You are on page 1of 79

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM


HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THU HẰNG

ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP


THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014

Chuyên ngành: Luật Kinh tế


Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HỒ NGỌC HIỂN

HÀ NỘI, 2017
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là luận văn do chính tôi nghiên cứu và thực hiện; các
kết quả phân tích trong luận văn là hoàn toàn trung thực, không được sao chép của
bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đây. Nếu không đúng như nêu trên, tôi xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ và Nhà trường.
NGƢỜI CAM ĐOAN

PHẠM THU HẰNG


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ĐẠI DIỆN THEO PHÁP
LUẬT VÀ ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP 5
1.1. Tổng quan về đại diện theo pháp luật 5
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN THEO
PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 17
2.1. Các quy định về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. 17
2.2. Thực tiễn áp dụng luật Doanh nghiệp năm 2014 về đại diện theo pháp 42
luật của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC
QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA 50
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Phương hướng hoàn thiện các qui định về đại diện theo pháp luật của 50
Luật doanh nghiệp năm 2014
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định về đại diện theo pháp luật của Luật 55
doanh nghiệp năm 2014
KẾT LUẬN 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 74
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS Bộ luật dân sự


ĐDTPL Đại diện theo pháp luật
DN Doanh nghiệp
LDN Luật doanh nghiệp
NĐD Người đại diện
NLDS Năng lực dân sự
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Theo thống kê 8 tháng đầu năm 2017 trên toàn quốc có 85357 doanh nghiệp
mới được thành lập nhưng đã có 7754 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể. Việc
tăng trưởng của các doanh nghiệp đã góp phần không nhỏ để phát triển kinh tế, sự
lớn mạnh của các doanh nghiệp là sự lớn mạnh, vững chắc của đất nước. Cùng với
sự phát triển không ngừng của doanh nghiệp là sự phát triển chuyên nghiệp của
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Hoạt động của một doanh nghiệp được thông qua người đại diện theo pháp
luật. Người đại diện theo pháp luật sẽ nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp xác
lập, thực hiện các giao dịch thể hiện mối quan hệ với các chủ thể trong doanh
nghiệp (như với các thành viên, cổ đông góp vốn) hoặc với các chủ thể khác bên
ngoài doanh nghiệp (đối tác, khách hàng, cơ quan quản lý nhà nước...). Trong suốt
quá trình hoạt động, từ khi thành lập đến khi giải thể hoặc tuyên bố phá sản hay sáp
nhập, chia, tách, doanh nghiệp phải đảm bảo luôn có người đại diện theo pháp luật.
Doanh nghiệp luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam.
Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật, thì người đó
phải cư trú ở Việt Nam và nếu người đó xuất cảnh khỏi Việt Nam thì phải ủy quyền
bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Nhưng người
ủy quyền đó vẫn chịu mọi trách nhiệm về hoạt động của người được ủy quyền.
Từ vai trò quan trọng đó mà Bộ luật dân sự năm 2005 và đến BLDS năm
2015 đều dành một chương riêng quy định về đại diện trong quan hệ pháp luật dân
sự, đặc biệt là đại diện của pháp nhân. Luật Doanh nghiệp năm 2014 cũng quy định
cụ thể về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tại Điều 13, Điều 14. Có thể
khẳng định Luật doanh nghiệp năm 2014 và Bộ luật dân sự năm 2015 đã có nhiều
sửa đổi khá quan trọng về đại diện của doanh nghiệp, tuy nhiên trên thực tế thực
hiện thì đã nảy sinh nhiều vấn đề pháp lý đáng quan tâm và còn nhiều điểm bất cập
cần phải có sự điều chỉnh bổ xung kịp thời để hoàn thiện hệ thống lý luận pháp luật
và hoàn thiện cơ chế để đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và doanh nghiệp
có hành lang pháp lý để hoạt động hiệu quả hơn.

1
Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Đại diện pháp luật của doanh nghiệp theo luật
doanh nghiệp 2014” làm luận văn tốt nghiệp là phù hợp cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến thời điểm hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu về đại diện
pháp luật; đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nhưng chưa có một công trình
nào đề cập chuyên sâu đến nội dung này và các công trình mới chỉ dừng lại ở các
bài viết thuộc một số tạp chí và cũng chỉ nghiên cứu một khía cạnh nhỏ của nội
dung này, như:
- Bài viết của luật sư Nguyễn Văn Dương: “Quy định mới về người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp”, Webside Luật Dương Gia năm 2015. Trong bài
viết này tác giả đã đi sâu vào phân tích được một số điểm mới theo luật doanh
nghiệp năm 2014 về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp so với luật
doanh nghiệp năm 2005.
- Bài viết của Nguyễn Thị Thanh: “Người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 và luật doanh nghiệp 2014”,
Trường Đại Học Vinh năm 2017. Bài viết đã phân tích những điểm mới, một số điểm
còn hạn chế trong luật doanh nghiệp năm 2014 về người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp, đồng thời đưa ra 02 giải pháp để hoàn thiện các quy định này.
- Bài viết của luật sư Trần Văn Phương: “Vai trò của người đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp”, tạp chí luật sư số 3 năm 2017. Bài viết đã nêu được
một số vai trò của người đại điện theo pháp luật của doanh nghiệp, tuy nhiên các
phân tích của bài viết chưa thật sự làm nổi bật được tầm quan trọng của người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó còn một số bài viết của một số luật sư của các văn phòng luật sư
đăng trên các tạp chí. Tuy nhiên các công trình trên chưa có công trình nào đề cập
chuyên sâu có hệ thống để đánh giá toàn diện và tìm ra những tồn tại, hạn chế và đề
xuất giải pháp nâng cao hiệu quả đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Vì vậy,
nghiên cứu đề tài “Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo Luật doanh
nghiệp 2014” là đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra và không trùng lặp với các công
trình, đề tài nghiên cứu đã từng công bố.

2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung phân tích, nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn
người đại diện và đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp ở
Việt Nam hiện nay, đặc biệt đi sâu đánh giá làm rõ thực trạng tiến hành, kết quả đã
đạt được cũng như những bất cập, hạn chế trong thực hiện quy định đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp; nguyên nhân của những hạn chế,
thiếu sót đó. Từ đó đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện
quy định đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp 2014.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đề tài đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về đại diện pháp luật và đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tình hình đại diện pháp luật và đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp 2014. Tìm ra những điểm còn
tồn tại, hạn chế để có biện pháp khắc phục.
- Dự báo tình hình và đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp 2014.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về đại diện pháp luật và đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp năm 2014.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Việc áp dụng luật doanh nghiệp năm 2014 và việc thực hiện các quy định
của luật doanh nghiệp về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ở Việt Nam thời
gian hiện nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật Nhà nước về doanh nghiệp và đại điện theo pháp luật của doanh nghiệp.

3
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu được tiến hành dựa trên một số phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Hệ thống các văn bản hướng dẫn, các tài
liệu tham khảo, giáo trình, sách, công trình nghiên cứu, bài viết đã được công bố liên
quan đến đại điện theo pháp luật của doanh nghiệp. Thực tiễn hoạt động của đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, kết quả đã đạt được, hạn chế
thiếu sót và nguyên nhân, những yếu tố tác động và phân tích đưa ra các giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động của đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
- Bên cạnh đó luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học
khác như: Phương pháp thống kê.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về lý luận
Luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về đại diện theo pháp luật
và đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp năm 2014.
6.2. Về thực tiễn
Các giải pháp của luận văn có thể giúp cho hoàn thiện hệ thống các quy định
về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp năm 2014.
Đồng thời giúp cho quá trình triển khai thực hiện luật doanh nghiệp năm 2014 được
tiến hành thông suốt, hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, luận văn cũng thể sử dụng làm
tài liệu tham khảo phục vụ cho hoạt động giảng dạy, học tập và nghiên cứu.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về đại diện theo pháp luật và đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp.
Chương 2. Thực trạng về pháp luật về đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3. Kiến nghị, phương hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định pháp
luật về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

4
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT VÀ ĐẠI DIỆN
THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP

1.1. Tổng quan về đại diện theo pháp luật


1.1.1. Khái niệm đại diện
Trong cuộc sống, các chủ thể quan hệ pháp luật ngày nay có nhu cầu tham
gia giao dịch dân sự ngày càng đa dạng và mở rộng hơn bởi sự phát triển của cuộc
sống, ngoài cá nhân còn có pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình và Nhà nước. Đối
với các chủ thể mà quyền lợi mang tính cộng đồng (pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp
tác) thì việc tham gia quan hệ pháp luật dân sự bắt buộc phải thông qua hành vi của
người đại diện. Đối với cá nhân bên cạnh việc trực tiếp ký kết thực hiện giao dịch
còn có thể tham gia gián tiếp thông qua người khác đại diện.
Hiện nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau về đại diện, cụ thể như:
Theo Hán Việt Từ điển giản yếu do Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin ấn
hành năm 2013 thì đại diện là thay mặt (représenter).
Theo từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản Hồng Đức ấn hành năm 2016 định
nghĩa thì đại diện là thay mặt cho cá nhân hoặc tập thể.
Dưới giác độ khoa học pháp lý: Theo Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng
do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành năm 1996, thì đại diện được hiểu là việc một
người (người đại diện) nhân danh một người khác (người được đại diện) xác lập,
thực hiện giao dịch trong phạm vi thẩm quyền đại diện. Phạm vi thẩm quyền đại
diện do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định. Người được đại diện có
quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do người đại diện xác lập,
thực hiện trong phạm vi thẩm quyền đại diện. Trong trường hợp pháp luật có quy
định cá nhân phải tự mình thực hiện giao dịch dân sự thì cá nhân không được ủy
quyền người khác đại diện cho mình.
Theo Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa do Nhà xuất bản
Tư pháp ấn hành năm 2006, thì đại diện được hiểu là việc một người, một cơ quan,
tổ chức nhân dan người, cơ quan, tổ chức khác xác lập, thực hiện hành vi pháp lí

5
trong phạm vi thẩm quyền đại diện. Đại diện có đại diện theo pháp luật và đại diện
theo ủy quyền.
Bên cạnh đó, một số tài liệu cho rằng người đại diện theo pháp luật được
hiểu là người do pháp luật hoặc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, để
đại diện cho một cá nhân hay tổ chức nào đó thực hiện (xác lập) các giao dịch hay
hành vi dân sự, hành chính… (như ký hợp đồng, tham dự phiên tòa…). [06, tr.18]
Như vậy, đại diện là một quan hệ pháp luật dân sự bao gồm hai bên chủ thể
là bên đại diện và bên được đại diện. Quan hệ đại diện này làm phát sinh một quan
hệ nữa là quan hệ giữa người đại diện với người thứ ba, theo ý chí, lợi ích của người
được đại diện. [07, tr.45]
Theo qui định tại Bộ luật dân sự, đại diện là việc một người (sau đây gọi là
người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được
đại diện) xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện.
Theo quy định tại Luật Thương mại thì đai diện cho thương nhân là việc một
thương nhân nhận ủy nhiệm (gọi là bên đại diện) của thương nhân khác ( gọi là bên
giao đại diện) dể thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ
dẫn của thương nhân đó và được hưởng thù lao về việc đại diện. Trong trường hợp
thương nhân của người của mình để đại diện cho mình thì áp dụng quy định của Bộ
luật dân sự.
Tất cả các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự (cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác,
Nhà nước) đều có quyền được có người đại diện cho mình trong việc xác lập, thực hiện
các giao dịch dân sự nhằm phục vụ cho quyền và lợi ích của mình. [04, tr.3]
Không chỉ cá nhân, mà pháp nhân (công ty, tổ chức xã hội …) hoặc chủ thể
khác đều có quyền và có thể xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự (như mua bán
hàng hóa, ký hợp đồng cho thuê nhà…) thông qua người đại diện của mình. Tuy
nhiên, cá nhân không được để người khác đại diện cho mình trong trường hợp mà
pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó. Thông thường,
đây là những giao dịch liên quan đến quyền nhân thân – vốn có đặc tính không thể

6
chuyển giao cho người khác được. Ví dụ: một người chồng không thể ủy quyền cho
một người khác đại diện để “làm chồng” đối với… người vợ của mình. [05, tr.29]
Việc phát sinh quan hệ đại diện được xác lập theo hai hình thức: do pháp luật
quy định hoặc theo sự uỷ quyền. Ví dụ: Người đại diện của công ty là người mà
công ty đăng ký với vị trí là “người đại diện theo pháp luật” – thể hiện trong Giấy
phép đăng ký kinh doanh (thường là giám đốc) do Sở kế hoạch và đầu tư cấp. Đây
là trường hợp đại diện mà pháp luật quy định. Tiếp đó, nếu như vị giám đốc công ty
này lại ủy quyền cho một nhân viên khác, chẳng hạn là anh A, đi dự họp tại cơ quan
thuế – thì anh A sẽ trở thành người đại diện cho giám đốc công ty. Đây là trường
hợp đại diện theo ủy quyền (do được ủy quyền mà có tư cách đại diện).
Như vậy, chúng ta có thể cho rằng: Đại diện là một quan hệ pháp luật được
xác lập giữa người đại diện và người được đại diện, cho phép người đại diện nhân
danh và vì lợi ích của người được đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
trong phạm vi, thời hạn được giao phó theo thỏa thuận hoặc theo quy định của
pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm pháp lý của đại diện
- Đại diện làm phát sinh hai mối quan hệ cùng tồn tại song song là quan hệ bên
trong vào quan hệ bên ngoài
Quan hệ bên trong là quan hệ được hình thành giữa người đại diện và người
được đại diện. Quan hệ này có thể được hình thành từ hợp đồng hoặc theo quy định
của pháp luật. Ví dụ theo quy định tại Điều 21 Bộ luật dân sự năm 2015 thì mọi giao
dịch dân sự của người chưa đủ 6 tuổi đều phải do người đại diện theo pháp luật xác
lập, thực hiện. Điều này có nghĩa là quan hệ giữa người đại diện và người được đại
diện (6 tuổi) trong trường hợp này được xác lập theo pháp luật chứ không phải theo
hợp đồng.
Quan hệ bên ngoài là quan hệ giữa người đại diện với người thứ ba.
Quan hệ bên trong là tiền đề, là cơ sở cho sự xuất hiện và tồn tại của quan hệ
bên ngoài. Quan hệ bên ngoài thực hiện bởi quan hệ bên trong. Tuy nhiên thực tế vẫn

7
tồn tại mối quan hệ gián tiếp giữa người được đại diện với người thứ ba về trách nhiệm
và lợi ích.
- Trong quan hệ đại diện, người đại diện nhân danh người được đại diện để xác
lập và thực hiện giao dịch dân sự với người thứ ba
Người đại diện xác lập quan hệ với người thứ ba là nhân danh người được đại
diện chứ không phải nhân danh bản thân họ, vì vậy các quyền và nghĩa vụ do người đại
diện thực hiện trong phạm vi thẩm quyền đại diện với người thứ ba đều thuộc về người
được đại diện. Người đại diện có thể được hưởng những lợi ích nhất định từ người
được đại diện do thực hiện hành vi đại diện với người thứ ba chứ không được hưởng
bất kỳ lợi ích nào từ người thứ ba. [07, tr.38]
Trong giao dịch do người đại diện nhân danh người được đại diện xác lập,
thực hiện phát sinh với người thứ ba chứ không phải người được đại diện là trực
tiếp xác lập và thực hiện giao dịch dân sự với người thứ ba, trong trường hợp người
đại diện hoạt động với danh nghĩa riêng thì không có quan hệ đại diện.
- Người đại diện tuy nhân danh cho người được đại diện nhưng vẫn có sự
chủ động trong việc xác lập thực hiện giao dịch dân sự
Người đại diện tuy nhân danh cho người được đại diện và thẩm quyền của
họ bị giới hạn trong phạm vi đại diện theo thỏa thuận hay theo quy định của pháp
luật nhưng họ vẫn có sự chủ động trong khi tiến hành các công việc cần thiết để đạt
được mục đích là vì lợi ích của người được đại diện. Ví dụ: A đại diện theo ủy
quyền mua nhà cho B thì A vẫn thể hiện ý chí của mình qua việc thỏa thuận các
điều khoản trong hợp đồng đối với người thứ ba nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất cho
A (trong lợi ích của A sẽ có lợi ích của B theo thỏa thuận đối với trường hợp ủy
quyền có thù lao).
- Trong quan hệ đại diện, người được đại diện trực tiếp thu nhận các kết quả
pháp lý do hoạt động của người đại diện thực hiện trong phạm vi thẩm quyền đại
diện mang lại
Các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự do người đại diện xác
lập thực hiện với người thứ ba đều thuộc về người đại diện, điều này có nghĩa là

8
quan hệ pháp luật dân sự phát sinh giữa người được đại diện và người thứ ba, chứ
không phải giữa người trực tiếp tiến hành xác lập, thực hiện giao dịch dân sự -
người đại diện với người thứ ba.
1.1.3. Hình thức pháp lý của đại diện
Đại diện được chia thành hai loại là đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy
quyền. Mỗi hình thức đều có những đặc điểm riêng, phù hợp với tính chất của các mối
quan hệ.
- Đại diện theo pháp luật
+ Theo Điều 140 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định “Đại diện theo pháp luật
là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết
định”. Căn cứ vào quy định này ta thấy đại diện theo pháp luật được chia làm hai
loại, đó là:
* Đại diện theo pháp luật qui định là đại diện đương nhiên, ổn định về người
đại diện, về thẩm quyền đại diện. Đó là các trường hợp cha, mẹ đại diện cho con
khi con chưa thành niên, người giám hộ đương nhiên đại diện cho người được giám
hộ, người đứng đầu pháp nhân đại diện cho pháp nhân, chủ hộ đại diện cho hộ gia
đình, tổ trưởng tổ hợp tác đại diện cho tổ hợp tác.
* Đại diện theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là đại diện
chỉ định, không có tính ổn định về người đại diện cũng như thẩm quyền đại diện.
Đó là các trường hợp: Người giám hộ cử với người được giám hộ, người được tòa
án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, trong một số trường
hợp người đứng đầu pháp nhân có thể được xác định theo quyết định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền.
Căn cứ để hình thành quan hệ này là ý chí của nhà nước, pháp luật qui định
mối quan hệ theo pháp luật được xác lập dựa trên các mối quan hệ đã tồn tại sẵn
chứ không theo ý chí hay sự thỏa thuận, định đoạt của các chủ thể.
+ Các chủ thể trong đại diện theo pháp luật
* Người được đại diện

9
Nếu người được đại diện là cá nhân, thì phải là người không có khả năng
trực tiếp tham gia vào bất cứ giao dịch dân sự nào nên pháp luật qui định phải có
những chủ thể có nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi cho họ trong việc xác lập, thực hiện
các giao dịch dân sự. Đó là người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người
mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không nhận thức và làm chủ được hành vi
của mình, người bị tòa án ra quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Nếu người được đại diện là pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình khi tham gia
vào các giao dịch dân sự bắt buộc phải thông quan người đại diện.
* Người đại diện
Người đại diện phải là những người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Người đại diện theo pháp luật là người có mối quan hệ đặc biệt với người được đại
diện, như: Quan hệ huyết thống (cha, mẹ với con cái…), quan hệ pháp lý (quan hệ
giám hộ …).
Theo Điều 141, Bộ luật dân sự năm 2015 người đại diện theo pháp luật bao
gồm: Cha, mẹ đối với con chưa thành niên; người giám hộ đối với người được
giám hộ; người được Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự; người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc theo quyết
định của cơ quan thẩm quyền; chủ hộ gia đình đối với gia đình; tổ trưởng tổ hợp tác
đối với tổ hợp tác; những người khác theo quy định của pháp luật.
+ Căn cứ để nhận biết các quan hệ đại diện theo pháp luật đang tồn tại
Căn cứ vào giấy khai sinh của con chưa thành niên để biết ai là người đại
diện theo pháp luật.
Căn cứ vào xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn nơi người giám hộ cư
trú để biết ai là người đại diện theo pháp luật của người được giám hộ.
Căn cứ vào quyết định của Tòa án khi tuyên bố một người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự để biết ai là người đại diện cho người này.
Căn cứ vào sổ hộ khẩu của gia đình để biết ai là người đại diện theo pháp
luật của hộ gia đình.

10
Căn cứ vào hợp đồng hợp tác có xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn
để biết ai là người đại diện cho tổ hợp tác.
Căn cứ vào Đăng ký kinh doanh, điều lệ hoặc quyết định thành lập pháp
nhân để biết ai là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân.
Tóm lại, đại diện theo pháp luật là quan hệ dân sự mang tính chất ổn định và bền
vững dựa trên mối quan hệ giữa người đại diện và người được đại diện là mối quan hệ
huyết thống hay mối quan hệ pháp lý. Vì vậy người đại diện thực hiện quan hệ đại diện
vì trách nhiệm với người được đại diện và không được hưởng lợi ích trong mối quan hệ
này. [08, tr.25]
- Đại diện theo ủy quyền
+ Theo Điều 142, Bộ luật dân sự năm 2015 qui định: “Đại diện theo uỷ
quyền là đại diện được xác lập theo sự uỷ quyền giữa người đại diện và người được
đại diện; hình thức uỷ quyền do các bên thoả thuận, trừ trường hợp pháp luật quy
định việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản”. Từ những qui định trên có thể rút
ra các đặc điểm của các hình thức này là:
* Đại diện theo ủy quyền là hình thức đại diện tự nguyện, theo sự thỏa thuận
giữa người đại diện và người được đại diện, thể hiện bằng hợp đồng ủy quyền (giấy
ủy quyền). Trên thực tế, vệc đại diện theo ủy quyền diễn ra rất phổ biến, các bên có
thể thỏa thuận cho nhau tiến hành giao dịch dưới nhiều hình thức, kể cả bằng
miệng; tuy nhiên đối với các trường hợp pháp luật qui định việc ủy quyền phải lập
thành văn bản thì phải tuân theo hình thức đó mới có giá trị pháp lý.
* Ủy quyền là căn cứ phát sinh quan hệ giữa người đại diện và người được
đại diện; đồng thời nó cũng là cơ sở để người ủy quyền tiếp nhận các kết quả pháp
lý do hoạt động ủy quyền mang lại. Vì vậy khi ủy quyền phải xác định rõ phạm vi
đại diện, thời hạn, thời hiệu của việc phát sinh, chấm dứt ủy quyền, mức độ ủy
quyền… trong hợp đồng ủy quyền.
* Khác với đại diện theo pháp luật, hai bên chủ thể trong quan hệ đại diện
đều phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp được quy định tại
Khoản 2, Điều 143, Bộ luật dân sự năm 2015: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến

11
chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo uỷ quyền, trừ trường hợp pháp
luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập,
thực hiện”.
+ Các chủ thể trong quan hệ đại diện theo ủy quyền
* Người đại diện theo ủy quyền có các loại
Đại diện theo ủy quyền của cá nhân: Đại diện theo ủy quyền của các cá nhân
có thể là cá nhân, ví dụ: A ủy quyền cho B đứng ra ký kết hợp đồng thuê nhà; đại
diện theo ủy quyền của cá nhân cũng có thể là pháp nhân, ví dụ: A ủy quyền có
công ty luật X đứng ra ký kết hợp đồng thuê nhà.
Đại diện theo ủy quyền của pháp nhân: là người đại diện theo pháp luật của
pháp nhân ủy quyền cho người khác xác lập thực hiện giao dịch dân sự. Ví dụ: A là
Tổng Giám đốc của công ty Y, đồng thời là người đại diện theo pháp luật của công
ty này. A ủy quyền cho B là nhân viên công ty thay mình ký kết hợp đồng mua bán
vật liệu xây dựng với công ty Z. Trong trường hợp này B là người đại diện theo ủy
quyền của công ty Y.
Đại diện theo ủy quyền của hộ gia đình và tổ hợp tác: người được ủy quyền
chỉ có thể là thành viên trong hộ gia đình hay trong tổ hợp tác mà thôi.
* Người được ủy quyền là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (trừ
trường hợp người từ đủ 15 tuổi chưa đến 18 tuổi có thể có quyền là người đại diện
trong một số trường hợp nhất định theo quy định của Khoản 2, Điều 143, Bộ luật
dân sự năm 2015).
+ Căn cứ pháp lý để nhận biết quan hệ ủy quyền là hợp đồng ủy quyền hoặc
giấy ủy quyền
Hợp đồng ủy quyền và giấy ủy quyền có thể do pháp luật quy định hoặc nếu
không quy định các bên có thể tự thỏa thuận để lựa chọn hình thức công chứng,
chứng thực cho hợp đồng ủy quyền, giẩy ủy quyền của mình.
Tóm lại, ủy quyền là phương tiện pháp lý cần thiết tạo điều kiện cho cá
nhân, pháp nhân và các chủ thể khác của quan hệ dân sự, bằng nhiều hình thức
khác nhau có thể tham gia vào giao dịch dân sự một cách thuận lợi nhất, đảm bảo

12
thỏa mãn nhanh chóng các lợi ích mà chủ thể quan tâm. Người đại diện trong quan
hệ ủy quyền có thể hưởng lương, lợi ích từ quan hệ ủy quyền nếu các bên có thỏa
thuận trong hợp đồng ủy quyền.
1.2. Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Đại diện là việc người đại diện nhân danh và vì lợi ích của người được đại
diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện. Đây là một chế
định pháp luật quan trọng đối với các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự đặc biệt
là với chủ thể quan trọng như là doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là một thuật ngữ để chỉ một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài
sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp
luật nhằm mục đích kinh doanh. Doanh nghiệp thưởng được tổ chức thành lập theo
một trong bốn hình thức: công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công ty
hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân. Đây là một chủ thể tham gia vào các quan hệ
pháp luật, trong đó trước hết và chủ yếu là các quan hệ kinh doanh thông qua
những người đại diện. Hay nói cách khác, doanh nghiệp phải luôn phải được đại
diện, kể từ khi được thành lập cho đến khi chấm dứt.
Hoạt động của một doanh nghiệp được thông qua người đại diện theo pháp
luật. Người đại diện theo pháp luật sẽ nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp
xác lập, thực hiện các giao dịch thể hiện mối quan hệ với các chủ thể trong doanh
nghiệp (như với các thành viên, cổ đông góp vốn) hoặc với các chủ thể khác bên
ngoài doanh nghiệp (đối tác, khách hàng, cơ quan quản lý nhà nước...). Trong suốt
quá trình hoạt động, từ khi thành lập đến khi giải thể hoặc tuyên bố phá sản hay
sáp nhập, chia, tách, doanh nghiệp phải đảm bảo luôn có người đại diện theo pháp
luật. Doanh nghiệp luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại
Việt Nam. Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật, thì
người đó phải cư trú ở Việt Nam và nếu người đó xuất cảnh khỏi Việt Nam thì
phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình. Nhưng người ủy quyền đó vẫn chịu mọi trách nhiệm về hoạt động của

13
người được ủy quyền. Quy định này cho thấy, vai trò và trách nhiệm của người
đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp khá lớn, họ phải chịu trách nhiệm đối
với toàn bộ các hoạt động, các giao dịch của doanh nghiệp. [09, tr.60]
Chính vì vai trò quan trọng của người đại diện đối với doanh nghiệp mà Bộ
luật dân sự năm 2005 và đến Bộ luật dân sự năm 2015 đều dành một chương riêng
quy định về đại diện trong quan hệ pháp luật dân sự, đặc biệt là đại diện của pháp
nhân. Luật doanh nghiệp năm 2014 cũng quy định cụ thể về người đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp tại Điều 13, Điều 14.
Theo Khoản 1, Điều 13, Luật doanh nghiệp năm 2014 qui định: “Người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện
các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh
nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước
Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”.
1.2.2 Một số đặc điểm cơ bản của đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
- Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải là người có đầy đủ
năng lực hành vi dân sự
Năng lực hành vi dân sự là khả năng của chủ thể bằng hành vi của mình xác
lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân phụ
thuộc vào lứa tuổi và được xác định theo pháp luật của từng quốc gia. Theo pháp
luật thực định Việt Nam, cá nhân được xem là có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
khi đã đủ 18 tuổi trở lên và không bị toà án tuyên bố là người mất năng lực hành vi
dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Về năng lực hành vi dân sự, một
số nền tài phán có quan điểm khác nhau, Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái lan
quy định rằng nếu người được đại diện sử dụng một người không có năng lực làm
người đại diện thì người được đại diện vẫn phải bị ràng buột bởi hành vi của người
đại diện. Quan điểm này có lẽ xuất phát từ nhận thức: năng lực của người đại diện
(người thụ ủy) xuất phát từ người được đại diện (người chủ ủy), do vậy bản thân
người đại diện không cần có năng lực pháp lý đầy đủ. Nhận thức như vậy mới có

14
thể xử lý được các hành vi phạm tội thông quan người vô năng và tạo điều kiện dễ
dàng cho các hoạt động phát triển các thiết bị giao dịch trên thương trường.
- Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nhân danh và vì lợi ích
của doanh nghiệp khi thực hiện việc đại diện
Người đại diện của doanh nghiệp là người có thẩm quyền nhân danh doanh
nghiệp tham gia, xác lập và thực hiện các giao dịch vì lợi ích của doanh nghiệp. Trong
mối quan hệ giữa người chủ sở hữu, cổ đông và người đại diện thì người đại diện được
coi như là người thụ ủy và phải có nghĩa vụ của người thụ ủy. [10, tr.56]
Đây được xem là mối quan hệ ủy thác tài sản, khi tài sản được đặt dưới sự
kiểm soát của người được ủy thác vì lợi ích của một người thụ hưởng hoặc cho một
mục đích đã định. Người được ủy thác có quyền và bổn phận và chịu trách nhiệm
quản lý, sử dụng theo các điều khoản ủy thác và nhiệm vụ đặc biệt mà luật pháp áp
đặt. Hay nói cách khác, người đại diện của doanh nghiệp là người có trách nhiệm
với tài sản của chủ sở hữu.
- Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chỉ được nhân danh
doanh nghiệp xác lập, thực hiện giao dịch trong phạm vi đại diện
Giao dịch do người đại diện xác lập, thực hiện chỉ có hiệu lực pháp lý đối
với người được đại diện khi và chỉ khi giao dịch đó phù hợp với phạm vi đại diện.
Đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng và tác động đến hầu hết mọi vấn đề liên quan
đến quan hệ đại diện. Quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp, của người
đại diện và của người thứ ba có phát sinh hay không, được thực hiện như thế nào
phụ thuộc vào việc người đại diện có thực hiện đúng phạm vi đại diện của mình
hay không. Do đó, đòi hỏi người đại diện phải minh bạch trong việc cung cấp thông
tin về phạm vi đại diện trước khi xác lập các giao dịch.

15
Kết luận chƣơng 1

Trong chương 1 luận văn đi vào tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về
đại diện, đại diện theo quy định của pháp luật, cụ thể: Luận văn đã phân tích làm
rõ khái niệm của đại diện (trong đó luận văn đã đưa ra các định nghĩa thông
thường, định nghĩa theo Bộ luật dân sự năm 2015…) từ đó luận văn đã xây dựng
cho mình khái niệm riêng về đại diện và đại diện theo pháp luật.
Bên cạnh đó luận văn đi sâu vào làm rõ các đặc điểm pháp lý của đại diện
và luận văn đã phân tích làm rõ được các hình thức đại diện (luận văn làm rõ đại
diện theo pháp luật và đại diện ủy quyền) theo Bộ luật dân sự năm 2015.
Ngoài ra, trong chương này luận văn đưa ra khái niệm về đại diện theo
phap luật của doanh nghiệp, các quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014 về số
lượng, trách nhiệm của đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Đặc biệt cũng
trong nội dung này luận văn đi sâu vào làm rõ đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp ở trong các mô hình doanh nghiệp cụ thể, như: Công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên, hai thành viên, công ty hợp danh và doanh
nghiệp tư nhân… Đồng thời trong phần này luận văn cũng đã đưa ra được các đặc
điểm cơ bản của đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Những nội dung lý luận mà luận văn đã phân tích ở chương này sẽ là cơ sở
để khảo sát, đánh giá thực tiễn của chương tiếp theo.

16
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG VỀ ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH
NGHIỆP THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Các qui định về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
2.1.1 Số lượng và trách nhiệm của đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định cụ thể về người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp tại Điều 13 và Điều 14. Có thể thấy rằng, Luật Doanh nghiệp
năm 2014 và Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có nhiều sửa đổi khá quan trọng về người
đại diện theo pháp luật. Cụ thể là quy định cho phép doanh nghiệp tự quyết định về
số lượng, chức danh, thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật; đối với công ty
trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên, nếu có thành viên là cá nhân làm người đại
diện theo pháp luật của công ty bị tạm giam, kết án tù, bỏ trốn khỏi nơi cư trú, bị
mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị Tòa án tước quyền hành nghề
vì phạm tội buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, lừa dối khách hàng và tội
khác theo quy định của Bộ luật Hình sự, thì thành viên còn lại đương nhiên làm
người đại diện theo pháp luật của công ty cho đến khi có quyết định mới của hội
đồng thành viên về người đại diện theo pháp luật của công ty.
Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều
người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh
quản lý và quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
(khoản 2 Điều 13 Luật Doanh nghiệp năm 2014). Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật
Doanh nghiệp năm 2014 lần đầu tiên trao quyền lựa chọn số lượng người đại diện
theo pháp luật cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể hội nhập
nhanh hơn, tận dụng được mọi cơ hội kinh doanh thông qua các đại diện theo pháp
luật. Vì quy chế về người đại diện theo pháp luật có mối liên hệ trực tiếp với quyền
tự chủ của doanh nghiệp trong chủ động lựa chọn địa bàn, hình thức kinh doanh,
mở rộng quy mô kinh doanh, chủ động tìm kiếm thị trường và khách hàng, mà
muốn thực hiện được những quyền này, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp lớn, thì

17
cần phải có nhiều người đại diện cho doanh nghiệp đó trong giao kết và thực hiện
các giao dịch với chủ thể khác.
Theo quy định tại Điều 13, Luật doanh nghiệp năm 2014 thì số lượng người và
trách nhiệm của đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được qui định như sau:
- Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều
người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh
quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp
luật cư trú tại Việt Nam. Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo
pháp luật thì người đó phải cư trú ở Việt Nam và phải ủy quyền bằng văn bản cho
người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật khi xuất
cảnh khỏi Việt Nam. Trường hợp này, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu
trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền.
- Trường hợp hết thời hạn ủy quyền theo khoản 3, Điều 13 mà người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp chưa trở lại Việt Nam và không có ủy quyền khác
thì thực hiện theo quy định sau đây:
+ Người được ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân trong phạm vi đã được ủy
quyền cho đến khi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trở lại làm việc
tại doanh nghiệp;
+ Người được ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,
công ty hợp danh trong phạm vi đã được ủy quyền cho đến khi người đại diện theo
pháp luật của công ty trở lại làm việc tại công ty hoặc cho đến khi chủ sở hữu công
ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị, quyết định cử người khác làm người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
- Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật và
người này vắng mặt tại Việt Nam quá 30 ngày mà không ủy quyền cho người khác
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh

18
nghiệp hoặc bị chết, mất tích, tạm giam, kết án tù, bị hạn chế hoặc mất năng lực
hành vi dân sự thì chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị cử
người khác làm người đại diện theo pháp luật của công ty.
- Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên, nếu có thành viên là
cá nhân làm người đại diện theo pháp luật của công ty bị tạm giam, kết án tù, trốn
khỏi nơi cư trú, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị Tòa án tước
quyền hành nghề vì phạm tội buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, trốn
thuế, lừa dối khách hàng và tội khác theo quy định của Bộ luật hình sự thì thành
viên còn lại đương nhiên làm người đại diện theo pháp luật của công ty cho đến khi
có quyết định mới của Hội đồng thành viên về người đại diện theo pháp luật của
công ty.
- Trong một số trường hợp đặc biệt, Tòa án có thẩm quyền có quyền chỉ định
người đại diện theo pháp luật trong quá trình tố tụng tại Tòa án.
- Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp có
trách nhiệm sau đây:
+ Thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn
trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp;
+ Trung thành với lợi ích của doanh nghiệp; không sử dụng thông tin, bí
quyết, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, không lạm dụng địa vị, chức vụ và sử
dụng tài sản của doanh nghiệp để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân
khác;
+ Thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho doanh nghiệp về việc người đại
diện đó và người có liên quan của họ làm chủ hoặc có cổ phần, phần vốn góp chi
phối tại các doanh nghiệp khác.
+ Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chịu trách nhiệm cá nhân
đối với những thiệt hại cho doanh nghiệp do vi phạm nghĩa vụ quy định tại khoản 1,
Điều 14.
2.1.2 Qui định về đại diện theo pháp luật đối với từng loại hình doanh
nghiệp

19
- Quy định về người đại diện theo pháp luật - Công ty TNHH Hai Thành
Viên trở lên
Các chức danh có thể đứng người đại diện theo pháp luật theo doanh nghiệp
của loại hình này là: Chủ tịch hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
Dưới đây là quy định chi tiết về các chức danh trong loại hình doanh nghiệp này:
* Chức danh chủ tịch Hội đồng thành viên:
Hội đồng thành viên bầu một thành viên làm Chủ tịch. Chủ tịch Hội đồng
thành viên có thể kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty.
Chủ tịch Hội đồng thành viên có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
Thứ nhất: Chuẩn bị chương trình, kế hoạch hoạt động của Hội đồng thành viên
Thứ hai: Chuẩn bị chương trình, nội dung, tài liệu họp Hội đồng thành viên
hoặc để lấy ý kiến các thành viên;
Thứ ba: Triệu tập và chủ trì cuộc họp Hội đồng thành viên hoặc tổ chức việc
lấy ý kiến các thành viên;
Thứ tư: Giám sát hoặc tổ chức giám sát việc thực hiện các nghị quyết của
Hội đồng thành viên;
Thứ năm: Thay mặt Hội đồng thành viên ký các nghị quyết của Hội đồng
thành viên;
Thứ sáu: Quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ
công ty.
Nhiệm kỳ của Chủ tịch Hội đồng thành viên không quá 05 năm. Chủ tịch
Hội đồng thành viên có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế.
Trường hợp vắng mặt hoặc không đủ năng lực để thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình, thì Chủ tịch Hội đồng thành viên ủy quyền bằng văn bản cho
một thành viên thực hiện các quyền và nghĩa vụ của Chủ tịch Hội đồng thành viên
theo nguyên tắc quy định tại Điều lệ công ty. Trường hợp không có thành viên được
ủy quyền thì một trong số các thành viên Hội đồng thành viên triệu tập họp các
thành viên còn lại bầu một người trong số các thành viên tạm thời thực hiện quyền
và nghĩa vụ của Chủ tịch Hội đồng thành viên theo nguyên tắc đa số quá bán.

20
* Chức danh Giám đốc, Tổng giám đốc:
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty là người điều hành hoạt động kinh
doanh hằng ngày của công ty, chịu trách nhiệm trước Hội đồng thành viên về việc
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
Thứ nhất: Tổ chức thực hiện các nghị quyết của Hội đồng thành viên;
Thứ hai: Quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh hằng
ngày của công ty;
Thứ ba: Tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của
công ty;
Thứ tư: Ban hành quy chế quản lý nội bộ của công ty, trừ trường hợp Điều lệ
công ty có quy định khác;
Thứ năm: Bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh quản lý trong
công ty, trừ các chức danh thuộc thẩm quyền của Hội đồng thành viên;
Thứ sáu: Ký kết hợp đồng nhân danh công ty, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền của Chủ tịch Hội đồng thành viên;
Thứ bảy: Kiến nghị phương án cơ cấu tổ chức công ty;
Thứ tám: Trình báo cáo quyết toán tài chính hằng năm lên Hội đồng thành
viên;
Thứ chín: Kiến nghị phương án sử dụng lợi nhuận hoặc xử lý lỗ trong kinh
doanh;
Mười: Tuyển dụng lao động; Quyền và nghĩa vụ khác được quy định tại Điều
lệ công ty, hợp đồng lao động mà Giám đốc hoặc Tổng giám đốc ký với công ty
theo nghị quyết của Hội đồng thành viên.
* Tiêu chuẩn và điều kiện làm Giám đốc, Tổng giám đốc:
Có đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tượng không được quản lý
doanh nghiệp theo quy định tại Khoản 2, Điều 18 của Luật doanh nghiệp năm 2014.
Có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm trong quản trị kinh doanh của công ty,
nếu Điều lệ công ty không có quy định khác.

21
Đối với công ty con của công ty có phần vốn góp, cổ phần do Nhà nước nắm
giữ trên 50% vốn điều lệ thì ngoài các tiêu chuẩn và điều kiện quy định tại Khoản 1
và Khoản 2, Điều này, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc không được là vợ hoặc
chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, anh ruột, chị ruột, em
ruột, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người quản lý công ty mẹ và người đại diện
phần vốn nhà nước tại công ty đó.
- Quy định về người đại diện theo pháp luật – Công ty TNHH Một Thành
Viên
Trong cơ cấu công ty TNHH Một thành viên khi thành lập phải xem thành
viên dự tính thành lập công ty là cá nhân hay tổ chức, từ đó xác định mô hình quản
lý doanh nghiệp, xác định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tương
ứng với các chức danh trong mô hình doanh nghiệp đó.
Ví dụ sẽ có sự khác biệt về cơ cấu nếu thành viên thành lập công ty là cá
nhân hoặc tổ chức:
Dự tính thành lập công ty TNHH Một thành viên ABC do cá nhân là ông/bà:
Nguyễn văn A thành lập.
Dự tính thành lập công ty TNHH Một thành viên ABC do tổ chức là một
công ty G đứng tên thành lập.
+ Quy định về người đại diện theo pháp luật – Công ty TNHH Một Thành
Viên do cá nhân làm chủ sở hữu
* Cơ cấu tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do cá
nhân làm chủ sở hữu:
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do cá nhân làm chủ sở hữu có
Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
Chủ tịch công ty có thể kiêm nhiệm hoặc thuê người khác làm Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc.
Quyền, nghĩa vụ của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc được quy định tại Điều
lệ công ty, hợp đồng lao động mà Giám đốc hoặc Tổng giám đốc ký với Chủ tịch
công ty.

22
+ Quy định về người đại diện theo pháp luật – Công ty TNHH Một Thành
Viên do tổ chức làm chủ sở hữu
* Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do
tổ chức làm chủ sở hữu:
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu
được tổ chức quản lý và hoạt động theo một trong hai mô hình sau đây:
Thứ nhất: Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát
viên;
Thứ hai: Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát
viên.
Trường hợp Điều lệ công ty không quy định thì Chủ tịch Hội đồng thành
viên hoặc Chủ tịch công ty là người đại diện theo pháp luật của công ty.
Trường hợp Điều lệ công ty không quy định khác, thì chức năng, quyền và
nghĩa vụ của Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
và Kiểm soát viên thực hiện theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014.
* Hội đồng thành viên:
Thành viên Hội đồng thành viên do chủ sở hữu công ty bổ nhiệm, miễn
nhiệm gồm từ 03 đến 07 thành viên với nhiệm kỳ không quá 05 năm. Hội đồng
thành viên nhân danh chủ sở hữu công ty thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ
sở hữu công ty; nhân danh công ty thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty, trừ
quyền và nghĩa vụ của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc; chịu trách nhiệm trước pháp
luật và chủ sở hữu công ty về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao theo
quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014 và quy định khác của pháp luật có liên
quan.
Quyền, nghĩa vụ và quan hệ làm việc của Hội đồng thành viên đối với chủ sở
hữu công ty được thực hiện theo quy định tại Điều lệ công ty và pháp luật có liên
quan.
Chủ tịch Hội đồng thành viên do chủ sở hữu bổ nhiệm hoặc do các thành
viên Hội đồng thành viên bầu theo nguyên tắc quá bán, theo trình tự, thủ tục quy

23
định tại Điều lệ công ty. Trường hợp Điều lệ công ty không có quy định khác, thì
nhiệm kỳ, quyền và nghĩa vụ của Chủ tịch Hội đồng thành viên áp dụng theo quy
định tại Điều 57, Luật doanh nghiệp năm 2014 và quy định khác có liên quan của
Luật này.
Thẩm quyền, cách thức triệu tập họp Hội đồng thành viên áp dụng theo quy
định tại Điều 58 của Luật doanh nghiệp năm 2014.
Cuộc họp của Hội đồng thành viên được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba
tổng số thành viên dự họp. Trường hợp Điều lệ công ty không có quy định khác thì
mỗi thành viên có một phiếu biểu quyết có giá trị như nhau. Hội đồng thành viên có
thể thông qua quyết định theo hình thức lấy ý kiến bằng văn bản.
Nghị quyết của Hội đồng thành viên được thông qua khi có hơn một nửa số
thành viên dự họp tán thành. Việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty, tổ chức lại công
ty, chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của công ty phải được ít nhất
ba phần tư số thành viên dự họp tán thành.
Nghị quyết của Hội đồng thành viên có hiệu lực kể từ ngày được thông qua
hoặc từ ngày ghi tại nghị quyết đó, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác.
Các cuộc họp của Hội đồng thành viên phải được ghi biên bản, có thể được
ghi âm hoặc ghi và lưu giữ dưới hình thức điện tử khác. Nội dung biên bản họp Hội
đồng thành viên áp dụng theo quy định tại Điều 61 của Luật doanh nghiệp năm
2014.
*Chức danh chủ tịch công ty:
Chủ tịch công ty do chủ sở hữu bổ nhiệm. Chủ tịch công ty nhân danh chủ sở
hữu thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu công ty; nhân danh công ty
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty, trừ quyền và nghĩa vụ của Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc; chịu trách nhiệm trước pháp luật và chủ sở hữu công ty về
việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao theo quy định của Luật này, pháp
luật có liên quan và Điều lệ công ty.

24
Quyền, nghĩa vụ và chế độ làm việc của Chủ tịch công ty đối với chủ sở hữu
công ty được thực hiện theo quy định tại Điều lệ công ty, Luật doanh nghiệp năm
2014 và pháp luật có liên quan.
Quyết định của Chủ tịch công ty về thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở
hữu công ty có hiệu lực kể từ ngày được chủ sở hữu công ty phê duyệt, trừ trường
hợp Điều lệ công ty có quy định khác.
* Chức danh Giám đốc, Tổng giám đốc:
Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty bổ nhiệm hoặc thuê Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc với nhiệm kỳ không quá 05 năm để điều hành hoạt động kinh
doanh hằng ngày của công ty. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc chịu trách nhiệm
trước pháp luật và Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty về việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình. Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên khác của
Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty có thể kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc trừ trường hợp pháp luật, Điều lệ công ty có quy định khác.
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
Thứ nhất: Tổ chức thực hiện quyết định của Hội đồng thành viên hoặc Chủ
tịch công ty;
Thứ hai: Quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh hằng
ngày của công ty;
Thứ ba: Tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của
công ty;
Thứ tư: Ban hành quy chế quản lý nội bộ của công ty;
Thứ năm: Bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm người quản lý trong công ty, trừ
các đối tượng thuộc thẩm quyền của Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty;
Thứ sáu: Ký kết hợp đồng nhân danh công ty, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền của Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty;
Thứ bảy: Kiến nghị phương án cơ cấu tổ chức công ty;
Thứ tám: Trình báo cáo quyết toán tài chính hằng năm lên Hội đồng thành
viên hoặc Chủ tịch công ty;

25
Thứ chín: Kiến nghị phương án sử dụng lợi nhuận hoặc xử lý lỗ trong kinh
doanh;
Mười: Tuyển dụng lao động; Quyền và nghĩa vụ khác được quy định tại Điều
lệ công ty, hợp đồng lao động mà Giám đốc hoặc Tổng giám đốc ký với Chủ tịch
Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty.
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải có các tiêu chuẩn và điều kiện sau đây:
Thứ nhất: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không thuộc đối tượng quy
định tại khoản 2 Điều 18 của Luật này;
Thứ hai: Có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế trong quản trị kinh
doanh của công ty, nếu Điều lệ công ty không có quy định khác.
- Quy định về người đại diện theo pháp luật – Công ty Cổ Phần
Các chức danh có thể đứng người đại diện theo pháp luật của công ty cổ
phần là: Chủ tịch hội đồng quản trị, Giám đốc, Tổng giám đốc, phân tích dưới đây
sẽ chỉ ra chi tiết những quy định về người đại diện theo pháp luật tương ứng với
từng chức danh trên. Luật doanh nghiệp cũ năm 2005 quy định Giám đốc, hoặc
Tổng giám đốc của công ty cổ phần không thể đứng Giám đốc, hoặc Tổng giám đốc
của công ty khác, tuy nhiên điểm này đã được tháo gỡ ở luật doanh nghiệp mới
2014 là chức danh Giám đốc, hoặc Tổng giám đốc của công ty cổ phần này vẫn có
thể đứng Giám đốc, hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp khác, điều này làm tăng
tính tự do kinh doanh cho người đại diện theo pháp luật.
+ Chức danh chủ tịch Hội đồng quản trị
* Hội đồng quản trị bầu một thành viên của Hội đồng quản trị làm Chủ tịch.
Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty trừ
trường hợp quy định tại Khoản 2, Điều này và Điều lệ công ty, pháp luật về chứng
khoán không có quy định khác.
* Công ty cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% tổng số phiếu biểu quyết
thì Chủ tịch Hội đồng quản trị không được kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
* Chủ tịch Hội đồng quản trị có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
Lập chương trình, kế hoạch hoạt động của Hội đồng quản trị;

26
Chuẩn bị chương trình, nội dung, tài liệu phục vụ cuộc họp; triệu tập và chủ
tọa cuộc họp Hội đồng quản trị;
Tổ chức việc thông qua nghị quyết của Hội đồng quản trị;
Giám sát quá trình tổ chức thực hiện các nghị quyết của Hội đồng quản trị;
Chủ tọa cuộc họp Đại hội đồng cổ đông, cuộc họp Hội đồng quản trị;
Quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014 và
Điều lệ công ty.
* Trường hợp Chủ tịch Hội đồng quản trị vắng mặt hoặc không thể thực hiện
được nhiệm vụ của mình thì ủy quyền bằng văn bản cho một thành viên khác thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của Chủ tịch Hội đồng quản trị theo nguyên tắc quy
định tại Điều lệ công ty. Trường hợp không có người được ủy quyền thì các thành
viên còn lại bầu một người trong số các thành viên tạm thời giữ chức Chủ tịch Hội
đồng quản trị theo nguyên tắc đa số.
* Khi xét thấy cần thiết, Chủ tịch Hội đồng quản trị tuyển dụng thư ký công
ty để hỗ trợ Hội đồng quản trị và Chủ tịch Hội đồng quản trị thực hiện các nghĩa vụ
thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty. Thư ký công ty
có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
Hỗ trợ tổ chức triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị; ghi
chép các biên bản họp;
Hỗ trợ thành viên Hội đồng quản trị trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
được giao;
Hỗ trợ Hội đồng quản trị trong áp dụng và thực hiện nguyên tắc quản trị
công ty;
Hỗ trợ công ty trong xây dựng quan hệ cổ đông và bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cổ đông;
Hỗ trợ công ty trong việc tuân thủ đúng các nghĩa vụ cung cấp thông tin,
công khai hóa thông tin và thủ tục hành chính;
Quyền và nghĩa vụ khác theo quy định tại Điều lệ công ty.

27
* Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể bị bãi miễn theo quyết định của Hội đồng
quản trị.
+ Chức danh giám đốc, Tổng giám đốc công ty
* Hội đồng quản trị bổ nhiệm một người trong số họ hoặc thuê người khác
làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
* Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người điều hành công việc kinh doanh
hằng ngày của công ty; chịu sự giám sát của Hội đồng quản trị; chịu trách nhiệm
trước Hội đồng quản trị và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
được giao.
Nhiệm kỳ của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc không quá 05 năm; có thể
được bổ nhiệm lại với số nhiệm kỳ không hạn chế.
Tiêu chuẩn và điều kiện của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc áp dụng theo quy
định tại Điều 65 của Luật doanh nghiệp năm 2014.
* Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
Quyết định các vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh hằng ngày của
công ty mà không cần phải có quyết định của Hội đồng quản trị;
Tổ chức thực hiện các nghị quyết của Hội đồng quản trị;
Tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của công ty;
Kiến nghị phương án cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ của công ty;
Bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh quản lý trong công ty, trừ
các chức danh thuộc thẩm quyền của Hội đồng quản trị;
Quyết định tiền lương và quyền lợi khác đối với người lao động trong công
ty kể cả người quản lý thuộc thẩm quyền bổ nhiệm của Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc;
Tuyển dụng lao động;
Kiến nghị phương án trả cổ tức hoặc xử lý lỗ trong kinh doanh;
Quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật, Điều lệ công ty và nghị
quyết của Hội đồng quản trị.

28
* Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải điều hành công việc kinh doanh hằng
ngày của công ty theo đúng quy định của pháp luật, Điều lệ công ty, hợp đồng lao
động ký với công ty và nghị quyết của Hội đồng quản trị. Trường hợp điều hành trái
với quy định này mà gây thiệt hại cho công ty thì Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại cho công ty.
- Quy định về chủ doanh nghiệp - Doanh nghiệp tư nhân
Đối với loại hình doanh nghiệp tư nhân thì pháp luật không quy định hay
không có khái niệm về người đại diện theo pháp luật, mà pháp luật quy định về tên
gọi như: Chủ doanh nghiệp, Chủ doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp bắt buộc
do cá nhân đứng tên và làm chủ. Mỗi cá nhân chỉ được thành lập duy nhất 1 doanh
nghiệp tư nhân.
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh
nghiệp tư nhân không được đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành viên công ty hợp
danh.
Doanh nghiệp tư nhân không được quyền góp vốn thành lập hoặc mua cổ
phần, phần vốn góp trong công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công
ty cổ phần.
+ Vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp
* Vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân do chủ doanh nghiệp tự đăng ký.
Chủ doanh nghiệp tư nhân có nghĩa vụ đăng ký chính xác tổng số vốn đầu tư, trong
đó nêu rõ số vốn bằng Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng và các tài
sản khác; đối với vốn bằng tài sản khác còn phải ghi rõ loại tài sản, số lượng và giá
trị còn lại của mỗi loại tài sản.
* Toàn bộ vốn và tài sản kể cả vốn vay và tài sản thuê được sử dụng vào hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp phải được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán và báo
cáo tài chính của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.

29
* Trong quá trình hoạt động, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tăng hoặc
giảm vốn đầu tư của mình vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Việc tăng
hoặc giảm vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp phải được ghi chép đầy đủ vào sổ kế
toán. Trường hợp giảm vốn đầu tư xuống thấp hơn vốn đầu tư đã đăng ký thì chủ
doanh nghiệp tư nhân chỉ được giảm vốn sau khi đã đăng ký với Cơ quan đăng ký
kinh doanh.
+ Quản lý doanh nghiệp
* Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực
hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật.
* Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản lý,
điều hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp thuê người khác làm Giám đốc quản
lý doanh nghiệp thì vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
* Chủ doanh nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Tòa án trong các tranh chấp liên quan đến
doanh nghiệp.
* Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
2.2.1. Chủ thể đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Mặc dù hiện nay pháp luật về NĐD theo pháp luật được quy định nhiều hơn
tại Bộ luật dân sự năm 2015 và Luật doanh nghiệp năm 2014. Tuy nhiên khi nghiên
cứu sâu hơn, chúng ta thấy còn nhiều vấn đề bất cập cần giải quyết, như:
Thứ nhất: Khi nghiên cứu Khoản 1 và Khoản 2 Điều 13 của Luật doanh
nghiệp năm 2014 chúng ta cũng thấy bản thân các quy định này khi đi vào áp dụng
sẽ có những mâu thuân. Việc quy định nhiều người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp sẽ nhằm “giảm tải” trách nhiệm lên một người đại diện theo pháp
luật. Nhưng nếu theo Khoản 1, Điều 13 Luật Doanh nghiệp thì chúng ta có thể thấy
mọi giao dịch đối ngoại, đối nội của doanh nghiệp đều chỉ có thể thực hiện thông
qua người đại diện theo pháp luật. Thực tế đòi hỏi, người đại diện theo pháp luật

30
phải có rất nhiều kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tế mới có thể điều hành
doanh nghiệp một cách trơn chu, chuẩn mực. Người đại diện theo pháp luật phải là
người có trình độ hiểu biết nhất định về quản lý kinh doanh, quản lý nhân sự, quản
lý thuế, hợp đồng, thậm chí là về các thông số kỹ thuật, sản phẩm do doanh nghiệp
của mình làm ra đối với những Doanh nghiệp đặc thù... Nếu không biết, họ vẫn phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với toàn bộ các giao dịch với tư cách là người
đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Như vậy, vô hình chung, việc trao cho
một cá nhân quá nhiều quyền và nghĩa vụ, đặc biệt là nghĩa vụ sẽ gây khó khăn cho
người đó trong việc thực hiện tốt quyền và trách nhiệm của mình. Mặc dù, pháp luật
cũng có những chế định cho phép người đại diện theo pháp luật ủy quyền cho một
cá nhân khác, nhưng thực tế áp dụng cho thấy quy định này còn rất nhiều hạn chế.
Như trường hợp người đại diện theo pháp luật vắng mặt, doanh nghiệp chỉ có thể
giải quyết công việc khi có sự ủy quyền từ người đại diện theo pháp luật cho một
người khác trong doanh nghiệp, nhưng về nguyên tắc người đại diện theo pháp luật
vẫn phải chịu trách nhiệm trước công ty, trước pháp luật và bên thứ ba về tất cả
những nội dung thuộc thẩm quyền của mình. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp
lớn, khi có rất nhiều các hợp đồng lớn phải ký kết, các dự án lớn để đầu tư, số lượng
người lao động thật lớn để triển khai thực hiện công việc, thì việc người đại diện có
thể cho những công việc của những người đã nhận ủy quyền thay mặt họ để giao
dịch trong thời gian họ vắng mặt là một điều khó khả thi. Các quy định của pháp
luật cũng có những hạn chế nhất định đối với người được ủy quyền như chỉ cho
phép người này được ủy quyền lại cho người thứ ba nếu được người đại diện theo
pháp luật đồng ý. Điều này đã gây ra những vướng mắc không nhỏ cho doanh
nghiệp nếu người được nhận ủy quyền gặp sự cố bất khả kháng không thể tiếp tục
thực hiện công việc được ủy quyền, đặc biệt, trong trường hợp người được ủy
quyền này nhận ủy quyền ký kết hợp đồng kinh tế với đối tác. Thực tiễn xét xử
tranh chấp kinh tế cho thấy, rất nhiều vụ án doanh nghiệp đã phải thua kiện, vì hợp
đồng bị tuyên vô hiệu do doanh nghiệp một phần không nắm vững các quy định của
pháp luật, người nhận ủy quyền tự ý ủy quyền lại khi chưa có sự đồng ý của người

31
đại diện theo pháp luật. Nhưng nó cũng đặt ra một “bài toán” pháp lý cho các nhà
làm luật giải quyết tình trạng trên để đảm bảo hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp được thông suốt.
Thứ hai: Theo quy định của các Khoản trong Điều 13, Luật doanh nghiệp thì
đối với các trường hợp doanh nghiệp thay đổi người đại diện theo pháp luật, trong
khoảng thời gian doanh nghiệp thực hiện các thủ tục pháp lý thay đổi tại cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, vị trí người đại diện theo pháp luật gần như bị trống, bởi
lẽ, lúc này người mới được bổ nhiệm nhưng chưa được ghi nhận trên giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh, còn người cũ đã bị chấm dứt hiệu lực theo một Quyết
định có thẩm quyền của pháp nhân. Bên thứ ba tiến hành giao dịch trong khoảng
thời gian này sẽ gặp khó khăn trong việc xác định ai là người đại diện theo pháp
luật thật sự. Hoặc trường hợp người đại diện theo pháp luật có vấn đề về sức khỏe
hoặc bị tạm giam, tạm giữ, thì doanh nghiệp cũng phải mất một khoảng thời gian
lúng túng để xác định người thay thế, chưa kể đến quá trình chọn ra người thay thế
trong những thời điểm nhạy cảm của một doanh nghiệp chưa hẳn sẽ diễn ra suôn sẻ
và nhận được sự hợp tác của những người khác.
Ngoài ra cũng trong Điều này, quy định cho phép doanh nghiệp có nhiều
người đại diện theo pháp luật cũng giải quyết được các hạn chế trong giao dịch của
doanh nghiệp với người đại diện, giảm thiểu được các khó khăn của doanh nghiệp.
Đặc biệt, trong trường hợp người đại diện theo pháp luật đi nước ngoài dưới 30
ngày nhưng không muốn ủy quyền cho người khác hoặc người đại diện theo pháp
luật xung đột với hội đồng thành viên, hội đồng quản trị và không hợp tác trong
việc ký kết các văn bản, giao dịch của công ty, đồng thời không muốn ủy quyền cho
người khác. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng nảy sinh nhiều vấn đề pháp lý về người
đại diện theo pháp luật cần được xác định rõ như: Cơ chế giám sát lẫn nhau giữa
những người đại diện theo pháp luật; sự phân định về trách nhiệm liên đới hay riêng
lẻ của các đại diện theo pháp luật và phạm vi đại diện của các đại diện theo pháp
luật trong việc xác lập giao dịch nhân danh doanh nghiệp. Trong trường hợp doanh
nghiệp có 2 người đại diện, nếu một người vắng mặt thì người còn lại có đương

32
nhiên trở thành người đại diện theo pháp luật trong tất cả các hoạt động của doanh
nghiệp hay không hay lúc đó, người còn lại vừa là người đại diện theo pháp luật và
có thể lại là người đại diện theo ủy quyền đối với một số hoạt động ngoài thẩm
quyền đã được phân công. Có những trường hợp đặt ra trong thực tiễn cần được làm
rõ như xác định giao dịch đòi hỏi phải được sự chấp thuận của tất cả các đại diện
theo pháp luật hay hiệu lực của hợp đồng đã được doanh nghiệp ký kết với đối tác
và đang thực hiện nhưng xảy ra trường hợp một đại diện theo pháp luật khác phản
đối hay không đồng ý một phần của hợp đồng này. Trường hợp này thường xảy ra
đối với mô hình công ty cổ phần. Nếu một trong số những người đại diện trước
pháp luật cũng đồng thời là cổ đông chiếm số cổ phần lớn trong công ty thì dường
như, ngay cả khi một người là đại diện theo đúng thẩm quyền được phân chia
nhưng khi thực hiện các hợp đồng, giao dịch lại vẫn cần sự đồng ý, biểu quyết của
người đại diện pháp luật khác là cổ đông chiếm số vốn lớn. Chính vì thế, yêu cầu
đặt ra đối với việc xây dựng điều lệ công ty hơn bao giờ hết cần chặt chẽ và chi tiết
hơn hơn để tránh sự chồng chéo về thẩm quyền của mỗi người, nhằm tăng cường
hiệu quả quản lý trong nội bộ doanh nghiệp.
Thứ ba: Ở khía cạnh đặc thù thì khi người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp ủy quyền cho “người khác” cũng đã được đề cập ở trong Luật doanh nghiệp
năm 2014. Nhưng những qui định này lại rất dễ gây hiểu nhầm về mặt lý thuyết,
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có toàn quyền thực hiện một số nội
dung sau:
Quyết định việc ủy quyền cho một hoặc nhiều cá nhân khác thực hiện toàn
bộ hay một phần quyền năng của mình với tư cách là người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp mà không cần nhận được sự chấp thuận của các chủ sở hữu đích
thực của doanh nghiệp. Tất nhiên, khả năng kể trên sẽ không còn nữa nếu như Điều
lệ doanh nghiệp (đối với các loại hình doanh nghiệp có điều lệ) có quy định khác.
Theo lẽ thông thường, người đại diện theo pháp luật khi giao lại một phần
hay toàn bộ quyền năng của mình cho người khác thì dường như cá nhân này phải
là một thành viên của doanh nghiệp. Tuy nhiên, do không bị ngăn cấm nên ở thời

33
điểm hiện tại, người đại diện theo pháp luật có thể ủy quyền cho một hoặc nhiều cá
nhân hoàn toàn không có bất cứ mối quan hệ nào đối với doanh nghiệp thực hiện
thay chức trách của mình.
Căn cứ theo Khoản 1, Điều 134, Bộ luật dân sự năm 2015, dường như người
đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp còn có thể ủy quyền cho một pháp nhân
đứng ra điều hành doanh nghiệp nếu như thỏa mãn điều kiện được qui định tại
Khoản 3, Điều 134, Bộ luật dân sự năm 20115. Sau đó, pháp nhân nhận ủy quyền sẽ
giao cho một hoặc nhiều cá nhân đứng ra trực tiếp thực hiện những công việc này.
Với quy định này, có lẽ ràng buộc duy nhất giữa người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp và bên được ủy quyền cần phải được thể hiện rõ trong Điều
lệ, nhằm đảm bảo tối ưu nhất quyền lợi của doanh nghiệp.. Lúc này, Điều lệ là có lẽ
là văn bản duy nhất để những người chủ sở hữu thực sự mới là người quyết định
chọn ra người đại diện theo ủy quyền, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của doanh
nghiệp do mình sở hữu.
Thứ tư: Mặc dù đã có những quy định về trách nhiệm của người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp nhưng Điều 14, Luật doanh nghiệp năm 2014
chưa có những quy định cụ thể, định tính rõ ràng, các quy định mang tính nguyên
tắc xoay quanh quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp. Các quy định còn mang tính chung chung, cần có những lý giải hoặc hướng
dẫn cụ thể tránh hiểu nhầm, hiểu sai các khái niệm, như: Theo Điểm a, Khoản 1,
Điều 14, Luật doanh nghiệp năm 2014 qui định “Thực hiện các quyền và nghĩa vụ
được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp
của doanh nghiệp;”. Tuy nhiên để hiểu đúng như thế nào là “trung thực”, như thế
nào là “cẩn trọng”…thì chưa có bất kỳ văn bản nào hướng dẫn. Từ những bất cập
này sẽ gây khó khăn cho các cơ quan quản lý, cơ quan trọng tài khi tiếp nhận và
giải quyết các tranh chấp phát sinh, đặc biệt là những mâu thuẫn phát sinh từ đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp và doanh nghiệp.
Thứ năm: Tại khoản 3, Điều 77 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định, trường
hợp chủ sơ hữu công ty TNHH một thành viên là cá nhân chết thì người thừa kế

34
theo di chúc hoặc theo pháp luật là chủ sở hữu hoặc thành viên công ty. Công ty
phải tổ chức hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tương ứng và đăng ký thay đổi
nội dung đăng ký kinh doanh trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày kết thúc việc giải
quyết thừa kế.
Trên thực tế, quy định này cũng gây ra một số khó khăn cho các tổ chức
hành nghề công chứng khi thực hiện việc làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế đối
với tài sản là “ công ty TNHH một thành viên do cá nhân làm chủ”. Đã có những
trường hợp, chủ sở hữu lập di chúc để lại di sản thừa kế theo chỉ định, nhưng khi
khai nhận thừa kế, người được hưởng đi sản thừa kế chưa thành niên; hoặc khai
nhân thừa kế theo pháp luật, người được hưởng di sản thừa kế bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự; mất năng lực hành vi dân sự hoặc là tổ chức không có tư cách pháp
nhân.
Lúc này, dường như công chứng viên không thể thực hiện việc khai nhận
thừa kế. Việc từ chối thực hiện thủ tục khai nhận thừa kế chỉ có thể “ vay mượn”
quy định tại điểm đ, khoản 2, Điều 18 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định về “
Quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp và quản lý doanh
nghiệp”. Ngoài ra, đối với Doanh nghiệp tư nhân, pháp luật không hề có quy định
về giải quyết thừa kế doanh nghiệp nếu chủ doanh nghiệp tư nhân chết. Có thể xuất
phát từ nguyên nhân doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp nên lúc đó, cơ chế xử lý tài sản
của doanh nghiệp tư nhân được trộn lẫn vào tài sản của cá nhân, trong khi đó, về
mặt lý thuyết, doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn có thể được bán, được cho thuê một
cách độc lập đối với tài sản các nhân của mình, khi thực hiện việc khai nhận thừa
kế, tài sản nào sẽ phải thực hiện đảm bảo nghĩa vụ của người chết để lại, tài sản nào
thực hiện nghĩa vụ do doanh nghiệp tư nhân để lại vẫn đang là một bài toán khó đối
với các công chứng viên đang hành nghề.
Do đó, đối với những trường hợp này, pháp luật cần có hướng dẫn cụ thể để
đảm bảo người được hưởng di sản thừa kế phải có đầy đủ điều kiện để nhận di sản
thừa kế. Thủ tục phân chia di sản cũng phải được hướng dẫn cụ thể, trường hợp nào

35
có thể được nhận di sản thừa kế, trường hợp nào có thể được nhận bằng giá trị kỷ
phần thừa kế, các nghĩa vụ của doanh nghiệp cần phải được xác định với nghĩa vụ
của cá nhân để đảm bảo sự công bằng đối với những người có liên quan.
Bên cạnh đó, khi nghiên cứu về quyền lợi của đại diện chúng ta có thể
thấy quyền lợi của đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được chia làm các
nhóm sau:
Nhóm 1: Đại diện có thẩm quyền tuyệt đối trực tiếp: Điển hình là chủ doanh
nghiệp tư nhân hay thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh. Theo quy định
của pháp luật hiện hành, những cá nhân nêu trên có toàn quyền (chủ doanh nghiệp
tư nhân) hoặc có gần như toàn quyền (thành viên hợp danh) đại diện cho doanh
nghiệp;
Nhóm 2: Đại diện có thẩm quyền tuyết đối gián tiếp: Ví dụ như cá nhân hay
tổ chức đóng vai trò là chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, bởi
lẽ cá nhân, tổ chức này tuy quyết định nội dung điều lệ doanh nghiệp nhưng đến
lượt mình lại phải hành xử tuân thủ chính bản điều lệ đó.
Nhóm 3: Đại diện có thẩm quyền hạn chế: Minh chứng cho tình huống này
chính là người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên trở lên. Về mặt nguyên tắc, những cá nhân kể trên phải tuân
thủ bản điều lệ công ty được xây dựng trên cơ sở thỏa thuận của những chủ sở hữu
công ty.
Tuy nhiên, hiện nay trong Luật doanh nghiệp năm 2014 đề cập tới vấn đề
này còn nhiều điểm “mập mờ” không rõ ràng từ đó dễ gây xung đột về pháp lý
giữa đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp với doanh nghiệp. Vì thế, muốn
hiểu và nắm rõ quyền cũng như nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp thì chúng ta cần đi sâu nghiên cứu nội dung những điều luật trực
tiếp, áp dụng cho từng loại hình doanh nghiệp cụ thể và phải nghiên cứu nhiều
văn bản pháp luật khác để phân biệt rõ được quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ
của đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

36
2.1.3. Các hình thức đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Khoa học pháp lý cũng như pháp luật thực định hiện đang thừa nhận có 2
hình thức đại diện là đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền. Xem xét
dưới tất cả các góc độ, chúng tôi thấy về mặt nguyên tắc, pháp nhân nói chung hay
doanh nghiệp nói riêng có thể hiện diện trong cả 2 hình thức đại diện kể trên. Đơn
cử, 2 pháp nhân và/hoặc 2 doanh nghiệp tham gia xác lập quan hệ đại diện theo ủy
quyền, một mối quan hệ đại diện dựa trên sự tự do thỏa thuận của 2 bên. Theo quy
định của Điều 569, Bộ luật dân sự năm 2015 thì các quan hệ đại diện này phần nào
không mang tính bền vững và mối quan hệ đại diện này không phải đăng ký. Và do
không thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự một cách trực tiếp mà phải
triển khai toàn bộ những công việc này thông qua người đại diện theo pháp luật nên
pháp nhân nói chung hay doanh nghiệp nói riêng luôn hiện diện trong nhiều mối
quan hệ đại diện theo pháp luật.
Bên cạnh đó theo Phụ lục IV được ban hành kèm theo Thông tư số
20/2015/TT-BKHĐT ngày 01/12/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn về
đăng ký doanh nghiệp có 5 loại mẫu giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp áp
dụng cho 5 loại doanh nghiệp cơ bản. Qua nghiên cứu phụ lục này cho thấy quan
hệ đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thông thường sẽ được đăng ký, bởi
tính bền vững, công khai và minh bạch một cách tương đối của mối quan hệ này.
Tuy nhiên, theo Khoản 1, Điều 15, Luật doanh nghiệp năm 2014 quy định:
“Người đại diện theo ủy quyền của chủ sở hữu, thành viên, cổ đông công ty là tổ
chức phải là cá nhân được ủy quyền bằng văn bản nhân danh chủ sở hữu, thành
viên, cổ đông đó thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật này” và
điều Điều 16 của luật này cũng xác định “Trách nhiệm của người đại diện theo ủy
quyền của chủ sở hữu, thành viên, cổ đông là tổ chức”, chúng ta thấy xuất hiện một
quan hệ đại diện thứ 3, quan hệ đại diện theo ủy quyền của chủ sở hữu, thành viên,
cổ đông là tổ chức trong một số loại hình doanh nghiệp nhất định.

37
Như vậy có thể thấy các hình thức đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
được quy định tương đối cụ thể nhưng vẫn có những điểm chưa rõ ràng, điều này
được thể hiện ở một số điểm sau:
Thứ nhất: Ngay từ tên gọi của hình thức đại diện, các nhà làm luật đã khẳng
định đây là hình thức đại diện theo ủy quyền chứ không phải là hình thức đại diện
theo pháp luật.
Thứ hai: Theo quy định hiện hành, cá nhân và pháp nhân đều có thể tham
gia xác lập quan hệ đại diện theo ủy quyền nhưng trong tình huống kể trên, bên đại
diện luôn luôn là cá nhân và phải đáp ứng một số tiêu chuẩn bắt buộc.
Thứ ba: Phạm vi áp dụng của hình thức đại diện này tương đối bó hẹp hay
nói chính xác hơn hình thức đại diện này chỉ áp dụng đối với cá nhân đại diện cho
phần vốn góp của chủ sở hữu, thành viên, cổ đông là tổ chức trong một doanh
nghiệp khác.
Thứ tư: Tuy là đại diện theo ủy quyền nhưng một số nội dung quan trọng,
mang tính nguyên tắc của đại diện theo ủy quyền như phạm vi đại diện, thời hạn
đại diện... đã bị phá vỡ.
Thứ năm: Đứng trên phương diện luật pháp, đại diện theo ủy quyền không bắt
buộc phải đăng ký nhưng trong tình huống nêu trên, người đại diện theo ủy quyền lại
được ghi nhận trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và những người đại diện
theo ủy quyền này hoàn toàn có thể trở thành người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp vì họ được quyền thực hiện mọi quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu, thành viên,
cổ đông tại Hội đồng thành viên, Đại hội cổ đông theo quy định của Luật này. Họ có
trách nhiệm tham dự đầy đủ các buổi họp, thực hiện các quyền và nghĩa vụ được ủy
quyền một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
chủ sở hữu, thành viên, cổ đông ủy quyền. Với quy định như vậy, nếu những người
này trở thành đại diện theo pháp luật của Doanh nghiệp, liệu có dẫn đến sự không thể
thực thi nhiệm vụ khi mà quyền lợi của Doanh nghiệp xung đột với quyền lợi của
những người do họ nhận ủy quyền.

38
2.1.4. Thẩm quyền và phạm vi đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ở
Việt Nam
Phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp sẽ
phần nào được xác định dựa trên năng lực pháp luật của doanh nghiệp mà người đó
làm người đại diện. Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chỉ có thể tiến hành
xác lập, thực hiện các giao dịch nhân danh doanh nghiệp mà mình đại diện nếu giao
dịch đó phù hợp với ngành nghề kinh doanh đã đăng ký của doanh nghiệp.
Ví dụ: Khi nói đến “Quyền và nghĩa vụ của thành viên hợp danh” tại Điểm
b, Khoản 1, Điều 176, Luật doanh nghiệp năm 2014 khẳng định thành viên hợp
danh của công ty hợp danh có quyền: “Nhân danh công ty tiến hành hoạt động kinh
doanh các ngành, nghề kinh doanh của công ty; đàm phán và ký kết hợp đồng, thỏa
thuận hoặc giao ước với những điều kiện mà thành viên hợp danh đó cho là có lợi
nhất cho công ty”.
Như vậy, rõ ràng ngành nghề kinh doanh cùng với tư cách thành viên hợp
danh của công ty hợp danh sẽ cho phép một cá nhân được giao kết nhân danh doanh
nghiệp một số loại giao dịch nhất định. Nếu như trước đây, theo Luật doanh nghiệp
năm 2005, để xác định ngành nghề kinh doanh của một doanh nghiệp, chúng ta chỉ
cần kiểm tra giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp đó là đáp ứng
được yêu cầu. Nhưng ở thời điểm hiện tại, khả năng kiểm tra, xác minh ngành nghề
kinh doanh của doanh nghiệp thông qua giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp tỏ
ra không khả thi. Bởi vì, tại Điều 29, Luật doanh nghiệp năm 2014 quy định về
“Nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp” theo đó nội dung giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp (trước đây gọi là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh)
đã không còn bao gồm ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp nữa.
Ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp đã được trở thành một trong
những nội dung chủ yếu của Điều lệ công ty theo quy định tại Điều 25, Luật doanh
nghiệp năm 2014. Khi doanh nghiệp thay đổi ngành nghề kinh doanh, doanh
nghiệp phải có trách nhiệm thông báo với Cơ quan đăng ký kinh doanh theo quy
định tại Điều 32, Luật doanh nghiệp năm 2014. Theo đó “Người đại diện theo pháp

39
luật của doanh nghiệp chịu trách nhiệm thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh
nghiệp trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có thay đổi”.
Đứng trên phương diện hình thức thể hiện của giấy tờ, tài liệu, chúng ta thấy
dường như các giấy tờ, tài liệu như đã liệt kê, mô tả ở trên có thể được thể hiện
dưới hình thức văn bản hoặc dữ liệu điện tử.
Ví dụ: Theo Khoản 5, Điều 4, Luật doanh nghiệp năm 2014 nêu rõ “Cổng
thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp là cổng thông tin điện tử được sử
dụng để đăng ký doanh nghiệp qua mạng, truy cập thông tin về đăng ký doanh
nghiệp” và theo Khoản 6, Điều 4, Luật doanh nghiệp năm 2014 qui định “Cơ sở
dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp là tập hợp dữ liệu về đăng ký doanh
nghiệp trên phạm vi toàn quốc”, ngoài ra tại Khoản 12, Điều 4, Luật doanh
nghiệp năm 2014 cũng đã xác định: “Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là
văn bản hoặc bản điện tử mà Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp cho doanh nghiệp
ghi lại những thông tin về đăng ký doanh nghiệp”.
Như vậy, phương án khả thi, ít tốn kém nhất về thời gian và tiền bạc để có
được thông tin chính xác về ngành nghề kinh doanh của một doanh nghiệp nào đó
chính là tra cứu trực tuyến trên cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.
Hiện nay đã có nhiều các văn bản pháp luật và các văn bản qui phạm pháp luật qui
định về cách thức vận hành cũng như giá trị pháp lý của các thông tin có liên quan
đến doanh nghiệp nói chung hay ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng
như: Luật giao dịch điện tử năm 2005, Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày
15/2/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật giao dịch điện tử, Nghị
định số 106/2011/NĐ-CP ngày 23/11/2011 của Chính phủ về chữ ký số và dịch vụ
chứng thực chữ ký số và Nghị định số 170/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của
Chính phủ... Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay cho thấy nhiều cổng thông tin quốc
gia về đăng ký doanh nghiệp không hoạt động hoặc không có nội dung. Chính vì
vậy, bên cạnh việc khẳng định giá trị pháp lý của những thông tin tra cứu trực tuyến
từ cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, cơ quan hữu quan cần phải

40
đưa ra các giải pháp kỹ thuật nhằm đảm bảo việc khai thác thông tin trực tuyến liên
quan đến doanh nghiệp luôn được thông suốt.
Hiện nay, để chứng minh thẩm quyền đại diện của mình, tùy từng trường
hợp cụ thể, người quản lý và/hoặc đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp luôn
phải xuất trình rất nhiều loại giấy tờ, tài liệu khác nhau như: giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp, Điều lệ, biên bản họp, nghị quyết, văn bản ủy quyền, quyết định...
Từ thực tế công tác với tư cách một công chứng viên, chúng tôi thấy dường như
mỗi doanh nghiệp lại có một cách thể hiện thẩm quyền của người đại diện theo
pháp luật theo cách hiểu riêng của mình.
Ví dụ: Khi chủ doanh nghiệp tư nhân giao cho giám đốc doanh nghiệp xác
lập một giao dịch nào đó, tùy từng doanh nghiệp mà giám đốc doanh nghiệp sẽ xuất
trình một văn bản ủy quyền hay một quyết định cho phép mình thay mặt doanh
nghiệp tư nhân giao kết giao dịch đó. Hoặc giả tùy từng cách hiểu mà có người đại
diện theo pháp luật của một công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên xuất
trình một biên bản họp hội đồng thành viên hoặc một nghị quyết hội đồng thành
viên cho phép giao kết một giao dịch nào đó. Hay trong trường hợp một người
không phải là người đại diện theo pháp luật đứng ra giao kết giao dịch cho một
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, có công chứng viên yêu cầu hội
đồng thành viên phải ra biên bản cho phép người đại diện theo pháp luật được xác
lập giao dịch đó rồi đến lượt mình, người đại diện theo pháp luật của công ty sẽ tiến
hành lập văn bản ủy quyền (có thể là giấy ủy quyền hoặc hợp đồng ủy quyền) cho
người trực tiếp giao kết giao dịch đó... Tuy nhiên, ngoại trừ điều lệ của doanh
nghiệp, người quản lý và/hoặc đại diện theo pháp luật của công ty thường xuyên
xuất trình 2 loại giấy tờ, tài liệu là nghị quyết hay biên bản họp. Chúng ta có thể
thấy đây là 2 loại tài liệu hoàn toàn khác biệt và được sử dụng cho những mục đích
khác nhau.
Ví dụ: Theo Điều 60, Luật doanh nghiệp năm 2014 qui định:

41
“ Hội đồng thành viên thông qua các nghị quyết thuộc thẩm quyền bằng
biểu quyết tại cuộc họp, lấy ý kiến bằng văn bản hoặc hình thức khác do Điều lệ
công ty quy định.
Trường hợp Điều lệ công ty không có quy định khác thì quyết định các vấn
đề sau đây phải được thông qua bằng biểu quyết tại cuộc họp Hội đồng thành
viên”.
Như vậy, về mặt nguyên tắc biên bản họp hội đồng thành viên chính là loại
tài liệu ghi chép toàn bộ diễn biến cuộc họp hội đồng thành viên của công ty trách
nhiệm hai thành viên trở lên trong khi đó, nghị quyết của hội đồng thành viên lại
là tài liệu thể hiện sự nhất trí, đồng thuận của mỗi thành viên của hội đồng thành
viên đối với từng vấn đề được lấy ý kiến. Do vậy, các qui định pháp luật cũng
cần xác định rõ hình thức cũng như ý nghĩa pháp lý và cấp có thẩm quyền ban
hành từng loại văn bản trong quá trình hoạt động, kinh doanh của doanh nghiệp
nhằm bảo đảm việc xác định phạm vi thẩm quyền đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp được nhất quán, thống nhất.
2.2. Thực tiễn áp dụng luật Doanh nghiệp năm 2014 về đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Luật doanh nghiệp năm 2014 và Bộ luật dân sự năm 2015 đã có nhiều sửa
đổi khá quan trọng về đại diện của doanh nghiệp và kèm theo đó cũng nảy sinh
nhiều vấn đề pháp lý đáng quan tâm. Bên cạnh những nội dung qui định, hợp lý,
tiến bộ thì trong thực tế áp dụng còn có nhiều điểm bất cập cần phải điều chỉnh cho
phù hợp với tình hình thực tế.
Hiện nay, trên toàn quốc có 85357 doanh nghiệp mới được thành lập nhưng
đã có 7754 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể. Việc tăng trưởng của các doanh
nghiệp đã góp phần không nhỏ để phát triển kinh tế của đất nước, sự lớn mạnh của
các doanh nghiệp là sự lớn mạnh, vững chắc của đất nước. Cùng với sự phát triển
không ngừng của doanh nghiệp là sự phát triển chuyên nghiệp của người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp. Tuy nhiên trong thực tế áp dụng các qui định
pháp luật về người đại diện theo theo pháp luật của doanh nghiệp có nhiều điểm

42
chưa phù hợp. Trong phạm vi khuôn khổ của luận văn, tác giả xin đi sâu phân tích
các bất cập trong áp dụng pháp luật về một số vấn đề sau: quy định về số lượng,
nhiệm vụ, quyền hạn của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Theo quy định tại Điều 137 Bộ luật dân sự năm 2015: Pháp nhân có thể có
nhiều người đại diện theo pháp luật. Về vấn đề này, Luật doanh nghiệp năm 2014
quy định: Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có nhiều người
đại diện theo pháp luật với điều kiện điều lệ công ty phải quy định cụ thể số lượng,
chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật. Có
thể khẳng định đây là điểm mới so với quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005, Luật
doanh nghiệp năm 2005: mỗi pháp nhân nói chung và doanh nghiệp nói riêng chỉ
có một người đại diện theo pháp luật. Nhưng khi tiến hành áp dụng vào thực tiễn sẽ
nảy sinh như việc phân định phạm vi thẩm quyền đại diện dễ bị trùng lặp và vi
phạm các quy định pháp luật chuyên ngành.
Trong Luật doanh nghiệp năm 2014 đã qui định cụ thể các trường hợp người
đại diện theo pháp luật vắng mặt, thì chỉ có thể giải quyết công việc khi có sự uỷ
quyền, nhất là pháp luật lại chỉ cho phép người được uỷ quyền chỉ được uỷ quyên
lại cho người thứ ba nếu được người đại diện theo pháp luật đồng ý. Từ thực tế áp
dụng pháp luật đã có hạn chế như mỗi lần thay đổi người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp thì xuất hiện một khoảng thời gian không thể xác định được ai
mới thật sự là người đại diện, khi nội dung thay đổi chưa được ghi nhận trên Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. Quy định này cũng giải quyết được hạn chế trong
giao dịch của doanh nghiệp với người đại diện.
Việc có nhiều người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp giảm thiểu
được các khó khăn của doanh nghiệp trong trường hợp người đại diện theo pháp
luật đi nước ngoài dưới 30 ngày nhưng không muốn uỷ quyền cho người khác hoặc
người đại diện theo pháp luật xung đột với Hội đồng thành viên/ Hội đồng quản trị
và không chịu hợp tác trong việc ký kết các văn bản, giao dịch của công ty, đồng
thời không muốn uỷ quyền cho người khác.

43
Tuy nhiên, bên cạnh đó còn nhiều vấn đề pháp lý cần được xác định rõ, như:
cơ chế giám sát lẫn nhau giữa những người đại diện theo pháp luật; sự phân định về
trách nhiệm liên đới hay riêng lẽ của các đại diện theo pháp luật và phạm vi đại
diện của các đại diện theo pháp luật trong việc xác lập giao dịch nhân danh doanh
nghiệp. Có những trường hợp được đặt ra trong thực tiễn cũng cần được làm rõ như
xác định những giao dịch đòi hỏi phải được sự chấp thuận của tất cả các đại diện
theo pháp luật hay hiệu lực của hợp đồng mà doanh nghiệp ký với đối tác trong
trường hợp một đại diện theo pháp luật phản đối văn bản mà người đại diện theo
pháp luật khác đã ký kết. Yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng Điều lệ Công ty
cũng cần chặt chẽ hơn để tránh chồng chéo về thẩm quyền của mỗi người và tăng
cường hiệu quả quản lý trong nội bộ doanh nghiệp.
Vì vậy đòi hỏi đối với doanh nghiệp có hơn một người đại diện theo pháp
luật thì thẩm quyền của từng người đại diện theo pháp luật phải được thông báo,
đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn được xác định cụ thể kể từ
ngày có doanh nghiệp có quyết định cử người đại diện theo pháp luật. Nội dung
này được cơ quan nhà nước công khai theo nội dung đăng ký kinh doanh của doanh
nghiệp trên cổng thông tin đăng ký kinh doanh của cơ quan quản lý. Quy định này
sẽ hạn chế tối đa tranh chấp hợp đồng sau này khi bên muốn giao dịch bị tuyên vô
hiệu có thể tìm cách thay đổi thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật trong
điều lệ. Do đó, sự tham gia của Nhà nước trong công bố thông tin rất quan trọng
trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp các doanh nghiệp
Bên cạnh đó phải công khai về sự phân định thẩm quyền đại diện giữa
những người đại diện theo pháp luật như công bố trên trang web chính thức hoặc
các hình thức khác nhằm giúp bên thứ ba tiếp nhận thông tin. Việc phân định thẩm
quyền được xác định theo hướng phân công theo chức năng, nhiệm vụ, không quy
định theo hướng liệt kê, cụ thể nhằm tránh tình trạng chồng chéo, thậm chí là phạm
vi đại diện không bao quát được hết thẩm quyền của người đại diện.
Nhiều trường hợp xử lý những giao dịch đòi hỏi phải được sự chấp thuận
của tất cả các đại diện theo pháp luật hoặc những giao dịch mà doanh nghiệp ký với

44
đối tác nhưng một trong số người đại diện theo pháp luật phản đối sẽ gây khó khăn
cho quá trình ký kết và thực hiện giao dịch. Mặc dù theo Điều 137 và 141 của Bộ
luật dân sự năm 2015 quy định về phạm vi đại diện:
Trường hợp Điều lệ công ty không quy định về việc phân chia thẩm quyền
giữa những người đại diện theo pháp luật thì bất cứ người đại diện theo pháp luật
nào ký kết, xác lập hợp đồng vì lợi ích doanh nghiệp thì cũng đều ràng buộc trách
nhiệm của doanh nghiệp.
Trường hợp Điều lệ công ty đã quy định rõ về phạm vi đại diện của từng
người đại diện theo pháp luật thì người đại diện theo pháp luật được xem là có
quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện
trong phạm vi đại diện hay nói cách khác Doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm dân
sự đối với những giao dịch trong phạm vi đại diện.
Trong quá trình thực hiện các qui định của pháp luật về đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp có ý kiến cho rằng nên xác định rõ trách nhiệm của doanh
nghiệp trong giao dịch với chủ thể khác bằng cách quy định: “Mọi quy định hạn
chế của công ty về phân công thẩm quyền giữa những người đại diện theo pháp
luật của mình đều không có hiệu lực đối với bên thứ ba” hoặc cụ thể hơn
như: “Trường hợp người đại diện theo pháp luật xác lập giao dịch vượt ngoài thẩm
quyền đại diện được phân công theo quy định của công ty với người thứ ba, thì
giao dịch đó vẫn có giá trị đối với doanh nghiệp được đại diện, người đại diện sẽ
chịu trách nhiệm trực tiếp với doanh nghiệp, trừ trường hợp, người thứ ba biết hoặc
phải biết người đại diện đó không có thẩm quyền xác lập giao dịch với mình”.
Quan điểm này tương tự như quy định của pháp luật Anh theo hướng nhằm bảo vệ
lợi ích của mọi bên thứ ba giao dịch với một công ty một cách ngay tình, quyền hạn
của các giám đốc (người đại diện) được nhân danh công ty (hoặc ủy quyền lại cho
người khác hành động nhân danh công ty) được coi như không chịu bất cứ giới hạn
nào theo các văn bản nội bộ của công ty. Nói cách khác, một bên giao dịch với
công ty không có nghĩa vụ phải tìm hiểu việc giới hạn thẩm quyền của người đại

45
diện trong điều lệ và được coi là hành động ngay tình trừ khi công ty có thể chứng
minh được điều ngược lại.
Xét từ góc độ thực tiễn áp dụng qui định pháp luật về đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp dưới góc độ quản trị doanh nghiệp theo thì quy định trên không
bảo vệ được lợi ích chung của doanh nghiệp. Theo Bộ luật dân sự năm 2015 và
Luật doanh nghiệp năm 2014 thì doanh nghiệp không phải chịu trách nhiệm về giao
dịch dân sự do người không có quyền đại diện, vượt quá thẩm quyền đại diện xác
lập trừ một số được qui định trong luật. Tuy nhiên đây cũng là những bất cập cần
phải xác định cụ thể, nhiều trường hợp người đại diện hoặc doanh nghiệp vì lợi ích
của mình đã tìm cách đùn đẩy trách nhiệm
Đồng thời bên đối tác đã xác lập giao dịch với người đại diện theo pháp
luật không có thẩm quyền xác lập phải có chứng cứ chứng minh được sự tồn tại của
hành vi trên nhằm ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong thực
tế, điều đó không hề dễ dàng bởi việc tiếp cận tài liệu nội bộ trong doanh nghiệp ví
dụ như: biên bản họp giao ban để chứng minh giao dịch đó đã được thông báo hay
các chứng cứ chứng minh viết biết mà không phản đối.... là rất khó khăn. Thời hạn
này không thể được giải thích gắn với con số thời gian cụ thể mà nó chỉ có thể
được xem xét trong thời hạn thực hiện của từng giao dịch mà các bên đã giao
kết và việc đảm bảo lợi ích hợp pháp của các bên trong giao dịch. Chỉ có thể hạn
chế tối đa tranh chấp xảy ra trong vấn đề này bằng cách áp dụng trách nhiệm đối
với bên giao kết vi phạm nghĩa vụ thông báo thẩm quyền đại diện cho bên đối
tác của giao dịch. Do đó, chúng ta cũng cần pháp luật có hướng dẫn hoặc giải thích
thêm về cụm từ “trong một thời hạn hợp lý” mà Luật quy định.
Trên thực tế, khi tiếp nhận các hồ sơ công chứng đối với các giao dịch
của Doanh nghiệp, một công chứng viên luôn luôn phải yêu cầu Doanh nghiệp
đó cung cấp đầy đủ các thông tin như Giấy đăng ký kinh doanh, Điều lệ công ty,
quyết định bổ nhiệm người đại diện trước pháp luật, quy chế nội bộ của công ty.
Sau khi nghiên cứu đầy đủ các nội dung có trong các văn bản trên, tùy theo từng
giao dịch cụ thể mà công chứng viên phải là người đưa ra các quyết định về hồ

46
sơ chứng minh thẩm quyền đại diện của người tham gia giao kết hợp đồng: ví dụ
như trường hợp giao dịch không thuộc ngành nghề kinh doanh của công ty hoặc
với giao dịch có giá trị lớn theo quy định của Điều lệ hoặc của pháp luật thì cần
phải có biên bản họp của Hội đồng quản trị/Đại hội cổ đông hoặc Hội đồng
thành viên các biên bản họp tương ứng với nội dung hoặc giá trị giao dịch.
Trong trường hợp giá trị giao dịch được phân định theo thẩm quyền của từng
chức danh trong doanh nghiệp thì lúc đó cần phải có văn bản Phân cấp thẩm
quyền hoặc Văn bản ủy quyền tùy theo cách quản lý của từng doanh nghiệp.
Những trường hợp này chúng tôi hay gặp nhất đối với chủ thể giao dịch là Ngân
hàng. Với một ngân hàng, các hoạt động kinh doanh diễn ra hàng ngày, thường
xuyên và ở nhiều địa bàn khác nhau: từ ký kết hợp đồng thuê trụ sở, hợp đồng
tín dụng cho tới hợp đồng thế chấp…. một hoặc một số người đại diện không thể
thực hiện hết và họ thường phân theo cấp bậc: Giám đốc hội sở/ giám đốc chi
nhánh/Giám đốc các phòng giao dịch sẽ được ký kết các hợp đồng, giao dịch ở
từng mức tương đương. Đôi khi, với những chủ thể này, địa danh cũng quyết
định mức thẩm quyền đại diện khác nhau. Ví dụ như ở thành phố lớn, giám đốc
chi nhánh ngân hàng có thể được ký những hợp đồng giao dịch có trị giá tới 10
tỷ đồng thì ở địa bàn tỉnh lẻ, cũng là chức danh đó, nhưng có thể họ chỉ được
phép giao kết hợp đồng có giá trị từ 5 tỷ đồng trở xuống mà thôi. Cũng tương tự
như vậy, nếu chủ thể giao kết hợp đồng là thành viên hợp danh thì rõ ràng việc
xác định chính xác ngành nghề kinh doanh của công ty lại là điều quan trọng
tiên quyết để xác định thẩm quyền của người đại diện. Nhưng trong một số
trường hợp như “ triệu tập và tổ chức họp hội đồng thành viên; ký các nghị
quyết của Hội đồng thành viên, hoặc trong quan hệ với cơ quan nhà nước, trong
các vu kiện với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn.. thì lại chỉ có thành viên hợp
danh giữ chức danh Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc mới đủ thẩm quyền đại diện cho Công ty hợp danh.
Cũng tương tự như vậy, theo quy định tại Luật Doanh nghiệp 2014, việc
quyết định sửa điều lệ thuộc về thẩm quyền của những người chủ sở hữu công ty,

47
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có trách nhiệm phải thực hiện
các nội dung đã được thông qua bằng nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, của
Hội đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị. Theo quy định hiện nay (Luật
Doanh nghiệp 2014, Nghị định 96/2015/NĐ-CP Hướng dẫn LDN 2014, Nghị
định 78/2015 về đăng ký doanh nghiệp, Thông tư 20/2015/TT-BKHĐT hướng
dẫn đăng ký doanh nghiệp) thì việc sửa đổi, bổ sung điều lệ bắt buộc phải có
chữ ký của người đại diện theo pháp luật đối với cty TNHH hai thành viên trở
lên và công ty cổ phần. Trên thực tế, quy định này đã phát sinh một số vướng
mắc khi có ý kiến trái chiều giữa người chủ sở hữu công ty và người đại diện
theo pháp luật khi tiến hành sửa đổi điều lệ, nhất là khi người đại diện theo pháp
luật là người làm thuê cho công ty theo Hợp đồng lao động.
Như vậy, mặc dù đã có qui định tương đối cụ thể nhưng khi triển khai áp
dụng các qui định về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp vào thực tế chúng ta
thấy còn nhiều điểm bất cập cần có sự điểu chỉnh bổ sung để hoàn thiện, phù hợp
hơn với thực tế. Với sự thay đổi của Luật Doanh nghiệp 2014 về số lượng người
đại diện, việc công khai thẩm quyền các chức danh là điều vô cùng cần thiết. Nó
tạo ra sự minh bạch, rõ ràng đối với các giao dịch mà người đó thực hiện, đảm bảo
một hành lang pháp lý an toàn, không mất nhiều công sức đối với những bên có
liên quan khi thực hiện các giao dịch. Từ đó, loại bỏ bớt những vụ kiện tài tòa liên
quan đến thẩm quyền của người đại diện, vừa tốn kém thời gian, công sức của cả
đương sự lẫn tòa án, vừa làm thiệt hại và trì trệ nên kinh tế đang phát triển của
nước ta hiện nay.

Kết luận chƣơng 2

Trên cơ sở các vấn đề lý luận đã nêu ở chương 1, tại chương 2 luận văn đã đi
sâu vào nghiên cứu các vấn đề cụ thể, sau:
Thực trạng quy định pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Trong nội dung này, dựa trên cơ sở qui định pháp luật

48
(Bộ luật dân sự năm 2015, Luật doanh nghiệp năm 2014 và các điều luật chuyên
ngành) luận văn đã nghiên cứu đánh giá, so sánh để tìm ra những điểm đã đạt được và
những điểm còn bất cập của các qui định pháp luật, như: Chủ thể đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay; Các hình thức đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay; Thẩm quyền đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Thực trạng việc áp dụng các qui định của pháp luật về đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Trong nội dung này luận văn đã tiến hành
nghiên cứu cụ thể áp dụng các qui định pháp luật về người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp, nội dung này luận văn chủ yếu khai thác ở các điểm còn tồn tại, hạn chế
và bất cập khi áp dụng. Đây cũng là cơ sở quan trọng để để luận văn đánh giá đúng
đắn về các qui định pháp luật và thực tiễn áp dụng các qui định pháp luật về đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp.
Trên cơ sở làm rõ các vấn đề thực tế, những điểm còn bất cập trong qui định và
trong áp dụng qui định pháp luật về đại diện sẽ làm cơ sở để luận văn đưa ra các
phương hướng và giải pháp ở chương 3.

49
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUI ĐỊNH PHÁP
LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện qui định của Luật Doanh nghiệp năm 2014
về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
3.1.1. Xu hướng phát triển doanh nghiệp của Việt Nam
Hiện nay, Nhà nước ta đang nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp cải thiện, xây
dựng môi trường đầu tư, kinh doanh, khuyến khích thành lập doanh nghiệp. Chuyển
biến rõ nhất là về cải cách thủ tục hành chính. Số hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua
mạng tăng nhanh thời gian giải quyết được rút ngắn; kỷ luật, kỷ cương hành chính
duy trì, bảo đảm, hoạt động công vụ tạo thuận lợi nhất cho doanh nghiệp, công
dân… Các dự án được quy hoạch, phát triển, phục vụ nhu cầu mặt bằng sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp. Trung tâm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo được hình
thành. Chính phủ đã có những chỉ đạo tích cực để tháo gỡ khó khăn cho doanh
nghiệp, hoạt động thường xuyên, liên tục, hiệu quả. Những chuyển động này đã
kích hoạt số doanh nghiệp thành lập mới tăng nhanh.
Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước có nhiều khó khăn,
diễn biến phức tạp, để đạt mục tiêu phát triển doanh nghiệp thành lập mới trong
năm nay, đòi hỏi phải tiếp tục có những nỗ lực vượt bậc, thực hiện các giải pháp
đồng bộ thiết thực và quyết liệt. Rà soát tất cả thủ tục liên quan thành lập doanh
nghiệp, kết nối các sở, ngành liên quan, loại bỏ những khâu, thủ tục, hồ sơ, quy định
không cần thiết, trùng lặp, đơn giản hóa thủ tục, quy trình, giảm thời gian giải quyết
các thủ tục, trả kết quả. Mở rộng, nâng cao ứng dụng công nghệ thông tin, tất cả nội
dung đăng ký kinh doanh, thay đổi, điều chỉnh đều có thể thực hiện qua mạng, vẫn
đáp ứng yêu cầu quản lý. Các cơ chế, chính sách cần được công khai, minh bạch,
nhất là về thuế, phí, ưu đãi, hỗ trợ… Cần khắc phục ngay những chỉ số còn rất hạn
chế, ở mức thấp trong bộ chỉ số PCI, gồm: tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử
dụng đất; chi phí gia nhập thị trường; môi trường cạnh tranh bình đẳng; thiết chế

50
pháp lý; tính năng động và tiên phong của chính quyền. Ðẩy mạnh công tác tuyên
truyền, tư vấn, hỗ trợ thành lập doanh nghiệp, kết nối liên kết chuỗi giữa các doanh
nghiệp, tạo điều kiện phát triển công nghiệp hỗ trợ, xây dựng hệ sinh thái khởi
nghiệp. Nâng cao kỷ cương, kỷ luật hành chính của cán bộ, công chức, viên chức,
thường xuyên tiến hành thanh tra công vụ. Tổ chức những hình thức đối thoại phù
hợp giữa lãnh đạo và doanh nghiệp, lắng nghe, xử lý kịp thời những khó khăn,
vướng mắc.
Cùng với sự phát triển của doanh nghiệp là sự phát triển của đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp cũng sẽ
nảy sinh nhiều vấn đề cần phải khắc phục, sửa đổi bổ sung các văn bản pháp luật
cho phù hợp, đảm bảo hoạt động hiệu quả của của doanh nghiệp, ổn định của nền
kinh tế.
3.1.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật
Việc hoàn thiện các quy định về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
nhằm phục vụ thiết thực lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích của người đại diện doanh
nghiệp và phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế của Nhà nước, hội nhập quốc tế ở
Việt Nam phải hướng tới các vấn đề sau :
Thứ nhất: Đảm bảo thực hiện quyền lợi của doanh nghiệp và đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp theo hướng tích cực để góp phần thúc đẩy hoạt động
của doanh nghiệp.
Hiện nay, Bộ luật dân sự năm 2015 và luật doanh nghiệp năm 2014 đã có
những quy định khá cụ thể về quyền lợi của doanh nghiệp khi có người đại diện
theo pháp luật và quyền lợi của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, khi đi vào các trường hợp cụ thể thì còn rất nhiều vấn đề phát sinh như
sự trung thành của người đại diện, các ràng buộc giữa giữa người đại điện theo
pháp luật với doanh nghiệp, đặc biệt là quyền và lợi ích của doanh nghiệp và của
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp còn nhiều bất cập, nhiều trường
hợp không tìm được sự thỏa thuận thỏa đáng nên doanh nghiệp và người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp có những xung đột pháp lý không đáng có.

51
Chính vì thế, trong thời gian tới cần có những điều chỉnh các quy định của
pháp luật cho phù hợp với thực tế, đặc biệt là cần có quy định cụ thể rõ ràng về lợi
ích của doanh nghiệp với đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Từ đó tạo hành
lang pháp lý cho các bên thực hiện, đem lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp và
cho phát triển kinh tế đất nước.
Thứ hai: Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp và người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Cùng với quyết tâm của Nhà nước là cải cách hành chính, nâng cao hiệu
quả, hiệu lực quản lý Nhà nước trên tất cả các mặt đời sống thì việc cải cách hành
chính nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước trên lĩnh vực kinh tế đặc biệt là hoạt
động của doanh nghiệp và người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ngày
càng cần được nâng cao.
Để nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý Nhà nước về doanh nghiệp và đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp cần phải:
- Rà soát, hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách về doanh
nghiệp, đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, đặc biệt là các cơ chế, chính sách
về cho doanh nghiệp và cơ cấu lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả của các doanh
nghiệp phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, tình hình thực tế và kinh
nghiệm đúc kết được trong thời gian qua.
- Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm
toán, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp và người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp; phòng ngừa, phát hiện và xử lý nghiêm
những hành vi vi phạm pháp luật, tiêu cực, lãng phí trong doanh nghiệp. Quy định
rõ trách nhiệm của các cơ quan thanh tra, kết quả thanh tra, đối với doanh nghiệp.
Hoàn thiện hệ thống giám sát, tiêu chí đánh giá mức độ an toàn, hiệu quả hoạt
động, xếp loại doanh nghiệp và người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
- Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy
định của pháp luật tại doanh nghiệp bảo đảm công khai, minh bạch trong triển khai
thực hiện.

52
Thứ ba: Đảm bảo tính thống nhất, phù hợp với cam kết quốc tế và hệ thống
pháp luật Việt Nam
Hoạt động của một doanh nghiệp được thông qua người đại diện theo pháp
luật. Người đại diện theo pháp luật sẽ nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp xác
lập, thực hiện các giao dịch thể hiện mối quan hệ với các chủ thể trong doanh
nghiệp (như với các thành viên, cổ đông góp vốn) hoặc với các chủ thể khác bên
ngoài doanh nghiệp (đối tác, khách hàng, cơ quan quản lý nhà nước...). Trong suốt
quá trình hoạt động, từ khi thành lập đến khi giải thể hoặc tuyên bố phá sản hay sáp
nhập, chia, tách, doanh nghiệp phải đảm bảo luôn có người đại diện theo pháp luật.
Doanh nghiệp luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt
Nam. Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật, thì người
đó phải cư trú ở Việt Nam và nếu người đó xuất cảnh khỏi Việt Nam thì phải ủy
quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Nhưng
người ủy quyền đó vẫn chịu mọi trách nhiệm về hoạt động của người được ủy
quyền. Quy định này cho thấy, vai trò và trách nhiệm của người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp khá lớn, họ phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ các hoạt
động, các giao dịch của doanh nghiệp. Mặc dù Luật doanh nghiệp năm 2014 và Bộ
luật dân sự năm 2015 đã có nhiều quy định khá quan trọng, cụ thể về người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp nhưng các quy định này còn nhiều yếu tố bất
cập, lỏng lẻo dễ nảy sinh xung đột pháp lý, đặc biệt là dễ nảy sinh với các xung đột
pháp lý với các quy định của luật pháp quốc tế mà Việt Nam đã ký cam kết.
Chính vì ý nghĩa quan trọng như vậy, mà các văn bản pháp luật đều dành
vị trí tương xứng với vai trò của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
và cần có những hướng dẫn cụ thể hơn để điều chỉnh quan hệ đại diện của doanh
nghiệp nói chung và đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nói riêng, có sự
tương thích nhất định với các điều ước và thông lệ quốc tế.
Thứ tư: Thực hiện pháp luật đối với người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp cần nghiêm túc, hiệu quả.

53
Hiệu quả của hoạt động thực hiện pháp luật nói chung ở nước ta hiện nay
phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố, trong đó, chủ yếu là trình độ kiến thức, hiểu biết
pháp luật của các chủ thể pháp luật; công tác phổ biến; tuyên truyền, giáo dục pháp
luật, vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong hoạt động thực hiện pháp
luật.
Trong thực hiện các quy định của pháp luật về doanh nghiệp và đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp của nước ta hiện nay còn có nhiều bất cập, chưa đem lại
hiệu quả cao. Vì vậy cần phải thực hiện một số nội dung nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật như:
Nâng cao ý thức pháp luật, hình thành thói quen “ sống và làm việc theo
pháp luật ” trong các chủ thể pháp luật.
Phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng đối với công tác
phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho các tầng lớp nhân dân.
Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong hoạt động
thực hiện pháp luật.
Để hoạt động thực hiện pháp luật về doanh nghiệp và đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp luôn được đảm bảo, chất lượng thì cần có những biện pháp nâng
cao hiệu quả của hoạt động thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay.Đồng thời nâng
cao ý thức pháp luật, hình thành thói quen sống và làm việc theo pháp luật; tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho các tầng lớp nhân dân; tăng cường vai trò,
trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong hoạt động thực hiện pháp luật.
Thứ năm: Cải cách các thủ tục hành chính có liên quan đến đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp
Thời gian qua, công tác cải cách thủ tục hành chính nói chung và cải cách
hành chính có liên quan đến đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đã đạt một số
kết quả nhất định. Tuy nhiên người dân, doanh nghiệp và đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp vẫn còn thấy nhiều thủ tục phiền hà, rắc rối, chậm trễ trong giải
quyết thủ tục hành chính ở khâu này, khâu khác tại nhiều cơ quan khác nhau. Một
số cơ quan Nhà nước né tránh trách nhiệm, chỉ dẫn lòng vòng hay thực hiện thiếu

54
thủ tục “gây khó” cho doanh nghiệp và đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp,
đồng thời liên quan đến hoạt động bình thường của các cá nhân và doanh nghiệp.
Một trong các tiêu chí của Chính phủ ta là: “cải cách thủ tục hành chính phục
vụ cho tăng trưởng là một nhiệm vụ hàng đầu hiện nay để hoàn thành toàn diện mục
tiêu, chỉ tiêu Đảng, Quốc hội giao”.
Chính vì vậy, đòi hỏi trong thời gian tới phải cải cách các thủ tục hành chính
có liên quan đến đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về
đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
3.2.1. Cụ thể hóa, chi tiết hóa các qui định của pháp luật hiện hành
- Cụ thể hóa nguyên tắc xác định người đại diện trước pháp luật của Doanh
nghiệp và người đại diện của Doanh nghiệp, tránh tình trạng nhiều người cùng đại
diện theo pháp luật chồng chéo, không phân định thẩm quyền.
Trước hết, chúng ta phải khẳng định dứt khoát rằng Luật doanh nghiệp năm
2014 và các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật hướng dẫn thi hành đã thể hiện
một quan điểm pháp lý đổi mới nhằm tạo điều kiện thông thoáng, thuận lợi cho
doanh nghiệp có thể phát triển một cách nhanh, mạnh và bền vững nhất. Như theo
Khoản 2, Điều 13, Luật doanh nghiệp năm 2014, theo đó “Công ty trách nhiệm hữu
hạn và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật.
Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ
của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp” là một ví dụ tiêu biểu cho việc
quy định số lượng người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, khi tìm hiểu cơ cấu tổ chức bộ máy của 4 loại hình công ty: Công
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do cá nhân làm chủ sở hữu; công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu; công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên; công ty cổ phần, cho thấy các quy định của pháp luật đã
không khẳng định dứt khoát chức danh quản lý nào sẽ là người đại diện theo pháp
luật và chức danh nào sẽ là đại diện tối cao, có quyền phủ quyết những đại diện
theo pháp luật khác của công ty.

55
Bên cạnh khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, chúng
ta còn thấy thuật ngữ pháp lý “Người quản lý doanh nghiệp”. Cụ thể, Khoản 18,
Điều 4, Luật doanh nghiệp ngày năm 2014, khẳng định: “Người quản lý doanh
nghiệp là người quản lý công ty và người quản lý doanh nghiệp tư nhân, bao gồm
chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, Chủ tịch Hội đồng thành viên,
thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch Hội đồng quản trị,
thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân giữ chức
danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh công ty để ký kết giao dịch của công
ty theo quy định tại Điều lệ công ty”. Rõ ràng, khái niệm người quản lý doanh
nghiệp rộng hơn rất nhiều trong tương quan so sánh với khái niệm người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp.
Trong một số trường hợp, người quản lý doanh nghiệp cũng chính là người
đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nhưng trong một số trường hợp khác, đây
lại là 2 chức danh hoàn toàn khác biệt. Bên cạnh đó, bằng cách cho phép các “cá
nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh công ty để ký kết giao
dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty”, các quy định của pháp luật đã
mở rộng phạm vi những người được phép đại diện cho doanh nghiệp để giao kết
một số giao dịch nhất định nhưng những cá nhân này không phải là người đại diện
theo pháp luật thực sự của doanh nghiệp. Như vậy, cách thức xác định thẩm quyền
của cá nhân đại diện cho doanh nghiệp nói chung hay thẩm quyền của người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp nói riêng đang được pháp luật quy định một
cách mền dẻo, theo hướng trao quyền tự quyết cho doanh nghiệp. Đây là một thách
thức cho các đối tác của doanh nghiệp cũng như của bên thứ ba có liên quan khi
xác định thẩm quyền của người đại diện cho doanh nghiệp trực tiếp tiến hành xác
lập giao dịch này.
Ngoài ra, theo Khoản 3, Điều 29, Luật doanh nghiệp năm 2014, chúng ta
hoàn toàn có thể tra cứu những thông tin kể trên tại Cổng thông tin quốc gia về
đăng ký doanh nghiệp để xác định chính xác người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp. Nhưng để xác định thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật

56
của doanh nghiệp đối với từng giao dịch cụ thể, việc viện dẫn thêm một số giấy tờ,
tài liệu khác (đơn cử như Điều lệ doanh nghiệp) là điều hoàn toàn cần thiết. Tuy
nhiên, pháp luật không khẳng định giá trị pháp lý của những thông tin được lấy
bằng phương tiện điện tử trong tình huống nêu trên, cho dù về mặt nguyên tắc, giá
trị pháp lý của dạng “thông điệp dự liệu” đã được chính thức khẳng định (Khoản 1,
Điều 119, Bộ luật dân sự năm 2015 và Luật giao dịch điện tử năm 2005).
- Nguyên tắc hóa quy định về việc cá nhân giao dịch với chính mình là
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Theo Khoản 3, Điều 141, Bộ luật dân sự năm 2015, nêu rõ “Một cá nhân,
pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng
không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Như vậy nếu theo Khoản 3, Điều 141 Bộ luật dân sự năm 2015 thì sẽ cho
phép một cá nhân có thể trở thành người quản lý hoặc đại diện cho nhiều doanh
nghiệp khác nhau tại cùng một thời điểm, ngoài trừ một vài trường hợp nhất định.
Hoặc theo Khoản 1, Điều 175, Luật doanh nghiệp năm 2014, khẳng định: “Thành
viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp
danh của công ty hợp danh khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên
hợp danh còn lại”. Khoản 3, Điều 183, Luật doanh nghiệp năm 2014, nêu rõ: “Mỗi
cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp tư
nhân không được đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành viên công ty hợp danh...”.
Trên thực tế, để xác định chính xác từng cá nhân cụ thể, không chỉ đơn
thuần căn cứ vào họ và tên người quản lý và/hoặc đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp mà người ta thường căn cứ vào số giấy tờ tùy thân của cá nhân đó. Chính vì
vậy, có thể thấy cách thức quy định như vậy khiến cho các cơ quan hữu quan hoàn
toàn bị động trong việc kiểm tra việc tuân thủ nội dung được quy định tại Khoản 3,
Điều 141, Bộ luật dân sự năm 2015, bởi lẽ cho đến nay chúng ta vẫn chưa xây

57
dựng xong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (Khoản 4, Điều 3 và Khoản 4, Điều
38, Luật căn cước công dân 2014).
Liên quan đến người quản lý và/hoặc người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp, chúng ta không thể bỏ qua những quy định của pháp luật hiện hành
về con dấu. Khi đưa ra khái niệm con dấu, Nghị định số 99/2016/NĐ-CP ngày
01/7/2016 của Chính phủ về quản lý và sử dụng con dấu nêu rõ: “Con dấu là
phương tiện đặc biệt do cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký, quản lý, được
sử dụng để đóng trên văn bản, giấy tờ của cơ quan, tổ chức, chức danh nhà nước”.
Tuy nhiên theo Điểm a, Khoản 2, Điều 1, Nghị định số 99/2016/NĐ-CP ngày
01/7/2016 của Chính phủ về quản lý và sử dụng con dấu thì về mặt nguyên tắc, quy
định kể trên không áp dụng đối với việc: “Quản lý và sử dụng con dấu của doanh
nghiệp được đăng ký, hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp và Luật đầu
tư”. Nhưng trên thực tế, vẫn có ý kiến cho rằng chỉ có người quản lý và/hoặc người
đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp mới được phép sử dụng con dấu của
doanh nghiệp trong các giao dịch mà doanh nghiệp đó là một bên tham gia giao kết.
Điều này kéo theo là hệ quả, người ta có thể cho rằng ai là người quản lý
và/hoặc đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thì người đó chính là người được
phép sử dụng con dấu của doanh nghiệp khi giao kết giao dịch nhân danh doanh
nghiệp (mỗi người quản lý và/hoặc đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp sẽ có
một con dấu). Trong khi đó, theo quy định của Khoản 2, Điều 13, Luật doanh
nghiệp năm 2014, chúng ta thấy số lượng con dấu của doanh nghiệp hoàn toàn
không liên quan đến số lượng người quản lý và/hoặc đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp. Nếu nhìn nhận theo góc độ này, không phải trong bất cứ trường hợp
nào, người quản lý và/hoặc đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp cũng có
quyền sử dụng con dấu khi giao kết giao dịch thay mặt cho doanh nghiệp đó.
Trong điều kiện hiện nay, việc sử dụng con dấu của doanh nghiệp trong giao
kết giao dịch là điều cần thiết nhằm bảo đảm tính pháp lý, tính ràng buộc của doanh
nghiệp đối với những giao dịch đã được giao kết thông qua người quản lý và/hoặc

58
đại diện của mình, nhất là trong hoàn cảnh không phải giao dịch nào của doanh
nghiệp cũng có sự tham gia của bên thứ ba với tư cách là người làm chứng.
Vì vậy, quy chế sử dụng con dấu của doanh nghiệp cần phải được xác định
rõ ràng và có cơ chế công khai để các đối tác có thể kiểm soát khi tham gia giao kết
giao dịch đối với doanh nghiệp đó.
- Ràng buộc trách nhiệm pháp lý của người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp cũng là một trong những vấn đề pháp lý mà các nhà làm luật cần phải
làm rõ thêm cũng như tạo lập cơ chế pháp lý để đảm bảo tính khả thi trên thực tế.
Về mặt nguyên tắc trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp đã được quy định cụ thể tại Điều 14, Luật doanh nghiệp năm 2014. Nhưng,
bên cạnh đó các quy định của pháp luật cũng đã tạo lập hành lang pháp lý để chủ sở
hữu công ty có thể chủ động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân. Theo
Điều 72, Luật doanh nghiệp năm 2014 quy định về “Khởi kiện người quản lý” và
theo Điều 161, luật doanh nghiệp quy định “Quyền khởi kiện đối với thành viên
Hội đồng quản trị, Giám đốc, Tổng giám đốc”.
Như vậy, có thể khẳng định rằng hành lang pháp lý để từng chủ sở hữu công
ty, bao gồm cả những chủ sở hữu nhỏ nhất, chủ động bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình trong doanh nghiệp đã được các quy định của pháp luật điều chỉnh
rõ ràng. Tuy nhiên vấn đề đặt ra ở đây là cơ chế để có thể bảo vệ được quyền và lợi
ích hợp pháp của chủ sở hữu công ty trên thực tế. Nhìn dưới một giác độ nào đó,
người quản lý doanh nghiệp nói chung hay người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp nói riêng có thể được chia làm 2 nhóm cơ bản sau:
Nhóm thứ nhất: Bao gồm những người vừa là đồng sở hữu chủ của doanh
nghiệp lại vừa là người quản lý và/hoặc người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp. Do cũng là nhà đầu tư vào chính doanh nghiệp mà mình làm người quản lý
và/hoặc người đại diện, đương nhiên những cá nhân này sẽ hành xử một cách tận
tậm, hoàn thành đầy đủ trách nhiệm của bản thân đối doanh nghiệp (theo Điều 14,
Luật doanh nghiệp năm 2014). Thậm chí, khi bị khởi kiện theo nội dung Điều 72
hay Điều 161, Luật doanh nghiệp năm 2014 những thiệt hại do cá nhân người quản

59
lý và/hoặc người đại diện theo pháp luật gây ra cũng dễ dàng được khắc phục bằng
số vốn đã đóng góp của cá nhân này vào doanh nghiệp.
Nhóm thứ hai: Bao gồm những người chỉ làm người quản lý và/hoặc người
đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp một cách thuần tùy mà không tham gia
góp vốn vào doanh nghiệp đó. Đối với nhóm này, cơ chế ràng buộc trách nhiệm
của những cá nhân cần phải được hoàn thiện hơn nữa. Từ quy định của pháp luật
hiện hành cũng như từ thực tế cuộc sống, có thể thấy người quản lý và/hoặc đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp có thể được tuyển dụng bằng một bản hợp
đồng lao động. Theo Điều 14 Luật doanh nghiệp năm 2014 quy định người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp phải: “ thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao
một cách cẩn trọng, trung thực, tốt nhất nhằm đảm bảo lợi ích hợp pháp của doanh
nghiệp; trung thành với lợi ích của doanh nghiệp…”. Tuy nhiên, như thế nào là cẩn
trọng, trung thực và trung thành thì lại chưa được giải thích một cách rõ ràng theo
pháp luật. Do đó, rất khó có thể chứng minh người đại diện có các hành vi nêu trên
để ngăn chặn mà hầu như chỉ phát hiện khi đã có hậu quả xảy ra.
Chính vì vậy, việc xác định nghĩa vụ của những người đại diện theo nhóm
này trong doanh nghiệp cần phải được làm rõ trong hợp đồng lao động, nhằm đảm
bảo quyền và nghĩa vụ hợp pháp của doanh nghiệp thuê người đại diện theo pháp
luật cũng như quyền lợi của bên thứ ba ngay tình khi tham gia giao kết các hợp
đồng, giao dịch thông qua người đại diện theo pháp luật thuộc nhóm này.
Khi nghiên cứu các quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014, còn thấy:
Thành viên hợp danh của công ty hợp danh có một vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng
trong bộ máy tổ chức của công ty hợp danh, bao gồm cả thẩm quyền đại diện cho
doanh nghiệp trong một số tình huống nhất định. Tuy nhiên, thành viên hợp danh
của công ty hợp danh có phải là người đại diện theo pháp luật của công ty hay
không thì hiện vẫn là một câu hỏi chưa có lời giải đáp một cách chính thức.
Cụ thể, theo Khoản 1, Điều 177, Luật doanh nghiệp năm 2014 quy định:
“Tất cả thành viên hợp lại thành Hội đồng thành viên. Hội đồng thành viên bầu một
thành viên hợp danh làm Chủ tịch Hội đồng thành viên, đồng thời kiêm Giám đốc

60
hoặc Tổng giám đốc công ty nếu Điều lệ công ty không có quy định khác”. Trong
khi đó, theo quy định của Khoản 4, Điều 179, Luật doanh nghiệp năm 2014 thì: “Chủ
tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có các nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất: Quản lý và điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty
với tư cách là thành viên hợp danh;
Thứ hai: Triệu tập và tổ chức họp Hội đồng thành viên; ký các nghị quyết
của Hội đồng thành viên;
Thứ ba: Phân công, phối hợp công việc kinh doanh, giữa các thành viên hợp
danh;
Thứ tư: Tổ chức sắp xếp, lưu giữ đầy đủ và trung thực sổ kế toán, hóa đơn,
chứng từ và các tài liệu khác của công ty theo quy định của pháp luật;
Thứ năm: Đại diện cho công ty trong quan hệ với cơ quan nhà nước; đại
diện cho công ty với tư cách là bị đơn hoặc nguyên đơn trong các vụ kiện, tranh
chấp thương mại hoặc các tranh chấp khác;
Thứ sau: Các nghĩa vụ khác do Điều lệ công ty quy định”.
Như vậy, nếu xem xét nội dung của các quy định trên trong tương quan so
sánh với khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được ghi nhận
tại Khoản 1, Điều 13, Luật doanh nghiệp năm 2014, thì thấy rằng cả cá nhân thành
viên hợp danh hay Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
của công ty hợp danh đều không phải là người đại diện theo pháp luật của công ty
hợp danh theo đúng nghĩa của thuật ngữ pháp lý này. Trong số các mẫu Giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp tại Phụ lục IV được ban hành kèm theo Thông tư số
20/2015/TT-BKHĐT ngày 01/12/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn về
đăng ký doanh nghiệp (cụ thể là: doanh nghiệp tư nhân; công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên, bao gồm cả công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do cá
nhân làm chủ sở hữu và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do tổ chức
làm chủ sở hữu; công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; công ty cổ
phần; công ty hợp danh), chúng ta thấy duy nhất công ty hợp danh không mục để

61
ghi nội dung “người đại diện theo pháp luật” của doanh nghiệp. Đây chính là nội
dung mà các nhà làm luật cần khẩn trương điều chỉnh và làm rõ.
3.2.2. Bổ sung, hướng dẫn thêm một số vấn đề còn nhiều cách hiểu khác nhau
Khi đề cập tới những “người quản lý doanh nghiệp”, theo Khoản 18, Điều 4,
Luật doanh nghiệp năm 2014, đã thừa nhận và liệt kê một loạt các chức danh như:
Giám đốc (Tổng giám đốc), Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng quản
trị, Chủ tịch công ty... Tuy nhiên, trên thực tế chúng ta thấy ngoài những chức danh
mang tính chính thống kể trên, trong cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của nhiều
doanh nghiệp còn xuất hiện rất nhiều các chức danh quản lý và/hoặc đại diện theo
pháp luật cho doanh nghiệp khác. Theo khoản Khoản 18, Điều 4, Luật Doanh
nghiệp năm 2014, quy định: “cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền
nhân danh công ty ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty”.
Đây chính là cơ sở pháp lý cho việc định ra các chức danh có phần đặc biệt này.
Với nội dung bao trùm lên tất cả các khía cạnh mang tính chất quan trọng
đối với một doanh nghiệp cùng với cách thức ưu tiên sự thỏa thuận của các đồng sở
hữu chủ của công ty (bằng cách sử dụng tương đối thường xuyên cụm từ trừ
“trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác” hoặc “theo quy định tại Điều lệ
công ty”), chúng ta thấy điều lệ đóng vai trò quan trọng và nó như một bản “hiến
pháp” của doanh nghiệp. Do vậy, chúng ta có thể khẳng định chắc chắn rằng việc
đặt ra các chức danh quản lý và/hoặc đại diện cho pháp luật của doanh nghiệp vượt
qua ngoài khuôn khổ các chức danh được liệt kê tại Khoản 18, Điều 4, Luật Doanh
nghiệp năm 2014 là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Các
chức danh có phần “đặc biệt” này là:
- Giám đốc điều hành: Tùy từng trường hợp cụ thể mà chức danh này được
phiên dịch ra tiếng Anh bằng cái tên Managing Director hoặc CEO (viết tắt của
Chief Executive Officer)... Qua thực tế chúng tôi thấy Giám đốc điều hành có thể
kiêm Chủ tịch công ty, Chủ tịch Hội đồng quản trị (vừa là người quản lý và/hoặc
người đại diện theo pháp luật và cũng là đồng sở hữu chủ của công ty)... hoặc đơn
thuần chỉ là người thực hiện công việc kinh doanh hàng ngày của công ty mà thôi

62
(chỉ đóng vai trò là người quản lý và/hoặc đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
một cách đơn thuần). Nhìn chung, giám đốc điều hành sẽ có nhiệm vụ điều hành
toàn bộ hoạt động của công ty và chịu trách nhiệm cá nhân trước những chủ sở hữu
của công ty đó.
- Giám đốc theo mảng việc: Chức danh quản lý và/hoặc đại diện theo pháp
luật của công ty theo mô hình này được phân công, phân nhiệm trên cơ sở mà cá
nhân đó phụ trách và hoàn toàn phụ thuộc vào ngành, nghề kinh doanh của doanh
nghiệp. Đối với mô hình tổ chức kiểu này, chúng ta thấy có một số chức danh như
sau: giám đốc kinh doanh (Chief business development officer), giám đốc tài chính
(Chief financial officer), giám đốc nhân sự (Chief personnel officer), giám đốc tiếp
thị (Chief marketing officer)... Theo quan điểm của cá nhân người viết, khi xây
dựng hệ thống những chức danh quản lý và/hoặc đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp như trên, Điều lệ doanh nghiệp phải phân định rõ thẩm quyền theo mảng
việc cụ thể của từng chức danh.
- Giám đốc nhãn hàng: Chức danh quản lý và/hoặc đại diện theo pháp luật ở
mô hình này thường xuất hiện tại các doanh nghiệp sở hữu nhiều nhãn hàng khác
nhau và từng nhãn hàng sẽ được hạch toán tài chính một cách độc lập, riêng rẽ.
Theo cách thức quản lý này, mỗi cá nhân sẽ là người quản lý và/hoặc đại diện theo
pháp luật cho doanh nghiệp trong tất cả các giao dịch có liên quan đến nhãn hàng
đó trên tất cả mọi phương diện từ chiến lược phát triển, tài chính, công nghệ, địa
điểm kinh doanh... cho đến tiếp thị, nhân sự.
- Giám đốc khu vực: Chúng ta còn có thể bắt gặp những mô hình tổ chức
công ty đưa ra các chức danh quản lý và/hoặc đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp theo khu vực địa lý. Tuy vào quy mô của từng doanh nghiệp mà các giám
đốc này sẽ có thể là Giám đốc khu vực phía Bắc, Giám đốc khu vực miền Trung và
Giám đốc khu vực phía Nam. Nhìn chung, các chức danh kể trên sẽ có toàn quyền
nhân danh và thay mặt doanh nghiệp quyết định mọi vấn đề có liên quan đến hoạt
động của doanh nghiệp tại khu vực địa lý mà mình đảm trách. Tất nhiên, trong

63
trường hợp này việc phân định rõ “địa giới hành chính” của từng khu vực là điều
vô cùng quan trọng.
Tuy nhiên, do chúng ta chưa chuẩn hóa được trách nhiệm cũng như quyền,
nghĩa vụ của tất cả các loại chức danh quản lý và/hoặc đại diện theo pháp luật cho
doanh nghiệp nên trên thực tế, việc kiểm tra, xác minh thẩm quyền đại diện của
từng chức danh này vẫn còn chưa rõ ràng và hoàn toàn phụ thuộc vào nội dung
Điều lệ công ty của doanh nghiệp đó.
Hiện nay, đa phần các doanh nghiệp đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam
đều là những doanh nghiệp ở quy mô nhỏ và vừa nhưng chúng ta lại chưa xây dựng
được cơ chế pháp lý dành riêng cho người quản lý và/hoặc đại diện theo pháp luật
dành riêng cho loại hình doanh nghiệp này.
Ví dụ: Giả thiết 2 vợ chồng Ông Nguyễn Văn A và vợ là Bà Nguyễn Thị B
cùng là thành viên sáng lập của Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
X, trong đó Ông Nguyễn Văn A sở hữu 60% vốn góp và Bà Nguyễn Thị B sở hữu
40% vốn góp. Theo Điều lệ và Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Ông
Nguyễn Văn A là người đại diện theo pháp luật của Công ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên X. Nay Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên X
chuẩn bị bán một chiếc xe ôtô thuộc quyền sở hữu hợp pháp của công ty cho anh
Nguyễn Văn C là con trai của vợ chồng Ông Nguyễn Văn A và vợ là Bà Nguyễn
Thị B. Do lúc này anh Nguyễn Văn C thuộc diện “người có liên quan” nên “Hợp
đồng, giao dịch phải được Hội đồng thành viên chấp thuận” đương nhiên sẽ được
áp dụng. Rõ ràng, trong giả thiết nêu trên, chúng ta không thể xác định được “tổng
số vốn có quyền biểu quyết”. Đối với loại hình doanh nghiệp tư nhân cũng xảy ra
tình trạng tương tự.
Theo nội dung Khoản 2, Điều 36, Luật doanh nghiệp năm 2014 thì “Tài sản
được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân không phải
làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp”. Tuy nhiên, nếu như trong
trường hợp cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân muốn chuyển quyền sở hữu tài sản
của mình sang cho doanh nghiệp tư nhân do mình làm chủ, phương án giải quyết

64
trong tình huống kể trên dường như chưa được các nhà làm luật dự liệu, bởi lẽ về
mặt nguyên tắc theo Khoản 3, Điều 141, Bộ luật dân sự năm 2015 “Một cá nhân,
pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng
không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Rõ ràng, đây là những vấn đề pháp lý
cần hướng dẫn một cách cụ thể, chi tiết trong thời gian tới.
3.2.3. Xây dựng cơ sở pháp lý cũng như hạ tầng kỹ thuật nhằm bảo đảm các
quy định hiện hành của pháp luật có thể áp dụng một cách thuận tiện trên thực tế
Thứ nhất: Nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở pháp lý có liên
quan đến đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo các nội dung đã nêu và phân
tích ở trên. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện bổ sung một số điểm còn thiếu, chưa được
làm rõ và đề cập sâu trong Luật doanh nghiệp, cụ thể như:
- Xác định rõ quyền sở hữu đối với tài sản đưa vào kinh doanh trong tương
quan so sánh với tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng từ đó xác định
vai trò của người đại diện
Mặc dù Điều 25 và Điều 36 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã xác
định đại diện vợ, chồng trong hoạt động kinh doanh, nhưng tuy nhiên quyền tự
quyết và tự chịu trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh bằng tài sản đưa vào kinh
doanh của vợ và chồng vẫn chưa thể minh bạch, rõ ràng. Nhìn dưới góc độ pháp
luật doanh nghiệp, dường như các nhà làm luật cũng không xây dựng được một cơ
chế minh bách để tách bạch giữa tài sản của doanh nghiệp và tài sản của cá nhân.
Theo Khoản 13, Điều 4, Luật doanh nghiệp qui định: “Góp vốn là việc góp
tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành
lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập”.
Trong khi đó, trình tự, thủ tục “Chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn” được ghi
nhận tại Điều 35, Luật doanh nghiệp năm 2014, theo đó “Tài sản được sử dụng vào
hoạt động kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân không phải làm thủ tục chuyển
quyền sở hữu cho doanh nghiệp”.

65
Như vậy rõ ràng tình trạng pháp lý đối với tài sản của doanh nghiệp và cá
nhân không được phân định một cách rõ ràng trong nhiều trường hợp. Để khắc
phục tình trạng mập mờ như hiện nay, chúng ta cần phải đưa ra tiêu chí để phân
biệt giữa tài sản của doanh nghiệp và tài sản của cá nhân, nhất là cá nhân đã có vợ
hoặc chồng. Từ kinh nghiệm công tác thực tế của bản thân với tư cách công chứng
viên, việc khẳng định tài sản đưa vào kinh doanh là tài sản riêng của một cá nhân là
điều cần thiết. Cá nhân đứng tên chủ sở hữu đối với tài sản đưa vào kinh doanh sẽ
có toàn quyền sử dụng, định đoạt… khối tài sản đó. Cách thức này tạo lập cơ chế
minh bạch để cá nhân có thể tự do thực hiện mọi quyền với tư cách là chủ sở hữu
tài sản đưa vào kinh doanh cũng như nhằm minh bạch hóa tình trạng pháp lý của tài
sản từ đó xác định và minh bạch trong việc lựa chọn người đại diện.
Ngoài ra, theo quy định tại khoản 3 Điều 24 Luật Hôn nhân gia đình 2014
thì “vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên
kia có đủ điều kiện làm giám hộ”. Như vậy, nếu trường hợp vợ/ chồng là chủ doanh
nghiệp tư nhân, công ty TNHH một thành viên do cá nhân làm chủ bị mất/ hạn chế
năng lực hành vi dân sự thì việc vợ đại diện cho chồng có được chính thức coi là
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hay không? Đây cũng là vấn đề mà
pháp luật cần có hướng dẫn cụ thể, tránh dẫn đến tình trạng không xác định rõ được
thẩm quyền của người đại diện trong trường hợp này.
- Mở rộng theo hướng đối đa hóa thẩm quyền của người đại diện theo pháp
luật cho doanh nghiệp
Hiện nay vấn đề xác định thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp đang được quy định một cách chưa thật sự rõ ràng, mạch lạc. Trong
cả 2 cách thức xác định thẩm quyền đại diện dựa trên giá trị của giao dịch hay căn
cứ vào chủ thể giao kết giao dịch, đối tác của pháp nhân hay doanh nghiệp đều phải
dựa vào những thông tin do pháp nhân hay doanh nghiệp đó cung cấp. Tuy nhiên,
nếu xác định không đúng người đại diện cũng như thẩm quyền đại diện, khả năng
chịu rủi ro trở nên hiện hữu hơn bao giờ hết.

66
Nhìn một cách tổng thể, trong cả trường hợp không có thẩm quyền đại diện
hoặc giao kết, thực hiện giao dịch vượt quá phạm vi thẩm quyền đại diện, dường
như quyền và lợi ích hợp pháp của pháp nhân và/hoặc doanh nghiệp phụ thuộc rất
nhiều vào ý chí chủ quan của phía đối tác. Do vậy, để giảm thiểu thủ tục hành
chính, giảm thiểu rủi ro khi xác lập, thực hiện giao dịch với pháp nhân và/hoặc
doanh nghiệp, chúng ta nên khẳng định người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp phải là người có toàn quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến xác lập,
thực hiện giao dịch nhân danh doanh nghiệp đó (phải có cơ chế giám sát quyền lực
của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp sẽ thuộc về những đồng sở hữu
của doanh nghiệp đó).
Trong trường hợp doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật, tất
nhiên ứng với từng chức danh cụ thể sẽ là thẩm quyền đại diện cho doanh nghiệp
xác lập, thực hiện những loại giao dịch nhất định còn mức độ, tính chất… của giao
dịch đó đương nhiên sẽ do cá nhân người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
toàn quyền quyết định. Chính vì vậy, việc chuẩn hóa bộ máy tổ chức cũng như từng
chức danh quản lý và/hoặc đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đối với mỗi
loại hình doanh nghiệp là điều vô cùng cần thiết.
- Mở rộng phạm vi áp dụng án lệ có liên quan đến người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng
Tại thời điểm hiện tại, án lệ đã chính thức trở thành một căn cứ pháp lý
trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân các cấp. Đây là một căn cứ vô cùng
quan trọng để các thẩm phán có thể thực hiện công tác xét xử một cách công tâm,
chính xác hơn do các án lệ này thường xuất phát từ thực tiễn, gắn liền với thực tế
cuộc sống. Tuy nhiên, căn cứ vào nội dung những quy định của pháp luật, chúng ta
thấy án lệ chỉ được áp dụng trong xét xử chứ không được sử dụng trong khi xác
lập, thực hiện giao dịch. Như vậy, nếu như chúng ta xây dựng được cơ chế cho
phép vận dụng án lệ trong khi giao kết, thực hiện giao dịch sẽ giảm thiểu được
tranh chấp cũng như nâng cao tính khả khi của giao dịch đó.

67
Thứ hai: Xây dựng cơ sở hạ tầng, kỹ thuật đảm bảo cho việc áp dụng các qui
định về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Xây dựng hệ thống cơ sở hạn tầng, kỹ thuật phải đảm bảo sự thống nhất,
đồng bộ ngay từ khâu hoàn thiện bổ sung các quy định của pháp luật cho đến các
khâu như tuyên truyền phố biến pháp luật nâng cao nhận thức cho người dân,
những người làm đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và doanh nghiệp. Từ đó
sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn trong thực hiện các qui định pháp luật về đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp và góp phần thực hiện nghiêm túc pháp luật ở nước ta.
Quá trình này cần phải tiến hành các công việc sau:
-Tiến hành thường xuyên công tác tuyên truyền, giáo dục phổ biến pháp luật
- Thường xuyên tiến hành các hoạt động thanh tra giám sát việc thực hiện
các qui định pháp luật về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
- Nâng cao chất lượng, tiêu chuẩn của người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp
Khi đề cập đến đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nói chung hay cá
nhân người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nói riêng, chúng ta chưa thấy
có văn bản nào qui định nào về tiêu chuẩn đối với đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp. Chính vì thế, để đảm bảo cho việc thực hiện các qui định pháp luật
về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được tốt thì đòi hỏi phải có những qui
định rõ ràng về tiêu chuẩn đối với đại diện.
Theo Khoản 3, Điều 134, Bộ luật dân sự năm 2015 qui định “Trường hợp
pháp luật quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực
hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện”. Qua qui định
này chúng ta thấy người đại diện theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân không thể là
pháp nhân. Vì vậy, các cá nhân này phải đảm bảo các qui định về năng lực hành vi
dân sự của Bộ luật dân sự năm 2015.
Bên cạnh đó, hiện theo qui định của một số luật chuyên ngành, như: Luật
Cán bộ, công chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2010, Luật Quân nhân chuyên
nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng năm 2015, Luật Sĩ quan Quân đội nhân

68
dân Việt Nam năm 2014, Luật Công an nhân dân năm 2015 thì có những cá nhân tuy
có đủ năng lực hành vi dân sự nhưng không thể trở thành người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp. Cụ thể:
Thứ nhất: Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà
nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;
Thứ hai: Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán
bộ, công chức, viên chức;
Thứ ba: Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức
quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan
chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ
những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà
nước tại doanh nghiệp;
Thứ tư: Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước,
trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của
Nhà nước tại doanh nghiệp khác.
Hiện nay rất nhiều đạo luật chuyên ngành khác cũng sử dụng mô hình bộ máy
tổ chức, cơ chế vận hành của doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp vào trong lĩnh
vực của mình nên dường như, người đại diện theo pháp luật của những doanh nghiệp
này lại phải thỏa mãn thêm một số điều kiện bổ sung mang tính đặc thù của ngành
nghề đó.
Ví dụ: Theo Điều 50, Luật tín dụng năm 2010 qui định: “Tiêu chuẩn, điều kiện
đối với người quản lý, người điều hành và một số chức danh khác của tổ chức tín
dụng”. Chúng ta có thể thấy theo Luật tín dụng, không chỉ xác định tiêu chuẩn, điều
kiện cho cá nhân người đại diện theo pháp luật của tổ chức tín dụng mà còn đưa ra tiêu
chuẩn đối với một số chức danh có vai trò, vị trí quan trọng trong tổ chức tín dụng đó.
Tuy nhiên chúng ta có thể thấy cần phải xây dựng đại điện theo pháp luật của
doanh nghiệp có những tiêu chuẩn sau:
+ Có một số kỹ năng, trình độ, chức danh nhất định trong một số trường hợp
xác định

69
Mặc dù đã có một số luật chuyên ngành qui định một số tiêu chuẩn đối với
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Tuy nhiên các qui định này chưa
mang tính khái quát và phổ cập, vẫn chỉ dừng lại ở chuyên ngành, phạm vi lĩnh
vực, như:
Theo Khoản 2, Điều 22, Luật công chứng năm 2014 qui định “Người đại diện
theo pháp luật của Văn phòng công chứng là Trưởng văn phòng. Trưởng văn phòng
công chứng phải là công chứng viên hợp danh của Văn phòng công chứng và đã hành
nghề công chứng từ 02 năm trở lên”.
Theo Điều 13, Luật phá sản năm 2014 quy định: “Công ty hợp danh có tối
thiểu hai thành viên hợp danh là Quản tài viên, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc của
công ty hợp danh là Quản tài viên; Doanh nghiệp tư nhân có chủ doanh nghiệp là
Quản tài viên, đồng thời là Giám đốc”.
Theo Điều 23, Luật đấu giá tài sản năm 2016 quy định: “Doanh nghiệp đấu
giá tư nhân có chủ doanh nghiệp là đấu giá viên, đồng thời là Giám đốc doanh
nghiệp”.
Như vậy, để có thể trở thành người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
đòi hỏi người đại diện phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và phải có kinh
nghiệm công tác, kỹ năng công việc chuyên nghiệp. Đặc biệt là trong giai đoạn
hiện nay khi nước ta gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới, các doanh nghiệp của
nước ta bắt đầu vươn tầm ra khu vực và châu lục, thì đòi hỏi này là cấp bách hơn
lúc nào hết.
+ Cư trú tại một địa phương nhất định
Cho đến thời điểm hiện nay, Luật doanh nghiệp chưa có quy định cụ thể về
nơi cư trú của đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Tuy nhiên bên cạnh đó tại
một số luật cũng đã đề cập đến nơi cư trú của đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp. Đây cũng là một tiêu chuẩn mang tính bổ trợ đối với người đại diện theo
pháp luật của một số doanh nghiệp.
Ví dụ: Theo Khoản 1, Điều 4, Thông tư số 06/2015/TT-BTP ngày
15/06/2015 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều

70
của Luật công chứng nêu rõ: “Tổ chức hành nghề công chứng nộp trực tiếp hoặc
gửi qua hệ thống bưu chính 01 bộ hồ sơ đăng ký hành nghề và cấp Thẻ công chứng
viên cho công chứng viên của tổ chức mình đến Sở Tư pháp nơi tổ chức hành nghề
công chứng đăng ký hoạt động.
Hồ sơ bao gồm các giấy tờ sau đây:…… “Giấy tờ chứng minh nơi cư trú của
công chứng viên tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi tổ chức hành nghề
công chứng có trụ sở”.
Như vậy, có thể khẳng định việc qui nơi cư trú của đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp là cần thiết. Nơi cư trú của đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp được xác định theo Luật cư trú dưới 2 hình thức: Thường trú hoặc tạm trú.
+ Được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép
Hoạt động đại diện doanh nghiệp theo pháp luật là hoạt động phức tạp, đòi
hỏi nhiều các tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, khả năng công việc... chính vì
thế, để hoạt động đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được thuận lợi, nên
chăng phải có những qui định tiêu chí cụ thể để cơ quan có thẩm quyền cấp phép và
thực hiện việc quản lý, giám sát nhằm đảm bảo hoạt động bình thường của đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp.
Ngoài ra đứng trước xu thế hội nhập, những doanh nghiệp nước ngoài vào
Việt Nam đầu tư, hoạt động kéo theo đó là những đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp là người nước ngoài và ngược lại. Nếu buông lỏng khâu quản lý chất lượng
tiêu chuẩn của người đại diện sẽ dễ phát sinh những mâu thuẫn, tranh chấp, bất cập
và phù hợp với các quy định pháp luật khác của Việt Nam và luật pháp quốc tế.
Theo Điều 169, Bộ luật lao động năm 2012 quy định: “Lao động là công dân
nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam phải có đủ các điều kiện sau đây:
Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
Có trình độ chuyên môn, tay nghề và sức khỏe phù hợp với yêu cầu công
việc;
Không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài;

71
Có giấy phép lao động do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam
cấp, trừ các trường hợp theo quy định tại Điều 172 của Bộ luật này”.
Như vậy, rõ ràng để có thể trở thành người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp, ngoài việc đáp ứng được các tiêu chuẩn mang tính nguyên tắc được
ghi nhận tại Bộ luật dân sự năm 2015, Luật doanh nghiệp năm 2014 thì đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp phải đáp ứng được các yêu cầu tiêu chí cụ thể đối
với từng ngành nghề và từng lĩnh vực cụ thể. Bộ luật dân sự năm 2015, Luật doanh
nghiệp năm 2014 cũng nên bổ sung thêm các quy định cụ thể về tiêu chí đối với
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Kết luận chƣơng 3

Nhìn một cách tổng thể, thẩm quyền người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp sẽ có thể được chia làm 3 loại cơ bản là: đại diện có thẩm quyền tuyệt đối
trực tiếp, đại diện có thẩm quyền tuyết đối gián tiếp và đại diện có thẩm quyền hạn
chế. Suy cho cùng, thẩm quyền đại diện kể trên được xác định bởi số vốn mà chủ sở
hữu doanh nghiệp đóng góp hoặc dựa trên mô hình tổ chức của doanh nghiệp đó
cũng như tư cách của thành viên đó trong doanh nghiệp;
- Về mặt nguyên tắc, để xác định đúng thẩm quyền đối với người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp, nhất là đối với đại diện có thẩm quyền hạn chế,
các nhà làm luật doanh nghiệp xây dựng 2 cách thức xác định thẩm quyền riêng
biệt. Cách thức thứ nhất là xác định thẩm quyền dựa trên giá trị giao dịch dự định
giao kết trong khi cách xác định thẩm quyền thứ hai là xác định căn cứ vào chủ thể
tham gia xác lập giao dịch với doanh nghiệp. Tuy nhiên, ngay cả với việc xác định
thẩm quyền của đại diện có thẩm quyền tuyệt đối trực tiếp cũng chưa bao giờ là
một công việc đơn giản.

72
KẾT LUẬN

Cùng với nhu cầu phát triển của doanh nghiệp, hiện nay vai trò của đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp được chú ý và quan tâm chú ý hơn. Mặc dù Bộ
luật dân sự năm 2015 và Luật doanh nghiệp năm 2014 đã có nhiều chỉnh sửa bổ
sung và đưa thêm nhưng quy định về người đại diện, người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp nhiều hơn, cụ thể hơn nhưng khi nghiên cứu sâu và thực hiện còn
nhiều vấn đề bất cập chưa hợp lý.
Nhận thức được vấn đề đó luận văn đã đi sâu vào tập trung nghiên cứu các
vấn đề lý luận về đại diện, như: khái niệm đại diện, các hình thức đại diện, đặc
điểm pháp lý của đại diện. Nghiên cứu các vấn đề lý luận về đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp như: khái niệm đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, đặc
điểm của đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, các hình thức đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp. Đồng thời luận văn nghiên cứu thực tiễn những quy
định pháp luật về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp (phần này luận văn đi
sâu vào tìm hiểu những vấn đề bất cập) và thực tiễn thực hiện các quy định của
pháp luật về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Từ những vấn đề lý luận và
thực tiễn, luận văn đã kết hợp với xu thế phát triển để đưa ra những phương hướng
và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả, vai trò của đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp.
Tuy nhiên, do bản thân vẫn còn nhiều hạn chế trong công tác nghiên cứu khoa
học và kinh nghiệm thực tiễn, nên luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. học
viên rất mong nhận được sự tham gia, đóng góp ý kiến của các nhà khoa học để luận
văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Kế hoạch đầu tư (2015), “Thông tư số 20/2015/TT-BKHĐT ngày


01/12/2015, hướng dẫn về đăng ký doanh nghiệp”, Hà Nội.
2. Chính phủ (2007), “Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày 15/2/2007 quy
định chi tiết thi hành Luật giao dịch điện tử”, Hà Nội.
3. Chính phủ (2016), “Nghị định số 99/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 về quản
lý và sử dụng con dấu”, Hà Nội.
4. Nguyễn Văn Dương (2015), “Quy định mới về người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp”, Webside Luật Dương Gia.
5. Nguyễn Thị Hạnh (2012), “Đại diện giữa vợ và chông theo qui định của
pháp luật Việt Nam hiện hành”, Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Nguyễn Thị Thanh (2017), “Người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 và luật doanh nghiệp 2014”,
Trường Đại Học Vinh.
7. Nguyễn Văn Thắng (2007), “ Đại diện theo pháp luật trong Luật doanh
nghiệp 2005”, Đại Học Quốc gia Hà Nội.
8. Trần Thị Hường (2014), “Đại diện theo ủy quyền của đương sự trong Tố
tụng dân sự Việt Nam”, Đại học Quốc gia Hà Nội.
9. Trần Văn Phương (2017), “Vai trò của người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp”, Tạp chí Luật sư số 3 năm 2017.
10. Phạm Lâm Hải Nguyên (2014), “Chế định người đại diện của doanh
nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam”, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh.
11. Quốc Hội (2005), Luật giao dịch điện tử, Hà Nội.
12. Quốc Hội (2010), Luật tín dụng, Hà Nội.
13. Quốc Hội (2010), Luật tín dụng, Hà Nội.
14. Quốc Hội (2012), Luật lao động, Hà Nội.
15. Quốc Hội (2014), Luật doanh nghiệp, Hà Nội.

74
16. Quốc Hội (2014), Luật căn cước công dân, Hà Nội.
17. Quốc Hội (2014), Luật công chứng, Hà Nội.
18. Quốc Hội (2014), Luật phá sản, Hà Nội.
19. Quốc Hội (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
20. Quốc Hội (2016), Luật đấu giá tài sản, Hà Nội.

75

You might also like