Professional Documents
Culture Documents
Động cơ
nhiệt
Các động
Máy hơi Tuốc bin Động cơ Động cơ
cơ nhiệt
nước khí đốt trong phản lực
khác
Động cơ
Động cơ Động cơ Gas
xăng Diesel (Sử dụng
khí đốt)
1860, J.J. E. Lenoir (1822-1900), đã chế tạo động cơ đốt trong đầu tiên
bằng sự đốt cháy khí đốt ở áp suất môi trường, không có sự nén hỗn hợp trước
quá trình cháy. Công suất lớn nhất đạt được khoảng 5 mã lực và hiệu suất cực
đại khoảng 5%.
1876, Nicolaus A. Otto (1832-1891) và Eugen Langen (1833-1895) tận
dụng sự gia tăng áp suất trong quá trình cháy, để cải tiến dòng khí nạp. Hiệu
suất nhiệt đạt được trong trường hợp này lên đến 11%. Sau đó, nhằm nâng cao
hiệu suất nhiệt và giảm kích thước động cơ đốt trong, Otto đã gợi ý các chu
trình (nạp, nén, cháy dãn nở và thải) cho 4 hành trình piston của động cơ đốt
trong.
1884, Alphonse Beau de Rochas (1815-1893) đã mô tả nguyên lý các chu
trình của ĐCĐT. Ông cũng đưa ra các điều kiện nhằm đạt hiệu suất cực đại của
động cơ đốt trong gồm:
Thể tích xy lanh tối đa ứng với bề mặt biên tối thiểu
Tốc độ làm việc lớn nhất có thể đạt
Tăng tỉ số nén tối đa
Áp suất tối đa kể từ lúc bắt đầu dãn nở
1886, Hãng Daimler – Maybach xuất xưởng động cơ xăng đầu tiên có
công suất 0,25 mã lực ở số vòng quay 600 vòng/phút.
1892, Rudolf Diesel (1858-1913) đã gợi ý một dạng động cơ đốt trong
mới bằng cách phun nhiên liệu lỏng vào trong không khí sấy nóng. Sau đó, hỗn
hợp này tự bắt cháy và có hiệu suất nhiệt khoảng 26%. Loại động cơ này được
biết như động cơ Diesel ngày nay.
1957, Động cơ đốt trong kiểu piston quay (Động cơ Wankel) được chế
tạo rất gọn nhẹ.
Từ đó đến nay, người ta liên tục cải tiến và phát triển từng bộ phận trong
động cơ đốt trong để loại thiết bị này ngày càng hoàn thiện và đạt năng suất cao
1.2. CẤU TẠO ĐỘNG CƠ XĂNG:
1.2.1. Những mẫu động cơ Xăng:
Mặt cắt tiết diện những mẫu động cơ đánh lửa được sản xuất là các dạng
điển hình khác nhau đã và đang được sử dụng rộng rãi.
- Động cơ đánh lửa cỡ nhỏ được sử dụng trong nhiều ứng dụng khác
nhau như: trong gia đình (máy cắt cỏ, máy cưa …), máy phát điện di
động, ghe máy, mô tô nước và xe gắn máy; thường sử dụng động cơ
một xy lanh.
- Động cơ nhiều xy lanh thường được sử dụng trên ô tô.
Động cơ bốn xy lanh (hình 1.2-1) thông dụng nhất sừ dụng trong ô tô có
dung tích vào khoảng 2.5 lít. Động cơ có 2 lần phát động trên một vòng quay
trục khuỷu và lực phát ra được cân bằng.
Động cơ chữ V với 2 hàng của xylanh góc lệch là 90 0 hoặc góc độ khác
nhọn hơn, một số thỏa thuận đưa ra được sử dụng rộng rãi cho những động cơ
thay thế lớn. Hình 1.2-2 trình bày 1 động cơ V- 6 , 6 xylanh xếp thành 2 hàng
mỗi bên 3 với góc lệch là 60 0 ở giữa chúng. Sáu xylanh thường được sử dụng ở
những động cơ có dung tích từ 2.5 đến 4.5 lít. Sáu xylanh có 3 thì phát động
trong mỗi vòng quay. Tuy nhiên trên một dãi thẳng kết quả là động cơ dài, lực
dao động trên trục khuỷu lớn và sự phân phối hòa khí đến mỗi xylanh khó khăn
hơn. Ơ V-6 thì thuận tiện hơn và là mẫu cân bằng các thành phần của động cơ.
Tuy nhiên, với động cơ V một mô men làm rung chuyển mạnh được áp đặt lên
trục khuỷu xuất phát từ lực quán tính, kết quả là việc cân bằng động cơ kém hơn
động cơ thẳng hàng. Những động cơ đánh lửa V-8 và V-12 cũng được sử dụng
rộng rãi từ việc đáp ứng dễ dàng, suôn sẽ, dao động thấp, thay thế rộng.
Xích truyền
động trục cam
Trục cam
Xú páp
Piston
Va = Vh + Vc
5 6
7
4
8
3
9
1 10
11
Chú thích:
1. Cacte trên; 2. Bánh răng trục cam;
3. Thân Xy lanh; 4. Suppap hút (nạp);
5. Bu gi; 6. Suppap thoát (xả);
7. Quy lát (Culasse, Cylinder head); 8. Piston;
9. Thanh truyền (Bielle, Connecting rod); 10.Trục khuỷu (Crankshaft);
11.Cacte dưới.
Cấu tạo của động cơ (hình 1.2-9) gồm có: 1 xy lanh (3) được đậy bởi nắp
quy lát (7). Trên nắp (7) có khoan lổ ren để lắp bugi đánh lửa đốt cháy hòa khí
nén trong xy lanh. Piston (8) chuyển động tịnh tiến lên xuống trong lòng xy
lanh. Phần đầu của piston này có các rảnh chứa các vòng séc măng rà khít lên
bề mặt lòng xy lanh tạo một buồng kín trên đỉnh piston. Hai bên hông xy lanh
hoặc ở quy lát có khoét hai lổ cho hai supape. Trong đó, một supape đóng vai
trò là supape nạp/hút (4) dùng để hút không khí hoặc hỗn hợp nhiên liệu vào
trong buồng cháy động cơ, một supape đóng vai trò là supape thoát/xả (6) dùng
để thải hỗn hợp đã cháy ra ngoài.
Xy lanh được lắp lên cacte trên (1). Đây là một bộ phận đỡ cho trục
khuỷu (10) và trục cam. Piston nối với trục khuỷu bởi thanh truyền (9), có
nhiệm vụ truyền lực đến đẩy trục khuỷu quay. Cacte trên được lắp ghép với
cacte dưới. Bộ phận này có nhiệm vụ chứa nhớt bội trơn động cơ và bao kín
phía dưới.
Supape hoạt động được nhờ vào mấu cam trên trục cam thông qua đệm
đẩy, đũa đẩy, cò mổ và đóng lại nhờ lò xo supape. Trục cam quay được nhờ
bánh răng cam được dẫn động bằng bánh răng trục khuỷu hay bằng đai xích.
Bánh răng trục cam có đường kính gấp đôi bánh răng trục khuỷu để trục khuỷu
quay hai vòng, trục cam quay một vòng. Vì vậy, trong một chu kỳ làm việc mỗi
supape chỉ mở ra một lần mà thôi.
1.2.2. Cấu tạo của động cơ Xăng 2 kỳ):
Hình 1.3-1
Đối với động cơ nhiều xy lanh , dung tích xy lanh của động cơ bằng i.V h (
i là số xy lanh trong động cơ).
Thể tích buồng cháy (Vc): thể tích còn lại trong xy lanh khi piston ở ĐCT.
Đó là thể tích bé nhất của xy lanh.
Thể tích toàn bộ xy lanh (Va): thể tích ở phía trên piston khi nó nằm ở
ĐCD. Đó là thể tích lớn nhất của xy lanh:
Va = Vh + Vc
Tỷ số nén () : tỷ số giữa thể tích toàn bộ xy lanh chia cho thể tích buồng
cháy. Tỷ số nén chỉ rõ thể tích xy lanh bị giảm đi bao nhiêu lần, tức là thể
tích khí trong xy lanh bị ép nhỏ bao nhiêu lần khi piston đi từ ĐCD lên ĐCT.
Tỷ số nén ký hiệu là e và được tính bằng công thức sau :
Hòa khí : hỗn hợp giữa hơi xăng và không khí trộn thật đều và đúng tỷ lệ.
Ở động cơ xăng hòa khí được tạo thành ở bên ngoài xy lanh động cơ tại bộ
chế hòa khí (carburater). Vì vậy, khí nạp mới hút vào xy lanh động cơ xăng
chính là hòa khí trong khi ở động cơ diesel khí nạp mới chỉ là không khí
(thanh khí).
Môi chất công tác (MCCT): 1 khối khí trong xy lanh động cơ mà nhờ sự
thay đổi các thông số trạng thái (thể tích , áp suất và nhiệt độ) của nó, nhiệt
năng tạo thành do đốt cháy nhiên liệu chuyển sang cơ năng (sinh công).
Trong kỹ thuật nhiệt động lực học MCCT còn gọi là chất môi giới.
Kỳ/thì (temps): thời gian MCCT thay đổi trạng thái trong một hành trình
piston hay trong nửa vòng quay của trục khuỷu.
Chu kỳ (cycle): toàn thể sự thay đổi trạng thái (sự thay đổi thể tích, áp
suất và nhiệt độ) của MCCT từ khi mới đem vào xy lanh cho đến lúc được
xả ra ngoài khí trời.
1.3.2. Nguyên lý hoạt động của động cơ xăng 2 kỳ:
Kỳ thứ nhất (hành trình piston đi xuống): hành trình cháy giản nỡ sinh
công và một phần của quá trình thải khí cháy đồng thời nạp hòa khí mới vào
xy lanh. Do đó, động cơ đã thực hiện xong một chu kỳ.
Lúc này, piston đang ở ĐCT, thể tích xy lanh bằng thể tích buồng cháy
(Vc). Hòa khí bị nén có áp suất và nhiệt độ cao (T = 280-300 0C), áp suất (p = 8-
15 atm(kG/cm2)) gặp tia lửa điện phóng ra từ bugi lập tức bốc cháy rất nhanh.
Áp lực của khí cháy (môi chất công tác) trong xy lanh tăng vót lên 30-40 atm,
đẩy piston đi xuống ĐCD, qua trung gian thanh truyền làm quay trục khuỷu
(thực hiện quá trình giãn nở sinh công). Đồng thời trong hành trình đi
xuốngpiston còn có nhiệm vụ ép hòa khí đã được hút sẳn vào cạt-te (hộp trục
khuỷu) ở kỳ trước.
Quá trình giãn nở chiếm khoảng 3/4-8/10 hành trình đi xuống. Vì tại vị trí
này, piston vừa mở lỗ thoát, lập tức khí cháy tuôn ra ngoài, áp lực của môi chất
công tác trong xy lanh giảm rất nhanh và một phần lớn khí cháy đã bị tống ra
khỏi xy lanh.
Piston tiếp tục đi xuống, kế đó mở tiếp lỗ nạp, hòa khí bị nén trong cạt-te
có áp suất khoảng 1,3-1,5 (atm) sẽ nạp đầy vào trong xy lanh qua lỗ nạp. Như
vậy, kể từ lúc cả 2 lỗ thoát và nạp cùng mở, có 2 quá trình xãy ra đồng thời (thải
khí ra khỏi xy lanh và nạp khí mới vào xy lanh) và chúng được gọi là quá trình
quét thải (vì thực chất ở động cơ hai kỳ, người ta còn lợi dụng dòng khí mới đẩy
khí cháy ra sạch)
Kỳ thứ hai (piston đi từ ĐCD đến ĐCT): tiếp tục quá trình thải nén.Khi
piston xuống đến ĐCD, chấm dứt kỳ 1, nhờ quán tính cuỷa bánh trớn (bánh
đà), piston đổi chiều chạy lên tạo ra áp thấp (chân không) ở cạt-te và hút hòa
khí vào. Trong lúc 2 lỗ nạp và thoát chưa đóng, hòa khí tiếp tục nạp vào
trong xy lanh, đồng thời khí cháy tiếp tục thoát ra ngoài.
Piston đóng lỗ nạp trước rồi mới đóng lỗ thoát, do đó một phần khí nạp
mới (hòa khí có hơi xăng) sẽ bị khí cháy cuốn ra ngoài. Chính vì lý do này,
động cơ hay kỳ tiêu hao nhiều xăng hơn động cơ 4 kỳ.
Quá trình nén, chỉ thực sự bắt đầu khi piston đóng kín cả hai lỗ nạp thải.
Thể tích xy lanh nhỏ dần, làm tăng nhiệt độ vá áp suất của MCCT trong xy
lanh. Đối với chu kỳ lý thuyết, quá trình nén chấm dứt khi piston lên đến gần
ĐCT, bugi nẹt lửa, hòa khí bốc cháy. Vì vậy, quá trình nén thực tế được xem
như chấm dứt khi piston lên gần ĐCT. Tương ứng với góc đánh lửa sớm
(khoảng 4-120 góc quay trục khuỷu trước ĐCT).
Kỳ thứ nhất: Piston chạy xuống Kỳ thứ hai: Piston chạy lên
- Ép hoà khí ở cạt te. - Xú páp nạp đóng, chấm dứt nạp
- Nạp khí nạp mới vào trong xy lanh - Hút hoà khí (khí nạp mới) vào cạt te.
Trong HTĐL với cơ cấu điều khiển góc đánh lửa sớm bằng điện tử tuỳ
yêu cầu thiết kế từng loại động cơ của các hãng chế tạo mà đặc điểm, VI
cấuXỬ
tạo,
LÝ
hoạt động của hệ thống khác nhau. Tuy nhiên, có thể chia làm 2 loại sơ đồ
nguyênTín
lý hiệu
làm khởi
việcđộng
chính: mạch điện có sử dụng bộGiao
chia điện và mạch điện
không sử dụng bộ chia điện. tiếp
Tínkhối:
hiệu tốc độ động cơ ngõ
- Sơ đồ vào
Cảm biến vị trí bướm ga
Hình 1.5-1
Hình 1.5-2
Phun nhiên liệu vào trong ống góp hút hoặc cổng vào đã được chọn thay
cho bộ chế hòa khí. Với cổng phun, nhiên liệu được phun với áp suất thấp từ hệ
thống cung cấp nhiên liệu đến mỗi cổng nạp. Có vài dạng khác nhau của hệ
thống: phun cơ khí sử dụng một bơm phun được điều khiển bởi động cơ; cơ khí;
phun liên tục; hệ thống điều khiển điện tử . Hình 1.5-2 xem là 1 ví dụ về hệ
thống điều khiển điện tử . Ở hệ thống này lưu lượng không khí được đo trực tiếp
; các van phun được thúc đẩy tăng gấp 2 lần cho mỗi vòng quay cốt cam bởi dao
động của kim phun mà khỏang thời gian đã được xác định bởi 1 đơn vị điều
khiển điện tử từ qui định số lượng được yêu cầu của nhiên liệu trên mỗi xylanh
trên mỗi chu kỳ. Chọn sử dụng cho hệ thống phun đơn được đặt thay vào vị trí
của bộ chế hòa khí. Việc này gần như là cho phép điều khiển điện tử của lưu
lượng nhiên liệu được giảm bớt giá thành.
Dãy những sự kiện diễn ra bên trong xy lanh động cơ được minh họa
trên hình 1.5-3. Những thay đổi nhiều hơn được đánh dấu trên sơ đồ sự lặp lại
của góc quay trục khuỷu và áp suất ở chu kỳ 4 thì. Góc quay trục khuỷu là một
biến đổi độc lập có ích bởi vì quá trình này hầu như không đổi qua một dãi
rộng của tốc độ động cơ.
Hình 1.5-3
Trên hình biểu diễn mối quan hệ thời gian đóng mở xú páp và thể tích
cuả 1 loại động cơ đánh lửa tự động. Để duy trì lưu lượng hòa trộn cao ở tốc độ
lớn (công suất đưa ra cao) ở xú pápp nạp mở trước điểm chết trên và đóng sau
điểm chết dưới. trong lúc đi vào lòng xylanh hổn hợp hòa khí sẽ kết hợp với
lượng khí đã cháy ở chu trình trước. Sau khi xú páp hút đóng, áp suất và nhiệt
độ trong xylanh tăng cao và thể tích xylanh giảm đi. Có sự truyền nhiệt cho đầu
piston, xylanh, vách xylanh nhưng hiệu suất mất mát là vừa phải.
Ở khoảng 10 đến 40 độ của góc quay trục khuỷu trước điểm chết trên
bugie đánh lửa và quá trình cháy bắt đầu. Trong bộ chia điện, trục rô to được
điều khiển bởi trục cam đóng mở 1 vít lửa làm biến đổi dòng điện sơ cấp được
cung cấp từ accu thành dòng điện thứ cấp có điện áp cao phóng ra tia lửa giữa 2
chấu bugie đốt cháy hổn hợp nhiên liệu. Ngày nay trên ô tô sử dụng hệ thống
đánh lửa điện tử. Ngọn lửa phát triển không kiểm soát được từ sự phóng điện
của bugie truyền vào hổn hợp hòa khí và khí đã cháy ở bên trong xylanh và nó
dập tắt trong buồng đốt Khoảng thời gian quá trình cháy diễn ra biến đổi theo sự
thiết kế và hoạt động của động cơ nhưng chỉ khoảng 40 đến 60 độ theo góc qay
trục khuỷu như trên hình 1.5-3. Việc đốt cháy hổn hợp hòa khí trong ngọn lửa,
áp suất xylanh trên hình 1.5-3 (đường liên tục) dốc tới điểm cao hơn nhờ có
sức nén riêng (đường nét đứt). Đường cong trể này gọi là áp suất xylanh của
động cơ - là áp suất rất nhỏ nhận được từ động cơ hoặc không phải từ ngọn lửa.
Chú ý rằng do từ những sự khác nhau giữa các lưu lương và sự hòa trộn giữa
những xylanh và giữa mỗi chu kỳ cuả các xylanh sự phát triển quá trình cháy
có những điểm khác biệt. Do đó một kết quả là biên dạng của đường áp suất
đối với góc quay trục khuỷu trong mỗi xylanh và trong từng chu kỳ thì không
chính xác như nhau.
Có một điều kiện thuận lợi nhất cho thời điểm đánh lửa cho khối lượng
hòa khí bên trong xylanh, để nhận được mô men xoắn lớn nhất. Thời điểm đánh
lửa sớm hơn hoặc trể hơn, làm giảm công suất phát ra. Gọi là thời điểm mô men
cản cực đại. Thời điểm thuận lợi là không quá sớm ở cuối thì nén và cũng
không được quá trể.
Vào khoảng 2 phần 3 của quá trình nổ giản thì xú páp thoát mở ra ,một
phần khí đã cháy tuôn ra ngoài. việc xú páp thoát mở sớm trước điểm chết dưới
và đóng lại sau điểm chết trên làm kéo dài thì thoát.
Việc xú páp thải đóng sau điểm chết trên và xú páp hút mở trước điểm
chết trên được điều khiển bởi bánh răng cốt cam . Bảo đảm cho các xú páp mở
hoàn toàn khi tốc độ piston cao các kỳ mở của xú páp thường chồng chéo lên
nhau. Nếu lưu lượng nạp được từ bướm ga thấp hơn áp lực trên đường ống xã
thì lưu lượng quay về của khí đã cháy vào trong đường ống nạp xãy ra khi xúc
páp nạp được mở trước.
1.5.2. Đặc điểm của động cơ Xăng hai kỳ:
- Xy lanh: Bên hông, phía dưới xy lanh, khoảng 75-80% hành trình đi xuống
của piston có 1 lỗ để khí thoát ra ngoài gọi là lỗ thoát. Đôi diện với lỗ thoát
nhưng thấp hơn một chút là lỗ nạp được nối thông với hộp trục khuỷu để rút
hòa khí tử cạt-te vào trong xy lanh động cơ. Dưới lỗ thoát là lỗ hút thông hơi
với bộ chế hòa khí, để nạp hòa khí vào cạt-te. Tóm lại, trong xy lanh động cơ
xăng 2 kỳ có 3 lỗ nên người ta còn gọi động cơ này là động cơ 3 lỗ.
- Piston: Đỉnh piston có bướu (đỉnh piston được làm lồi về phía lỗ nạp) để
hướng luồng hòa khí từ dưới cạt-te đi thẳng lên nắp quy-lát, ngăn không cho
hòa khí đi ra lỗ thoát nhằm trách tổng thất khí nạp mới (hòa khí có hơi xăng).
Hiện nay, đầu piston động cơ hai kỳ có loại không có bướu mà hòa khí
không ra lỗ thoát được nhờ miệng hòa khí làm xiên.
- Cạt-te (hộp trục khuỷu): phải thật kín vì piston trong lúc chạy xuống có
nhiệm vụ ép sơ cấp hòa khí chứa trong cạt-te trước khi đi vào trong xy lanh
động cơ. Ngoài ra, cạt-te không chứa nhớt vì nếu có nhớt bôi trơn thì khi hòa
khí theo lỗ nạp từ hộp trục khuỷu vào xy lanh mang theo nhớt làm ướt bugi,
không đánh lửa được. Đối với động cơ loại này, để bôi trơn các bề mặt ma sát
trong động cơ, ngươì ta dùng xăng pha nhớt.
Động cơ xăng hai kỳ tiêu hao nhiều xăng hơn động cơ bốn kỳ vì khi
piston đi lên đóng lỗ nạp mà lỗ thoát vẫn chưa đóng nên một phần hòa khí có
chứa hơi xăng theo khí cháy ra ngoài. Chính vì vậy, động cơ 4 kỳ có tính kinh tế
hơn hẳn động cơ hai kỳ.
1.6. NHỮNG TIẾN BỘ KỸ THUẬT CỦA ĐỘNG CƠ XĂNG:
Trong động cơ đánh lửa cưỡng bức truyền thống, thông thường nhiên liệu
và không khí được hoà trộn trước trên đường nạp. Sau khi vào xy lanh, khí nạp
mới hoà trộn với khí sót và quá trình cháy bắt đầu vào khoảng cuối kỳ nén nhờ
tia lửa điện của hệ thống đánh lửa sử dụng vít lửa.
Theo từng giai đoạn phát triển của ngành công nghiệp ô tô, động cơ xăng
đã không ngừng được cải tiến và từng bước hoàn thiện đến mức tối ưu có thể.
Quá trình phát triển động cơ xăng được đặc biệt chú trọng ở hai hệ thống: hệ
thống nhiên liệu và hệ thống đánh lửa.
- Hệ thống đánh lửa được cải tiến từ hệ thống đánh lửa thường bằng accu, hệ
thống đánh lửa bằng Manheto đến hệ thống đánh lửa bán dẫn có tiếp điểm và
hệ thống đánh lửa bán dẫn không tiếp điểm, cho đến hiện nay, hệ thống đánh
lửa trực tiếp không cần sử dụng bộ chia điện.
- Hệ thống nhiên liệu, cải tiến từ hệ thống nhiên liệu dùng bộ chế hoà khí cơ
bản đến bộ chế hoà khí hiện đại, phun xăng trên đường ống nạp và hiện nay
là phun xăng trực tiếp.
Các mục tiêu chủ yếu của cải thiện động cơ đốt trong nói chung và động
cơ xăng nói riêng là nhằm nâng cao hiệu suất nhiệt, tiết kiệm nhiên liệu và giảm
ô nhiễm. Các xu hướng xử lý để cải thiện quá trình cháy trong động cơ hiện nay
là cải tiến nhiên liệu, kể cả nghiên cứu đưa vào sử dụng các nhiên liệu mới, xử
lý trên động cơ (cải tiến kết cấu, các hệ thống của động cơ, điều khiển động
cơ .....) và xử lý sau động cơ (xử lý các sản phẩm cháy độc hại, gây ô nhiễm
trong khí thải động cơ).