẾN ĐẠT
III K H Á I N IỆ M V À Đ IN H N G H ĨA C Á C s ố L IỆ U G IÁ O D Ụ C
H O Á C L IÊ N Q U A N Đ E N g i á o d ụ c
Trong các tài liệu thông ké, sô liệu về giáo dục hoặc liên
quan đèn giáo dục thường xuất hiện dưới ba dạng sau đây:
phân sô, thí dụ nlnr tý lệ giáo viên/học sinh, tỷ lệ điện tích lớp
học, nhà xường cho m ỗi học sinh, tỷ lệ sô trang thiết bị hoặc
m áy tính cho m ỗi học sinh ...
1. Đ ịn h n g h la m ột sô tỷ lệ về giáo dục
T ỷ lệ sinlì viên trên mười vạn dân, sinh viên nữ trên mười
vạn nữ, cán bộ khoa kỹ thuật nghiên cứu và trien khai trên
mười vạn dân là các tv lệ thường tính ra phần mười vạn, nếu
tỉnh ra phần trăm thì trị sô sẽ quá nhỏ, phải viết nhicu sổ 0
sau đáu phẩy.
công cộng theo lổng sản phẩm quốc gia CìNP (gross national
product), nhưng bắt đầu từ năm 2004 lại chuyển sang tính
theo tổng sản phẩm quốc nội GDP (gross domestic product)
cho phù hợp với số liệu công bô chỉ sô GDP trong Báo cáo
Phát triển Con người hàng năm70".
2. Định nghĩa các chỉ sô giáo dục và liên quan đến giáo dục
Chỉ số {index, indicator) là các con sỏ không mang dơn
vị, thường được tính bằng sô thập phân biến đổi từ 0 đến 1,
trong đó 0 là mức độ thấp nhất và 1 là mức độ cao nhất.
Công thức chung đê tính các chỉ sô nằm trong thang sô
từ 0 đến 1 là:
Trị sô thực tế X,- trị số nhỏ nhất x,min
Chỉ số = --------------------------------- ------------------------------------
Trị sô' lớn nhất x,ma> - trị số nhỏ nhất x,m,n
Bằng công thức trên người ta có thể chuyển một trị sô'
hoặc một tỷ lệ bất kỳ thành một chỉ số nằm trong thang sô từ
0 đến 1. Thí dụ, tuổi thọ bình quân của Việt Nam theo số liệu
của năm 2007 in trong Báo cáo Phát triển con người 2009 là
102 Tổng sán phẩm quốc nội GDP (gross domestic product) là lổng sán lưựiig
hàng hóa và dịch vụ nhằm mục đích sử dụng cuối cùng, được sản xuất ra bới
một nền kinh tế do mọi người kể cá thuộc dân cư và khỏng thuộc dàn cư trong
nước, không phân biệt người trong nước và người nước ngoài. GDP không bao
gồm sự khâu Irừ do giám của cải vật chất hoặc kiột quệ và suy thoái các nguổn
lực tự nhiên.
Tổng sán phẩm quốc gia GNP (gross national product) hao gổm tổng sản
phẩm quốc nội GDP cộng thêm nhản tô thuần túy thu nhập từ nước ngoài, đó
là thu nhập mà dân cư nhận được từ nước ngoài do nhân tô dịch vụ (lao dộng
và vốn), trừ đi nhừng phán chi trá tưctng tự cho thành phần khổng thuộc dân cư
đóng góp cho nén kinh tố quốc nội.
GIÁO DUC SO SANH 23]
74.3. trị so tuổi thọ binh quân thap nhất và cao nhài trên thế
giới t h e o quy ước chung là 25 và 85, chí sô tuổi thọ của Iigưừi
Viẽt Nam lính ra sẽ là 0 ,8 2 1 /"'
Các chí số giáo dục và liên quan đốn giáo dục, bao gồm:
Chi s o giao dục, được tính ra từ một vài s ỏ tỷ lệ vé giáo dục, và
các chi sỏ khác liên quan đến giáo dục. trong đó chứa đựng
nliiéu thành phán, nhưng có một thành phần thuộc vé giáo dục.
một giỏ hàng hoá và dịch vụ tượng trưng (hoặc một giỏ hàng
tương tự) mà tiển đôla Mỹ (tiền tham khảo) có thể mua được
ờ Hoa Kỳ. Chỉ số thành phần thứ ba thường gọi tắt là chi sỏ
GDP (GDP index).
Đê lập nên chì sô phát triển con người, người ta xác định
các trị sô nhỏ nhất và lớn nhất của các yếu tó thành phần như
sau: tuổi thọ là 25 và 85 tuổi, sô tỷ lệ về giáo dục 0 % và
100% và GDP thực tế theo sự tương đương sức mua là 100 và
40 000 đỏla Mỹ. Để tính chỉ sô GDP, người ta lây trị sỏ GDP
thực tế cao nhất không phải là 40 000 mà lấy trị số đã điều
chỉnh là 6 311.
Hai chỉ sỏ thành phần đầu tiên được tính đơn giản và đã
có các thí dụ minh hoạ dề hiểu về Việt Nam đã nêu ớ trên.
Chỉ sô thành phần thứ ba tính toán phức tạp hơn nhiều, và
phương pháp tính toán đã thay đổi nhiều lần để ngày càng trở
nén chính xác hơn. Dưới dây trình bày hai phương pháp tính
gần đây nhất.
Theo số liệu của năm 1995 mà Chương trình Phát triển
Liên hiệp quốc công bô năm 1998, phương pháp tính toán
như sau: Thu nhập bình quân trên thế giới 5 990 đôla Mỹ theo
sự tương đương sức mua vào năm 1995 được lấy làm mức
ngưỡng (y’), và các thu nhập cao hơn ngưỡng này sẽ phải
giảm bớt đi bằng cách tính sau đây theo công thức của
Arkinson về tính hữu dụng của thu nhập:
W(y) = y’ đối với 0 < y < y’
= y’ + 2(y - y')m đối với y’ < y < 2y’
= y’ + 2(y,,n) + 3(y - 2y')ifĩ đối với 2y’ < y < 3y’
Gl A u D u c S O S A N ri 2 .).]
ỉ.v tính iỉỊ so (Iil giám I>v)l cua thu i1!1ập lớn nhát la
•40.000 Jola V K . u jíiü ilu k Arkin>on eo liạim như sau:
loại lại theo 4 nhóm : N h ó m rất cao gồm 38 nước (HDI > 0,900);
n h ó m c a o g ồ m 45 nư ớc (H D I = 0 ,8 0 0 -> 0.9 0 0 ); n h ó m trung
b ìn h g ồ m 74 nước (H D I = 0 ,5 0 0 -> 0 ,8 0 0 ) trong đ ó c ó V iệt
N a m và n h ó m th ấ p g ồ m 23 nước (H D I < 0 ,500 ).
C hỉ sỏ p h â n bỏ b ìn h đ ả n g =
Tỷ lệ d â n s ố n ữ T ỷ lệ dân sỏ nam
= H---------------------------- -----------------------------------
Chỉ sô c ủ a n ữ Chỉ số c ủ a nam
1 \, + 1 \2 + ỉ \ ,
I\= --------- -------------------------
ỉ
H P I-1 = [ i / 3 ( l ỳ + i y + I \ () ] l/l
in;; so liêu quá Tilìicu, cán cilia nhóiìì và phán loai thành các
\n\ : lớn ( a c h trình bày sò liệu khỏnuc ciì) còn là mot vice xứ
^ .
ly o lieu tỉuiân tuy. Nó còn có the dỏng góp vào viẽc địnlì
ỉurniìi nuhiẽn cứu, khi mà I1 Ó la rõ ràniz và chính xấc. Nếu ta
c «.. c..
1. T r ì n h b à y sỏ liệ u g iá o d ụ c d ư ớ i d ạ n g b á n g b iể u
Đ ó là việc trình bày đơn RÌản nhất các sổ liệu niáo dục.
Nó cũng chính xác nhất, vì bủng cho ta những COIÌ số. Nhưng
để ;ó một V tưởng về các xu thế lớn, ta cần kiếm tra cấc sỗ
liệi m ột cách cẩn thận. Đ ể đạt được độ ch ính xác cao hơn, ta
cần tính toán và tiến h àn h m ột sự ph ân tích thống kẽ.
M ộ t hảng tốt phái dẻ đọc và chứa m ọi thỏng tin cần thiết.
M ộ báng q u á d à i hoặc q u á lớn sẽ k h ó sử d ụ n g , tốt nhàt là tách
bárụ đó thành hai ba bảng nhỏ hơn. Đặt quá nhiều thông tin
vào tro n g m ộ t bảng sẽ g â y nên sự rắc rố i. T ê n ban g , các m ục
ghi tren cột hoặc hàng, những đ iể m ghi chú và nguồn tham
kh ả) cần phải ghi chính xác, đế c h o bảng thật đầy đủ, không
có n iế u sót vé các điểm sau đây: giải thích cấc từ viết tat, nêu
238 NGUYỄN TIẾN ĐẠT
địa điểm , thời gian hoặc thời kỳ, dơn vị (thí dụ nghìn hay triệu
học sinh, đơn vị tiền tệ và có thê kèm tỷ g iá ,. ..).
Dưới đ â y là m ộ t bảng số liệu học sinh m à ta d ù n g để
phân tích th ố n g kê.
B ả n g 5 .2 . S ô lư ợ n g h ọ c s in h /s in h v iê n c ủ a c á c c h â u lụ c
v à t h ê g iớ i n ă m 1 9 6 0 v à 1 9 7 0
T rong mối trư ờng hợp trình hày sò liệu giáo dục bang
báng, cán cân nhác c h ọ n d ạ n g báng thích hợp đế the hiện rõ
Iih á t IĨÌỤC đích so sánh.
B ả n g 5.3. C á c d ạ n g b à n g s ỏ lư ợ n g h ọ c s in h /s in h v iê n
d c h â u P h i, B ắ c Mỹ và th ê g iớ i n ă m 1 9 7 0
a) Sỏ tuyệt đòi
ỉ. ....................
i Tiểu h ọ c Trung h ọ c Đ ại h ọc ĩ ố n g cộ n g
I
I T h ẻ giới 333 219 1 1 3 197 26 065 4 8 2 481
ị C hâu Phi 32 389 5 075 444 37 9 0 8
T hè giới 10 0 0 0 10 0 0 0 10 0 0 0 10 0 0 0
C hâu Phi 944 448 170 785
2) Trình bàv sô liệu giáo dục dưới dạng đồ thị hay biếu đồ
Đ ồ thị hay biểu dồ trình bày dược rõ ràng h<m các sô liệu
trong một tình hình hoặc sự phát tn ê n của tình hình đó. Đ ổ thị
cho ta ngav lập tức m ột cái nhìn tone thê, tránh làm mất đi các
chi tiết. Một đ ồ thị tốt gợi ý cho ta những sự so sánh, các giả
thiết và sự nghiên cứu về các môi quan hệ. Nó cũ n g c h o phép ta
phát hiện sự bất thường trong các con số và chinh lý chúng.
1. Đ õ th i t lic o th ờ i đ iế m (h is to g r a m m e )
Đ ó la k ỹ th u ậ t đơn g iá n d ù n g dê trìn h b ày m ộ t h iệ n
hãng n h au , c ạ n h k ia là c h iề u c a o c ủ a cộ t ho ặc c h iề u d ài của
(n ê u d ù n g x à ). C ộ t h a y x à đ ề u có th ê trìn h b à y ờ d ạ n g p h ẳn g
m á y tín h d ù n g c h ư ơ n g trìn h E x c e l ta có th ê b iế u d iễ n n h an h
12000
10226 8
□ 1995
■2000
2 3 4 5 6
Ticuboc T1K5» THPT Daynghe THCN CĐAÔH
H ình 1a. s ỏ h ọ c s in h v à s in h v iê n n ư é c ta n ă m 1 9 9 5 v à 2 0 0 0
X) •
9T20
1 2 3 4 5 6
\ Áu Bm My NamM» Phi Iv/l)ai lJuiing
H ình 1b. S ô h ọ c s in h v à s in h v iê n n ư ớ c ta n ă m 1 9 9 5 v à 2 0 0 0
120 •
□ 1965
1 2 3 4 5 6 7 8 9
MìtnTrung Mki>T*y \r»rntk>og Ny»ru Ihung ItingKirt Nairobi B<»birn IVmgbac ịfj»nqiKK
H ìn h 2 a . T ỷ lệ đ i h ọ c c á c c ù n g ở K e n y a
70
□ 1962
□ 1975
60
50
40
%,
30 ỵ
ằ ièrỉ
20 'ặ
m Ệ vẰ
10 '.'if
i'ị
¿psi
1 6
ĩw*oriv( 1 IHrjjuSunrtỉ Kbma-Anlída 1uk-ar I<iế*n<JU<H
H ình 2 b . T ỷ lệ đ i h ọ c tiể u h ọ c c á c c ù n g ở M a d a g a s c a r
G IA O D U C s o S Á N H 245
H ìn h 3 a và 3 b là m ộ t t h í dụ k h á c về b iể u đ ồ trò n so sánh
tý lô b iế t ch ữ c ủ a ngư ời lớn ở v ù n g th à n h th ị ( 5 8 % ) và v ù n g
n ô n g th ô n ( 19% ) ớ Ira n n ă m 1 9 7 1 /"7
42%
H ình 3 a . Ty lệ b iế t c h ứ c ủ a n g ư ờ i lớ n t ừ 15 đ ế n 4 4 tu ổ i v ù n g th à n h th ị
ở Iran n ă m 19 7 1
1: B iết chữ; 2: Mù c h ữ
Tiốu hoe
Trunj! h
Trung học
3 Dai hoc
H ình 4 . S o s á n h tỷ lệ đl h ọ c tiể u h ọ c , tr u n g h ọ c v à đ ạ i h ọ c g iữ a
ch â u Á và ch â u Âu
3. Biêu đồ ba yếu tô
K hi m ộ t hiện tượng gồ m ba yếu tố m à tổ n g s ố là một sỏ
k h ô n g đổi (1 0 0 % ), ta có thể trình bày sự p h át triển dưới dạng
hai biểu đ ồ dưới đây:
Hình 5 trình bàv sự phân chia sinh viên theo nguồn gốc xã
hội ớ Sverlov từ năm 1950 đón 1969. V ì thiêu các sô liệu cùa
các năm 19 5 1, 1952 và 1954, ch o nén ờ đó vẽ đường gián đoạn.
IM 1 1 1 1 1 1 ■ I ■ ■ ■ ■ ■ ■ ■ ■ - - -
H inh 5: T h à n h p h ầ n x u ấ t th ả n c ủ a s in h v iê n
ở S v e c lo v (L iên X ổ c ủ ) 1 9 5 0 -1 9 5 9
Biểu đ ồ này tập hợp các số liệu vẻ sự biến đổi tương đôi
của ba yếu tô trong cù n g m ột hiện tượng trên m ột đường cong.
"* u T hành Khòi: L'éducation comparée. Armand Colin éditeur. Pans, 1981.
G IA O D Ụ C s o S A N H 249
B â n g 5 4. s ỏ ty lệ s in h v iê n v à d â n s ò c h ia t h e o tầ n g lớp
ở P h á p và T ây Đ ứ c
Pháp Tây Đ ức
1 1959-1960 1964-1965 1952-1953 1964-1965
1 s D s D S D s D
T ầng lớp trên 3 4 , 3 4,6 34,7 5,5 3 8 , 4 6, 4 3 2 , 8 9,5
1T áng lớp trung 61,0 44,8 55,0 42,5 57,2 34,8 6 1 , 3 34,2
và đ ỏ c ỉâp
1T ầng lớp d ư ớ i 4,6 5 0 ,6 10,3 5 2 , 0 4,4 5 8 , 8 5,4 56,3
100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
Ị T ổng c ộ n g I
1 100,0 ị
C á c th à n h phán k h ô n g đ ổ n g n h ấ t th i k h ô n g th ể so sánh
dược giữ a nước n à y và nước k h á c . V ì thc tác g iả của n s h ic n
cứu n ù v là m ộ t ncư ờ i tro n o pjófj tla i học ở M ỹ đ in lì n g h ĩa
th u â t nuữ th e o thực tê c h â u A u như sau:
B iế u đ ổ ta m C
e/iá c dễ đ ọ• c k h i chứ a m ộ*t số ít tlió n c
o Ún,
ngược lại sẽ rất k h ó đ ọ c ( t h í ciụ g h i sô liệ u c u a n h iề u n ă m ).
N g o à i ra. nếu c ó sai sót v ề th a n g sổ. ta k h ô n g thê n ắ m đ ú n g
được sự ph át triể n c ủ a h iệ n tượng.
250 N G U Y Ễ N T IÊ N Đ Ạ T
S: sinh viên
D: dán sỏ
1!K»
2U i' !*"•
: ]* v# T '
I) lÝ™
Táng krp dưới
H inh 6. S ự p h ả n b ố tỷ lệ s in h v iê n và tỷ lệ d ả n s ô n a m h o ạ t đ ộ n g
t h e o c á c tẩ n g lớ p k in h t ế x ã h ô i ở P h á p 1 9 5 9 -1 9 6 4 (h ìn h tr ê n )
và ở T â y Đ ứ c 1 9 5 2 -1 9 6 6 (h ìn h d ư ớ i)
G IÁ O D U C SO S Á N H 251
Đ ổ thị này có thể dùng hai loại thang số: sô học hoặc lỏgarit.
7 a ì So liPC
T riệu đổng
7 h ) L ô ịịd r it
e ) I ỈÍCLI đ ồ h ìn h th á p (Pyramide)
B iê u d ó h ìn h th á p g iá o d ụ c được x â v dự n g th e o k ic u biêu
đ ổ h ìn h t h á p d â n số. T u ỳ th e o m ức đ ộ q u a n trọ n g của sỗ liệ u
m à b iè u đ ổ có thổ c h ín h x á c h a y đ ầ y đ ủ n h iê u h a y ít.
K h i so sánh h ai nước có d àn sỏ k h á c n h a u , ta c ần d ù n g
sò p h ầ n tră m ch ứ k h ô n g d ù n g được sô h ọ c s in h , bởi v ì q u y
m ỏ d â n sỏ c ó ả n h hư ở ng đ ế n k ế t q u ả so sánh.
M ộ t h ìn h th á p g iá o d ụ c đ ầ y đ ủ k h ô n g n h ữ n g c h ỉ rõ số
h ọ c s in h ỡ m ỗ i đ ộ tu ổ i, m à còn c h ỉ rõ trìn h đ ộ và lo ạ i h ìn h
g iá o d ụ c , t h í dụ ờ tu ổ i 14 , m ộ t số học sin h c ò n h ọ c tiể u học,
n h ư n g m ộ t số đ ã h ọ c tru n g h ọ c, nh ư ng nơ i n à o k h ô n g có nhà
trư ờ n g th ố n g n h ấ t, ta c ó th ể th ấ y số h ọ c s in h tro n g lo ạ i h ìn h
trư ờ n g p h ổ th ô n g ( k ể c ả k h i có p h ân b a n ), trư ờng k ỹ th u ật
h o ặ c tro n g trư ờng sư p h ạ m (đ à o tạ o g iá o v iê n ).
I-
1•
- [ = — z z z n = ..... = u •
Hình 9a. Biếu đố hinh tháp vé sò học sinh trẽn một triệu dán theo lòp học
phò thông ờ châu phi chịu ảnh hưỏng của Anh năm học 1962-1963
4 l;
VI <
Vi hstri«udán
Hinh 9b. Biêu đố hình tháp vế sô h ọc sinh trên một triệu dân theo lớp học
phò thông ở châu Phi chịu ảnh hưởng của Pháp nảm học 1962-1963
258 N G U Y Ễ N T IẾ N Đ Ạ T
13 ị
12 Ị
11 Ị8S
10 É251
9 Ị)433
8 h 1082
-ọ 7 p )1779
6 I---------- — }6607
5 Ị I 9988
4 Ị 113117
2 l 124986
1 I 144733
Hình 9 c . Biểu đồ hlnh tháp v ế s ô h ọc sinh trên một triệu dân th eo lớp h ọc
phô thông ở châu Phi chịu ảnh hưởng của BỈ năm h ọ c 1962-1963
7. Bản đồ (carte)
B ản đ ồ d ù n g đ ể so s án h n h ữ n g sự b iế n đ ổ i h o ặ c h iệ u q u ả
g iá o d ụ c h a y n h ữ n g sự b iế n đ ổ i ấ y ở h ai th ờ i k ỳ k h á c n h a u
s á n h n à y có m ụ c đ íc h sửa chữ a n h ữ n g sự c h ê n h lệ c h , x â y
d ự n g th ê m trư ờ n g h ọ c ở n h ữ n g nơ i k h ô n g c ó đ ủ . H ìn h 10 so
s án h sự k h ô n g đ ồ n g đ ề u vể g iá o d ụ c giữ a cá c v ù n g và giữ a
H ình 11. S ò tr ư ờ n g d ạ y n g h ề ở c á c n ư ớ c T iể u v ù n g s ò n g M ẻ k ô n g
C ũ n g n h ư hình th áp g iáo d ụ c, sơ đ ồ c ơ cấ u c h o p h ép so
s án h ngay lập tức c ơ cấu củ a hệ th ô n g g iá o dụ c h a i nước hoặc
m ột nước nh ư n g ở hai thời d iê m k h ác n h au . Sơ đ ổ đ ó chi rõ
tính chất của các hệ th ô n g g iáo d ụ c là c h ọ n lọc và d ân chủ
n h iéu hay ít: sự d â n chủ hoá trên thự c t ế b ằn g sự thay th ế
n h iều q uy c h ế k h ô n g bình đ ẳ n g bằn g m ộ t c ơ c ấ u g iáo dục
n h iều hay ít th ố n g nhất trong m ộ t thời g ia n dài h a y ngắn.
tliunu
c.
üiáo duc, mat ben chi nám học vu mặt trôn chí văn
c
H ig h S c n o o i “I ~Ị
12 -
Diploma Senior High Scnooi
16 4 years High 11 £ I
Combined
School Junior - Senior
15 Higher School ¡0
14 9
Junior High School
13 1441
8
12 7 T>
U-l
11 163 31 1661 6
10 5
9 Elementary (or Primary) School
4
o Ồ.
8 3 ! If,
7 2 cS
6 1 I i
Y ÇÛ.
5 Kindergarten A I o
4 start Programmes
Nursery Scnooi
NS
3
Age Grade
H ình 12. S ơ đ ồ c ơ c ấ u h ệ t h ô n g g iá o d ụ c n ư ớ c Mỹ
C h ú th íc h c á c từ n g u y ê n g ố c tiê n g A n h tro n g sơ đ ổ :
W f . i H K B i t D U NC.
. « r - 1W(»en.fii; *•*i p.: Wissenderaftl.i ’<? ;c V i<
)'!•
Pr o m 06o n
BeFwfs Qi; a:I■*■,Ỉ CJe 'ỈCÍ Dt:,dlenar;->et 11
i.As
r[>piom Magisief Stdarsexa'T-.en
<> _fiAct.t£iat.£akkalati:eaS- .LJaaiS^iLisum
r UNIVERSITÄT "
TtCHNISCHỉ: UNIVERSITÄT
TECHNISCHl HOC HSC Mu LÍ
UNIVERSITÄT GESAMTHOCHSCHUL f- !
;X PÄDAGOGISCHE HOCHSCHULE
0<0 KUNSTHOCHSCHULE
Beruisgru^dbiidungijar-.r
10
Mirterer Schulabschluss (Rea*scfiuiabschlu$s) nach 10Jahren
10 Erster allgemein bildender Schulabschluss íHauotschulabschỉuss} nach s jahien
9 1Ũ Schuljaf»
8
7 HAI PlsOH I Ị RI AI.St m u i .f S A M Ĩ-
(iYMSASH M
6 SCHU \
5
schuiartabnangige oder schulartunabfcangige Onentiefungsstjfe
4
3
2 (»Kl MiSfllt I I
1
r. f— tr-
Jah(- KINDtRGARTEN
(frerw»H*g)
gangs Ẽ
Stuf« h
C h ú t h í c h c á c t ừ n g u y ê n g ố c t iê n g Đứ c t r o n g s ơ đ ố :
tết*
05‘ ± ? fì i5_
24 tý:
_
23
iL
20
19~
44
J_6_
17 12
ậ* un 'ík Sĩ ^
"ĩẽ" 11
10 10
14
ĩĩ
ĩĩ to *p
11
lõ"
_
ịJJ $
ttAB
Hình 14. S ơ đ ố c d c ấ u h ệ th ố n g g iá o d ụ c T ru n g Q u ố c
N G U Y Ễ N T IẾ N D A T
•Dao tao
Cao hcc
Ị.én si
3 ĐAI HOC
Gifi/ i/oạn /;
Da. hoc (4-6 nárn) Cao đảng
Gí£ỉi do an i
3 nám
tuồi .
Trunghcc cơsờ Daoiaongné
(uó; (4 nõn)) ị<í lìitniỊ
^ ÍJỖ» Tiểuhoc
9 ỈUÒI (5nàm>
6 tuổi
Máu giao
3 tuổi (1 năm)
a»MMMMr«!
ENStlGNeMEKTSECONO^PE
o n a tti
la w »
v f M ü iin
3 cz~~n s E
ril
m iw illin u
r— --- 1
I txu«MM j T\«Ml
MM« '»V««» 'f HMKAiJ 8tP
«usa*m« u I>ItUWKlttl + StCÙMDt <**>fSS*ÛNNlU(
K3f a ^ O M ỈO S C ư
jjÿEh -Lîtî'J
[ . , 1 ÎRCNÂfCMI ■mm na*ầẰOCM3Jf
y' c m a ư ím
! — — ™ 1 s u 0 £ j*
........
ENSEIGNE MtNĨ
ĩ -------- I
m w k
TsmuniBrr
taas tagsm;
o»#iMt.f«Ânjn
.
ENSfciGNEMCNT
ă ẳ M iB
ftxxfs MAItHNtUỈỈ
H inh 1 6 . S ơ đ ổ c ơ c ả u h ệ t h ô n g g iá o d ụ c n ư ớ c P h áp*
*TheoONISEP: Les principaux itinéraires de formation L’tnfomiation
sur les enseignements et les professions. Lognes. 1994
G IA O D U C S O S A N H 27]
C hu th íc h c á c từ n g u y ê n g ố c t iế n g P h á p tr o n g s ơ đ ố :
p la s tiq u e (D N S E P )
D ip lô m e u n iv e rsita ire B ẳ n g đ ai h o c ( õ n g L e ttre s (U F R ) V â n (K h o a)
d e te c h n o lo g ie (D U T) nghệ i
D o cto ra t B ẳ n g tiến sĩ L ic e n c r 1' ử n h â n
D o cto ra t d e ch iru rg ie Eỉằng tiến sĩ n g o a i Lycée I rư ơ n g ti u n g h o c p h ô
d e n ta ire khoa nha th ò n g
D o cto ra t d e B ả n g tiến s ĩ y c h u y è n L y c é e p r o fe s s io n n e l ỉ rư 'in g tr u n g h o c
m é d e c in e s p é c ia lis é khoa nghế
D o cto ra t d e B ằ n g tiến sĩ d ư ơ c M a g istè re B ầ n g c a o h o c (kiểu
p h a r m a c ie Đ ức, a o )
D roit (U F R ) (K h o a ) L uảt M a d tn s e B ả n g c a o h o c (kiểu
Pháp)
é c o le A rt e t T rư ớ n g N g h è t h u à t v a M a d tn s e d e Bẳng cao hoc phương
A r c h ite c tu r e Kiến truc ; m é th o d e s p h á p tin h o c a p d u n g
in fo rm a tiq u e s v a o q u à n lý
a p p liq u é e s à la
g e s tio n (M lA G E )
é c o le m a te r n e lle T rư ờ n g m ẫ u g i á o M a d tn s e d e s c ie n c e s Băng cao hoc khoa
d e g e s tio n (M S G ) hoc quàn ly
é c o le s p é c ia lis é e T rư ơ n g c h u y ê n M a d tn s e d e s c ie n c e s Băng cao học khoa
n g h ié p e t te c h n iq u e s (M S T) h o c v a kỹ th u ả t
é c o le s u p é n e u e T rư ờ n g c a o đ à n g M a s tè re Bằng cao h o c (kiểu
A nh, Mỹ)
E n s e ig n e m e n t G iá o d u c tiểu h o c M e n tio n Xếp han g bổ sung
é lé m e n ta ir e c o m p lé m e n ta ir e (M C)
E n s e ig n e m e n t p ré - G iá o d u c m ầ m n o n P re m ie r c y c le d e s Giai đ o a n 1 đ ai h o c y
é lé m e n ta ir e (trước tiểu h o c ) é tu d e s m e d ic a le s
(P C E M )
E n s e ig n e m e n t G iá o d u c tru n g h o c S a n té (U F R .) (K h o a ) V
s e c o n d a ir e
E n s e ig n e m e n t G iá o d u c đ a: h o c S e c tio n d e B a n kỹ t h u á t vièn c ấ p
s u p é r ie u r te c h n ic ie n s c a o ở trư ờ n g nghé
su p é n e u r s (S T S ) tr u n g h o c )
G e s tio n Q u à n lý S c ie n c e s (U F R .) (K h o a ) K h o a h o c (tự
n h iè n )
G ra n d e é c o le T rư ờ n g đ a i h o c S c ie n c e s (K h o a ) K h o a h o c kinh
(chuyén ngành) é c o n o m iq u e s (U F R tế
In g é n ie u r Kỹ s ư S c ie n c e s h u m a in e s (K h o a ) K h o a h o c
( U F R ...) n h ản vàn
In g é n ie u r m a o tr e Kỹ s ư g iá o viê n U n iv e rsité T rương đ ai h o c (tỏ n g
hợp)
In stitu t u n iv e rsita ire Viẻn đ a i h o c đ a o t a o U nité d e fo rm a tio n e t Đ ơ n vi đ à o t a o v a
d e fo rm a tio n d e s g iá o v íèn d e r e c h e r c h e (U F R ) n g h iê n c ử u , K h o a
m a o tr e s (IU FM )
In stitu t u n iv e rsita ire Viẻn đ a i h o c c h u y è n V oie g é n é r a le e t C o n đường p h ổ th óng
p r o fe s s io n n a h s é nghiép te c h n o lo g iq u e va công n g h è
(IUP)
V oie p r o fe s s io n n e lle C on đường nghề
nghiép ______
;
H ình 17: S ơ đ ồ CO’ c ấ u hộ t h ố n g g ia o d ụ c L iỏn x ỏ c ú
• H ö H P M fK 'B O « la n p c ; * J 8 c , S '' ? a f -
j^eeACHtfe,
i't T jiT ] VMwBepr.KTeT,
y*«t-6Hk* ¿ HHCTHTyr
so
■ LJL: Í Z r
GIAO DLẰ,
— if"(—'i
,
? i
274 N G U Y Ễ N T IẾ N Đ Ạ T
V. SO SÁ N H T H À N H TỤU G IÁ O DỤC V À Đ À O T Ạ O
NUỚC TA V Ớ I T R ÌN H Đ Ộ T H Ế G IỚ I
r .
3 MALR Male Adult Literacy Rate (% aged Ti lệ biết chữ người lớn nam
15 and above) (% người tuổi từ 15 trờ lên)
Ị. .... 4
4 F-MALR Difference between Female and Chênh lệch ti lệ biét chữ ngươi
Male Adult Literacy Rate (% aged lớn nừ vá nam (% người tuổi tư
15 and above) 15 trở lên)
5 M-FALR Difference between Male and Chénh lệch tỉ lệ biết chử ngươi
Female Adult Literacy Rate (% iớn nam và nứ (% người tuổi từ ị
__ _
aged 15 and above) 15 trở lên)
stt Viết tát Tiếng Anh Tiếng Việt
16 CG ER Combined Gross Enrolment Ratio Tỉ lệ đi học chung các cáp (%)
.
in Education
7 FCGER Female Combined Gross Tì lệ đi học nữ chung các câp (%)
Enrolment Ratio in Education (%)
8 MCGER Male Combined Gross Enrolment Tỉ lệ đi học nam chung các cấp (%)
Ratio in Education (%)
9 F-MCGER Difference between Female and Chénh lệch ti lệ đi học nữ vá
Male Combined Gross Enrolment nam chung các cấp (%)
Ratio in Education (%)
p ° —
M-FCGER Difference between Male and Chénh lệch ti lệ đi học nam và
i Female Combined Gross nữ chung các càọ (%)
Enrolment Ratio in Education (%)
11 I LEAL Low Educational Attainment Level Tỉ lệ trinh độ giáo due thấp
less than upper Secondary thấp hơn trung học phổ thổng
Education (% of the population (% dàn số tuổi từ 25 trở lên)
aged 25 and above)
12 MEAL Medium Educational Attainment Tỉ lệ trinh độ giáo dục trung
Level: upper Secondary Education binh truna học phổ thông (%
or Post-secondary Non-tertiary dàn số tuỗi từ 25 trờ lên)
Education (% of the population
aged 25 and above)
13 HEAL High Educational Attainment Ti lệ trinh độ giáo dục cao giáo
Level: Tertiary Education (% of the dục đại học (% dàn sò tuổi từ
population aged 25 and above) 25 trở lẻn)
•
; } F e m a l e L ife E x p e c t a n c y a t B irth ; g lửa mĩm và nữ’
j (y e a rs; j (tinh bằng nám)
i GD P ............... j G r o s s D o m e s tic P r o d u c t p e r Tổng sản phẩm quốc nội quy
c a p ita ( P P P U S $ ) đổi (PPP ÚSS)
! PE H P u b lic E x p e n d it u r e o n H e a lth p e r Chi phi công cộng cho y ỉế
c a p it a ( P P P U S $ ) (quy đổi PPP usí)
Vil ĩí lệ không thuốc vê giao dực nhưng có ánh hường
>4 Ị PEH% ị Public Expenditure on Health as % ị Chi phi công cộng cho y tế
! of Total Government Expenditure I bảng % chì phi tổng cộng cùa
I ch in h phủ
D ư ớ i d ã v B an g 5 . 7 . n ê u 34 sô liệ u , tỷ lệ và c h ỉ số g iá o
dụ c c ũ n e n h ư liê n q u a n d ê n c iá o d ụ c c ó th ê so sánh vớ i nh au
g iữ a các nư ớ c, lâ y ra từ 34 h án g x ế p h ạ n g các trị sỏ đ ã, trước
ilôt la trị sô và th ứ h ạ n g ừ V iệ t N a m . rôi d e n trị số c ao nhất
(h ạ n ” 1) và th â p n h â t c ụ n g vớ i thử h ạ n g ờ m ộ t h a v m ộ t sổ
nước n à o d ó , cô x ế p c ỏ c trị sô th e o th ứ tự tíc h cự c.
M u o n so sánh sự lu m k é m g iữ a V iệ t N a m và bất k ỳ m ộ t
hay
m'
vài nước n à o đó về m ộ t trị số nào đ ó . c h i c a n lấ y
J
m ột 4 • •
B ả n g 5 .7 . S o s á n h c á c s ố liệ u , tỷ lệ v à c h i s ố g iá o d ụ c v à liê n q u a n
đ ê n g iá o d ụ c c ủ a V iệt N am v ớ i c á c n ư ớ c trên th ế g iớ i
không dộc lập ma phụ thuộc lẫn nhau, h ơ n nữa chưa ai biôt
34 sỏ liệ u dó la dù hay là chi cân ít lu m hay nhiêu hơn, và COIÌ
sỏ x c p thứ h ạ n g c h u n g n ên tín h n h ư th e n à o , n ê n là tru n g b ìn h
Báng 5.8. Cấc nước đat nhiêu sò tý lê và chỉ sò giáo dục hoậc lien quan đèn
giáo duc cao nhat trẽn thó giới (n ản . 2003)
ị stt S ò tỷ lệ v à /h o ặ c c h ỉ s ô T èn n ư ớ c
1 ca o nhất đat đươc
; 1 9 N a U y T hụy Đ iển
2 7 N hật
3 6 Ú c, Bỉ
4 5 A ixỉen, Hà Lan, P h ầ n Lan
5 4 Đ an M ạch, A nh, Niu Dilân
280 N G U Y Ễ N T IÊ N Đ Ạ T
111 N guyễn T iến Đ at: So sánli những thành tựu giáo dục và dào tạo Việt Num \<ri
trinh độ tliê giới, Tạp ch í Phát Iriên Giáo dục. Viện Nghiên cứu lliát triến Giáo
dục. Số 6. Ha N ội. tháng 1 1-12/1999.
G IA O D U C S O S A N H ‘¿ 8 1
CỉV -.4
■ s n<’
QMu.
I
‘ 4 ^ 6 7
V àhứ«190*i HBTI1d(wnệ l nU )rM*tt ĩVdlH©ccếc uh?4 stui. t r*m
m ci ! ca* «í» 1*00* CI1C
VI M Ộ T V À I V Í D Ụ V Ề Đ Ề T À I N G H IÊ N c ú u s o SÁ N H
G IÁ O D Ụ C
K h i k ế t th ú c m ô n h ọ c n à y ở c á c trư ờ n g đ ạ i h ọ c nước
tiè ii lu ậ n th e h iệ n sự n ắ m vữ n g c ác k h á i n iệ m , m ụ c đ íc h , n ộ i
N gu vẻn T ièn D ạt: So sánh các sô tỳ lệ là chì sô vé giáo dục cùa các nước
ASEAN. Tạp chi ỉ ’hát Iriôn Giáo dục, Viện Nghiên cứu ỉ 'hát triõn Cỉiáo dục, Sô
5, Hà Nội. tháng 9-IO/2(XX).
282 N G U Y Ễ N T IÊ N Đ Ạ T
thư ờ ng p h á t b iể u rằ n g c ó k h ó k h ă n k h i c h ọ n đ ề tà i c h o m ột
m ô n n à y . T u y n h iê n , họ có nhữ ng th u ậ n lợ i lớn là đ a số đã
từ ng là g iá o v iê n c á c bậc học k h á c n h au v à c á n hộ q u ả n lý
c á n bộ q u ả n lý đ à o tạ o c ác b ộ , g iá m đ ố c v à p h ó g iá m đốc các
p h ả i là m c ô n g v iệ c so s á n h , như ng chư a từ n g b iế t v iệ c đó có
th ế n à o c h o th ậ t đ ú n g và có h iệ u q u ả . N h ữ n g sự h iế u b iế t thực
tế n ế u được k h a i th á c v à v ậ n d ụ n g đ ú n g th e o lý lu ậ n c ủ a m ô n
h ọ c th ì rất đ á n g q u ý , nh ư v ậ y k h ó ai c ó th ể v iế t m ộ t tiể u lu ận
h a y hơn h ọ về m ộ t v ấ n đ ề m à họ c ó k in h n g h iệ m n h iề u n ă m .
V ì th ê p h ần c u ố i c ủ a g iá o trìn h n à y n ê u m ộ t v à i v í dụ về đé
đ íc h gợi ý c h o c á c h ọ c v iê n k h i c h ọ n đ é tà i g iá o d ụ c so sánh
c h o m ìn h .
T r o n g c á c d ề tà i d ã n g h iê n cứu c ó m ộ t lo ạ i th iê n về đ ịn h
sánh được đ á n h g iá là tố t k h i k ế t q u ả n g h iê n cứ u c ủ a n ó có cả
I Imoc các di' tủi híịIúcii cứu so sailli 1ỊÍáo (lục thiên >Ỹ’
(lịnh linli có thè lìm dược các hủi có til'll (té như sait: Đ à o tạo
c a o đ ắ n ti k ĩ th u â t c ô n e n iĩh
V- c c ô ớ m ộ t sỏ nước trê n th ế liiớ i11 \ v ề
. c
m N puyen T iên Dạt: Đào tạo cao tldnỉỊ kĩ thuật cõng nghệ ờ một sò nước trê ti
ílỉê giới, l ạp chí Nghiên cứu Giao dục, Tập 16, Sò 1 1. Hà Nội, 19%.
114 N guyễn Fien Đạt: IV ten ạọi ván báng và học VỊ tiên sì ờ Việt Num, Tap chí
Phát trien c»láo dục. Tập 31. So 1 ỉ -12, Hà Nội. 1999.
//s N guyên Tiên t)ạt: Một sõ câu cư của ten lỊọt vãn bà MỊ và học vị ỉhục sĩ ỜViệt
Nưm, lap chí Cìíấo duc Dại hoc và Chuyên nghiệp. Táp 32. So I. Hà Nội.
2000..
116 Ngu vén T iên Dạt: Dáo tạo trình dô cao íĨCỈUÍ» ờ nước ta Ví) tren ihr giới. Tap
chí ( ìiáo duc Dại hoc và Chuyên nghiệp. Tập 33, sỏ Ị. Hà NỎ1. 2(KK)..
11; N guyên l iên Dạt: Vé các loại hình trưởng trung học chuyên nạliiệỊ) Tap chí
Phát trien Cìiáo dục, s ỏ 3. Hà Nôi, 2000.
"* N guyen l iên Đạt: Thuật uạữ "trường dại học” và "trườìiq cao dang” ở Việt
Nam \ừ nước ngoài, Tạp chí Giáo duc Dại học và Chuyên nghiệp, Tập 32,
Số 6. Hà Nội. 20(K)..
284 N G U Y Ễ N T IẾ N Đ Ạ T
ớ V iệt N a m 11', và một vài bài tlieo chủ d ề dào tạo kỹ tlmật
thực hành của cúc nước và của nước ta '20,
119 N gu ven T iến Đạt: Phán loại quyết định kiểm định chất lượng các trường kỹ
thuật và dạy nghé ở các nước Tiểu vùng sông Mékong vá sự lựa chọn ở Việt
Nam, Tạp chí Giáo dục, Tập 25, Số 3. Hà Nội, 2002.
120 N guyẻn T iên Đ ạt: Dào tạo kỹ thuật thực hành ở Cộng hòa Pháp. Tạp chí
Phát trien Giáo dục, Sô 8, Hà Nội, 2003.
m N guvẻn T iên Đ ạt: Dào tạo kỹ thuật thực hành ở nước Anh, Tạp chí ỉlìát trien
Giáo dục, Số 9, Hà Nội, 2003.'
122 N guyẻn T iến Đạt: Hệ thông đào tạo kỹ thuật thực hành, cơ cấu trình độ và
ván bằng chứng chỉ ở nước ta, Tạp chí Phát triển G iáo dục, Sô 10, Mà Nội.
2003.
12-1 N guyẻn T iên Đạt: ỷ nghĩa cùa các số tỷ lệ và chỉ sô vé giáo dục trong việc so
sánh giáo dục, Tạp chí ỉ^át triển Giáo dục, Tập 5, Sò 5, Hà Nội, 1999.
124 N guyẻn T iến Đạt: So sánh những thành tích giáo dục và đào tạo Việt Num
với trình dộ thế giới, Tạp chí Phát triển G iáo dục, Tập 5, Sô 6, Hà Nội, 1999.
125 N guyẻn T iến Đ ạt: So sánh các sô tỷ lệ và chỉ số vé giáo dục của các nước
ASEAN, Tạp chí Phát trien Giáo dục, Tập 5. Sô 6, Ha N ội, 1999.
126 N guyễn Fien Đạt: So sánh thành tifíi giáo dục cùa cúc nước Tiểu vùỉỉg sông
Mékong, Tạp chí Khoa học Giáo dục, Sô 35, Hà N ội, 2(X)8.
127 N guyễn T iến Đ ạt: Các mô hình ưu tiên trong chi phi công cộng cùa các nước
trên thê giới và tình hình ở Tiểu vùng sông Mêkỏnạ, Tạp chí Khoa học Giáo
dục, SỐ 55, H àN ổi,4-2010.
dục Viột Nam va mo! sỏ nước: So sánh mội vài so liệu, tỳ so
va c h ì so ciziao d u c 1 \
/)//V '7 í/íiv ĩrìỉìh hax noi c¡ỉitìỊ' tóm ĩãí hùi l)(in ('¡toi kè ìrưỉi
i\ ỉ chỉ / ) va ÌÌÌỌÍ kct (¡na ìighièỉi cứu mới tron ,'s' lĩnh vực ịịiáo
(ínc so sánh (V ị chi 2 ị.
»nạnh hơn và khác phục các đ i'.MU Yêu hơn, vì thé ph àn này
\<.:ỉíU!ì r im D.ỉt: Gtiỉo lỉìỉi Y trí Sitttt vã ìHi'/Ị Ai' filíf.'i" Sỉ i Síinỉt !*:<>! \ àỉ .Sri
••••.■/ r i ' • (7 ỉ/ Ai I î'liin T ạ p í, ! ì ỉ \y.ny ĩi.iV . Cơ ( Ị u a n m.:.õn i u â n CIKỈ Liên
hvpc-1 . ! l. NÍ;S( o Vk't Nam. H I •?()!(».
' :ỉi<’nr: ỉ'-. \r!<>nmcỉit AV'V.,7 20iV!200S. ?'\\n \ N<*u York. 2007.
286 N G U Y Ễ N T IÊ N D A T
Bằng c á c h so s á n h đ ịn h lư ợ n g n h ư t h ế n ày , đ ồ n g thời đ ó
cũ n g là xu hư ớng q u a n trọ n g và nổi bật nh ất trong phương
"° Human Development Report 200712008. UNDP, New York. 2002, 2003, 2004,
2005, 2006 & 2007/2008.
G IA O D U C S O S Á N H 287
ỉ ........ Tn sỗ ỏ nước
'ì lô Ỷtì chì 3ỏ I C a m p u c h iữ Lào Myamar Thài Lan ; Trung Việt
ị Quốc Nam ị
ị Tì lè biỏt chữ người iớn (% từ 15 tuổi trờ lẻn) 1995-2005 73 6 68,7 89,9 92,6 90.9 90,3
2 ; Tì lò biết chữ thanh niòn (% tuổi 15-24) 1995-2005 83,4 78.5 94,5 98,0 93,9
ỏ ' Ti iỏ b 6t. chữ ngươi lớn nam (%từ 15 ìuổi trở lên) 1995-2005 84.7 77,0 93,9 94,9 95,1 93.9
4 Ti :ỏ biết chừ nqươi lớn nữ (%từ 15 tuổi trở lèn) 1995-2005 64.1 60,9 86,4 90,5 86.5 86,9
1 Tì lè hiết chừ nỡ so VỜI nam người lớn 1995-2005 0,76 0.79 0.92 0,95 0,91 0,99
0 l Tỉ ió hròĩ chữ thanh niên nử(% tuổi 15*24) 1995-2005 78.9 74.7 93,4 97.8 98,5 93,6
T• Yỉ bíõí chữ nữ so VỚI nam thanh ntón 1095*2005 0,90 0,90 0,98 1,00 0,99 0.99
ì Ĩ! íô đi hoc chung các cáp (%) 2005 60.0 61,5 49,5 71,2 69,1 63,9
lí ỉ ị lõ ói hoc chung càc cãp {%) 2005 (đốt vơ) nam) 64 67 48 71 70 66 I
'0 Tì !ó <1 hoc churvj các cãp {%) 2005 (đỏi VỚ! nữ) 56 56 51 72 69 62
97
'ì íỏ <!i hoe nóng t:Ju hoe (%) 2005 99 84 90 88 88
/1991
12 ỉ Tỉ ui -:h hoc néng nữ tiều hoc (%) 2005 98 81 91 86 - -
' i i !õ di noc nẽng nữ so vơ! nam tiêu hoc (%) 2005 0.98 0,95 1.02 0,96 -
ỊI
’4 1ỉ ¡ó vì: hcc chung nữ tỉểu hoc (%) 2005 129 I 109 101 94 112 91
'I i 'ủ ỉ. học chung nữ so VỚI nam tiểu hoc (%) 2005 0.92 0,88 1.02 0.96 0,99 0,94
• Tỉ !õ đi hoc nòng trung hoc (%) 2005 24 38 37 64 - 69
1ỉ T’ lệ di học chung nữ trung hoc (%) 2005 24 40 40 72 74 75
K 1 TĨiè đi hoc chung nữ so VỚI nam trung hoc (%) 2005 0,69 0.76 0,99 1,05 1.00 0.97
HNVSC
1'
49 ■=*,4 1
-., f>4 Vi ! 38 • 1
1c. Û
:
0.593 1 0.7/9 u 7,\' {] 72'
115 Ỉ: 71
Ị i * 1
t................"".... ...... ' 1
34 e> 21 5 10 0 *17 1í:i «
Ọ I
70 52 24
1 ....* ........
ỊI
j
fiwr
290 N G U Y Ẻ N T IÊ N D A T
H ình 1 9 a . S o s á n h tỷ lệ b iế t c h ư n g ư ờ i lớn
ơ c á c n ư ớ c T iểu v ù n g s õ n g M ẻ k ò n g 2 0 0 0 -2 0 0 7
3. S(I sánh sự tăiiíỊ lỊĨàm tý lệ di liọc clium ' các Clip ở các
/lưới Til'll vùn ụ SÔIHỊ MêkôtỉiỊ
thảy trong biêu đổ, M y an m ar có trị sò tháp nhất, nam dâu giám
nhiều , sau tànu dần chút ít. Trừ Thai Lan. 5 nước trong khu vực
đều giám ứ năm đẩu, sau dó tăng len chút ít. riêng Việt Nam
g iữ nguycn 3 năm rồi giám một chút. Thái L an lại tãng nhiêu
tỷ lệ này hai năm đ ầu và giám một chút à năm cuối, nhưng vần
là nước dần đầu trong khu vực, tiếp theo là T ru n g Q u ố c. Việt
N am . Lào và C am pu chia. R iêna T rung Q u ố c đan đ àu nám
2 000 , giảm nhiều n ăm đáu xuống hang Việt N am (64% ), sau
tăng dần các năm sau và luôn giữ vị trí thứ hai.
'«%
1 4 •s •
2000 2001 700ỉ 2003 2004 700% 2007
H ình 1 9 b . S o s á n h tỷ lệ đi h ọ c c h u n g c á c c ấ p
ở c á c n ư ớ c Tiêu v ù n g s ò n g M ẻ k ô n g 2000-2007
DL.il.: s o S A N H
lỉicu (lo trẽn 11 inh 1()l tnniì hàv sự ỉami mum của chì sô
i:iao diu ơ khu vực ĩìàv. Nam 2(K)X tlan dâu chi sò nuv là
I haI Lan, sau đo la Tnine Ouoc. Vỉct Nam. Myanmar,
(amỊHkhia \ à CIIÓĨ CUIIH la Lào. Nam đau. Thái Lan va Lào
đoa laiìLí. -ị IUÍOV con lai đêu í_!Íiì[iì, sauđó các nước đêu tâĩi 2
c. - i..
H inh 1 9 c. S o s á n h c h ỉ s ò g iá o d ụ c El
ơ c á c n ư ớ c T iêu v ù n g s ô n g M ẽ k ó n g 2 0 0 0 -2 0 0 7
29-1 N G U Y Ễ N T IẾ N D A T
nưov c ó chi sò phát trien con ngươi thuộc loại trunụ hình
( 111)1 - 0 ,5 0 2 0 , 7 9 8 ) va 20 nước cỏ chi số phất triển con
n lĩ ười thuộc loại tlìãp (Ul )ỉ - 0 , 3 3 6 “> 0 , 4 9 e)).
Cân cứ vào các sò liệu vé chi phí conn cộnsi của các nước
cho ha lĩnh vực tren, tuy chưa hoàn toàn đẩy* đù. nhưngcr có the
phán loại ra 3 nhóm và 6 mô hình của các nước có sự ưu tiên
khác nhau cho các lĩnh vực như sau:
loại chi số phát trien con n^ười cao, 6 nước thuộc loại chỉ sô
plìát trien con người trung bình và 4 nước thuộc loại chi sỏ
phát trien con người thấp. M ỏ hình thứ hai YQG coi quân sự
con nSi ười thấp và không có nước nào thuộc loại chỉ sỏ phát
trien con nuười
c? cao và trune binh.
phát trien con người cao. 22 nước thuộc loai chi sô phát trien
con người trung hình và 2 nước thuộc loại chí sỏ phát trien
con người tháp.
Qua các sỏ liệu của 150 nước có thê thây rằng sô nước s
ihuôc nhóm G với ỊỊĨáo dục là ưu tiên hàng đầu là lớn nhất (S<;
= 79), thuộc nhóm Y với V télà ưu tiên hàng đầu là ít hơn (Sy
= 48) và thuộc nhóm Q với quân sự là ưu tiên hàng đáu là ít
nhất (Sọ = 23); nếu tính tỷ lệ giữa ha nhóm là s <;: SY: Sọ =
52.7: 32.0: 15.3 % ).
Để có thể dẻ rút ra các nhận định so sánh giữa các nhóm
và chi tiết lum giữa các mô hình trong vãn đề này. Bảĩiíi 1. với
GIÁO DỤC SO SÁNH 297
các cột từ 1 đến 12 còn cung cấp sô thứ tự xếp hạng trung
bình của chỉ số phát triển con người HDI đốì với các nước
trong các nhóm và mô hình cũng như đối với các nhóm lớn có
chỉ sô phát triển con người cao, trung bình và thấp.
b)Tìnhhìnhưutiêntrongchiphícôngcộngcủacác
nướcTiểuvùngsôngMêkông
Bảng 2. xếp các nước trong khu vực theo thứ tự trị sô' và
thứ hạng của chỉ sô' phát triển con người, tiếp theo là tên mô
hình và trị sô % GDP phân bô' cho ba lĩnh vực y tế, giáo dục
và quân sự với sô' liệu mới nhất có được năm 2004 và 2005.
Để có thể suy đoán được xu thế, đành phải lấy thêm số liệu cũ
từnảm 1990-1991.
Một trở ngại trong viộc so sánh này là thiếu số liệu. So
sánh riêng về sự đầy đủ sô' liệu về mặt này đã công bố, trong
8 cột của Bảng 2. Thái Lan có đủ cả, Trung Quốc và
298 NGUYỄN TIẾN ĐẠT
Bảng 5.10 . Ưu tiên trong chi ph( cô ng cộng của c á c nước Tiểu vùng
sông Mêkông tính theo % củ a GDP
hiộn tại ờ đất nước chúng ta? Nước ta có nên có chủ trucmg,
có kế hoạch dài hạn và ngắn hạn thay đổi mô hình phân bố
chi phí công cộng theo hướng đa sô' các nước tiền tiến trên thế
giới để thực sự cho giáo dục có vị trí quan trọng bậc nhất
trong tương lai gần hay không?
Việc giải quyết ván đề này quả thực không đem giản.
Isaac Kandel, một tác giả kinh điển nổi tiếng của môn Giáo
dục so sánh đã từng viết: “Các vấn đề và mục tiêu của giáo
dục có thể là giống nhau ờ các nước, nhưng cách giải quyết
chịu ảnh hưởng của những sự khác nhau về bối cảnh, về
truyền thống lịch sử và văn hoá”. Để giải quyết vấn để này,
nên hình thành một đề tài nghiên cứu lớn có sự tham gia cửa
nhiều nhà chuyên môn giỏi trong các ngành liên quan của xã
hội, đặc biệt là chính trị, quân sự, giáo dục và y tế, và nên tổ
chức các hội thảo lớn để nhiều nhà khoa học các ngành tham
gia. Có thể coi đây là một vấn đề mấu chốt trong chiến lược
giáo dục của nước ta.
GIÁO DUC SO SÁNH 301
T À I L IỆ U T H A M K H Ả O
Chịu tr á c h n h iệ m x u ấ t bảru
SIÀO D ự c SO SÀNH_____________________________________________________
Mã số: 2K-32ĐH2010
In 300 cuốn, khổ 14,5 X20,5 cm tại Công ty CP In Hà Nội
SỐ xuất bản: 871-2010/0X6/01'- 151/ĐHQGHN, ngày 31/8/2010
Quyết định xuất bản số: 29 KH-XH/XB
In xong và nộp lưu chiểu quý rv năm 2010.