You are on page 1of 7

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 22 (47) - Thaùng 11/2016

Buồn nôn - Tuyên ngôn hiện sinh của Jean-Paul Sartre


Nausea – An existential declaration by Jean-Paul Sartre

NCS. Trần Thị Thảo


Trường Đại học Tài chính - Marketing

Tran Thi Thao, Ph.D. student.


University of Finance - Marketing

Tóm tắt
Jean-Paul Sartre là đại biểu tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh. Với tác phẩm đầu tay Buồn nôn, được viết
trên phương pháp mô tả hiện tượng học: tất cả cố gắng của Roquentin - nhân vật chính - nhằm xoáy sâu
cái nhìn, xuyên thủng qua những lần vỏ ngoài bao bọc, để đạt đến tri kiến đích thực về bản chất của
thực tại. Sự vật hiện hữu. Sự hiện hữu ấy mang tính chất lầm lì, dày đặc, bất khả giải ngộ và ngẫu nhiên.
Chính cái tính cách bất tất (contingence) của sự vật là chất men gợi dậy cơn Buồn nôn. Ông cho tận
cùng của cơn Buồn nôn ấy, con nguời đảm nhận lấy Tự do trong trách nhiệm để tự thể hiện vận mệnh
cuộc đời mình. Có thể nói rằng Buồn nôn là hồng tâm tư tưởng, là tuyên ngôn của Jean-Paul Sartre về
hiện sinh.
Từ khóa: Jean-Paul Sartre, “Buồn nôn”, chủ nghĩa hiện sinh.
Abstract
Jean-Paul Sartre is a notable representative philosopher of existentialism. His first work, “Nausea”, was
written using the the phenomenological method. All efforts of Roquentin, the protagonist, aim at
targeting the viewpoint penetrating the sequence of shells in order to achieve the true knowledge of the
nature of reality, the existing nature. This existence has the characteristics of taciturn, dense, impossible
realization and random. It is the contingence of the nature that makes nausea. Sartre believes that, at the
core layer of the Nausea, people with their responsibility will take Liberty to express their own destiny.
It can be said that “Nausea” is a bull ideological manifesto of Jean-Paul Sartre about existentialism.
Keywords: Jean-Paul Sartre, “Nausea”, existentialism.

1. Mở đầu hoảng của nền khoa học, bất lực của nó với
Chủ nghĩa hiện sinh được khởi tạo từ các vấn đề thế giới quan, các vấn đề về ý
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và nở rộ ở nghĩa sự tồn tại con người.
châu Âu từ sau thế chiến lần thứ hai. Đây Sự xuất hiện của Sartre đã làm cho chủ
là một triết thuyết đậm chất phản tư của nghĩa hiện sinh mang màu sắc mới bởi triết
giới trí thức tư sản và tiểu tư sản với sự tha lý hiện sinh của ông ẩn nấp dưới nhiều
hóa của xã hội, tha hóa của lao động và đối hình thức truyền tải. Ông là nhà văn, là nhà
với mặt trái của các thành tựu của khoa học triết học - một trong những nhân vật nòng
kỹ thuật trong xã hội tư bản cuối thế kỷ cốt trong hệ thống triết học hiện sinh, cũng
XIX đầu thế kỷ XX, phản ánh sự khủng là một trong những nhân vật có ảnh hưởng

125
lớn trong nền triết học Pháp thế kỷ XX. nausea). Dần dần anh ta nhận thức được
Jean-Paul Sartre có một hệ thống các tác rằng con người là một hiện thực ngẫu
phẩm khá phong phú từ tiểu thuyết, kịch, nhiên, không có ý nghĩa và giá trị gì cả,
đến khảo luận. Các tác phẩm cùng những không cần thiết và không có cả lý do tồn
hoạt động sôi nổi trong cuộc đời ông đã có tại, nó cũng như những sự vật khác tồn tại
một tác động sâu rộng trong đời sống xã lỳ lỳ, vô nghĩa.
hội Pháp thập niên 1950 – 1960, khiến ông Sự dư thừa, phi lý của cuộc sống con
trở thành thần tượng của thanh niên Pháp người – nguồn cơn của sự “buồn nôn”:
một thời. Trong các tác phẩm của ông thì Theo Sartre, người sinh ra, thì cả hữu
cuốn Buồn nôn (1938) là một trong những thể vật và hữu thể người đều ở trạng thái
tác phẩm đáng chú ý nhất của Sartre. Đây “hiện hữu thô sơ”, người chẳng khác nào cái
được coi là bản Tuyên ngôn của Jean-Paul cây, ngọn cỏ, tĩnh tại và cố định, bất biến,
Sartre về chủ nghĩa hiện hiện sinh. im lìm và vô nghĩa. Loại hữu thể này là một
Cuốn tiểu thuyết “Buồn nôn” của thể nhầy nhụa, đông đặc trơ trơ gây nên cảm
Jean-Paul Sartre chính là một trong những giác buồn nôn. Điều này được Sartre lột tả
cách viết thành công của thể loại tiểu qua hình ảnh của cây dẽ gai, cái dây đeo
thuyết triết lý. Tác phẩm được viết dưới quần của chàng Adolphe và cả cuộc sống
hình thức một cuốn nhật kí của Antoine thường nhật của nàng Anny nữa, tất cả đều
Roquentin. Roquentin là một thanh niên trí “mang vẻ lỳ lỳ” và đáng buồn nôn:
thức đơn độc chẳng hề bị ràng buộc bởi Khi ở trong công viên sau một ngày
bạn bè, gia đình và ngay cả với công việc. mệt mỏi chàng Roquentin phóng cái nhìn
Chàng sống một mình, hoàn toàn một chán nản và mệt mỏi trên một cái rễ cây
mình, ngoại trừ chàng có biết đến bà chủ ngay dưới chân, chiếc rễ to bò trên mặt đất
quán “Rendez-vous des Cheminots” (Nơi như một con rắn. Roquentin không ngừng
hẹn các nhân viên đường sắt) Francoise, gắn cho rễ cây những loại “hiện hữu”
anh chàng Tự Học ở thư viện thành phố… nhưng cuối cùng chàng nhận ra điều đó là
Trong truyện này, điều chủ yếu không phải bất lực bởi lẽ nó ở đó, mang vẻ trơ trơ, lỳ
là cốt truyện hành động của nhân vật mà là lỳ như vẻ vốn có của nó. “Tôi nhìn chăm
những phản ứng của Roquentin trước mọi chú cái rễ cây: nó đen dữ hay chỉ hơi đen?
hiện tượng của cuộc sống. Song chẳng mấy chốc tôi đã ngừng tra vấn
2. Nội dung mình vì có cảm tưởng tôi đang ở địa giới
2.1. Triết lý hiện sinh trong tác phẩm của tri thức. Vâng với lòng đầy lo âu tôi đã
Buồn nôn của Jean-Paul Sartre dò xét những sự vật bất khả định danh…
Là tác phẩm đầu tay được viết dưới và tôi đã cảm nhận được những phẩm chất
hình thức tiểu thuyết nhưng Buồn nôn được của chúng, lạnh lẽo, trơ lì và lướt trượt qua
xem là tuyên ngôn của Jean-Paul Sartre về những kẽ tay tôi” [5,tr. 239].
hiện sinh, J.P.Sartre đã dùng phương pháp Một hôm chàng Roquentin vào tiệm
hiện tượng học để chứng minh rằng đời café để gặp nàng Anny nhưng nàng không
sống của con người thì không có mục đích. có ở tiệm, chỉ có chàng Adolphe thay nàng.
Antoine Roquentin – nhân vật chính trong Chàng cụt hứng, nhọc mệt ngồi xuống
tác phẩm đã khám phá ra quá nhiều sự ghê cạnh quầy café và gọi một ly rượu mạnh:
tởm của thế giới chung quanh. Anh ta và vừa nhấp vừa nhìn vẩn vơ vô dịnh. Sau
sự cô đơn của anh đã dẫn tới nhiều kinh cùng chàng để ý nhìn thấy chiếc dây đeo
nghiệm về buồn nôn tâm lý (psychological quần của Aldophe. Nhìn hồi lâu, nhìn cho

126
đến khi chán ngán vì sự vô nghĩa của cái không phải là hiện sinh trung thực. Chính
màu hoa cà trên chiếc sơ mi xanh da trời vì vậy, triết gia đã xếp những con người có
của Aldophe: “Y chỉ mặc sơ mi với những lối sống giống như nàng Anny vào hàng sự
dây treo màu hoa cà… những chiếc dây vật. Nàng Anny bị coi như một sự vật, vì
treo hơi khó nhận ra trên nền áo sơ mi xanh nàng sống mà không hề có một ý thức nào
da trời, chúng hoàn toàn bị xóa nhòa, bị cả về cuộc sống của chính mình.
che lấp trong màu xanh, nhưng nó là một Tóm lại, buồn nôn là cảm giác khó
sự khiêm tốn giả mạo: thực ra chúng không chịu không thể giải thích được của con
để cho người ta quên chúng… người ta người trước sự tồn tại của thế giới chung
muốn bảo chúng: đi, đi hãy trở thành màu quanh. Đó không phải là tồn tại người,
tím… nhưng không chúng vẫn lửng lơ, vẫn người đích thực phải là một cái gì đó
bị gắn chặt vào trong nỗi cố gắng bất thành “được lấp đầy” không ngưng nghỉ.
của mình” [5,tr. 43]. Những trang viết này của Sartre cũng
Anny là một cô chiêu đãi viên trong là điểm khởi đầu cho tư tưởng sau này của
tiệm café Roquentin hay lui tới, chẳng lẳng ông về Hữu thể và vô thể. Thể hiện rất rõ
lơ cũng chẳng khuê các, nàng khoác lên trong tác phẩm “L’eetre et le néant” (Hữu
mình chiếc áo “lối sống thời thượng”. thể và vô thể) của ông. Trải nghiệm này
Thân hình tràn đầy sức sống mơn mởn và cũng đầy chất suy tư mang đậm triết lý
tâm lý nàng cũng hồn nhiên như cỏ cây: hiện sinh mà sau này ông đã khái quát
không bị bất cứ một luân lý nào về mặt trong châm ngôn hiện sinh bất hủ: “Tồn tại
đạo đức chi phối, nàng “làm tình” như có trước yếu tính”. Như vậy, hiện hữu
uống một ly rượu không chút suy nghĩ về Người thực sự phải như thế nào, làm thế
hành động đó. Nàng sống trong hiện tại, nào để con người thoát ra khỏi cảnh huống
không quan tâm đến tương lai, và điềm trơ lỳ đến buồn nôn như hiện hữu vật? Đó
nhiên không bao giờ đếm xỉa đến cuộc là con người phải tự kiến tạo nên chính bản
nhân sinh, nàng sống chỉ để sống và tồn tại thân mình.
kiểu: ăn, ngủ, đi làm kiếm tiền mua sắm, 2.2. Hiện hữu Người – Sự kiến tạo có
thỏa mãn nhục dục: “Thôi, tôi cứ làm như ý nghĩa của cuộc nhân sinh
nàng Anny là xong: tôi cứ sống thừa ra. Theo Sartre, Con người một cái quyền
Ăn, ngủ. Ngủ, ăn. Hiện hữu lai rai, nhè thiêng liêng, quyền hiện hữu đích thực,
nhẹ như cây cối, như một vũng nước, như hiện hữu khác với hiện hữu vật: “Tôi đang
chiếc ghế màu đỏ trong tàu điện” [5, hiện hữu vì đấy là quyền của tôi” [5, tr.
tr.287]. Ông cảm thấy chán ngấy và “buồn 187]. Hiện hữu Người nó là một sự khác
nôn” trước lối sống của nàng Anny, vì biệt hiện hữu vật, Sartre tuyên bố nó như
nàng chỉ sống để mà sống, sống như một một sứ mạng cao cả của con người: “Hiện
loài cầm thú và thảo mộc. Triết gia đã gọi hữu là một trạng thái tròn đầy mà con
lối sống ấy là “sống thừa ra” (se survivre). người không thể lìa xa” [5,tr. 246].
Sống thừa ra, nghĩa là sống không có một Tuy nhiên để có một hiện hữu đích
ý thức, sống mà không biết mình sống thực thì con người phải nhập cuộc và trong
nhằm mục đích nào cả, không biết mình hành trình dấn thân đó con người phải đối
sống để làm gì ở cõi trần gian này. Sartre mặt với những trạng huống không dễ chịu,
thường gọi kiểu sống như vậy là hiện hữu đó là hư vô, sự vong thân, sự lựa chọn, sự
như một sự vật. Đó chỉ là hiện hữu mà cô đơn, lo âu, trách nhiệm, đó là cái nhìn
thôi, chứ chưa phải là hiện sinh, càng của tha nhân…

127
Tự do: Roquentin đã dần nhận ra được đời tôi, chính là tôi chứ không phải ai khác.
tính chất phi lý ngẫu nhiên của cuộc làm Và Roquentin đã phải chọn, nhiệm vụ đưa
người, chàng đã lựa chọn đối mặt với nó, chàng đến Bouville là để viết về bá tước
với những cơn buồn nôn không trốn chạy, Rollebon nhưng chàng sử gia đã không tìm
nhận lấy nó như một phần hiện hữu và từ thấy được đam mê đích thực trong công
đây gợi mở cho con người đến với sự tự do việc này “Tôi chán nản tự nhủ: làm thế nào
của những sự chọn lựa. Trong tác phẩm mà tôi, một kẻ chẳng đủ sức mạnh lưu giữ
này Sartre đã bắt đầu đề cập đến trạng thái chính ngay quá khứ của mình, lại có thể hy
tự do tuyệt đối của con người, con người vọng mình sẽ cứu vãn được quá khứ của
có quyền lựa chọn: “Ngày chủ nhật, người người khác”, chàng đã lựa chọn sự buông
ta đến khu nghĩa trang, hay đến thăm bỏ: “Tôi không viết tiếp tác phẩm của mình
những người thân thuộc. Hoặc nữa nếu về Rollebon nữa, thế là hết” [5, tr.174].
hoàn toàn tự do, người ta sẽ dạo chơi trên Nhưng ngay sau khi kết thúc sự lựa chọn
đường Jatée. Tôi hoàn toàn tự do: tôi đi đó Roquetin phải đối mặt với một sự lựa
trên đường Bressan đổ ra đường Jatée – chọn khác: “Tôi sắp sửa làm gì đời mình?”
Promenade” [5,tr. 97]. [5,tr.175]. Và tôi phải chịu trách nhiệm cho
Ngụy tín (sự vong thân): Mặc dù luôn sự lựa chọn của mình.
phải đối mặt với sự phi lý của cuộc nhân Trách nhiệm: một trách nhiệm rất lớn
sinh nhưng con người không phải lúc nào lao khi phải thoát ra khỏi sự buồn nôn nhầy
cũng sẵn sàng đón nhận, nhập cuộc để làm nhụa, tức là phải kiến tạo nên sự hiện hữu
cho mình có một bộ mặt riêng, bởi con có ý nghĩa của con người. Roquentin đã cố
người phần thì bị những khuôn thước của gắng thể hiện sự hiện sinh nhập cuộc của
xã hội lôi kéo, hòa tan, phần thì không dám mình nhưng rồi như chao đảo trước một
đối mặt với sự mạo hiểm choáng váng trách nhiệm quá lớn, khi quyết định không
trước vực thẳm của hư vô, không dám đối tiếp tục viết về cuộc đời của Rollebon nữa
mặt thừa nhận sự nuốt chửng hư vô. Sartre Roquentin đã có một sự dằn vặt, sự thảo
sau này gọi tên trạng thái này là sự ngụy luận nội tâm trước sự lựa chọn của mình:
tín. Trong Buồn nôn, chính anh chàng “Tôi phải chấm d… Tôi giải… Cái chết…
Roquentin cũng đã nhìn thấy ngụy tín, Ông De Roll đã chết… Tôi không phải
vong thân của những tồn tại phi đích thực là…Nó còn tệ hại hơn những gì còn lại vì
xung quanh mình. Đó là hình mẫu của tôi cảm thấy mình là kẻ chịu trách nhiệm
Pacome mà Roquentin đã gặp ở bảo tảng và là đồng lõa.” [5, tr. 183].
Bouvllie. Hầu như Pacome đã bị “đóng Ở những dòng cuối cùng của tác phẩm
khung” vào vị trí của một bậc tôn kính chàng Roquentin thể hiện rõ thái độ trách
vọng trọng và Roquentin đã kết luận rằng nhiệm của mình đối sự lựa chọn cho sự
“Ông chẳng bao giờ quay trở về với chính nghiệp viết lách: “Một cuốn sách. Một cuốn
mình các nào khác nữa: ông là một cấp chỉ truyện. Và sẽ có những người đọc cuốn
huy” [5,tr. 158] truyện đó và bảo: “Chính Antoine
Sự lựa chọn: Để nhận lấy sứ mệnh của Roquentin đã là tác giả cuốn sách này…”
tự do, con người phải đưa ra những sự lựa … Dĩ nhiên toạt tiên nó chỉ là một công việc
chọn, lựa chọn cho bộ mặt hiện sinh riêng đầy buồn chán và làm ta mệt mỏi , nó không
biệt của mình: “Nhưng phải chọn lựa: sống ngăn cản tôi tiếp tục hiện hữu và cảm
hay thuật lại đời sống” [5, tr. 76], bởi hiện nghiệm rằng mình đang hiện hữu… Lúc bấy
hữu Người chính là sự nắm bắt lấy những ý giờ, xuyên qua nó, tôi có thể nhớ lại mà
nghĩa của chính khoảnh khắc tạo nên cuộc không kinh tởm cuộc đời mình” [5, tr. 322].

128
Sự cô đơn đối mặt với hiện hữu, với hư bởi những gì tôi đang suy tưởng… và tôi
vô: Tại sao con người lại có cảm giác sợ hãi không thể ngăn mình thôi không suy
trách nhiệm đó bởi lẽ con người là lữ hành tưởng. Ngay cả trong giây phút này – thật
cô đơn đối mặt với hư vô trong hành trình kinh khủng – nếu như tôi đang hiện hữu,
hiện hữu của mình. Trong tác phẩm Sartre thì đấy là vì tôi sợ hãi phải hiện hữu. Chính
đề cấp rất nhiều đến trạng thái hư vô, hư vô tôi, chính tôi đang thu mình về cõi hư vô
không phải là không tồn tại mà hư vô là mà tôi khát vọng: lòng thù ghét, lòng kinh
trạng thái trống rỗng, không có ý nghĩa: tởm hiện hữu, bấy nhiêu tình cảm đó là bấy
“Hư vô, hư vô chỉ là một ý tưởng trong nhiêu cách thái để làm cho tôi hiện hữu, để
đầu óc tôi, một ý tưởng đang hiện hữu dìm sâu tôi vào trong hiện hữu” [5, tr. 184]
bềnh bồng trong cõi bao la này: trạng thái Tha nhân: Người cứ phải mãi mê tìm
hư vô đó đã không đến trước hiện hữu, nó kiếm sự hiện hữu của mình trong sự cô
là một hiện hữu khác, và đã xuất hiện sau đơn, luôn sợ ngụy tín đánh cắp hiện sinh
nhiều hiện hữu khác” [5, tr.247]. của mình cho nên người rất “cảnh giác” với
Sự cô đơn bủa vây lấy con người, tha nhân. Thông qua cuộc gặp gỡ ban đầu
trạng thái cô đơn không phải là vật lý, mà với của chàng Roquentin và gã đàn ông
bởi lẽ con người tự do kiến tạo mình không trong khách sạn Printana, Sartre đã gửi đến
bằng một khuôn mẫu sẵn có nào, không thể một thông điệp với tha nhân: “Gã lại nhìn
dựa vào ai, không có Thượng đế dẫn dắt, chằm chằm vào tôi nữa. Lần này gã sắp sửa
do đó con người luôn cảm thấy cô đơn nói với tôi đây, tôi cảm thấy toàn thân mình
trong sự nhập cuộc. Roquentin điểm khởi cứng đờ. Không phải là vì giữa chúng tôi
đầu đã khẳng khái tuyên bố: đã nảy sinh mối thiện cảm, không: chỉ vì
“Tôi giả thuyết rằng, người ta không chúng tôi giống nhau, thế thôi. Gã cũng cô
thể định giới hạn cho sự cô đơn” [5,tr. 24]. đơn như tôi, song còn chìm sâu vào nỗi cô
Rồi đi tận cùng sự cảm nhận hiện hữu, đơn hơn tôi nữa. Hẳn gã đang đợi cơn Buồn
quyết định cho sự lựa chọn, sự nhập cuộc nôn hay một thứ gì cùng loại. Như thế, hiện
của mình thì cuối cùng chàng vẫn bị bất giờ đã có người đang nhìn nhận tôi, những
lực trước hiện trạng cô đơn: kẻ nghĩ thầm trong đầu – sau khi nhìn kỹ
“Tôi cô độc trong con đường trắng khuôn mặt tôi: “Thằng cha đó cũng thuộc
viền quanh những khu vực này. Cô độc và bọn mình”. Sao? Gã muốn gì cơ chứ? Gã
tự do” [5,tr. 286]. phải biết rõ ràng rằng chúng tôi không thể
Sự âu lo, sợ hãi: Chính những trăn trở làm gì trợ giúp cho nhau được” [5, tr.123].
hiện sinh làm cho con người âu lo, sợ hãi. Như vậy giữa tôi và tha nhân không thể
Mặc dù miệt mài thiết kế cho sự hiện hữu có sự cảm thông, không có sự trợ giúp và
của mình có ý nghĩa nhưng nỗi âu lo, sợ còn khủng khiếp hơn tha nhân chỉ chực chờ
hãi thường xuyên chiếm ngập tâm hồn hiện tước đoạt tự do của tôi. Chính vì vậy
sinh, ngay khi lúc họ đã là mình, họ phải Roquentin dù cho có trở về bên cạnh nàng
trăn trở cho cái là mình tiếp theo vì nếu Anny, chàng cũng không thể tìm thấy ở
ngừng lại họ sẽ bị hư vô nuốt chửng, họ sẽ Anny như một điểm dừng của chú ngựa
lại gặp phải mối đe dọa lớn nhất của hiện chùn chân, chàng lại khước từ Anny: “Tôi
sinh - hiện hữu phi lý dư thừa. Cho nên đã toan tính nhờ vào Anny biết là chừng
người hiện sinh luôn phải “nhoài”, phải nào để tự giải thoát khỏi nỗi khủng khiếp
“vắt” mình về phía trước: “Tư tưởng của mãnh liệt nhất, cơn buồn nôn dữ dội nhất
tôi, chính là tôi: đó là lý do vì sao tôi của tôi, giờ đây tôi mới hiểu điều ấy. Quá
không thể ngưng lại được. Tôi hiện hữu khứ của tôi đã chết, Anny chỉ trở về để tước

129
đoạt hết mọi hy vọng của tôi” [5, tr. 286]. phần lớn những chủ đề chính của “L’Être
Như vậy, con đường của Buồn nôn đi et Le Néant” (Hữu thể và vô thể) xuất bản
từ nhân vật trốn chạy sự thật đó bằng đủ 5 năm sau. Tác phẩm được xem như sự
thứ ứng xử nhưng những cơn buồn nôn vẫn trầm tư nối dài về ngẫu nhiên của sự sống
tồn tại. Buồn nôn như là một biểu tượng về và nổi khắc khoải của tinh thần phản ảnh
bản năng, về sự phi lý của việc con người hiện tượng ngẫu nhiên đó. Trong một
tồn tại bằng một lý do nào. Bản thân những thoáng trầm tư về cái rể cây, Roquentin
cơn buồn nôn đó tự nó không có lý do, cảm nhận được sự tàn nhẫn trong sự hiện
không lý giải bằng một tầng chìm ký ức hữu của nó và của mình: cả hai đơn thuần
nào. Cuốn tiểu thuyết kết thúc với hình ảnh chỉ hiện hữu ở đó, không một biện minh
Roquentin nghe một đoạn nhạc và bỗng nào, thừa thải. Tính cách vật lý của cảm
nhiên hiểu rằng nghệ thuật là điều tất yếu thức bệnh hoạn đầy mặc khải này không
duy nhất của con người. Như vậy con nên bị xem thường. Tương tự như sự bối
người đã phải đối diện một cách cô đơn rối trước cái nhìn của Tha nhân, ý hướng
giữa ý thức cá nhân và thân phận làm cơ thể của chúng ta luôn mặc khải một thực
người. Có lẽ chính vì vậy mà hiện sinh của thể siêu hình.
Sartre luôn bị hiểu nhầm là sự quẫy đạp Trong sự nhập cuộc của mình, con
của con người cá nhân trong tính thế tranh người hiện sinh đã cố gắng đưa ra một giải
chấp mong manh, trong sự dòn mỏng của thoát cho tâm tư, bằng sự thể hiện vào trạng
số phận. Đó là một nhận xét phiến diện về thái hiện sinh tuyệt đối. Nhưng trên thực tế,
triết thuyết của ông, không phải chỉ đến con người hiện sinh vẫn chỉ là con người
những giai đoạn sau này mà ngay trong tác hữu hạn, bị giới hạn một cách tàn nhẫn.
phẩm buồn nôn ông đã “mớm” tư tưởng về Trong truyện, nhân vật luôn luôn buồn nôn
một tiết lý nhập cuộc, hành động và trách như một thái độ phản kháng những gì thuộc
nhiệm lớn lao, cao cả của con người đối về lí tính cứng nhắc siêu hình. Nhân vật
với xã hội. Trong đoạn đối thoại của chính Roquentin đang trên con đường khám
Roquentin và anh chàng Tự Học, mặc dù phá lí do tồn tại của con người là không có
Roquentin quả quyết: “Tất cả chúng ta, lí do gì hết. Con người là một hiện thực
mỗi khi còn hiện hữu, đều phải ăn và uống ngẫu nhiên, không có lí do tồn tại.
để bảo tồn cuộc hiện sinh quý báu của Điểm mấu chốt của thuyết hiện sinh là
mình nhưng lại chẳng có gì, chẳng có lấy con người phải hành động, là sự dấn thân
một lý do cỏn con nào để hiện hữu cả” và trải nghiệm. Con người, trước hết chỉ là
[5,tr. 206]. Đáp lại thái độ bi quan đó của hư vô, vì vậy con người không thể định
Roquentin, chàng Tự Học đã đáp trả: nghĩa được. Con người phải hiện hữu, gặp
“Cuộc đời có một ý nghĩa nếu ta muốn ban gỡ, xuất hiện trong thế giới đã, rồi mới
cho nó một ý nghĩa. Trước hết phải hành được định nghĩa. Và con người chỉ tồn tại
động, lao mình vào một công việc… À, có sau đó, chỉ tồn tại như những gì mà nó
một mục đích, thưa ông, có một mục được làm ra. Điều đó được thể hiện qua sự
đích… còn có loài người” [5, tr. 207]. hành động, sự dấn thân và sự trải nghiệm.
3. Kết luận Chính từ đây, có thể nói rằng thuyết hiện
Tóm lại, La Nausée (Buồn nôn) là sinh định nghĩa con người bằng hành động.
tuyên ngôn của thuyết hiện sinh và được Như vậy, tác phẩm “Buồn nôn” đã đưa
nhìn nhận là một trong những tiểu thuyết đến cho chúng ta một triết thuyết về hiện
hay nhất của Sartre. Những trải nghiệm của sinh, đây cũng là điểm thành công làm nên
Roquentin trong tác phẩm này biểu hiện tên tuổi của tác phẩm. Theo đó, triết thuyết

130
hiện sinh cho rằng chúng ta đều là những “Các vấn đề triết học Sartre về phong trào
thực thể tự do và vì vậy, đều có trách và hành động, về ý thức và thân xác, về di
nhiệm với mọi sự lựa chọn và hành động chuyển và trú ẩn được xây dựng đầy đủ
của bản thân mình, chúng ta là tác giả của nhất trong cuốn tiểu thuyết đầu tiên Buồn
cuộc đời mình và kiến thiết những gì chúng nôn. Mặc dù Sartre đã thực sự có một sự
ta đeo đuổi. Đọc Buồn nôn có thể nhận thay đổi đáng kể trong sự nghiệp nhưng
thấy được những trạng huống đầy đủ của những vấn đề cơ bản của Sartre về nhân
hiện sinh mà sau này Sartre tiếp tục làm rõ bản vẫn không thay đổi kể từ khi xuất bản
hơn ở các tác phẩm tiếp theo, cho nên tiểu thuyết này… Như một số nhà phê bình
“Buồn nôn” được xem như là tuyên ngôn đã nhận định, Buồn nôn không chỉ dừng lại
của Sartre về hiện sinh. với tư cách là thành tựu đầu tiên của Sartre,
Trần Thái Đỉnh trong phần mở đầu vốn dĩ dễ dàng bị vượt qua hay phủ định
cho khảo luận về hiện sinh của Jean Paul – bởi những cống hiến tiếp theo của chính
Sartre đã phát biểu: “Người ta có lý để coi tác giả trong quá trình trưởng thành của sự
cuốn tiểu thuyết La nausea (Buồn nôn) của nghiệp. Hầu như không có một chủ đề nào
Sartre như bản tuyên ngôn triết hiện sinh được mở ra trong các tác phẩm sau này của
của ông. Điều chắc chắn: cuốn tiểu thuyết Sartre mà không mang bóng dáng của
đó đã phổ biến tư tưởng hiện sinh phi lý những tư tưởng mà Sartre đã đặt nền móng
của Sartre trong đại chúng. Cũng chính trong tác phẩm đầu tiên này” [7, p.480].
trong cuốn sách đó, ông đã trình bày tư
tưởng của ông về vũ trụ vạn vật một cách TÀI LIỆU THAM KHẢO
đầy đủ và dễ hiểu” [2, tr.310].
1. Andrê Niel (1968), Jean-Paul Sartre anh
Võ Công Liêm đã có nhận định trong hùng và nạn nhân của “ý thức khốn khổ”,
bài viết Jean Paul Sartre với buồn nôn đăng Nxb Ca Dao, Sài Gòn.
trên tạp chí điện tử tonvinhvanhoadoc như 2. Trần Thái Đỉnh (1968), Triết học hiện sinh,
sau: “Buồn Nôn không còn là hư cấu, nó Nxb Thời Mới, Sài Gòn.
trở nên một luận cứ triết học của học thuyết 3. Đỗ Đức Hiểu (1978), Phê phán văn học hiện
hiện sinh mà Jean-Paul Sartre là kẻ đưa sinh chủ nghĩa, Nxb Văn học, Hà Nội.
đường. Tác phẩm Buồn Nôn của ông đã 4. Jean-Paul Sartre (1966), a nause , Le Livre
để lại hậu thế những giá trị tuyệt đối, vượt De Poche, France.
thời gian qua những án văn chương bất hủ, 5. Jean-Paul Sartre (1967), Buồn nôn, Nxb An
một phạm trù triết học đầy nhân tính trong Tiêm, Sài Gòn.
thuyết hiện sinh của ông. Jean-Paul Sartre 6. Nguyễn Quang Lục (1970), Mổ xẻ nhà văn
là nhân vật thời thượng qua mọi thời đại hiện sinh Jean-Paul Sartre, Nxb Hoa Muôn
của nền văn học sử hiện đại” Phương, Sài Gòn.
Tác giả Andre Niel nhận định: “Chìa 7. Paul Arthur Schilpp (1991), The philosophy of
khóa của Triết học Sartre là sự phân tích Jean-Paul Sartre, Open Court Publishing
tâm bệnh lý học về hiện tượng “buồn nôn”, Company, La Salle, Illinois, USA.
hiện tượng Sartre cho là phát sinh do cảm http://tonvinhvanhoadoc.vn/van-hoc-the-
thức về tính chất bất tất, ngẫu nhiên của thế gioi/tac-pham/8145-jean-paul-sartre-voi-
giới” [1, tr.17] buon-non.html.

Ngày nhận
Paul bài: 16/5/2016
Arthur Biên định:
Schilpp thì khẳng tập xong: 15/11/2016 Duyệt đăng: 20/11/2016

131

You might also like