You are on page 1of 26

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ TP.

HỒ CHÍ MINH
KHOA DU LỊCH

TIỂU LUẬN

HỌC PHẦN: ............LỊCH SỬ VIỆT NAM.........................................


TÊN ĐỀ TÀI: ...TÌM HIỂU CÁC CUỘC CẢI CÁCH TRONG

LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ TK X ĐẾN TK XVIII

Người thực hiện: . ....Mai Huy Hiếu..........


Lớp: ..........21DDL2...................................…
MSSV: .......D21DL173....................................
GVHD: ........Phan Đình Dũng...........................

Thành phố Hồ Chí Minh, 0tháng 12 ..... năm 2021…



MỤC LỤC

MỤC LỤC……………….…………………………………….………………………1

MỞ ĐẦU………………………….…………………………………………………...2

NỘI DUNG……………………………………………………………………………3

1. CUỘC CẢI CÁCH CỦA KHÚC HẠO………………………………………3

1.1 Hoàn cảnh lịch sử……………………………………………………3

1.2 Cuộc cải cách của Khúc Hạo………………………………………..4

2. CUỘC CẢI CÁCH CỦA HỒ QUÝ LY……………………………………...6

2.1. Hoàn cảnh lịch sử…………………………………………………...6

2.2. Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly……………………………………...7

3. CUỘC CẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG………………………………11

3.1. Hoàn cảnh lịch sử……………………………………………………11

3.2. Cuộc cải cách của Lê Thánh Tông………………………………….12

4. CUỘC CẢI CÁCH CỦA QUANG TRUNG………………………………...18

4.1. Hoàn cảnh lịch sử…………………………………………………….18

4.2. Cuộc cải cách của Quang Trung…………….………………………18

KẾT LUẬN…………………………………………………………………………...22

TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 23

1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

   Việt Nam, một đất nước trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước. Lịch sử đã minh chứng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân
Việt Nam đó là truyền thống quý báu thể hiện lòng yêu nước. Truyền thống đó không
chỉ thể hiện ở cuộc chiến đấu lâu dài và gian khổ chống ngoại xâm, trong cuộc lao
động sáng tạo xây dựng quê hương đất nước, mà còn thể hiện ở những cải cách để đổi
mới đất nước.

Trong suốt chiều dài lịch sử để tồn tại và phát triển, cha ông ta đã thực hiện
nhiều cuộc cải cách, đổi mới. Đó là cuộc cải cách của Khúc Hạo năm 907, cuộc cải
cách của Hồ Quý Ly cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV, cuộc cải cách của Lê Thánh
Tông cuối thế kỷ XV, cuộc cải cách của hoàng đế Quang Trung ở thế kỉ XVIII. Vị trí,
tác dụng của mỗi cuộc cải cách đối với sự phát triển của xã hội, đất nước có khác nhau,
nhưng là một nội dung quan trọng của lịch sử Việt Nam thời Trung đại. Nghiên cứu và
nắm vững nội dung các cuộc cải cách nói trên sẽ giúp chúng ta hiểu biết đầy đủ và sâu
sắc hơn lịch sử Việt Nam thời Trung đại.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài này đề cập đến các cuộc cải cách trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ
X đến thế kỉ XVIII

3. Mục đích nghiên cứu

Bài tiểu luận này nhằm tìm hiểu sâu hơn về những cuộc cải cách trong
lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XVIII

4. Phạm vi nghiên cứu

Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XVIII

2
Do khả năng có hạn, tài liệu còn ít ỏi nên đề tài này không tránh khỏi
nhiều thiếu sót. Kính mong Thầy cô đóng góp thêm ý kiến để em rút kinh nghiệm cho
những lần sau thực hiện được tốt hơn.

3
NỘI DUNG

1. CUỘC CẢI CÁCH CỦA KHÚC HẠO

1.1. Hoàn cảnh lịch sử

Năm 905, hào trưởng người Việt ở Hồng châu là Khúc Thừa Dụ giành lấy
quyền tự chủ cho người Việt tại Tĩnh Hải quân (tên gọi Việt Nam đương thời), tự xưng
là Tiết độ sứ và bước đầu được nhà Đường của Trung Quốc thừa nhận. Việt Nam chấm
dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc, bắt đầu thời kỳ độc lập tự chủ. Năm 907, Khúc Thừa Dụ
mất, con là Khúc Hạo nối chức Tiết độ sứ. Nhà Hậu Lương, vì mới cướp ngôi nhà
Đường, phương Bắc nhiều biến cố nên thừa nhận Khúc Hạo làm Tiết độ sứ Tĩnh Hải
quân năm 907. Nhưng qua năm sau (908), vua Hậu Lương là Chu Ôn lại phong cho
Tiết độ phó sứ Quảng Châu là Lưu Ẩn kiêm chức "Tĩnh Hải quân tiết độ, An Nam đô
hộ". Điều đó có nghĩa là người Trung Quốc vẫn muốn chiếm lại Việt Nam.

Để củng cố chính quyền cai trị, xây dựng nền tảng độc lập, phát huy nội lực để
dần tự thoát khỏi sự kiềm chế của phương Bắc, Khúc Hạo đã tiến hành cuộc cải cách
trên toàn Tĩnh Hải quân. Ngày 7 tháng 2 năm 906, vua Đường buộc phải phong cho
Khúc Thừa Dụ làm Tĩnh Hải quân tiết độ sứ tước Đồng binh Chương sự. Tức là nhà
Đường phải công nhận Khúc Thừa Dụ có quyền nắm cả việc quân sự, chính quyền,
kinh tế, tài chính.

Như vậy, kể từ năm 905, tuy còn mang danh hiệu một chức quan của nhà
Đường, nhưng về thực chất Khúc Thừa Dụ đã giành lấy chính quyền từ tay bọn phong
kiến nhà Đường, dựng nên một chính quyền tự chủ, đã kết thúc về cơ bản ách đô hộ
hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc. Cuộc cải cách của Khúc Hạo cũng
như các cuộc kháng chiến tiếp theo đó của Dương Đình Nghệ (931), Ngô Quyền (938)
là công cuộc bước đầu xây dựng và bảo vệ quốc gia, chính quyền độc lập, tự chủ có tổ
chức của một dân tộc đã thực sự làm chủ quốc gia mình.

Đất nước bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do, nhưng những hậu quả mà hơn một
nghìn năm đô hộ của bọn phong kiến phương Bắc để lại thật nặng nề.

1.1.1. Về kinh tế

4
Chính quyền đô hộ đã thi hành chính sách bóc lột rất nặng nề và dưới nhiều
hình thức: Chế độ cống nạp là thủ đoạn bóc lột hết sức tàn bạo của phong kiến phương
Bắc được thực hiện liên tục suốt thời Bắc thuộc. Hàng năm, các châu, quận, huyện phải
nộp nhiều lâm thổ sản quý, nhiều sản phẩm thủ công. Ngoài chế độ cống nạp, còn có
thêm nhiều loại thuế khác, mức thuế dân bản xứ phải đóng rất nặng: riêng thuế muối,
hàng năm ở Âu Lạc cũ phải nộp lên tới hàng vạn quan tiền. Đời sống của nhân dân Âu
Lạc cũ do đó vô cùng cực khổ.

1.1.2. Về chính trị - xã hội

Trong hơn một thiên niên kỷ xâm lược và đô hộ, các triều đại phương Bắc đâu
chỉ dừng lại ở những chính sách vơ vét, cướp bóc tàn bạo, mà còn ráo riết thực hiện
chính sách đồng hóa nhằm Hán hóa Việt tộc, nhằm vĩnh viễn xóa bỏ sự tồn tại của
quốc gia Âu Lạc và dân tộc Việt, biến đất nước Âu Lạc thành quận, huyện của Trung
Quốc. Từ năm 905, sau khi giành được chính quyền, để xây dựng một quốc gia hoàn
toàn độc lập, tự chủ, đòi hỏi họ Khúc phải thực hiện những cải cách về hành chính,
chính trị, xã hội để xóa bỏ dần những ảnh hưởng sâu sắc và hậu quả nặng nề do thời
Bắc thuộc để lại, khắc phục tính phân tán của quyền lực thủ lĩnh địa phương, xây dựng
một chính quyền dân tộc thống nhất từ trung ương đến các làng xã.

1.2. Cuộc cải cách của Khúc Hạo

1.2.1. Về chính trị

Khúc Hạo bãi bỏ bộ máy hành chính đô hộ cũ của nhà Đường để thanh lập một
bôuj máy quản lý đất nước riêng của mình: Bãi bỏ mô hình tổ chức: An Nam đô hộ
phủ  châu  huyện  hương  xã và tổ chức lại bộ máy quản lý nhà nước từ trung
ương cho đến cấp xã nhằm xây dựng một chính quyền dân tộc thống nhất. Ông chia cả
nước thành những đơn vị hành chính các cấp: lộ, phủ, châu, giáp, xã. Đơn vị hương
trước đó được đổi thành giáp. Đứng đầu giáp là quản giáp và phó tri giáp. Ngoài những
hương cũ đổi thành giáp, Khúc Hạo còn chia đặt thêm nhiều giáp mới, tổng cộng 314
giáp (thời nhà Đường ở nước ta có 159 hương). Đơn vị hành chính thấp nhất là xã có
các chức chánh lệnh trưởng, lệnh trưởng cai quản.

5
1.2.2. Về kinh tế - xã hội

Khúc Hạo bãi bỏ chế độ điền tô và phu dịch, thực hiện “bình quân thuế ruộng,
tha bỏ lực dịch, lập sổ khai hộ khẩu, kê rõ họ tên, quê quán giao cho giáp trưởng trông
coi…” [3, tr.218]. Như sử cũ đã ghi, , bấy giờ “chính sự cốt chuộng khoan dung, giản
dị” làm cho “nhân dân được yên vui”. Sau nhiều thế kỉ sống dưới ách kìm kẹp, bóc lột
nặng nề của chế độ đô hộ, sự “khoan dung, giản dị” của chính quyền họ Khúc không
chỉ góp phàn tạo nên sự “yên vui” của nhân dân mà còn thể hiện rõ tinh thần của một
đất nước vừa thoát khỏi ách đô hộ ngàn năm. Mặt khác, chính sách “Quân bình thuế
ruộng” đã bước đầu xác lập quyền sở hữu trên danh nghĩa của nhà nước đối với ruộng
đất của công xã.

1.2.3. Tài chính

Khúc Hạo chủ trướng sửa đổi lại chế độ tô thuế. Trong những thế kỉ thuộc
Đường, ngoai cống nạp, nhân dân ta còn phải chịu hàng loạt những bất công khác về
chế độ thu thuế và chịu một chế độ nô dịch nặng nề. Khúc Hạo đã xóa bỏ sự bất công
và áp bức nặng nề đó bằng chinh sách “binh quân thuế ruộng” và tha bỏ lực dịch”. Nỗi
khổ của ách nô dịch nay không còn nữa, dù rằng người dân vẫn giữ nghĩa vụ đóng góp
sức mình cho nhà nước.

1.3 Ý nghĩa

Những cải cách của Khúc Hạo đã tạo điêu kiện cho chinh quyền trung ương có khả
năng kiểm soát một cách trực tiếp các địa phương trong nước, góp phần quan trọng vào
việc củng cố thống nhất lãnh thổ, tạo điều kiện cho nhân dân ta sống và sản xuất “yên
vui”, “ổn định”, tranh được mọi sự hạch sách cưỡng bức của bọn quan lại đô hộ trước đây,
bước đầu xóa bỏ chế độ bóc lột, áp bức nặng nề của chế độ đô hộ, đồng thời cũng tạo
thuận lợi cho nhân dân ta gia tăng sức lao dộng sáng tạo, nâng cao đời sống của minh.
Những cải cách của Khúc Hạo dựa trên những thiết chế đã có từ thời Đường, nhưng đã
vượt qua những hạn chế của nó, thể hiện rõ tinh thần của một quốc gia độc lập, có quyền
tự chủ của minh. Những cải cách đó cũng nhận được sự ủng hộ của nhân dân và thực sự
đáp ứng được những mong muốn của nhân dân khi đã danh lại được độc lập.

6
2. CUỘC CẢI CÁCH CỦA HỒ QUÝ LY

2.1. Hoàn cảnh lịch sử

Nửa sau thế kỉ XIV, xã hội Đại Việt lâm vào tình trạng khủng hoảng, mục nát
và suy thoái nghiêm trọng .Vua Trần Dụ Tông ăn chơi xa sỉ, trụy lạc, cho xây dựng các
công trình tốn nhiều tiền của và công sức của nhân dân nhằm làm chỗ vui chơi.Bọn
quan lại thì nhân đó cũng thi nhau bắt dân xây dựng dinh thự cho mình. Trong triều
đình nhà Trần có rất nhiều nịnh thần và việc kéo bè, kéo cánh, tranh giành quyền lực
xảy ra liên miên.Tình hình nội bộ rối loạn khiến các nước nhỏ ở phía nam không còn
thần phục như trước.

Trong nội bộ tầng lớp quý tộc cầm quyền chia bè phái, mâu thuẫn, giết hại lẫn
nhau để tranh giành địa vị, quyền lực ngày càng khốc liệt, điển hình là vụ một số quý
tộc đại thần nhà Trần như Thái bảo Trần Nguyên Hàng, Thượng tướng quân Trần Khát
Chân mưu giết Hồ Quý Ly không được, bị Hồ Quý Ly giết chết cùng với hơn 370 quan
lại quý tộc khác.

Các thế lực ngoại bang như Chăm-Pa và nhà Minh liên tục quấy nhiếu xâm
chiếm lãnh thổ, yêu cầu cống nạp lúc nhà Trần bắt đầu có dấu hiệu suy yếu. Những
việc làm trên nhằm thăm dò nhà Trần và chuẩn bị tiến hành âm mưu xâm lược đã được
vạch ra từ trước.

Vào nửa cuối thế kỷ XIV, sau một thời gian phát huy được mặt tích cực đối với
sự phát triển kinh tế, ổn định xã hội, thì vào cuối Trần, quan hệ bóc lột đó đã bộc lộ
mặt tiêu cực, đời sống của nông nô, nô tỳ do bị bóc lột triệt để trở nên hết sức cực khổ,
nông dân nghèo bị nông nô hóa đã dẫn đến mâu thuẫn xã hội gay gắt và phong trào
nông dân khởi nghĩa cuối Trần ngày càng phát triển. Điều đó chứng tỏ thiết chế chính
trị quân chủ quý tộc và quan hệ bóc lột nông nô, nô tỳ vào cuối thế kỷ XIV, đã khủng
hoảng, kìm hãm sự tiến hóa của xã hội Đại Việt, làm cho quá trình phong kiến hóa
trong xã hội tiến tới xác lập một thể chế quân chủ quan liêu chuyên chế, một nhà nước
phong kiến trung ương tập quyền thống nhất và mạnh, một quan hệ sản xuất địa chủ -
nông dân lệ thuộc thống trị trong nền kinh tế bị cản trở.

7
Tóm lại, xã hội Đại Việt cuối thế kỉ XIV đã lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu
sắc và toàn diện:chính quyền suy yếu,bọn nịnh thần chuyên quyền, dòng họ thống tri sa
đoạ, nông nghiệp giảm suất nghiêm trọng, dẫn đến nông dân nghèo,nô tì nổi dậy chống
đối, hay bỏ trốn. Trong lúc đó, những cuộc tấn công đánh phá của Chămpa lại liên tục
diễn ra, dù cuối cùng bị đẩy lùi hẳn, đã làm cho cuộc sống của nhân dân ta thêm khổ
cực, triều chính thêm rối ren, tài chính kiệt quệ. Đã vậy, Đại Việt đứng trước nguy một
cuộc xâm lược ngày càng đến gần của quân Minh. Đó là những tiền đề dẫn đến cuộc
cải cách của Hồ Quý Ly. 

2.2. Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly

Tháng 2 năm 1400, sau khi bức vua Trần nhường ngôi và tự lập làm vua, thành
lập triều đại nhà Hồ, Hồ Quý Ly đã thực hiện nhiều chính sách và biện pháp cải cách
trên các mặt của đời sống xã hội.

2.2.1. Cải cách chính trị, quân sự và luật pháp

* Về chính trị

Năm 1375, Hồ Quý Ly đã đề nghị xóa bỏ chế độ lấy người tôn thất làm các
chức chỉ huy quân sự cao cấp, định lại số quân, đưa lực lượng trẻ vào. Năm 1378, trong
số 16 chỉ huy các đạo quân ở trung ương, 12 người không phải là tôn thất nhà Trần.
Năm 1379, Hồ Quý Ly đặt quy chế về hệ thống quan lại địa phương, thống nhất việc
quản lý từ trung ương đến địa phương. Các chức An phủ sứ ở lộ phải quản toàn bộ lộ
đến các phủ, huyện, châu… trong lộ, lộ trực tiếp chịu trách nhiệm trước nhà nước trung
ương.

Hồ Quý Ly loại bỏ dần tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần khỏi bộ máy chính
quyền trung ương, thay thế dần bằng tầng lớp nho sĩ trí thức có tư tưởng cải cách. Từ
tháng 2 năm 1400, nhà Trần hoàn toàn mất hết quyền bính dù chỉ là danh nghĩa, thiết
chế quân chủ quý tộc của nhà Trần hoàn toàn sụp đổ. Chính quyền chuyển sang tay họ
Hồ, đứng đầu là Hồ Quý Ly. Hồ Quý Ly ra sức tuyển chọn, đề bạt và tổ chức thi cử để
nhanh chóng đào tạo một đội ngũ quan liêu mới cho nhà nước, chế độ quân chủ quý tộc
chuyển dần sang chế độ quân chủ quan liêu từ cuốI thế kỷ XIV sang đầu thế kỷ XV.

8
* Về quân sự

Hồ Quý Ly định lại binh chế, chỉnh đốn quân đội, tổ chức lại quân Túc vệ, đặt
thêm các hiệu quân, tăng cường kỹ luật quân đội, thải các tướng sĩ bất tài, sức yếu thay
vào những người khỏe, am tường võ nghệ.

Tăng cường củng cố  sức mạnh quân sự quốc phòng  Hồ Quý Ly đã cho cải tiến
các loại vũ khí tiêu biểu là Hồ Nguyên Trừng (con của Hồ Quý Ly ) đã chế tạo ra súng
thần cơ, thuyền chiến cổ lâu đi biển. Hồ Quý Ly đặt lệ cử quan ở Tam quán và Nội
nhân, đi về các lộ thăm hỏi cuộc sống nhân dân và tình hình quan lại để thăng giáng
cho hợp lý (năm1400).

Hồ Quý Ly chủ trương xây dựng một hệ thống cứ điểm phòng thủ để chống
xâm lược. Những nơi xung yếu tại các cửa biển và sông đều có đóng cọc gỗ. Hệ thống
phòng thủ kéo dài từ núi Tản Viên men theo sông Đà, sông Hồng, sông Luộc đến cửa
sông Thái Bình dài gần 100km. Nhiều đồn quân chốt giữ các nơi xung yếu.

* Về luật pháp:

Chỉ trong vòng 7 năm (1400 – 1407), nhà Hồ đã ban hành nhiều luật lệ và thực
thi nó làm công cụ tích cực cho việc thực hiện cải cách trên các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, xã hội, văn hóa. Nhà Hồ đã có tới 30 lần ban hành các luật lệ.

Hoạt động lập pháp được chú ý tăng cường. Nhà nước chủ trương tăng cường
pháp trị nhằm khôi phục lại kỷ cương xã hội bị rối loạn vào cuối thời nhà Trần. Các
luật lệ của nhà Hồ còn tập trung vào mục đích xây dựng và củng cố chế độ quân chủ
quan liêu chuyên chế vừa mới được thiết lập còn thiếu cơ sở kinh tế - xã hội vững chắc,
trấn áp tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần chống đối, chống lại các cuộc khởi nghĩa của
nhân dân.

2.2.2. Cải cách kinh tế - tài chính

Năm 1396, Hồ Quý Ly cho ban hành tiền giấy thu hồi hết các loại tiền đồng gọi
là “thông bảo hội sao” có 7 loại hình vẽ khác nhau. Nhà nước quy định làm giả phải tội
chết, 1 quan tiền đồng đổi được 1 quan 2 tiền giấy, ai dùng tiền đồng bị bắt cung bị tội
như  làm giả. Trước phản ứng của nhân dân, năm 1403 nhà Hồ ban điều luật về tội

9
không tiêu tiền giấy, nâng giá hàng và đóng cửa hàng, đặt chức thi giám, ban mẫu về
công thước thương đấu.

Năm 1397, Hồ Quý Ly ban hành chính sách hạn điền. Tất cả mọi người từ quý
tộc cho đến thứ dân, đều bị hạn chế số ruộng tư (tối đa:10 mẫu) trừ đại vương và
trưởng công chúa. Người nào nhiều ruộng thì được phép lấy ruộng chuột tội còn ruộng
thừa thì sung công.

Năm 1401, Hồ Quý Ly ban hành chính sách hạn nô, chiếu theo phẩm tước, cấp
bậc mà được sử dụng một số lượng gia nô theo quy định của nhà nước. Số gia nô quá
quy định phải đem nộp cho nhà nước. Mỗi gia nô thừa ra được nhà nước trả cho 5 quan
tiền.

Năm 1402, nhà Hồ ban hành chính sách thuế mới, định lại biểu thuế đinh và
thuế ruộng.Thuế đinh chỉ đánh vào những người có ruộng được chia, còn không phải
đóng thuế đinh đó là người không ruộng,trẻ mồ côi, đàn bà góa. Và thuế được đánh
theo lũy tiến : người có 5 sào ruộng nộp 5 tiền, có trên 2 mẫu 6 sào nộp 3 quan.. 

2.2.3. Cải cách văn hóa, giáo dục

Hồ Quý Ly rất quan tâm đến giáo dục và thi cử. Năm 1396, Hồ Quý Ly cho sửa
lại chế độ thi cử đặt kỳ thi hương ở địa phương và thi hội ở kinh thành. Những người
đã thi hội thì phải làm thêm một bài văn do vua đề ra để định vị thứ bậc. Ông đã bỏ
trường thi ám tả cổ văn thay bằng thi kinh nghĩa trong 4 trường thi. Ông đã đặt thêm
trường thứ 5 thi viết chữ và toán.

Ngay sau khi mới lên ngôi ông mở khoa thi hội lấy đỗ 20 người trong đó có
Nguyễn Trãi, nhà sử học Ngô Thời Sĩ “phép khoa cử đến đây mới đủ văn tự 4 trường,
đến nay còn theo, không thay đổi được”. Năm 1397, Hồ Quý Ly đã đề nghị đặt học
quan ở các lộ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông.

Hồ Quý Ly đã cho chấn chỉnh lại Phật giáo và Nho giáo đề cao Nho giáo và hạn
chế Phật giáo, Đạo giáo. Năm 1396 Hồ Quý Ly đã cho sa thải các tăng đạo dưới 50
tuổi bắt họ phải Hồ Quý Ly hoàn tục vị nho giáo thực dụng chống giáo điều kết hợp
với tinh thần pháp gia. Năm 1392 soạn sách” minh đạo” bàn về Nho giáo, phê phán

10
thói giáo điều của Nho Hàn Dũ , Chu Đôn Di, Trình Hiệu La “trộm Nho” và đề Cao
Chu Công. Ngăn cấm và xử phạt nặng những người làm nghề thương thuật.

2.3 Ý Nghĩa

Phải nói rằng Hồ Quý Ly đã nhận thức được nguyên nhân sâu xa của cuộc
khủng hoảng cuối đời Trần, mạnh dạn tiến hành các chính sách và biện pháp cải cách.
Đồng thời ông cũng là người mở đầu một giai đoạn cải cách quan trọng trong lịch sử
Việt Nam.

Về mục tiêu thứ nhất, Hồ Quý Ly đã loại bỏ tầng lớp quý tộc Trần và chuyển
dần từ chế độ quân chủ quý tộc sang chế độ quân chủ quan liêu. Hồ Quý Ly ra sức
tuyển chọn, đề bạt và tổ chức thi cử để nhanh chóng đào tạo một đội ngũ quan liêu
mới. Bộ máy hành chính ở trung ương và địa phương được chấn chỉnh lại với “quan
chế và hình luật” ban hành năm 1401. Nói chung, chế độ cai trị của triều Hồ mang tính
pháp trị cao hơn.

Về mục tiêu thứ hai, qua các chính sách của Hồ Quý Ly có thể nhận thấy hướng
giải quyết của ông là hạn chế thế lực của tầng lớp quý tộc, phát triển xu hướng tư hữu
hóa trong một giới hạn nhất định và tập trung quyền lực vào chính quyền trung ương.

Những cải cách của Hồ Quý Ly về nhiều mặt cho thấy ông là một nhà cải cách
lớn, có lòng yêu nước, ý thức tự cường, tinh thần dân tộc sâu sắc, kiên quyết chống
ngoại xâm để bảo vệ đất nước.

Nhìn chung, tư tưởng và chính sách cải cách với nhiều điểm tiến bộ, thậm chí
vượt trước thời đại của Hồ Quý Ly không chỉ là một giải pháp tình thế để giải quyết
cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, đáp ứng nhu cầu phòng thủ quốc gia lúc bấy giờ mà
còn mở đầu cho việc xây dựng một nhà nước trung ương tập quyền thay thế cho nhà
nước phong kiến quý tộc lấy Phật giáo làm quốc giáo đã lỗi thời.

Tuy nhiên, hệ thống chính sách, các giải pháp cải cách còn có nhiều điểm chưa
hợp lý, còn bất cập. Cuộc cải cách này chưa đủ sức để hóa giải cuộc khủng hoảng,
chưa giải quyết được những mâu thuẫn xã hội, mà còn làm rạn nứt thêm mối đoàn kết

11
toàn dân, nhất là mối liên hệ giữa vương triều với nhân dân. Nhà Hồ nhanh chóng bị
thất thủ trước cuộc xâm lược của nhà Minh một phần là do mất lòng dân.

Những việc làm của Hổ Quý Ly, xét về mặt lợi ích quốc gia, đã không thành
công. Thất bại của cuộc kháng chiến chống Minh đương thời có phần trách nhiệm của
ông và có lẽ ông cũng nhận thức được phần nào điều đó khi ông thưởng cho Hồ
Nguyên Trừng hộp trầu bằng vàng, sau câu nói khá độc đáo “thần không sợ đánh, chỉ
sợ lòng dân không theo”.

3. CUỘC CẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG

3.1. Hoàn cảnh lịch sử

Sau cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Minh thắng lợi, Trải qua gần 22
năm đặt ách xâm lược giặc Minh đã bị đánh đuổi về nước, tháng 4 năm 1428 Lê Lợi
lên ngôi Hoàng đế, mở đầu cho triều đại nhà Lê. Trải qua các đời vua Thái Tổ (1428-
1433), Thái Tông (1434-1442), đất nước đang dần được khôi phục. Năm 1460, Lê
Thánh Tông lên ngôi kế thừa những thành quả của triều đại trước, có những điều kiện
mới để xây dựng đất nước, song cũng đứng trước những khó khăn thử thách và có
nguy cơ đưa xã hội đi vào khủng hoảng như thời cuối nhà Trần.

Trải qua các đời vua Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, Nghi Dân bộ máy chính
quyền đều có những thay đổi, củng cố thêm theo xu hướng tập quyền.

Để bảo vệ quyền chuyên chế của mình, từ những vua đầu nhà Lê đã dùng
những thủ đoạn giết hại các công thần có tài năng, uy tính mà các vua Lê cho là họ có
thể lấn át hay làm giảm uy quyền của nhà vua như việc giết hại hai đại công thần có
công với dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân lược Minh và sáng lập ra nhà Lê
như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo khi Lê Lợi lên làm vua; đến triều Lê Thái
Tông, Lê Nhân Tông giết Lê Khả, Lê Khắc Phục, Nguyễn Trãi, Lưu Nhân Chú, Trịnh
Khả, Lê Sát, Lê Ngân,...

Trở lại với tình hình xã hội thời Lê thì trong “Trung hưng ký” đã phản ánh
như sau: “Nhân Tông mới hai tuổi, sớm lên ngôi vua…kẻ thân yêu giữ việc, tệ hối lộ

12
công hành, phường dốt đặc nổi lên như ong. Người trẻ không biêt nghĩ, tự ý làm càn.
Bán quan mua ngục, ưa giàu, ghét nghèo, bọn dạo sát thì được bổ dụng…”

Nhận thức được thực trạng trên của vương triều và đất nước, với tư chất thông
minh, quyết đoán Lê Thánh Tông đã tiến hành chính sách và biện pháp cải cách  ý
nghĩa trên các mặt như : chính trị, kinh tế xã hội, quân sự, văn hóa, giáo dục. Lúc này,
muốn xây dựng một nhà nước trung ương tập quyền mạnh, đòi hỏi phải chấn chỉnh lại
kỷ cương phép nước, phải cải cách thiết chế chính trị, cả về cơ chế vận hành của bộ
máy hành chính từ trung ương đến các địa phương. Công cuộc cải cách này và kết quả
của nó là sự tiếp tục thực hiện định hướng và mục tiêu cuộc cải cách của Hồ Quý Ly.

3.2. Cuộc cải cách của Lê Thánh Tông

3.2.1. Cải cách hành chính và hệ thống quan lại

Cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương là 6 Bộ (Lại, Lễ, Bình, Hình, Công,
Hộ) phụ trách các mặt hoạt động khác nhau của nhà nước. Giúp việc cho 6 Bộ là 6 Tự.
Đứng đầu các Bộ là chức Thượng thư chịu trách nhiệm trực tiếp trước vua về hoạt
động của Bộ mình phụ trách. Để tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của
các quan lại ở 6 Bộ, ngoài Ngự sử đài, Lê Thánh Tông còn đặt thêm 6 Khoa. Mỗi Bộ
đều có một Khoa tương ứng để theo dõi, giám sát hoạt động của quan chức Bộ đó (Bộ
Binh thì có binh khoa…).

Năm 1471, Lê Thánh Tông đã tiến hành một đợt cải cách hành chính lớn nhằm
tăng cường sự kiểm soát chỉ đạo của Hoàng đế đối với các triều thần, tăng cường sự
ràng buộc, kiểm soát lẫn nhau trong giới quan liêu, tăng cường tính hiệu lực và hiệu
quả của bộ máy quan lại. Lê Thánh Tông đã bãi bỏ một số chức quan đại thần vốn có
công nhưng không có học thức, thay vào đó bằng các văn quan được tuyển chọn qua
thi cử nhằm hạn chế chia bè, kéo cánh trong triều đình, hạn chế sự thao túng quyền lực
của các công thần. Ông trực tiếp quản lý các bộ nhằm hạn chế sự cồng kềnh, quan liêu
của bộ máy hành chính. 
Về mặt hành chính, Lê Thánh Tông đã cải tổ, chia lại thành 13 đạo (sau đổi là
13 thừa tuyên), đó là: Lạng Sơn, An Bang, Thái Nguyên, Hư¬ng Hoá, Tuyên Quang,
Bắc Giang, Nam Sách, Quốc Oai, Thiên Trường, Thanh Hoá, Nghệ An, Thuận Hóa và

13
Quảng Nam. Dưới đạo thừa tuyên có 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, cùng các đơn vị cơ
sở như hương, xã, thôn, trang, sách, động, nguồn, trường. Riêng kinh thành Thăng
Long được chia thành 36 phường.

3.2.2. Cải cách quân đội và củng cố quốc phòng

Song song với việc xây dựng bộ máy quân chủ quan liêu, Lê Thánh Tông rất
chăm lo xây dựng và củng cố lực lượng quốc phòng.

Trải qua các triều Thái Tông, Nhân Tông, Nghi Dân đến thời Thánh Tông, binh
chế được xây dựng rất chu đáo, chặt chẽ, có một sự cải cách rõ rệt. Năm 1466, toàn bộ
hệ thống tổ chức quân đội được cải tổ. Quân đội chia ra làm hai loại: quân thường trực
bảo vệ kinh thành gọi là cấm binh hay thân binh và quân ở các đạo gọi là ngoại binh. ở
mỗi đạo chia binh làm 5 phủ, mỗi phủ gồm 6 vệ, mỗi vệ có 5 hoặc 6 sở. Mỗi phủ do
một Đô đốc phủ thống suất. Thân binh chia làm nhiều vệ, dưới vệ có sở hay ty. Bộ máy
quân sự các cấp được cải tổ theo hướng tăng cường quyền lực trung ương, hạn chế
quyền lực địa phương. Đổi mới tổ chức cấm quân, bãi bỏ chế độ quân Thiết Đột có từ
thời Thái Tổ, đặt ở Kinh thành 2 vệ quân Kim Ngô và Cẩm Y, 4 vệ hiệu lực, 4 vệ thần
vũ, 6 vệ điện tiền, 5 vệ tuần tượng và 4 vệ mã nhàn. Thành lập các quân Điện Tiền
thường xuyên túc trực thay cho quân Thiết Đột.

Cùng với việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức quân đội, dưới triều Thánh Tông cũng
có một sự cải cách về mặt hành chính quân sự - quốc phòng để tăng hiệu lực của nền
quốc phòng và sức mạnh của quân đội, đồng thời bảo đảm sự phát triển nền kinh tế
nông nghiệp. Quân đội được chia thành từ 2 đến 3 phiên, theo định kỳ một phiên túc
trực là nhiệm vụ và luyện tập võ bị, còn lại trở về sản xuất. Với cách tổ chức quân đội
như vậy, nhà Lê đã hình thành một cơ cấu tổ chức quân sự hoàn chỉnh, chặt chẽ, bao
gồm quân triều đình, quân địa phương. Nhà nước vừa có quân thường trực mạnh, vừa
có lực lượng dự bị đông đảo có thể điều động lúc cần thiết.s

Quân đội nhà Lê gồm có thủy binh, bộ binh, tượng binh, kỵ binh. Ngoài ra còn
có các đơn vị chuyên dùng một loại súng lửa gọi là hỏa đồng. Việc huấn luyện quân
đội được chú trọng, có những điều lệnh cụ thể, chi tiết. Năm 1465, nhà nước ban bố 31
điều quân lệnh về thủy trận, 32 điều về tượng trận, 27 điều về mã trận, 42 điều về bộ

14
trận. Năm 1467, quy định 3 năm mở một kỳ thi võ nghệ nhằm khuyến khích quân sĩ
luyện tập võ nghệ. Nhờ vậy, quân đội nhà Lê có trình độ kỹ thuật và tác chiến khác cao
so với thời bấy giờ. Với lực lượng quân đội và quốc phòng hùng mạnh, nhà nước Lê sơ
đã trấn áp được các thế lực chống đối ở trong nước và ngoài nước, bảo vệ quốc gia độc
lập, tự chủ.

3.2.3. Hoàn chỉnh pháp luật và bộ Lê triều hình luật

Bộ luật Hồng Đức là bộ luật hoàn chỉnh nhất của nhà nước phong kiến việt
Nam. Về cơ bản, bộ luật này là bộ luật hình như tên gọi của nó – Lê triều hình luật,
nhưng thực chất, đây là một bộ luật tổng hợp nhiều mặt luật pháp (luật hình, luật hành
chính, luật dân sự, luật tố tụng, luật hôn nhân và gia đình…). Bộ luật biểu hiện rõ nét
tính chất giai cấp và quyền lực của nhà nước phong kiến đối với nhân dân, nhưng đây
cũng là bộ luật tương đối tiến bộ nhất trong thời đại phong kiến Việt Nam, mang đậm
nét sáng tạo và tinh thần thực tiễn của giai cấp phong kiến Việt Nam trong giai đoạn đi
lên của nó.

Trong làng xã Việt Nam truyền thống, nhân dân ta thường coi lệ làng cũng quan
trọng không kém phép nước. Thời Lê sơ cũng vậy, ngoài luật nước, các làng xã cũng
xây dựng và sửa đổi khoán ước, hương ước của làng mình cho phù hợp với điều kiện
mới. Việc xét xử theo lệ làng cũng nghiêm ngặt không kém luật nước. Người dân ở các
làng xã vẫn mong muốn qua lệ làng, khoán ước, hương ước để thể hiện và bảo vệ
quyền tự trị của mình có khi khác với luật pháp của nhà nước. Chính vì thế, Lê Thánh
Tông buộc phải chấp nhận cho các làng xã lập “khoán ước và cấm lệ”, nhưng lại ban
hành những quy định của nhà nước về việc lập “lệ làng”, chỉ ở “những làng, xã nào có
những tục lệ khác lạ” và “quan lại cấp trên duyệt nếu cần thì bác bỏ”, nhằm không cho
phép các “lệ làng” làm trái với luật pháp của nhà nước. Nhà Lê muốn thống nhất giữa
lệ làng với phép nước, lấy luật pháp nhà nước để trị tội những người không chịu theo
tục lệ của làng khi tục lệ đó đã được nhà nước chuẩn y. Luật pháp của nhà nước Lê sơ
đã hạn chế và thu hẹp quyền tự trị của các làng, xã rất rõ nét, tăng cường sự lệ thuộc
của các làng, xã với nhà nước trung ương, củng cố chế độ quân chủ quan liêu.

3.2.4. Cải cách kinh tế, phát triển nông nghiệp

15
* Chế độ lộc điền

Khác hẳn với các triều Lý, Trần, nhà Lê thực hiện chính sách lộc điền, đem
ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước ban cấp cho tầng lớp quan lại cao cấp. Chế
độ lộc điền được thi hành ngay từ những triều vua đầu tiên của nhà Lê, nhưng chưa trở
thành quy chế. Đến thời vua Lê Thánh Tông mới được quy định và ban hành thống
nhất trong cả nước (1477). Ruộng đất dùng để ban cấp chủ yếu là loại ruộng đất công
làng xã. Lộc điền gồm hai loại: một loại cấp vĩnh viễn gọi là ruộng đất thế nghiệp, một
loại cấp tạm thời trong một đời, sau khi chết 3 năm thì phải hoàn lại cho nhà nước. Chế
độ lộc điền là hình thức ban cấp ruộng đất quy mô của nhà Lê nhằm ưu đãi tầng lớp
quý tộc, quan lại cao cấp, biến họ trở thành những địa chủ lớn. Chế độ lộc điền đã góp
phần củng cố và phát triển chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất cũng như góp phần xác
lập quan hệ sản xuất địa chủ, tá điền và chế độ bóc lột địa tô phù hợp với bước phát
triển mới của chế độ sở hữu tư nhân lớn về ruộng đất và của những quan hệ sản xuất
phong kiến. Cùng với chính sách quân điền, chính sách lộc điền đã tiến một bước mạnh
mẽ vào chế độ chiếm hữu ruộng đất công của làng xã, khẳng định tính chất phong kiến
của chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất.

* Chính sách quân điền

Cũng như chính sách lộc điền, chính sách quân điền đã được thực hiện ngay từ
những triều vua trước. Đến đời vua Lê Thái Tông, từ năm 1477, chính sách quân điền
mới được chính thức ban hành và từ năm 1481, được thực hiện thống nhất trên quy mô
cả nước theo nguyên tắc sau:

Tất cả mọi người từ quan tam phẩm đến cô nhi quả phụ đều được chia ruộng
công. Những gia đình nông dân thường đã có ruộng đất riêng đầy đủ, không được cấp.

Ruộng xã nào chia cho dân xã ấy, xã nào ruộng quá nhiều, người ít thì cho phép
lấy bớt ruộng xã nhiều chia cho xã bên cạnh ruộng ít, người nhiều. Dân trong xã tùy
theo thứ hạng được cấp phần ruộng đất khác nhau. Quan hàm tam phẩm được 11 phần,
ngũ phẩm được 9,5 phần… Cô nhi, quả phụ được 3 phần.

Chính sách quân điền thời Hồng Đức là một đòn tấn công mạnh mẽ nhằm phủ
định quyền chi phối ruộng đất công của làng xã theo tục lệ, buộc làng xã phải tuân thủ
16
những nguyên tắc quy định về phân chia và hưởng thụ bộ phận ruộng đất công – là bộ
phận ruộng đất quan trọng nhất, lớn nhất của nhà nước, làng xã lệ thuộc chặt chẽ vào
nhà nước, trên nguyên tắc, ruộng đất công làng xã không được đem mua bán, chuyển
nhượng, quyền đó thuộc nhà nước trung ương, nhà vua. Nhà nước trung ương, nhà vua
với chính sách quân điền đã trở thành người chủ lớn nhất trong cả nước và nông dân
làng xã trở thành tá điền của nhà nước, làng xã rơi xuống địa vị là người quản lý ruộng
đất cho nhà nước trung ương, nhà vua. Chính sách quân điền góp phần quan trọng vào
sự xác lập và hệ thống của những quan hệ sản xuất phong kiến: quan hệ sản xuất địa
chủ - tá điền trong xã hội ở thế kỷ XV.

* Chính sách khẩn hoang và đồn điền

Xuất phát từ yêu cầu nhanh chóng phục hồi nền kinh tế nông nghiệp sau một
thời gian dài chiến tranh, nhà nước Lê sơ ngay từ rất sớm, đã có những chính sách
khuyến khích nhân dân các làng xã khai hoang lập làng, đặc biệt dưới thời Lê Thánh
Tông. Nhiều chỉ dụ của nhà vua được ban hành nhằm đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang,
lập làng và hợp pháp hóa việc khai hoang, lập làng trong nhân dân, góp phần giải quyết
tình hình lưu vong trong xã hội. Nhờ những biện pháp tích cực, cho đến nửa sau thế kỷ
XV, diện tích ruộng đất hoang hóa đã được khôi phục, tăng thêm diện tích sản xuất,
tăng thêm nguồn thu nhập của nhà nước; bộ phận nông dân tư hữu, tự do tăng lên, điều
hòa mâu thuẫn giai cấp, ổn định xã hội, nền kinh tế nông nghiệp nhanh chóng được
phục hồi và có bước phát triển.

Song song với chính sách khai hoang, lập làng, Lê Thánh Tông còn đẩy mạnh
việc khai hoang lập đồn điền. Chính sách này bắt đầu được thi hành từ thời Thái Tổ và
được mở rộng dưới thời Thánh Tông. Chỉ dụ năm 1481 nêu rõ mục đích lập đồn điền
của nhà nước “để khai thác hết sức nông nghiệp, mở rộng nguồn súc tích cho nước”.
Nhiều sở đồn điền được thành lập chuyên lo việc mộ dân lưu vong khẩn hoang. Lực
lượng được huy động ở hình thức khai hoang này bao gồm cả quân lính đồn trú, tù
binh, tội nhân.

3.3 Tác dụng của cuộc cải cách

17
3.3.1. Hoàn chỉnh bộ máy nhà nước, ổn định chính trị
Hệ thống hành chính thời Lê Thánh Tông thể hiện được tính chất tập trung từ
dưới lên trên, từ địa phương đến trung ương, đề cao quyền hành toàn diện của người
đứng đầu nhà nước. Điều này rất quan trọng với một quốc gia thống nhất trên cơ sở
nông nghiệp, kinh tế hàng hóa chưa phát triển, giao thông liên lạc còn khó khăn. Đồng
thời nó cũng thể hiện mong muốn của người cải cách: “Các chức lớn nhỏ cùng ràng
buộc nhau, nặng nhẹ cùng giữ gìn nhau, lẽ phải của nước không bị chuyện riêng, việc
lớn của nước không đến lung lay, khiến mọi người có thói quen tốt làm hợp đạo đúng
phép”.

3.3.2. Phát triển kinh tế


Các chế độ ruộng đất dưới thời Lê Thánh Tông đã góp phần quan trọng vào sự
xác lập và thống trị của những quan hệ sản xuất phong kiến: quan hệ sản xuất địa chủ -
tá điền trong xã hội ở thế kỉ XV, khẳng định sự sở hữu nhà nước về ruộng đất Những
chính sách này còn có tác dụng giải quyết vấn đề ruộng đất, tạo đà cho nền nông
nghiệp phát triển. Ngoài ra, nhờ những biện pháp phát triển kinh tế, cho đến nửa sau
thế kỉ XV, diện tích ruộng đất khai hoang đã được khôi phục, diện tích sản xuất tăng
lên, ngân khố nhà nước vì thế cũng được tăng thêm. Những chính sách đó cũng góp
phần là gia tăng bộ phận nông dân tư hữu, tự do điều hòa mâu thuẫn giai cấp, ổn định
xã hội, phát triển kinh tế. Bên cạnh mặt tích cực, những chính sách kinh tế cũng bộc lộ
những hạn chế như coi trọng nông nghiệp, chưa chú trọng phát triển thủ công nghiệp,
thương nghiệp, hạn chế phát triển kinh tế hàng hóa. Và ngay trong chính sách quân
điền cũng thể hiện hạn chế của nó khi ràng buộc người nông dân vào ruộng đất để thu
thuế, ảnh hưởng đến sự ổn định của xã hội.

3.3.3. Văn hóa, giáo dục


Với những chính sách về giáo dục – khoa cử, Lê Thánh Tông đã phần nào tạo ra
một hệ thống quan lại trí thức có tài, đủ năng lực quản lí đất nước. Và những đóng góp
của Lê Thánh Tông trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục đã góp phần làm phong phú hơn
kho tàng văn hóa Đại Việt nói riêng và văn hóa dân tộc Việt Nam nói chung. Nhưng
chúng ta cũng không thể phủ nhận hạn chế của chính sách văn hóa do Lê Thánh Tông
đưa ra trong việc độc tôn Nho giáo, hạn chế Phật giáo. Đây là nguyên nhân gây nên
18
những mâu thuẫn trong giới những người theo đạo, là một trong những mầm mống gây
nên sự bất ổn định về xã hội.

4. CẢI CÁCH CỦA QUANG TRUNG

4.1. Hoàn cảnh cuộc cải cách của Quang Trung

Cũng giống như  hoàn cảnh hai cuộc cải cách trước, xã hội Việt Nam vào nữa
cuối thế XVIII, giai cấp phong kiến thống trị trong cả nước từ vua chúa đến quan lại
đua nhau ăn chơi, xa đọa cùng cực không chăm lo đến đời sống nhân dân.  Để thỏa
mãn  cho nhu cầu hưởng lạc chính quyền phong kiến Lê –Trịnh  ở đàng Ngoài củng
như chúa Nguyễn ở đàng trong ra sức bóc lột nhân dân một cách thậm tệ qua chính
sách sưu cao , thuế nặng, cùng với hang trăm thứ thuế khác đã bần cùng hóa nhân dân,
họ phải bỏ làng mạc sống lưu tán khắp nơi.

Qua đó cho ta thấy được nền kinh tế nông nghiệp bị đình đốn, sức sản xuất bị
phá hoại nghiêm trọng, tình hình xã hội mất ổn định, rối loạn, mâu thuẫn xã  hội ngày
gắt. Bộ máy quan liêu phong kiến kìm hãm sự phát triển xã hội, và điều khác biệt cơ
bản đối với hai thời kỳ  trước đó là đất nước ta chia ra làm Nam Triều và Bắc Triều tuy
nhiên cả hai đều xa đọa như nhau.

Sau khi lãnh đạo nhân dân cả nước vùng dậy lật đổ các chính quyền thối nát trê,
đồng thời cũánh bại quân xâm lược Xiêm (1785), quân Thanh (1789), nhà nước phong
kiến mới được thành lập dưới sự lãnh đạo của Quang Trung đứng trước một yêu cầu
đổi mới để đưa đất nước thoát khỏi sự khủng hoảng trầm trọng trên nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội.

4.2. Những chính sách, biện pháp cải cách của Quang Trung.

4.2.1 Về kinh tế

Nếu như nói trong công cuộc cải cách của nhà Hồ chủ trương thực hiện chính
sách “hạn điền”, còn đối với vua Lê Thánh Tông thì thực hiện chính sách “lộc điền” và
“quân điền” nhằm buộc chặt nhân dân vào ruộng đất nông nghiệp, và quan trọng hơn là
đảm bảo và duy trì  nhà nhà nước phong kiến quan liêu tập quyền. Thì ở đây Quang
Trung  đã căn cứ vào tình hình đất nước lúc giờ  đã ban ra “chiếu khuyến nông” lệnh

19
cho dân phiêu tán phải trở về quê khôi phục ruộng đồng bỏ hoang, làng xóm hoang
vắng. Những ai không theo chiếu chỉ đều bị trừng trị nghiêm. Sau một thời gian nhất
định mà làng xã nào còn đất công bỏ hoang thì phải nộp thuế gấp đôi. Chính vì thế chỉ
sau ba năm nền kinh tế nông nghiệp đã phát triển nhanh chóng.

Không những phát triển về nông nghiệp, mà công thương nghiệp cũng  được
khuyến khích phát triển “khoan thư sức dân”, bên cạnh đó Quang Trung còn thực hiện
một số cải cách tiến bộ như bãi bỏ thuế  điền cho nhân dân, động viên các tần lớp phấn
khởi tham gia sản xuất.Đồng thời Quang Trung cũng rất chú trọng ngoại thương, ông
chủ trương mở rộng buôn bán với các nước phương Tây, với chính sách “mở cửa ải,
thông thương buôn bán, khiến cho các hàng hóa không ngưng đọng để làm lợi cho dân
chúng” 

4.2.2 Về tài chính

Nếu như trong cuộc cải cách của Hồ Quý Ly đã chủ trương cho phát hành tiền
giấy (thông bảo hội sao) mặc dù đã có những chính sách cụ thể nhưng kết quả lại
không cao, bởi những nguyên nhân đã nêu. Thì đến thời Quang Trung để thúc đẩy  sản
xuất và lưu thông hang hóa, ông cho đúc tiền đồng (Quang Trung thông bảo và Quang
Trung đại bảo).

4.2.3 Về chính trị, quân sự

Sau khi quét sạch 29 vạn quân Thanh xâm lược(1789) Quang Trung ra sức xây
dựng một chính quyền phong kiến mới tập trung mạnh tiến bộ với ý thức quản lý đất
nước trên một phạm vi rộng lớn. Ông đặt biệt chú trọng vào việc “cầu hiền tài” tư
tưởng này cũng going như hai cuộc cải cách trước của hai triều đại Hồ và Lê. Bên cạnh
đó ông còn chú trọng đến chính sách đối ngoại đối ngoại.

Quân đội  có các binh chủng: bộ binh, thủy binh, tượng binh, pháo binh. Vũ khí
cũng có nhiều  loại khá phong phú có “hỏa hổ”, sung trường, đại bác..thuyền chiến chở
được cả vua, trang bị được từ 50 đến 60 khẩu đại bác, chở được 500 đến 700 lính.

4.2.4 Về văn hóa, giáo dục:

20
Quang Trung cho lập  Sùng Chính Viện chuyên dịch sách Hán ra chữ Nôm làm
tài liệu học tập giúp vua về mặt văn hóa, mục đích là ông muốn đưa chữ Nôm là quốc
ngữ chính thay thế cho chữ Hán, và đưa vào khoa cử. Trong các kỳ thi, quan trường
phải ra đề bằng chữ Nôm và đê tam trường, sĩ tử phải làm thơ phú bằng chữ Nôm.

Để đáp ứng nhu cầu xây dựng chính quyền mới và đào tạo quan lại mới, bên
cạnh phương thức “tiến cử”, “cầu hiền tài” Quang Trung đã ban hành chính sách
“khuyến học”, mở rộng chế độ học tập, thi cử. Trường học được mở rộng đến các làng
xã, cho phép các địa phương sử dụng một số đền chùa không cần thiết làm trường học.
Về nội dung, bỏ lối học từ chương khuôn sáo, cải tiến dần theo hướng thiết thực, bắt
các nho sinh, sinh đồ ở các triều đại trước phải thi lại. Người nào xếp loại ưu thì mới
được công nhận cho đỗ, hạng liệt phải về học lại, còn hạng sinh đồ 8 quan do bỏ tiền ra
mua trước đó (thời Lê – Trịnh) đều bị đuổi về chịu lao dịch như dân chúng.

Chủ trương phát triển giáo dục, thi cử để đào tạo nhân tài cho đất nước trong
công cuộc phục hưng của chính quyền mới được Quang Trung nói rõ: “Dựng nước lấy
học làm đầu, lấy nhân tài làm gốc. Trước đây bốn phương nhiều việc phải phòng bị,
việc học không được sửa sang, khoa cử bỏ dần, nhân tài ngày càng thiếu thốn… Trẫm
khi vừa mới bình định đã có nhã ý hậu đãi nhà nho, lưu tâm, mến kẻ sĩ, muốn có người
thực tài để dùng cho quốc gia”. Xuất phát từ nhận thức đó ngay từ năm 1789, Quang
Trung đã cho mở khoa thi Hương đầu tiên ở Nghệ An, chọn lấy những người đỗ tú tài
hạng ưu cho vào dạy trường quốc học, hạng thứ cho vào dạy ở trường phủ học. Quang
Trung chủ trương từng bước đưa khoa cử thành một phương thức đào tạo quan chức
cho nhà nước phong kiến mới.

4.3 Ý Nghĩa

Qua cuộc cải cách trên của quan Trung cho ta thấy được rằng  ông là người yêu
nước, có hoài bão rất lớn. Trên thực tế đã đem lại những tiến bộ vượt bậc đối với tình
hình khủng hoảng của đất nước ta lúc bấy giờ.Những thành tựu to lớn đó mà qua cuộc
cải cách của Quang Trung cho ta thấy được rằng  đã có sự tiếp biến và ngày càng phát
triển hơn rất nhiều so với thế hệ trước đó.

21
Bên cạnh những thành tựu to lớn mà cuộc cải cách đã đạt được thì còn những
hạn chế nhât định như: về xây dựng chính quyền trung ương nhìn chung Quang Trung
vẫn giữ cơ chế qun lieu như triều đại trước đó nên chưa đem lại hiệu quả cao, hay trong
việc cải cách giáo dục khi đưa chữ Nôm vào làm quốc ngữ đã gặp sự phán đối của một
số sĩ phu Tây Sơn. Đặc biệt là cải cách đó đã gặp nhiều chướng ngại, thời gian thực
hiện quá ngắn ngủi. Nếu như nói công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly bị đứt đoạn là do
giặc Minh xâm lược nươc ta, thì với cuộc cải cách của Quang Trung  lại một lần nữa đi
vào suy thoái khi  người anh hùng dân tộc này đột ngột qua đời (29.07.1792), giữa lúc 
mọi việc cách mới thực hiện chưa bao lâu. Triều đại Quang Toản tiếp sau đó bất lực,
không còn tiếp tục thực hiện những cải cách của vua cha và bị Nguyễn Ánh lật đổ vào
đầu 1802 .

22
KẾT LUẬN

Từ việc nghiên cứu các cuộc cải cách trong lịch sử trung đại Việt Nam cho thấy,
mỗi khi đất nước, xã hội nảy sinh nhu cầu canh tân để phát triển thì đều xuất hiện
những tư tưởng cải cách và những cuộc cải cách do những người cầm quyền, đứng đầu
nhà nước tổ chức, chỉ đạo thực hiện.

Qua các cuộc cải cách trên từ thế kỷ X-XVIII cho chúng ta thấy chúng đều có
một điểm chung đó là xuất phát từ sự khủng hoảng suy thoái nền kinh tế xã hội, và nhà
nước đang đứng trước nguy cơ sụp đổ. Và những nhà cải cải đều là những nhân vật ưu
tú của thời đại, của lịch sử, họ là người con người có hoài bão, có tấm lòng yêu nước
muốn cho đất nước thoát khỏi sự khủng hoảng, nhân dân được sống yên bình. Tất cả
những họ (Khúc Hạo, Hồ Quý Ly, Lê Thánh Tông, Quang Trung) đều có chung một
tư tưởng đó là muốn cho “Quốc thái dân an”. Tuy nhiên hoài bảo,tài năng đó, tấm lòng
đó không phải lúc nào cũng được đi đến nơi đến chốn của sự thành công. Và một điều
không thể tránh khỏi trong quá trình thực hiện công cuộc cải cách đó là gặp nhiều khó
khăn, chướng ngại vật ngăn cản sự tiến bộ đó.

Nhiều cuộc cải cách thành công, có tác dụng tích cực đến sự phát triển của đất
nước, sự chuyển mình của dân tộc, mà nổi bật là cuộc cải cách của Khúc Hạo, cải cách
của Lê Thánh Tông. Nhưng bên cạnh đó cũng có cuộc cải cách bị thất bại mặc dù có
mục tiêu, định hướng đúng đắn nhưng lại do có nhiều hạn chế trong nội dung, biện
pháp thực hiện và khó khăn khách quan như cuộc cải cách của Hồ Quý Ly.

Qua việc nghiên cứu ba công cuộc cải cách trên cho chúng ta thấy được rằng
càng về sau công cuộc cải cách càng mang tính kế thừa và phát huy những thành tựu
của các cuộc cải cách đi trước, đồng thời những sai lầm, khuyết điểm đã dần được khắc
phục ở lần cải cách về sau. Đó là bước phát triển vô cùng quan trọng của lịch sử cải
cách dân tộc, nó là tiền đề cho quá trình kiến thiết đổi mới đất nước. Tiền lệ đó là kết
quả của trí tuệ, lòng yêu nước nhiệt thành, có trách nhiệm với dân tộc, đó cũng là sự
táo bạo mạnh dạng tìm tòi, suy nghĩ, dũng cảm đề xuất tiến hành cải cách.    

23
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí – Quan chức chí, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1992, tập 2, tr. 34.

2. Nhiều tác giả, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Tập 3, Nhà xuất bản Khoa
Khoa Học Xã Hội, 1965.

3. Quốc sử quán: Khâm Định Việt sử thông giám Cương mục, tập 1, Nxb Giáo Dục, Hà
Nội, 1998, tr.218.

4. Văn Tạo, Sử học và hiện thực Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội,
2000.

5. Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí
Minh, 1992.

6. Lê Đức Tiết, Lê Thánh Tông - Vị vua anh minh, nhà canh tân xuất sắc, Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997.

7. Viện Sử học, Sử học Việt Nam trên đường phát triển, Nhà xuất bản Khoa học
Xã Hội, Hà Nội, 1981.

8. GS. Trương Hữu Quýnh, GS. Đinh Xuân Lâm, GS. Lê Mậu Hãn, Đại cương lịch sử
Việt Nam toàn tập, Nhà xuất bản Giáo dục, 2020

9. Vĩnh Khánh (12-12-2020)[Thông điệp từ lịch sử] Hồ Quý Ly - nhà cải cách tiên
phong, https://kinhtedothi.vn/thong-diep-tu-lich-su-ho-quy-ly-nha-cai-cach-tien-
phong-404070.html, truy cập 12/11/2021

10. Vũ Thị Dung, Doãn Thị Hồng Nhung, CHUYÊN ĐỀ: CẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH
TÔNG – NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH DẪN TỚI SỰ HƯNG THỊNH CỦA TRIỀU ĐẠI LÊ
SƠ, CHUYÊN ĐỀ CẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG – NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH
DẪN TỚI SỰ HƯNG THỊNH CỦA TRIỀU ĐẠI LÊ SƠ | Xemtailieu, truy cập
12/11/2021

24
25

You might also like