You are on page 1of 99

Điều quan trọng nhất là. . .

1.TƯ DUY CẤP 2


Rất ít người có những điều cần thiết để trở thành một nhà đầu tư thành công. Một số có thể được dậy,
nhưng không phải tất cả mọi người. Và những người được dậy cũng không được dạy tất cả. Một
phương pháp đầu tư có thể đúng trong một số trường hợp nhưng không phải tất cả. Và đầu tư không
thể giảm các bước bằng cách chuyển cho máy tính. Ngay cả nhà đầu tư vĩ đại nhất cũng không đúng
trong mọi trường hợp.
Lí do rất đơn giản. Không có công thức nào đúng cho mọi trường hợp. Thị trường luôn biến động, và
hiếm khi lặp lại chính xác những gì xảy ra trong quá khứ. Tâm lý đóng vai trò quan trọng trong thị
trường, và vì nó rất biến động, do vậy tạo nên kết quả rất khó lường. Một phong cách đầu tư có thể
đúng trong một trường hợp, nhưng những hoạt động của nó có thể gây tác động đến môi trường, do đó
một cách tiếp cận mới là cần thiết. Và nếu mọi người đều theo một phong cách, điều đó sẽ làm giảm
hiệu quả.
Đầu tư, cũng như kinh tế, giống nghệ thuật hơn một môn khoa học. Và điều đó có nghĩa nó có thể có
chút lộn xộn.
Một trong những điều quan trọng nhất cần được ghi nhớ là: kinh tế không phải một môn khoa học
chính xác. Khía cạnh khoa học thể hiện ở chỗ: thí nghiệm được thực hiện, kết quả trong quá khứ có thể
được lặp lại, và mối quan hệ nguyên nhân kết quả có thể được giữ lại.
Bất kì ai cũng có thể có được mức thu nhập ngang với thị trường bằng cách mua CCQ của các quỹ chỉ
số. Nhưng các nhà đầu tư muốn hơn thế, họ muốn đánh bại thị trường.
Theo quan điểm của tôi thì định nghĩa nhà đầu tư thành công là: có thành tích tốt hơn thị trường và
những nhà đầu tư khác. Để thực hiện điều đó bạn cần may mắn hoặc một cái nhìn sâu sắc vượt trội.
Trông chờ vào may mắn không phải là một ý hay, do vậy bạn cần tập trung vào tầm nhìn. Trong bóng
rổ họ nói: bạn không thể huấn luyện chiều cao. Đó là khó có thể dạy về tầm nhìn. Như bất kỳ hình thức
nghệ thuật khác, một số người hiểu về đầu tư sâu hơn những người khác. Họ có hoặc quản lý “dấu vết
của sự khôn ngoan”.
Mọi người đều muốn kiếm tiền. Tất cả các nền kinh tế dựa vào nó để kiếm tiền. Đến nỗi chủ nghĩa tư
bản: động cơ lợi nhuận làm mọi người làm việc chăm chỉ hơn. Việc theo đuổi lợi nhuận là căn nguyên
của sự tiến bộ của thế giới. Hàng triệu người đang cạnh tranh để đạt được vài đô la. Ai sẽ có nó?
Những người đi trước một bước. Trong số những người chạy đua, như sự phân cấp ở trường học,
những học viên được đánh giá cao hơn là những người dành nhiều thời gian ở thư viện hoặc phòng
gym, khỏe hơn, đổ mồ hôi nhiều hơn, được trang bị nhiều hơn. Nhưng trong đầu tư, cần một tư duy sâu
sắc hơn. Nhà đầu tư nên trang bị các khóa học về tài chính và kế toán, đọc nhiều và nếu may mắn họ
nhận được sự tư vấn từ một ai đó với sự hiểu biết sâu sắc về đầu tư. Mục đích duy nhất của những điều
trên nhằm đặt được cái nhìn sâu sắc vượt trội, khả năng trực giác, ý thức về giá trị và nhận thức về tâm
lý nhằm đạt kết quả trên mức trung bình. Vì vậy cần tư duy cấp độ 2.
Hãy nhớ rằng mục tiêu của bạn trong đầu tư không phải là lợi nhuận trung bình, mà là tốt hơn mức
trung bình. Vì vậy suy nghĩ của bạn phải hơn những người khác, cả mạnh mẽ hơn và ở cấp độ cao hơn.
Kể cả những nhà đầu tư khác có thể thông minh, có thông tin tốt, công nghệ cao. Bạn phải tìm những
điều họ không có. Bạn phải nghĩ về cái gì đó mà họ không tưởng tượng ra, nhìn thấy những gì họ bỏ
lỡ hoặc có suy nghĩ sâu sắc mà họ không có. Bạn phải phản ứng và cư xử khác biệt. Trong ngắn hạn,
being right có thể là cần thiết để đầu tư thành công, nhưng chưa đủ. Bạn phải đúng hơn mọi người khác.
Có nghĩa là suy nghĩ của bạn phải thật sự khác biệt.
Thế nào là tư duy cấp độ 2?
-Suy nghĩ lv 1 nói: đây là công ty tốt, hãy mua cổ phiếu này.
Suy nghĩ lv 2 nói: đây là công ty tốt, nhưng mọi người nghĩ đây là công ty vĩ đại, không đúng. Giá đã
quá cao so với giá trị, hãy bán cổ phiếu này.
-Suy nghĩ lv 1 nói: triển vọng tăng trưởng thấp, lạm phát cao. Hãy bán cổ phiếu.
Suy nghĩ lv 2 nói: triển vọng xấu nhưng mọi người đang bán tháo cổ phiếu, Mua!
-Suy nghĩ lv1: lợi nhuận cty đã giảm, bán.
Suy nghĩ lv2: lợi nhuận cty sẽ giảm ít hơn mọi người nghĩ và những bất ngờ thú vị sẽ nâng giá cp.
Mua!
Tư duy lv 1 chỉ là những suy nghĩ đơn giản và hời hợt, và chỉ là điều mà tất cả mọi người có thể làm
( một dấu hiệu xấu cho việc cố gắng vượt trội).
Tất cả các nhà tư tưởng cấp độ 1 cần 1 ý kiến về tương lai như: triển vọng của công ty thuận lợi, giá cổ
phiếu sẽ tăng.
Tư duy lv 2 sâu sắc và phức tạp hơn:
-Phạm vi của các kết quả có thể xảy ra trong tương lai?
-Những kết quả mà tôi nghĩ sẽ xảy ra?
-Xác suất tôi đúng là gì?
-Nhận thức chung là gì?
-Suy nghĩ của tôi khác mọi người ntn?
-Mức giá cổ phiếu hiện tại có phù hợp với kỳ vọng tương lai của số đông và của tôi ko, cao hơn hay
thấp hơn?
-Tâm lý đồng thuận đó là lạc quan hay bi quan?
-Điều gì sẽ xảy ra nếu đa số đúng, và tôi đúng?
Sự khác biệt giữa tư duy lv1 và lv 2 là rất lớn. Và số người ở vế sau ít hơn so với số người vế trước.
Người bình thường tìm kiếm các công thức đơn giản và câu trả lời dễ dàng. Tư duy phản biện biết rằng
đầu tư thành công cần suy nghĩ ngược với sự đơn giản. Tuy nhiên đó không có nghĩa là bạn chạy vào
đám đông cố làm phức tạp vấn đề. Đó là môi giới và các quản lý quỹ.
Còn những người đơn giản hóa vấn đề: những người dạy về đầu tư, những người quá quen với sự tôn
sùng của học viên. Tôi nghĩ hầu hết họ đã bỏ qua kết quả đầu tư của mình, bỏ qua những năm tồi tệ
hoặc đổ lỗi cho đen đủi. Cuối cùng, có những người thất bại đơn giản chỉ vì không hiểu sự phức tạp
của vấn đề. Có chuyên gia đã phát biểu: “nếu bạn có kinh nghiệm tốt với một sản phẩm, hãy mua nó”.
Còn rất nhiều điều phức tạp hơn để có thể đầu tư thành công.
Người bình thường nghĩ những điều mọi người nghĩ, và họ có kết luận giống nhau. Điều này không thể
là con đường dẫn đến những thành công vượt trội. Tất cả các nhà đầu tư không thể đánh bại thị trường,
vì tổng hợp họ là thị trường. Trước khi thử cố cạnh tranh trong thế giới đầu tư có tổng bằng 0, bạn phải
tự hỏi liệu mình có lý do đủ tốt để trở thành nửa trên. Để làm tốt hơn các nhà đầu tư trung bình, bạn
phải có tư duy khác biệt số đông. Bạn có thể làm vậy được không? Điều gì làm bạn nghĩ vậy?
Vấn đề là để có thành công vượt trội chỉ đến từ các tư duy khác biệt đúng đắn. tư duy khác biệt đúng
đắn khó để thực hiện và khó để hành động. Trong những năm qua, nhiều người nói với tôi là ma trận
hiển thị dưới đây có tác động đến họ:
Bạn không thể làm những điều người khác làm và mong đợi kết quả tốt hơn họ. Sự độc đáo không phải
là mục tiêu, thay vào đó mục tiêu là sự khách quan trong suy nghĩ. Để phân biệt bản thân với những
người khác, nó giúp ta có những ý tưởng khác biệt và cách xử lý những ý tưởng khác biệt.

Tư duy khác biệt Tư duy thông thường


Kết quả tốt trên TB Kết quả tốt trung bình Thị trường tốt
Kết quả ít xấu hơn mức TB Kết quả xấu trung bình Thị trường không tốt

Kết luận: để có kết quả đầu tư cao, bạn phải có quan điểm khác số đông về giá trị và nó phải chính xác.
Điều đó không phải dễ.
Sức hút của việc mua một cái gì đó rẻ hơn giá trị của nó là một cảm giác ưu việt. Vì vậy làm thế nào để
tìm một món hời trong thị trường hiệu quả? Bạn phải có khả năng phân tích đặc biệt, cái nhìn sâu sắc
và tầm nhìn xa. Vì nó là đặc biệt nên ít người có.
Kết quả đầu tư của bạn phụ thuộc vào những nguyên tắc. kỳ vọng và danh mục đầu tư của bạn phải
tuân theo các quy tắc, và bạn phải đúng hơn số đông. Đúng và tốt hơn là ưu điểm của tư duy cấp 2.
Những ai xem việc đầu tư là đơn giản thường không nhận thức được sự tồn tại của tư duy cấp độ 2. Do
đó nhiều người lầm tưởng ai cũng có thể đầu tư thành công. Không phải mọi người đều có thể. Nhưng
tin tốt ở đây là tỉ lệ những nhà đầu tư bình thường tăng lợi nhuận sẵn sàng trở thành những NĐT tư duy
cấp độ 2. Để thành công bạn phải trờ thành một trong số họ.

2.HIỂU VỀ THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ


Bỏ qua

3. GIÁ TRỊ
Để đầu tư thành công, ước tính chính xác được giá trị nội tại của tài sản là khởi đầu quan trọng. Nếu
không có nó, bất kỳ hi vọng nào cho việc đầu tư thành công cũng chỉ là hi vọng.
Quy tắc cũ nhất trong đầu tư là điều đơn giản nhất: mua thấp bán cao. Ai muốn làm điều khác? Nhưng
điều này thật sự đúng? Rõ ràng là bạn mua cái gì thấp và bán với giá cao. Tuy nhiên, điều đó có nghĩa
là gì? Cái gì cao và cái gì thấp.
Đó là bề ngoài,bạn có thể hiểu mục tiêu là mua cái gì đó và bán chúng với giá cao hơn. Nhưng nó
không giúp ích cho bạn trong việc xác định giá mua hôm nay. Ở đây có một số tiêu chuẩn khách quan
cho việc bán giá cao và mua giá thấp, và tiêu chuẩn hữu ích nhất là giá trị nội tại của tài sản. Bây giờ ý
nghĩa của câu nói trở nên rõ ràng, mua với giá thấp hơn giá trị nội tại của tài sản, và bán với giá cao
hơn. Tất nhiên để thực hiện, bạn cần một suy nghĩ thấu đáo về giá trị nội tại. Với tôi, một ước tính
chính xác về giá trị nội tại là một khởi đầu quan trọng.
Có 2 trường phái: phân tích cơ bản dựa trên thuộc tính của công ty và phân tích dựa trên biến động giá
của chứng khoán.
Một phần của sự suy giảm của phân tích kỹ thuật có thể là do các Giả thuyết bước đi ngẫu nhiên, một
thành phần của lý thuyết phát triển ở Chicago đầu những năm 1960, Chủ yếu do giáo sư Eugene Fama.
Các bước đi ngẫu nhiên giả thuyết nói rằng biến động giá trong quá khứ của một cổ phiếu là của hoàn
toàn không có sự giúp đỡ trong Dự đoán diễn biến trong tương lai. Nói cách --Truyện, đó là một quá
pro ngẫu nhiên, giống như tung một đồng xu. Chúng ta đều biết đó ngay cả khi một đồng xu đã đến
đầu lên mười lần trong một hàng, xác suất của người đứng đầu trên ném tiếp theo vẫn là 50-50. Tương
tự như vậy, nói giả thuyết, thực tế đó giá của một cổ phiếu cho người cuối cùng đã lặp lại mười ngày
cho bạn biết gì về những gì nó sẽ làm vào ngày mai.
PTKT=>VỨT
Chúng tôi là trái PTKT với hai phương pháp tiếp cận, Cả hai điều khiển bởi nguyên tắc cơ bản: đầu tư
giá trị và đầu tư tăng trưởng. Tóm lại, các nhà đầu tư giá trị nhằm mục đích để đến với một giá trị nội
tại của an ninh hiện tại và mua khi giá thấp hơn, và các nhà đầu tư tăng trưởng cố gắng mua chứng
khoán giá trị sẽ Tăng nhanh chóng trong tương lai.
Điều gì làm cổ phiếu hay các Công ty tiềm ẩn có giá trị? Có rất nhiều ứng cử viên: nguồn lực tài chính,
quản lý, nhà máy, cửa hàng bán lẻ, bằng sáng chế, nguồn nhân lực, thương hiệu, tiềm năng tăng trưởng
và, hầu hết tất cả, các khả năng để tạo ra thu nhập và dòng tiền. Trong thực tế, hầu hết phương pháp
tiếp cận phân tích sẽ nói rằng tất cả những đặc tính: nguồn lực tài chính, quản lý, các nhà máy, bán lẻ
cửa hàng, bằng sáng chế, nguồn nhân lực, thương hiệu và tiềm năng tăng trưởng là giá trị vì chúng có
thể biến thành lợi nhuận và dòng tiền.
Điều cần nhấn mạnh trong đầu tư giá trị là các nhân tố hữu hình như tài sản và dòng tiền. Các tài sản
vô hình như tài năng, tiềm năng phát triển chiếm tỷ trọng ít hơn. Một số nhánh của đầu tư giá trị tập
trung đặc biệt vào tài sản cứng. Thậm chí có trường phái gọi là “net-net” trong đầu tư giá trị. Theo
phương pháp này người ta mua cổ phiếu mà có vốn hóa nhỏ hơn số tiền quy đổi bởi giá trị tài
sản( HTK, tiền mặt, phải thu) trừ đi nợ phải trả. Trong trường hợp này, theo lý thuyết, bạn có thể mua
toàn bộ công ty, thanh lý tài sản hiện tại, trả hết nợ, tuyên bố phá sản và thu về một số tiền mặt.
Nhiệm vụ trong đầu tư giá trị là tìm các món hời. Thông thường nhà đầu tư giá trị thường nhìn vào các
thông tin tài chính như: lợi nhuận, dòng tiền, tài sản cố định, tìm ra giá trị doanh nghiệp và mua với giá
rẻ hơn.
Đầu tư tăng trưởng thì chú trọng hơn vào tiềm năng tăng trưởng lợi nhuận của DN.
Sự khác biệt giữa hai trường phái:
-Đầu tư giá trị mua cổ phiếu ( thậm chí giá trị nội tại cho thấy DN có thể có mức tăng trưởng thấp hơn
hiện tại).
-Đầu tư tăng trưởng mua cổ phiếu (thậm chí giá trị hiện tại của DN thấp hơn thị giá).
Vậy, với tôi, sự lựa chọn không phải là giá trị và tăng trưởng mà là giá trị hôm nay và giá trị trong
tương lai. Đầu tư tăng trưởng đại diện cho một cuộc đặt cược DN đó có thể đạt hiệu quả trong tương
lai, đầu tư giá trị chủ yếu dựa vào phân tích giá trị hiện tại của công ty.
Sau tất cả, việc xác định giá trị hiện tại của doanh nghiệp đòi hỏi xét đoán về tương lai, và trong xét
đoán đó phải đưa vào kinh tế vĩ mô, môi trường ngành, phát triển cạnh tranh và sự tiến bộ công nghệ.
Ngay cả một sự đầu tư net-net cũng có thể đổ bể nếu DN đó phung phí tiền bạc vào các hoạt động hoặc
đầu tư không khôn ngoan.
Ở đây không có sự phân biệt rõ ràng giữa giá trị và tăng trưởng. Cả hai cần chúng ta đối phó với những
gì xảy ra trong tương lai. Các nhà đầu tư giá trị suy nghĩ về tiềm năng tăng trưởng của công ty, và
trường phải “tăng trưởng ở một mức giá hợp lý” rõ ràng đề cao giá trị. Đó là cả một vấn đề về trình độ.
Tuy nhiên, tôi nghĩ khá rõ ràng để nói rằng đầu tư tăng trưởng kỳ vọng vào tương lai, trong khi đầu tư
giá trị cân nhắc về hiện tại, nhưng không bỏ qua tình hình doanh nghiệp trong tương lai.
Đề lấy ví dụ cực đoan về đầu tư tăng trưởng, tôi sẽ kể cho bạn nghe những ngày về Nifty Fifty, một
phong cách đầu tư thời đó trái ngược với đầu tư giá trị và chứng minh rằng đầu tư tăng trưởng có thể đi
bao xa.
Năm 1968 tôi đã có công việc đầu tiên của tôi trong ngành công nghiệp quản lý đầu tư, là một nhân
viên mùa hè tại Ban Nghiên cứu đầu tư của Ngân hàng thành phố (nay Citibank). Ngân hàng được biết
với phương pháp đầu tư "Nifty Fifty." Mục tiêu của nó là để xác định những công ty có triển vọng tăng
trưởng lợi nhuận trong dài hạn sáng sủa nhất. Ngoài tỷ lệ tăng trưởng, quản lý quỹ đầu tư của ngân
hàng bị áp lực về "chất lượng", điều đó có nghĩa là sẽ bảo đảm một xác suất cao rằng kỳ vọng la tăng
trưởng sẽ thành hiện thực. Điều này được coi là câu châm ngôn: nếu một công ty tăng trưởng đủ nhanh
và đủ chất lượng, giá cổ phiếu không quan trọng. Nếu giá cp đang đắt ở hiện tại, vài năm sau nó sẽ hợp
lý với mức giá đó.
Sau đó danh mục của Quỹ tăng tỷ trọng với các DN ngành dược, công nghệ và các sản phẩm tiêu dùng.
Danh mục đầu tư của ngân hàng bao gồm những tên tuổi rất được kính trọng như IBM, Xerox, Kodak,
Polaroid, Merck Avon, Coca Cola, Philip Morris, Hewlett-Packard, Motorola. Tất cả đều có triển vọng
tăng trưởng sáng sủa. Vì không có rủi ro nào ở đây cả, nên không có ngần ngại nào khi mua những cp
này.
Nhìn về 2 thập kỷ trước, và bạn thấy gì với danh mục này. Một số như Kodak đã có hoạt động kinh
doanh sụt giảm do không lường trước được sự thay đổi của công nghệ. Một số khác như IBM và Xeros,
trở thành những con mồi chậm chạp so với các đối thủ cạnh tranh mới rực rỡ của họ. Tất cả điều đó nói
lên rằng, tất cả những danh mục của City Bank đã bị suy thoái và thậm chí phá sản sau 40 năm từ khi
tôi bắt đầu làm việc ở đó. Cần rất nhiều khả năng tăng trưởng bền vững và khả năng dự đoán nó chính
xác.
So với đầu tư giá trị, đầu tư tăng trưởng chú trọng việc tìm ra người thắng lớn. Nếu người thắng lớn
không diễn ra, tại sao lại chuẩn bị cho việc không chắc chắn xảy ra trong tương lai? Không có câu hỏi
nào về điều này: nhìn thấy tương lai khó hơn hiện tại. Do vậy, tỉ lệ thành công trung bình của các vụ
đầu tư của đầu tư tăng trưởng có thể thấp hơn đầu tư giá trị, nhưng lợi nhuận kỳ vọng có thể cao hơn.
Lợi nhuận đến từ dự đoán đúng về các doanh nghiệp đột phá với loại thuốc mới nhất, phim bán chạy
nhất, máy tính mạnh mẽ nhất trở thành các DN lớn mạnh.
Nhìn chung, tiềm năng phát triển nhờ tăng trưởng kịch tính hơn, tiềm năng phát triển nhờ giá trị ổn
định hơn. Trong cuốn sách của tôi, ổn định tốt hơn kịch tính.
Nếu đầu tư giá trị có tiềm năng tạo ra các kết quả nhất quán tích cực,
Liệu điều đó có nghĩa là nó dễ dàng? Không.
Vì một điều, nó phụ thuộc là một ước tính chính xác của giá trị. Nếu không có điều đó, bất kỳ hy vọng
cho sự thành công như một nhà đầu tư cũng chỉ nhờ một điều duy nhất: niềm hy vọng. Nếu không có
ước tính chính xác, bạn sẽ phải trả nhiều tiền cho những thứ không đáng giá, và nếu bạn trả tiền quá
cao, phải mất một cải tiến đáng ngạc nhiên về giá trị, một thị trường tăng mạnh hoặc thậm chí một kẻ
ngốc mua không quan tâm đến giá (những gì chúng ta thường gọi là "fool Greater") để cứu bạn.
Nếu bạn tiếp cận theo phương pháp về giá trị và đi lên từ giá trị nội tại cho một tài sản hoặc cổ phiếu,
điều quan trọng tiếp theo là giữ vững nguyên tắc đó. Vì trong thế giới của đầu tư, đúng về điều gì đó
không có nghĩa là nó đúng ngay tức thì.
Thật khó để trở thành nhà đầu tư luôn luôn quyết định đúng đắn. Nhưng cũng không thể luôn luôn làm
chuyện đúng đắn đúng lúc. Điều quan trọng là các nhà đầu tư giá trị có thể hy vọng sẽ là ước tính
chính xác về giá trị của tài sản và mua khi nó thấp hơn giá trị. Nhưng làm được hôm nay không có
nghĩa là bạn sẽ bắt đầu kiếm tiền trong ngày mai. Giữ vừng tầm nhìn về giá trị có thể giúp bạn đối phó
với sự rời rạc này.
Chẳng hạn như bạn tìm ra giá 80 của cái gì đó trị giá 80 và có cơ hội để mua nó cho 60. Cơ hội để mua
tốt bên dưới giá trị thực không xuất hiện hàng ngày và bạn nên chào đón chúng. Warren Buffett mô tả
chúng như là" mua 1 đô la với giá 1 cent." Vậy bạn mua cái đó và bạn cảm thấy bạn đã làm tốt.
Nhưng đừng mong thành công tức thì. Thực tế, bạn sẽ thường nhận ra cổ phiếu giảm giá sau khi bạn
mua. Ngay lập tức bạn bị lỗ. Và một trong những câu châm ngôn vĩ đại về đầu tư nhắc nhở chúng ta
rằng: đi trước thời đại của bạn đồng nghĩa với việc sai lầm (trong thời điểm đó). Bây giờ đến nỗi an
ninh trị giá 80 được định giá tại 50 thay vì chỉ 60. Bạn làm gì?
Chúng ta học trong Kinh tế vi mô 101 đường cầu sườn đi xuống đến quyền ; như giá của cái gì đó tăng
lên, lượng cầu bị hư. Nói cách khác, mọi người muốn ít hơn cái gì đó với giá cao hơn và nữa ở giá thấp.
Có ý nghĩa ; đó là lý do tại sao cửa hàng làm nhiều hơn kinh doanh khi hàng hoá bán khuyến mãi. Bây
giờ cổ phiếu trị giá 80 được định giá tại 50 thay vì chỉ 60. Bạn làm gì?
Chúng ta học trong Kinh tế vi mô đường cầu sườn đi xuống đến quyền ; như giá của cái gì đó tăng lên,
lượng cầu bị hư. Nói cách khác, mọi người mua ít hàng hóa hơn khi giá cao hơn và nhiều hơn khi giá
thấp. Đó là lý do tại sao cửa hàng nhiều việc hơn khi bán khuyến mãi.
Điều đó hoạt động ở nhiều nơi, nhưng dường như luôn đúng trong đầu tư. Ở đây, nhiều người có
khuynh hướng yêu cổ phiếu khi nó tăng giá sau khi họ mua, khi họ được xác nhận. Và sợ hãi khi cổ
phiếu giảm giá, khi đó họ nghi ngờ quyết định mua ban đầu của mình.
Điều này làm cho việc giữ cổ phiếu khó khăn thêm, và mua bình quân giá xuống, đặc biệt khi suy giảm
lan tỏa rộng. Nếu bạn thích nó ở giá 60, bạn sẽ thích hơn ở giá 50, 40 ,30. Nhưng điều này không phải
dễ dàng. Không ai cảm thấy dễ chịu khi mình thua lỗ, và thậm chí bất kỳ ai cũng sẽ nghĩ rằng: “Có thể
tôi không phải là người đúng, người đúng là thị trường”. Đáng sợ nhất khi mọi người nghĩ rằng: “Giá
đã xuống quá nhiều, tốt hơn hết tôi nên bán trước khi nó về zero”. Đó là suy nghĩ ở đáy, và làm mọi
người bán ở đó.
Nhà đầu tư không có kiến thức về lợi nhuận, cổ tức, đánh giá hoặc tình hình kinh doanh không thể ra
quyết định đúng đắn đúng lúc. Khi mọi người sống quanh họ mua và kiếm tiền, họ không thể biết khi
nào giá cổ phiếu quá cao nên kháng cự lại việc tham gia. Và với thị trường trong rơi tự do, họ không
thể có tự tin cần thiết để giữ hoặc mua khi cổ phiếu giảm giá mạnh.
Ý kiến chính xác về định giá, nhưng không kiên định sẽ là một sự giúp đỡ hạn chế.
Ý kiến sai về định giá, kiên định, còn tệ hơn nhiều. Đó là một lời tuyên bố cho thấy thật khó biết bao
để luôn đúng tại mọi thời điểm.
Tiêm cho hầu hết các nhà đầu tư - và chắc chắn cả những nhà đầu tư nghiệp dư nhất- liều huyết thanh
sự thật, rồi đặt câu hỏi này," những gì là cách tiếp cận của bạn đến đầu tư? "
Câu trả lời không thể tránh được :" Tôi tìm kiếm những cổ phiếu sẽ tăng giá." Nhưng việc tìm kiếm lợi
nhuận phải dựa vào cái gì đó hữu hình hơn. Theo ý kiến của tôi, lựa chọn tốt nhất cho cái gì đó hữu
hình về cơ bản phát sinh từ giá trị thực sự. Ước tính chính xác của giá trị thực sự là nền tảng quan
trọng cho việc đầu tư vững chắc, không cảm xúc và có lợi nhuận.
Nhà đầu tư giá trị có lợi nhuận lớn nhất khi họ mua tài sản định giá thấp, luôn hạ thấp giá bình quân và
có phân tích chứng minh là đúng. Vì vậy, có hai thành phần thiết yếu cho lợi nhuận trong thị trường
suy thoái : bạn phải có tầm nhìn về giá trị thực sự, và bạn phải giữ tầm nhìn mạnh mẽ đủ để có thể kiên
trì và mua ngay khi giá giảm chống lại cảm giác rằng bạn sai. Vâng, có thứ ba : bạn phải đúng.
4. MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁ CẢ VÀ GIÁ TRỊ
“Đầu tư thành công không đến từ mua những tài sản tốt, mà là: mua thứ gì đó với giá tốt.”
Chẳng hạn bạn đã tin vào hiệu quả của đầu tư giá trị, và bạn có thể ước tính được giá trị thực sự của cổ
phiếu hoặc tài sản. Thậm chí cứ cho là ước tính của bạn đúng. Bạn không làm thế. Để biết phải hành
động như thế nào, bạn nên so sánh tỷ lệ giữa giá và giá trị của tài sản đó. Thành lập mối quan hệ giữa
các nền tảng cơ bản: giá và giá trị là cốt lõi của đầu tư thành công.
Với đầu tư giá trị, giá hẳn là điểm xuất phát. Nó đã được biểu lộ chẳng biết bao nhiêu lần rằng không
tài sản nào trở thành khoản đầu tư hiệu quả nếu mua với cái giá quá đắt. Và có ít tài sản tệ đến nỗi họ
không thể là đầu tư tốt dù mua với giá rất rẻ.
Khi mọi người nói thẳng," chúng tôi chỉ mua A" hoặc" A là nhóm tài sản chất lượng hơn," nghe giống
y như" chúng tôi sẽ mua bằng mọi giá. .. Và chúng tôi sẽ mua cái đó trước B, C hoặc D bằng mọi giá."
Đó là sai lầm.
Không nhóm tài sản hoặc ngành đầu tư nào có ưu tiên về lợi nhuận cao. Nó chỉ hấp dẫn nếu nó được
định giá đúng.
Hy vọng, nếu Tôi đề nghị bán cho bạn xe của tôi, bạn sẽ hỏi giá trước khi trả lời có hay không. Quyết
định đầu tư không cẩn thận xem xét khách quan giá thì thật là ngu ngốc.
Điểm mấu chốt :ở đây không có cái gọi là tốt hay xấu bất kể giá!
Đây là tiền đề cơ bản của giả thuyết về thị trường hiệu quả - và nó hoàn toàn hợp lý - nếu bạn mua thứ
gì đó với giá trị hợp lý của nó, bạn nghĩ có lợi nhuận công bằng cho rủi ro. Nhưng nhà đầu tư chủ động
không muốn lợi nhuận an toàn ; họ muốn lợi nhuận tốt hơn. (Nếu bạn sẽ hài lòng về lợi nhuận an toàn,
tại sao không đầu tư một cách bị động trong quỹ chỉ số và tiết kiệm cho bớt rắc rối? )
Vậy là mua cái gì đó tại giá trị thực sự của nó đâu có gì đặc sắc. Và thanh toán tại giá trị của cái gì đó
rõ ràng là sai lầm.
Còn nhớ Quỹ Nifty tôi nhắc đến trong chương gần nhất? Ở thời kỳ cao điểm, cổ phiếu chủ chốt trong
danh mục của họ có P/E từ 80-90. Không ai trong số họ nghĩ rằng giá đã quá cao.
Sau đó, trong chỉ một vài năm, mọi thứ thay đổi. Đầu những năm 1970, thị trường chứng khoán suy
thoái, yếu tố ngoại sinh như cấm vận dầu mỏ và lạm phát tăng lên che hình ảnh và Quỹ NF đổ sập.
Trong vòng một vài năm, P/E của các cổ phiếu từ 80-90 đã giảm xuống còn 8-9, nghĩa là các nhà đầu
tư tổ chức giỏi nhất của Mỹ đã mất 90 phần trăm tiền của họ.
Mọi người có thể đã mua vào công ty lớn, nhưng họ đã trả giá sai.
Ở Oaktree chúng tôi đã nói," Mua giá tốt là bán được một nửa." Điều này có nghĩa là chúng tôi không
mất thời gian nghĩ về việc phải bán hay giữ, bán cho ai, khi nào. Nếu bạn đã mua cái đó giá rẻ, câu hỏi
đó sẽ tự được trả lời.
Nếu ước tính về giá trị nội tại của bạn là chính xác. Qua thời gian, tài sản sẽ trở về đúng giá trị của nó.
Công ty này giá bao nhiêu? Cuối cùng, đây là những gì nó được xem là quan trọng nhất. Ý tưởng hay,
hoặc thậm chí kinh doanh giỏi là chưa đủ để mua cổ phần. Bạn phải mua cái đó tại giá hợp lý.
Câu hỏi quan trọng nhất, điều gì tác động đến giá? Những nhà đầu tư nên nhìn vào yếu tố gì để chắc
chắn mua với giá đúng? Dưới giá trị cơ bản, tất nhiên, nhưng phần lớn thời gian giá cổ phiếu dao động
ít nhiều, và dao động ngắn hạn của nó tác động bởi 2 yếu tố: tâm lý học và kỹ thuật. Hâu hết các nhà
đầu tư, và chắc chắn bao gồm các nhà đầu tư nghiệp dư, biết rất ít về kỹ thuật. Đây là những yếu tố
không cơ bản, nó không liên quan đến giá trị nhưng ảnh hưởng đến cung cầu chứng khoán. VD: bạn
buộc phải bán tháo khi call margin và dòng tiền của các quỹ đầu tư khi các nhà quản lý danh mục buộc
phải mua. Trong cả 2 trường hợp, người dân buộc phải tham gia vào các giao dịch chứng khoán mà
không quan tâm đến giá cả.
Tin tôi đi, không gì tốt hơn mua từ những người bán tháo và bán cho những người buộc phải mua.
Nhiều vụ mua tốt nhất chúng tôi từng thực hiện được tạo ra bởi lí do đó.Tuy nhiên:
-Bạn không thể tạo nên sự nghiệp từ việc mua từ những người bán tháo và bán cho những người mua
ko quan tâm giá, nó không xảy ra thường xuyên mà chỉ xảy ra tại những thái cực của cuộc khủng
hoảng hoặc bong bóng.
-Thời điểm mua từ người bán tháo là điều tuyệt vời nhất đối với tôi, và bán tháo là điều tồi tệ nhất. Tức
là bạn phải thu xếp công việc để giữ và không bán ở điểm tệ nhất. Điều này cần cả nguồn vốn dài hạn
và tâm lý mạnh mẽ.
Và điều đó mang lại cho tôi yếu tố thứ 2 tác động đến giá: tâm lý học. Không cần cường điệu điều này
quan trọng ra sao. Thực tế, vài chương sau dành cho việc việc thảo luận về tầm quan trọng của tâm lý
học và làm thế nào để đối phó với biểu hiện của nó.
chìa khoá cho xác minh giá trị là kỹ năng phân tích tài chính lành nghề, bí quyết để hiểu được quan hệ
giữa giá / giá trị - và cách nhìn vì điều đó - nằm chủ yếu ở hiểu biết vào khối óc của nhà đầu tư khác.
Tâm lý học nhà đầu tư có thể làm cho một chứng khoán được định giá chỉ về bất cứ nơi đâu trong thời
gian ngắn, bất kể những nền tảng cơ bản.
Kỷ luật là điều quan trọng nhất, không phải kế toán hay kinh tế, nhưng tâm lý là chìa khóa. Giá trong
tương lai được quyết định bởi việc nhiều hay ít người hơn thích cổ phiếu trong tương lai.
Đầu tư là một cuộc thi phổ biến, và nguy hiểm nhất là khi mua cổ phiếu mà nó ở mức phổ biến tối đa,
mọi yếu tố tích cực đã được phản ánh vào giá, và không có người mua mới nào xuất hiện. Điều an toàn
và mang lại lợi nhuận nhất là khi mua một cổ phiếu mà không ai nhắc đến. Theo thời gian, độ phổ biến
và giá của nó chỉ có 1 con đường duy nhất để đi: lên.
Rõ ràng điều này vô cùng quan trọng và khó làm chủ. Thứ nhất: tâm lý là khó nắm bắt và thứ 2, yếu tố
tâm lý sẽ đè nặng lên tâm trí nhà đầu tư khác và ảnh hưởng đến hành động của họ. Như bạn sẽ đọc ở
chương sau, các lực lượng này có xu hướng làm con người làm ngược lại những điều nên làm. Để tự
bảo vệ, bạn nên đầu tư thời gian và sức lực để hiểu tâm lý thị trường.
Điều cần thiết bạn nên biết là giá trị cơ bản chỉ là một trong số các yếu tố tạo thành giá chứng khoán tại
thời điểm bạn mua nó. Hãy cố gắng để có tâm lý và kỹ thuật tốt.
Trái ngược với đầu tư giá trị là vô thức chạy theo bong bóng, trong đó mối quan hệ giữa giá và giá trị
hoàn toàn bị bỏ qua.
Tất cả các bong bóng bắt đầu với mỏ vàng của chân lý:
-Hoa tu líp đẹp và hiếm.
-Internet thay đổi thế giới.
-BĐS có thể theo kịp lạm phát, và bạn luôn có thể có một ngôi nhà.
Một số nhà đầu tư thông minh tìm ra sự thật, đầu tư vào tài sản và kiếm lợi nhuận. Sau đó những người
khác nắm bắt được các ý tưởng hoặc chỉ thông báo là có người đang kiếm tiền, sau đó họ mua chúng
và kéo giá tài sản lên. Nhưng khi giá tăng cao và các nhà đầu tư bị ảo tưởng về việc kiếm tiền dễ dàng,
họ ít nghĩ hơn về việc giá có phù hợp không.
Như tôi đã nói trước đó: mọi người nên thích một cái gì đó ít đi khi giá của nó tăng lên, nhưng trong
đầu tư họ thường thích hơn.
Trong 2004-2006, người ta có thể gợi lên những điều tốt đẹp về những ngôi nhà: sở hữu những căn nhà,
hưởng lợi từ lạm phát, lãi vay rẻ và được khấu trừ thuế, giá nhà chỉ đi lên. Sau đó chúng ta đều biết
điều gì đã xảy ra.
Điều gì tạo nên ý nghĩ “không thể lỗ”? Trong bong bóng công nghệ, người mua không lo ngại về giá
chứng khoán quá cao do họ tin rằng sẽ có người khác trả giá cao hơn. Thật không may, lý thuyết có
thằng ngu hơn chỉ hoạt động cho đến khi nó dừng. Việc định giá cuối cùng sẽ đến, và những người
nắm quả bóng sẽ nghe tiếng nổ.
-Những yếu tố tích cực đằng sau cổ phiếu có thể chính là lí do gây ra lỗ nếu bạn trả giá quá cao cho nó.
-Những mặt tích cực và lợi nhuận khổng lồ làm những người phản đối đầu hàng và mua cổ phiếu trong
chu kỳ bong bóng.
- Đỉnh trong chứng khoán là nhóm người mua cổ phiếu cuối cùng. Thời gian thường liên quan đến sự
phát triển cơ bản.
Vấn đề là trong bong bóng, “hấp dẫn” biến thành “hấp dẫn bất cứ giá nào” . Mọi người thường nói, “nó
không rẻ nhưng tôi nghĩ nó sẽ tăng vì thanh khoản dư thừa” (hoặc vì bất cứ lí do nào). Mua hoặc giữ
trong cơ sở đó là cực kỳ may rủi, tuy nhiên đó là điều tạo nên bong bóng.
Trong bong bóng, mê đắm với đà tăng của thị trường và vứt bỏ mọi quan niệm về giá và giá trị, tham
lam (cộng nỗi đau thường trực khi người khác kiếm tiền dễ dàng) sẽ vô hiệu hóa mọi sự thận trọng nếu
không kiểm soát được tâm lý.
Tóm lại, tôi tin rằng một cách tiếp cận đầu tư dựa trên giá trị vững chắc là đáng tin cậy nhất. Ngược lại,
trông chờ vào người khác đưa tiền cho bạn bất kể giá trị dựa vào bong bóng, có lẽ là cách tồi tệ nhất.
Hãy xem xét các con đường để có lợi nhuận từ đầu tư:
-Hưởng lợi từ sự gia tăng giá trị nội tại của tài sản, vấn đề là việc tăng giá trị rất khó để dự đoán chính
xác. Hơn nữa, quan điểm thông thường về tiềm năng tăng thường được hướng vào giá của tài sản. Có
nghĩa là, trừ khi quan điểm của bạn là khác và vượt trội so với thông thường. Giống như bạn sẵn sàng
trả tiền cho tiềm năng tăng trưởng. Một số nhà đầu tư kiểm soát có thể cố gắng trong việc tăng lợi
nhuận từ việc quản lý hoạt động của tài sản. Tuy nhiên nó tốn thời gian, không chắc chắn và đòi hỏi
chuyên môn đáng kể. Và nhiều lúc cách này khó có thể mang lại cải tiến, VD như gặp 1 doanh nghiệp
đã tốt sẵn.
-Áp dụng đòn bẩy
-Bán tài sản với giá cao hơn giá trị: may rủi?
-Mua tài sản với giá thấp hơn giá trị.
Trong tất cả các cách trên, việc mua giá rẻ rõ ràng là đáng tin nhất. Tuy nhiên bạn vẫn có rủi ro: bạn sai
lầm về giá trị hiện tại, các sự kiện đi cùng có thể làm giảm giá trị, xu hướng thị trường xấu làm tài sản
bị bán thấp hơn giá trị, hoặc giá đuổi kịp giá trị lâu hơn bạn nghĩ.
Cố gắng mua dưới giá trị không phải là ko mắc sai lầm, nhưng đó là cách tốt nhất chúng ta có thể làm.
5.HIỂU VỀ RỦI RO
Đầu tư bao gồm chính xác một điều: đối phó với tương lai. Và bởi vì không ai trong chúng ta có thể
biết chắc chắn về tương lai, rủi ro là điều không thể tránh được. Tôi nghĩ đối phó với rủi ro là điều thiết
yếu trong đầu tư. Không khó để tìm ra khoản đầu tư có thể tăng giá. Nếu bạn tìm đủ nhiều, bạn có thể
đi đúng hướng. Nhưng bạn không thể thành công trong thời gian dài nếu không kiểm soát được rủi ro.
Bước đầu tiên bao gồm hiểu về rủi ro. Bước thứ 2 là nhận biết khi rủi ro cao. Điều quan trọng cuối
cùng là kiểm soát nó. Vì vấn đề rất quan trọng và phức tạp, tôi sẽ dành 3 chương để đi sâu khảo sát về
rủi ro.
Tại sao tôi nói đánh giá rủi ro là một yếu tố thiết yếu trong quá trình đầu tư. Có 3 lý do mạnh mẽ:
1.Rủi ro là điều xấu và hầu hết mọi nhà đầu tư bình tĩnh muốn tránh hoặc giảm thiểu nó. Đó là một giả
định cơ bản của lý thuyết tài chính mọi người đều thận trọng một cách tự nhiên, có nghĩa là họ thà
giảm lợi nhuận nhưng ít rủi ro còn hơn. Do đó cho người mới bắt đầu, nhà đầu tư phải phán xét xem nó
mạo hiểm đến mức nào và người đó có thể sống sót nếu kết quả xấu nhất xẩy ra.
2.Khi bạn xem xét đầu tư, quyết định của bạn nên là một hàm bao gồm các nguy cơ có thể xảy ra và lợi
nhuận tiềm năng. Vì sự ác cảm với rủi ro, nhà đầu tư phải thu được lợi nhuận kỳ vọng đủ đề bù đắp rủi
ro. Vd đơn giản, nếu trái phiếu và 1 CTCK nhỏ đều có lợi nhuận là 7%/năm, mọi người sẽ đổ xô mua
trái phiếu và bán cp CTCP. Quá trình này gọi là điều chỉnh giá tương đối, các nhà kinh tế gọi là cân
bằng. Tức là làm cho lợi nhuận tiềm năng tỷ lệ với nguy cơ.
Vì vậy, đi xa hơn việc xác định liệu người đó có thể chịu nổi nếu tình huống xấu nhất xảy ra. Việc thứ
2 của NĐT là xác định xem lợi nhuận từ một khoản đầu tư kèm theo những rủi ro gì. Rõ ràng, lợi
nhuận chỉ là một nửa câu chuyện, và đánh giá rủi ro là điều cần thiết.
Khi bạn xem xét kết quả đầu tư, lợi nhuận là một phần, nhưng rủi ro cần được đánh giá kỹ. Lợi nhuận
đạt được kèm theo an toàn hay rủi ro? Từ cổ tức hay mức tăng giá của cổ phiếu? Cổ phiếu của các
công ty lớn, mới thành lập hay sắp phá sản? Cổ phiếu thường hay trái phiếu, cổ phiếu phát hành riêng
lẻ? Với sự hỗ trợ từ đòn bẩy hay ko? Trong một danh mục đầu tư tập trung hay đa dạng.
Chắc chắn các nhà đầu tư khi thấy tài khoản của mình tăng 10% sau một năm không biết những người
quản lý tiền của mình đã làm tốt hay xấu nhất. Để đạt được một kết luận, họ phải có một số ý tưởng về
những rủi ro kèm theo. Nói cách khác họ phải có cảm nhận về “lợi nhuận điều chỉnh bởi rủi ro”. Tóm
lại là rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng cao. Nếu không ai sẽ mua chúng?
Biểu đồ của lợi nhuận-rủi ro sang trọng bởi sự giản dị của nó. Thật không may nhiều người đã rút ra
kết luận sai lầm khiến họ gặp rắc rối.
Đặc biệt ở thời điểm thị trường thuận lợi, quá nhiều người có thể nghe thấy rằng “các khoản đầu tư có
rủi ro mang lại nhiều lợi nhuận hơn, nếu bạn muốn kiếm tiền nhiều hơn phải chấp nhận rủi ro cao hơn”.
Nhưng đầu tư rủi ro hơn tuyệt đối không mang lại lợi nhuận cao hơn.Tại sao không? đơn giản: nếu các
khoản đầu tư rủi ro mang lại lợi nhuận ổn định cao hơn nó sẽ không còn là khoản đầu tư rủi ro hơn.
Công thức chính xác là: các khoản đầu tư rủi ro có thể có lợi nhuận kỳ vọng cao hơn, triển vọng lợi
nhuận cao hơn nhưng hoàn toàn không có căn cứ gì để nói nó có lợi nhuận tiềm năng cao hơn đó sẽ
thành hiện thực. Cách tôi khái niệm đường thị trường vốn làm nó dễ dàng hơn cho tôi để liên quan đến
các mối quan hệ cơ bản tất cả.
Nhiệm vụ quan trọng tiếp theo là xác định rủi ro. Chính xác nó liên quan đến cái gì? Về lý thuyết, rủi
ro đi kèm với biến động. Theo quan điểm của tôi- cố ý hay vô ý
Rủi ro bao gồm nhiều loại, nhưng biến động có vẻ là loại ít liên quan đến chúng nhất. Lý thuyết nói các
nhà đầu tư đòi nhiều lợi nhuận hơn từ các khoản đầu tư có nhiều biến động. Nhưng với thị trường thiết
lập giá cho các khoản đầu tư mà các khoản đầu tư biến động hơn sẽ xuất hiện nhiều khả năng có lợi
nhuận cao hơn, phải có người có nhu cầu về việc đó, nhưng tôi chưa gặp người như vậy. Tôi chưa bao
giờ nghe bất cứ ai nói: “tôi sẽ không mua nó vì giá của nó có thể thay đổi nhiều” hoặc “tôi sẽ không
mua nó vì nó có thể giảm xuống ¼”. Do đó khó thể tin rằng biến động là rủi ro với các nhà đầu tư khi
xác định giá và lợi nhuận tiềm năng. Thay vì biến động tôi nghĩ mọi người quyết định không đầu tư
chủ yếu vì sợ thua lỗ hoặc suất lợi nhuận thấp. Đối với tôi việc “tôi cần lợi nhuận tiềm năng cao hơn vì
tôi sợ có khả năng mất tiền” có nhiều ý nghĩa hơn “tôi cần lợi nhuận tiềm năng cao hơn vì tôi e rằng
giá có thể dao động”. Không, tôi chắc chắn rằng rủi ro đầu tiên và trên hết là khả năng bị mất tiền.
-----------------------------------------------------------------------------------------
Khả năng thua lỗ luôn luôn là rủi ro mà tôi lo lắng. Nhưng có nhiều loại rủi ro khác mà bạn nên ý thức
được vì chúng có thể ảnh hưởng đến bạn hoặc ảnh hưởng đến người khác, tạo cơ hội cho bạn tận dụng
để kiếm lời.
Rủi ro trong đầu tư đi kèm nhiều hình thức. Nhiều rủi ro ảnh hưởng đến người này nhưng không ảnh
hưởng đến người khác, và họ có thể làm cho một sự đầu tư trông có vẻ an toàn gây rủi ro đến nhà đầu
tư:
-Không đạt được mục tiêu: mỗi nhà đầu tư có một nhu cầu khác nhau, và mỗi nhà đầu tư thất bại trong
việc đạt được mục tiêu gây ra nguy cơ.
-Kém hiệu quả.
-Rủi ro sự nghiệp: đây là hình thức cực đoan của rủi ro hiệu quả thấp.
-Sự khác biệt: theo thói thường, sự khác biệt có rủi ro. Người quản lý tiền của người khác sẽ cảm thấy
thoải mái hơn khi đạt hiệu suất trung bình, bất kể ở đâu về giá trị tuyệt đối, so với việc hành động
không theo quy ước rồi thất bại.
Nỗi lo lắng về rủi ro này sẽ không để nhiều người đạt kết quả cao nhất, nhưng cũng tạo cơ hội trong
đầu tư không chính thống cho những người dám khác biệt.
-Thiếu vốn lưu động: nếu một nhà đầu tư cần tiền phẫu thuật gấp trong vài tháng tới, anh ta sẽ không
đầu tư vào cổ phiếu gặp khó khăn trong việc đổi ra tiền mặt đúng kế hoạch. Do đó,với nhà đầu tư này,
nguy cơ không chỉ là mất tiền hoặc không ổn định, việc không thể đổi thành tiền mặt cũng là nguy cơ
cá nhân.
---------------------------------------------------------------------------------------
Bây giờ tôi muốn dành chút thời gian để nói về những rủi ro gây thua lỗ.
Trước tiên, rủi ro thua lỗ không nhất thiết xuất phát từ những nền tảng cơ bản yếu. Một tài sản cơ bản
yếu-cổ phiếu của 1 DN yếu kém, một tòa nhà xa thành phố có thể là một khoản đầu tư thành công nếu
giá mua đủ thấp.
Thứ 2, rủi ro có thể xuất hiện trong môi trường kinh tế vĩ mô tốt, thậm chí không có điểm yếu. Sự kết
hợp của sự kiêu căng, thiếu hiểu biết và chủ quan, sự phát triển với một chút bất lợi là đủ để tạo nên sự
tàn phá. Nó có thể xảy ra với bất cứ ai không dành thời gian và sự nỗ lực cần thiết để hiểu các quy
trình cho danh mục đầu tư của mình. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tâm lý đó là do quá nhiều yếu tố
tích cực và do đó giá cổ phiếu quá cao. Các nhà đầu tư có xu hướng liên kết các câu chuyện thú vị và
lôi cuốn với lợi nhuận tiềm năng cao. Họ cũng mong đợi lợi nhuận cao từ những thứ đã và đang tốt đẹp
thời gian gần đây. Các khoản đầu tư được nâng kỳ vọng này có thể mang lại lợi nhuận trên mong đợi
của mọi người trong thời gian ngắn, nhưng chúng chắc chắn mang lại rủi ro cao. Có thứ được sinh ra
rất nhiều trong sự phấn khích của đám đông, mà tôi gọi là “Bệ của sự nổi tiếng”. Chúng cung cấp khả
năng tiếp tục mang lại lợi nhuận cao, mà còn là của những người tiêu cực.
Lý thuyết nói lợi nhuận cao đi kèm rủi ro cao bởi quá khứ bù đắp cho tương lai. Nhưng các nhà đầu tư
giá trị đích thực cảm thấy ngược lại: họ tin rằng lợi nhuận cao và rủi ro thấp có thể đi kèm với nhau khi
mua những thứ rẻ hơn giá trị của nó. Giống như vậy, mua giá cao kèm theo cả lợi nhuận thấp và rủi ro
cao.
Buồn tẻ, lờ đi, nhạt nhòa và giá cổ phiểu giảm - thường là những món hời chính xác vì họ đã không
đang hoạt động tốt - thường được các nhà đầu tư giá trị ưu ái vì lợi nhuận cao. Lợi nhuận của họ trong
thị trường có khuynh hướng giá lên hiếm khi ở trên đỉnh của đám đông, nhưng kết quả của họ nói
chung là tuyệt vời so với trung bình, nhất quán hơn " hàng nóng" và cổ phiếu của họ có đặc trưng bởi
tính hay thay đổi thấp, nguy cơ cơ bản thấp và mất mát nhỏ hơn khi thị trường tệ hại. Phần lớn thời
gian, nguy cơ lớn trong thoả thuận ít rực rỡ này nằm ở khả năng gây ảnh hưởng xấu trong làm nóng thị
trường có khuynh hướng giá lên. đó là cái gì đó nguy cơ - thức giá trị nhà đầu tư sẵn sàng sống với.
Hầu hết, nguy cơ trong món hời ít rực rỡ này nằm ở lợi nhuận thấp khi thị trường tăng nóng, đó là rủi
ro ý thức mà các nhà đầu tư giá trị sẽ luôn sống với nó.
Tôi chắc chắn rằng chúng ta đồng ý rằng các nhà đầu tư nên và yêu cầu lợi nhuận trên khoản đầu tư họ
cảm thấy rủi ro hơn. Và hi vọng chúng ta có thể đồng ý mất tiền là nguy cơ mọi người quan tâm nhất
trong việc yêu cầu lợi nhuận tiềm năng và vì vậy trong định giá các khoản đầu tư. Một câu hỏi quan
trọng vẫn là: làm thế nào để họ đo lường rủi ro đó.
Đầu tiên, không có gì phải nghi ngờ: một trình độ học vấn, ước tính khéo léo về tương lai, nhưng vẫn
chỉ là ước tính.
Thứ 2, tiêu chuẩn để định lượng là không tồn tại. Với bất kỳ khoản đầu tư nào, một số người sẽ nghĩ là
nguy cơ cao và một số khác nghĩ ngược lại. Một số sẽ nghĩ có xác suất rằng khoản đầu tư này không
làm ra tiền, số khác nghĩ có xác suất thua lỗ. Có người nghĩ sẽ lỗ trong năm đầu, người khác nghĩ sẽ lỗ
trong toàn bộ thời gian nắm giữ. Rõ ràng ngay cả khi một số nhà đầu tư có liên quan gặp nhau trong
một căn phòng, họ sẽ không bao giờ đồng ý về một con số duy nhất đại diện cho rủi ro cho nhà đầu tư.
Ngay cả khi họ có thể làm được, con số này cũng không bao giờ giống với một nhóm nhà đầu tư ở nơi
khác. Đó là một trong những lí do tôi nói rằng rủi ro và rủi ro/lợi nhuận kỳ vọng không phải là thứ có
thể số hóa được hoặc nhập vào một chiếc máy vi tính.
“Mối quan hệ giữa đầu tư và rủi ro thua lỗ quá bất định với điều kiện luôn thay đổi, đến nỗi không thể
áp dụng bất cứ mô hình toán học nào với chúng.”-Phân tích chứng khoán.
Thứ 3, rủi ro là dối trá. Tư duy xem xét một cách thông thường dễ đi vào lối mòn, giống như các sự
kiện diễn ra thường kỳ. Đáng tiếc là các sự kiện một lần trong đời rất khó định lượng. Thực tế mà một
khoản đầu tư rất dễ có nguy cơ đặc biệt nghiêm trọng-điều xảy ra không thường xuyên. Nếu cái tôi gọi
là thảm họa không thể xảy ra, tức là có vẻ như nó an toàn hơn thực tế.
Điểm mấu chốt là, rủi ro là ẩn, chủ quan và không định lượng được. Điều đó mang lại điều gì? Nếu rủi
ro thua lỗ không thể đo lường, định lượng hoặc thậm chí quan sát, và nếu nó có tính chủ quan, làm sao
để xử lý được nó? Các nhà đầu tư tài giỏi có thể cảm nhận về rủi ro dựa vào a) sự ổn định và tin cậy về
giá trị; b) mối quan hệ giữa giá và giá trị.
Đã có nhiều nỗ lực dù là muộn màng để đánh giá rủi ro bằng các biện pháp khoa học. Các tổ chức tài
chính thường xuyên sử dụng quản lý rủi ro định lượng riêng biệt từ các đội quản lý tài sản của họ và đã
áp dụng mô hình máy tính như “giá trị rủi ro” để đo lường rủi ro trong một danh mục đầu tư. Nhưng
sản phẩm của những người này và công cụ của họ sẽ không tốt hơn dữ liệu đầu vào họ đưa vào và
cách xử lý chúng. Theo ý kiến chủ quan của tôi, họ sẽ không bao giờ được như những nhà đầu tư giỏi
nhất.
Do sự khó khăn của việc định lượng xác suất thua lỗ, những nhà đầu tư muốn có một số thước đo
khách quan về lợi nhuận điều chỉnh sau rủi ro. Nhiều người trong số họ chỉ có thể dựa vào cái gọi là tỷ
lệ Sharpe. Chỉ số này không có gì rõ ràng về khả năng xảy ra thua lỗ, và có lí do để tin rằng giá của các
chứng khoán cơ bản có biến động rủi ro nhiều hơn so với các thứ khác an toàn hơn. Đối với tài sản cá
nhân thiếu giá thị trường tham chiếu như bất động sản, toàn bộ doanh nghiệp, không có cách khác để
thay thế cho đánh giá rủi ro chủ quan.
~
Một vài năm trước đây, trong khi xem xét các khó khăn trong việc đo lường rủi ro trong tương lai, tôi
nhận ra rằng vì bản chất không định lượng và chủ quan tiềm ẩn của nó, nguy cơ của một khoản đầu tư
được định nghĩa là khả năng thua lỗ - không thể đo lường được khi nhìn lại nhiều hơn bất kỳ nó có thể
là một tiên nghiệm.
Chẳng hạn bạn có một khoản đầu tư hoạt động như mong đợi. Điều đó có nghĩa là nó không có rủi ro?
Có lẽ bạn mua cái gì đó với 100 đô la và bán nó 200 đô la một năm sau. Đó có phải là rủi ro? Ai biết?
Có thể nó đã tiếp cận bán với một rủi ro tiềm năng lớn nhưng đã không xảy ra. Như vậy rủi ro thực sự
của nó có thể đã cao. Hoặc chẳng hạn một khoản đầu tư tạo ra lỗ. Điều đó có nghĩa nó rủi ro? Hoặc
phải coi nó là một khoản đầu tư nguy hiểm vào thời điểm phân tích và giải ngân.
Nếu bạn nghĩ về nó, việc trả lời các câu hỏi rất đơn giản. Thực tế trong trường hợp này, thua lỗ xảy ra
không có nghĩa là nó bị ràng buộc để xảy ra, và thực tế là một khoản đầu tư không thua lỗ không có
nghĩa là xác suất xảy ra thua lỗ của nó thấp.
Trong thế giới đầu tư, người ta có thể sống sót nhiều năm khỏi một cuộc đảo chính mà vẫn dự báo
chính xác. Nhưng điều gì chứng tỏ thành công? Khi thị trường đang bùng nổ, các kết quả tốt nhất
thường dẫn tới những rủi ro cao nhất. Họ đủ thông minh để giải ngân vào thời điểm tốt hay chỉ là dạng
bẩm sinh hung dữ thoát khỏi các sự kiện. Đơn giản nhất là có bao nhiêu người đúng do những lí do
sai? Taleb gọi họ là những kẻ ngốc may mắn. Tuy nhiên trong ngắn hạn các nhà đầu tư có tay nghề cao
rất khó để nói họ như vậy.
Điểm đáng nói là ngay cả khi một khoản đầu tư đã kết thúc, vẫn không thể nói là nó mang bao nhiêu
rủi ro. Chắc chắn một thực tế rằng một khoản đầu tư hoạt động (có lời?) không có nghĩa là nó không
nguy hiểm, và ngược lại.
Đối với một đầu tư thành công với, nơi nào bạn nhìn để tìm hiểu liệu kết quả thuận lợi là không thể
tránh được hoặc chỉ là một trong một trăm khả năng (nhiều người khó chịu)? Và như trên cho một kẻ
thua cuộc: làm thế nào để chúng ta xác định xem đó là một hợp lý nhưng liên fated ill-, hay chỉ là một
cú đâm hoang dã đó xứng đáng bị trừng phạt?
Các nhà đầu tư đã làm tốt việc đánh giá các nguy cơ kéo theo? Đó là một câu hỏi hay nhưng khó trả lời.
Cần một mô hình làm điều đó? Hãy nói về chương trình dự báo thời tiết, họ nói rằng ngày mai có 70%
khả năng là trời mưa. Trời mưa thì họ đúng hay sai? Hoặc trời không mưa thì họ đúng hay sai? Không
thể đánh giá độ chính xác của xác suất từ 0-100 ngoại trừ việc thử nghiệm với mẫu lớn.
Và điều đó dẫn đến tôi trích dẫn câu nói của Elroy Dimsom cho chương này: “Rủi ro là nhiều điều có
thể xảy ra hơn điều xảy ra trong tương lai”. Bây giờ chúng ta chuyển sang khía cạnh siêu hình của rủi
ro. Có lẽ bạn nhớ câu mở đầu của chương này: đầu tư bao gồm chính xác một điều: biết bất cứ điều gì
về tương lai. Tuy nhiên rõ ràng chúng ta không thể biết tương lai như thế nào. Nếu chúng ta nhìn xa
trông rộng, chúng ta có thể có ý tưởng về phạm vi các kết quả xảy ra và xác suất tương ứng. “Nói cách
khác nếu chúng ta không làm vậy, chúng ta không biết những điều này và chỉ phỏng đoán thuần túy.”
Nếu chúng ta có một ý tưởng về kết quả, chúng ta có thể nói rằng kết quả là một phạm vi các kết quả
có khả năng xảy ra. Vì vậy kết quả dự kiến là tổng của các giá trị kết quả nhân với xác suất xảy ra. Nó
là một con số nói lên rất nhiều điều-nhưng không phải tất cả về những gì có thể xảy ra trong tương lai.
Nhưng ngay cả khi chúng ta biết được hình dạng của phân phối xác suất, về kết quả có xác suất cao
nhất và kết quả dự kiến- và thậm chí nếu chúng tôi kỳ vọng là hợp lý đúng mực, chúng ta cũng chỉ biết
về các khả năng hoặc khuynh hướng. Tôi đã dành giờ chơi gin và backgammon với bạn tôi-Bruce
Newberg. Hiện chúng tôi đã chơi với thẻ và xúc xắc, nơi mà tỷ lệ cược là hoàn toàn có thể biết được,
chứng tỏ vai trò quan trọng do sự ngẫu nhiên, và do đó hay biến đổi thình lình của xác suất. Bruce đã
đặt nó đáng ngưỡng mộ thành lời: "Có một sự khác biệt lớn giữa khả năng và kết quả. Điều có thể xảy
ra không xảy ra- và những điều không thể xảy ra lại xảy ra mọi lúc. " Đó là một trong những điều quan
trọng nhất mà bạn có thể biết về rủi ro đầu tư.
Trong các chủ đề phân bổ xác suất, tôi muốn chú ý đặc biệt về phân phối chuẩn. Rõ ràng là các nhà
đầu tư phải thực hiện các phán đoán về các sự kiện trong tương lai. Để làm điều đó, chúng tôi định
lượng một giá trị chuẩn mà chúng tôi nghĩ rằng các sự kiện có khả năng xảy ra. Đó có thể là giá trị
trung bình hoặc giá trị dự kiến (kết quả là trung bình được dự kiến sẽ xảy ra), trung bình (kết quả với
một nửa khả năng trên và nửa dưới đây) hoặc chế độ (kết quả rất có thể đơn). Tuy nhiên, để đối phó
với tương lai đó là chưa đủ để có một kỳ vọng trung ương; chúng ta cần phải có một tinh thần đối với
các kết quả có thể khác và xác suất.Chúng tôi cần một phân phối mà mô tả tất cả các khả năng.
Hầu hết các hiện tượng chụm lại quanh một giá trị gia trung tâm. Ví dụ, chiều cao của người- đường
cong có hình chuông quen thuộc, với xác suất của một quan sát đã cho đạt đỉnh ở trung tâm và giảm
dần về 2 phía, hay "đuôi". Có thể có nhiều người đàn ông của năm feet mười inch so với bất kỳ độ cao
khác, có phần ít hơn của năm feet chín inch hoặc năm feet mười inch, ít hơn rất nhiều trong năm feet
ba inch hoặc sáu feet năm inch, và hầu như không ai trong số bốn chân tám inch hoặc bảy đôi chân.
Thay vì liệt kê các xác suất của mỗi quan sát cá nhân, phân phối tiêu chuẩn cung cấp một cách thuận
tiện để tóm tắt các xác suất, như vậy mà một vài số liệu thống kê có thể cho bạn biết tất cả mọi thứ bạn
cần phải biết về hình dạng của những thứ đến.
Trong các năm dẫn đến cuộc khủng hoảng, các kỹ sư tài chính, đóng một vai trò lớn trong việc tạo ra
và đánh giá các sản phẩm tài chính như các dẫn xuất và các tổ chức có cấu trúc.Trong nhiều trường
hợp, họ đã giả định rằng các sự kiện trong tương lai sẽ được phân phối thông thường. Nhưng sự phân
phối bình thường giả định các sự kiện trong những cái đuôi xa sẽ xảy ra rất thường xuyên, trong khi sự
phân bố của phát triển tài chính hình thành bởi con người, họ có xu hướng để cảm xúc thúc đẩy các
hành vi - có lẽ nên được xem là có đuôi "béo". Vì vậy, khi mặc định thế chấp phổ biến bắt đầu xảy ra,
các sự kiện được cho là khó xảy ra một cách thường xuyên. Các nhà đầu tư sử dụng mô hình được xây
dựng trên cơ sở phân phối chuẩn không có nhiều sự chuẩn bị cho "đuôi sự kiện"-các sự kiện có xác
suất xảy ra thấp nhất (một số có thể mượn thuật ngữ "thiên nga đen" Nassim Nicholas Taleb).
Bây giờ đầu tư đã trở nên quá phụ thuộc vào toán học cao cấp, chúng ta phải đề phòng cho những
trường hợp khi áp dụng đơn giản hóa các giả định về một thế giới phức tạp. Định lượng thường lạm
quyền quá mức để trình bày về một hạt muối. Điều đó tạo ra tiềm năng đáng kể cho các rắc rối.
Đây là chìa khóa để hiểu biết rủi ro:hầu hết là vấn đề quan điểm. Đó là khó có thể dứt khoát về rủi ro,
thậm chí sau khi thực tế đã xảy ra. Bạn có thể thấy một nhà đầu tư bị mất ít hơn người khác trong lúc
khó khăn và kết luận rằng các nhà đầu tư rằng mất ít rủi ro?
Đối với hầu hết các phần, tôi nghĩ rằng đó là công bằng để nói rằng hiệu quả đầu tư là những gì sẽ xảy
ra khi một tập hợp các diễn biến địa chính trị, kinh tế, vĩ mô cấp độ công ty, va chạm kỹ thuật và tâm
lý tác động tới một danh mục đầu tư còn lại. Nhiều tương lai có thể xảy ra, nhưng chỉ có một tương lai
xảy ra. Tương lai bạn nhận được có thể có lợi cho danh mục đầu tư hay có hại của bạn,và điều đó có
thể do tầm nhìn xa, cẩn trọng hoặc may mắn của bạn. Hiệu quả danh mục đầu tư của bạn trong một
tình huống cụ thể chưa chắc đã nói lên được liệu nó có hiệu quả hay không trong nhiều tình huống có
thể xảy ra khác.
-Một danh mục đầu tư có thể chịu được 99% các case có thể xảy ra, nhưng lại thua lỗ bởi 1% được cụ
thể hóa. Dựa trên kết quả, danh mục đầu tư như trên có vẻ rủi ro. Trong khi nhà đầu tư đã khá thận
trọng. Điều đó có thể xảy ra.
-Một danh mục đầu tư khác có cấu trúc rất tốt 50% và rất kém 50%. Nhưng nếu các yếu tố mong muốn
được cụ thể hóa, người xem có thể kết luận rằng đó là một danh mục đầu tư rủi ro thấp.
-Sự thành công của danh mục đầu tư thứ 3 có thể do một tình huống kỳ quặc. Nhưng nếu nó xảy ra, sự
hung hăng liều lĩnh có thể bị nhầm lẫn với bảo thủ và tầm nhìn xa.
Lợi nhuận một lần, đặc biệt là lợi nhuận trong thời gian ngắn nói rất ít về chất lượng của quyết định
đầu tư. Lợi nhuận đạt được phải được đánh giá liên quan đến rủi ro để đạt được nó. Tuy nhiên rủi ro
không thể đo lường được. Chắc chắn nó không được đo trên cơ sở “tất cả mọi người” nói tại một thời
điểm. Rủi ro chỉ có thể được đánh giá bởi các nhà tư duy cấp độ 2 nhiều kinh nghiệm và nhạy bén.
~
Dưới đây là tổng kết của tôi về “hiểu về rủi ro”:
Rủi ro đầu tư thường là vô hình trước khi chúng xảy ra, thậm chí là cả sau khi khoản đầu tư đã kết
thúc- ngoại trừ những người có tư duy sâu sắc bất thường. Vì vậy, nhiều người đã thất bại trong việc
dự đoán và quản lý rủi ro trong các thảm họa tài chính lớn mà chúng ta biết. Có nhiều lí do cho việc
này:
-Rủi ro chỉ tồn tại trong tương lai. Và không thể biết những gì tương lai nắm giữ. Không có sự mơ hồ
là điều hiển nhiên khi nhìn lại quá khứ. Chỉ là điều đó đã xảy ra. Nhưng việc kết quả xác định không
có nghĩa là quá trình tạo ra kết quả là rõ ràng và đáng tin cậy. Nhiều điều có thể xảy ra trong mỗi tình
huống trong quá khứ. Thực tế chỉ là một điều được cụ thể hóa, và không phản ánh những biến động đã
tồn tại.
-Các dự báo có xu hướng tập trung quanh lịch sử và ít thay đổi. Vấn đề là người ta thường mong đợi
tương lai giống quá khứ và đánh giá thấp tiềm năng của sự thay đổi.
-Chúng ta thường nghe về “trường hợp xấu nhất”. Tuy nhiên chúng vẫn chưa đủ tiêu cực. Tôi kể cho
các bạn câu chuyện của cha tôi về một con bạc hay thua lỗ. Một ngày anh ta nghe về một cuộc đua chỉ
có một con ngựa duy nhất, anh ta đã đặt tiền thuê nhà vào đó. Tuy nhiên nửa đường con ngựa nhảy ra
khỏi hàng rào và chạy ra ngoài. Lúc nào mọi thứ cũng có thể xấu hơn so với mong đợi. Có lẽ “trường
hợp xấu nhất” là “trường hợp xấu nhất chúng ta đã thấy trong quá khứ”. Nhưng điều đó không có
nghĩa là điều tồi tệ hơn không xảy ra trong tương lai. Trong năm 2007, trường hợp xấu nhất của nhiều
người đã bị vượt quá.
-Nguy cơ xuất hiện từng lớp. Nếu chúng ta nói "2 phần trăm của các khoản thế chấp mặc định" mỗi
năm, và thậm chí nếu đó là sự thật khi chúng ta nhìn vào trung bình nhiều năm, một loạt bất thường
các vụ vỡ nợ có thể xảy ra tại một điểm trong thời gian, đánh chìm cân đối tài chính. Nó luôn luôn là
trường hợp mà một số nhà đầu tư- đặc biệt là những người sử dụng đòn bẩy cao- sẽ không thể tồn tại
trong khoảng thời gian này.
-Mọi người đánh giá quá cao khả năng của họ trong việc đánh giá rủi ro và hiểu về cơ chế mà họ chưa
bao giờ thấy hoạt động. Về lý thuyết, có một điều mà phân biệt con người với các loài khác là chúng ta
có thể hình dung ra rằng cái gì là nguy hiểm mà không trải nghiệm nó. Chúng tôi không cần phải đốt
cháy mình để biết chúng ta không nên ngồi trên một cái bếp lò nóng. Nhưng khi giá cổ phiếu tăng, mọi
người có xu hướng bỏ qua điều này. Thay vì nhận ra nguy cơ phía trước, họ có xu hướng đánh giá quá
cao khả năng của mình.
Cuối cùng và quan trọng, hầu hết mọi người xem chấp nhận rủi ro chủ yếu như là một cách để kiếm
tiền. Rủi ro cao thường tạo ra lợi nhuận cao hơn. Thị trường đã thiết lập những điều để một số trường
hợp trên xảy ra; nếu không, mọi người sẽ không đầu tư có rủi ro.Nhưng nó không thể luôn luôn làm
việc theo cách đó,
6. NHẬN THỨC VỀ RỦI RO
-----------------------------------------------------------------------------------
Tôi có niềm tin rằng hệ thống hiện nay đã ổn định. Do vậy tôi sẽ làm nó ít ổn định hơn bằng cách sử
dụng nhiều đòn bẩy hơn, chấp nhận rủi ro nhiều hơn.
Myron Scholes
Hiểu biết nhận được là các nguy cơ gia tăng trong thời kỳ suy thoái và sụp đổ trong bùng nổ. Ngược lại,
hữu ích hơn là suy nghĩ về việc rủi ro gia tăng khi thị trường tăng đột biến, sự mất cân đối tài chính xây
dựng và cụ thể hóa khi suy thoái.
ANDREW CROCKETT
Bất kể các yếu tố cơ bản tốt như thế nào, sự tham lam và xu hướng phạm lỗi của con người có thể làm
hỏng chuyện.
---------------------------------------------------------------------------------------------

Đầu tư xuất sắc cần cả có lợi nhuận và kiểm soát rủi ro. Và nhận thức rủi ro là một điều kiện tiên quyết
để kiểm soát nó. Hy vọng tôi đã làm rõ những gì là rủi ro (và không). Rủi ro là sự không chắc chắn về
những kết quả sẽ xảy ra và về khả năng thua lỗ khi những yếu tố bất lợi xảy ra. Bước quan trọng tiếp
theo là mô tả quá trình mà thông qua đó, rủi ro được nhận biết như thế nào.
Nhận biết rủi ro bắt đầu với việc giải ngân mà chưa suy nghĩ kỹ, qua việc quá lạc quan và trả quá nhiều
cho một tài sản. Rủi ro cao, nói cách khác đi kèm với giá cao. Cho dù là một cổ phiếu hay tài sản khác,
việc chi quá cao dẫn đến mua đắt tài sản, hoặc toàn thị trường tăng điểm bởi tâm lý lạc quan dẫn đến
giá trên trời. Giải ngân khi giá cao là nguyên nhân chính dẫn đến rủi ro.
~
Trong khi đó, các nhà lý luận cho rằng lợi nhuận và rủi ro là 2 vấn đề riêng biệt, mặc dù các nhà đầu tư
giá trị không nghĩ cho vậy. Họ cho rằng đó là 2 mặt của một vấn đề, giống như 2 mặt của đồng xu. Cả
hai đều bắt nguồn chủ yếu từ việc mua giá cao. Do đó, nhận thức về giá cả và giá trị dù cho với một cổ
phiếu hay toàn thị trường là một yếu tố cần thiết để giao dịch thành công đối phó rủi ro. Rủi ro phát
sinh khi thị trường đi quá xa với giá bao hàm thua lỗ cao hơn lợi nhuận tiềm năng. Đối phó với nguy
cơ này bắt đầu bằng việc công nhận nó.
Trong quá trình thị trường tăng điểm, sự gia tăng lợi nhuận tiềm năng kéo theo sự gia tăng rủi ro. Trừ
những người tạo ra “game” hoặc kết nối với những người quản lý nó, các nhà đầu tư không nên có kế
hoạch kỳ vọng về lợi nhuận mà bỏ qua rủi ro. Và để làm vậy, họ nên có bảo hiểm rủi ro. Nhưng tại một
số điểm trong cơn lắc swing, người ta thường quên mất sự thật đó và chấp nhận rủi ro quá mức. Trong
ngắn hạn, tại thị trường “con bò”-khi mọi người đều có quả ngọt, họ có xu hướng nói rằng: “Rủi ro là
bạn của tôi. Rủi ro càng nhiều, lợi nhuận càng lớn. Tôi muốn nhiều rủi ro hơn, xin cảm ơn.”
Thật ra, chấp nhận rủi ro là trái ngược với việc đầu tư thành công. Khi họ không sợ rủi ro, họ sẽ chấp
nhận rủi ro mà không dự phòng cho rủi ro. Đây là mối quan hệ đơn giản và không thể tránh khỏi. Khi
nhà đầu tư không e ngại và chấp nhận rủi ro, họ mua cổ phiếu với P/E cao, các bội số của EBITDA cao.
Hy vọng rằng sau này a) Nhà đầu tư sẽ nhớ về việc lo sợ rủi ro và có nhu cầu dự phòng rủi ro và b)
chúng tôi sẽ cảnh báo khi họ quên mất điều này.
Yếu tố chính, thậm chí hoàn toàn trong việc tạo ra rủi ro là một niềm tin rằng rủi ro thấp. Niềm tin rằng
giá sẽ tăng dẫn đến các hành động nguy hiểm bất chấp việc lợi nhuận kỳ vọng đã ở mức thấp nhất.
Năm 2005-2007, niềm tin rằng rủi ro đã bị đẩy lùi dẫn đến giá tăng đến mức độ bong bóng và các nhà
đầu tư tham gia vào thị trường giai đoạn sau là một hành động nguy hiểm. Đây là một trong điều rủi ro
nhất của tất cả các quy trình, và nó có xu hướng lặp lại đáng kể.
Trong số rất nhiều câu chuyện cổ tích được kể vài năm qua, một trong những điều quyến rũ và do đó
nguy hiểm nhất là- rủi ro toàn cầu giảm. Nó được thể hiện theo các cách sau:
-Rủi ro của các chu kỳ kinh tế đã trong sự kiểm soát của các cơ quan quản lý ngân hàng.
-Vì toàn cầu hóa, nguy cơ đã được lan truyền trên toàn thế giới chứ không chỉ tập trung về mặt địa lý.
-Chứng khoán và thông tin công bố đã phát tán rủi ro cho nhiều người tham gia thị trường chứ không
chỉ tập trung vào một bộ phận.
-Rủi ro đã được khoanh lại để các nhà đầu tư tốt nhất có thể mang nó.
-Đòn bẩy ít rủi ro hơn do lãi suất và chính sách nợ thân thiện hơn.
-Đòn bẩy an toàn hơn do các yếu tố cơ bản của DN tốt hơn.
-Rủi ro có thể được bảo hiểm bởi chứng khoán phái sinh.
-Sự tiến bộ trong công nghệ, toán học và các mô hình làm cho thị trường dễ hiểu và ít rủi ro hơn.
Một phép ẩn dụ trong một bài báo kể câu chuyện như sau: “Jill là một chuyên gia về sạt lở được công
nhận trên toàn quốc. Cô ấy biết về một loại rủi ro, khi các thiết bị an toàn tốt hơn có thể khiến người
leo núi hành động thiếu cẩn trọng hơn dẫn đến dễ gặp nguy hiểm hơn.” Giống như cơ hội để kiếm tiền,
rủi ro hiện tại của thị trường xuất phát từ hành vi của những người tham gia, không phải từ chứng
khoán, chiến lược và tổ chức. Bất kể những gì tạo nên cấu trúc thị trường, rủi ro chỉ thấp khi các nhà
đầu tư hành xử một cách thận trọng. Mấu chốt là những câu chuyện như thế này về kiểm soát rủi ro
hiếm khi được coi là đúng. Nguy cơ không thể được loại bỏ, nó chỉ được chuyển giao và lan rộng. Sự
phát triển làm cho thế giới ít rủi ro hơn thường là ảo tưởng, và do đó một viễn cảnh màu hồng có xu
hướng khiến thế giới gặp nhiều rủi ro hơn. Đây là một trong những bài học quan trọng nhất của năm
2007.
Các rủi ro đã đi vào huyền thoại là một trong những rủi ro nguy hiểm nhất, và nó đóng góp lớn nhất
cho bất kỳ bong bóng nào. Ở cực của con lắc upswing, niềm tin rằng rủi ro thấp và đầu tư trong sự nghi
ngờ chắc chắn sẽ dẫn đến việc say sưa kiếm lời mà bỏ qua sự cẩn thận, lo lắng sợ hãi mà thay vào đó là
việc bị ám ảnh sợ mất cơ hội.
Cuộc khủng hoảng gần đây chủ yếu là do các nhà đâu tư tham dự vào cuốn tiểu thuyết “những điều
phức tạp và nguy hiểm” với số lượng lớn hơn bao giờ hết. Họ đã tận dụng quá nhiều đòn bẩy và quá
nhiều vốn để đầu tư. Tại sao lại có chuyện như vậy? Mọi chuyện xảy ra khi các nhà đầu tư tin quá
nhiều, lo quá ít và do đó chịu quá nhiều rủi ro. Trong ngắn hạn, họ tin rằng họ đang sống trong một thế
giới ít rủi ro. Lo lắng và bạn thân của nó, mất lòng tin, sự hoài nghi và ác cảm, là thành phần thiết yếu
trong một hệ thống tài chính an toàn. Các khoản vay rủi ro đang được thực hiện, các công ty vay nợ
nhiều hơn số họ có thể trả, danh mục đầu tư quá tập trung, các tin đồn chưa được chứng minh tạo thành
sự ham mê phổ biến.
Khi lo lắng và chán ghét rủi ro hiện diện như đúng ra phải thế, các nhà đầu tư sẽ đặt câu hỏi, điều tra và
hành động thận trọng. Việc đầu tư mạo hiểm sẽ không được thực hiện hoặc sẽ kèm theo việc đền bù
thỏa đáng về lợi nhuận.
Nhưng chỉ khi các nhà đầu tư đủ thận trọng, thị trường mới đưa ra phần bù rủi ro thích đáng. Khi thiếu
thận trọng, các khoản vay nguy hiểm và dự án đáng ngờ sẽ được tiếp cận vốn, và hệ thống tài chính sẽ
trở nên bấp bênh. Quá nhiều tiền sẽ chạy theo rủi ro, đẩy giá tài sản và làm giảm lợi nhuận tiềm năng
và an toàn.
Rõ ràng trong những năm dẫn đến khủng hoảng, những nhà đầu tư tham gia càng thận trọng càng tốt.
Rủi ro trong đầu tư thường do giá quá cao, và giá quá cao thường do lạc quan quá độ, hoài nghi không
đầy đủ và ác cảm với rủi ro. Các yếu tố rủi ro tiềm ẩn có thể kể đến như: lợi nhuận tiềm năng thấp so
với mức an toàn khoản đầu tư, lợi nhuận tốt do mạo hiểm, dòng tiền mạnh vào vốn, sự vay vốn dễ dàng.
Chìa khóa nằm ở sự hiểu biết những gì tác động đến những thứ chúng đang có.
Quá trình tư duy đầu tư là một hệ thống trong đó mỗi vụ đầu tư đều đòi hỏi các yêu cầu kế tiếp. Dưới
đây là cách tôi mô tả hệ thống trong năm 2004, tôi sẽ sử dụng một điển hình trên thị trường trong vài
năm trở lại đây minh họa cách thức làm việc trong thực tế đời sống: lãi suất cho vay 30 ngày là
4%/năm, do vậy các nhà đầu tư nói “nếu tôi gửi tiền thời hạn 5 năm, tôi muốn 5%. Nếu tôi gửi 10 năm
tôi muốn 6%.
Từ đó dẫn đến: nếu tôi có lợi suất 10% từ cổ phiếu, tôi đòi hỏi 15 % để chấp nhận sự thiếu thanh khoản
và không chắc chắn cho đầu tư BĐS, 25% nếu tôi mua lại DN và 30% để kích thích tôi đầu tư vào quỹ
đầu tư mạo hiểm với tỷ lệ thành công thấp.
Một vấn đề lớn đối với lợi nhuận đầu tư hiện nay xuất phát từ điểm khởi đầu cho quá trình này: tỷ lệ
không có rủi ro không phải là 4% (thị trường tiền tệ) mà là 1%, trái phiếu 10 năm có lợi suất là 4% mà
không phải 6%, họ sẽ không mua cổ phiếu trừ khi lợi nhuận từ 6-7%, BĐS có mức tăng trưởng 8% và
vụ mua lại DN phải đủ hấp dẫn với lợi suất 15%. Do vậy ta có một thị trường vốn có lợi suất phẳng và
thấp hơn nhiều so với quan điểm phổ biến.
Mức độ thấp của đường thẳng thể hiện lợi suất thị trường vốn đầu tư được giải thích bởi điểm khởi đầu
do lãi suất thấp. Sau tất cả, mỗi dạng đầu tư phải cạnh tranh với những dạng khác, nhưng năm nay do
lãi suất thấp dẫn đến mức độ chấp nhận rủi ro đã hạ thấp nhất trong lịch sử.
Không chỉ đường thị trường vốn thấp hơn do lợi nhuận thấp, mà nó còn bị dốc lên do các yếu tố khác.
Trước tiên các nhà đầu tư đã thua chính mình trong việc tránh xa các khoản đầu tư lợi nhuận thấp, rủi
ro thấp. Thứ 2, đầu tư mạo hiểm đã rất hiệu quả trong 20 năm trở lại đây, đặc biệt là 2003. Do đó NĐT
cảm thấy hấp dẫn hơn trong việc đầu tư có rủi ro, hoặc đòi hỏi ít phần bù rủi ro hơn.Thứ 3, NĐT nhận
thấy rủi ro đã được hạn chế.
Tóm lại, nói theo cách của chuyên gia, sự lo sợ rủi ro đã giảm. Trong giả kim thuật tài chính, “tôi sẽ
không chạm vào nó bằng mọi giá” biến thành “dường như đây là khoản đầu tư chắc chắn cho tôi”.
Quá trình này cuối cùng sẽ dẫn đến nâng cao P/E, hành vi đầu tư vô kỷ luật, sử dụng đòn bẩy. Giống
như việc giá tăng và giảm trở lại trong tương lai, chúng cũng tạo ra một môi trường rủi ro cao.
~
Rủi ro là rất quan trọng đối với NĐT. Nó chớp nhoáng và không đo lường được. Tất cả điều này làm
cho nó rất khó nhận ra, đặc biệt là khi cảm xúc dâng cao.Nhưng chúng ta phải nhận ra nó. Trong đoạn
sau, viết vào 2007, tôi cho bạn thấy quá trình đánh giá của tôi về môi trường đầu tư và “rủi ro tâm lý”
vào thời điểm đó. Trong khoảng thời gian khác có thể các chi tiết sẽ khác, tuy nhiên tôi hy vọng quá
trình tư duy trong ví dụ này sẽ hữu ích.
Chúng ta đang ở đâu vào giữa năm 2007? Có chút bí ẩn. Tôi thấy mức độ thấp của sự hoài nghi, sợ hãi
và rủi ro. Hầu hết mọi người sẵn sàng để thực hiện các khoản đầu tư rủi ro, vì các khoản đầu tư an toàn
truyền thống, ít rủi ro mang lại lợi nhuận khiêm tốn so với chúng. Điều này là sự thật vì cách suy nghĩ
bỏ qua các khoản đầu tư chắc chắn có lãi và chấp nhận đầu tư mạo hiểm đã biểu lộ độ dốc của rủi ro/
lợi nhuận dốc lên. Dự phòng rủi ro là điều hiếm nhất tôi từng thấy, nhưng rất ít người chấp nhận bằng
cách từ chối lợi nhuận kèm rủi ro tăng…
Thị trường có xu hướng đi lên với sự phát triển tích cực và phục hồi dễ dàng từ sự tiêu cực. Tôi ít thấy
việc các tài sản bị bán tháo, thay vào đó chúng được mua mạnh. Kết quả là tôi không biết bất cứ thị
trường mở nào mà có thể nói rằng nó bị định giá thấp hoặc vắng người. Chúng ta đang sống trong thời
kỳ lạc quan. Các chu kỳ được đung đưa (swing) với chiều hướng lên trên. Giá cả tăng và việc bảo hiểm
rủi ro là ít. Niềm tin đã thay thế chủ nghĩa hoài nghi, sự háo hức đã thay thế sự dè rặt. Bạn đồng ý hay
không? Đó là câu hỏi quan trọng. Trả lời nó trước tiên, và những tác động của nó với đầu tư trở nên rõ
ràng.
Tôi muốn nói rõ rằng không có ý kiến nào của tôi có thể dự đoán bất cứ điều gì với tương lai. Tất cả
những gì bạn cần biết trong những năm dẫn đến vụ tai nạn có thể được thấy rõ qua sự nhận thức về
những gì đang diễn ra trong hiện tại.
~
Thực tế rủi ro không đơn giản và dễ hiểu như thường thức. Do vậy mọi người đánh giá quá cao khả
năng của họ để nhận ra và đánh giá thấp những gì cần để tránh nó, do vậy họ vô tình chấp nhận rủi ro
và góp phần tạo ra nó. Đó là lí do tại sao cần thiết áp dụng tư duy khác biệt, tư duy cấp độ 2. Rủi ro
phát sinh khi hành vi của nhà đầu tư làm thay đổi thị trường. Các nhà đầu tư thúc đẩy vào sự đánh giá
hiện tại-đáng lẽ xảy ra trong tương lai, do vậy làm giảm lợi nhuận tiềm năng trong tương lai. Và khi
tâm lý họ ổn định, họ trở nên táo bạo và chủ quan hơn, các nhà đầu tư coi nhẹ việc dự phòng rủi ro.
Điều trớ trêu là phần thưởng cho việc tăng rủi ro teo lại khi nhiều người tiến tới nó hơn.
“Tôi sẽ không mua bằng bất cứ giá nào- mọi người biết rằng điều đó quá rủi ro”. Tôi đã nghe câu nói
đó rất nhiều lần trong đời, và nó làm gia tăng các cơ hội đầu tư tốt nhất. Sự thật là số đông hiểu sai về
rủi ro thường xuyên như lợi nhuận. Một sự đồng thuận rộng rãi rằng cái gì đó quá nóng để xử lý là
luôn sai. Thông thường nó ngược lại với sự thật. Tôi vững tin rằng quyết định đầu tư đúng đắn là điều
ít được biết đến nhất, và ngược lại:
-Khi tất cả mọi người tin rằng cái gì đó rủi ro, không sẵn lòng mua thường làm giá giảm đến mức
không có chút rủi ro nào. Nói rộng ra ý kiến tiêu cực là điều nguy hiểm nhất, vì tất cả sự lạc quan đã bị
đẩy khỏi giá của nó.
-Và tất nhiên, như đã chứng minh bởi kinh nghiệm của NF, khi tất cả mọi người tin rằng cái gì đó
không có rủi ro, họ sẽ đẩy giá nó lên đến điểm vô cùng nguy hiểm.
Đôi khi thứ được ngưỡng mộ nhất lại nguy hiểm nhất. Nghịch lý này tồn tại vì mọi người nghĩ rằng
chất lượng, chứ không phải giá cả, là yếu tố quyết định xem cái gì là rủi ro. Nhưng tài sản chất lượng
cao có thể nguy hiểm, và tài sản chất lượng thấp có thể an toàn. Nó chỉ là vấn đề giá phải trả cho
chúng… Theo quan điểm phổ biến, dẫn đến không chỉ lợi nhuận tiềm năng thấp mà còn là nguy cơ cao.
7.KIỂM SOÁT RỦI RO
Công việc của nhà đầu tư là cân bằng một cách thông minh giữa rủi ro và lợi nhuận. Làm tốt điều đó
giúp ngăn cách với phần còn lại.
Nhà đầu tư xuất sắc, trong quan điểm của tôi, được phân biệt ít nhiều bởi khả năng kiểm soát rủi ro
thay vì khả năng tạo ra lợi nhuận của họ. Lợi nhuận tuyệt đối cao dễ nhận biết và ấn tượng hơn nhiều
so với hiệu quả điều chỉnh rủi ro. Đó là lý do tại sao các nhà đầu tư có lợi nhuận cao đưa kết quả của
họ trong giấy tờ. Do đó thật khó để đánh giá rủi ro và hiệu suất điều chỉnh rủi ro (thậm chí thực tế đã
xảy ra), và vì tầm quan trọng của quản lý rủi ro bị đánh giá thấp, nhà đầu tư hiếm khi được công nhận
khi làm một cách tuyệt vời vấn đề này. Điều này đặc biệt đúng khi thị trường tốt.
Nhưng theo quan điểm của tôi, những nhà đầu tư vĩ đại là những người chấp nhận rủi ro ít hơn so với
lợi nhuận mang lại. Họ có thể tạo ra lợi nhuận vừa phải với rủi ro thấp, lợi nhuận cao với rủi ro trung
bình. Nhưng đạt được lợi nhuận cao với rủi ro cao là rất ít, trừ khi bạn có thể làm điều đó trong nhiều
năm. Trong trường hợp đó “nguy cơ cao” có thể không thật sự cao hoặc được kiểm soát đặc biệt tốt.
Hãy xem các nhà đầu tư được ghi nhận có một thành tựu tuyệt vời. Những người như Warren Buffett,
Peter Lynch, Bill Miller và Julian Robertson. Nói chung hồ sơ của họ rất đáng nể vì trong nhiều thập
kỷ họ nhất quán và không vướng phải các thảm họa, không chỉ lợi nhuận cao. Mỗi người trong số họ
có thể có một vài năm xấu, nhưng nói chung họ xử lý tốt với rủi ro và lợi nhuận.
~
Bất cứ giải thường nào trình bày về kiểm soát rủi ro, chúng không bao giờ được áp dụng đúng lúc. Lý
do vì rủi ro là bí mật, vô hình. Rủi ro của khả năng thua lỗ là không thể quan sát được. Thứ quan sát
được là thua lỗ, và thua lỗ chỉ xảy ra khi rủi ro va chạm với các sự kiện tiêu cực. Đây là một điểm quan
trọng, vì vậy hãy để tôi cung cấp cho bạn vài căn cứ cho rõ ràng. Vi trùng gây bệnh, nhưng bản thân vi
trùng không phải là bệnh. Chúng ta có thể nói căn bệnh là kết quả của việc mầm bệnh hình thành. Một
ngôi nhà ở California có thể có hoặc không sai sót trong xây dựng dẫn đến, chúng ta chỉ biết khi động
đất xảy ra. Tương tự như vậy, thua lỗ là những gì sẽ xảy ra khi rủi ro gặp nghịch cảnh. Rủi ro là khả
năng lỗ trong trường hợp xấu. Chừng nào mọi việc diễn biến tốt, thua lỗ không phát sinh. Rủi ro làm
phát sinh lỗ chỉ khi các sự kiện tiêu cực xảy ra.
Chúng ta phải nhớ rằng khi một môi trường hữu ích, đó chỉ là một trong số những môi trường có thể
được cụ thể hóa. Thực tế là môi trường tiêu cực không có nghĩa là nó không thể xảy ra. Do vậy, môi
trường tốt không có nghĩa là không cần phải kiểm soát rủi ro, mặc dù nó là thứ không cần thiết tại thời
điểm đó. Điều quan trọng là nhận thức được rủi ro có thể hiện diện mặc dù việc thua lỗ không xảy ra.
Do đó việc sự thua lỗ không xảy ra không đồng nghĩa với việc danh mục đầu tư được xây dựng một
cách an toàn.Vì vậy kiểm soát rủi ro có thể có mặt trong thời điểm thuận lợi, nhưng không phải vì nó
không thể quan sát mà nó không hoạt động. Không có giải thưởng nào ở đây. Chỉ một người quan sát
có kỹ năng và tinh vi mới có thể nhìn vào một danh mục đầu tư trong thời điểm thị trường thuận lợi để
biết liệu nó có rủi ro cao hay thấp.
Để một danh mục đầu tư trải qua thời điểm khó khăn, rủi ro nói chung phải được kiểm soát tốt. Nếu
danh mục đầu tư phát triển mạnh trong thời kỳ thuận lợi, chúng ta cũng không thể nói rằng không cần
thiết hoặc giảm việc kiểm soát rủi ro.
Điểm mấu chốt là: kiểm soát rủi ro là vô hình trong thời gian tốt đẹp nhưng vẫn cần thiết, vì thị trường
đang tốt có thể biến thành xấu bất cứ lúc nào.
~
Tôi nghĩ rằng kiểm soát rủi ro có thể tạo thành nền tảng cho một phương pháp đầu tư cực kỳ thành
công. Làm thế nào để bạn tận hưởng được lợi ích đầy đủ khi thị trường tăng và có vị thế tốt để đạt hiệu
suất hoạt động vượt trội (giảm ít) khi thị trường xuống? Bằng cách dành lợi nhuận khi thị trường tăng
và chịu ít rủi ro khi thị trường giảm… thành công ngoài sức tưởng tượng.
Một nhà đầu tư xuất sắc có thể là một người có báo cáo lợi nhuận cao hơn người khác, nhưng với ít rủi
ro hơn. Tất nhiên khi thị trường ổn định hoặc tăng lên, chúng ta không tìm ra được một danh mục đầu
tư nhiều rủi ro.
Vì thường thị trường có nhiều năm tốt hơn so với các năm xấu, và vì phải mất hàng năm trời mới thể
hiện được giá trị của việc kiểm soát rủi ro qua việc giảm thiệt hại, nên chi phí kiểm soát rủi ro dưới
hình thức lợi nhuận bị bỏ qua có vẻ quá mức. Trong những năm thị trường tốt, các nhà đầu tư có ý thức
về rủi ro phải gắn những kiến thức mà họ hưởng lợi khi nó hiện diện trong danh mục đầu tư, mặc dù nó
không cần thiết. Họ giống như những chủ nhà thận trọng mua bảo hiểm hỏa hoạn và cảm thấy tốt về
việc được bảo vệ, ngay cả khi không có lửa. Kiểm soát rủi ro danh mục đầu tư của bạn là rất quan
trọng và có giá trị đáng để theo đuổi. Quả ngọt, tuy chỉ đến dưới dạng các khoản tổn thất không xảy ra.
Điều này thật khó tính toán trong thời gian êm đềm.
~
Mang rủi ro không biết có thể là một sai lầm rất lớn, nhưng đó là những gì mà những người mua cổ
phiếu với sự giận dữ và kỳ vọng cao nhất tại một thời điểm trong khoảng thời gian “không có gì xấu có
thể xảy ra” liên tục làm. Mặt khác, việc chấp nhận một cách thông minh các rủi ro đã biết là cơ sở tạo
ra lợi nhuận cho những người thông thái nhất, các khoản đầu tư lợi nhuận tốt nhất mặc dù hầu hết các
nhà đầu tư bỏ qua chúng.
Làm cách nào các công ty bảo hiểm nhân thọ-các công ty bảo thủ nhất ở Mỹ-bảo đảm cuộc sống cho
người dân khi mà họ biết tất cả chúng ta sẽ chết? Đó là rủi ro họ nhận thức được, họ biết mọi người rồi
cũng sẽ chết.
Vì vậy, họ đưa thực tế này vào cách tiếp cận của họ:
-Đây là rủi ro họ có thể phân tích. Đó là lý do tại sao họ có các bác sĩ đánh giá sức khỏe người nộp đơn.
-Đây là rủi ro họ có thể đa dạng hóa. Bằng cách đảm bảo hợp đồng bảo hiểm bao gồm độ tuổi, giới tính,
nghề nghiệp. Họ chắc chắn rằng họ không tiếp xúc với các nguy cơ và chịu thiệt hại trên diện rộng.
Và đó là rủi ro mà họ chắc chắn rằng họ được trả lương để chịu đựng. Họ đặt phí bảo hiểm vì vậy họ sẽ
tạo ra lợi nhuận nếu mua bảo hiểm tử vong theo các bảng tính toán trên trung bình.
Chúng tôi cũng đã làm chính xác những điều trên vào trái phiếu có trái tức cao. Chúng tôi cố gắng
nhận thức rủi ro, đó là điều cần thiết cho việc tính được bao nhiêu rủi ro gắn với tài sản của chúng tôi.
Chúng tôi sử dụng các chuyên gia có trình độ cao có khả năng phân tích đầu tư và đánh giá nguy cơ.
Chúng tôi đa dạng hóa danh mục một cách thích hợp. Và chúng tôi chỉ đầu tư khi bị thuyết phục rằng
lợi nhuận kỳ vọng hơn xa phần bù đắp cho rủi ro. Tôi đã từng nói tài sản rủi ro có thể trở thành khoản
đầu tư tốt nếu nó đủ rẻ.
Trong khi kiểm soát rủi ro là điều cần thiết, chịu đựng rủi ro không phải là khôn ngoan hay không khôn
ngoan cho mỗi thương vụ. Đó chắc chắn là một phần của chiến lược và vị thế đầu tư. Nó có thể được
thực hiện tốt hay kém, đúng hoặc sai thời điểm. Nếu bạn có đủ kỹ năng để di chuyển vào các vị thế tích
cực hơn với rủi ro được kiểm soát, đó là điều tốt nhất. Nhưng những cạm bẫy rất nhiều, và nó phải
được tránh. Những người kiểm soát rủi ro biết rằng họ không biết tương lai. Họ biết có thể nó bao gồm
một số kết quả tiêu cực, nhưng không biết nó xấu như thế nào và xác suất của chúng. Như vậy những
cạm bẫy chính ở việc không biết “rủi ro tệ thế nào” và dẫn đến quyết định sai lầm.
Biến động lớn và gây ra lỗ là việc không thường xuyên xảy ra. Và khi thời gian trôi qua mà nó không
xảy ra, ngày càng nhiều khả năng rằng rủi ro sẽ không xảy ra khiến những giả định về rủi ro là quá
thận trọng. Do đó mọi người trở nên nới lỏng với các quy tắc và tỷ lệ đòn bẩy. Và điều này thường
được thực hiện ngay trước khi nguy cơ xuất hiện. Như Taleb đã nói trong “bị lừa bởi ngẫu nhiên”.
Thực tế nó còn tồi tệ hơn trò “cò quay Nga”. Đầu tiên, nó cung cấp các viên đạn có thể gây tử vong
khá thường xuyên. Sau vài chục lần thử, họ quên về sự tồn tại của các viên đạn, trong một cảm giác sai
lầm về an toàn...Thứ hai, không giống một trò chơi được xác định rõ ràng như Cò quay Nga, nơi mà rủi
ro có thể được nhìn thấy bởi bất kỳ ai có khả năng nhân và chia cho 6, người ta không nhìn thấy họng
súng trong thực tế. Do vậy chúng ta có khả năng vô tình đang chơi cò quay Nga, với một cái tên khác-
”rủi ro thấp”.
Kiểm soát rủi ro 63
Do vậy , việc buông lỏng những luật lệ và gia tăng đòn bẩy tài chính trở nên hấp dẫn hơn. Và thường
thì chuyện này sẽ xảy ra ngay trước khi rủi ro tới gần. GIống như Nassim Nicholas đã viết trong cuốn
“Fooled by Randomness - Bị lừa bởi tùy biến”.
Thực tế đáng sợ hơn nhiều so với trò Russian roulette (Russian Roulette). Thứ nhất, nó đưa đến viên
đạn chết người không đều đặn, giống như một khẩu súng lục có hàng trăm, thậm chí hàng nghìn ổ đạn
thay vì chỉ có sáu. Sau vài tá lần thử, người ta sẽ quên mất về sự tồn tại của viên đạn đó, và tự ảo tưởng
trong một cảm giác an toàn sai lầm …. Thứ hai, không được thiết kế và định nghĩa chuẩn xác như trò
Russian roulette, khi mà nguy hiểm rất dễ thấy với tất thảy người chơi biết cách nhân và chia cho sáu,
thì không ai có thể đo đếm được tỉ lệ trong thực tế. Một kẻ hoàn toàn có thể chơi trò Russian roulette
một cách wittingly and sẽ gọi trò đó với một cái tên khác như là “rủi ro tỉ lệ thấp”.
Các tổ chức tài chính đã chơi một trò chơi với tỉ lệ rủi ro cao vào những năm 2004-2007 mà lại nghĩ
rằng trò chơi đó rủi ro thấp. Tất cả chỉ vì những nhận định họ về sự mất mát và khả năng biến động là
quá thấp. Chúng ta sẽ nhìn thấy một bức tranh hoàn toàn khác nếu như họ noi “Thứ này có vẻ không an
toàn. Bởi vì giá nhà ở đã tăng lên rất nhiều và việc thế chấp trở nên phổ biến hơn. Việc này có thể dẫn
đến một sự thụt giảm rộng rãi đến giá nhà ở vào thời điểm này. Vì vậy mà chúng ta sẽ chỉ đầu tư một
nửa so với mức phong độ trong quá khứ gợi ý.”
Thật dễ dàng để nói rằng họ đã có thể đưa ra nhưng nhận định an toàn hơn. Nhưng an toàn đến mức
nào? Bạn không để điều hành cả một business nếu chỉ dựa vào những nhận định về trường hợp xấu
nhất. Lúc đó bạn sẽ chẳng làm được gì cả. Dù sao thì, cái “nhận định về trường hợp xấu nhất” đã thật
sự trở thành một khái niệm rất dễ nhầm lẫn; hoàn toàn không có cái gì như thế, cái mà nói cách khác là
không có thiệt hại hoàn toàn. Và bây giờ, chúng ta biết được các nhà phân tích định lượng không nên
đưa ra giả định rằng sẽ chẳng có một sự tụt giảm toàn quốc đến giá nhà ở. Nhưng khi bạn được biết là
chuyện ấy sẽ xảy ra – khi nó chưa từng xảy ra trước đây – bạn có thể chuẩn bị đến mức nào? 2 phần
trăm? Mười? Năm mươi?
Những đầu báo (2008) tràn ngập các bài viết dự đoán về sự thất hụt khổng lồ, và thậm chí là sụp đổ,
bởi vì họ mua tài sản bằng cách sử dụng vay vốn đầu tư….. Những nhà đầu tư đó đưa vào giải pháp
vay vốn đầu tư, một giải pháp có vẻ hợp lí với sự biến động tài sản trung bình và kết cục là biến động
lớn nhất từng được chứng kiến đã xảy ra. Có thể dễ dàng thấy rằng, họ đã phạm phải một sai lầm.
Nhưng liệu có hợp lí khi mong đợi họ đã sẵn sàng cho những sự kiện hy hữu như vậy ?
Nếu mọi danh mục đầu tư đều được yêu cầu để có thể chống chịu được sự sụt giảm với mức độ mà
chúng ta đã diện kiến (2008), có thể sẽ không phải sử dụng khoản vay nào nào. Đấy có phải là một
phản ứng hợp lí? (Trên thực tế, chuyện không ai muốn đầu tư vào những dạng tài sản như thế là hoàn
toàn có thể xảy ra, kể cả với một nền tảng hồ sơ chưa từng vay mượn).
Trong mọi lĩnh vực của cuóc sống, chúng ta đưa ra quyết định dựa vào những điều mà chúng ta nghĩ
rằng sẽ xảy ra. Và, đến lúc đó, chúng ta phần lớn sẽ dựa vào những gì THƯỜNG xảy ra trong quá khứ.
Chúng ta dự đoán phần lớn các kết quá sẽ gần giống như thông thường (A), nhưng chúng ta biết rằng
hiếm khi mà kết quả lại đi theo hướng có lợi hơn (B) hay là có hại hơn (C). Mặc dù chúng ta luôn phải
giữ trong đầu rằng, đến một lúc nào đó, kết quả xảy đến sẽ ở ngoài khoảng “thông thường” (D), chung
ta thường quên về khả năng xảy ra những trường hợp nằm ngoài dự đoán. Và quan trọng nhất, giống
như ta đã thấy ở những sự kiện gần đây, chúng ta hiếm khi soi xét đến khả năng kết quả lại chỉ xảy ra
một lần trong suốt cả một thế kỉ … hoặc thậm chí là không bao giờ (E). (Minh họa 7.3)

E
D

Hình 7.3

Kể cả nếu chúng ta nhận ra có thể xảy ra trường hợp bất thường, khó đoán, ta sẽ vờ như đang đưa ra
những quyết định hợp lí và sẵn lòng chấp nhận những rủi ro sẽ xảy đến khi mà ta được trả lương hậu
hĩnh để làm như vậy. Rồi đến một lúc, “con thiên nga đen” sẽ tích tụ lại. Nhưng nếu trong tương lai mà
chúng ta lại luôn miệng nói “Ta không thể làm như thế này và thế này, vì là kết quả có thể tệ hơn
những gì chúng ta từng thấy”, thì ta sẽ bị đơ, không thể hành động.
Vì thế, trong phần lớn mọi sự, chúng ta không thể chuẩn bị cho trường hợp xấu nhất. Sẽ rất hoàn hảo
nếu chúng ta còn có thể chuẩn bị cho một sự kiện chỉ xảy ra một lần mỗi thế hệ. Nhưng một thế hệ
không phải là mãi mãi, sẽ có lúc khi mà những tiêu chuẩn bị vượt qua. Bạn sẽ làm gì để đối mặt với
chuyện đó? Tôi đã suy nghĩ rất nhiều trong quá khứ về việc một người nên tận tụy chuẩn bị cho những
thảm họa hiếm gặp như thế nào. Giữa những vấn đề đó, những sự kiện năm 2007-2008 đã chứng tỏ
rằng, không có lời giải đáp dễ dàng nào cả.
“Volatility + Leverage = Dynamite” ngày 17 tháng 12 năm 2008
“Biến động + Đầu tư vay vốn = Mìn nổ”

Đặc biệt dưới góc nhìn của những sự thay đổi bất chợt như chúng ta đã nói ở chương này, tôi muốn
làm rõ sự khác biệt quan trọng giữa kiểm soát rủi ro và tránh né rủi ro. Kiểm soát rủi ro là cách tốt nhất
để hạn chế tổn thất. Tránh né rủi ro, thì lại khác, thì lại dẫn đến hạn chế lợi nhuận nữa. Có một lúc tôi
từng nghe ai đó nói về mong muốn của công ty Oaktree phòng tránh những rủi ro trong đầu tư và tôi đã
tranh luận về vấn đề này.

Rõ ràng là, Oaktree không trốn tranh rủi ro. Chúng tôi sẵn sàng đón tiếp nó, vào đúng thời điểm, đúng
khoảnh khắc và với cái giá hợp lý. Chúng tôi có thể tránh mọi rủi ro một cách dễ dàng, và bạn cũng
vậy. Nhưng chúng tôi đảm bảo rằng phần lợi nhuận bị hao hụt cũng sẽ cao hơn tỉ lệ an toàn. Will
Rogers từng nói :"Đôi lúc, bạn phải làm khác với mọi người thì mới đạt được thành quả". Không ai
trong chúng ta tham gia kinh doanh chỉ để thu về 4% cả.
Vì vậy, cho dù phương trâm đầu tiên trong triết lý đầu tư của Oaktree nhấn mạnh "tầm quan trọng của
việc kiểm soát rủi ro", nó chẳng liên quan gì tới tránh né rủi ro cả.
Chúng tôi được trả khá nhiều tiền để chịu những rủi ro- và đặc biệt với việc dám đương đầu với những
rủi ro mà những người khác thường sẽ tránh- chúng tôi cố gắng đem lại cho khách hàng thêm nhiều lợi
nhuận hơn. Với cách làm trên, rõ ràng là rủi ro có vai trò rất lớn trong quá trình làm việc của chúng tôi.
Rick Funston của Deloitte & Touche đã từng nói trong bài báo nhắc đến bản ghi chép( ) là (“When
Corporate Risk Becomes Personal,” Corporate Board Member, 2005 ( - “Khi rủi ro tập thể có xu
hướng cá nhân hóa”, Thành viên hội đồng quản trị. )Bản bổ sung đặc biệt), Bạn cần an tâm rằng … rủi
ro và tai tiếng đều được nắm rõ, quản lí cẩn thận và được làm sáng tỏ cho tất cả mọi người…. Đây
không phải là sự lo ngại rủi ro; đây là rủi ro trí tuệ.” Đó chính là những gì Oaktree phấn đấu từng ngày.
“Risk – rủi ro” 19 tháng 1 năm 2006.
Con đường dẫn đến thành công trong đầu tư dài hạn nên hướng đến kiểm soát rủi ro hơn là hùng hổ
bước đi. Cho đến cuối sự nghiệp của mình, kết quả của hầu hết các nhà đầu tư đều sẽ được đong đếm
bằng bao nhiêu lần thua thiệt và thua thiệt đến cỡ nào, hơn là bằng sự vĩ đại trong những thành công
của họ. Kiểm soát rủi ro một cách khéo léo là dấu ấn của một nhà đầu tư trình độ cao.
8.LƯU Ý VỀ CÁC CHU KỲ
Tôi nghĩ việc ghi nhớ rằng mọi sự vật đều có một chu kỳ là rất quan trọng. Có nhiều điều tôi không
biết, nhưng có một thứ tôi biết rất rõ, đó là: các chu kỳ cuối cùng luôn chiến thắng. Không có gì chỉ đi
mãi theo một hướng. Cây cối không mọc trên trời. Rất hiếm khi sự vật trở về lại nơi xuất phát. Và có
rất ít rủi ro cho nhà đầu tư sức khỏe cũng như sự nhấn mạnh vào ngoại suy các sự kiện hiện tại vào
trong tương lai.

Càng dành nhiều thời gian vào việc đầu tư, tôi càng đánh giá cao các chu kỳ cơ bản của sự vật. Vào
tháng 11, 2001, tôi đã dành trọn một cuốn sổ ghi nhớ để ghi chép về chủ đề này. Tôi đặt tên nó là “Bạn
không thể dự đoán. Bạn có thể chuẩn bị”, mượn khẩu hiệu quảng cáo của Công ty Bảo hiểm Nhân thọ
MassMutual vì tôi hoàn toàn đồng ý với đề tài của họ: chúng ta không bao giờ biết trước được tương
lai, nhưng chúng ta có thể chuẩn bị cho những khả năng có thể xảy ra và giảm thiểu rủi ro.

Trong đầu tư, cũng như trong cuộc sống, có rất ít điều chắc chắn. Các giá trị có thể bốc hơi, ước tính có
thể sai, hoàn cảnh có thể thay đổi và “những gì đảm bảo” có thể thất bại. Tuy nhiên, có hai khái niệm
chúng ta có thể tự tin mà dựa vào, đó là:

l Quy tắc thứ nhất: hầu hết mọi thứ đều được chứng minh là vận hành theo chu kỳ.
l Quy tắc thứ hai: một vài cơ hội lớn nhất quyết định sự được mất chính là khi người ta quên đi quy
tắc thứ nhất.

Có rất ít thứ di chuyển trên một đường thẳng. Phát triển luôn đi kèm với suy thoái. Mọi thứ luôn diễn
ra tốt đẹp trong một thời gian rồi tệ dần. Quá trình phát triển có thể tăng lên nhanh chóng và rồi chậm
dần. Suy thoái có thể leo thang từ từ và sau đó trở nên nhanh hơn. Nhưng nguyên tắc cơ bản vẫn là mọi
thứ sẽ tăng và giảm, phát triển và suy thoái. Điều này cũng đúng khi áp dụng vào kinh tế, thị trường và
các công ty: họ trồi và sụt.

Lý do cơ bản cho tính chu kỳ trong thế giới của chúng ta chính là sự có mặt của con người. Máy móc
có thể đi theo một đường thẳng. Thời gian không ngừng trôi về phía trước. Một cỗ máy cũng vậy khi
nó được hỗ trợ đầy đủ. Nhưng quá trình trong các lĩnh vực như lịch sử và kinh tế có liên quan đến con
người, và khi con người tham gia vào, kết quả luôn biến đổi và mang tính chu kỳ. Lý do chính của điều
này, tôi nghĩ, là do con người có cảm xúc và không nhất quán, họ không kiên định và lãnh đạm như
máy móc.

Các yếu tố khách quan đóng một vai trò lớn trong chu kỳ, tất nhiên- các yếu tố như những mối quan hệ
định lượng, những sự kiện thế giới, những thay đổi môi trường, sự phát triển của công nghệ và các
quyết định tập thể. Nhưng chính sự vận dụng của tâm lý học lên những điều này đã làm cho các nhà
đầu tư phản ứng thái quá hoặc trở nên thờ ơ, và do đó giúp xác định biện độ của dao động theo chu kỳ.

Khi mọi người cảm thấy ổn về cách mọi thứ đang diễn ra và lạc quan về tương lai, hành vi của họ bị
ảnh hưởng mạnh. Họ chi tiêu nhiều hơn và tiết kiệm ít đi. Họ vay tiền để tăng hưởng thụ cho bản thân
hoặc tiềm năng lợi nhuận của mình, mặc dù làm như vậy khiến cho tình hình tài chính của họ bấp bênh
hơn (tất nhiên, những khái niệm như bấp bênh đang bị lãng quên trong thời kỳ lạc quan). Và họ có
khuynh hướng sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho giá trị hiện tại hoặc một phần của tương lai.
Tất cả những điều này có khả năng đảo chiều trong một giây; một trong những phim hoạt hình yêu
thích của tôi có một câu nói như thế này, “Tất cả mọi thứ mang lợi cho thị trường ngày hôm qua không
còn tốt cho ngày hôm nay.” Các cực của chu kỳ sinh ra kết quả chủ yếu từ những cảm xúc và điểm yếu
của con người, đó là tính thiếu khách quan và không kiên định.
Chu kỳ là sự tự điều chỉnh, và sự đảo ngược của nó không nhất thiết phải phụ thuộc vào các sự kiện
ngoại sinh. Nó đảo ngược (thay vì tiếp tục mãi mãi) vì xu hướng tạo ra những lý do cho sự đảo ngược
của mình. Cho nên, tôi muốn nói rằng thành công luôn chứa hạt giống của sự thất bại, và trong thất bại
có hạt giống của thành công.
“Bạn không thể dự đoán. Bạn có thể chuẩn bị”, 20 tháng 11, năm 2001.
o

Chu kỳ tín dụng xứng đáng được đề cập đặc biệt vì tính tất yếu của nó, cực kì không ổn định và khả
năng tạo cơ hội cho các nhà đầu tư ăn rơ với nó. Trong tất cả các loại chu kỳ, đây chính là chu kỳ yêu
thích của tôi.

Càng tham gia vào việc đầu tư lâu, tôi càng bị ấn tượng bởi quyền năng của chu kỳ tín dụng. Chỉ cần
một biến động nhỏ trong nền kinh tế là đã có thể tạo ra một biến động lớn trong tính hiệu lực của tín
dụng, có tác động lớn đến giá tài sản và trở lại nền kinh tế của chính nó.
Quá trình này rất đơn giản:
l Nền kinh tế chuyển sang một thời kỳ thịnh vượng.
l Nhà cung cấp vốn phát triển mạnh, tăng nguồn vốn của họ.
l Vì tin xấu khan hiếm, các rủi ro được lồng trong việc cho vay và đầu tư dường như được thu hẹp.
l Nhận thức rủi ro không còn.
l Các tổ chức tài chính chuyển sang mở rộng kinh doanh- có nghĩa là, cung cấp thêm vốn.
l Họ cạnh tranh giành thị phần bằng cách giảm lợi nhuận yêu cầu (ví dụ, cắt giảm lãi suất), hạ thấp
tiêu chuẩn tín dụng, cung cấp thêm vốn cho một giao dịch nhất định và giảm bớt giao ước.

Ở thái cực, các nhà cung cấp của khách hàng vay vốn và các dự án tài chính vốn không đáng được tài
trợ. Theo tạp chí The Economist cho biết hồi đầu năm nay, “các khoản vay xấu nhất được thực hiện tại
những thời điểm lạc quan nhất”. Điều này dẫn đến sự phá hủy vốn- nghĩa là, để đầu tư vốn vào các dự
án mà chi phí vốn vượt quá lợi nhuận trên vốn, và cuối cùng xảy ra trường hợp không hoàn lại được
vốn.
Khi thời điểm này xảy ra, như đã được mô tả ở trên- phần tăng của chu kì bị đảo ngược.
l Thiệt hại khiến người cho vay trở nên chán nản và e dè.
l Nhận thức rủi ro tăng cao, kèm theo đó, lãi suất tăng, hạn chế tín dụng và các yêu cầu giao ước.
l Ít vốn hiện hành- và ở đáy của chu kỳ, chỉ dành cho những khách hàng vay có đủ điều kiện nhất,
nếu bất kì ai.
l Các công ty trở nên đói vốn. Khách hàng vay không có khả năng đảo nợ của họ, dẫn đến vỡ nợ và
phá sản.
l Quá trình này góp phần củng cố sự suy giảm kinh tế.

Tất nhiên, ở một thái cực quá trình này đã sẵn sàng để được đảo ngược lại. Bởi vì sự cạnh tranh để cho
vay hoặc đầu tư thấp, lợi nhuận cao có thể được yêu cầu cùng với mức độ tín nhiệm cao. Những người
đi ngược với xu thế mà phạm vốn vào thời điểm này có cơ hội lợi nhuận cao, và những lợi nhuận tiềm
năng hấp dẫn bắt đầu rút vốn. Bằng cách này, sự phục hồi bắt đầu được kích thích.

Tôi đã nói trước đó rằng cách chu kỳ là sự tự sửa sai. Chu kỳ tín dụng sữa chữa bản thân thông qua các
quá trình mô tả ở trên, và nó đại diện cho một trong những yếu tố thúc đẩy sự biến động của chu kỳ
kinh tế. Thịnh vượng mang lại cho sự cho vay dồi dào, dẫn đến cho vay không khôn ngoan, trong đó
sản xuất thua lỗ lớn, khiến người cho vay ngừng cho vay, gây kết thúc sự thịnh vượng, và vân vân.

. . . Lần tới hãy nhìn xung quanh khi khủng hoảng xảy ra, có thể bạn sẽ tìm thấy một người cho vay.
Nhà cung cấp ưu đãi vốn thường xuyên hỗ trợ và tiếp tay cho bong bóng tài chính. Đã có rất nhiều ví
dụ gần đây, khi nới lỏng tín dụng góp phần làm bùng nổ những cuộc suy thoái nổi tiếng như: bất động
sản vào năm 1989-1992; thị trường mới nổi vào năm 1994-1998; Quản lí vốn dài hạn vào năm 1998;
ngành công nghiệp triển lãm phim năm 1999-2000; quỹ đầu tư mạo hiểm và các công ty viễn thông
trong năm 2000-2001. Trong mỗi trường hợp, người cho vay và các nhà đầu tư đã cung cấp quá nhiều
tiền rẻ và kết quả là sự bành trướng quá mức và thiệt hại đáng kể. Trong phim Field of Dreams, Kevin
Costner đã nói, “Nếu bạn xây dựng nó, họ sẽ đến.”." Trong thế giới tài chính, nếu bạn cung cấp tiền giá
rẻ, họ sẽ vay, mua và dựng- thường mà không có kỷ luật, và với những hậu quả rất tiêu cực.
“Bạn không thể dự đoán. Bạn có thể chuẩn bị”
20 tháng 11, 2001

Xin lưu ý rằng bản ghi chú này, được viết gần mười năm trước, mô tả chính xác các quá trình thông
qua sự phát sinh cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008. Đó không phải do khả năng tiên đoán đã giúp
tôi viết nó - mà chỉ nhờ quen thuộc với chu kỳ cơ bản không bao giờ kết thúc.

o
Chu kỳ sẽ không bao giờ ngừng xảy ra. Nếu có điều gì đó như một thị trường hoàn toàn hiệu quả, và
nếu người ta thật sự ra các quyết định một cách tính toán và bằng thái độ độ vô cảm, có lẽ chu kỳ (hoặc
ít nhất là thái cực của chúng) sẽ bị triệt tiêu. Nhưng điều đó sẽ không bao giờ xảy ra. .
Nền kinh tế sẽ trồi sụt khi người tiêu dùng chi tiêu nhiều hơn hoặc ít hơn, đáp ứng về mặt cảm xúc với
các yếu tố kinh tế hoặc các sự kiện ngoại sinh, địa chính trị hoặc tự nhiên. Các công ty sẽ dự đoán một
tương lai tươi sáng trong chu kỳ tăng và do đó mở rộng thái quá thiết bị và hàng tồn kho; chúng sẽ trở
thành gánh nặng khi nền kinh tế đi xuống. Các nhà cung cấp vốn sẽ trở nên quá hào phóng khi nền
kinh tế đang hưng thịnh, tiếp tay cho sự mở rộng thái quá bằng tiền rẻ, và rồi họ sẽ siết chặt dây cương
khi mọi thứ trông không còn thuận lợi nữa. Các nhà đầu tư sẽ đánh giá cao các công ty khi họ làm ăn
tốt và đánh giá thấp họ khi mọi việc trở nên khó khăn.
Chưa hết, mỗi thập kỷ hoặc lâu hơn, người ta quyết định chấm dứt chu kỳ. Họ nghĩ rằng hoặc là thời
điểm tốt sẽ tiếp tục mà không có kết thúc hoặc những xu hướng tiêu cực không thể bị ngăn chặn. Vào
những lúc như vậy, họ nói về “chu kỳ đạo đức” hay “chu kỳ luẩn quẩn” - sự phát triển tự cung cấp sẽ
mãi tiếp tục theo một hướng hay khác khi.

Trường hợp ở thời điểm: ngày 15 tháng 11, 1996, tờ nhật báo The Wall Street Journal đưa tin về một
sự đồng thuận ngày càng tăng: “Từ phòng họp đến phòng khách và từ văn phòng chính phủ đến các
sàn giao dịch, một sự đồng thuận mới đang nổi lên: chu kỳ kinh doanh xấu và đại trà đã được thuần
hóa.” Có ai nhớ đến môi trường ổn định, không theo chu kỳ kinh tế trong những năm kể từ đó? Điều gì
sẽ giải thích cuộc khủng hoảng mới nổi của năm 1998, suy thoái kinh tế năm 2002, và cuộc khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế tồi tệ nhất kể từ Thế chiến II - trong năm 2008?

Niềm tin rằng chu kỳ đã kết thúc minh họa một cách tư duy dựa trên tiền đề nguy hiểm rằng “lần này
nó sẽ khác”. Bốn chữ nên tấn công nỗi sợ hãi, - và có lẽ đề xuất một cơ hội để sinh lời cho bất cứ ai
hiểu rõ quá khứ và biết chu kỳ lặp lại của nó. Vì vậy, việc bạn có khả năng nhận ra sai sót khi nó phát
sinh là rất thiết yếu.

Một trong những quyển sách yêu thích của tôi là một bộ sách mang tên là Oh Yeah?, một biên soạn
năm 1932 về trí tuệ của các doanh nhân và các nhà lãnh đạo chính trị trước thời kỳ khủng hoảng.
Dường như ngay cả sau đó, giới chuyên gia đã dự đoán một chu kỳ phi kinh tế:

l Sẽ không có sự gián đoạn của sự thịnh vượng hiện tại của chúng tôi. (Myron E. Forbes, Chủ tịch
công ty Pierce Arror Motor Car, ngày 01 tháng 1 năm 1928)
l Tôi không thể không nâng cao tiếng nói bất đồng với những điều khoản đó. . . thịnh vượng ở đất
nước này nhất thiết phải giảm bớt và rút bớt trong tương lai. (E.H.H. Simmons, chủ tịch, chứng khoán
New York, ngày 12 tháng 01 năm 1928)
• Chúng ta chỉ đang bắt đầu vào một giai đoạn mà sẽ đi vào lịch sử như thời
hoàng kim. (Irving T.Bush, chủ tịch tập đoàn Bush Terminal, ngày 15 tháng 11 năm 1928)
• Các doanh nghiệp cơ bản của đất nước . . . đang ở trên một cơ sở ổn định
và thịnh vượng. (Tổng thống Herbert Hoover, ngày 25 tháng 10 năm 1929).

Thỉnh thoảng, việc trồi sụt diễn ra trong một thời gian dài và / hoặc phần lớn, người ta sẽ nói “lần này
nó sẽ khác”. Họ trích dẫn những thay đổi địa chính trị, các tổ chức, công nghệ hoặc hành vi đã khiến
cho “quy tắc cũ” lỗi thời. Họ làm cho các quyết định đầu tư ngoại suy xu hướng gần đây. Và rồi hóa ra
rằng các quy tắc cũ vẫn còn đang áp dụng, và chu trình lại tiếp tục. Cuối cùng, cây cối không mọc trên
trời, và rất hiếm khi sự vật trở về lại nơi xuất phát. Thay vào đó, hầu hết các hiện tượng hóa ra là do
chu kỳ.
“Bạn không thể dự đoán. Bạn có thể chuẩn bị,” ngày 20 tháng 11, 2001.
Chúng tôi kết luận rằng hầu hết thời gian, tương lai sẽ trông rất giống quá khứ, với cả chu kỳ tăng và
chu kỳ giảm. Có một thời điểm thích hợp để lập luận rằng mọi thứ sẽ tốt hơn, và đó là khi thị trường
đang ở mặt sau của nó và tất cả mọi người đang bán đồ với giá rẻ như cho. Thật là nguy hiểm khi các
thị trường ở mức kỷ lục đạt tới sự hợp lý hóa tích cực mà chưa bao giờ biết được sự thật trong quá khứ.
Nhưng nó đã từng xảy ra trước đó, và nó sẽ lặp lại nữa.
“Will It Be Different This Time?” November 25, 1996 - "Liệu lần này nó sẽ khác?" 25 tháng 11 năm
1996

Bỏ qua các chu kỳ và xu hướng ngoại suy là một trong những điều nguy hiểm nhất mà một nhà đầu tư
có thể làm. Mọi người thường hành động như công ty đang làm tốt sẽ làm tốt được mãi mãi, và các
khoản đầu tư vượt trội sẽ vượt trội mãi, và ngược lại. Thay vào đó, ngược lại nó có nhiều khả năng là
đúng.

Lần đầu tiên khi các nhà đầu tư mới nhìn thấy hiện tượng này xảy ra, khá dễ hiểu là họ có thể chấp
nhận một thứ mà chưa từng xảy ra trước đây - sự chấm dứt của chu kỳ- có thể xảy ra. Nhưng lần thứ
hai hoặc lần thứ ba, những nhà đầu tư đó, giờ đã có kinh nghiệm, sẽ nhận ra nó không bao giờ xảy ra,
và biến nhận thức đó thành lợi thế của họ.

Lần tới bạn tiếp cận với một thỏa thuận xác định trên chu kỳ đã không còn xảy ra, hãy luôn nhớ rằng
đó là một ván cược thất bại
9/Điều Quan Trọng Nhất Chính Là . . .
Hiểu về dao động con lắc

Khi mọi thứ đang tiến triển tốt và giá cao, các nhà đầu tư đổ xô đến mua, quên mất tất cả sự khôn
ngoan. Sau đó, sự hỗn loạn ở quanh và tài sản thì trên một quầy hạ giá, họ đánh mất mọi sự sẵn sàng để
chịu rủi ro và vội vàng bán đi. Và nó sẽ không bao giờ được như vậy.

Bản ghi nhớ đầu tư thứ hai tôi từng viết, trở lại năm 1991, đã dành gần như là toàn bộ đến một chủ đề
mà tôi đã đề cập đến để suy nghĩ nhiều hơn và nhiều hơn nữa trong những năm qua: sự dao động giống
như của con lắc về những thái độ và hành vi đầu tư.

Sự biến động trạng thái của thị trường chứng khoán giống với sự chuyển động của một con lắc. Mặc dù
trung điểm vòng cung của nó mô tả tốt nhất vị trí của con lắc "ở mức trung bình", nó thực sự dành rất ít
thời gian của mình ở đó. Thay vào đó, nó gần như luôn luôn chuyển động hướng về hoặc đi từ hai điểm
cực đại trên vòng cung của nó. Nhưng bất cứ khi nào con lắc đến gần một trong hai điểm cực đại, điều
không thể tránh khỏi đó là nó sớm hay muộn sẽ di chuyển trở lại về phía trung điểm. Trong thực tế, nó
là sự tự chuyển động về một điểm cực đại mà nguồn cung cấp năng lượng cho dao động trở lại.
Các thị trường đầu tư theo một dao động giống con lắc:
• giữa trạng thái hưng phấn và suy yếu đột ngột,
• giữa việc đặt dấu mốc cho những phát triển tích cực và sự ám ảnh về những tiêu cực, và
do đó
• giữa overpriced (cổ phiếu được thị trường định giá cao hơn so với giá trị nội tại) và
underpriced (cổ phiếu được thị trường định giá thấp hơn so với giá trị nội tại).
Sự dao động này là một trong những đặc trưng đáng tin cậy nhất của giới đầu tư, và tâm lý cho nhà đầu
tư dường như dành nhiều thời gian hơn ở những điểm cực đại hơn là tại một điểm "trung bình hạnh
phúc."
"First Quarter Performance (Hiệu suất Quý I)," ngày 11 tháng Tư,1991

Mười ba năm sau, tôi đã xem xét lại chủ đề của con lắc với độ dài trong một bản ghi nhớ khác. Trong
đó tôi quan sát thấy rằng ngoài các yếu tố đã được đề cập trước đó, con lắc cũng dao động liên quan
đến tham lam với sợ hãi; sự sẵn sàng để nhìn nhận mọi thứ thông qua một ống kính tích cực hay tiêu
cực; niềm tin vào những sự phát triển đó là sắp đến; tính cả tin với thái độ hoài nghi; và khoảng rủi ro
cho phép với ác cảm về rủi ro.
Dao động cuối cùng của những thái độ đối với rủi ro này là một chủ đề phổ biến len lỏi qua nhiều
những biến động của thị trường.
Lo ngại rủi ro là thành phần thiết yếu trong một thị trường có chừng mực, như tôi đã nói trước đây, và
vị trí của con lắc liên quan đến việc nó là đặc biệt quan trọng. Lượng không hợp về lo ngại rủi ro là
những nhân tố chính vào sự vượt quá giới hạn của thị trường bong bóng và sụp đổ. Đây là một trường
hợp cực kỳ đơn giản - nhưng không phải trầm trọng - để nói rằng dấu hiệu phân biệt không thể tránh
khỏi của bong bóng là thiếu những lo ngại rủi ro. Trong những đổ vỡ, mặt khác, các nhà đầu tư lo sợ
quá nhiều. Lo ngại rủi ro quá mức ngăn cản họ từ việc thu mua ngay cả khi không có tích cực - mà chỉ
có tiêu cực - được thể hiện trong giá và các đánh giá thấp một cách vô lí.

Trong quan điểm của tôi, chu kỳ tham lam/sợ hãi là do thay đổi thái độ với rủi ro. Khi lòng tham chiếm
phần lớn, có nghĩa rằng các nhà đầu tư cảm thấy một mức độ cao về sự thu về với rủi ro và ý tưởng về
việc chịu đựng nó trong lãi của lợi nhuận. Ngược lại, khi sợ hãi chiếm phần lớn cho thấy một mức độ
cao của sự ác cảm với rủi ro. Các nhà khoa học cho thái độ của nhà đầu tư đối với rủi ro là một hằng số,
nhưng chắc chắn nó dao động mạnh. Lý thuyết về đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào các giả định rằng nhà
đầu tư có ác cảm với rủi ro. Rằng họ "không ưa" rủi ro và phải bị xui khiến - mua chuộc - để chịu đựng
nó, với lợi nhuận
được kỳ vọng là cao hơn.
Gặt hái lợi nhuận cao đáng tin cậy từ các khoản đầu tư mạo hiểm là một nghịch lý. Nhưng có những
lúc dự báo này bị lờ đi - khi người nhận quá thoải mái với rủi ro và do đó khi giá chứng khoán kết hợp
với một mức phí bảo hiểm cho việc chịu nguy cơ đó là không tương xứng để bù đắp cho rủi ro đó ở
hiện tại. . . .
Khi các nhà đầu tư nói chung chịu quá nhiều nguy cơ, giá chứng khoán có thể bao gồm nhiều rủi ro
hơn so với khi họ làm lợi nhuận. Khi các nhà đầu tư quá sợ rủi ro, giá cả có thể cung cấp nhiều lợi
nhuận hơn so với rủi ro.
"The Happy Medium (Trung bình Hạnh phúc)", ngày 21 tháng Bảy,2004

Chuyển động con lắc về thái độ đối với rủi ro là một trong những điều mạnh nhất trên tất cả. Thực tế,
gần đây tôi đã rút lại các rủi ro chính trong việc đầu tư thành hai: nguy cơ mất tiền và nguy cơ bỏ lỡ cơ
hội. Có thể nhiệm sự loại bỏ phần lớn ở một trong hai, nhưng không phải cả hai. Trong một thế giới lý
tưởng, các nhà đầu tư sẽ cân bằng cả hai mối quan tâm này. Nhưng theo thời gian, ở những điểm cực
đại của dao động con lắc, một hay những điểm trội hơn hẳn khác. Cho ví dụ:
• Năm 2005, 2006 và đầu năm 2007, với những điều diễn ra rất thuận buồm xuôi gió và thị
trường vốn rộng mở, rất ít người tưởng tượng rằng các tổn thất có thể ở phía trước. Nhiều rủi ro đáng
tin đã bị loại bỏ. Lo lắng duy nhất của họ là họ có thể sẽ bỏ lỡ một cơ hội; nếu Wall Street đã xuất hiện
với một phép lạ về đầu tư mới và các nhà đầu tư khác đã mua mà họ thì không - và nếu các phép lạ đã
có tác dụng - họ có thể nhìn vào không tiến lên và mất đất. Vì họ đã không quan tâm về việc mất tiền,
họ không nhấn mạnh vào giá mua thấp, phí bảo hiểm rủi ro đầy đủ hoặc bảo vệ nhà đầu tư. Nói tóm lại,
họ hành xử quá mạnh.
• Sau đó, vào cuối năm 2007 và 2008, với cuộc khủng hoảng tín dụng nở rộ, người ta bắt
đầu lo sợ một cuộc khủng hoảng hoàn toàn của hệ thống đầu tư thế giới. Không ai lo lắng về cơ hội
đang bỏ lỡ; con lắc đã vung tới điểm mà mọi người chỉ lo lắng về việc mất tiền. Do đó, họ chạy từ mở
bất kỳ điều gì với không một chút mảy may rủi ro nào - phụ thuộc vào lợi nhuận tiềm năng - và sự an
toàn của trái phiếu chính phủ với lãi suất gần như bằng không. Tại thời điểm này, sau đó, các nhà đầu
tư lo sợ quá nhiều, bán quá ồ ạt và đặt vị trí danh mục đầu tư của họ vào vòng phòng thủ quá mức.
Như vậy, trong vài năm qua đã cung cấp được cơ hội rõ ràng bất thường để chứng kiến dao động của
con lắc. . . và làm thế nào hầu hết mọi người làm sai tại thời điểm sai lầm một cách nhất quán. Khi mọi
việc diễn ra tốt và giá cao, nhà đầu tư đổ xô đến mua, quên tất cả khôn ngoan. Sau đó, khi có sự hỗn
loạn xung quanh và tài sản trên quầy hạ giá, họ mất tất cả sẵn sàng để chịu rủi ro và vội vàng bán ra.
Và nó sẽ không bao giờ được như vậy.

Rất sớm trong sự nghiệp của tôi, một nhà đầu tư kỳ cựu nói với tôi về ba giai đoạn của một thị trường
đầu cơ giá lên. Bây giờ tôi sẽ chia sẻ với bạn.
• Đầu tiên, khi một vài người nhìn về phía trước bắt đầu tin tưởng mọi thứ sẽ trở nên tốt
hơn
• Thứ hai, khi hầu hết các nhà đầu tư nhận ra sự cải thiện thực sự xảy ra
• Thứ ba, khi tất cả mọi người kết luận mọi thứ sẽ trở nên tốt hơn mãi mãi

Tại sao mọi người luôn lãng phí thời gian để cố gắng có một mô tả tốt hơn? Điều này nói lên tất cả.
Chúng ta nắm bắt ý nghĩa của nó là cần thiết.
Thị trường có một lưu ý riêng của mình, và đó là những thay đổi trong các giới hạn định giá, gây ra
chủ yếu bởi những thay đổi trong tâm lý học nhà đầu tư (không thay đổi trong các nguyên tắc cơ bản),
chiếm hầu hết những thay đổi trong kì hạn ngắn trong giá chứng khoán. tâm lý này, cũng chuyển động
như một con lắc.
Cổ phiếu rẻ nhất khi mọi thứ có vẻ ảm đạm. Triển vọng đình trệ giữ họ ở đó, và chỉ có một vài thợ săn
mua bán láu cá và táo bạo là sẵn sàng chấp nhận những vị thế mới. Có thể việc mua vào của họ thu hút
một số sự chú ý, hoặc có thể là triển vọng quay lại ít đình trệ hơn một chút, nhưng vì một lý do này hay
lý do khác, thị trường bắt đầu chuyển động lên.
Sau một thời gian, triển vọng có vẻ như ít hơn một chút. Họ bắt đầu đánh giá cao sự cải thiện đang
diễn ra, và như là một người mua, nó đòi hỏi ít trí tưởng tượng hơn. Tất nhiên, với nền kinh tế và thị
trường ra khỏi danh sách quan trọng, họ phải trả cho những cái giá biết suy nghĩ hơn về giá trị hợp lý
của cổ phiếu.
Và rốt cuộc thì, sự choáng váng bắt đầu. Được cổ vũ bởi sự cải thiện trong các kết quả kinh tế và
doanh nghiệp, con người trở nên sẵn sàng để suy luận ra nó. Họ trở nên vui mừng (và ghen tị) về lợi
nhuận của các nhà đầu tư lúc trước, và họ muốn tham gia vào. Họ bỏ qua các chu kỳ tự nhiên của sự
vật và kết luận rằng lợi ích sẽ tiếp tục duy trì mãi mãi. Đó là lý do tại sao tôi yêu câu ngạn ngữ cổ
"What the wise man does in the beginning, the fool does in the end (Những gì người khôn ngoan làm
trước tiên, là những việc mà kẻ ngốc làm lúc kết thúc)." Điều quan trọng nhất trong những giai đoạn
cuối của thị trường đầu cơ giá lên là con người trở nên sẵn sàng trả giá cho cổ phiếu được giả định các
thời điểm tốt sẽ tiếp tục và là vô cùng.
"You Can’t Predict. You Can Prepare (Bạn không thể dự đoán. Bạn có thể chuẩn bị)," Ngày 20 tháng
11, 2001

Ba mươi lăm năm sau lần đầu tiên tôi học được về các giai đoạn của một thị trường đầu cơ giá lên, sau
khi những điểm yếu của các khoản thế chấp thứ yếu (và các chủ sở hữu của chúng) đã được tiếp xúc và
như mọi người đã lo lắng là sự lây lan đến một cuộc khủng hoảng toàn cầu, tôi đi vào những mặt trái,
ba giai đoạn của một thị trường sinh lãi:

• Đầu tiên, khi chỉ một vài nhà đầu tư thận trọng nhận ra điều đó, mặc dù xu hướng tăng
giá hiện tại, mọi thứ không phải luôn luôn là màu hồng
• Thứ hai, khi hầu hết các nhà đầu tư nhận ra mọi thứ đang xấu đi
• Thứ ba, khi tất cả thông tin là nhằm thuyết phục mọi người rằng nó chỉ có thể trở nên tồi
tệ hơn

Chắc chắn chúng ta giỏi cái thứ hai trong ba giai đoạn. Đã có rất nhiều tin tức xấu và xử lý nợ xấu.
Ngày càng có nhiều người nhận ra những nguy hiểm vốn có trong những thứ như là đổi mới, đòn bẩy,
những phát sinh, rủi ro đối tác và sự giải thích ghi dấu đến thị trường. Và vấn đề ngày càng trở nên có
vẻ nan giải.
Mặc dù một trong những ngày này chúng ta sẽ đạt đến giai đoạn thứ ba, nhóm người sẽ từ bỏ đó là một
giải pháp. Và trừ phi thế giới đầu tư thực sự kết thúc, chúng ta có thể bắt gặp những cơ hội đầu tư của
cả một đời. Những bản chất chính xảy ra khi tất cả mọi người quên rằng trào lưu cũng đến. Đó là
những lần chúng ta sống cho.
"The Tide Goes Out (Trào lưu Đi Ra)", 18 tháng 3, 2008

Chỉ sáu tháng sau khi những lời này được viết ra, sự tiến triển đã đi tất cả các con đường để đến giai
đoạn thứ ba. Một cuộc khủng hoảng toàn bộ của hệ thống đầu tư thế giới đã được coi là có thể; trên
thực tế, các bước đầu tiên – sự phá sản của Anh em nhà Lehman và sự sáp nhập hay cứu nguy của Bear
Stearns, Merrill Lynch, AIG, Fannie Mae, Freddie Mac, Wachovia và WaMu - đã xảy ra. Vì đây là
cuộc khủng hoảng lớn nhất từng có, các nhà đầu tư mua vào giai đoạn thứ ba, trong khi "tất cả mọi thứ
điều thuyết phục mọi người rằng nó chỉ có thể tồi tệ hơn", hơn bao giờ hết. Vì vậy, trong nhiều loại tài
sản, những thứ được xác định bởi dao động của con lắc – giá giảm trong năm 2008, các cơ hội đầu tư
tổng hơp tại điểm thấp nhất, và lợi nhuận trong năm 2009 – là lớn nhất mà tôi từng thấy.
Tầm quan trọng của tất cả điều này là cơ hội nó cung cấp cho những người nhận ra những gì đang xảy
ra và nhìn thấy mọi sự dính líu. Ở một điểm cực đại của con lắc – lần đen tối nhất, nó có khả năng phân
tích, tính khách quan, giải quyết, thậm chí tưởng tượng, để nghĩ về những thứ sẽ một lúc nào đó trở
nên tốt hơn. Một số ít người có những phẩm chất đó có thể làm cho những lợi nhuận bất thường cùng
với nguy cơ thấp. Nhưng ở một điểm cực đại khác, khi tất cả mọi người giả định và giá cả trong sự cải
thiện là không thể mãi mãi – giai đoạn được thiết lập cho các khoản lỗ đau đớn.
Tất cả đi cùng nhau. Không gì trong số này là một sự kiện bị cô lập hay một sự xuất hiện tình cờ. Thay
vào đó, chúng là tất cả các yếu tố trong một mô hình định kỳ có thể được hiểu và hưởng lợi từ đó.

Các dao động của con lắc nhà đầu tư về bản chất là rất tương tự với sự biến động lên và xuống của chu
kỳ kinh tế và thị trường được mô tả trong chương 8. Vì một số lý do tôi tự thấy rằng tạo một sự khác
biệt giữa hai và nói về chúng trong những điều kiện khác nhau, nhưng chúng đều rất quan trọng, và
những bài học chính thì giống nhau. Với lợi ích của việc trải nghiệm gần hai mươi năm kể từ khi cầm
bút rằng bản ghi nhớ đầu tiên về con lắc vào năm 1991, tôi sẽ nói lại những quan sát chính của nó:
• Trong lý thuyết liên quan đến sự phân cực như sợ hãi và tham lam, con lắc phải tập trung
chủ yếu ở điểm giữa của các điểm cực đại. Nhưng nó không được lâu.
• Chủ yếu bởi vì các công trình của tâm lý học nhà đầu tư, nó thường dao động hướng về
hoặc trở lại từ một điểm cực đại này hay điểm cực đại khác.
• Con lắc không thể tiếp tục dao động về phía của một điểm cực đại, hoặc tập trung tại một
điểm cực đại mãi (mặc dù khi nó được đặt ở điểm cực đại lớn nhất của nó, họ ngày càng mô tả rằng là
đã trở thành một điều kiện cố định).
• Giống như một con lắc, dao động của tâm lý học nhà đầu tư hướng tới một điểm cực đại
dẫn đến năng lượng để tích lũy để cuối cùng sẽ đóng góp vào việc quay trở lại. Đôi khi, năng lượng bị
dồn nén bản thân nó là nguyên nhân của dao động trở lại – rằng, dao động của con lắc hướng về một
điểm cực đại sửa trọng lượng của nó.
• Dao động trở lại từ điểm cực đại thường là nhanh hơn và do đó mất ít thời gian hơn
nhiều – so với dao động đến điểm cực đại. (Hay như đối tác của tôi - Sheldon Stone - thích nói, "The
air goes out of the balloon much faster than it went in (Khí ra từ quả bóng bay nhanh hơn nhiều so với
đi vào).")

Sự xuất hiện của mô hình giống con lắc này ở hầu hết các hiện tượng thị trường là cực kỳ đáng tin cậy.
Nhưng cũng giống như sự dao động của các chu kỳ, chúng ta không bao giờ biết:

• con lắc sẽ dao động trong vòng cung của nó bao xa,
• những gì có thể khiến dao động để dừng và quay trở lại,
• khi nào sự đảo chiều này sẽ xảy ra, hay
• bao xa thì nó sẽ xoay về hướng ngược lại.

Đối với một giai đoạn tăng giá. . . để thống trị, môi trường phải được đặc trưng bởi sự tham lam, sự
tích cực, tâm trạng phấn khởi, tự tin, tính cả tin, sự táo bạo, chấp nhận rủi ro và tính nóng nảy. Nhưng
những đặc điểm này sẽ không chi phối một thị trường mãi mãi. Cuối cùng thì chúng sẽ nhường chỗ cho
sự sợ hãi, bi quan, thận trọng, không chắc chắn, sự hoài nghi, thận trọng, lo ngại rủi ro và sự dè dặt. . . .
Phá sản là sản phẩm của những sự bùng nổ, và tôi tin chắc nó thường chính xác hơn để cho rằng phá
sản cho sự thái quá của sự bùng nổ trước đó hơn là sự kiện cụ thể có thể tạo nên các điều chỉnh.
"Now What? (Bây giờ là gì?)" Ngày 10 tháng 1, 2008
Có một vài điều mà chúng ta có thể chắc chắn, và đây là một: hành vi thị trường mà điểm cực đại sẽ
đảo ngược. Những người tin rằng con lắc sẽ di chuyển theo một hướng mãi mãi hoặc tập trung tại một
điểm cực đại mãi mãi- cuối cùng sẽ mất một khoản rất lớn. Những người am hiểu được hành vi của
con lắc thì lại có thể được hưởng lợi rất nhiều.

Kiểm soát rủi ro 63


Do vậy , việc buông lỏng những luật lệ và gia tăng đòn bẩy tài chính trở nên hấp dẫn hơn. Và thường
thì chuyện này sẽ xảy ra ngay trước khi rủi ro tới gần. GIống như Nassim Nicholas đã viết trong cuốn
“Fooled by Randomness - Bị lừa bởi tùy biến”.
Thực tế đáng sợ hơn nhiều so với trò Russian roulette (Russian Roulette). Thứ nhất, nó đưa đến viên
đạn chết người không đều đặn, giống như một khẩu súng lục có hàng trăm, thậm chí hàng nghìn ổ đạn
thay vì chỉ có sáu. Sau vài tá lần thử, người ta sẽ quên mất về sự tồn tại của viên đạn đó, và tự ảo tưởng
trong một cảm giác an toàn sai lầm …. Thứ hai, không được thiết kế và định nghĩa chuẩn xác như trò
Russian roulette, khi mà nguy hiểm rất dễ thấy với tất thảy người chơi biết cách nhân và chia cho sáu,
thì không ai có thể đo đếm được tỉ lệ trong thực tế. Một kẻ hoàn toàn có thể chơi trò Russian roulette
một cách wittingly and sẽ gọi trò đó với một cái tên khác như là “rủi ro tỉ lệ thấp”.
Các tổ chức tài chính đã chơi một trò chơi với tỉ lệ rủi ro cao vào những năm 2004-2007 mà lại nghĩ
rằng trò chơi đó rủi ro thấp. Tất cả chỉ vì những nhận định họ về sự mất mát và khả năng biến động là
quá thấp. Chúng ta sẽ nhìn thấy một bức tranh hoàn toàn khác nếu như họ noi “Thứ này có vẻ không an
toàn. Bởi vì giá nhà ở đã tăng lên rất nhiều và việc thế chấp trở nên phổ biến hơn. Việc này có thể dẫn
đến một sự thụt giảm rộng rãi đến giá nhà ở vào thời điểm này. Vì vậy mà chúng ta sẽ chỉ đầu tư một
nửa so với mức phong độ trong quá khứ gợi ý.”
Thật dễ dàng để nói rằng họ đã có thể đưa ra nhưng nhận định an toàn hơn. Nhưng an toàn đến mức
nào? Bạn không để điều hành cả một business nếu chỉ dựa vào những nhận định về trường hợp xấu
nhất. Lúc đó bạn sẽ chẳng làm được gì cả. Dù sao thì, cái “nhận định về trường hợp xấu nhất” đã thật
sự trở thành một khái niệm rất dễ nhầm lẫn; hoàn toàn không có cái gì như thế, cái mà nói cách khác là
không có thiệt hại hoàn toàn. Và bây giờ, chúng ta biết được các nhà phân tích định lượng không nên
đưa ra giả định rằng sẽ chẳng có một sự tụt giảm toàn quốc đến giá nhà ở. Nhưng khi bạn được biết là
chuyện ấy sẽ xảy ra – khi nó chưa từng xảy ra trước đây – bạn có thể chuẩn bị đến mức nào? 2 phần
trăm? Mười? Năm mươi?
Những đầu báo (2008) tràn ngập các bài viết dự đoán về sự thất hụt khổng lồ, và thậm chí là sụp đổ,
bởi vì họ mua tài sản bằng cách sử dụng vay vốn đầu tư….. Những nhà đầu tư đó đưa vào giải pháp
vay vốn đầu tư, một giải pháp có vẻ hợp lí với sự biến động tài sản trung bình và kết cục là biến động
lớn nhất từng được chứng kiến đã xảy ra. Có thể dễ dàng thấy rằng, họ đã phạm phải một sai lầm.
Nhưng liệu có hợp lí khi mong đợi họ đã sẵn sàng cho những sự kiện hy hữu như vậy ?
Nếu mọi danh mục đầu tư đều được yêu cầu để có thể chống chịu được sự sụt giảm với mức độ mà
chúng ta đã diện kiến (2008), có thể sẽ không phải sử dụng khoản vay nào nào. Đấy có phải là một
phản ứng hợp lí? (Trên thực tế, chuyện không ai muốn đầu tư vào những dạng tài sản như thế là hoàn
toàn có thể xảy ra, kể cả với một nền tảng hồ sơ chưa từng vay mượn).
Trong mọi lĩnh vực của cuóc sống, chúng ta đưa ra quyết định dựa vào những điều mà chúng ta nghĩ
rằng sẽ xảy ra. Và, đến lúc đó, chúng ta phần lớn sẽ dựa vào những gì THƯỜNG xảy ra trong quá khứ.
Chúng ta dự đoán phần lớn các kết quá sẽ gần giống như thông thường (A), nhưng chúng ta biết rằng
hiếm khi mà kết quả lại đi theo hướng có lợi hơn (B) hay là có hại hơn (C). Mặc dù chúng ta luôn phải
giữ trong đầu rằng, đến một lúc nào đó, kết quả xảy đến sẽ ở ngoài khoảng “thông thường” (D), chung
ta thường quên về khả năng xảy ra những trường hợp nằm ngoài dự đoán. Và quan trọng nhất, giống
như ta đã thấy ở những sự kiện gần đây, chúng ta hiếm khi soi xét đến khả năng kết quả lại chỉ xảy ra
một lần trong suốt cả một thế kỉ … hoặc thậm chí là không bao giờ (E). (Minh họa 7.3)

E
D

Hình 7.3

Kể cả nếu chúng ta nhận ra có thể xảy ra trường hợp bất thường, khó đoán, ta sẽ vờ như đang đưa ra
những quyết định hợp lí và sẵn lòng chấp nhận những rủi ro sẽ xảy đến khi mà ta được trả lương hậu
hĩnh để làm như vậy. Rồi đến một lúc, “con thiên nga đen” sẽ tích tụ lại. Nhưng nếu trong tương lai mà
chúng ta lại luôn miệng nói “Ta không thể làm như thế này và thế này, vì là kết quả có thể tệ hơn
những gì chúng ta từng thấy”, thì ta sẽ bị đơ, không thể hành động.
Vì thế, trong phần lớn mọi sự, chúng ta không thể chuẩn bị cho trường hợp xấu nhất. Sẽ rất hoàn hảo
nếu chúng ta còn có thể chuẩn bị cho một sự kiện chỉ xảy ra một lần mỗi thế hệ. Nhưng một thế hệ
không phải là mãi mãi, sẽ có lúc khi mà những tiêu chuẩn bị vượt qua. Bạn sẽ làm gì để đối mặt với
chuyện đó? Tôi đã suy nghĩ rất nhiều trong quá khứ về việc một người nên tận tụy chuẩn bị cho những
thảm họa hiếm gặp như thế nào. Giữa những vấn đề đó, những sự kiện năm 2007-2008 đã chứng tỏ
rằng, không có lời giải đáp dễ dàng nào cả.
“Volatility + Leverage = Dynamite” ngày 17 tháng 12 năm 2008
“Biến động + Đầu tư vay vốn = Mìn nổ”

Đặc biệt dưới góc nhìn của những sự thay đổi bất chợt như chúng ta đã nói ở chương này, tôi muốn
làm rõ sự khác biệt quan trọng giữa kiểm soát rủi ro và tránh né rủi ro. Kiểm soát rủi ro là cách tốt nhất
để hạn chế tổn thất. Tránh né rủi ro, thì lại khác, thì lại dẫn đến hạn chế lợi nhuận nữa. Có một lúc tôi
từng nghe ai đó nói về mong muốn của công ty Oaktree phòng tránh những rủi ro trong đầu tư và tôi đã
tranh luận về vấn đề này.

Rõ ràng là, Oaktree không trốn tranh rủi ro. Chúng tôi sẵn sàng đón tiếp nó, vào đúng thời điểm, đúng
khoảnh khắc và với cái giá hợp lý. Chúng tôi có thể tránh mọi rủi ro một cách dễ dàng, và bạn cũng
vậy. Nhưng chúng tôi đảm bảo rằng phần lợi nhuận bị hao hụt cũng sẽ cao hơn tỉ lệ an toàn. Will
Rogers từng nói :"Đôi lúc, bạn phải làm khác với mọi người thì mới đạt được thành quả". Không ai
trong chúng ta tham gia kinh doanh chỉ để thu về 4% cả.
Vì vậy, cho dù phương trâm đầu tiên trong triết lý đầu tư của Oaktree nhấn mạnh "tầm quan trọng của
việc kiểm soát rủi ro", nó chẳng liên quan gì tới tránh né rủi ro cả.
Chúng tôi được trả khá nhiều tiền để chịu những rủi ro- và đặc biệt với việc dám đương đầu với những
rủi ro mà những người khác thường sẽ tránh- chúng tôi cố gắng đem lại cho khách hàng thêm nhiều lợi
nhuận hơn. Với cách làm trên, rõ ràng là rủi ro có vai trò rất lớn trong quá trình làm việc của chúng tôi.
Rick Funston của Deloitte & Touche đã từng nói trong bài báo nhắc đến bản ghi chép( ) là (“When
Corporate Risk Becomes Personal,” Corporate Board Member, 2005 ( - “Khi rủi ro tập thể có xu
hướng cá nhân hóa”, Thành viên hội đồng quản trị. )Bản bổ sung đặc biệt), Bạn cần an tâm rằng … rủi
ro và tai tiếng đều được nắm rõ, quản lí cẩn thận và được làm sáng tỏ cho tất cả mọi người…. Đây
không phải là sự lo ngại rủi ro; đây là rủi ro trí tuệ.” Đó chính là những gì Oaktree phấn đấu từng ngày.
“Risk – rủi ro” 19 tháng 1 năm 2006.
Con đường dẫn đến thành công trong đầu tư dài hạn nên hướng đến kiểm soát rủi ro hơn là hùng hổ
bước đi. Cho đến cuối sự nghiệp của mình, kết quả của hầu hết các nhà đầu tư đều sẽ được đong đếm
bằng bao nhiêu lần thua thiệt và thua thiệt đến cỡ nào, hơn là bằng sự vĩ đại trong những thành công
của họ. Kiểm soát rủi ro một cách khéo léo là dấu ấn của một nhà đầu tư trình độ cao.
10. Chống lại những ảnh hưởng tiêu cực
Khát khao cháy bỏng, sợ rằng mình sẽ bỏ lỡ cơ hội, xu hướng so sánh bản thân với
những người khác, ảnh hưởng của đám đông và mộng tưởng được công nhận và
khẳng định bản thân gần như là những yếu tố phổ biến. Vì vậy, chúng có một tác
động sâu sắc trên diện rộng tới phần lớn các nhà đầu tư và các thị trường. Kết quả
là những sai lầm đắt giá, thường xuyên diễn ra, lan truyền rộng rãi, thậm chí là lặp
đi lặp lại nhiều lần.

Những sự thiếu hiệu quả như sự nhiễu loạn về giá cả, những nhận thức sai lệch, những sai lầm mà
người khác mắc phải sẽ mang đến nhiều cơ hội tiềm năng để gặt hái những thành tựu to lớn.Trên thực
tế, việc tận dụng các yếu tố trên là con đường duy nhất để có thành tựu vượt trội bền vững.Để làm nổi
bật bản thân mình so những người khác, bạn cần phải tận dụng tối đa những sai lầm đó.
Tại sao những sai lầm xảy ra?Bởi vì đầu tư là một hành động được thực hiện bởi con người, hầu hết
con người đều chịu chi phối của tâm lí và cảm xúc của họ.Nhiều người sở hữu trí tuệ cần thiết để phân
tích dữ liệu, nhưng rất ít người có thể nhìn sâu hơn vào bên trong của mọi việc và kháng cự lại ảnh
hưởng mạnh mẽ của tâm lý. Nói cách khác, nhiều người sẽ đi đến kết luận nhận thức tương tự từ phân
tích của họ, nhưng những gì họ làm với những kết luận đó thì lại khác nhau hoàn toàn vì tâm lý ảnh
hưởng đến họ theo những cách khác nhau. Các lỗi đầu tư lớn nhất không đến từ các yếu tố như từ
thông tin hay sự phân tích, mà đến từ những yếu tố về tâm lý.Tâm lý của nhà đầu tư bao gồm nhiều
yếu tố riêng biệt, mà chúng ta sẽ thấy trong chương này, nhưng điều quan trọng cần nhớ là chúng luôn
dẫn đến những quyết định không chính xác.Phần lớn điều này đều thể hiện dưới cụm từ “bản chất con
người”.
Cảm xúc trước nhất khiến những nỗ lực của nhà đầu tư bị phá hoại chính là ham tiền, đặc biệt là khi nó
biến thành lòng tham.
Hầu hết mọi người đầu tư để kiếm tiền.(Một số người tham gia đầu tư như một cách rèn luyện trí não
hoặc bởi vì đó là một lĩnh vực tốt để trút bỏ nhu cầu cạnh tranh của họ, nhưng dù vậy họ vẫn giữ mục
tiêu về mặt tiền bạc.Tiền không là mục tiêu của mọi người vì lợi ích riêng của nó, nhưng nó là phương
pháp định lượng lợi ích của mọi người. Những người không quan tâm đến tiền bạc thường không tham
gia đầu tư.)
Cố gắng để kiếm tiền thì không có gì sai.Thật vậy mong muốn đạt được mục tiêu, lợi ích là một trong
những yếu tố quan trọng nhất trong các hoạt động mọi thị trường và toàn bộ nền kinh tế. Sự nguy hiểm
sẽ đến khi lòng tham ngày càng lớn, Merriam-Webster đã định nghĩa lòng tham là “tính hám lợi đáng
khiển trách, hám lợi thái quá hoặc quá chừng mực đặc biệt liên quan đến sự hạnh phúc giàu sang hoặc
lợi ích”
Lòng tham có một sức ảnh hưởng vô cùng mạnh mẽ. Nó đủ mạnh để vượt qua nhận thức chung, sự
ngại rủi ro, sự thận trọng, dè dặt, sự quyết tâm, bối rối, những kí ức đau thương từ những bài học trong
quá khứ và vượt qua tất cả các yếu tố khác mà có thể khiến cho các nhà đầu tư gặp rắc rối. Mặt khác,
đôi lúc lòng tham khiến các nhà đầu tư xả thân mình vào đám đông đang theo đuổi lợi nhuận, và cuối
cùng họ sẽ phải trả giá.

Sự kết hợp của lòng tham và sự lạc quan lặp đi lặp lại làm cho người ta theo đuổi những chiến lược mà
họ hy vọng sẽ tạo ra lợi nhuận cao mà không có nhiều rủi ro; như việc trả giá cao cho các cổ phiếu
chứng khoán được thịnh hành hay việc nắm giữ cổ phiếu sau khi chúng đã lên giá với hy vọng chúng
vẫn còn tăng giá thêm nữa.Sau đó, sự nhận thức muộn thể hiện cho mọi người thấy những gì đã xảy ra
và đã đi chệch hướng: đó là những sự kỳ vọng viển vông và việc lờ đi những rủi ro có thể xẩy ra.
“Hindsight First, Please (or, What Were They Thinking?),”
17/10/ 2005
Đi đôi với lòng tham là sự sợ hãi- nhân tố tâm lí thứ 2 mà chúng ta phải xem xét.Trong thế giới đầu tư,
thuật ngữ này không có nghĩa là sự ngại rủi ro nhạy bén và hợp lý.Hơn hết, nỗi sợ hãi cũng giống như
lòng tham, đều chỉ sự quá đà.Sợ hãi, sau đó thì cũng giống như hoảng loạn.Sợ hãi là mối quan tâm quá
mức mà có thể ngăn chặn các nhà đầu tư thực hiện hành động mang tính xây dựng khi họ cần.
Trong suốt sự nghiệp của tôi, rất nhiều lần tôi đã ngạc nhiên bởi mọi người rất dễ dàng tin tưởng và
dừng hoài nghi. Như vậy, yếu tố thứ ba tôi muốn thảo luận là xu hướng bỏ qua các chuẩn mực đúng
đắn về thời gian, lịch sử và sự logic của con người. Xu hướng này làm cho người ta chấp nhận những
việc làm không chắc chắn nhưng có khả năng khiến họ trở nên giàu có…ô, giá mà họ đã đúng. Charlie
Munger đã cho tôi biết một đoạn trích tuyệt vời của Demosthenes về chủ đề này: “Không có gì là dễ
dàng hơn là tự lừa dối. Con người sẽ tin tất cả những gì họ muốn là sự thật.” Họ tin rằng một số giới
hạn cơ bản không còn giá trị nữa và do đó những khái niệm lâu đời về giá trị đúng đắn cũng không còn
là vấn đề- đó là sự bất biến tại chính giữa mỗi thời điểm tốt và sự phá sản theo sau.

Trong tiểu thuyết, việc dừng sự hoài nghi sẽ giúp chúng ta tăng thêm niềm vui và sự hưởng thụ cuộc
sống. Khi chúng ta xem Peter Pan, chúng ta không muốn nghe người bên cạnh nói rằng: “Tôi có thể
nhìn thấy vài sợi dây” (mặc dù chúng ta biết đó là sự thật). Trong khi chúng ta biết những cậu bé đó
không thể bay, nhưng chúng ta không quan tâm; chúng ta chỉ ở đó cho vui mà thôi.
Nhưng mục đích của chúng ta trong việc đầu tư là nghiêm túc, không phải làm cho vui và chúng ta
phải liên tục trông chừng và cảnh giác với những thứ mà chúng ta không thể thực hiện trong đời
thực.Tóm lại, quá trình đầu tư đòi hỏi sự hoài nghi cao.
Những người không đủ độ hoài nghi sẽ chịu vài phần thua lỗ trong đầu tư. Các cuộc tranh luận phía
sau vấn đề sụp đổ tài chính đều bao gồm hai cụm từ cổ điển được lặp đi lặp lại nhiều lần là: “ồ, thật là
khó tin” và “họ đã đang nghĩ những gì vậy?”
“Hindsight First, Please (or, What Were They Thinking?),”
17/10/ 2005

Điều gì đã khiến cho các nhà đầu tư rơi vào những ảo tưởng đó?Câu trả lời thường nằm trong sự thoải
mái, nhàn hạ - những cái thường phục vụ cho lòng tham, họ bỏ qua hoặc lờ đi những bài học của quá
khứ.“Trí nhớ siêu ngắn về tài chính” là từ tuyệt vời John Kenneth Galbraith đã dùng, khiến những
người tham gia thị trường công nhận nhận tính chất định kỳ của các kiểu mẫu đó, và những điều không
thể tránh khỏi.
Khi các trường hợp tương tự hoặc gần tương tự tái diễn, đôi khi chỉ trong một vài năm, họ được ca
ngợi bởi một thế hệ mới trẻ trung và luôn luôn tự tin tột bậc như một phát hiện sáng tạo rực rỡ trong
thế giới tài chính và rộng hơn là thế giới kinh tế. Có thể có 1 vài khía cạnh của sự nỗ lực của nhân loại
sẽ có giá trị lịch sử ít nhất là trong thế giới tài chính. Kinh nghiệm quá khứ, trong một phạm vi nhất
định nó là một phần của tất cả trí nhớ, nó bị những người không có cái nhìn sâu sắc để đánh giá cao
những điều kì diệu không tưởng của hiện tại bỏ qua như nơi trú ẩn sơ khai của. (John Kenneth
Galbraith, A Short History of Financial Euphoria [New York: Viking, 1990]).
Việc đầu tư hiệu quả mà mọi người tin rằng có thể tạo ra lợi nhuận cao mà không có rủi ro như những
sự chắc chắn hoặc một bữa trưa miễn phí là sự thảo luận đáng giá hơn.

Khi một thị trường, một cá nhân hay một kỹ thuật đầu tư tạo ra mức lợi nhuận ấn tượng tạm thời, nó
thường thu hút sự tận tâm thái quá (thậm chí là mù quáng). Tôi gọi giải pháp này là "viên đạn bạc".
Các nhà đầu tư đang tìm tìm kiếm nó thường xuyên. Hãy gọi đó là sự hiếm hoi hoặc bữa ăn trưa miễn
phí, nhưng mọi người đều muốn một tấm vé để trở nên giàu có mà không có rủi ro. Rất ít người đặt câu
hỏi liệu nó có thể tồn tại hoặc tại sao nó nên có sẵn cho họ.Tại thời điểm trọng đại,hãy hy vọng mùa
xuân là vĩnh hằng.
Nhưng viên đạn bạc không hề tồn tại. Không có chiến lược nào có thể tạo ra tỷ lệ lợi nhuận cao mà
không có rủi ro. Và không ai có tất cả các câu trả lời; tất cả chúng ta cũng chỉ là con người mà thôi.
Nhiều thị trường rất năng động, và trong các thị thường khác, chúng hoạt động theo thời gian để mang
đi những cơ hội tạo ra lợi nhuận hiếm có. Những người theo chủ nghĩa chắc chắn thì tin rằng viên đạn
bạc chính là ở bàn tay con người và cuối cùng sẽ dẫn tới án tử.
Điều gì làm cho co người tin vào những viên đạn bạc?Đầu tiên, đó thường là một mầm mống của sự
thật.Nó trở thành một lý thuyết nghe có vẻ thông minh, và những tín đồ sẽ thể hiện những ý kiến và
quan điểm của họ để thuyết phục những người khác.Sau đó, nó tạo ra lợi nhuận ngắn hạn, tạm thời,
cho dù vì có một vài lợi ích trong đó hay chỉ vì sự mua bán một phần của cải mới nâng giá của tài sản
công dân.Cuối cùng, nó thể hiện hiện rằng (a) có một lối mòn để đảm bảo sự giàu có và (b) nó sẽ biến
thành một sự ham mê.Như Warren Buffett nói với Quốc hội vào ngày 02 tháng 6 năm 2010, “Giá cả
tăng cao là một chất gây mê có ảnh hưởng đến những lý luận về quyền hạn trong quá khứ và tương
lai.”Nhưng sau thực tế đó, sau khi nó đã xuất hiện – sự ham mê đó được gọi là một điều hão huyền.
Người đóng góp về mặt tâm lý thứ tư cho lỗi sai của nhà đầu tư là xu hướng nghe theo quan điểm của
đám đông hơn là chống lại, ngay cả khi quan điểm của đám đông rõ ràng là sai lệch. Trong cuốn sách
“How Markets Fail” John Cassidy mô tả những thí nghiệm tâm lý học cổ điển được thực hiện bởi
Solomon Asch Swarthmore trong những năm 1950. Asch đã hỏi nhiều nhóm đối tượng để đánh giá về
triển lãm hình ảnh, nhưng tất cả, trừ 1 vài "đối tượng" trong mỗi nhóm là những tay cò mồi đã làm việc
cho anh ấy. Những tay cò mồi đã cố tình nói những điều sai trái với sự tác động mạnh đến một đối
tượng thực sự. Cassidy giải thích, “Trò bịp này đã đặt những người tài vào thế khó: [Như Asch đã đặt
nó,]“Chống đối anh ta, chúng tôi đã bị chịu 2 lực lượng chống đối: Các bằng chứng về nhận thức của
anh ta và ý kiến nhất trí của một nhóm các đồng nghiệp của anh ta”
Một tỷ lệ cao của các đối tượng thực sự bỏ qua những gì họ thấy và đứng về phía các thành viên nhóm
khác, mặc dù họ đã rõ ràng là sai. Điều này cho thấy ảnh hưởng của đám đông và do đó cho thấy sự
giới hạn về hiệu lực của những quyết định đồng thuận.
“Giống như những người tham gia trong các thí nghiệm trực quan của Solomon Asch trong những năm
1950,” Cassidy viết: “những người không chia sẻ quan điểm chung với tập thể bắt đầu cảm thấy lạc
lõng. Cuối cùng nó đạt đến một giai đoạn mà nó xuất hiện những người thực sự điên rồ là những người
không nằm trong tập thể đó.”
Lại 1 lần nữa, sự kết hợp của áp lực phải chiều theo mong muốn của người khác và mong muốn làm
giàu khiến cho người ta buông bỏ sự độc lập và chủ nghĩa hoài nghi của mình, vượt qua sự ngại rủi ro
bẩm sinh của họ và tin vào những điều không có ý nghĩa. Nó xảy ra quá thường xuyên rằng phải có
một cái gì đó đáng tin cậy trong công việc, chứ không phải là một sự ảnh hưởng ngẫu nhiên.
Ảnh hưởng tâm lý thứ năm là sự ghen tị.Tuy nhiên ảnh hưởng tiêu cực của lòng tham có thể là luôn
luôn thúc đẩy mọi người phấn đấu nhiều hơn nữa, sự tác động này thậm chí còn mạnh mẽ hơn khi họ
so sánh mình với những người khác. Đây là một trong những khía cạnh gây hại nhất của cái mà chúng
ta gọi là bản chất con người. Nhiều người có thể hoàn toàn hài lòng với số phận của mình trong sự cô
lập và trở nên đau khổ khi nhìn thấy người khác làm tốt hơn mình. Trong thế giới đầu tư, hầù hết mọi
người đều thấý thật là khó để ngồi đó và quan sát trong khi những người khác làm ra nhiều tiền hơn họ.
Tôi biết một tổ chức từ thiện của 1 tôt chức phi lợi nhuận đã kiếm được 16% lợi nhuận một năm từ
6/1994 đến 6/1999, nhưng kể từ khi những tổ chức phi chính phủ khác kiếm được trung bình 23% lợi
nhuận 1 năm, những người tham gia vào tổ chức tình nguyện kia đã thấy thất vọng. Nếu không có
những cổ phiếu tăng trưởng, cổ phiếu về công nghệ, việc mua lại và đầu tư mạo hiểm, các khoản tiền
quyên góp và tổ chức từ thiện đã hoàn toàn bước lệch nhịp từ một nửa thập kỷ nay. Nhưng sau đó các
cổ phiếu công nghệ mất giá,và từ 6/2000 đến 6/2003 tổ chức này chỉ thu được 3%lợi nhuận một năm,
trong khi hầu hết các tổ chức từ thiện bị lỗ. Các bên liên quan thì đã rất phấn khích.
Có 1 vài điều sai lệch trong bức tranh này.Làm thế nào mà mọi người có thể thấy buồn rầu khi kiếm
được 16% lợi nhuân một năm và hạnh phúc khi họ chỉ kiếm được 3%?Câu trả lời nằm trong xu hướng
so sánh mình với những người khác và tác động độc hại này có thể ảnh hưởng đến tiến trình phân tích
mang tính xây dựng.

Sự ảnh hưởng quan trọng thứ sáu chính là bản ngã, là cái tôi. Nó có thể là thách thức to lớn để duy trì
mục tiêu và dự đoán những thực tế như:
· Kết quả đầu tư được đánh giá và so sánh trong thời gian ngắn.
· Những quyết định không đúng, thậm chí thiếu thận trọng để chịu rủi ro cao thường dẫn đến lợi
nhuận tốt nhất trong những khoảng thời gian tốt (và hầu hết thời gian đều thời điểm tốt).
· Các lợi nhuận tốt nhất mang lại những phần thưởng về cái tôi vĩ đại nhất. Khi mọi thứ đi đúng
hướng, nó sẽ vui vẻ và cảm thấy mình thật thông minh và nhận được đồng ý của những người khác.
Ngược lại, các nhà đầu tư thận trọng có thể làm việc cực nhọc trong bóng tối, đạt được những lợi ích
vững chắc trong những năm tháng rực rỡ và lỗ ít hơn những người khác trong thời kì khó khăn. Họ
tránh tham gia vào những hành vi mạo hiểm nhất bởi vì họ hiểu rất rõ về những điều mà họ không biết
và vì họ có cái tôi của họ trong khi thực hiện và đánh giá. Theo ý kiến của tôi, đây là công thức tuyệt
vời nhất cho việc tạo ra sự giàu có, hưng thịnh lâu dài - nhưng nó sẽ không cung cấp sự thỏa mãn cái
tôi trong thời gian ngắn. Nó chỉ không phải là sự ham mê để theo một lối mòn mà nhấn mạnh sự khiêm
tốn, sự cẩn trọng và việc kiểm soát rủi ro. Tất nhiên, việc đầu tư không nên là sự lôi cuốn, nhưng nó
thường là như vậy.

Cuối cùng, tôi muốn đề cập đến một hiện tượng mà tôi gọi là sự đầu hàng, một đặc điểm thông thường
của hành vi đầu tư vào cuối chu kỳ. Các nhà đầu tư sẽ kéo dài những quyết định của họ lâu nhất có thể,
nhưng khi áp lực kinh tế và tâm lí quá lớn và không thể chống đỡ, họ sẽ bỏ cuộc và tham gia vào công
việc khác. Nói chung, những người tham gia vào công việc đầu tư đều là những người thông minh, có
học vấn, có hiểu biết và giỏi tính toán. Họ nắm vững các khía cạnh của kinh doanh, kinh tế học và hiểu
biết về các học thuyết phức tạp.Nhiều người có thể đi đến kết luận hợp lý về giá trị và triển vọng.
Nhưng sau đó những ảnh hưởng của tâm lý và đám đông lại mạnh hơn nữa.Phần lớn thời gian, tài sản
thì càng ngày càng đắt đỏ và được ưa chuộng hơn nữa, hoặc quá rẻ mạt và vẫn tiếp tục giảm giá. Cuối
cùng những xu hướng này có tác động ăn mòn tới sự quyết đoán và tâm lí của của nhà đầu tư. Các cổ
phiếu bạn đã từ chối đang mang lại lợi nhuận cho những người khác, những cổ phiếu bạn đã chọn mua
thì đang tụt giá mỗi ngày, và bạn đã bỏ qua các khái niệm như không an toàn hoặc không khôn ngoan –
những vấn đề mới nóng hổi, những cổ phiếu công nghệ cao giá mà không có lợi nhuận, khoản tiền phát
sinh với lãi xuất thế chấp cao– đang được mô tả hàng ngày như những món hời cho những người khác.
Nó sẽ dễ dàng hơn để đưa ra quyết định đúng đắn cho một cổ phiếu đắt đỏ thậm chí còn tiếp tục lên giá
hoặc một cổ phiếu giảm lại lại tiếp giảm giá: bán cổ phiếu cũ và mua cổ phiếu mới. Nhưng mọi việc đã
không diễn ra như vậy. Khuynh hướng tự nghi ngờ kết hợp với tin tức về những thành công của người
khác đã tạo thành một ảnh hưởng mạnh mẽ mà sẽ khiến cho các nhà đầu tư đưa ra quyết định sai lầm,
và nó sẽ càng chắc chắn hơn vì những xu hướng đó sẽ còn kéo dài hơn. Đó là một ảnh hưởng nữa mà
nhà đầu tư đã phải chiến đấu và loại bỏ.
Khát khao cháy bỏng, sợ rằng mình sẽ bỏ lỡ cơ hội, xu hướng so sánh bản thân với những người khác,
ảnh hưởng của đám đông và mộng tưởng được công nhận và khẳng định bản thân gần như là những
yếu tố phổ biến.Vì vậy, chúng có một tác động sâu sắc trên diện rộng tới phần lớn các nhà đầu tư và
các thị trường. Kết quả là những sai lầm đắt giá, thường xuyên diễn ra, lan truyền rộng rãi, thậm chí là
lặp đi lặp lại nhiều lần.
§§§§§
Liệu có phải tất cả những điều nàyđến với bạn như chỉ như lý thuyết xuông và không thể áp dụng cho
bạn?Tôi chân thành hy vọng rằng bạn đã đúng. Nhưng chỉ trong trường hợp bạn nghi ngờ rằng những
người đứng đắn có thể chống chọi lại với những tác động gây hại của cảm xúc, hãy để tôi nhắc nhở bạn
về cụm từ sau: bong bóng công nghệ. Trước đó tôi đã đề cập đến khoảng thời gian điên loạn như là
bằng chứng về những gì sẽ xảy ra khi các nhà đầu tư lờ đi sự cần thiết của mối quan hệ vừa phải giữa
giá trị và giá cả. Điều gì khiến họ bỏ qua những nhận thức chung? Chúng ta đang nói về một vài những
cảm xúc chung ở đây như: lòng tham, sợ hãi, ghen tị, tự lừa dối, cái tôi cá nhân. Hãy nhìn lại bối cảnh
và xem xét tâm lý tại nơi làm việc.
Những năm 90 của thập niên 20 là thời kì rực rỡ đối với cổ phiếu. Có những ngày tháng khó khăn, tất
nhiên có cả những biến cố như một bước nhảy vọt lớn về lãi suất trong năm 1994, nhưng chỉ số cổ
phiếu 500 của Standard & Poor đã cho thấy mức tăng trưởng hàng năm từ năm 1991 đến hết năm 1999,
và lãi xuất trung bình là 20,8% mỗi năm. Những kết quả này đã đủ để đặt các nhà đầu tư trong một tâm
trạng lạc quan và làm cho họ dễ chấp nhận chuyện tăng giá.
Các cổ phiếu tăng trưởng đã thực hiện tốt hơn một chút so với những cổ phiếu giá trị trong những năm
đầu của thập kỷ - có lẽ là một sự phục hồi từ thành quả vượt trội về giá trị trong những năm 1980.
Điều đó cũng làm tăng thêm sự vui lòng của các nhà đầu tư với tiềm năng tăng trưởng của các công ty
có giá trị cao.
Các nhà đầu tư bị mê hoặc bởi sự đổi mới về công nghệ.Những sự phát triển như giải sóng rộng,
Internet và thương mại điện tử dường như có khả năng thay đổi cả thế giới, và những doanh nghiệp về
công nghệ và viễn thông đã trở nên nổi tiếng.
Các cổ phiếu công nghệ đã lên giá đang thu hút nhiều người mua hơn, và điều này dẫn đến việc tăng
giá cao hơn nữa, trong một quá trình như bình thường đã bắt đầu xuất hiện một vòng tròn đạo đức
không thể ngăn cản.
Những lý lẽ dường như logic đã giúp đỡ trong hầu hết các thị trường nơi cổ phiếu đang tăng giá, và
trong thị trường này không có gì khác cả: cổ phiếu công nghệ sẽ trội hơn hẳn cả các cổ phiếu khác bởi
vì sự xuất sắc của công ty. Nhiều cái tên công nghệ sẽ được thêm vào các chỉ số cổ phiếu, cái mà phản
ánh tầm quan trọng ngày càng tăng của chúng trong nền kinh tế.Điều này đòi hỏi các quỹ chỉ số và
“người lập chỉ mục ẩn” người ngấm ngầm sao chép các chỉ số để mua thêm nhiều cổ phiếu, và các nhà
đầu tư năng động cũng sẽ mua để giữ lại.Nhiều người hơn sẽ tạo ra Quỹ hưu trí 401(k), và các nhà đầu
tư 401(k) sẽtăng sự đại diện của các cổ phiếu trong danh mục đầu tư và sự phân bổ của cổ phiếu công
nghệ giữa các cổ phiếu của họ.Vì những lý do này, các cổ phiếu công nghệ (a) phải tiếp tục lên giá và
(b) phải vượt qua các cổ phiếu khác. Do đó, chúngvẫn sẽthu hút nhiều người mua hơn. Thực tế là tất cả
những hiện tượng này thực sự xảy ra trong khi mọi người tin vào học thuyết này.
Việc phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng (IPO) của cổ phiếu công nghệ bắt đầu tăng giá
hàng chục và thậm chí là hàng trăm phần trăm vào ngày phát hành và đã bắt đầu xuất hiện những
người chiến thắng. Việc tiếp cận với các đợt IPO đã trở thành một sự ham mê phổ biến.
Từ quan điểm của tâm lý học, những gì đã xảy ra với các đợt IPOlà đặc biệt hấp dẫn. Nó đã dẫn đến 1
vài điều giống như thế này: Anh chàng bên cạnh bạn trong văn phòng nói với bạn về một IPO mà anh
ta đang mua. Bạn hỏi công ty đó làm gì. Anh chàng nói không biết, nhưng môi giới đã nói với anh ta
rằng nó sẽ tăng gấp đôi vào ngày phát hành. Vì vậy, bạn nói điều đó thật là nực cười.Một tuần sau đó,
anh chàng đó lại nói với bạn nó không tăng gấp đôi… mà tăng gấp ba lần.Và anh vẫn không biết cổ
phiếu của công ty đó là gì.Sau một vài lần như thế thì thật khó để chống cự việc mua cổ phiếu trong
đợt IPO.Bạn biết nó không có ý nghĩa gì cả, nhưng bạn muốn bảo vệ và chống lại việc tiếp tục cảm
thấy như một thằng ngốc. Vì vậy, bạn đã đặt vài trăm cổ phiếu vào lần IPO tiếp theo…và cổ phiếu vẫn
còn lên giá hơn nữavì việc mua cổ phiếu từ những người chơi mới như bạn.Và đó là một ví dụ điển
hình của sự đầu hàng.
Quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tư vào các công ty khởi nghiệp thành công đã thu hút đượcrất nhiều vốn và
sự chú ý lớn. Trong năm mà Google lên sàn chứng khoán, các quỹ này đã phát tán cổ phiếu và tăng giá
350% trên cơ sở lên sàn chứng khoán thành công.
Các phương tiện truyền thôngđã ca ngợi các nhà đầu tư cổ phiếu công nghệ về sự thành công rực rỡ
của họ. Đó là những người ít bị hạn chế nhất bởi kinh nghiệm và thái độ hoài nghi và do đó họ thường
kiếm được nhiều tiền nhất ở độ tuổi 30-40, thậm chí là ở độ tuổi 20-30. Điều đókhông bao giờ cho thấy
rằng họ có thể là những người được hưởng lợi từ một thị trường xáo trộn hơn là từ sự sắc sảo đáng
kinh ngạc.
Hãy ghi nhớ lời nhận xét trước đó của tôi rằng là tất cả các điều hão huyền bắt đầu với một vài phần sự
thật?Hạt giống của sự thật trongbối cảnh vừa được mô tả chính là tiềm năng thực sự của công
nghệ.Các sự sinh sôi nảy nở đều đến từ các nhân tố cơ bản làm tằng giá của cổ phiếu. Và sự tăng
trưởng đến từ sự tăng giá cái mà đang diễn ra và có vẻ như không thể ngăn cản.
Tất nhiên, toàn bộ cuộc tranh cãi về cổ phiếu công nghệ, thương mại điện tử và viễn thông xuất phát từ
tiềm năng của công ty để thay đổi thế giới.Tôi hoàn toàn không nghi ngờ rằng những bước tiến đó
đang thay đổi cuộc sống như chúng ta biết, hoặc là chúng sẽ xóa bỏ những điều lạc hậu của 1 vài năm
trước đó khỏi thế giới mà chúng ta gần như không thể nhận ra. Thách thức nằm trong việc tìm ra ai sẽ
là người chiến thắng, và phần nào trong số chúng thực sự có giá trị ngày nay…
Để nói về việc tăng, giảm đột ngột của công nghệ, Internet và viễn thông, ngày nay ta có thể so sánh
chúng với việc đứng trước một chuyến tàu chở hàng.Tôi cảm thấy tôi nợ bạn 1 vài điều để nói rằng
chúng đã được hưởng lợi từ sự bùng nổ mạnh mẽ và điều đó nên được đáng giá một cách hoài
nghi.Trích "Bubble.com", 03/1/2000.

Ngay sau khi bản ghi nhớ 1/2000 đã được soạn thảo, khối lượng giao dịch các cổ phiếu công nghệ đã
bắt đầu sụt giảm, ngay cả trong trường hợp không có bất kỳ một biến cố nào sẽ khiến chúng sụt giảm.
Đột nhiên nó trở nên rõ ràng rằng giá chứng khoán đã giảm quá nhiều và nên được điều chỉnh. Khi xu
hướng đầu tư trở nên xấu đi, The Wall Street Journal thường cho chạy một bảng hiển thị các tổn thất,
với cổ phiếu đại diện xuống 90% hoặc hơn. Tuy nhiên khi bong bóng công nghệ tan vỡ, mức độ thiệt
hại đã vượt quá 99%. Các chỉ số chứng khoán rộng khắp thị trường đã trải qua sự suy giảm trong ba
năm đầu tiên của họ kể từ cuộc đại suy thoái, và công nghệ cổ phiếu nói riêng, cổ phiếu nói chung có
vẻ như không còn bất cứ điều gì đặc biệt. Khi chúng ta nhìn lại giữa thập kỷ, chúng ta thấy rằng sự
phát triển nhảy vọt củacông nghệ đã thay đổi thế giới, các công ty chiến thắng có giá trị vô cùng to lớn,
và những thứ như báo chí và đĩa CD đã có ảnh hưởng sâu sắc. Nhưng nó là rõ ràng rằng các nhà đầu tư
đãcho phép nhận thức chungcủa họ bị phá hủy trong những bong bóng công nghệ. Họ bỏ qua thực tế
rằng không phải tất cả công ty đều có thể giành chiến thắng, rằng sẽ có một giai đoạn cạnh tranh và sát
nhập kéo dài và lợi nhuận có thể sẽ không đến dễ dàng từ các dịch vụ cung cấp miễn phí, và các cổ
phần của các công ty thua lỗ đóđược định giá cao hơn nhiều lần so với sự bán ra (kể từ khi công ty
không có thu nhập) mang theo sự nguy hiểm lớn.
Lòng tham, sự hứng thú, tính phi lý, việc dừng hoài nghi và lờ đi giá trị đã tiêu tốn rất nhiều tiền của
con người trong thời kì bong bóng công nghệ.Và bằng cách này, rất nhiều nhà đầu tư kỷ luật xuất
chúng đã trông thật ngớ ngẩn trong những tháng năm trước khi bong bóng công nghệ tan vỡ- điều mà
dĩ nhiên phải xảy ra. Chìa khóa để tránh mất tiền trongthời kìbong bóngcông nghệ đólà từ chối tham
gia đầu tư khi lòng tham và sai lầm của con người đã thổi phồng quá mức những điều tích cực và lờ đi
những điều tiêu cực. Làm được những điều này là không dễ dàng, và vì vậy rất ít người có thể tránh
được những sai lầm nó.Cũng theo cách đó, điều cần thiết với các nhà đầu tư cần làm khi sự sợ hãi
trong cuộc khủng hoảng đã vượt quá tầm kiểm soát là tránh việc bán ra và tốt hơn là nên mua vào.
(Điều đó nhắc tôi phải chỉ ra rằng các bong bóng có khả năng phát sinh bởichính bản thân họ và không
cần phải theo saunhững khủng hoảng, bởi vì những khủng hoảng luôn luôn đi trước những bong bóng).
Nó là rất khó cho hầu hết mọi người để chống lại việc mua vào trong thời kì bong bóng công nghệ, nó
thậm chí còn khó khăn hơn để chống lại việc bán ra và vẫn còn khó khăn hơn để mua vào trong thời kì
khủng hoảng tín dụng sâu sắc. Trong trường hợp xấu nhất, việc mua vào thất bại trong thị trường nơi
mà cổ phiếu đang tăng giá có nghĩa là bạn có thể giống như một chi phí cơ hội cho kinh nghiệm và sự
chậm trễ.Nhưng trong cuộc khủng hoảng năm 2008, nhược điểm của việc không thể bán ra dường như
là tổn thất không giới hạn.Trận chiến cuối cùnghình như có thể thực sự diễn ra.
Cuối cùng, các nhà đầu tư làm cái gì với những sự thôi thúc tâm lý đó cái mà khiến họ làm những việc
ngu ngốc? Hãy tìm hiểu để thấy được chúng lànhững gì; đó là bước đầu tiên để có được sự can đảm để
chống lại những việc làm ngu xuẩn. Đồng thời cũng là thực tế.Các nhà đầu những người tin rằng họ
không bị ảnh hưởng bởi các ảnh hưởng đã được mô tả trong chương này thì đang làm những điều gây
nguy hiểm cho chính họ. Nếu họcó đủ sức ảnh hưởng đến những người khác để lan truyền ra toàn bộ
các thị trường, thì tại sao họ lại không ảnh hưởng đến bạn? Nếu tình trạng cổ phiếu đang tăng giácó
ảnh hưởng lớn đến nỗi mà nó có thể làm cho người trưởng thành bỏ qua những sự đánh giá cao và phủ
nhận sự bất khả của cỗ máy bất diệt, thì tại sao nó không nên có ảnh hưởng tương tự với bạn? Nếu nỗi
sỡ hại về việc bị lỗ nặng đủ mạnh mẽ để khiến người khác bán cổ phiếu ra với giá rẻ như là cho, thì
điều gì sẽ giữ cho nó không có tác động tương tự tới bạn?
Tin tôi đi, nó là rất khó để cưỡng lại việc mua những cổ phiếu ở đầu bảng (và còn khó khăn để bán ra)
khi mọi người khác cũng đang mua vào, các chuyên gia thì quả quyết, những suy luận thì được chấp
nhận rộng rãi, giá cả thì đang tăng vọt và những người nhận rủi ro lớn nhất được sẽ thu được lợi nhuận
khổng lồ. Nó cũng khó cưỡng lại việc bán ra (và rất khó khăn để mua vào) những cổ phiếu xếp cuối
bảng và việc giữ hoặc mua vào dường như dẫn đến nguy cơ thua lỗ hoàn toàn.
Giống như rất nhiều những thứ khác được mô tả trong cuốn sách này, không có giải pháp nào chung:
không có cách thức nào nói cho bạn biết khi nào thì thị trường sẽ trở nên hỗn loạn cùng cực, không có
công cụ hiệu quả nào sẽ giữ cho bạn tỉnh táo để đưa ra những quyết định đúng, cũng không có viên
thuốc kỳ diệu nào sẽ bảo vệ bạn khỏi những cảm xúc tiêu cực. Như Charlie Munger đã nói, "Nó không
phải là 1 điều dễ dàng."
Những vũ khí nào bạn có thể giành lấy để tăng vận may của mình? Dưới đây là những vũ khítồn tại
trong tổ chức Oaktree:
· một ý thức tổ chức mạnh mẽ về giá trị nội tại,
· giữ vững hành động như bạn nên làm khi giá cả tách ra từ giá trị,
· đủ sự hiểu biết với những chu kì trong khóa khứ - cái mà đã đạt được ban đầu từ việc đọc và nói
chuyện với các nhà đầu tư kỳ cựu, và sau đó là thông qua kinh nghiệm để biết rằng sự thái quá trong
trao đổi buôn bán cuối cùng cũng bị trừng phạt, chứ không được khen thưởng,
· một sự hiểu biết thấu đáo về các hiệu ứng âm ỉ của tâm lý tới quá trình đầu tư tại thị trường cực
đoan,
· một lời hứa phải nhớ rằng khi mọi thứ dường như "khó tin", thì chúng thường không phải sự thật
· sẵn sàng để nhìn nhận sai lệch trong khi thị trường đi từ đánh giá sai đếnviệc đánh giá sai hơn
nữa (vì nó sẽ không thay đổi), và
· hỗ trợ bạn bè và đồng nghiệp cùng chí hướng (và nhận sự hỗ trợ từ họ).
Những điều này là không chắc chắn hiệu quả, nhưng chúng có thể cung cấp cho bạn một cơ hội để
chiến đấu chống lại những quyết định sai lầm.

\
11.Điều quan trọng nhất là …Phải đi ngược với trào lưu
Mua khi người khác đang bán một cách chán nản và bán khi người khác đang phấn khởi mua là những
việc cần những người can đảm nhất, nhưng nó đem lại nhiều lợi nhuận nhất.
To buy when others are despondently selling and to sell when others are euphorically buying takes the
greatest courage, but provides the greatest profit.
Ngài JOHN TEMPLETON

Chỉ có một cách để miêu tả hầu hết các nhà đầu tư hiện nay: trend followers (những kẻ theo đuôi xu
hướng). Những nhà đầu tư tài giỏi khác biệt hoàn toàn. Cách họ đầu tư, cái tôi mong rằng tôi có thể
thuyết phục bạn lúc này, cần phải có một cách suy nghĩ vượt tầm – một lối suy nghĩ khác biệt so với
mọi người, phức tạp hơn và sáng suốt hơn. Bằng cách định nghĩa trên, thì phần lớn đám đông đều
không thể có chung lối suy nghĩ này. Như vậy, sự đánh giá của đám đông không nắm giữ chìa khóa
dẫn đến thành công. Hơn nữa, xu hướng, cái nhìn đồng thuận, là một cái gì đó để đánh cược, để đối
ngược lại và những hạng mục đầu tư được mọi người đồng tình chính là thứ mà ta nên tránh xa. Giống
như quả lắc đồng hồ đung đưa, hay thị trường đang tiến theo chu kì của nó, chìa khóa của sự thành
công tột bậc nằm ở việc làm điều ngược đời.
Đây là ý chính trong lời khuyên thường được trích dẫn của Warren Buffett: “The less pru- dence with
which others conduct their affairs, the greater the prudence with which we should conduct our own
affairs.” (Người khác làm việc của họ càng kém khôn ngoan bao nhiêu, ta càng phải thực thi công việc
của mình khôn ngoan bấy nhiêu). Ông ấy thúc giục chúng ta phải làm điều ngược lại so với những gì
người khác làm: trở thành kẻ đi ngược trào lưu.

Làm điều tương tự với người khác sẽ khiến bạn dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động vốn là một phần
được phóng đại bởi hành động của người khác và của chính bạn. Chắc chắn là không thích thú gì khi
trở thành một phần của một bầy động vật đang chạy tán loạn xuống vách đá, nhưng cần phải có một kĩ
năng hãn hữu, sáng suốt và kỉ luật để tránh khỏi.
“The Realist’s Creed,” (Tín ngưỡng của kẻ theo chủ nghĩa duy thực) 31 tháng Năm 2002

Sai lầm trong tư duy của đám đông rất rõ ràng và gần như rất toán học:

• Thị trường thay đổi đột ngột, từ tăng rồi đến giảm và từ đắt đỏ đến rẻ mạt.
• Các biến động đều bị ảnh hưởng bởi những hành động của “đám đông”, “bầy đàn”, “phần lớn
mọi người.” Giá cả trên thị trường tăng bởi vì mọi người muốn mua hơn là bán, hoặc người bán đang
được thúc đẩy nhiệt tình hơn người mua. Thị trường đi lên bởi vì mọi người hoán vị từ người bán trở
thành người mua, và khi những người mua hàng bị thúc đẩy mạnh mẽ hơn và những người bán hàng
thì không. (Nếu số lượng người mua hàng không vượt trên, thị thường sẽ không đi lên).
• Những giá trị cực điểm của thị trường chính là những điểm thay đổi của xu thế. Những cái đó
xảy ra khi mà sự tăng hoặc giảm của thị trường đạt đến cực trị. Theo thực tế mà nói, giá trị cực đại đạt
được khi mà người cuối cùng có thể trở thành người mua, đã trở thành người mua. Và vì mọi người
mua đã tham gia vào nhóm tăng trưởng khi mà giá trị cực đại đã đạt được, sự tăng trưởng đó sẽ không
thể tiến thêm và thị trường đã đạt ngưỡng cao nhất mà nó có thể vươn tới. Mua vào và cầm cự lúc này
trở nên nguy hiểm.
• Bởi vì không còn ai có thể trở thành người mua nữa, thị trường sẽ dừng tăng trưởng. Và nếu ngày
hôm sau, một người quyết định chuyển đổi từ người mua thành người bán, thị trường sẽ bắt đầu đi
xuống.
• Vì thế tại các cực điểm, vốn được tạo ra bởi thứ mà “hầu hết mọi người” đều tin tưởng, thì đa số
mọi người đều sai.
• Vì vậy, chìa khóa cho đầu tư thành công phải nằm trong việc làm điều trái ngược: tách xa khỏi
đám đông. Những người nhận ra sai lầm những người khác đang mắc phải có thể tạo ra lợi nhuận
khổng lồ từ việc đi ngược lại xu thế.

Từ thời này qua thời khác, chúng ta chứng kiến những người mua hàng vội vã và những người bán
hàng sợ hãi; luôn vội vã để cho chân vào hoặc nhanh chóng thoát ra; những thị trường quá tải hoặc
những thị trường đóng băng; và giá cả cao một cách chênh vênh hoặc là thấp một cách nực cười. Chắc
chắn là các thị trường, thái độ và hành vi của các nhà đầu tư chỉ dành một phần nhỏ để tâm vào “the
happy medium” (khoảng giữa hạnh phúc)
Chuyện đó nói lên gì về việc chúng ta nên hành động như thế nào? Hòa cùng với bầy đàn và tham gia
vào những cực điểm của chu kì, việc mà rõ ràng là có thể nguy hiểm đến sức khỏe tài chính của bạn.
Cực đại của các thị trường được tạo ra khi những người mua hàng tràn đầy nhiệt huyết đang kiểm soát,
đẩy giá cả lên đến một tầm cao mà có thể sẽ không bao giờ được thấy lần nữa.Cực tiểu được tạo ra khi
những người bán hàng hoảng loạn lên ngôi, sẵn sàng bán hàng với những cái giá thường là sẽ dẫn đến
lỗ vốn rõ ràng.
“Buy low; sell high”(Mua rẻ; bán đắt) là một câu châm ngôn chú trọng đến thời điểm, những các nhà
đầu tư bị gạt ra khỏi thị trường lại thường xuyên làm điều ngược lại. Phản hồi đúng đắn sẽ nằm ở hành
vi đi ngược trào lưu: mua hàng khi mọi người ghét nó, và bán khi mọi người phát điên vì thích nó.
“Once-in-a-lifetime” (Chỉ có một lần trong đời) thường dùng cho các cực điểm của thị trường, nay lại
có vẻ đang xảy đến mỗi thập kỉ, hoặc tương tự vậy – thường là không đủ thời gian cho một nhà đầu tư
để có thể xây dựng một sự nghiệp và giữ vốn. Nhưng cố gắng làm như thế nên là một phần quan trọng
trong cách tiếp cận thị trường của bất cứ nhà đầu tư nào.
Chỉ cần đừng nghĩ rằng là nó sẽ dễ dàng.Bạn cần có khả năng phát hiện những trường hợp mà giá cả
bên ngoài lại khác biệt hoàn toàn với giá trị bên trong. Bạn cần có một cái dạ dày đủ khỏe để bất chấp
những triết lý thông thường (một trong những mâu thuẫn lớn nhất) và chống đối lại những huyền thoại
về thị trường luôn luôn hiệu quả và do đó, đúng đắn. Bạn cần những kinh nghiệm mà những hành vi
của bạn sẽ dựa vào một cách quả quyết. Và bạn phải có sự hỗ trợ về hiểu biết, những cử tri kiên nhẫn.
Nếu không có đủ thời gian để trải qua các cực điểm khi đang chờ đợi một cơ hội để chiến ưu thế, bạn
sẽ trở thành một nạn nhân điển hình của thị trường: một anh chàng cao 6 feets. Nhưng nếu bạn đã cảnh
giác với sự đung đưa như quả lắc đồng hồ cảu thị trường, bạn hoàn toàn có thể nhận ra những cơ hội
tự dưng xuất hiện cho bạn nắm bắt.
“The Happy Medium,” July 21, 2004
“Khoảng giữa hạnh phúc” 21 tháng Bảy 2004

Chấp nhận khái niệm rộng lớn về đi ngược xu hướng là một chuyện; đưa nó vảo thực tế lại là một
chuyện khác. Theo một hướng nhìn, chúng ta không bao giờ biết con lắc đồng hồ sẽ đung đưa xa đến
đâu, khi nào thì nó đổi lại và nó sẽ lại đung đưa ngược lại xa đến đâu.
Nhưng theo hướng nhìn khác, chúng ta có thể chắc chắn rằng, một khi nó đã đạt đến vị trí cực điểm, thị
trường sẽ từ từ đung đưa lại về vị trí trung tâm (hoặc hơn thế). Các nhà đầu tư tin rằng con lắc đồng hồ
sẽ đung đưa theo một hướng mãi mãi – hoặc, khi đã đến cực điểm, sẽ ở nguyên đó – chắc chắn sẽ rất
thất vọng.
Theo một hướng nhìn thứ ba, tuy nhiên, bởi vì có rất nhiều yếu tố đa dạng ảnh hưởng đén thị trường,
không có công cụ nào – kể cả xu hướng đi ngược trào lưu – có thể được tin tưởng hoàn toàn.
• Xu hướng đi ngược trào lưu không phải là một cách tiếp cận sẽ giúp bạn kiếm ra tiền bất kì lúc
nào. Phần lớn thời gian không có lúc nào thị trường trở nên thái quá để bạn có thể đánh cược.
• Kể cả khi sự thái quá đang hiện rõ, một điều quan trọng bạn cần nhớ là “giá vượt ngưỡng” hoàn
toàn khác với chuyện “sẽ giảm vào ngày mai.”
• Thị trường có thể trở nên đắt đỏ - hoặc rẻ mạt và cứ thế – hoặc trở thành như thế – hàng năm trời.
• Nó sẽ rất xót xa khi nhìn thấy xu hướng đang đi ngược lại với bạn.
• Nó có thể xảy ra chuyện “tất cả mọi người” đều đi đến kết luận là bầy đàn đã mắc sai lầm. Ý tôi
là xu hướng đi ngược trào lưu có thể trở nên quá phổ biến, và rồi nó sẽ bị hiểu nhầm thành hành vi bầy
đàn.
• Cuối cùng, bạn không đủ khả năng để đánh cược chống lại đám đông. Cho rằng những khó khăn
có liên hệ với xu hướng đi ngược trào lưu vừa được nhắc đến, những ghi nhận với tiềm năng lợi nhuận
cao mà tách ra khỏi suy nghĩ đồng thuận phải được dựa vào lí lẽ và phân tích. Bạn phải làm nhiều việc
không chỉ vì những việc ấy trái ngược với những gì đám đông đang làm, nhưng là vì bạn biết vì sao
đám đông sai. Chỉ khi đó bạn mới có thể bám chắc vào quan điểm của bạn và có lẽ, mua nhiều lên bởi
vị trí của bạn được tích lũy với sự góp mặt của sai lầm và thua thiệt nhiều hơn là thắng lợi.

David Swensen hướng đến quỹ từ thiện của Đại học Yale.Thành quả đầu tư của Yale thật sự xuất sắc,
và Swensen đã có ảnh hưởng lớn đến việc đầu tư của hiến tặng hơn bất kì ai trong hơn hai thập kỉ qua.
Lối suy nghĩ của ông ấy, vốn đã kì lạ từ khi Yale hoàn thành vào những năm 80 của thế kỉ 20, đã trở
thành khoản cấp vốn kinh điển. Ông ấy có một cách miêu tả đẹp đẽ về những khó khăn liên quan đến
xu hướng đi ngược trào lưu.

Những khoản đầu tư thành công yêu cầu việc dính lấy những vị trí khó chịu bởi sự đúng đắn với quan
điểm phổ biến. Sự trung thành tầm thường sẽ mời gọi những thay đổi tầm thường, để trôi những hạng
mục đầu tư đến lưỡi cưa nguy hiểm của việc mua cao và bán thấp. Chỉ với sự tự tin được tạo ra với quá
trình quyết định cứng rắn, các nhà đầu tư mới có thể bán lượng dư thừa lợi nhuận và mua những giá trị
được thúc đẩy bởi sự tuyệt vọng.

. . . Những chiến lược quản lí năng động cần hành vi trái tổ chức từ tổ chức, tạo ra một nghịch lý mà
chỉ một số ít người có thể làm sáng tỏ. Kiến tạo và duy trì hồ sơ của một khoản đầu tư bất thường cần
sự chấp thuận của những khoản đầu tư riêng biệt một cách khó chịu, thường xuất hiện ngay dưới sự hờ
hững của những con mắt với trí tuệ tầm thường.
Pioneering Portfolio Management, 2000
Tiên phong trong quản lí đầu tư, 2000

Những hành động đầu tư tạo ra lợi nhuận to lớn thường thuộc xu hướng đi ngược trào lưu: Bạn đang
mua khi tất cả mọi người đang bán (và giá sẽ vì thế mà rẻ) hoặc bạn đang bán khi tất cả mọi người
đang mua (và giá sẽ đắt). Những hành động như thế sẽ cô độc và, như Swensen nói, khó chịu. Làm thế
nào để chúng ta biết sự đối lập với nó – những hành động đồng thuận – rằng nó là những hành động dễ
chịu? Bởi vì hầu hết tất cả mọi người đều đang làm thế.

Thứ tôi thấy thú vị nhất trong việc đầu tư và sự nghịch lý của nó: Đã biết bao nhiêu lần, những thứ có
vẻ hiển nhiên – hầu hết mọi người nghĩ thế – thực ra lại không phải như thế.
Tôi không nói những tri thức được công nhận về đầu tư có lúc đúng lúc sai. Sự thật đơn giản hơn và hệ
thống hơn: Hầu hết mọi người đều không hiểu quá trình mà một thứ gì đó sở hữu tiềm năng làm ra tiền
siêu hạng.
Điều rõ ràng trong những ý kiến được đồng tình rộng rãi của các nhà đầu tư lại luôn luôn sai. . . .Sự
hợp nhất của ý kiến phổ biến đằng sau mỗi khoản đầu tư thường sẽ tiêu diệt khả năng tạo lợi nhuận của
nó. . . . Lấy ví dụ là, một khoản đầu tư mà “tất cả mọi người” đều tin nó là một ý tưởng hay. Trong
quan điểm của tôi, bản chất đã đơn giản là không thể như vậy

• Nếu tất cả mọi người đều thích nó, có lẽ vì nó đang suôn sẻ. Hầu hết mọi người đều nghĩ phong
độ xuất sắc cho tới hiện tại báo trước cho một tương lai với phong độ xuất sắc. Thực ra, nó lại thường
là phong độ xuất sắc cho tới hiện tại đã vay mượn từ tương lai và vì thế, báo trước phong độ dưới trung
bình kể từ giờ trở đi.
• Nếu tất cả mọi người thích nó, nó sẽ khiến giá cả tăng và thể hiện mức độ hùa theo mà ít khi
được coi trọng. (Chắc chẳn rồi, hoàn toàn có thể thay đổi một thứ từ “vượt quá giá trị” sang “vượt quá
giá trị hơn nữa”, nhưng tôi không muốn tính đến trường hợp đó.)
• Nếu tất cả mọi người đều thích nó, có lẽ vì khu vực này đã được đào xới triệt để rồi – và đã có
quá nhiều vốn đổ vào – để những sự thỏa thuận có thể tồn tại.
• Nếu tất cả mọi người đều thích nó, có một rủi ro rõ ràng là giá sẽ tụt khi đám đông thay đổi suy
nghĩ đoàn thể của mình và tìm lối thoát.

Những nhà đầu tư thượng hạng biết – và mua – khi gia của một thứ gì đó thấp hơn giá trị thật. Và giá
của một khoản đầu tư có thể thấp hơn thực tế chỉ khi hầu hết mọi người đều không nhìn ra ưu thế của
nó. Yogi Berra nổi tiếng vì câu hỏi. “Không còn ai đi đến nhà hàng đó nữa; nó quá đông.”Sẽ thật vô lí
khi nói, “Mọi người đều nhận ra đầu tư mà một vụ thương thuyết.” Nếu tất cả mọi người đều nhận ra,
họ sẽ mua vào, trường hợp này giá cả sẽ không còn thấp nữa. . . . Một lượng tiền lớn không được tạo ra
bởi mua vào thứ mọi người đều thích. Chúng được tạo ra bởi việc mua vào thứ mà mọi người đánh giá
thấp. . . . Ngắn gọn mà nói, có hai yếu tố chính dẫn đến đầu tư thượng hạng:

• Nhìn thấy những giá trị mà người khác không thấy hoặc không quan tâm (và không được phản
ảnh trong giá).
• Và biến nó thành sự thật (hoặc ít nhất được chấp nhận bởi thị trường).

Nên rõ ràng từ những yếu tố đầu tiên là quá trình phải được bắt đầu với những nhà đầu tư với nhận
thức lạ, không bình thường, không theo lề thói hoặc bắt đầu sớm. Đấy là lí do tại sao các nhà đầu tư
thành công thường được nói đến rằng đã dành rất nhiều thời gian sống trong cô độc.
“Everyone Knows,” April 26, 2007
“Ai cũng biết” 26 tháng Tư 2007

Cuộc khủng hoảng toàn cầu năm 2007-2008 đại diện cho sự sụp đổ lớn nhất mà tôi từng thấy. Bài học
rút ra từ kinh nghiệm này là vô vàn, đây cũng là một lí do tôi thảo luận về các khía cạnh của nó trong
hơn một chương. Đối với tôi, một bài học như vậy bao gồm sự vươn tới một hiểu biết mới về sự hoài
nghi cần thiết cho lối suy nghĩ đi ngược xu hướng.Tôi thường không tin vào sự mặc khải nhưng tôi có
một lý tưởng để hoài nghi.

Mỗi lần một bong bóng tan vỡ, thị trường tăng bị sụp đổ hay có thể nói một viên đạn bạc không thể
dùng được, chúng ta nghe mọi người phàn nàn về sai lầm của họ. Sự hoài nghi, hiểu rất rõ điều đó, cố
gắng nhận diện những ảo tưởng quá sớm và tránh rơi vào hàng ngũ đám đông chấp nhận điều đó.Vì
vậy, thường thì, sự hoài nghi trong đầu tư liên quan đến những ham muốn đầu tư bị từ chối, tham vọng
thị trường tăng và những kế hoạch Ponzi. Sự mặc khải đến vào giữa tháng 10 năm 2008, gần điểm cực
tiểu của sự suy sụp của hệ thống tín dụng toàn cầu. Lúc đó, chúng tôi đã thấy và nghe được những điều
mà chúng tôi chưa bao giờ tưởng tượng là có thể:

• Cái chết hoặc sự giải thoát của Lehman Brothers, Bear Stearns, Freddie Mac, Fannie Mae and
AIG
• Sự lo ngại về tính khả thi của Goldman Sachs and Morgan Stanley, và một sự tụt giảm mạnh mẽ
vào giá cổ phiếu của họ.
• Giá cả leo thang với chính sách bảo vệ hoán đổi tín dụng mặc định cho trái phiếu của Kho Bạc
Mỹ.
• Tỷ giá cho hóa đơn T ngắn hạn gần chạm đến không bởi vì một chuyến bay cùng cực đến sự an
toàn.
• Nhận thức lần đầu tiên, tôi nghĩ vậy, rằng tài nguyên tài chính của chính phủ Mỹ là có hạn và có
rất nhiều giới hạn trong khả năng điều hành báo chí và giải quyết vấn đề.
Rất dễ dàng có thể nhận ra ngay lập tức sự phá sản cảu Lehman Brothers giống như . . . một đường
xoắn ốc đang chuyển động, và không ai có thể nhìn thấy bằng cách nào hay khi nào thì nó sẽ chấm dứt.
Đó thực ra là một vấn đề: không có viễn cảnh nào quá tiêu cực để dựa vào, và không có viễn cảnh kết
hợp một yếu tố lạc quan nào bị bỏ qua giống như Pollyannaish vậy.
Có một phần sự thật trong chuyện này, tất nhiên là vậy: không có gì là không thể. Nhưng để ứng phó
với tương lai, ta cần phải nghĩ về hai việc: (a) chuyện gì có thể xảy ra và (b) Khả năng nó sẽ xảy ra.
Trong suốt cuộc khủng hoảng, rất nhiều điều tồi tệ tưởng chừng như đều có thể, nhưng điều đó không
có nghĩa rằng chúng sẽ xảy ra.Vào thời điểm khủng hoảng, mọi người lại không phân biệt được điều
đó.
Trong suốt 40 năm, tôi đã chứng kiến con lắc hưng thịnh – suy thoái của tâm lý các nhà đầu tư đung
đưa điên cuồng: giữa sợ hãi và tham lam – chúng ta đều biết điệp khúc nào – nhưng đồng thời cũng là
giữa lạc quan và bi quan, và giữa tin tưởng và hoài nghi. Tóm lại, theo niềm tin của bầy đàn – và đung
đưa với con lắc – sẽ giúp bạn có được một phong độ trung bình trên cả quãng đường và sẽ khiến bạn bị
giết khi thị trường đến cực điểm.

Nếu bạn tin vào câu chuyện mà tất cả mọi người đều tin, bạn sẽ làm điều tất cả mọi người sẽ làm.
Thường thì bạn sẽ mua khi giá cao và bán lúc giá thấp. Bạn sẽ tin vào chuyện cổ tích về “viên đạn bạc”
với khả năng đem lại lợi nhuận cao mà không có rủi ro. Bạn sẽ mua những gì đang được ưa chuộng và
bán những thứ đã trở nên nghèo nàn. Và bạn sẽ hứng chịu thua lỗ trong thất bại và lỡ mất cơ hội khi
mọi thứ đang hồi phục lại từ ban đầu. Nói cách khác, bạn sẽ là một người dễ bảo, không phải kẻ chống
đối; một người theo sau, không phải kẻ lội ngược dòng.
Sự hoài nghi là điều cần có để có thể nhìn vào đằng sau bảng cân đối thu chi, phép màu lớn nhất của kỹ
thuật tài chính hoặc một câu chuyện không thể bỏ lỡ. . . . Chỉ có một người đa nghi mới có thể phân
biệt được những thứ nghe có vẻ tốt và những thứ có vẻ tốt nhưng không phải thế.Những nhà đầu tư
giỏi nhất mà tôi biết là những ví dụ điển hình cho đức tính này.Nó là một điều thực sự cần thiết.
Rất nhiều điều tồi tệ xảy ra để khởi động cuộc khủng hoảng tín dụng được coi như gần như không xảy
ra (nếu không muốn nói là không thể xảy ra), và nó xảy ra đúng lúc, khi mà các nhà đầu tư đã tạo ra
những khoản vay mượn đáng kể. Vì thế sự giải thích rõ ràng là những người bị thương trong cuộc
khủng hoảng tín dụng đã không hoài nghi – hoặc bi quan- đủ.
Nhưng nó lại tạo nên một mặc khải: sự hoài nghi và sự bi quan không đồng nghĩa với nhau. Sự hoài
nghi kêu gọi sự bi quan khi mà sự lạc quan đang trở nên quá đáng.Nhưng nó cũng gọi đến sự lạc quan
khi sự bi quan trở nên quá đáng.
Khi cuộc khủng hoảng tài chính lên đến đỉnh điểm tuần vừa qua, . . . Tôi nhận thấy rất ít người lạc
quan; hầu hết đều bi quan đến một mức nào đó. Không ai đoái hoài đến sự hoài nghi, hoặc nói “câu
chuyện kinh dị đó thật khó tin.” Thứ duy nhất mà họ không làm tuần trước là tích cực tham gia đấu giá
chứng khoán. Vì thế giá cả giảm và giảm – một cách diễn tả cũ là “thu hẹp khoảng cách” giữa rất nhiều
điểm cùng một lúc.
Chìa khóa – như thường lệ – là trở nên hoài nghi về cái “tất cả mọi người” đang nói và làm. Câu
chuyện tiêu cực có thể trông thuyết phục, nhưng câu chuyện tích cực – mà ít người tin vào – lại nắm
giữ tiềm năng sinh lợi nhuận lớn nhất.
“The Limits to Negativism,” October 15, 2008
“Giới hạn đến sự tiêu cực” 15 tháng Mười, 2008
o

Sai lầm ở đây rất rõ ràng. Mọi người thường lạc quan khi giá trị lên cao và bi quan khi nó giảm thấp.
Vì vậy, để hưởng lợi, chúng ta phải luôn nghi ngờ sự lạc quan đang lớn dần khi giá cao và sự bi quan
đang xuất hiện khi giá thấp..
“Touchstones,” November 10, 2009
“Những chuẩn mực” 10 tháng Mười Một 2009
Khi nhắc đến tính hoài nghi, người ta thường nghĩ tới câu "Không thể nào mà nó tốt tới vậy được" vào
đúng thời điểm. Nhưng năm 2008, tôi nhận ra, và khi nghĩ lại thì thấy nó thật hiển nhiên- là đôi lúc tính
hoài nghi sẽ khiến ta nói rằng "Không thể nào mà nó tệ đến vậy được".
Những khoản mua vào được đưa ra trong quý 4 năm 2008 với tâm trạng buồn rầu, thất vọng do nợ nần
thường đem lại lợi nhuận từ 50% đến 100% hoặc hơn trong vòng 18 tháng sau đó. Việc mua trở nên vô
cùng khó khăn trong những hoàn cảnh như thế, nhưng nó trở nên dễ dàng hơn khi chúng tôi nhận ra
rằng chẳng ai nói" Không thể nào mà nó tệ đến vậy được". Lúc ấy, việc giữ thái độ lạc quan và tiếp
tục mua vào là một hành vi thể hiện sự đi ngược lại xu hướng tuyệt đối.

o
Những vụ đầu tư thành công nhất tôi từng chứng kiến đều có những mối nguy thường thấy. Thường thì
chúng sẽ rất thử thách, không dễ chịu và ngược đời – mặc dù những kẻ đi ngược xu hướng dày dạn
kinh nghiệm cảm thấy dễ chịu khi ở ngoài bầy đàn. Ví dụ như mỗi khi thị trường nợ suy sụp, đa số mọi
người sẽ nói " Chúng ta sẽ không bắt một con dao đang rơi đâu, nó quá nguy hiểm", và họ thường thêm
vào " Chúng ta sẽ đợi đến chuyện đã rồi và mọi thứ được giải quyết ổn thỏa". Và ý họ muốn nói đến, dĩ
nhiên là họ sợ và không biết chắc mình phải làm gì
Thứ duy nhất mà tôi chắc chắn, đó là khi mà con dao đã chạm đất, Chúng ta sẽ đợi đến chuyện đã rồi
và mọi thứ được giải quyết ổn thỏa, sẽ chẳng còn món hời nào cả. Khi mà việc mua một thứ gì đó lại
trở nên dễ chịu, giá của nó sẽ không thấp đến mức nó trở thành một món hời nữa. Do đó, đa số những
khoản đầu tư mang lại lợi nhuận lớn sẽ khó khăn vào lúc ban đầu.
Những người đi ngược lại xu hướng chúng tôi phải cố gắng "bắt được những con dao đang rơi", với sự
cẩn thận và kĩ năng.Vì thế nên khái niệm "giá trị thực tế" rất quan trọng. Nếu như chúng ta sở hữu tầm
nhìn mà cho phép ta dám mua khi tất cả những người khác đang bán - và nếu tầm nhìn đó đúng - thì đó
là con đường ít trắc trở nhất đến với thành công to lớn.
12 Điều quan trọng nhất….Tìm kiếm các món hời
Các cơ hội tốt nhất thường đươc tìm thấy trong số những thứ hầu hết những người khác sẽ không làm.

Qúa trình xây dựng một danh mục đầu tư thông minh bao gồm việc mua những khoản đầu tư tốt nhất,
tạo ra nơi cho chúng bằng cách bán những thứ thấp hơn, và để lại những thứ rõ ràng là tồi tệ nhất. Các
nguyên vật liệu thô của quá trình này bao gồm (a) một danh mục những đầu tư tiềm năng, (b) ước tính
giá trị nội tại của chúng, (c) một nhận thức về giá của chúng so sánh với giá trị nội tại của chúng như
thế nào, và (d) một sự hiểu biết về các rủi ro liên quan đến mỗi khoản đầu tư, và tác động tổng thể của
chúng sẽ có trên danh mục đầu tư đang được hoàn thiện.
Bước đầu tiên luôn là để chắc chắn rằng những thứ được xem như là đáp ứng một vài tiêu chuẩn tuyệt
đối.Thậm chí những nhà đầu tư sành sỏi có thể không nói là “Tôi sẽ mua bất cứ thứ gì nếu nó đủ
rẻ”.Thông thường hơn họ tạo ra một danh sách các ứng cử viên đầu tư đáp ứng tiêu chuẩn tối thiểu của
họ, và từ đó họ lựa chọn mức món hời nhất.Đó là tất cả những gì chương này muốn nói tới.
Ví dụ, một nhà đầu tư có thể bắt đầu bằng việc thu hẹp danh sách các tình huống có thể xảy ra mà khả
năng có thể gây ra rủi ro của những thứ đó rơi vào những giới hạn có thể chấp nhận được, vì có thể có
những rủi ro mà những nhà đầu tư nào đó không được thoải mái. Ví dụ có thể bao gồm các rủi ro sự lỗi
thời trong một phân đoạn chuyển động nhanh của thế giới công nghệ, và các nguy cơ là một sản phẩm
tiêu dùng thịnh hành sẽ mất đi phổ biến của nó; Điều này có thể là đối tượng mà một số nhà đầu tư
xem xét ngoài chuyên môn của họ. Hoặc các nhà đầu tư có thể tìm thấy một số công ty tuyệt đối không
thể chấp nhận bởi vì ngành công nghiệp của họ quá khó lường hoặc báo cáo tài chính của họ không đủ
minh bạch.
Đó không phải là vô lý khi muốn nhấn mạnh rằng tài sản nằm trong một danh mục nhất định của quang
phổ rủi ro. Chứng khoán thị trường cho là cực kỳ an toàn có thể cung cấp lợi nhuận không thú vị, trong
khi chứng khoán ở một thái cực khác có thể vượt quá khả năng chịu rủi ro của nhà đầu tư. Nói cách
khác, có thể hợp lý là một số nơi các nhà đầu tư sẽ không từ bỏ, bất kể giá cả.
Không chỉ có thể là nguy cơ các nhà đầu tư không muốn đi, mà còn cũng có thể có những rủi ro khách
hàng của họ không muốn họ thực hiện.Đặc biệt là trong thế giới thể chế, những nhà quản lý hiếm khi
nói "Đây là tiền của tôi; làm những gì bạn muốn với nó”. Công việc của những nhà quản lý tiền bạc
không phải là chỉ để làm cho các khoản đầu tư có tiềm năng lợi nhuận, mà còn để cung cấp cho khách
hàng những gì họ muốn, vì hầu hết những nhà đầu tư thể chế được thuê để thực hiện các nhiệm vụ cụ
thể trong điều khoản mức độ tài sản và phong cách đầu tư. Nếu khách hàng đã đến vì một loại đầu tư,
có rất ít khả năng để đạt được trong việc đi vào những khoản đầu tư khác, bất kể sức hấp dẫn của
chúng. Ví dụ, nếu một người quản lý gạ tài khoản trên cơ sở chuyên môn với chất lượng cao, giá trị cổ
phiếu lớn, có nguy cơ đối với các doanh nghiệp trong việc đầu tư vào một loạt các công nghệ cao bắt
đầu thực hiện.
Như vậy, điểm khởi đầu cho việc xây dựng danh mục đầu tư không thể là một vũ trụ vô biên.Một số
điều bao gồm lựa chọn thực thế, và những điều khác thì không.
Sau khi đã xác định "bộ khả thi", bước tiếp theo là chọn các khoản đầu tư từ nó. Điều đó được thực
hiện bằng cách xác định những khoản đầu tư cung cấp tỷ lệ hoàn trả tiềm năng rủi ro tốt nhất, hoặc giá
trị tiền mặt nhất.Đó là những gì Sid Cottle, biên tập viên của các phiên bản sau này Phân tích chứng
khoán của Graham và Dodd, nói tới khi anh nói với tôi rằng trong quan điểm của ông, "đầu tư là kỷ
luật của lựa chọn tương đối." Ấn tượng đó đã ở lại với tôi trong ba mươi lăm năm.
Cụm từ đơn giản của Sid là hiện thân của hai thông điệp quan trọng. Đầu tiên, quá trình đầu tư phải rất
chặt chẽ và kỷ luật.Thứ hai, nó cần thiết so sánh. Cho dù giá đang gây thất vọng hoặc cao, và cho dù
lợi nhuận tiềm năng do đó cao hay thấp, chúng ta phải tìm ra các khoản đầu tư tốt nhất hiện có. Vì
chúng ta không thể thay đổi thị trường, nếu chúng ta muốn tham gia, lựa chọn duy nhất của chúng ta là
lựa chọn tốt nhất từ khả năng tồn tại.Đây là những quyết định liên quan.
Nó là gì mà làm cho chúng tôi tìm thấy khoản đầu tư vượt trội?Như tôi đã đề cập trong chương 4, nó
chủ yếu là vấn đề giá cả.Mục tiêu của chúng tôi không phải là để tìm tài sản tốt mà là sự mua tốt.Vì
vậy, nó không phải là những gì bạn mua; đó là những gì bạn phải trả cho nó.Một tài sản có chất lượng
cao có thể tạo thành một sự mua tốt hay xấu, và một nội dung chất lượng thấp có thể tạo thành một sự
mua tốt hay xấu.Các xu hướng xác định nhầm mục tiêu cho các cơ hội đầu tư, và thất bại trong việc
phân biệt giữa tài sản tốt và sự mua tốt, mang đến cho hầu hết các nhà đầu tư rắc rối.
Bởi vì sự tìm kiếm để sự mua tốt, mục tiêu chính của tôi trong chương này là để giải thích những gì
làm cho một sự mua một sản phẩm tốt nhất. Nói chung, có nghĩa là giá là thấp so với giá trị và tiềm
năng trở lại là cao so với rủi ro. Làm thế nào để có được món hời như vậy?
Trong chương 10, tôi sử dụng các công nghệ chứng khoán mania như một ví dụ về quá trình đáng tin
cậy thông qua đó là một ý tưởng cơ bản tốt có thể được biến thành một bong bóng giá quá cao. Nó
thường bắt đầu với một tài sản khách quan hấp dẫn.Khi mọi người nâng cao ý kiến của họ về nó, họ
ngày càng muốn sở hữu nó.Điều đó làm cho luồng vốn chảy vào nó, và giá sẽ tăng.Mọi người nhận
được mức giá đang tăng là một dấu hiệu của công sức đầu tư, do đó, họ mua nhiều hơn nữa. Những
người khác nghe về nó lần đầu tiên và cùng tham gia, và xu hướng tăng có sự xuất hiện của một chu kỳ
đạo đức không thể ngăn cản. Đó chủ yếu là một cuộc thi phổ biến, trong đó tài sản trong câu hỏi là
người chiến thắng.
Nếu họ tiếp tục đủ lâu và đạt được đủ lực lượng, phong cách đầu tư biến thành bong bóng. Và bong
bóng cho các nhà đầu tư chu đáo rất nhiều thứ để bán và bán ngắn.
Quá trình thông qua đó món hời được tạo ra phần lớn là ngược lại.Vì vậy, để có thể tìm thấy chúng, đó
là điều cần thiết mà chúng tôi hiểu những gì gây ra một tài sản quá được ưa chuộng.Điều này không
nhất thiết phải là kết quả của một quá trình phân tích.Trong thực tế, phần lớn quá trình là chống lại
phân tích, có nghĩa quan trọng để suy nghĩ về những lực lượng tâm lý đằng sau nó và những thay đổi
trong sự nổi tiếng mà mang tới nó.
Vì vậy, nó là gì mà làm cho giá thấp liên quan đến giá trị, và hoàn lại cao liên quan đến rủi ro?Nói cách
khác, những gì làm cho một cái gì đó bán rẻ hơn so với giá trị của nó?
• Không giống như các tài sản mà trở thành chủ đề của sự ham mê, món hời tiềm năng thường
hiển thị một số khiếm khuyết khách quan. Một loại tài sản có thể có những điểm yếu, một công ty có
thể đi chậm nhất trong ngành công nghiệp của nó, một bảng cân đối chưa qua sử dụng vốn vay, hoặc
an ninh có thể đủ khả năng sở hữu không đủ bảo vệ cấu trúc của nó.
• Vì quá trình thị trường hiệu quả của việc thiết lập giá cả hợp lý đòi hỏi sự tham gia của những
người phân tích và mục tiêu, món hời thường được dựa trên sự vô lý hoặc sự hiểu không đầy đủ. Như
vậy, món hời thường được tạo ra khi các nhà đầu tư hoặc thất bại trong việc xem xét một tài sản một
cách hợp lý, hoặc thất bại trong việc tìm dưới bề mặt để hiểu nó kỹ lưỡng, hoặc thất bại trong việc
khắc phục được một số truyền thống không dựa trên giá trị, thiên vị hoặc hẹp.
• Không giống như thị trường quen thuộc, tài sản mồ côi bị bỏ qua hoặc khinh miệt. Đến mức nó
được đề cập đến ở tất cả các phương tiện truyền thông và trong các bữa tiệc cocktail, đó là trong điều
kiện không tốt.
• Thông thường giá của nó đã giảm, làm cho những nhà tư tưởng cấp đầu tiên hỏi, “Ai sẽ muốn sở
hữu thứ đó?” (Nó xuất hiện nhắc lại rằng những nhà đầu tư ngoại suy hiệu suất trước đây, mong muốn
sự tiếp tục của những xu hướng hơn sự hồi quy đáng tin tưởng hơn. Những người suy nghĩ cấp đầu tiên
có xu hướng xem qua giá yếu là đáng lo ngại, không phải là một dấu hiệu cho thấy tài sản đã nhận
được rẻ hơn.)
• Kết quả là, một tài sản hạ giá có xu hướng là một trong những thứ không được ưa chuộng nhất.
Vốn luôn tránh xa hoặc chạy trốn nó, và không ai có thể nghĩ ra một lý do để sở hữu nó.
Đây là một ví dụ về cách hạ giá có thể được tạo ra khi toàn bộ lớp tài sản đi ra khỏi kiểu mẫu.
Câu chuyện của trái phiếu trong sáu mươi năm qua là tấm gương phản chiếu của sự phổ biến niềm yêu
thích cổ phiếu. Trái phiếu đầu tiên bị héo khi chứng khoán độc chiếm sự chú ý trong những năm năm
mươi và sáu mươi, và vào cuối năm 1969, tóm tắt hàng tuần của First National City Bank về dữ liệu
trái phiếu qua đời với tiêu đề "The Last Issue" đóng hộp trong màu đen. Trái phiếu đã bị tiêu hao trong
môi trường lãi suất cao của những năm bảy mươi, và mặc dù lãi suất giảm dần trong những năm tám
mươi và chín mươi, trái phiếu không có một lời cầu nguyện nào cho việc đứng lên của kịch bản cổ
phiếu tăng.
Vào nửa cuối những năm chín mươi, bất kỳ đầu tư vào trái phiếu chứ không phải là cổ phiếu giống như
là màn neo cấm. Tôi đã chủ trì Ủy ban đầu tư của các tổ chức từ thiện và xem như là một tổ chức chị
em trong thành phố mà khác đã phải chịu đựng trong nhiều năm với một tỷ lệ 80:20 trái phiếu /cổ
phiếu pha trộn dịch chuyển phân bổ của nó tới 0: 100. Tôi tưởng tượng ra một tổ chức đầu tư điển hình
nói như sau:
Chúng tôi có một phân bổ nhỏ để thu nhập cố định. Tôi không thể cho bạn biết lý do tại sao. Đó là một
tai nạn lịch sử. người tiền nhiệm của tôi đã tạo ra nó, nhưng lý do của ông ấy bị mất trong quá khứ.
Bây giờ cổ phần trái phiếu của chúng tôi đang được xem xét cho giảm.
Mặc dù lãi suất trong việc mua thêm cổ phiếu vẫn ở mức thấp trong thập niên hiện nay,một ít tiền đã
chảy vào trái phiếu cao cấp. Sự suy giảm niệm cứ tiếp tục phổ biến trái phiếu 'đã gây ra, trong số
những thứ khác, theo quyết định trên một phần của Greenspan Fed giữ lãi suất thấp để kích thích nền
kinh tế và chống lại những cú sốc ngoại sinh (như Y2K đe dọa). Với trái phiếu chính phủ và trái phiếu
cao cấp năng suất 3-4 phần trăm, họ đã không làm được gì nhiều cho các nhà đầu tư tổ chức cố gắng
cho 8 phần trăm.
“Hemlines,” 10 tháng chín năm 2010

Sau khi quá trình mô tả ở trên đã đủ dài, và cổ phiếu của họ đã giảm đủ, trái phiếu được định vị để trở
thành một hiệu suất vượt trội. Tất cả nó đã là một sự thay đổi trong môi trường đó sẽ tăng mức độ cần
thiết về an toàn liên quan đến tiềm năng phát triển. Và như thường xảy ra sau khi một tài sản đã đánh
giá cao trong một thời gian, các nhà đầu tư bất ngờ nhận ra sự hấp dẫn của trái phiếu và nhận ra rằng
họ đã không sở hữu đủ.Đây là một mô hình mà thường xuyên tạo ra lợi nhuận cho những người phỏng
đoán nó ra sớm.
O
Tài sản giá tốt không bao giờ là mục tiêu của chúng tôi, vì nó là lý do hợp lý để kết luận chúng sẽ
mang lại lợi nhuận chỉ bằng cho các rủi ro liên quan. Và, tất nhiên, tài sản đắt đỏ không làm cho chúng
tôi bất cứ điều gì tốt đẹp.
Mục tiêu của chúng tôi là để tìm tài sản quá thấp.chúng ta nên xem xét cho họ?
Một nơi tốt để bắt đầu là một trong những điều đó là:
• ít được biết đến và chưa được hiểu đầy đủ;
• cơ bản vấn đề trên bề mặt;
• gây tranh cãi, khó coi hoặc đáng sợ;
• coi là không phù hợp cho danh mục đầu tư "đáng kính";
• không được đánh giá, không phổ biến và không được yêu thương;
• dấu một bản ghi lợi nhuận kém; và
• thời gian gần đây là chủ đề của không vụ lợi, không tích lũy.

Để tóm lại chỉ cần một câu, tôi muốn nói những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của món hời là nhận
thức mà đã được còn tệ hơn nhiều so với thực tế.Điều đó có nghĩa là cơ hội tốt nhất thường được tìm
thấy trong số những thứ những người khác sẽ không làm nhất.Sau tất cả, nếu tất cả mọi người cảm thấy
tốt về một cái gì đó và vui mừng tham gia, nó sẽ không được mặc cả giá.
Khi tôi chuyển từ nghiên cứu chứng khoán để quản lý danh mục đầu tư tại ngân hàng Thành Phố vào
năm 1978, tôi đã may mắn được yêu cầu làm việc trong các loại tài sản đó đã gặp một số hoặc tất cả
các tiêu chí này. Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là trong chứng khoán chuyển đổi.Những thậm chí còn nhiều
thị trường nhỏ và bị đánh giá thấp trũng hơn hiện nay.Khi họ đã cho các nhà đầu tư những lợi thế của
cả trái phiếu và cổ phiếu, họ đã ban hành chỉ như là một phương sách cuối cùng của công ty yếu kém
thiếu lựa chọn thay thế, chẳng hạn như các tập đoàn, đường sắt và hàng không. Dòng các nhà đầu tư
chính đã cảm thấy họ giới thiệu phức tạp không cần thiết: nếu bạn muốn các đặc điểm của trái phiếu và
cổ phiếu, họ có thể nói, tại sao không chỉ cần mua một số trái phiếu và một số cổ phiếu? Và nếu bạn
thích các công ty, tại sao không mua cổ phiếu và thu gom toàn bộ nó lại, thay vì đầu tư vào một chiếc
xe hybrid phòng thủ? Vâng, bất cứ khi nào “tất cả mọi người” cảm thấy không có giá trị trong thứ gì
đó, nó là hợp lý để nghi ngờ nó không được yêu thương, không theo đuổi và vì thế có thể có giá thấp.
Đó là lý do tại sao một bài báo năm 1984 BusinessWeek về tôi mang dòng “người đàn ông thực sự
không mua sự biển thủ, vì vậy gà như tôi có thể mua món hời.”
Sau đó vào năm 1978, tôi đã được yêu cầu khởi động một quỹ trái phiếu có năng suất cao. Các chứng
khoán được đánh giá thấp, gánh nặng với các trái phiếu rác trầm tỉnh khó chịu, giảm ngắn của yêu cầu
tối thiểu nhất các tổ chức đầu tư của “lớp đầu tư hoặc tốt hơn” hoặc “đơn lẻ hoặc tốt hơn”. Trái phiếu
rác có thể mặc định, vậy làm thế nào có thể họ có thể được nắm giữ thích hợp cho các quỹ hưu trí hoặc
các quỹ hiến tặng? Và nếu một quỹ mua trái phiếu từ lớp công ty đầu cơ và nó đã đi theo, làm thế nào
được ủy thác có thể thoát khỏi sự bối rối và đổ lỗi vì đã làm điều gì đó mà họ biết trước là nguy hiểm?
Một đầu mối lớn để tiềm năng của những chứng khoán có thể được tìm thấy trong mô tả một giá đại lý
của trái phiếu B được đánh giá là “thường thiếu những đặc điểm của một đầu tư mong muốn.” Bây giờ
bạn nên nhanh chóng hỏi làm thế nào có ai có thể phát hành một sa thải chăn của một lớp tiềm năng
đầu tư mà không cần bất kỳ tham chiếu nào tới giá. Lịch sử tiếp theo của các trái phiếu này cho thấy
rằng (a) nếu ai sở hữu một cái gì đó, nhu cầu về nó (và dẫn tới giá) chỉ có thể đi lên và (b) bằng việc đi
từ cấm kỵ để thậm chí chỉ cần dung nạp tốt, nó có thể thực hiện khá tốt.

Cuối cùng, vào năm 1987, các đối tác của tôi Bruce Karsh và Sheldon đã đến gặp tôi với những ý
tưởng sáng tạo một quỹ đầu tư vào nợ đau khổ. Điều gì có thể khó coi hơn và ít đáng kính hơn là đầu
tư vào trái phiếu của các công ty bị phá sản hoặc coi là khả năng lớn trở thành như vậy?Ai sẽ đầu tư
vào các công ty đã chứng minh họ thiếu khả năng tài chính và sự yếu kém trong quản lý của họ? Làm
sao ai có thể đầu tư có trách nhiệm vào công ty rơi tự do? Tất nhiên, với cách cư xử các nhà đầu tư, bất
cứ tài sản được coi là tồi tệ nhất tại một thời điểm nào đó có khả năng tốt là rẻ nhất.Đầu tư kiếm lời
không cần phải có bất cứ điều gì để làm với chất lượng cao.Trong thực tế, nhiều thứ có xu hướng rẻ
hơn nếu chất lượng thấp đe dọa mọi người tránh xa.
Mỗi một loại tài sản đáp ứng hầu hết hoặc tất cả các tiêu chí được liệt kê sớm hơn trong chương
này.Chúng ít được biết đến, không hiểu và không tôn trọng.Không ai có một lời tốt đẹp để nói về bất
kỳ thứ nào trong chúng.Mỗi minh họa các khoản đầu tư không thoải mái mang phong cách riêng và
thiếu thận trọng, mà David Swensen nói đến trong chương 11. . . và như vậy mỗi loại biến thành một
nơi tuyệt vời để được cho tới hai mươi hay ba mươi năm. Tôi hy vọng những ví dụ quy mô lớn cung
cấp cho bạn một ý tưởng tốt cho nơi món hời có thể được tìm thấy.

o
Kể từ khi món hời cung cấp giá trị với giá thấp bất hợp lý-và do đó tỷ lệ bất thường trở thành rủi ro
mà họ đại diện Chén Thánh cho các nhà đầu tư. Giao dịch như vậy không nên tồn tại trong một thị
trường hiệu quả cho các lý do nêu trong chương 2. Tuy nhiên, tất cả mọi thứ trong kinh nghiệm của tôi
nói với tôi rằng trong khi món hời không phải là những quy tắc, các lực lượng được cho là để loại bỏ
chúng thường không làm như vậy.
Chúng tôi đang đầu tư tích cực bởi vì chúng tôi tin rằng chúng tôi có thể đánh bại thị trường bằng cách
xác định các cơ hội tốt hơn. Mặt khác, nhiều “ưu đãi đặc biệt” chúng tôi đang cung cấp là quá tốt là
đúng, và tránh cho họ là điều cần thiết cho sự thành công đầu tư. Vì vậy, với rất nhiều điều, chủ nghĩa
lạc quan điều khiển một người là một nhà đầu tư tích cực và sự hoài nghi nổi lên từ các giả định về thị
trường hiệu quả phải được cân bằng.
Rõ ràng là các nhà đầu tư có thể bị buộc phải sai lầm bởi yếu tâm lý , phân tích lỗi hoặc từ chối để
bước đi trên mặt đất chắc chắn. Những sai lầm tạo món hời cho các nhà tư tưởng cấp thứ hai có khả
năng nhìn thấy những sai lầm của người khác.
13 Điều quan trọng nhất là… kiên nhẫn chờ cơ hội
Thị trường không phải là cái máy ban phát sự giúp đỡ; nó sẽ không mang lại lợi nhuận cao chỉ vì
bạn cần chúng.
PETER BERNSTEIN

Chu kỳ lên xuống liên quan đến cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu tạo điều kiện cho chúng ta bán
với giá cao trong giai đoạn từ 2005 đến đầu 2007 và mua ở mức giá thấp vào cuối 2007 và 2008. Đây
được hiểu là cơ hội của một vòng đời. Những người đi ngược với chu kỳ này có cơ hội vàng để khẳng
định bản thân mình. Một trong những điều tôi muốn nói trong chương này là chỉ ra rằng không phải lúc
nào cũng có những điều tuyệt vời để thực hiện và thỉnh thoảng phải cộng góp hết sức mình bằng việc
nhận thức rõ ràng và không quá chủ động. Kiên nhẫn chờ cơ hội – chờ đợi để ngả giá – thường là chiến
lược tốt nhất mà bạn có.
Và đây là một mẹo nhỏ: Bạn sẽ làm tốt hơn nếu bạn chờ đợi những khoản đầu tư đến với bạn hơn
là đeo bám lấy chúng. Thay vì bắt đầu với ý niệm chắc nịch về thứ bạn muốn sở hữu thì bạn có thể
mua được giá hời nếu biết chọn những thứ người bán cần bán trong danh sách của họ. Người cơ hội
mua được mọi thứ với giá hời. Chẳng có gì đặc biệt khi mua một món đồ với giá cả đắt đỏ.
Ở Oaktree, một trong những câu khẩu hiệu của chúng tôi là “Chúng tôi không tìm kiếm các khoản
đầu tư; tự chúng tìm chúng tôi”. Chúng tôi không cố làm ngơ trước mọi chuyện. Chúng tôi không ra
ngoài với một danh sách những thứ cần mua; thay vào đó, chúng tôi chờ điện thoại gọi đến. Nếu chúng
tôi gọi cho chủ hàng và nói: “Ông đang sở hữu X và chúng tôi muốn mua lại nói,” thì giá sẽ tăng lên.
Nhưng nếu người chủ đó gọi cho chúng tôi và nói: “Chúng tôi đang gặp khó khăn với X và đang tìm
kiếm một lối thoát,” thì giá sẽ được giảm xuống. Vì thế, thay vì mở đầu giao dịch, chúng tôi ưu tiên
phản ứng khi có cơ hội.
Vào đúng bất cứ thời điểm cụ thể nào, môi trường đầu tư chính là lẽ phải và chúng ta không còn
chọn lựa nào khác hơn ngoài việc chấp nhận và đầu tư cho nó. Không phải lúc nào cũng có quả lắc hay
chu kỳ cực đoan để đặt cược. Đôi khi có sự cân bằng giữa lòng tham và nỗi sợ hãi, sự bi quan và lạc
quan, việc cả tin và lòng hoài nghi, vì thế không tạo ra những khuyết điểm rõ ràng. Thay vì được định
giá quá cao hay quá thấp một cách rõ ràng thì việc ra giá cho hầu hết mọi món đồ có vẻ khá khó. Trong
trường hợp đó, có lẽ không có những cuộc ngả giá lớn để có thể mua sản phẩm hoặc là không có
những thương vụ hấp dẫn để thực hiện.
Điều quan trọng để thành công trong đầu tư việc nhận ra hoàn cảnh của thị trường và đưa ra những
quyết sách hành động dựa theo đó. Những khả năng khác là (a) hành động mà không nhìn thấy tình
trạng của thị trường, (b) hành động bất chấp tình trạng của thị trường và (c) tin rằng cách nào đó có thể
thay đổi tình trạng của thị trường. Tất cả những điều đó đều thiếu khôn ngoan. Việc đầu tư phù hợp
vào những hoàn cảnh chúng ta tham gia mang lại một cảm quan hoàn hảo. Nhưng trên thực tế, những
việc khác không mang ý nghĩa gì cả.
Tôi kết luận được điều này dựa trên một nền tảng triết học:
Vào giữa thập niên 60, mỗi sinh viên trường Wharton phải học thêm một môn phụ và tôi đã thỏa
mãn yêu cầu khi theo học năm khóa về ngôn ngữ Nhật Bản. Điều này đã làm tôi bất ngờ khi nó trở
thành phần trọng tâm trong suốt quá trình học đại học của tôi và góp phần chính yếu vào triết lý đầu tư
của tôi sau này.
Mujo là một trong số những giá trị được đánh giá cao ngay từ buổi đầu của nền văn hóa Nhật Bản.
Với tôi, Mujo được định nghĩa theo cách cổ điển là sự công nhận về “tính năng quay tròn của bánh xe
luật pháp” ám chỉ sự thừa nhận tính tất yếu của sự thay đổi và sự tăng – giảm. Nói cách khác, Mujo có
nghĩa là những chu lỳ hưng suy, những thứ đến rồi đi và môi trường sẽ thay đổi vượt tầm kiểm soát
của chúng ta. Vì thế chúng ta phải thừa nhận, chấp nhận và đương đầu cũng như trả lời về sự thay đổi.
Đó chẳng phải là cốt lõi của sự đầu tư sao?
…Những gì thuộc về quá khứ thì thuộc về quá khứ và không thể được thực hiện lại. Điều này dẫn
chúng ta đến những hoàn cảnh đang phải đối mặt. Tất cả điều chúng ta có thể làm là nhìn nhận hoàn
cảnh của chúng ra và đưa ra những quyết định tốt nhất có thể.
“Nó chính là nó,” 27 / 03 / 2006

Triết lý của Warrant Buffett ít mang tính tinh thần hơn của tôi. Thay vì Mujo, ông ấy thích bóng
chày hơn.

Trong bao cáo thường niên năm 1997 của Berkshire Hathaway, Buffett đã nói về Ted Williams –
“Mảnh vỡ tuyệt vời” – một trong những người quyền lực vĩ đại nhất trong lịch sử. Khía cạnh góp phần
cho sự thành công của ông chính là tập trung tìm hiểu trò chơi của bản thân. Bằng việc phân nhỏ khu
vực phía trên nơi phát bóng thành 77 lỗ có kích thước bằng quả bóng chày và theo dõi kết quả ở nơi
phát bóng, ông biết hệ số đánh banh trung bình của ông tốt hơn nhiều sau vài phát đánh bóng ở phần
giữa gậy. Dĩ nhiên, thậm chí với sự hiểu biết đó, ông cũng không thể đợi cả ngày cho một cú tung bóng
hoàn hảo; nếu đánh ba phát trật hướng, ông sẽ bị gọi ra.
Quay trở lại vào ngày 1/11/1974, trong ấn phẩm của Forbes, Buffett đã chỉ ra rằng các nhà đầu tư
có lợi thế về mặt đó, phải nắm ấy nó. Bởi vì các nhà đầu tư không thể vạch ra tầm nhìn nên họ không
nhất thiết phải cảm thấy áp lực khi hành động. Họ có thể từ bỏ nhiều cơ hội cho đến khi họ thấy cơ hội
đó thật tuyệt vời.

Đầu tư là ngành kinh doanh lớn nhất trên thế giới bởi vì bạn không bao giờ bạn phải đi theo xu
hướng. Bạn đứng tại chỗ phát bóng; người chuyền bóng sẽ ném cho bạn General Motors ở mức 47!
U.S. Steel ở mức 39! Và sẽ không một ai phản đối bạn. Không có điểm phạt nào ngoại trừ cơ hội. Cả
ngày bạn đợi cú đánh bóng bạn thích và khi cầu thủ chặn bóng ngủ gục, bạn bước lên và đánh tung.
“Kế hoạch trò chơi của bạn là gì?” 5/9/2003

Một trong những điều tuyệt vời trong đầu tư chính là chỉ có điểm phạt mới thật sự dành cho việc
đầu tư thua lỗ. Không có điểm phạt nào dành cho việc từ bỏ những khoản đầu tư ấy, dĩ nhiên, chỉ có
phần thưởng mà thôi. Thậm chí đối với việc bỏ lỡ một vài người thắng cuộc, tiền phạt có thể chấp nhận
được.
Khoản phạt cho những người thắng cuộc không xuất hiện đi về đâu? Những nhà đầu tư thường
cạnh tranh nhau và cạnh tranh vì tiền. Vì thế, không ai hoàn toàn thoải mái khi để vuột mất cơ hội đem
lại lợi nhuận.
Đối với những nhà đầu từ chuyên nghiệp được trả tiền để quản lý tiền của người khác thì tiền đặt
cược cao hơn. Nếu họ để lỡ quá nhiều cơ hội và nếu tiền bồi hoàn của họ quá thấp vào những lúc thuận
lợi thì những người quản lý tiền có thể chịu áp lực từ phía khách hàng và cuối cùng phải chịu mất tài
khoản. Không ít người phụ thuộc vào việc khách hành chịu ảnh hưởng như thế nào. Oaktree luôn rõ
ràng về niềm tin rằng việc để tuột mất cơ hội đem lại nguồn lợi thì không có đáng kể cho bằng việc đầu
tư vào người đang thua lỗ. Vì thế, khách hành sẵn sàng đón nhận những kết quả mà sự điều chỉnh rủi
ro của nó được đặt trước việc tham gia đầy đủ vào các khoản lãi.

Đúng ở vị trí phát bóng với cây gậy trên vai là kiểu kiên nhẫn chờ cơ hội của Buffett. Cây gậy phát
bóng sẽ vung ra khỏi vai bạn khi có những cơ hội mang lại lợi nhuận với nguy cơ ở mức có thể điều
khiển. Cách chiếm ưu thế về khía cạnh này là nỗ lực chắc chắn xem liệu chúng ta đang ở trong môi
trường lãi cao hay lãi thấp.
Cách đây vài năm, tôi nghĩ ra một câu chuyện ngụ ngôn tương ứng với môi trường lãi thấp. Câu
chuyện có tên “Con mèo, cái cây, củ cà rốt và cây gậy”. Con mèo là nhà đầu tư, giải quyết về môi
trường đầu tư, trong đó cái cây là một phần của môi trường này. Củ cà rốt – là sự khuyến khích chấp
nhận mức độ rủi ro gia tăng đến từ những khoản lãi cao hơn có sẵn trong những khoản đầu tư mạo
hiểm hơn. Và cây gậy – động lực để từ bỏ sự an toàn – đến từ mức độ khiêm tốn của các khoản lãi
tương lai được áp dụng cho những khoản đầu tư an toàn hơn.
Củ cà rốt lôi kéo con mèo trèo lên những cành cao hơn – những chiến lược nguy hiểm hơn – nhằm
tìm ra bữa tối cho nó (khoản lãi được nhắm tới) và cây gậy thúc con mèo trèo lên cao hơn bởi vì nó sắp
chạm đất trong khi chưa có gì cho bữa tối.
Cây gậy và củ cà rốt cuối cùng cũng có thể cùng khiến cho con mèo trèo cao lên cây, ở một vị trí
không thể nào tin được. Điều đáng nói là con mèo theo đuổi lãi cao, thậm chí trong một hoàn cảnh lãi
thấp, mang kết quả – nguy cơ gia tăng – mặc dù là vô tình.
Các nhà đầu tư gọi quá trình này là “đạt lấy lợi nhuận” hoặc là “đạt lấy lãi”. Nó bao gồm việc đầu
tư vào các khoản tín dụng có rủi ro cao hơn trong khi các khoản lợi tức dành cho các khoản tín dụng an
toàn hơn giảm xuống, để tiếp cận được các khoản lãi mà các nhà đầu tư biết trước khi thị trường tăng.
Hình thức đương đầu tương tự với những rủi ro mới và lớn hơn nhằm duy trì các khoản lãi thường lặp
lại trong một dạng chu kỳ. Câu khẩu hiệu của những người đạt được khoản lãi có vẻ như là: “Nếu bạn
không thể lấy khoản lãi bạn cần từ các khoản đầu tư an toàn, thì hãy theo đuổi nó qua những khoản đầu
tư có tính rủi ro.”
Chúng tôi thấy biểu hiện này suy yếu giữa thập niên trước:

[Vào những ngày trước cuộc khủng hoảng tín dụng], các nhà đầu tư đã không thể cưỡng lại những
cơn cám dỗ đầy mê hoặc của cơn tác động . Họ vay các loại quỹ ngắn hạn giá rẻ - càng ngắn càng rẻ
(bạn có thể nhận được khoản tiền với lãi suất thấp nếu bạn sẵn sàng cam kết trả nợ hàng tháng). Và họ
sử dụng số tiền đó để mua lại những tài sản có lợi nhuận cao hơn vì chúng đòi hỏi tính thanh khoản
kém và / hoặc có nguy cơ cơ bản. Và các nhà đầu tư trên thế giới chấp nhận đánh cược Phố Wall để
đổi lấy những lời hứa mới nhất của hai "viên đạn bạc" sẽ mang lại lợi nhuận cao với rủi ro thấp: chứng
khoán hóa và cơ cấu.
Bề ngoài, các khoản đầu tư này rất có ý nghĩa. Chúng hứa hẹn những phần lợi nhuận tuyệt đối thỏa
đáng, bởi vì lợi nhuận dựa trên việc mua lại bằng vốn vay sẽ nhiều hơn khoản thanh toán chi phí
vốn. Kết quả sẽ tuyệt vời. . . miễn là không có rủi ro xảy ra.
Nhưng, như thường lệ, việc tìm kiếm lợi nhuận dẫn đến những sai lầm. Những khoản lợi nhuận
được trông đợi có vẻ ổn, nhưng phạm vi của những hệ lụy có thể xảy ra thì bao gồm cả những điều rất
khó chịu. Sự thành công của nhiều phương pháp và cơ cấu phụ thuộc vào một tương lai trông giống
quá khứ. Và nhiều "phép lạ hiện đại" được dựa trên đó thì chưa qua kiểm chứng.
"Lúc này không có sự khác biệt," 17 / 12 / 2007

Đáng chú ý là bao nhiêu đối thủ cạnh tranh hàng đầu từ những năm đầu của chúng tôi được xem là
những nhà đầu tư nay không còn ở vị trí dẫn đầu nữa (hoặc không còn là đối thủ của nhau nữa). Trong
khi một số ấp úng vì sai sót trong cách tổ chức, mô hình kinh doanh của họ thì những người khác lại
biến mất vì họ cố theo đuổi lợi nhuận cao trong những môi trường lợi nhuận thấp.
Đơn giản là bạn không thể tạo ra cơ hội đầu tư khi họ không có ở đó. Điều ngốc nhất bạn có thể
làm là cố duy trì lợi nhuận cao và trả lại lợi nhuận của bạn trong quá trình này. Nếu không có lợi
nhuận, hy vọng sẽ không làm cho nó như vậy.
Khi giá cao, không thể tránh được việc lợi nhuận tiềm năng thấp (và rủi ro cao). Câu duy nhất đó
cung cấp rất nhiều hướng dẫn về những hành động phù hợp theo danh mục vốn đầu tư. Làm thế nào
chúng ta có thể tính đến sự quan sát như vậy vào thực tiễn của chúng ta?
Trong năm 2004, tôi đã viết một bản ghi nhớ với tựa đề "Rủi ro và lợi nhuận ngày nay." Trong đó,
qua chương 6, tôi bày tỏ quan điểm của tôi rằng (a) dòng thị trường vốn "thấp và bằng phẳng," có
nghĩa là lợi nhuận tiềm năng trong hầu tất cả các thị trường đều thuộc nhóm thấp nhất chúng tôi từng
thấy và phí bảo hiểm rủi ro là nhỏ nhất, và (b) nếu lợi nhuận tiềm năng tăng lên, nó có khả năng sẽ xảy
ra qua việc bão giá.
Nhưng câu hỏi khó là, chúng ta có thể làm những gì? Một vài tuần sau đó, tôi đã có những đề nghị
về một vài khả năng:

Làm thế nào người ta có thể đối phó trong một thị trường mà dường như tạo ra lợi nhuận thấp?
• Hãy đầu tư như thể là điều không đúng. Vấn đề là "Mong muốn sẽ không khiến nó như vậy."
Đơn giản chỉ cần đặt, kỳ vọng vào việc thu được lợi nhuận truyền thống khi giá tài sản cao cho thấy
chúng không có sẵn là điều vô nghĩa. Tôi rất hài lòng khi nhận được một lá thư từ Peter Bernstein đáp
lại bản ghi nhớ của tôi, trong đó ông nói về một điều tuyệt vời: "Thị trường không phải là cái máy ban
phát sự giúp đỡ; nó sẽ không mang lại lợi nhuận cao chỉ vì bạn cần chúng."
• Hãy đầu tư bất cứ cách nào, cố gắng tìm kiếm thu nhập tương đối có thể chấp nhận được trong
mọi hoàn cảnh, ngay cả khi họ không hấp dẫn tuyệt đối.
• Hãy đầu tư bất cứ cách nào - bỏ qua nguy cơ ngắn hạn và tập trung vào thời gian dài. Điều này
rất hợp lý, đặc biệt là nếu bạn chấp nhận quan điểm cho rằng việc tính toán về thời gian trên thị trường
và phân bổ tài sản có chiến thuật là điều khó khăn. Nhưng trước khi đi theo con đường này, tôi đề nghị
rằng bạn nên có được sự cam kết từ ban đầu tư của bạn hoặc các thành phần khác rằng họ sẽ bỏ qua
thua lỗ trong ngắn hạn.
• Hãy giữ tiền mặt - điều này khó khăn cho những ai cần phải đáp ứng giả định về việc tính toán
bảo hiểm hoặc tỷ lệ chi tiêu; người muốn tiền của họ lúc nào cũng phải "hoàn toàn phải làm
việc"; hoặc ai đó sẽ không thoải mái (hoặc mất việc làm) nếu họ phải chứng kiến, trong một khoảng
thời gian dài, người khác kiếm được tiền còn họ thì không.
• Hãy tập trung đầu tư cho "những nơi đặc biệt và người đặc biệt", như tôi nói cho các cặp đôi cuối
cùng của năm. Nhưng điều đó sẽ khó khăn hơn khi số lượng danh mục đầu tư của bạn phát triển. Và
việc xác định những nhà quản lý có tài năng thực sự cao, kỷ luật và việc duy trì quyền lực chắc chắn
không phải là điều dễ dàng.
• Tập trung đầu tư của bạn trong "hốc đặc biệt và người đặc biệt", như tôi đã droning trên về cho
các cặp vợ chồng cuối cùng của năm. Nhưng điều đó sẽ khó khăn hơn khi kích thước của danh mục
đầu tư của bạn phát triển. Và xác định các nhà quản lý có tài năng thực sự cao, kỷ luật và ở điện chắc
chắn là không dễ dàng.
• Tập trung đầu tư của bạn trong "hốc đặc biệt và người đặc biệt", như tôi đã droning trên về cho
các cặp vợ chồng cuối cùng của năm.Nhưng điều đó sẽ khó khăn hơn khi kích thước của danh mục đầu
tư của bạn phát triển.Và xác định các nhà quản lý có tài năng thực sự cao, kỷ luật và ở điện chắc chắn
là không dễ dàng.

Sự thật là, không có câu trả lời dễ dàng cho các nhà đầu tư đang phải đối mặt với những khoản lợi
nhuận thiếu tiềm năng và phí bảo hiểm rủi ro. Nhưng có một cách hành động - một sai lầm kinh điển –
mà tôi cảm thấy rằng không đúng: với tới lợi nhuận.
Với số lượng ít ỏi các lợi nhuận tiềm năng có rủi ro thấp có mục tiêu phân bố rộng ở dạng rủi ro
thấp và các giải pháp đang được quảng cáo có mục tiêu ở dạng rủi ro cao, nhiều nhà đầu tư đang
chuyển vốn vào các khoản đầu tư rủi ro cao hơn (hoặc ít nhất là ít truyền thống). Nhưng (a) họ sẽ thực
hiện những khoản đầu tư mang rủi ro cao hơn chỉ khi nào lợi nhuận tiềm năng ở những khoản đầu tư
đó ở mức thấp nhất như đã từng trước đó; (b) họ đang chấp nhận những khoản lãi để tới gần rủi ro nhỏ
như trước đó; và (c) họ đăng ký ngay hôm nay những điều họ đã từ chối (hoặc đã làm ít) trong quá
khứ, khi lợi nhuận tiềm năng cao hơn nhiều. Điều này chính xác có thể là thời điểm sai lầm để thêm rủi
ro trong việc theo đuổi lợi nhuận nhiều hơn. Bạn muốn mạo hiểm khi những người khác đang chạy
trốn khỏi nó, không phải khi họ đang cạnh tranh với bạn để làm như vậy.
"Họ lại đi đến đó", 06 / 05 / 2005

Rõ ràng điều này đã được viết quá sớm. Tháng Năm 2005 không phải là thời điểm hoàn hảo để rút
khỏi cuộc vui; Tháng 5 năm 2007 là. Được cho một lời nhắc nhở hữu ích về nỗi đau ở quá xa phía
trước thời gian của bạn. Như đã nói trước đó rằng tốt nhất là rút lui sớm vào tháng Năm 2005 hơn là ở
lại cho đến tháng Năm 2007 vừa qua.
o

Tôi đã cố gắng để làm cho rõ ràng rằng môi trường đầu tư có ảnh hưởng lớn kết quả. Để vặn ra lợi
nhuận cao từ một môi trường lợi nhuận thấp đòi hỏi khả năng bơi ngược dòng và tìm ra tương đối ít
người thắng cuộc. Điều này phải được dựa trên một số sự kết hợp kỹ năng đặc biệt, mang lại rủi ro cao
và sự may mắn.
Mặt khác, môi trường lợi nhuận cao, mặt khác, cung cấp những cơ hội cho những khoản lợi hào
phóng thông qua việc mua bán ở mức giá thấp, và thường những lần mua bán này có thể kiếm được lợi
nhuận với rủi ro thấp. Trong các cuộc khủng hoảng năm 1990, 2002 và 2008, ví dụ, không chỉ các
khoản quỹ của chúng tôi kiếm được lợi nhuận cao một cách bất thường, nhưng chúng tôi cảm thấy họ
đã làm điều đó thông qua những khoản đầu tư mà việc thua lỗ là khó xảy ra.
Các cơ hội mua vào tốt tuyệt đối xảy đến khi chủ tài sản buộc phải bán, và trong những cuộc
khủng hoảng đó họ xuất hiện khá nhiều. Theo thời gian, chủ tài sản trở thành người bán tài sản buộc vì
các lý do như thế này:
• Các quỹ họ quản lý trải qua việc rút vốn.
• Danh mục đầu tư cổ phần của họ vi phạm chủ trương đầu tư như xếp hạng tín dụng tối thiểu hoặc
tối đa vị trí.
• Họ nhận được yêu cầu thêm tiền bổ sung tài khoản biên bởi vì giá trị tài sản của họ không còn
đáp ứng các yêu cầu đã thỏa thuận trong hợp đồng với các chủ nợ của họ.

Như tôi đã nói nhiều lần, mục tiêu thực sự của quản lý đầu tư chủ động là để mua những thứ ít có
giá rẻ hơn so với giá trị thực thế của chúng. Đây là điều mà các giả thuyết về thị trường hiệu quả nói
rằng chúng ta không thể làm được. Việc phản đối lý thuyết dường như hợp lý: tại sao một người từ bỏ
một món đồ ở một mức giá có thể mặc cả, đặc biệt nếu là người bán tiềm năng có thông tin và sáng
suốt?
Thông thường, ai muốn trở thành người bán hàng thì cần phải biết cân bằng giữa mong muốn có
được một mức giá tốt với mong muốn việc mua bán được thực hiện sớm. Vẻ đẹp của người bị buộc
bán chính là họ không có sự lựa chọn. Họ có một súng chĩa vào đầu và phải bán với bất kỳ giá cả. Ba
từ cuối - bất kỳ giá cả - là ba từ đẹp nhất trên thế giới nếu bạn ở phía bên kia giao dịch.
Nếu một người giữ duy nhất là buộc phải bán, hàng tá người người mua sẽ ở đó, vì thế vụ mua bán
có thể diễn ra với mức giá được giảm nhẹ. Nhưng nếu sự hỗn loạn đang lan rộng, nhiều người sẽ bị
buộc phải bán cùng lúc và sẽ có rất ít người ở một vị trí cung cấp thanh khoản cần thiết. Những khó
khăn về giá bán sụt giảm, việc thu hồi tín dụng và nỗi sợ hãi cho các đối tác hoặc khách hàng có tác
động tương tự trên hầu hết các nhà đầu tư. Trong trường hợp đó, giá có thể thấp hơn nhiều so với giá
trị nội tại.
Quý IV năm 2008 đã cung cấp một ví dụ tuyệt vời về nhu cầu thanh khoản trong thời kỳ hỗn
loạn. Hãy tập trung vào việc nắm giữ các khoản vay ngân hàng cao cấp của các thực thể đầu tư có hiệu
quả. Bởi vì các khoản vay này đã được đánh giá cao và các khoản tín dụng luôn có sẵn để sử dụng
trong năm dẫn đến cuộc khủng hoảng, nên dễ dàng vay một khoản tiền lớn để giúp loại trừ các danh
mục nợ, giúp làm tăng lợi nhuận tiềm năng. Một nhà đầu tư tiêu biểu về "lãi suất" có thể đã đồng ý gửi
thêm vốn nếu giá của tài sản thế chấp đã giảm xuống dưới 85 cent trên đồng đô la, cảm thấy an toàn
khi biết rằng trong quá khứ, các khoản vay như thế này chưa bao giờ được giao dịch nhiều dưới "tỉ
giá", hoặc 100 cent trên đồng đô la.
Khi cuộc khủng hoảng tín dụng xảy ra, mọi thứ đều bất lợi cho những nhà đầu tư tiềm năng khi
vay vốn ngân hàng. (Và bởi vì sản lượng của các khoản vay được cho là an toàn đã rất thấp, hầu như
tất cả các khách hàng đã sử dụng đòn bẩy để nâng cao khoản lợi nhuận như kỳ vọng.) Giá cho vay
giảm. Thanh khoản cạn kiệt. Do việc mua vào được thực hiện bằng nguồn vốn vay, sự khó khăn của thị
trường tín dụng ảnh hưởng tới số lượng lớn của người nắm giữ cổ phiếu. Vì số lượng người bán hàng
bùng nổ, người mua bằng tiền mặt biến mất. Và với khoản tín dụng thêm vào không có sẵn, không có
người mua sử dụng vốn vay mới nào có thể bước ra để tiếp nhận việc bán hàng.
Giá giảm xuống 95, rồi 90, rồi sau đó là 85. Và khi mỗi danh mục đầu tư đạt đến mức chuẩn bị bắt
đầu thì ngân hàng lại ban hành một lệnh gọi ký quỹ, hoặc yêu cầu thêm vốn. Rất ít nhà đầu tư có nguồn
lực và lo lắng về việc bổ sung nguồn vốn trong môi trường đó, vì vậy các ngân hàng thay thế các danh
mục đầu tư và thanh lý chúng. BWIC, được phát âm là "bee-wick", được sử dụng phổ biến, một từ viết
tắt cho "gói thầu cần có trong cuộc cạnh tranh." Các nhà đầu tư đã được thông báo về một BWIC vào
buổi chiều và việc ra giá được yêu cầu cho một cuộc đấu giá sẽ được tổ chức vào sáng hôm sau. Một
vài người mua có thể trả giá thấp, hy vọng có được món hời thực sự (không ai cần phải lo lắng về đấu
thầu quá thấp, vì chắc chắn sẽ có một BWIC khác sau này). Và các ngân hàng đã không quan tâm đến
việc có được giá cả hợp lý; tất cả những gì họ cần là đủ tiền để trang trải các khoản vay của họ (có lẽ
75 hay 80 cent trên đồng đô la). Bất cứ sự quá trớn nào cũng sẽ đến với các nhà đầu tư, nhưng các
ngân hàng không quan tâm đến việc tạo ra bất cứ điều gì cho họ. Như vậy BWICs đã diễn ra với giá
cực kỳ thấp.
Giá cho vay cuối cùng rơi vào những năm 60, và mỗi người nắm khoản tín dụng ngắn hạn đã
không thể tiếp cận nguồn vốn bổ sung có khả năng bị xóa sổ. Giá bán là vô lý. Sự suy giảm về chỉ số
cho vay cao cấp trong năm 2008 vượt trên các chỉ số trái phiếu có năng suất cao trực thuộc, báo hiệu
chắc chắn về sự thiếu hiệu quả. Bạn có thể vay nợ thế chấp đầu tiên với giá bạn sẽ phá vỡ ngay cả khi
công ty phát hành có trị giá 20 đến 40 phần trăm của những gì một quỹ mua lại đã trả tiền cho công ty
đó một hoặc hai năm trước đó. Lợi nhuận hứa hẹn là rất lớn và trong thực tế nhiều trong số những tài
liệu này đánh giá cao một cách đáng kể trong năm 2009.
Đây là một thời gian người kiên nhẫn chờ cơ hội để bước về phía trước. Chủ yếu là những người
đã nhận thức được những rủi ro trong năm 2006 và 2007 và giữ bột của họ khô ráo - chờ đợi cơ hội -
những người có thể làm như vậy. Chìa khóa trong cơn khủng hoảng là được (a) cách ly khỏi từ các lực
lượng yêu cầu bán và (b) định vị một người mua thay thế. Để đáp ứng những tiêu chí, một nhà đầu tư
cần những điều sau đây: sự tín nhiệm chắc chắn vào giá trị, bớt hoặc không sử dụng đòn bẩy, vốn dài
hạn và một dạ dày khỏe mạnh.

Kiên nhẫn chờ cơ hội, được củng cố thêm bằng một thái độ ngược lại và một bảng cân đối tài sản vững
chắc, có thể mang lại những khoản lợi nhuận đáng kinh ngạc trong khoảng thời gian nguy cấp khó
khăn.
14 Điều quan trọng nhất là… biết bản thân không biết
những gì
Chúng ta có hai loại nhà dự báo: Những người không biết - và những người không biết rằng họ
không biết.
JOHN KENNETH GALBRAITH

Thật đáng sợ khi nghĩ rằng bạn có thể không biết điều gì đó, nhưng đáng sợ hơn khi nghĩ rằng,
phần lớn, thế giới được vận hành bởi những con người có niềm tin rằng họ biết chính xác nhữn gì đang
xảy ra.
AMOS TVERSKY

Có hai loại người mất tiền: những người không biết gì và những người biết tất cả mọi thứ.
HENRY KAUFMAN

Tôi đã chọn ba câu trích dẩn để tóm tắc chương này, và tôi còn có hơn một triệu câu như thế. Nhận
thức về phạm vi giới hạn của sự tiên lượng của chúng ta là một thành phần thiết yếu trong cách tiếp
cận của tôi để đầu tư. Tôi tin chắc rằng (a) thật khó để biết những gì tương lai vĩ mô nắm giữ và (b) ít
người có kiến thức tốt hơn về những vấn đề mà thường xuyên có thể được biến thành một lợi thế đầu
tư. Tuy nhiên, có hai nhóm:

• Chúng ta càng tập trung vào những thứ có hình ảnh nhỏ hơn, càng có nhiều khả năng thu được
lợi thế kiến thức. Cùng với làm việc chăm chỉ và kĩ năng, chúng ta luôn có thể biết nhiều hơn người
bên cạnh về từng cá nhân công ty và tính bảo đảm của nó, nhưng ít có khả năng liên quan đến thị
trường và nền kinh tế. Vì vậy, tôi khuyến khích mọi người hãy cố gắng “biết điều có thể biết.”
• Một ngoại lệ đi kèm theo hình thức đề nghị của tôi, cái mà tôi sẽ trình bày trong chương tiếp
theo, là các nhà đầu tư nên thực hiện một nỗ lực để tìm ra nơi họ đang đứng tại một thời điểm trong
thời gian của các chu kỳ và dao động. Điều đó sẽ không làm thay đổi tương lại và biến nó thành có thể
biết trước, nhưng nó có thể giúp một người chuẩn bị cho những khả năng phát triển.

Tôi sẽ không cố gắng để chứng minh luận điểm của mình rằng tương lai không thể biết trước. Bạn
không thể chứng minh một điều phủ định, và chắc chắn bao gồm luôn cả việc này. Tuy nhiên, tôi chưa
gặp bất cứ ai luôn biết trước điều nằm phía trước một cách vĩ mô khôn ngoan. Trong tất cả các nhà
kinh tế và chiến lược mà bạn nghe theo, có ai lúc nào cũng đúng không?

“Nghiên cứu” của tôi về chủ đề này (và tôi dùng dấu ngoặc kép bởi vì những nỗ lực của tôi trong
lĩnh vực này là quá hạn chế và mang tính giai thoại để được xem xét nghiên cứu nghiêm túc) bao gồm
chủ yếu việc đọc những bảng dự báo và quan sát tính thiếu tiện ích của chúng. Tôi đã viết hai bản ghi
nhớ với kết quả là, “Giá trị của dự đoán, hoặc Mưa Từ Đâu Đến?” (15 tháng 2, 1993) và “Giá trị của
dự đoán II, hoặc Cho Ông Ấy Một Điếu Xì Gà” (22 tháng 8, 1996). Trong bản ghi nhớ thứ hai, tôi đã
sử dụng dữ liệu từ ba cuộc thăm dò kinh tế bán niên của thời báo Wall Street Journal.

Thứ nhất, liệu những dự báo nhìn chung có chính xác? Câu trả lời rõ ràng là không. Trung bình,
các dự đoán cho 90 ngày lãi suất tín phiếu, lãi suất trái phiếu ba mươi năm và tỉ giá đồng yên / USD từ
sáu đến mười hai tháng đã giảm 15 phần trăm. Các nhà dự báo trung bình bỏ lãi suất trên trái phiếu dài
sáu tháng sau bằng 96 điểm cơ bản (một phân kỳ đủ lớn để thay đổi giá trị của một trái phiếu $1000
thêm $120).

Thứ hai, liệu những dự báo có giá trị? Dự đoán là hữu ích nhất khi chúng dự đoán chính xác sự
thay đổi. Nếu bạn chỉ dự đoán rằng một cái gì đó sẽ không thay đổi và nó không thay đổi, thì dự đoán
đó khó có khả năng kiếm được nhiều tiền. Nhưng dự đoán chính xác sự thay đổi có thể rất có lợi
nhuận. Trong các cuộc thăm dò của Journal, tôi đã quan sát, các nhà dự báo hoàn toàn bỏ lỡ nhiều thay
đổi lớn (khi dự báo chính xác có lẽ sẽ giúp mọi người kiếm tiền hoặc tránh lỗ): lãi suất tăng của năm
1994 và 1996, sự suy giảm lãi suất của năm 1995 và xoay chuyển lớn của mối quan hệ đồng USD /
yên. Tóm lại, đó chỉ đơn giản là không có nhiều mối tương quan giữa những thay đổi dự đoán và thay
đổi thực tế.

Thứ ba, nguồn gốc của các dự báo là gì? Câu trả lời ở đây đơn giản là: hầu hết các dự
báo bao gồm ngoại suy. Trung bình, các tiên đoán là trong mức 5% các cấp độ mà chiếm ưu thế tại
thời điểm chúng được thực hiện. Giống như nhiều nhà dự báo, các nhà kinh tế đang lái xe với mắt luôn
nhìn cố định vào gương chiếu hậu, cho phép họ cho chúng ta biết mọi thứ đang ở đâu mà không phải là
chúng đang di chuyển đến đâu. Điều này làm ta nhớ đến câu ngạn ngữ xưa nói rằng “rất khó để đưa ra
dự đoán chính xác, đặc biệt là khi nó liên quan đến tương lai.” Kết quả tất yếu là: dự đoán quá khứ là
một việc đơn giản. Thứ tư, liệu các nhà dự báo có luôn đúng? Câu trả lời chắc nịch luôn là có. Ví dụ,
trong từng dự báo nửa năm, một ai đó đã thành công với năng suất trên trái phiếu 30 năm trong khoản
10 hoặc 20 điểm cơ bản, ngay cả khi lãi suất thay đổi triệt để. Dự báo chiến thắng là chính xác hơn
nhiều so với dự báo đồng thuận mà đã được giảm đi từ 70 đến 130 điểm cơ bản.

Thứ năm, nếu các nhà dự báo đôi khi đúng và đúng một cách đáng kể, thì tại sao tôi vẩn còn tiêu
cực về các dự báo? Bởi vì điều quan trọng trong dự báo chính là không nhận được đúng một lần. Điều
quan trọng là nhận được nó đúng một cách bền vững.

Tôi đã tiếp tục với bản ghi nhớ năm 1996 để cho thấy “hai điều mà có thể khiến bạn suy nghĩ lại về
lưu ý đến những dự báo của người chiến thắng.” Đầu tiên, họ thường thất bại trong việc đưa ra dự đoán
chính xác trong các cuộc điều tra hơn là thành công. Và thứ hai, một nửa thời gian trong các cuộc điều
tra họ không giành chiến thắng, dự báo của họ bị nhiều sai lầm hơn ngay cả những đồng thuận không
chính xác. Điều quan trọng nhất, tất nhiên, không phải là dữ liệu, mà là những kết luận (giả sử chúng
chính xác và có thể năng được tổng quát) và sự phân nhánh của chúng.

Một cách để có được kết quả đúng đôi khi là luôn luôn được tăng hoặc luôn luôn có xu hứng giảm;
nếu bạn có quan điểm kiên định đủ lâu, có thể sớm hay muộn gì bạn cũng đúng. Và nếu bạn luôn là
một người không theo số đông, có khả năng cuối cùng bạn cũng được hoan nghênh cho một dự báo
cực kỳ độc đáo mà tiên đoán chính xác hơn bất kỳ ai khác đã làm. Nhưng điều đó không có nghĩa là dự
đoán của bạn là quy tắc cho bất kỳ giá trị nào. . . .

Điều này thỉnh thoảng có thể đúng với tương lai vĩ mô, nhưng không phải trên cơ sở thường xuyên.
Nó không giúp ích được gì để tiến hành một cuộc khảo sát 64 dự báo mà trong đó chỉ có vài dự báo là
chính xác; bạn phải xác định chúng là những cái nào. Và nếu dự báo chính xác mỗi sáu tháng được
thực hiện bởi nhiều nhà kinh tế khác nhau, thật khó để tin rằng có nhiều giá trị trong các dự báo chung.
Giá trị của dự đoán II, hoặc Cho Ông Ấy Một Điếu Xì Gà 22 tháng 8, 1996

o
Thảo luận của các dự báo cho thấy chúng ta có một tình huống tiến thoái lưỡng nan: kết quả đầu tư
sẽ được xác định hoàn toàn bởi những gì xảy ra trong tương lai, và trong khi chúng ta có thể biết điều
gì sẽ xảy ra, khi mọi việc “bình thường”, chúng ta không thể biết rõ về những gì sẽ xảy ra tại những
thời điểm đó khi việc biết trước sẽ tạo ra khác biệt lớn nhất.

• Hầu hết thời gian, người ta dự đoán một tương lai mà có nhiều điểm tương đồng với quá khứ
gần đây.
• Chúng không hẳn là sai: hầu hết thời gian trong tương lai chủ yếu là sự trở lại của quá khứ gần
đây.
• Trên cơ sở của hai điểm này, có thể kết luận rằng những dự báo sẽ chứng minh tính chính xác
hầu hết thời gian: chúng sẽ thường là suy nghiệm của kinh nghiệm gần đây là thường chính xác.
• Tuy nhiên, những dự báo mà suy luận chính xác từ kinh nghiệm quá khứ có giá trị rất ít. Cũng
như các nhà dự báo thường giả định một tương lai nào đó mà giống với quá khứ, đối với thị trường
cũng vậy, thường có một sự tiếp nối trong giá cả theo lịch sử gần đây. Vì vậy, nếu tương lại hóa ra là
như quá khứ, nó không chắc sẽ kiếm được nhiều tiền, thậm chí bởi những người đã nhìn thấy trước
một cách chính xác là nó sẽ như thế.
• Thỉnh thoảng, tuy nhiên, tương lại hóa ra lại rất khác với quá khứ.
• Đó là vào những lúc mà dự báo chính xác sẽ có giá trị rất lớn.
• Nó đồng thời cũng là những lúc mà dự báo ít có khả năng được chính xác.
• Một số dự báo có thể chính xác tại những khoảnh khắc quan trọng, cho thấy rằng nó có thể dự
đoán một cách chính xác các sự kiện quan trọng, nhưng nó ít có khả năng là được dự báo từ cùng
những người nhất quán.
• Tổng kết của thảo luận này cho thấy rằng, về cân bằng, dự báo có giá trị rất ít.

Nếu bạn cần bằng chứng, hãy tự hỏi có bao nhiêu người dự báo dự đoán chính xác vấn đề cho vay
dưới chuẩn, cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu và cuộc đại khủng hoảng năm 2007- 2008. Bạn có thể
có thể nghĩ ra một ít, và bạn có thể kết luận rằng dự báo của họ có giá trị. Nhưng sau đó hãy tự hỏi có
bao nhiêu trong số ít đã tiếp tục dự đoán một cách chính xác sự phục hồi kinh tế bắt đầu rất chậm trong
năm 2009 và các thị trường lớn phục hồi trong năm đó. Tôi nghĩ rằng câu trả lời là "rất ít".
Và đó không phải là một tai nạn. Những người có quyền 2007-2008 có lẽ đã làm như vậy ít nhất
một phần vì một xu hướng quan điểm tiêu cực. Như vậy, họ có thể giữ nguyên tiêu cực trong năm
2009. Sự hữu ích tổng thể của các dự báo là không lớn. . . mặc dù chúng đúng một phần về một số các
sự kiện tài chính quan trọng nhất trong 80 năm qua. .
Vì vậy, câu hỏi quan trọng không phải là "Thỉnh thoảng những nhà dự báo có đúng hay không?"
mà là "Các dự báo như toàn bộ hoặc bất kỳ một dự báo của cá nhân nào, có thống nhất hành động và
có giá trị?" Không ai nên đặt cược nhiều vào các câu trả lời là khẳng định.
Một dự báo của các cuộc khủng hoảng toàn cầu năm 2007-2008 đã có thể có giá trị tiềm năng lớn.
Nhưng nếu bạn thấy rằng nó đến từ một người không chính xác một cách nhất quán và một ai đó với
một sự thiên vị tiêu cực có thể nhìn thấy, liệu bạn sẽ hành động? Đó là những rắc rối với các nhà dự
báo không kiên định: không phải là họ không bao giờ đúng, mà do số liệu là không đủ tích cực để
truyền cảm hứng cho hành động trên thỉnh thoảng bộc phát của họ.

Không có gì bí mật khi tôi có một quan điểm hạn chế về các nhà dự báo và những người kiên
quyết tin vào họ. Trong thực tế, tôi đã đính nhãn cho những người này.

Hầu hết các nhà đầu tư tôi đã gặp trong những năm qua thuộc về trường phái "Tôi biết". Thật dễ
dàng để xác định họ.

• Họ nghĩ rằng hiểu biết về định hướng tương lai của nền kinh tế, lãi suất, thị trường cổ phiếu và
xu thế phổ biến là điều cần thiết cho sự thành công đầu tư.
• Họ tự tin có thể đạt được nó.
• Họ biết rằng họ có thể làm được.
• Họ biết rằng cũng có rất nhiều người khác đang cố gắng để làm điều đó, nhưng họ nhận ra hoặc
(a) tất cả mọi người có thể thành công cùng một lúc, hoặc (b) chỉ có một số ít có thể được, nhưng trong
số đó có họ.
• Họ cảm thấy thoải mái đầu tư dựa trên ý kiến của họ về tương lai.
• Họ cũng vui mừng chia sẻ quan điểm của mình với những người khác, mặc dù dự báo chính xác
mang giá trị lớn như vậy mà không ai có thể cung cấp cho họ miễn phí.
• Họ hiếm khi nhìn lại để nghiêm ngặt đánh giá dữ liệu của họ như dự báo.

Tự tin là từ khóa để mô tả những thành viên của trường phái này. Mặc khác, đối với trường phái
"tôi không biết", đặc biệt là khi giao dịch với các vĩ mô trong tương lai được bảo vệ. Tín đồ của nó
thường tin rằng bạn không thể biết trước tương lai; bạn không cần phải biết tương lai; và mục tiêu
đúng là thực hiện công việc tốt nhất có thể để đầu tư trong trường hợp không có kiến thức đó.
Là một thành viên của trường phái "Tôi biết", bạn có thể tỏ bày về tương lai (và có thể có những
người ghi chú). Bạn có thể tìm ra ý kiến của bạn và được coi là vị khách mời mong muốn. . . đặc biệt là
khi thị trường chứng khoán đang lên.
Tham gia vào trường phái "Tôi không biết" và kết quả được tổng hợp nhiều hơn nữa. Bạn sẽ sớm
chán nói câu "Tôi không biết" với bạn bè và cũng như người lạ. Sau một thời gian, thậm chí người thân
sẽ ngừng hỏi bạn nghĩ rằng thị trường đang diễn ra tới đâu. Bạn sẽ không bao giờ thưởng thức được
khoảnh khắc một trong một ngàn khi dự báo của bạn trở thành hiện thực và tờ Wall Street Journal cho
đăng hình của bạn. Mặt khác, bạn sẽ bị loại ra trong tất cả những lần khi dự báo bỏ lỡ cột mốc, cũng
như những tổn thất có thể là kết quả của việc đầu tư dựa trên kiến thức đánh giá quá chủ quan về tương
lai.
“Us and Them,” May 7, 2004
"Chúng ta và họ", ngày 07 tháng 5, 2004

Không ai thích phải đầu tư cho tương lai theo giả định rằng tương lai phần lớn là không thể biết.
Mặt khác, nếu có, chúng ta nên đối mặt với nó và tìm cách khác để đối phó hơn là thông qua các dự
báo. Dù là những hạn chế gì được áp đặt lên chúng ta trong thế giới đầu tư, luôn có rất nhiều cách tốt
hơn để nhận biết chúng hơn là chối bỏ và giả mạo chúng.
Ồ vâng, còn một điều khác: những vấn đề lớn nhất có xu hướng phát sinh khi các nhà đầu tư quên
đi sự khác biệt giữa xác suất và kết quả là, khi họ quên đi những giới hạn về sự biết trước:

• Khi họ tin rằng hình dạng của xác suất phân phối chắc chắn có khả năng biết ( và họ biết điều
đó)
• Khi họ phỏng đoán các kết quả có thể xảy ra nhất thì một trong số đó sẽ xảy ra.
• Khi họ phỏng đoán các kết quả được kỳ vọng mô tả chính xác các kết quả thực tế hoặc
• Có lẽ điều quan trọng nhất là, khi họ bỏ qua khả năng các kết quả không xảy ra.

Nhà đầu tư thiếu thận trọng, người bỏ qua những hạn chế này có xu hướng làm cho những sai lầm
trong danh mục đầu tư và kinh nghiệm của họ thường xuyên bị thua lỗ lớn. Đó là câu chuyện của
2004-2007: vì nhiều người đánh giá quá cao mức độ mà kết quả là có thể biết được và điều khiển được,
họ đã đánh giá thấp nguy cơ tiềm ẩn trong hành động của mình.

Câu hỏi liệu việc cố gắng dự đoán tương lai sẽ hoặc sẽ không có tác dụng không phải là một vấn
đề của sự tò mò nhàn rỗi hoặc mơ màng học thuật. Nó nên hoặc đã từng có hậu quả đáng kể cho các
hành vi đầu tư. Nếu bạn đang tham gia vào một hoạt động có liên quan đến quyết định với những hậu
quả trong tương lai, nó có vẻ hiển nhiên rõ ràng rằng bạn sẽ hành động theo cách mà bạn nghĩ rằng
tương lai có thể được nhìn thấy trước và theo một cách rất khác, nếu bạn nghĩ rằng nó không thể.

Một câu hỏi quan trọng mà nhà đầu tư cần phải trả lời là liệu họ nhìn tương lai như thể biết trước
hay không thể biết trước. Các nhà đầu tư mà cảm thấy họ biết những gì tương lai nắm giữ sẽ hành động
quả quyết: đánh cược có định hướng, tập trung vị trí, nắm giữ đòn bẩy và trông mong vào sự tăng
trưởng trong tương lai, nói cách khác, làm những việc mà trong trường hợp không biết trước sẽ làm
tăng nguy cơ. Mặt khác, những người cảm thấy họ không biết những gì tương lai nắm giữ sẽ hành
động khá khác nhau: đa dạng hóa, bảo hiểm rủi ro, tập trung đòn bẩy ít (hoặc không), nhấn mạnh giá trị
ngày nay qua sự phát triển của ngày mai, ở mức cao trong cơ cấu vốn, và nói chung là hạn chế một loạt
các hậu quả có thể.
Nhóm các nhà đầu tư đầu tiên đã làm tốt hơn nhiều trong những năm dẫn đến vụ suy sụp. Tuy
nhiên, nhóm thứ hai có sự chuẩn bị tốt hơn khi vụ suy sụp diễn ra, và họ đã có thêm vốn có sẵn (và tinh
thần vững vàng hơn) cùng với lợi nhuận từ mua hàng thực hiện tại điểm đen tối nhất.

“Touchstones,” November 10, 2009


“Những chuẩn mực”, 10 tháng 11, 2009

Nếu bạn biết trước tương lai, thật là ngớ ngẩn để chơi phòng thủ. Bạn nên có thái độ tích cực và
nhắm mục tiêu đến những người chiến thắng lớn nhất; có thể không có mất mát để sợ hãi. Đa dạng hóa
là không cần thiết, và đòn bẩy tối đa có thể được sử dụng. Trong thực tế, việc khiêm tốn quá mức về
những gì bạn biết có thể phát sinh chi phí cơ hội (lợi nhuận bị bỏ qua).
Mặt khác, nếu bạn không biết những gì tương lai nắm giữ, thật ngốc nghếch để hành động như bạn
muốn. Trở lại với Amos Tversky và các câu trích dẫn mở đầu chương này, kết luận đã khá rõ ràng.
Đầu tư vào một tương lai không thể biết đến như một bất khả tri là một viễn cảnh khó khăn, nhưng nếu
kiến thức dự báo là khó nắm bắt, đầu tư, nếu như bạn biết những gì đang đến gần như mất kiểm soát.
Có lẽ Mark Twain có mô tả tốt nhất: "Đó không phải là những gì bạn không biết đưa bạn vào rắc rối.
Đó là những gì bạn biết chắc chắn nhưng hóa ra nó không phải như vậy."
Việc đánh giá quá cao khả năng nhận biết của bạn và làm như thế có thể cực kỳ nguy hiểm, trong
phẫu thuật não, đua tàu biển hay đầu tư. Nhận thức được những giới hạn trong hiểu biết của mình và
làm việc trong những giới hạn đó tốt hơn là mạo hiểm, có thể đem lại cho bạn một lợi thế lớn.
15 Điều quan trọng nhất là . . . Có hiểu biết về chỗ ta đứng

Ta có thể chẳng bao giờ biết chúng ta đang đi đâu, nhưng tốt nhất là ta nên có một khái niệm rõ
ràng rằng chúng ta đang ở đâu.

Chu kì thị trường cho nhà đầu tư thấy những thử thách mà dễ khiến họ nản lòng, kiểu như:
• Những lúc thịnh, lúc suy là không thể tránh khỏi.
• Và chúng sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến phong độ của các nhà đầu tư như chúng ta.
• Chúng vô cùng khó đoán cả về mức độ và đặc biệt là thời điểm.

Vì vậy, chúng ta phải đương đầu với một thế lực sẽ có ảnh hưởng lớn nhưng lại rất bí ẩn và khó
đoán. Vậy sau đó, chúng ta phải làm gì với những chu kì đó? Câu hỏi này thực sự rất quan trọng,
nhưng câu trả lời rõ ràng – giống như thường lệ – lại không phải là câu trả lời chính xác.
Khả năng đầu tiên thường được chấp nhận đó là chu kì thị trường rất khó đoán, chúng là nên nỗ
lực gấp đôi để dự báo về tương lai, bổ sung thêm tài nguyên vào cuộc chiến và đánh cược nhiều hơn và
những kết luận của chúng ta. Nhưng một lượng thông tin đáng kể, và toàn bộ kinh nghiệm trước đây
của tôi, nói với tôi rang điều duy nhất chúng ta có thể dự đoán về chu kì đó là chúng chắc chắn sẽ xảy
ra. Hơn nữa, những kết quả ưu việt trong đầu tư thường đến từ hiểu biết nhiều hơn là những cái khác,
và điều tôi mong muốn vẫn chưa được chứng minh đó là rất nhiều người biết nhiều hơn số đông về
tính toàn thời điểm và mức độ của những chu kì tương lai.
Khả năng thứ hai đó là chấp nhận rằng tương lai không thể đoán trước, từ bỏ chuyện dự đoán, và
đơn giản là lờ đi các chu kì. Thay vì cố gắng dự đoán chúng, ta có thể thử tạo những khoản đầu tư tốt
và giữ gìn chúng.

Vì chúng ta không thể biết khi nào nên duy trì nhiều hơn hay là ít hơn các khoản đầu tư, hoặc khi
cách đầu tư của chúng ta nên trở nên hung hăng hơn hoặc an toàn hơn, chúng ta có thể đơn giản là đầu
tư mà không cần quan tâm đến những chu kì và ảnh hưởng sâu sắc của chúng. Cách tiếp cận này được
gọi là mua-và-giữ.
Có một khả năng thứ ba, tuy nhiên, theo quan điểm của tôi, khả năng này đúng với rất nhiều
trường hợp. Tại sao chúng ta không đơn giản là tìm hiểu chúng ta đang đứng ở đâu trong chu kì và
điều đó ảnh hưởng gì đến những hành động của chúng ta?

Trong thế giới đầu tư, . . . không có gì chắc chắn bằng các chu kì. Những nguyên tắc cơ bản, tâm lí
học, giá cả và lợi nhuận sẽ thịnh và suy, cho ta thấy những cơ hội để gây ra những sai lầm hoặc để lấy
lợi nhuận từ sai lầm của kẻ khác. Đó là những chân lí.
Chúng ta không biết một xu hướng sẽ đi xa đến đâu, khi nào thì nó dừng lại, cái gì sẽ khiến nó
dừng lại hoặc mọi chuyện sẽ đi xa đến đâu theo hướng ngược lại. Nhưng tôi tin chắc rằng mọi xu
hướng đều sẽ kết thúc dù sớm hay muộn. Không có gì là mãi mãi cả.
Thế thì, chúng ta nên làm gì với những chu kì đó? Nếu chúng ta không biết trước được như thế nào
và khi nào các điểm uốn sẽ xảy ra, làm thế nào để chúng ta đương đầu với chúng? Về vấn đề này, tôi
rất độc đoán: chúng ta có thể không bao giờ biết chúng ta đang đi đâu, những tốt nhất là chúng ta nên
nắm rõ chúng ta đang ở đâu. Vậy đó, kể cả khi chúng ta không thể dự đoán tính toán thời gian và mức
độ của những biến động theo chu kì, chúng ta rất cần phải phấn đấu để xác định vị trí của mình trong
chu kì và hành động theo đó.
“It Is What It Is,” March 27, 2006
“Nó là chính nó” 27 tháng Ba, 2006

Nó sẽ rất tuyệt khi có thể dự đoán thành công những đung đưa của quả lắc và luôn di chuyển theo
hướng thích hợp, nhưng đây rõ ràng là một mong ước không tưởng. Tôi thấy sẽ hợp lí hơn khi ta thử
(a) cảnh giác với những trường hợp đặc biệt khi thị trường đạt đến cực điểm, (b) điều chỉnh hành vi của
chúng ta để đáp lại và, (c) quan trọng nhất, từ chối tham gia vào hành vi đám đông mà đã khiến cho rất
nhiều các nhà đầu tư ra đi ở những lúc đỉnh điểm cao và thấp của thị trường.
“First Quarter Performance,” April 11, 1991
“Phong độ quý đầu tiên” 11 tháng Tư, 1991

Tôi không muốn gợi ra rằng nếu chúng ta có thể biết được ta đang đứng ở đâu trong một chu kì thì
chúng ta có thể biết chính xác được điều gì sẽ xảy ra kế tiếp. Nhưng tôi nghĩ rằng sự thông hiểu đấy sẽ
cho chúng ta những cái nhìn sâu sắc giá trị về những sự kiện trong tương lai và những gì chúng ta có
thể làm với chúng, và đó là tất cả những gì chúng ta có thể mong đợi.

Khi tôi nói rằng vị trí hiện tại (không phải tương lai) là có thể tìm hiểu được, tôi không có ý rằng
sự thông hiểu đấy sẽ tự đến. Giống như hầu hết tất cả mọi thứ trong đầu tư, nó cũng cần sự nỗ lực tìm
hiểu. Nhưng nó có thể làm được. Đây là một vài khái niệm tôi cho rằng là quan trọng trong vấn đề này.
Đầu tiên, chúng ta phải cảnh giác với cái gì đang diễn ra. Nhà triết học Santayana từng nói, “Kẻ
không ghi nhớ quá khứ sẽ bị buộc phải lặp lại nó.” Trong hầu hết các khía cạnh, tôi tin rằng ke nào
không biết chuyện gì đang diễn ra xung quanh hắn thì sẽ chắc chắn bị những thứ đó đánh cho ngập
mặt.
Cũng khó khăn như hiểu về tương lai, thật sự rất khó để thông hiểu về hiện tại. Điều chúng ta cần
làm đó là “đo nhiệt độ thị trường.” Nếu chúng ta cảnh giác và có nhận thức về nó, ta có thể đo lường
những hành vì của những thứ xunh quanh ta và từ đó quyết định xem chúng ta nên làm gì.
Nguyên liệu thiết yếu ở đây là suy luận, một trong những từ ưa thích của tôi. Tất cả mọi người đều
nhìn thấy cái gì xảy ra mỗi ngày, như được báo lại trên truyền thông. Nhưng có bao nhiêu người chịu
bỏ công sức ra để tim fhiểu những sự kiện hằng ngày đó nói lên điều gì về tâm lí của những người
tham gia thị trường, môi trường đầu từ, và từ đó, điều ta nên làm để đáp lại?
Rõ ràng là, chúng ta phải phấn đấu để hiểu được những ngầm ý về những gì đang xảy ra xung
quanh chúng ta. Khi người khác đang tự tin một cách bất cẩn và mua vào mạnh mẽ, chúng ta nên cảnh
giác cao độ; khi những kẻ khác đang hoảng hốt đến mức không thể làm gì hoặc hoảng loạn bán đi,
chúng ta nên trở nên hung hăng hơn trong mua vào.
Vì thế hãy nhìn xung quanh, và hỏi bản thân: Những nhà đầu tư nên lạc quan hay bi quan? Truyền
thông có tiêm nhiễm rằng ta nên tích trữ thị trường hay là tránh né? Những đề án đầu tư mới có dễ
dàng được chấp nhận hay sẽ bị bỏ qua ngoài tầm với? Những khoản dịch vụ trái phiếu và hiện kim
được mở ra sẽ được đón nhận như những cơ hội làm giàu hay có thể là những cạm bẫy? Chu kì tín
dụng liệu đã được cung cấp dễ dàng hay vẫn còn rất khó khăn để nhận được? Liệu rằng tỉ lệ giá cả/thu
nhập là cao hay thấp so với bối cảnh lịch sử, và liệu các sản phẩm đang được lan rộng khắt khe hay
rộng mở? Tất cả những điều đó đều quan trọng, và hiện tại thì chưa có gì trong số đó đòi hỏi công việc
dự báo. Chúng ta có thể đưa ra những khoản đầu tư xuất sắc dựa vào những quan sát thực tế cơ bản,
mà không cần dự đoán về tương lai.
Chìa khóa là để ý những thứ như thế và để chúng nói cho bạn biết bạn phải làm gì. Khi mà thị
trường đang đòi hỏi những hành động dựa vào những hệ thống đó hằng ngày, thì họ lại làm vậy chỉ
những lúc cực điểm của thị trường, khi mà sự cương quyết là cực kì quan trọng.

o
Những năm 2007-2008 có thể được nhìn nhận như một khoảng thời gian chua xót dành cho thị
trường và những người tham gia thị trường, hoặc là một bài học kinh nghiệm vĩ đại trong cuộc đời của
chúng ta. Nó là cả hai, chắc chắn rồi, nhưng nhấn mạnh vào cái phía trước sẽ không giúp gì nhiều.
Hiểu thêm như phần sau đã nói có thể giúp cho bất kì ai trở thành một nhà đầu tư giỏi hơn. Nhưng tôi
không thể nghĩ ra một ví dụ nào tốt hơn cuộc khủng hoảng tín dụng nghiêm trọng để minh họa về sự
quan trọng trong đưa ra quan sát chuẩn xác dựa trên thực tại và sự dại dột của việc cố gắng tiên đoán
tương lai. Đây đảm bảo sẽ là một cuộc thảo luận cụ thể ra trò.
Nó rất rõ ràng khi nhìn lại, khoảng thời gian dẫn đến cuộc khủng khoảng tài chính vào giữa năm
2007 là một trong những sự mạo hiểm mất kiểm soát và mất tỉnh táo nhất. Với thái độ bình tĩnh dối với
cổ phiếu và trái phiếu, tiền của trôi đến “khoản đầu tư thay thế’ như là tài sản cá nhân – mua lại – trong
một lượng vừa đủ để bắt họ phải nếm mùi thất bại. Đã có những sự chấp nhận mù quáng cho đề xuất
rằng nhà ở và các thể loại bất động sản khác sẽ đem lại lợi nhuận chắc chắn và làm giảm nhẹ bớt lạm
phát. Và quyền tiếp cận quá tự do vào vay vốn với lãi xuất thấp và những điều khoản lỏng lèo đã
khuyến khích tăng vay đến một lượng thái quá.
Nhận thức về rủi ro sau khi mọi chuyện đã rồi không giúp ích nhiều lắm. Câu hỏi ở đây là phải
chăng sự cảnh giác hay sự suy đoán sẽ giúp một người tránh hoàn toàn việc đụng độ với sự sụp đổ của
thị trường những năm 2007-2008. Đây là một số chỉ số nóng mà chúng ta đã nhìn thấy:

• Sự phát hành trái phiếu vật phẩm tần suất cao và những khoản nợ vay vốn dưới hạn mức đầu tư
đạt đến mức kỉ lục trên diện rộng.
• Một tỉ lệ phần trăm cao bất thường của sự phát hành mạnh của trái phiếu vật phẩm được đánh
giá ở mức “triple-C” (mức CCC), một mức độ về chất lượng mà những trái phiếu mới thường không
thể bán ra với số lượng lớn,
• Sự phát hành nợ để tăng tiền cổ tức cho chủ sở hữu đã trở thành thường lệ. Vào những thời
điểm bình thường, những giao dịch, tăng mức độ rủi ro của người vay và không ảnh hưởng đến chủ nợ,
như vậy, rất khó để thực hiện.
• Nợ được phát hành với phiếu giảm giá mà có thể được thanh toán bằng nhiều nợ hơn, và chỉ với
một số hoặc hoàn toàn không có khế ước nào để bảo vệ chủ nợ.
• Những đánh giá nợ “triple-A” (AAA) trước đó được đưa ra hàng nghìn một đợt bằng những
phương tiện có cấu trúc chưa được thử nghiệm.
• Những khoản mua lại được thực hiện để gia tăng thêm nguồn dòng tiền và tăng tỉ lệ nợ. Trung
bình thì, những công ty mua lại phải trả 50 phần trăm nhiều hơn cho mỗi đô-la trong dòng tiền vào
năm 2007 so với năm 2001.
• Có những khoản mua lại của các công ty trong các ngành công nghiệp chú trọng vào chu kì như
là sản xuất vật liệu bán dẫn. Vào những thời điểm đáng nghi ngờ hơn, những nhà đầu tư không đồng
tình việc kết hợp nợ và chu kì.

Xem xét tất cả những điều trên, có thể rõ ràng suy luận: rằng người cung cấp vốn phải cạnh tranh
để làm vậy, nới lỏng các điều khoản và lãi xuất hơn là yêu cầu sự bảo vệ thỏa đáng và những lợi ích
thu lại tiềm năng. Bảy chữ đáng sợ nhất trên thế giới đối với một nhà đầu tư chu đáo – too much money
chasing to few deals (quá nhiều tiền quá ít thương vụ) – đã đưa ra một lời mô tả lạ thường về khuynh
hướng điều kiện của thị trường.
Bạn có thể nhận ra khi quá nhiều tiền đang tranh nhau để được cho vay. Số lượng các vụ làm ăn
được thực hiện tăng lên, đồng nghĩa với việc thực hiện các thương vụ trở nên dễ dàng hơn; chi phí vốn
giảm xuống; và giá cả dành cho tài sản được mua tăng lên sau mỗi giao dịch thành công. Một dòng lũ
vốn đổ ra đã khiến điều đó xảy ra.

Nếu bạn chế tạo xe hơi và muốn bán được nhiều hơn trong một khoảng thời gian dài – đó chính là
việc, bạn lấy thêm những thị phần dài hạn từ các địch thủ – bạn sẽ cố gắng để làm sản phẩm của bạn
tốt hơn. . . . Đó chính là tại sao – bằng cách này hay cách khác – mà các tay bán hàng thường nói, “Sản
phẩm của chúng tôi tốt hơn.” Tuy nhiên, có những sản phẩm mà không thể phân biệt với nhau, và các
nhà kinh tế gọi đó là “commodities” (thông hóa/hàng hóa thông dụng). Chúng là những mặt hàng mà
không có đề nghị từ người bán nào khác người bán nào cả. Họ chỉ muốn cạnh tranh về giá cả, và mỗi
người mua sẽ muốn nhận lời chào mới với giá thấp nhất. Vì thế, nếu bạn đương đầu với một thông hóa
và muốn bán nhiều hơn, chỉ có một cách duy nhất là làm vậy: cắt giảm giá . . . .
Nó giúp bạn nghĩ là tiền chỉ giống như thông hóa, giống như mọi thứ khác. Tiền của tất cả mọi
người đều giống nhau. Vậy nhưng các tổ chức vẫn tìm cách để thêm vào lượng nợ, và các quỹ tài sản
cá nhân và những quỹ bị hạn chết tìm cách tăng chi phí, tất cả đều muốn tiến thêm bước nữa trong quá
trình. Vì thế nếu bạn muốn đặt thêm tiền – là kiểu, muốn mọi người đến với bạn thay vì đối thủ vì lí do
tài chính của họ – bạn phải làm tiền của bạn rẻ hơn.
Một cách để làm giảm giá tiền của bạn là bằng giảm lãi xuất bạn đặt lên các khoản vay. Một cách
thay thế nhẹ nhàng khác là đồng ý một giá cao hơn với nhưng mặt hàng bạn đang mua vào, ví dụ như
trả tỉ lệ giá/thu nhập cao hơn cho một cổ phiếu thông thường hoặc một giao dịch với giá cao hơn khi
bạn mua lại một công ty.

“The Race to the Bottom,” February 17, 2007


“Cuộc đua cho đến Đáy” 17 tháng Hai, 2007

Một xu hướng mà các nhà đầu tư có thể đã quan sát qua quãng thời gian hiểm nguy này, mà họ đã
cảnh giác, đó là sự chuyển động quanh khuôn khổ mà đi từ hoài nghi đến sự tin tưởng liên quan đến
cái mà tôi mô tả trước đó là viên đạn bạc hoặc khoản đầu tư không-thể-lỗ. Những nhà đầu tư chu đáo
có thể đã nhận ra rằng sự thèm muốn viên đạn bạc đang lên cao, nghĩa là tham lam đã chiến thắng sự
sự hãi và biểu hiện một thị trường không có hoài nghi, và cũng vô cùng rủi ro.
Quỹ đầu cơ được nhìn nhận giống như nó là một điều đương nhiên trong thập kỉ qua, và đặc biệt là
với những quỹ được gọi là “thu nhập chắc chắn”. Có một lượng quỹ dài/ngắn hoặc trao đổi chứng
khoán mà không theo đuổi lợi nhuận cao bằng cách chơi những ván cược “định hướng” theo xu hướng
của thị trường. Hơn nữa, kĩ năng hoặc công nghệ của các nhà quản lí cho phép họ có thể tạo ra một
lượng thu nhập cố định trong khoảng từ 8 đến 11 phần trăm bất kể vận động của thị trường.
Có quá ít người nhận ra rằng nhận được một khoản thu nhập chắc chắn trong khoảng đó là một
thành tích đáng ngạc nhiên – có lẽ là quá tốt để có thật. (Lưu ý: đó chính là thu nhập của Bernard
Madoff.) Quá ít người tự hỏi (a) có bao nhiêu người quản lí có đủ tài năng để tạo ra điều kì diệu đó,
đặc biệt là sau sự suy thoái của hệ thống quản lí trọng yếu và những chi phí khích lệ, (b) họ có thể làm
điều đó với bao nhiêu tiền và (c) những canh bạc tầm cao với những sự khác biệt nhỏ trong thống kê sẽ
đi xa như thế nào trong một môi trường thù địch. (Vào năm 2008 khốn khó, khái niệm absolute return
được cho thấy là đã bị dùng quá nhiều và dùng sai mục đích, và mức quỹ trung bình thiệt hại khoảng
18 phần trăm.)
Giống như đã được mô tả suốt chương 6, chúng tôi đã nghe nói rằng vào thời điểm đó, rủi ro đã
được triệt tiêu nhờ những điều diệu kì mới mẻ và phổ biến như chứng khoán, ra tiền theo đợt, bán hàng
tăng tiến, sự xóa bỏ và tách rời. Sự thay đổi trong việc tiêu tiền đáng nhận được một sự chú ý đáng kể
ở đây. Nó bao gồm việc định vị giá trị của khoản đầu tư và dòng tiền đối với các bên có liên quan theo
vô số tầng lớp thâm niên. Những người chủ của tầng lớp trên cùng được trả tiền trước; vì vậy, họ tận
hưởng sự an toàn và đảm bảo với thu nhập tương đối thấp. Những người ở tầng lớp dưới cùng được
cho là những người ở vị trí “thua thiệt đầu tiên”, và đổi lại cho việc chấp nhận rủi ro nhiều hơn, họ
được hưởng tiềm năng nhận được lợi nhuận cao từ số dư còn lại sau khi khoản cố định dành cho các
mức cao hơn đã được trả.

Vào những năm 2004-2007, một khái niệm nổi lên rằng nếu bạn chia rủi ro thành các mảnh nhỏ và
bán nó cho các nhà đầu tư phù hợp để giữ nó, rủi ro sẽ biến mất. Nghe như là phép thuật vậy. Vì vậy,
hoàn toàn không có gì trung hợp khi các đợt tiền chứng khoán được mong đợi rất nhiều trở thành nơi
của rất nhiều trong số những cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất: hoàn toàn không có phép màu trong đầu tư.
Quỹ lợi nhuận đảm bảo, vay vốn chi phí thấp, những khoản đầu tư bất động sản không rủi ro và
những phương tiện nợ thành phần là tất cả những cơn thịnh nộ ấy. Tất nhiên, sai lầm trong tất cả những
thứ đó trở nên rõ ràng vào đầu tháng 8 nắm 2007. Hóa ra là rủi ro không hề bị làm tan biến và, thực tế,
được nâng tầm bởi niềm tin thái quá và sự hoài nghi không thích hợp của các nhà đầu tư.
Khoảng thời gian từ 2004 đến giữa năm 2007 cho các nhà đầu tư thấy một trong những cơ hội lớn
nhất để vượt lên bằng cách giảm thiểu rủi ro, nếu như họ đủ tỉnh táo để nhận ra cái gì đang diễn ra và
đủ tự tin để hành động. Tất cả những gì bạn phải làm là đo nhiệt độ của thị trường trong một khoảng
thời gian nóng vượt ngưỡng và đi xuống khi mà nó tiếp tục đi lên. Những người có thể làm được điều
đó là ví dụ cho nguyên lí đi ngược xu hướng, đã được thảo luận ở chương 11. Những nhà đầu tư đi
được xu hướng là người đã cắt giảm rủi ro của họ và theo một cách khác, chuẩn bị trong suốt sự tiếp
tục của cuộc khủng hoảng, mất ít hơn vào cuộc sụp đổ năm 2008 và đạt được những vị trí tốt nhất để
tiếp nhận lợi thế trong thương vụ vĩ đại nhất mà nó tạo ra.

Có một vài khu vực mà những quyết định dựa vào chiến lược và chiến thuật không bị ảnh hưởng
bởi những gì chúng ta nhìn thấy ở môi trường. Áp lực của chúng ta lên chân ga là vô vàn, phụ thuộc
vào việc con đường trống không hay đông đúc. Như lựa chọn của người chơi golf phụ thuộc vào gió.
Quyết định của chúng ta dựa vào những yếu tố bên ngoài mà chắc chắn sẽ đa dạng như thời tiết. Liệu
những hành động đầu tư cảu chúng ta ảnh hưởng đều lên môi trường đầu tư?
Hầu hết mọi người đều phấn đấu để điều chỉnh khoản đầu tư dựa vào những gì họ nghĩ sẽ ở phía
trước. Cùng lúc, tuy nhiên, hầu hết mọi người đều thừa nhận sự rõ ràng của tương lai không thực sự rõ
ràng đến thế. Đó là vì sao tôi tạo ra phương phaops để đáp lại với thực tại và những suy đoán, đối
ngược với việc mong đợi tương lai được làm sáng tỏ.
Most people strive to adjust their portfolios based on what they think lies ahead. At the same time,
however, most people would admit forward visibility just isn’t that great. That’s why I make the case
for responding to the current realities and their implications, as opposed to expecting the future to be
made clear.
“It Is What It Is,” March 27, 2006
“Nó chính là nó” 27 tháng Ba 2006

HƯỚNG DẪN ĐÁNH GIÁ THỊ TRƯỜNG CỦA NGƯỜI ĐÀN ÔNG NGHÈO

Đây là một bài tập đơn giản có thể giúp bạn đo nhiệt độ cho thị trường trong tương lai. Tôi có một
danh sách các tính chất của thị trường. Với mỗi cặp, kiếm tra cái mà bạn nghĩ là mô tả đúng nhất về
ngày hôm nay. Và nếu bạn thấy hầu hết các dấu tích đều ở bên trái, giống như tôi, thì nhớ giữ chặt cái
ví của mình.

Nền kinh tế: Dễ rung động Trì trệ


Bề ngoài: Tích cực Tiêu cực

Người cho vay: Háo hức Kín kẽ


Thị trường vốn: Lỏng Chặt
Vốn: Nhiều Hiếm
Điều khoản: Dễ dàng Hạn chế
Mức lãi suất: Thấp Cao
Sự lan rộng: Hẹp Rộng
Các nhà đầu tư: Lạc quan Bi quan
Thoải mái Khốn cùng
Háo hức được mua Không hứng thú mua

Những chủ sở hữu tài Mừng được giữ Vội vã bán đi


sản:
Người bán: Ít Nhiều
Thị trường: Đông đúng Khát sự chú ý
Quỹ: Khó tìm lối vào Mở cửa cho tất cả
Cái mới ra mỗi ngày Chỉ có cái tốt nhất mới
gây quỹ được
Đối tác chính nắm giữ Đối tác bị hạn chế có
mọi chiến lược khả năng thương thuyết
Phong độ gần đây: Mạnh mẽ Yếu đuối
Giá tài sản: Cao Thấp
Lợi nhuận tiềm năng: Thấp Cao
Rủi ro: Cao Thấp
Những tính chất nổi
Hung hăng Cảnh giác và kỉ luật
bật:
Phong độ gần đây: Mạnh mẽ Yếu đuối
Giá tài sản: Cao Thấp
Vươn rộng Chọn lọc

“Nó chính là nó” 27 tháng Ba 2006


“It Is What It Is,” March 27, 2006

Thị trường chuyển động theo chu kì, lên và xuống. Con lắc dao động, hiếm khi dừng lại ở “khoảng
giữa hạnh phúc,” điểm giữa của quỹ đạo của nó. Đây có phải là một mầm mống hiểm nguy hay tiềm
năng cơ hội? Những nhà đầu tư phải làm gì với nó? Câu trả lời của tôi rất đơn giản: Cố tìm hiểu những
gì đang xảy ra quanh chúng ta và dùng nó để định hướng những hành động của chúng ta.
16 Điều Quan Trọng Nhất Là . . .Đánh Giá Vai Trò Của May
Mắn

Mỗi khi ai đó đặt cược mạo hiểm vào một kết quả không chắc chắn và kết thúc có vẻ như một
thiên tài. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng điều đó xảy ra vì may mắn và táo bạo, không phải kỹ năng.

Thế giới đầu tư không phải là một nơi có trật tự và logic nơi mà tương lai có thể dự đoán và hành
động cụ thể luôn tạo ra kết quả cụ thể. Sự thật là, nhiều trong việc đầu tư được thống trị bởi may mắn.
Một số người có thể muốn gọi nó là tình cờ hay ngẫu nhiên, và những từ đó nghe phức tạp hơn nhiều
so với may mắn. Nhưng nó chỉ cùng một điều: rất nhiều sự thành công của mọi thứ chúng ta cũng như
các nhà đầu tư đạt được sẽ bị ảnh hưởng nặng nề bởi các vòng quay xúc sắc.
Để tìm hiểu đầy đủ các khái niệm may mắn, trong chương này, tôi muốn cải tiến một số ý tưởng
được Nassim Nicholas Taleb nêu ra trong cuốn sách Bị lừa bởi Ngẫu nhiên của ông. Một số khái niệm
tôi khám phá ở đây xảy ra với tôi trước khi tôi đọc nó, nhưng cuốn sách Taleb đặt tất cả cùng nhau và
thêm nhiều hơn nữa. Tôi coi nó như một trong những cuốn sách quan trọng nhất mà một nhà đầu tư có
thể đọc. Tôi mượn một số ý tưởng Taleb cho 2002 bản ghi nhớ với tựa đề "Lợi Nhuận và Cách Họ Đạt
Được", những thứ kết hợp các trích đoạn từ Bị lừa bởi Ngẫu nhiên, được đại diện ở đây bằng chữ in
nghiêng.

Ngẫu nhiên (hay may mắn) đóng một vai trò rất lớn trong cuộc sống, và những kết quả xoay quanh
các sự kiện ngẫu nhiên nên được xem như là khác với những thứ không như thế.

Vì vậy, khi xem xét một hồ sơ đầu tư có thể được lặp đi lặp lại, nó là điều cần thiết để suy nghĩ về
vai trò của ngẫu nhiên trong kết quả của người quản lý, và liệu kết quả đạt được từ kỹ năng hay chỉ
đơn giản là may mắn.

10.000.000 $ kiếm được thông qua roulette Nga không có giá trị như 10.000.000$ kiếm được
thông qua việc thực hành siêng năng và khéo léo của nghề nha khoa. Họ đều giống nhau, có thể mua
các mặt hàng tương tự, ngoại trừ sự phụ thuộc vào may mắn của một người nhiều hơn người khác. Tuy
nhiên đối với kế toán viên của bạn, họ sẽ giống hệt nhau. . . . Nhưng, trong sâu thẳm, tôi không thể
không xem chúng có bản chất khác nhau.

Mỗi hồ sơ phải được xem xét trong phương diện của các kết quả khác-Taleb gọi chúng là "lịch sử
thay thế" -điều đó có thể đã xảy ra một cách dễ dàng như là "lịch sử có thể nhìn thấy" đã làm.

Rõ ràng cách của tôi về vấn đề đánh giá là xác suất trong tự nhiên; nó dựa trên khái niệm về
những gì có thể đã xảy ra. . . .
Nếu chúng ta đã nghe nói về [những vị tướng và những nhà phát minh vĩ đại trong lịch sử], nó chỉ
đơn giản là vì họ đã trải qua những rủi ro đáng kể, cùng với hàng nghìn người khác, và đã giành
chiến thắng. Họ thông minh, dũng cảm, cao thượng (tại nhiều thời điểm), đã có nền văn hóa cao nhất
có thể trong thời đại của họ -nhưng cũng đã có hàng ngàn người khác sống trong các chú thích cũ kỹ
của lịch sử.

Mỗi một lần ai đó thực hiện một đặt cược mạo hiểm vào một kết quả có thể xảy ra hoặc không
chắc chắn và kết thúc trông như một thiên tài. Nhưng chúng ta phải thừa nhận rằng nó đã xảy ra vì may
mắn và sự táo bạo, không phải kỹ năng.
Hãy nghĩ về những người chơi backgammon tích cực người không thể giành chiến thắng mà không
cần một cặp mặt sáu, với xác suất xảy ra của nó là một trong ba sáu khả năng của con súc sắc. Những
người chơi chấp nhận các hình lập phương tăng gấp đôi cổ phần và nhận toa hàng của mình. Đó có thể
là một đặt cược không khôn ngoan, nhưng vì nó đã thành công, ai cũng coi đó là các người chơi tuyệt
vời. Chúng ta nên suy nghĩ về làm thế nào có thể xảy ra đó là một cái gì đó khác đôi mặt sáu sẽ thành
hiện thực, và do đó làm thế nào may mắn là cầu thủ đã chiến thắng. Điều này nói lên rất nhiều về khả
năng của người chơi chiến thắng một lần nữa. . . .

Trong ngắn hạn, rất nhiều đầu tư thành công có thể do chỉ là ở đúng nơi vào đúng thời điểm. Tôi
luôn luôn nói những chìa khóa để lợi nhuận là công kích, thời gian và kỹ năng, và một người công kích
đủ vào đúng thời điểm không cần nhiều kỹ năng.

Tại một thời điểm nhất định trong thị trường, các nhà kinh doanh lợi nhuận cao nhất có thể sẽ là
những người được tốt nhất phù hợp với chu kỳ mới nhất. Điều này không xảy ra quá thường xuyên với
các nha sĩ hay nghệ sĩ piano bởi có may mắn tự nhiên.

Cách dễ dàng để thấy điều này là trong thời kỳ bùng nổ, lợi nhuận cao nhất thường đến những
người có nguy cơ nhất. Điều đó không nói bất cứ điều gì về việc họ đầu tư tốt nhất.
Phụ lục của Nhà đầu tư thông thái của Warren Buffett phiên bản sửa đổi thứ tư mô tả một cuộc thi
trong đó mỗi người trong 225 triệu người Mỹ bắt đầu với 1$ và tung một đồng xu mỗi ngày một lần.
Những người thắng ngay trong ngày đầu tiên nhận một đô la từ những người đã sai và tung tiếp vào
ngày thứ hai, và vv. Mười ngày sau đó, 220.000 người đã gọi nó là đúng mười lần liên tiếp và giành
được 1.000 $. “Họ có thể cố gắng khiêm tốn, nhưng các bữa tiệc cocktail họ sẽ thường xuyên nhận các
thành viên khác giới hấp dẫn kỹ thuật của họ là gì, và những hiểu biết tuyệt vời mà họ mang đến các
lĩnh vực của tung đồng xu.” Sau khi thêm mười ngày, chúng tôi đang còn đến 215 người sống sót đã
đúng 20 lần liên tiếp và mỗi người giành được 1.000.000 $. Họ viết sách có tựa đề Tôi Đã Biến Một Đô
Thành Một Triệu Đô Trong Hai Mươi Ngày Làm Việc Ba Mươi Giây Mỗi Buổi Sáng Như Thế Nào và
bán vé cho các buổi hội thảo. Nghe có vẻ quen?
Như vậy, tính ngẫu nhiên góp phần hồ sơ đầu tư (hoặc sự sụp đổ) đến một mức độ mà ít người
đánh giá đầy đủ. Kết quả là, những nguy hiểm ẩn nấp trong các chiến lược -rời xa-thành công-như vậy
thường là đánh giá thấp.
Có lẽ cách tốt để tổng hợp các quan điểm của Taleb bằng đoạn trích từ một bảng trong cuốn sách
của ông. Ông liệt kê trong cột đầu tiên một số điều mà có thể dễ dàng bị nhầm lẫn với những thứ ở cột
thứ hai.

May mắn Kỹ năng


Sự ngẫu nhiên Thuyết quyết định
Xác suất Chắc chắn
Lòng tin, ước đoán Kiến thức, Sự chắc chắn
Lý thuyết Thực tế
Giai thoại, sự trùng khớp Nhân quả, quy luật
Kẻ sống sót Tốt hơn thị trường
Kẻ khờ may mắn Nhà đầu tư có kỹ năng

Tôi nghĩ sự phân chia này là tuyệt đối sáng suốt. Chúng ta đều biết rằng khi mọi thứ đi đúng, may
mắn trông giống như kỹ năng. Sự trùng hợp trông giống như quan hệ nhân quả. Một “kẻ khờ may mắn”
trông giống như một nhà đầu tư có kỹ năng. Tất nhiên, biết ngẫu nhiên mà có thể có hiệu ứng này
không làm cho nó dễ dàng để phân biệt giữa nhà đầu tư may mắn và nhà đầu tư khéo léo. Nhưng chúng
ta phải tiếp tục cố gắng.
Tôi thấy rằng tôi đồng ý với bản chất tất cả các điểm quan trọng của Taleb.
• Nhà đầu tư là đúng (sai) tất cả thời gian cho “lý do sai lầm”.Ai đó mua một cổ phiếu vì ông ấy
hoặc bà ấy mong đợi một sự phát triển nhất định; nó không xảy ra; dù sao thị trường cũng đưa cổ phiếu
lên; các nhà đầu tư có vẻ tốt (và luôn chấp nhận ghi nợ).
• Sự đúng đắn của một quyết định không thể đánh giá từ kết quả. Tuy nhiên, đó là cách mọi người
đánh giá nó. Một quyết định tốt là một lựa chọn tối ưu tại thời điểm được tạo ra, trong khi tương lai thì
không định nghĩa được. Vì vậy, quyết định đúng thường không thành công, và ngược lại.
• Ngẫu nhiên đơn lẻ chỉ có thể tạo ra kết quả nào đó trong ngắn hạn. Trong danh mục đầu tư được
phép phản ánh hoàn toàn, biến động thị trường có thể dễ dàng tràn ngập sự khéo léo của các quản lý
(hoặc thiếu việc ấy). Nhưng chắc chắn là biến động thị trường không thể ghi nợ cho người quản lý (trừ
khi người đó hẹn giờ thị trường hiếm người có khả năng nắm bắt nó đúng nhiều lần).
• Đối với những lý do này, các nhà đầu tư thường nhận được ghi nợ mà họ không xứng đang. Một
việc làm táo bạo tốt có thể đủ để xây dựng một danh tiếng, nhưng rõ ràng là một việc làm táo bạo có
thể xảy ra ngẫu nhiên đơn lẻ. Rất ít trong số những "thiên tài" đúng hơn một hoặc hai lần trong một
hàng.
• Vì vậy, cần có một số lượng lớn các quan sát- dữ liệu của nhiều năm- trước khi đánh giá khả
năng của một người quản lý.

“Returns and How They Get That Way,” - November 11, 2002
"Lợi Nhuận và Cách Họ Đạt Được" - 11 Tháng 11,2002
o

Ý tưởng của Taleb về "lịch sử thay thế" - những thứ khác mà hợp lý có thể xảy ra của Taleb-là một
khái niệm hấp dẫn, và một trong đó đặc biệt liên quan đến đầu tư.
Hầu hết mọi người thừa nhận tương lai thì không chắc chắn, nhưng ít nhất họ cảm thấy rằng quá
khứ đã biết và cố định. Sau tất cả, quá khứ là lịch sử, tuyệt đối và bất biến. Nhưng Taleb đã chỉ ra rằng
những việc đã xảy ra chỉ một phần nhỏ của những gì có thể đã xảy ra. Như vậy, thực tế là một chiến
lược hoặc hành động đã làm-theo hoàn cảnh mà mở ra-không nhất thiết phải chứng minh quyết định
đằng sau nó là khôn ngoan.
Có lẽ những gì không hợp thời đã tạo ra một quyết định thành công hoàn toàn không giống sự kiện,
một cái gì đó chỉ là vấn đề của may mắn. Trong trường hợp đó mà ra quyết định thành công như nó bật
ra được, có thể là không khôn ngoan, và nhiều lịch sử khác có thể xảy ra sẽ chỉ ra các lỗi của các quyết
định.
Bao nhiêu tín dụng cần một quyết định nhận được cho việc đặt cược vào một kết quả rất không
chắc chắn rằng mở ra may mắn? Đây là một câu hỏi hay, và nó xứng đáng để được xem xét kỹ lưỡng.
Một trong những điều đầu tiên tôi nhớ học tập sau khi vào Wharton năm 1963 là chất lượng của
một quyết định không được quyết định bởi kết quả. Các sự kiện mà toát mồ hôi sau đó đưa ra quyết
định thành công hay không, và những sự kiện thường vượt ra ngoài dự đoán. Ý tưởng này đã tăng
cường mạnh mẽ khi tôi đọc cuốn sách của Taleb. Ông nhấn mạnh khả năng xuất hiện cơ hội để thưởng
cho những quyết định khôn ngoan, và trừng phạt những người tốt. một quyết định tốt là gì? Hãy nói
rằng ai đó quyết định xây dựng một khu trượt tuyết ở Miami, và ba tháng sau một trận bão tuyết kỳ
quái đổ bộ vào phía nam Florida, lớp tuyết dày 12 feet. Trong mùa giải đầu tiên của mình, khu trượt
tuyết biến một lợi nhuận lớn. Điều đó có nghĩa là xây dựng nó là một quyết định tốt? Không.
Một quyết định tốt là một điều một người hợp lý, thông minh và thông báo sẽ thực hiện trong các
trường hợp khi chúng xuất hiện vào thời điểm trước kết quả đã được biết đến. Theo tiêu chuẩn đó, các
khu nghỉ mát trượt tuyết Miami trông như điên dại.
Với nguy cơ thua lỗ, nhiều điều sẽ chịu về sự đúng đắn của một quyết định không thể biết được
hoặc định lượng trước. Ngay cả sau khi thực tế, nó khó có thể được chắc chắn những người đưa ra
quyết định tốt dựa trên phân tích vững chắc nhưng đã bị trừng phạt bởi một sự xuất hiện quái dị, và
những người được hưởng lợi từ một tờ rơi. Vì vậy, nó có thể được khó để biết ai đã thực hiện quyết
định tốt nhất. Mặt khác, lợi nhuận quá khứ có thể dễ dàng đánh giá, làm cho nó dễ dàng để biết ai đã ra
quyết định có lợi nhất. Thật dễ nhầm lẫn hai thứ, nhưng các nhà đầu tư sâu sắc phải hiểu rõ về sự khác
biệt.
Về lâu dài, không có sự thay thế hợp lý để tin rằng những quyết định tốt sẽ dẫn đến lợi nhuận đầu
tư. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, chúng ta phải kiên nhẫn khi chúng không thế.
o

Kể từ khi các nhà đầu tư của trường phái “Tôi biết”, được mô tả trong chương 14, cảm thấy có thể
biết trước tương lai, họ quyết định những gì nó sẽ giống như thế, xây dựng danh mục đầu tư thiết kế để
tối đa hóa lợi nhuận theo đó một kịch bản, và phần lớn xem thường các khả năng khác. Các tối ưu của
trường phái“tôi không biết”, mặt khác, đã nhấn mạnh vào những danh mục đầu tư xây dựng sẽ làm tốt
trong những tình huống mà họ cho là có khả năng và không quá kém trong phần còn lại. Nhà đầu tư
thuộc về phái “Tôi biết”dự đoán thế nào các con xúc xắc sẽ đi lên, thuộc tính thành công của họ để
cảm giác sắc sảo của họ về tương lai, và đổ lỗi cho may mắn khi mọi thứ không đi theo con đường của
họ. Khi họ nói đúng, câu hỏi mà đã được hỏi là "có thể họ thực sự đã nhìn thấy tương lai hay họ không
thể?" Bởi vì phương pháp của họ là xác suất, các nhà đầu tư của trường phái “tôi không biết” hiểu rằng
kết quả là phần lớn phụ thuộc vào các vị thần, và do đó tín dụng hay đổ lỗi cho các nhà đầu tư, đặc biệt
là trong ngắn hạn nên được hạn chế một cách thích hợp.
Trường phái “Tôi biết” một cách nhanh chóng và tự tin chia các thành viên thành người thắng và
kẻ thua dựa vào một hoặc hai lần gieo đầu tiên của con xúc xắc. Các nhà đầu tư của trường: “Tôi
không biết” hiểu rằng kỹ năng của họ nên được đánh giá trên một số lượng lớn các lần gieo, không chỉ
là một (và những lần gieo có thể ít và ít thăm viếng). Vì vậy, họ chấp nhận thận trọng rằng, tối ưu cách
tiếp cận của họ có thể tạo ra kết quả tầm thường trong một thời gian, nhưng chúng tôi tự tin rằng nếu
họ đầu tư vượt trội, mà sẽ được rõ ràng trong thời gian dài.
Lợi ích ngắn hạn và các khoản lỗ ngắn hạn là kẻ lừa đảo tiềm tàng, là không nhất thiết phải là biểu
hiện của khả năng đầu tư thực sự (hoặc thiếu việc ấy).
Đáng ngạc nhiên là lợi nhuận tốt thường chỉ là mặt trái của lợi nhuận xấu đáng kinh ngạc. Một
năm với lợi nhuận tuyệt vời có thể phóng đại kỹ năng của người quản lý và làm mờ các nguy cơ anh ta
hoặc cô ta đã nhận phải.Lúc này, mọi người đều ngạc nhiên khi mà theo sau năm tuyệt vời đó là một
năm khủng khiếp.
Các nhà đầu tư luôn không quan sát một thực tế rằng cả lợi ích ngắn hạn và các khoản lỗ ngắn hạn
có thể là kẻ mạo danh, và tầm quan trọng của đào sâu để hiểu những gì ẩn dưới chúng.
Thành quả đầu tư là những gì xảy ra với một danh mục đầu tư khi biến cố diễn ra. Mọi người phải
chú trọng rất lớn đến hiệu suất kết quả, nhưng những câu hỏi họ nên hỏi là, các biến cố đã xảy ra (và
các khả năng khác đã không xảy ra) thật sự có trong phạm vi hiểu biết của người quản lý danh mục đầu
tư? Và hiệu suất có được là gì nếu các sự kiện khác đã xảy ra để thay thế? Những sự kiện khác là "lịch
sử thay thế”
“Pigweed”, tháng 12, 2006
o

Tôi thấy những ý tưởng của Taleb mới lạ và kích khích. Một khi bạn nhận ra mức độ rộng lớn mà
ngẫu nhiên có thể ảnh hưởng đến kết quả đầu tư, bạn nhìn mọi thứ trong một phương diện rất khác biệt.
Những hành động của trường phái "Tôi biết" được dựa trên quan điểm của một tương lai duy nhất
đó là có thể biết và chinh phục. Trường phái "Tôi không biết" của tôi nghĩ về các sự kiện tương lai
trong giới hạn của một phân bố xác suất. Đó là một sự khác biệt lớn. Trong trường hợp sau, chúng tôi
có thể có một ý tưởng mà một trong những kết quả rất có thể xảy ra, nhưng chúng tôi cũng biết có rất
nhiều khả năng khác, và những kết quả khác có thể có một khả năng chung cao hơn nhiều so với một
thứ chúng ta coi là có khả năng nhất.
Rõ ràng, quan điểm của Taleb về một thế giới bất định thì phụ hợp hơn với tôi. Tất cả mọi thứ tôi
tin tưởng và đề nghị về đầu tư xuất phát từ trường phái tư tưởng đó.
• Chúng ta nên dành nhiều thời gian để cố gắng tìm thấy giá trị trong các ngành công nghiệp có thể
nhận thức được, các công ty và các chứng khoán, chứ không phải trên cơ sở các quyết định của chúng
ta về những gì chúng ta mong đợi từ thế giới vĩ mô ít nhận thức được của các nền kinh tế và hiệu suất
thị trường rộng lớn.
• Cho rằng chúng ta không biết chính xác tương lai nào sẽ xảy ra, chúng ta phải có được giá trị về
phía chúng ta bằng việc có một tổ chức mạnh mẽ, phân tích nguồn gốc ý kiến của nó và mua ít khi các
cơ hội thể hiện khả năng của chúng.
• Chúng ta phải thực hành đầu tư phòng thủ, vì nhiều kết quả có khả năng chống lại chúng ta. Điều
quan trọng để đảm bảo sự tồn tại theo những kết quả tiêu cực hơn là để đảm bảo lợi nhuận tối đa theo
một kết quả thuận lợi nhất.
• Để cải thiện cơ hội thành công của chúng ta, chúng ta phải nhấn mạnh hành động ngược lại đám
đông khi nó ở cực độ, tích cực khi thị trường là thấp và thận trọng khi nó cao.
• Do tính chất rất không xác định các kết quả, chúng ta phải xem chiến lược và các kết quả của họ-
cả tốt và xấu- với sự nghi ngờ cho đến khi chứng minh trên một số lượng lớn các thử nghiệm.

Một vài thứ đi cùng nhau cho những người xem thế giới như một nơi không chắc chắn : xem trọng
rủi ro một cách đầy đủ; nhận thức rằng chúng ta không biết những gì tương lai nắm giữ; một sự hiểu
biết tốt nhất chúng tôi có thể làm là xem tương lai như một phân bố xác suất và đầu tư phù hợp; kiên
quyết đầu tư phòng thủ; và chú trọng phòng tránh cạm bẫy. Đối với tôi đó là tất cả những gì về đầu tư
thấu đáo.
17. Điều quan trọng nhất là …Đầu tư phòng thủ (thận
trọng)
Có những nhà đầu tư lão luyện, lâu năm, có những nhà đầu tư mạo hiểm nhưng
không có nhà đầu tư nào mà làm lâu năm nhưng vẫn đầu tư mạo hiểm.

Khi nhiều bạn bè hỏi để được tư vấn cá nhân về đầu tư, bước đầu tiên tôi làm là cố gắng để hiểu
được thái độ của họ đối với rủi ro và lợi nhuận. Việc xin tư vấn về đầu tư mà không xác định mọi việc
rõ ràng thì cũng giống như yêu cầu một bác sĩ cho một loại thuốc tốt mà không nói với bác sĩ bạn bị
bệnh gì.

Vì vậy, tôi hỏi “Điều gì khiến bạn quan tâm nhiều hơn, kiếm tiền hay tránh tổn thất?" Câu trả lời là
luôn luôn giống nhau: cả hai. Vấn đề là bạn không thể cùng một lúc đạt được cả hai mong muốn là vừa
tạo ra lợi nhuận vừa tránh thua lỗ.
Mỗi nhà đầu tư phải xác định một vị trí liên quan đến hai mục tiêu này, và thường đòi hỏi phải có
được sự cân bằng hợp lý. Quyết định này cần được thực hiện một cách tỉnh táo và khôn ngoan. Chương
này nói về sự lựa chọn… và bình luận của tôi.
Cách tốt nhất để vận dụng quyết định này vào bối cảnh là nghĩ về việc đầu tư phòng thủ hay tấn
công. Và một trong những cách tốt nhất để xem xét việc này là thông qua phép ẩn dụ của thể thao.
Để thiết lập nền móng cho cuộc thảo luận này, tôi sẽ trích dẫn bài viết tuyệt vời của Charles Ellis,
có tựa đề “The Loser’s Game” (Trò chơi của người thua cuộc), mà đã xuất hiện trong Tạp chí phân tích
tài chính năm 1975. Điều này có thể đã là sự khám phá đầu tiên của tôi về sự giống nhau hoàn toàn
giữa đầu tư và các môn thể thao, và dĩ nhiên nó đã ảnh hưởng sâu sắc đối với sự nhấn mạnh của tôi về
vấn đề đầu tư phòng thủ.

Bài báo của Charley đã mô tả các phân tích sâu sắc của quần vợt được viết trong cuốn
“Extraordinary Tennis for Ordinary Tennis Player” (Quần vợt phi thường cho người chơi bình thường”
của Tiến sĩ Simon Ramo, chữ “R” trong TRW (Thompson Ramo Wooldridge), một tập đoàn với nhiều
sản phẩm khác nhau, từ các bộ phận tự động tới các dịch vụ báo cáo tín dụng. Ramo chỉ ra rằng quần
vợt chuyên nghiệp là một “trò chơi của người chiến thắng”, trong đó trận đấu sẽ xướng tên cầu thủ
người mà có khả đạt tới những mục tiêu cao nhất: những pha đánh bóng nhanh và chuẩn xác mà đối
thủ không thể cản phá và chống trả.
Không có cứ điều gì khác cụ thể hơn là một chiến thắng thuyết phục bởi vì một đối thủ, tay vợt
chuyên nghiệp có thể thực hiện một pha bóng như họ muốn gần như tất cả mọi lúc: dù là mạnh hay nhẹ,
đường bóng dài hay ngắn, đánh sang trái hay phải, đánh thẳng hay đánh vòng… Những tay vợt chuyên
nghiệp sẽ không gặp rắc rối bởi những điều mà đang thách thức những tay vợt nghiệp dư như: pha
chuyền bóng xấu; gió; ánh nắng mặt trời; sự hạn chế về tốc độ, sức chịu đựng và kỹ năng; hoặc những
nỗ lực của đối thủ để đánh bóng vượt qua tầm với. Những tay vợt chuyên nghiệp có thể đỡ được hầu
hết pha bóng mà đối thủ của họ đánh và làm điều họ muốn với trái bóng trong hầu hết thời gian. Trong
thực tế, các tay vợt chuyên nghiệp có thể làm điều này liên tục và các nhà thống kê bóng sẽ theo dõi
các trường hợp ngoại lệ tương đối hiếm dưới tiêu đề “lỗi đánh bóng hỏng”.
Nhưng việc chơi quần vợt đối với những người còn lại đều là “trò chơi của người thua cuộc” với
trận đấu đang gọi tên cầu thủ người mà cố gắng để thua ít nhất. Người thắng cuộc chỉ giữ bóng trong
trận đầu cho đến khi người chơi đánh bóng chạm lưới hoặc ra ngoài sân đấu. Nói cách khác, trong
quần vợt nghiệp dư họ đã mất điểm chứ không giành được điểm. Tôi thừa nhận rằng chiến lược tránh
thua lỗ của Ramo giống như phiên bản của quần vợt tôi cố gắng để chơi.
Charley Ellis đã lấy ý tưởng của Ramo như một bước tiến xa hơn cái mà đang áp dụng vào các
khoản đầu tư. Quan điểm của ông về sự hiệu quả của thị trường và chi phí cao của giao dịch đã đưa
ông đến kết luận rằng việc theo đuổi chiến thắng trong những thị trường chứng khoán chủ đạo thì
không giống như trả lãi cho nhà đầu tư. Thay vào đó, bạn nên cố gắng tránh việc trở thành kẻ thua cuộc.
Tôi thấy quan điểm này của đầu tư là hoàn toàn thuyết phục.
Sự lựa chọn giữa đầu tư phòng thủ và đầu tư tấn công phải được dựa trên mức độ mà các nhà đầu
tư tin rằng nó nằm trong tầm kiểm soát của mình. Theo quan điểm của tôi, đầu tư bao gồm rất nhiều
điều mà các nhà đầu tư không thể kiểm soát.

Những tay vợt chuyên nghiệp có thể khá chắc chắn rằng mọi lần nếu bàn chân, cơ thể, cánh tay và
vợt của họ là A, B, C và D, trái bóng sẽ là E; có tương đối ít các biến ngẫu nhiên trong công việc.
Nhưng đầu tư lại có đầy đủ các đường chuyền xấu và những diễn biến không lường trước được, và
kích thước của sân và chiều cao của lưới thì luôn thay đổi. Các hoạt động của nền kinh tế và thị trường
đang rất biến động và thiếu chính xác, và những suy nghĩ và hành vi của các người chơi khác liên tục
làm thay đổi hoàn cảnh. Thậm chí nếu bạn làm đúng tất cả mọi thứ, các nhà đầu tư khác có thể bỏ qua
cổ phiếu ưa thích của bạn; sự quản lý có thể phung phí cơ hội của công ty; Chính phủ có thể thay đổi
các quy tắc, luật lệ; hoặc tự nhiên có thể gây lên một thảm họa.

Rất nhiều thứ nằm trong sự kiểm soát của những tay vợt chuyên nghiệp mà họ thực sự nên làm để
trở thành người chiến thắng. Và họ muốn làm tốt hơn, vì nếu họ đánh một pha bóng đơn giản, đối thủ
của họ sẽ giành được chiến thắng và ghi điểm. Ngược lại, kết quả đầu tư là chỉ nằm một phần trong
vòng kiểm soát của chủ đầu tư và các nhà đầu tư có thể kiếm được nhiều tiền và tồn tại lâu hơn các đối
thủ, mà không cần thử những pha bóng khó khăn.
Điểm mấu chốt là ngay cả các nhà đầu tư lão luyện có thể phải chịu trách nhiệm cho những lần bỏ
lỡ cơ hội, và những pha bóng quá hiếu chiến có thể dễ dàng khiến họ bại trận. Do đó, phòng thủ - sự
nhấn mạng quan trọng để giữ mọi thứ đi đúng hướng - là một phần quan trọng trong trò chơi của mỗi
nhà đầu tư vĩ đại.
O

Có rất nhiều điều về đầu tư mà tôi thích và phần lớn nó cũng đúng trong thể thao.
 Đó là cạnh tranh - một vài thành công và một vài thất bại, và sự phân biệt rất rõ ràng.
 Đó là định lượng - bạn có thể xem những kết quả trong bức tranh đen trắng.
 Đó là một chế độ nhân tài - trong dài hạn, các nhà đầu tư vượt trội sẽ đạt được lợi nhuận
tốt hơn.
 Đó là đội ngũ đã được định hướng - một nhóm hiệu quả có thể thực hiện và đạt được
nhiều hơn một người.
 Đó là thỏa mãn và thú vị - nhưng nó sẽ nhiều hơn thế nữa khi bạn giành chiến thắng.
Những mặt tích cực có thể làm cho các nhà đầu tư rất vui lòng để tham gia. Nhưng cũng như trong
thể thao, cũng có 1 vài mặt tiêu cực.
 Có thể có 1 khoản phí bảo hiểm cho sự gây hấn, mà không có lợi trong thời gian dài.
 Những đường chuyền không may mắn có thể gây bực bội
 Sự thành công ngắn hạn có thể dẫn đến sự công nhận rộng rãi mà không đủ sự chú ý đến
độ bền và tính nhất quán của kỉ lục.
Nói chung, tôi nghĩ rằng đầu tư và các môn thể thao khá giống nhau, và đó cũng là những quyết
định mà họ cần.

Hãy suy nghĩ về một trò chơi bóng đá Mỹ. Đội tấn công đã có bóng. Họ có bốn lần cố gắng để đưa
bóng đi 10 thước. Nếu họ không làm được, trọng tài sẽ thổi còi. Đồng hồ sẽ dừng lại. Họ rời khỏi vị trí
tấn công và trở thành phòng thủ, công việc của họ là để ngăn chặn các đội khác tiến bóng. Liệu túc cầu
có phải là một phép ẩn dụ điển hình cho quan điểm của bạn về việc đầu tư hay không? Vâng, tôi sẽ nói
cho bạn, nó không phải dành cho tôi. Trong đầu tư không có ai ở đó để thổi còi; bạn hiếm khi biết
được khi nào thì chuyển từ tấn công sang phòng thủ; và không có bất kỳ giới hạn thời gian nào để làm
điều đó. Không, tôi nghĩ đầu tư là giống như “túc cầu” mà chơi bên ngoài Hoa Kỳ - đó là bóng đá.
Trong bóng đá, cả 11 người chơi phải ở trên sân trong toàn bộ trò chơi. Đó không phải là một đội hình
tấn công và một đội hình phòng thủ. Những cầu thù cùng phải chơi cả hai cách… phải có khả năng để
đối phó với tất cả các tình huống. Nói chung, mười một cầu thủ đó phải có khả năng ghi bàn và ngăn
chặn đối thủ ghi bàn.
Một huấn luyện viên bóng đá phải quyết định nên tấn công (để ghi rất nhiều bàn thắng và bằng
cách nào đó giữ đội bạn ghi được ít bàn thắng hơn) hay là phòng thủ (hy vọng sẽ cầm hòa với các đội
bóng khác và ghi bàn một lần) hoặc là giữ thế cân bằng giữa phòng thủ và tấn công. Bởi vì những vị
huấn luyện viên biết họ sẽ không có nhiều cơ hội để chuyển từ tấn công sang phòng thủ trong suốt trận
đấu, họ phải nghĩ ra một đội hình chiến thắng và bám sát nó.
Đó là quan điểm của tôi về đầu tư. Rất ít người (nếu có) có khả năng chuyển đổi chiến thuật để phù
hợp với điều kiện thị trường một cách kịp thời. Vì vậy, nhà đầu tư cần đảm bảo một cách tiếp cận -
cách mà hy vọng rằng sẽ giúp họ vượt qua hàng loạt hoàn cảnh khác nhau. Chúng có thể là hiếu chiến,
tấn công, hy vọng chúng sẽ làm cho rất nhiều người chiến thắng và không đem lại người thua cuộc. Họ
có thể nhấn mạnh sự phòng thủ, hy vọng sẽ tiếp tục giữ được lợi thế tại thời điểm tốt và nổi bật bởi mất
ít hơn những người khác trong lúc khó khăn. Hoặc họ có thể cân bằng giữa phòng thủ và tấn công, chủ
yếu là từ bỏ chính sách mang tính kịp thời nhưng với mục tiêu giành chiến thắng thông qua lựa chọn an
toàn vượt trội ở cả hai thị trường: lên và xuống.
Rõ ràng là Oaktree ưu tiên cho chính sách phòng thủ. Trong những thời điểm tốt, chúng tôi cảm
thấy nó là bình thường nếu chúng ta chỉ theo kịp với các chỉ số (và vào những thời điểm tốt nhất thậm
chí chúng có thể tụt hậu một chút). Nhưng ngay cả các nhà đầu tư trung bình cũng kiếm được nhiều
tiền trong những thời điểm tốt, và tôi nghi ngờ nhiều nhà quản lý bị sa thải vì là những nhà đầu tư
trung bình trên thị trường lên. Danh mục đầu tư của Oaktree được thiết lập để đạt hiệu suất vượt trội
trong thời điểm khó khăn, và đó là khi chúng ta nghĩ những thành quả vượt trội là là điều cần thiết. Rõ
ràng, nếu chúng tôi có thể giữ vững và ổn định trong những thời điểm tốt và có hiệu xuất cao trong
những thời điểm khó khăn, chúng tôi sẽ có những kết quả trên trung bình trong chu kỳ đầy đủ với sự
biến động dưới mức trung bình, và các khách hàng của chúng tôi sẽ được hưởng những thành quả cao
khi mà những người khác đang phải gánh chịu sự biến động.

“What’s Your Game Plan? 5/9/2003


“ Kế hoạch của bạn là gì ?”

Điều gì là quan trọng hơn đối với bạn: ghi điểm hoặc ngăn cản đối thủ nghi điểm? Trong đầu tư,
bạn sẽ đi muốn là người chiến thắng hay cố gắng tránh là kẻ thua cuộc? (Hoặc, có lẽ thích hợp hơn là
việc bạn sẽ làm thế nào để cân bằng cả hai?) Sự nguy hiểm cực đại nằm ở hành động mà không cần
xem xét những câu hỏi này.
Và, bằng cách này, không có sự lựa chọn đúng đắn giữa tấn công và phòng thủ. Rất nhiều các lộ
trình khả thi có thể đưa bạn đến thành công, và quyết định của bạn phải là một chức năng của tính cách
và sự học hỏi, mức độ tin tưởng vào khả năng của bạn, và những đặc thù của thị trường bạn làm việc
và những khách hàng bạn làm việc cùng.

Sự tấn công trong đầu tư là gì, và sự phòng thủ là gì? Tấn công thì dễ dàng để xác định. Đó là việc
áp dụng các chiến thuật tấn công và rủi ro cao trong việc theo đuổi lợi nhuận trên mức trung bình.
Nhưng phòng thủ thì sao? Đó là sự nhấn mạnh chính vào việc không làm điều sai trái hơn là làm điều
đúng.
Có một sự khác biệt giữa làm điều đúng đắn và tránh làm điều sai trái sao? Nhìn bề ngoài, chúng
có vẻ khá giống nhau. Nhưng khi bạn nhìn sâu hơn vào bên trong, có một sự khác biệt lớn giữa các
cách nghĩ và quan điểm tất yếu về phòng thủ và tấn công, và một sự khác biệt lớn trong chiến thuật mà
hai mang đến.
Trong khi phòng thủ nghe có vẻ như ít được biết đến hơn là việc cố gắng để tránh những kết quả
xấu, nó không tiêu cực và nhụt chí như vậy. Phòng thủ thực sự có thể được xem như là một nỗ lực để
có lợi nhuận cao hơn, nhưng thông qua việc tránh nhược điểm hơn là tận dụng ưu điểm, và nhiều hơn
nữa thông qua các tiến bộ phù hợp mà ổn định lâu dài hơn là thông qua nhũng ánh hào quang sáng chói
mà hiếm hoi.
Sự phòng thủ trong đầu tư gồm 2 yếu tố chính. Đầu tiên là việc loại trừ kẻ thua từ danh mục đầu tư.
Điều này được thực hiện tốt nhất bằng cách triển khai sự chuyên cần và hiểu biết rộng, áp dụng những
tiêu chuẩn cao, đòi hỏi một mức giá thấp và lợi nhuận cao về sự sai lầm và ít sẵn lòng hơn để đăt cược
vào những điều mà có thể là không chắc chắn như sự thịnh vượng kéo dài, những sự phát triểu suy
đoán màu hồng.
Yếu tố thứ hai là tránh các năm khó khăn và đặc biệt là chú ý tới cuộc khủng hoảng. Ngoài các yếu
tố đã được mô tả bên trước giúp tách biệt các khoản đầu tư cá nhân thua lỗ khỏi danh mục đầu tư, khía
cạnh này của sự phòng thủ trong đầu tư đòi hỏi phải đa dạng hóa danh mục đầu tư chu đáo, giới hạn về
mức độ rủi ro tổng thể, và nhìn chung là thiên về sự an toàn. Sự tập trung (ngược lại với đa dạng hóa)
và đòn bẩy là hai ví dụ về sự tấn công. Chúng sẽ làm tăng lợi nhuận khi chúng hiệu quả nhưng sẽ
chứng minh chúng có hại khi không hiệu quả. Một lần nữa, chiến thuật tấn công là tiềm năng cho sự
cao hơn mức độ cao và thấp hơn mức thấp. Chúng cũng có đủ những lợi ích riêng, tuy nhiên chúng có
thể gây nguy hiểm cho sự sống còn của sự đầu tư của bạn nếu mọi thứ đi sai hướng. Mặt khác, phòng
thủ có thể tăng khả năng đạt được mục tiêu qua xuốt thời điểm khó khăn và tồn tại đủ lâu để tận hưởng
những phần thưởng cuối cùng từ các khoản đầu tư thông minh.
Chủ đầu tư phải củng cố cho sự phát triển không như mong đợi. Có rất nhiều hình thức hoạt động
tài chính hợp lý có thể được dự kiến sẽ làm việc và có hiệu quả trên mức trung bình, nhưng chúng có
thể cung cấp cho bạn một ngày khó khăn mà bạn bị khủng hoảng vì một cơ cấu không ổn định hoặc sự
chênh lệch quá mức.
Nhưng nó có thực sự là đơn giản không? Nó thì thật dễ dàng để nói rằng bạn nên chuẩn bị cho
những ngày tồi tệ. Nhưng tồi tệ như thế nào? Đâu là trường hợp xấu nhất, và bạn có phải chẩn bị để
ứng phó với nó mỗi ngày hay không?
Giống như mọi thứ khác trong đầu tư, đây không phải là một vấn đề rõ ràng như đen và trắng. Số
lượng rủi ro bạn sẽ chịu là một chức năng của hoàn cảnh mà bạn chọn để theo đuổi lợi nhuận. Số lượng
an toàn bạn được xây dựng trong danh mục đầu tư của bạn nên dựa vào số lượng lợi nhuận tiềm năng
mà bạn sẵn sàng từ bỏ. Không có câu trả lời đúng, chỉ có sự cân bằng. Đó là lý do tại sao tôi thêm tư
tưởng mang tính kết luận này vào 12/2007: “Bởi vì đảm bảo khả năng sống sót trong những tình huống
bất lợi là không phù hợp với việc tối đa hóa lợi nhuận trong những thời điểm đẹp, nhà đầu tư phải lựa
chọn giữa hai chiến lược tấn công và phòng thủ.”

The Aviary 16/5/2003


O

Yếu tố quan trọng trong việc đầu tư phòng thủ là cái mà Warren Buffett gọi là “biên độ an toàn”
hay “lợi nhuận từ việc sai số”. (Ông dường như đi lại giữa hai yếu tố mà không làm cho một sự khác
biệt.) Chủ đề này đáng được thảo luận nghiêm túc.
Nó không khó để thực hiện đầu tư cái mà sẽ thành công nếu tương lai mở ra như mong đợi. Có một
chút bí ẩn trong cách thức để đạt được lợi nhuận như giả định rằng nền kinh tế sẽ đem lại một con
đường chắc chắn và các ngành công nghiệp và các công ty cụ thể sẽ làm tốt hơn những công ty khác.
Các khoản đầu tư với mục tiêu chặt chẽ có thể được đánh giá là thành công xuất sắc nếu tương lai hóa
ra như bạn hy vọng.
Nhưng bạn có thể muốn đưa ra một số suy nghĩ như tình hình làm ăn của bạn sẽ ra sao nếu tương
lai không ủng hộ bạn. Tóm lại, điều gì khiến cho những kết quả trở nên có thể chấp nhận ngay cả khi
tương lai không diễn ra như bạn mong đợi? Câu trả lời là lợi nhuận từ việc sai số.
Hãy suy nghĩ về cái sẽ xảy ra khi một người cho vay khi tạo ra một khoản vay. Nó không khó để
tạo ra các khoản vay cái mà sẽ được hoàn trả nếu có điều kiện vẫn duy trì như vậy. Ví dụ nếu không có
suy thoái kinh tế và người vay nắm chắc công việc của mình. Nhưng điều gì sẽ cho phép khoản vay đó
được hoàn trả lại ngay cả khi điều kiện xấu đi? Một lần nữa là lợi nhuận từ việc sai số. Nếu bên vay trở
nên thất nghiệp, xác suất của khoản vay được hoàn trả sẽ lớn hơn nếu có những khoản tiền tiết kiệm,
tài sản có thể bán được hoặc các nguồn thu nhập thay thế để bù lại. Những điều này cung cấp lợi nhuận
từ việc sai số cho người cho vay.
Sự tương phản thì đơn giản. Người cho vay sẽ trải qua một vài rủi ro tín dụng nếu họ luôn nhấn
mạnh vào lợi nhuận từ việc sai số và chỉ cho khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh mẽ vay. Nhưng
các tiêu chuẩn cao của người cho vay này sẽ khiến họ từ bỏ nhiều cơ hội cho vay, cái mà sẽ mang tới
cho những người cho vay người mà ít nhấn mạnh vào mức độ tín nhiệm hơn. Người cho vay mạo hiểm
sẽ trông thông minh hơn so với cho vay thận trọng (và kiếm nhiều tiền hơn) miễn là môi trường vẫn
hữu ích. Phần thưởng của người cho vay thận trọng của chỉ đến trong những thời điểm khó khăn, trong
các dạng của rủi ro tín dụng sụt giảm. Người cho vay người mà luôn nhấn mạng vào lợi nhuận từ việc
sai số sẽ không được hưởng lợi tại các mức cao cao nhất nhưng cũng sẽ tránh được những mức thấp
thấp nhất. Đó là những gì xảy ra cho những người nhấn mạnh sự phòng thủ.
Dưới đây là một cách khác để minh họa lợi nhuận của việc sai số. Bạn tìm thấy một cái gì đó mà
bạn nghĩ rằng sẽ có giá trị 100 đô la. Nếu bạn mua nó với giá 90 đô la, bạn có một cơ hội tốt để được
lợi, cũng như một cơ hội vừa phải bị lỗ trong trường hợp giả thiết của bạn hóa ra là quá lạc quan.
Nhưng nếu bạn mua nó với 70 đô thay vì 90 đô, cơ hội mà bạn bị lỗ là ít hơn. Việc giảm 20 đô cung
cấp cơ hội bổ sung để được sai và vẫn có vẻ như không sao. Giá thấp là nguồn lợi cuối cùng của lợi
nhuận từ việc sai số.
Vì vậy, sự lựa chọn thì đơn giản: cố gắng tối đa hóa lợi nhuận thông qua các chiến thuật tấn công,
mạo hiểm hoặc xây dựng sự bảo vệ thông qua lợi nhuận từ việc sai số. Bạn không thể có đầy đủ cả 2
biện pháp. Nó sẽ là hoặc tấn công hoặc phòng thủ hoặc kết hợp cả hai (và, nếu có, trong tỷ lệ nào).

O
Trong hai cách để thực hiện như một nhà đầu tư –tích lũy lợi nhuận vượt trội và tránh tổn thất - Tôi
tin rằng tránh tổn thất là đáng tin cậy hơn. Đạt được lợi ích thì thường có một cái gì đó để làm với việc
nghĩ đúng về các sự kiện sắp diễn ra, trong khi thiệt hại có thể được giảm thiểu bằng việc chứng mình
sự hiện diện của giá trị hữu hình, sự mong đợi của mọi người là vừa phải và giá cả thì thấp. Kinh
nghiệm của tôi nói với tôi việc tránh rủi ro có thể được thực hiện với sự nhất quán hơn nữa.
Một sự cân bằng tỉnh táo phải được xem xét giữa việc phấn đấu cho lợi nhuận và hạn chế rủi ro -
giữa tấn công và phòng thủ. Trong thu nhập cố định, nơi tôi đã bắt đầu như một người quản lý danh
mục đầu tư, lợi nhuận thì bị giới hạn và đóng góp lớn nhất của người quản lý là thông qua việc tránh
rủi ro, tổn thất. Bởi vì lợi thế đã thật sự “cố định”, sự thay đổi duy nhất là về nhược điểm, và ngăn cản
nó trở nên trầm trọng. Như vậy, việc phân biệt mình là một nhà đầu tư trái phiếu không phải là một vấn
đề của việc thanh toán trái phiếu bạn nắm giữ, nhưng cho dù là bạn có thể loại trừ trái phiếu cái mà
không được trả tiền hay không. Theo Graham và Dodd, sự nhấn mạnh vào việc loại bỏ làm cho đầu tư
từ thu nhập cố định trở thành một nghệ thuật tiêu cực.
Mặt khác, trong cổ phần và nhiều vùng hoạt động ngược hướng khác, việc tránh thiệt hại là không
đủ; tiềm năng cho lợi nhuận cũng phải hiện diện. Trong khi các nhà đầu tư thu nhập cố định có thể
thực hành chiến lược phòng thủ khá là chuyên quyền, thì các nhà đầu tư người tiến xa hơn thu nhập cố
định – điển hình là việc tìm kiếm lợi nhuận cao hơn – phải cân bằng giữa phòng thủ và tấn công.
Điều quan trọng là ở chữ cân bằng đó. Thực tế là các nhà đầu tư cần tấn công để hỗ trợ phòng thủ,
điều đó không có nghĩa là họ nên thờ ơ với sự kết hợp giữa hai chiến lược. Nếu nhà đầu tư muốn phấn
đấu cho đạt được nhiều lợi nhuận hơn, họ thường phải chịu nhiều sự bất ổn và rủi ro hơn. Nếu các nhà
đầu tư mong muốn lợi nhuận cao hơn cái có thể đạt được vào trái phiếu, họ không thể mong đợi để đạt
được điều đó chỉ thông qua việc tránh tổn thất. Một vài sự tấn công là cần thiết, và nó đi kèm với việc
sự bất ổn. Một quyết định đi theo con đường đó phải được thực hiện 1 cách tỉnh táo và thông minh.

O
Hoạt động của Oaktree được dựa vào phòng thủ, có lẽ nhiều hơn bất kỳ một điều nào khác.
(Nhưng không phải để loại trừ sự tấn công. Không phải mọi thứ chúng ta tham gia đều là một nghệ
thuật tiêu cực. Bạn không thể đầu tư thành công trong sự an toàn, khoản nợ xấu hay bất động sản nếu
bạn không sẵn sàng để suy nghĩ về cả ưu điểm và nhược điểm.)
Đầu tư là một thế giới hỗn loạn nhưng đầy kích thích nơi mà quá nhiều người nghĩ về việc họ tốt
như thế nào và họ sẽ kiếm được bao nhiêu nếu họ tạo dựng được những sự che chở và kết nối. Hãy hỏi
vài nhà đầu tư của trường học “Tôi biết” để cho bạn biết điều gì đã khiến họ trở nên tốt đẹp, và bạn sẽ
nghe rất nhiều về sự thành công họ đã đạt được trong quá khứ và các thành công đó lại đang ở trong
danh mục đầu tư hiện tại của họ. Có bao nhiêu cuộc trò chuyện xoay quanh sự nhất quán và ổn định,
hoặc thực tế là rằng các năm tháng khó khăn nhất của họ cũng không quá tồi tệ?
Một trong những điều nổi bật nhất mà tôi đã lưu ý trong ba mươi lăm năm qua là cách để tóm tắt
sự nghiệp những nhà đầu tư vượt bậc. Nó không ngắn như là sự nghiệp của các vận động viên chuyên
nghiệp, nhưng ngắn hơn so với khi họ làm 1 công việc ổn định về vật chất.
Những đối thủ cạnh tranh hàng đầu từ những ngày đầu tiên khi tôi được quản lý trái phiếu có năng
suất cao trong 20 hoặc 30 năm trước đây đang ở đâu? Hầu như không ai trong số họ ở xung quanh tôi
nữa. Và đáng ngạc nhiên, không một ai trong số những đối thủ cạnh tranh về nợ xấu nổi bật của chúng
tôi từ những ngày đầu của 15 hay 20 năm trước đây vẫn còn là một nhà lãnh đạo ngày nay.
Vậy họ đã đi đâu? Nhiều người đã biến mất vì sai sót của tổ chức đã khiến cho những kế hoạch trò
chơi của họ trở nên không bền vững. Và phần còn lại đã mất hết vì họ đã tách ra thay vì xây dựng sự
an toàn, bao bọc.
Điều đó mang lại một vài điều mà tôi xem như một nghịch lý lớn: Tôi không nghĩ rằng sự nghiệp
của nhiều nhà quản lý đầu tư kết thúc bởi vì họ đã không dành được chiến thắng. Thay vào đó, họ sẽ ra
khỏi trò chơi vì họ thất bại quá nhiều - không phải vì họ không có đủ người chiến thắng, mà vì họ có
quá nhiều kẻ thua cuộc. Tuy nhiên, nhiều nhà quản lý vẫn tiếp tục duy trì việc xây dựng những hàng
rào an toàn.
Họ đặt cược quá nhiều khi họ nghĩ rằng họ có một ý tưởng chiến thắng hoặc một cái nhìn chính
xác về tương lai, họ tập trung làm nổi bật danh mục đầu tư của họ hơn là đa dạng hóa nó.
Họ phải chịu chi phí giao dịch quá mức bởi họ thay đổi cổ phần quá thường xuyên hoặc cố gắng để
bắt kịp thị trường.
Và họ đặt danh mục đầu tư của họ vào các kịch bản thuận lợi và hy vọng nó có kết quả, chứ không
phải là đảm bảo rằng họ sẽ có thể để tồn tại lâu hơn những tính toán sai lầm không thể tránh khỏi
hoạch sự biến mất đột ngột của vận may.
Mặt khác, tại Oaktree chúng tôi tin tưởng vững chắc rằng “nếu chúng ta tránh những kẻ thua cuộc,
những người chiến thắng sẽ chăm sóc bản thân họ” Đó là phương châm của chúng tôi ngay từ đầu, và
nó sẽ luôn luôn là như vậy. Chúng tôi thử nước đi trung bình chứ không phải chiến thắng. Chúng tôi
biết những người khác sẽ được lên trang nhất cho chiến thắng lớn của họ và những thời kì ngoạn mục.
Nhưng chúng tôi hy vọng sẽ đi được đến cuối vì những thành tựu và bền vững sẽ mang đến sự thỏa
mãn cho những khách hàng.

“What’s Your Game Plan?” September 5, 2003


“ Kế hoạch của bạn là gì ?” 5/9/2003

Hình 5.1 và 5.2 cho thấy những lợi ích để đạt được rủi ro giả định. Tất nhiên, sự khác biệt giữa hai
con số là rằng những số liệu cũ không chỉ ra sự bất ổn lớn trong việc mang lại nguy cơ gia tăng, trong
khi những số liệu sau này lại thể hiện điều đó. Như hình 5.2 cho thấy rõ ràng rằng các khoản đầu tư rủi
ro càng cao thì những kết quả càng lớn, bao gồm cả khả năng thua lỗ thay vì hy vọng đạt được lợi
nhuận. Thực hiện tấn công – những chiến thắng đang cố gắng để vượt qua việc mang lại rủi ro – là một
hoạt động đầy quyền lực. Nó có thể mang lại những lợi ích mà bạn tìm kiếm… hoặc những thanh âm
đáng thất vọng. Dưới đây có 1 vài điều khác để suy nghĩ như: Vùng nước mà bạn thả cá càng có nhiều
tiềm năng sinh lời và thách thức thì khả năng thu hút ngư dân lành nghề càng cao. Trừ khi kỹ năng của
bạn làm cho bạn trở nên hoàn toàn cạnh tranh, bằng không bạn có nhiều khả năng là con mồi hơn là
chiến thắng. Thực hành tấn công, mang lại rủi ro và hoạt động trong lĩnh vực đầy thách thức về mặt kỹ
thuật không được cố gắng mà không có thẩm quyền cần thiết.
Ngoài các kỹ năng kỹ thuật, đầu tư tích cực cũng đòi hỏi sự kiên trì, gan dạ và những khách hàng
kiên nhẫn (nếu bạn quản lý tiền cho người khác) và nguồn vốn đáng tin cậy. Khi sự phát triển trở thành
bất lợi, bạn sẽ cần những thứ này để được thông qua. Những quyết định đầu tư có thể có tiềm năng để
làm việc trong thời gian dài hoặc trung bình, nhưng nếu không có những điều này, các nhà đầu tư hiếu
chiến không thể tồn tại trong thời gian dài.
Điều hành một danh mục đầu tư có nguy cơ cao giống như biểu diễn trên dây cao mà không có
lưới. Việc trả thưởng cho thành công có thể cao và mang những sự ngưỡng mộ. Nhưng những lầm lẫn
đó sẽ giết chết bạn.

Điểm mấu chốt về phấn đấu đạt được hiệu suất cao thì có rất nhiều điều để làm với việc dám trở
nên vĩ đại… Một trong những quyết định đầu tiên và cơ bản nhất của chủ đầu tư phải được đựa trên
câu hỏi của các danh mục đầu tư sẽ đi được bao xa và mức độ nguy hiểm là như thế nào. Nên nhấn
mạnh bao nhiều vào đa dạng hóa, tránh mất mát và đảm bảo chống lại những thành tựu kém hiệu quả,
và nên hy sinh những thứ đó nhiều đến mức nào để hy vọng làm tốt hơn?
Tôi đã học được rất nhiều từ bánh ngọt may mắn yêu thích của tôi: Các cảnh báo hiếm khi sai lầm
hoặc viết thành những bài thơ tuyệt vời. Nó có cả điểm tốt và xấu, cái mà làm cho nó bị nghĩ là phiền
nhiễu. Những cảnh báo có thể giúp chúng ta tránh những sai lầm, nhưng nó cũng có thể hạn chế chúng
tôi để đạt tới những thành quả lớn lao.
Theo quan điểm cá nhân, tôi thích sự thận trọng trong quản lý tiền bạc. Tôi tin rằng trong nhiều
trường hợp, việc tránh sự tổn thất và những năm tháng khủng khiếp thì dễ dàng để đạt được hơn là sự
vĩ đại lặp đi lặp lại, và do đó kiểm soát rủi ro có nhiều khả năng để tạo ra một nền tảng vững chắc cho
một kỉ lục được theo dõi lâu dài vượt bậc. Đầu tư sợ hãi, đòi hỏi giá trị tốt và lợi nhuận đáng kể từ sai
số, và được ý thức về những điều bạn không biết và không thể kiểm soát là điểm nổi bật của các nhà
đầu tư tốt nhất mà tôi biết.

“Dare to Be Great,” September 7, 2006


“Dám vươn tới huyền thoại” 7/9/2006

Sự lựa chọn giữa tấn công và phòng thủ, giống như rất nhiều thứ trong cuốn sách này, thách thức
một câu trả lời dễ dàng. Ví dụ, hãy xem xét câu hỏi hóc búa này: Nhiều người dường như không muốn
làm đủ bất cứ điều gì (ví dụ, mua một cổ phiếu, cam kết một loại tài sản hoặc đầu tư với một người
quản lý) điều đó có thể gây tổn hại đáng kể đến kết quả của họ nếu nó không hiệu quả. Nhưng để cho
một cái gì đó có thể giúp lợi nhuận của bạn về mặt vật chất nếu nó thành công, bạn phải làm đủ để nó
có thể làm tổn thương bạn về vật chất nếu nó không thành công.
Trong đầu tư, hầu như tất cả mọi thứ là một con dao hai lưỡi. Điều đó bắt đầu lựa chọn để chấp
nhận rủi ro lớn hơn, thay thế sự tập trung bằng đa dạng hóa và sử dụng đòn bẩy để đạt được lợi. Ngoại
lệ duy nhất là kỹ năng cá nhân chuẩn xác. Đối với tất cả các phần còn lại, nó sẽ giúp đỡ nếu nó hiệu
quả, điều đó có nghĩa là nó sẽ tổn thương bạn nếu nếu nó không hiệu quả. Vậy cái gì làm cho sự lựa
chọn giữa tấn công và phòng thủ trở nên quan trọng và đầy thử thách?
Nhiều người coi quyết định này là sự lựa chọn giữa tham vọng được nhiều hơn và thỏa thận được
ít hơn. Tuy nhiên, đối với các nhà đầu tư chu đáo, câu trả lời là phòng thủ có thể mang lại lợi nhuận tốt
và ổn định, trong tấn công có thể bao gồm những giấc mơ mà thường chưa được đáp ứng. Phòng thủ là
sự lựa của tôi.

Đầu tư phòng thủ có thể khiến bạn bỏ lỡ những điều hấp dẫn và hấp dẫn hơn, và nó có thể để lại
cho cái vỗ vai an ủi trong những thất bại liên tiếp tới chiếc cúp vàng. Bạn có thể đạt được ít thành công
hơn nhà đầu tư khác. . . nhưng bạn cũng có thể có có được một vài trận đấu hòa và 1 vài trận đấu kết
thúc với hiệp phụ.
Đầu tư phòng thủ nghe vẻ rất uyên bác, nhưng tôi có thể đơn giản hóa nó: đầu tư sợ hãi! Lo lắng về
khả năng mất mát. Lo lắng rằng có điều gì đó bạn không biết. Lo lắng rằng bạn có thể đưa ra quyết
định có chất lượng cao nhưng vẫn bị đánh gục bởi vận may kém hoặc những sự kiện, biến cố bất ngờ.
Đầu tư sợ sẽ ngăn chặn sự ngạo mạn; sẽ giữ bạn tiếp tục cảnh giác và sự kiên trì về mặt tinh thần; sẽ
làm cho bạn nhấn mạnh vào biên độ an toàn đầy đủ; và sẽ làm tăng cơ hội mà danh mục đầu tư của bạn
được chuẩn bị cho những điều xảy ra sai. Và nếu không có gì đi sai hướng, chắc chắn những người
chiến thắng sẽ chăm sóc bản thân họ.

“The Most Important Thing,” July 1, 2003


“ Điều quan trọng nhất” 1/7/2003
18 Điều quan trọng nhất là...Tránh các cạm bẫy
Nhà đầu tư không cần làm quá nhiều điều đúng, chỉ cần tránh những lỗi lớn
Trong sách này, cố gắng tránh những thiệt hại quan trọng hơn là tìm kiếm những thành công lớn trong
đầu tư. Thành công lớn ta lúc nào đó ta sẽ đạt được, còn thất bại sẽ phá hỏng tất cả. Thành công sẽ đến
thường xuyên hơn và phụ thuộc hơn... và sẽ kèm theo những hậu quả nếu ta không vượt qua được. Với
một danh mục đầu tư đầy rủi ro, một biến động thụt lùi có thể sẽ làm bạn mất niềm tin hoặc bán ra với
giá thấp. Một danh mục chứa quá nhiều rủi ro sẽ làm bạn mất lợi thế giữa một thị trường đầy biến động,
nhưng không ai đến nỗi phá sản vì thếl có những số phận tồi tệ hơn nhiều.
Để tránh thiệt hại, ta cần hiểu và tránh những cạm bẫy. Trong chương này tôi sẽ trình bày một số vấn
đề chính đã thảo luận trong các chương trước, với hi vọng làm nổi bật chúng dưới cùng một nền tảng
giúp các nhà đầu tư trở nên tỉnh táo hơn trước những vấn đề. Điểm khởi đầu đó là việc nhận ra rằng có
nhiều cạm bẫy đang tồn tại và chúng trông như thế nào.
Tôi nghĩ nguồn gốc của sai lầm chủ yếu là về mặt phân tích/nhận thức hoặc tâm lý/tình cảm. Khía cạnh
phân tích/nhận thức rất trực quan: chúng ta thu thập quá ít thông tin hoặc thông tin không chính xác.
Hoặc có lẽ chúng ta áp dụng sai các quy trình phân tích, tạo ra các sai lầm trong tính toán hoặc để sót
những điểm mà lẽ ra cần được thực hiện. Có quá nhiều sai lầm dạng này, nhưng dù sao, sách này thiên
về triết lý và quan niệm hơn là những quy trình phân tích.
Tuy nhiê có một dạng sai lầm về phân tích mà tôi muốn bàn tới đôi chút gọi là “Lỗi tưởng tượng”. Tôi
muốn nói đến việc không có khả năng bao quát hết các kết quả khả dĩ hoặc không hiểu thấu đáo các
hậu quả của những tình huống mạnh mẽ. Tôi sẽ bàn sâu về vấn đề này trong phần tiếp theo.
Chương trước đã bàn về nhiều nguyên nhân mang tính tâm lý và tình cảm: tham lam và sợ hãi; mải
hoài nghi và ngờ vực; Tự ái và ghen tị; xu hướng chấp nhận rủi ro để đạt mục đích cao hơn; và xu
hướng đánh giá qua cao hiểu biết của ai đó. Những điều này góp phần gây ra sự bùng vỡ (boom and
bust) khi mà có nhiều nhà đầu tư cùng làm sai một điều.
Một cái bẫy quan trọng khác – tâm lý phổ biến, nhưng đủ quan trọng để được xếp vào loại này – đó là
không nhận ra được các chu kỳ và triệu chứng của thị trường khiến đi theo hướng ngược lại. Các chu
kỳ và xu hướng mạnh mẽ không xảy ra thường xuyên, và vì thế chúng không phải là nguyên nhân sai
lầm thường thấy, nhưng chúng lại gây ra những sai lầm lớn nhất. Sức mạnh của tâm lý bầy đàn thúc
giục tính phù hợp và sự thỏa ước gần như là không thể cưỡng lại, khiến cho việc cưỡng lại nó là điều
quan trọng cho các nhà đầu tư. Những điều này cũng đã được bàn đến ở các phần trước.
“Sai lầm trong hình dung” – tức không có khả năng nắm bắt trước toàn bộ quy mô các kết quả - đặc
biệt thú vị, và tác động theo nhiều cách.
Như tôi đã nói trước, việc đầu tư chính là ứng phó với tương lai. Để đầu bạn phải hình dung tương lai
nó như thế nào. Nói chung, chúng ta có ít lựa chọn nhưng giả định nó sẽ trông tốt hơn quá khứ nhiều.
Như vậy, ít thấy ai nói rằng: “tỉ lệ giá/thu nhập trung bình ở chứng khoán Mỹ là 15 trong suốt mười
năm năm qua, và tôi dự đoán rằng trong các năm sắp tới nó sẽ là 10 (hoặc 20).
Vậy hầu hết các nhà đầu tư đặt kết luận quá khứ vào tương lai – và đặc biệt là quá khứ gần. Tại sao lại
là quá khứ gần? Trước tiên, nhiều hiện tượng tài chính quan trọng theo sau những chu kỳ dài, nghĩa là
những ai trả qua được một sự kiện mạnh mẽ thường sẽ về hưu hoặc chết trước lần tái diễn sắp tới. Thứ
hai, như John Kenneth Galbraith nói, ký ứng tài chính có xu hướng cực ngắn.
Và thứ ba, bất kỳ cơ hội ghi nhớ nào cũng có xu hướng bị xóa bỏ bởi sự hứa hẹn về tiền bạc dễ dàng,
đây rõ ràng là một phần của mốt đầu tư đương thời.
Thường thì tương lai đương nhiên giống quá khứ, vậy thì kết luận như thế cũng không gây hại gì.
Nhưng tại những bước ngoặt, khi tương lai thôi không còn giống quá khứ nữa, thì kết luận ấy sẽ sai và
phần lớn tiền của sẽ mất hoặc không được tạo ra.
Như vậy, điều quan trọng là phải trở về với quan sát súc tích của Bruce Newberg vê sự khác nhau lớn
giữa khả năng sinh lợi và kết quả. Những thứ tưởng sẽ không xảy ra lại xảy ra. Những kết quả chóng
vánh có thể tách ra từ những khả năng dài hạn, và những sự kiện có thể co cụm lại. Ví dụ, trong trò xúc
xắc thì chỉ có thể xảy ra 2 mặt 6 một lần. Nhưng chúng có thể xảy ra 5 lần liện tiếp – và không bao giờ
xảy ra lại trong 75 lần thảy tiếp theo – và tính dài hạn có thể xảy ra thường xuyên như ta giả định.
Dựa trên sự vượt trội trên thực tế rằng có gì đó “sẽ xảy ra” có thể sẽ giết chết bạn khi bạn tưởng không
thể. Thậm chí dù bạn hiểu đúng tỉ lệ khả năng nền tảng, bạn cũng không thể tính được những gì sẽ xảy
ra. Và thành công cho các hành động đầu tư của bạn không thể phụ thuộc nhiều vào các kết quả thông
thường; thay vào đó, bạn phải cho phép những yếu tố bên ngoài.
Nhà đầu tư thực hiện đầu tư chỉ bởi vì họ mong chúng sinh lợi, và phân tích của họ sẽ tập trung vào các
viễn cảnh như thế. Nhưng họ không chút trọng đến điều được giả định sẽ xảy ra khi loại trừ những khả
năng khác... và gánh chịu rủi ro và tác động khi các kết quả tiêu cực lôi họ vào. Hầu hết những lần tan
băng trong vụ khủng hoảng tín dụng gần đây xảy ra là vì có thứ gì đó người ta không ngờ tới đã xảy ra.
Khủng hoảng tài chính xảy ra chỉ yếu là vì những sự kiện không bao giờ tiên đoán được va chạm với
rủi ro, làm xuất hiện những cấu trúc vốn không được thiết kế cho họ trụ vững. Ví dụ, phát sinh thế
chấp được thiết kế và đánh giá trên giả thiết rằng không thể có sự suy thoái toàn quốc về giá nhà, vì
trước đó cũng chưa bao giờ có (hoặc ít nhất không phải trong thời thống kê hiện đại). Nhưng nếu xảy
ra tình huống ấy thì các cấu trúc được xây dựng trên giả đình rằng nó không thể xảy ra thì sẽ phải sụp
đổ.
Mặt khác, cần lưu ý rằng giải định rằng có thứ gì đó không thể xảy ra sẽ tiềm ẩn khả năng khiến nó xảy
ra, vì những ai tin nó không thể xảy ra sẽ có hành vi đầy rủi ro và vì thế sẽ làm thay đổi môi trường.
Hơn hai mươi năm trước, cụm từ vay vốn thế chấp có liên hệ chặt chẽ đến từ thận trọng. Người mua
nhà đặt cọc 20 đến 30% giá mua; các khoản chi trả thế chấp thường được giới hạn khoảng 25% thu
nhập hàng tháng; nhà cửa được định giá cẩn thận; và thu nhập của người mượn và vị trí tài chính sẽ
được lập hồ sơ. Nhưng khi việc ham muốn sự bảo đảm dựa trên thế chấp xuất hiện trong thập kỉ gần
đây – một phần vì thế chấp luôn được thực hiện một cách rất phụ thuộc và người ta đồng ý rằng không
thế có sự lan rộng toàn quốc vỡ nợ thế chấp – thì nhiều chuẩn mực truyền thống đã bị ném ra ngoài cửa
sổ. Các hậu quả lẽ ra không nên xuất hiện một cách gây ngạc nhiên.
Điều này đưa tôi trở lại song đề mà ta phải giải quyết. Nhà đầu tư nên dành bao nhiêu thời gian và vốn
liếng để bảo vệ trước những thảm họa khó lường? Chúng ta có thể bảo đảm an toàn trước những kết
quả khốc liệt không; chẳng hạn như sự giảm phát và lạm phát cực độ. Nhưng làm thế sẽ tốn kém, và
chi phí sẽ làm suy giảm thu nhập từ đầu tư nếu như những sự bảo vệ ấy hóa ra không cần thiết, và điều
ấy rất thường xảy ra. Bạn có thể yêu cầu danh mục của bạn hoạt động tốt khi tái vận hành vào năm
2008, và rồi bạn sẽ nắm giữ toàn châu báu, tiền mặt và vàng ư? Đó có phải là một chiến lược khả
quan? Có lẽ không. Vậy nên quy tắc chung đó là phải tránh những cạm bẫy, nhưng phải có giới hạn.
Và giới hạn khác nhau cho mỗi nhà đầu tư.
Còn một khía cạnh sai lầm khác về hình dung. Mọi người đều biết tài sản sẽ có thu nhập và rủi ro, và
có thể đoán được chúng. Nhưng ít người hiểu mối tương quan tài sản: làm sao tài sản này lại phản ứng
khi một tài sản khác thay đổi, hoặc hai tài sản sẽ phản ứng tương tự nhau khi thay đổi một tài sản thứ
ba. Hiểu và thấy trước sức mạnh của sự tương tác – cũng như những giơi hạn của sự đa dạng – chính là
khía cạnh chính để kiểm soát rủi ro và quản lý danh mục, nhưng điều này không dễ. Sai lầm khi tiên
đoán, và hậu quả gây ra kèm theo, chính là nguyên nhân chính dẫn đến sai lầm trong đầu tư.
Nhà đầu tư thường không đánh giá được những mối đe dọa chúng tiềm ẩn trong danh mục đầu tư. Ai
cũng biết rằng nếu cổ phiếu của một hãng xe sụt giảm thì các chỉ số chúng có nhìn chung chó thể khiến
cho tất cả cổ phiếu của các hãng xe khác đồng thời sụt giảm. Ít người hiểu những mối liên hệ kéo tụt
toàn bộ cổ phiếu của nước Mỹ, hoặc toàn bộ cổ phiếu trong một thế giới phát triển, hoặc toàn bộ cổ
phiếu trên thế giới, hoặc toàn bộ cổ phiếu và trái phiếu etc.
Vậy sai làm trong hình dung bao gồm trường hờm thứ nhất đó là không tiên đoán được những thái cực
khả dĩ trong các sự kiện tương lai, và trường hợp thứ hai là hiểu sai các hậu quá của những sự kiện quá
độ ấy. Trong vụ khủng hoảng tín dụng gần đây, một số nhà hoài nghi có thể sẽ nghi ngờ rằng tài sản
thế chấp thứ cấp sẽ phá sản ở diện rộng, nhưng không nhất thiết rằng sự phân nhánh sẽ lan rộng ra khỏi
thị trường thế chấp. Ít người thấy trường thị trường thế chấp sẽ sụp đổ, và còn ít người hơn nữa tiên
đoán đó là kết quả của mà một trang thương mại và vốn thị trường tiền tệ hứa hẹn; hoặc rằng Lehman
Brothers, Bear Stearn, và Merrill Lynch sẽ buộc phải tồn tại như những công ty độc lập; hoặc General
Motor và Chrysler phải lập hồ sơ vỡ nợ và yêu cầu bảo lãnh.
Bằng nhiều cách, các nguồn lực tâm lý chính là những nguyên nhân thú vị nhất gây ra sai lầm đầu tư.
Chúng có thể ảnh hưởng lớn đến giá bảo hiểm. Khi chúng khiến các nhà đầu tư có cái nhìn cực đoan
không thể cân bằng bằng những quan điểm khác, thì những nguồn lực này có thể khiến cho giá tăng rất
cao hoặc hạ rất thấp. Đây chính là nguồn gốc của bong bóng và suy sụp.
Những nhà đầu tư bị những nguồn lực này hại thế nào?
 Bằng cách không kháng cự được chúng
 Bằng cách tiên đoán một cách mù mờ về thị trước bị khuyết động khi những người khác không
kháng cự
 Bằng cách sai lầm trong lợi dụng khi xảy ra những khuấy động ấy.
Những điều trên có giống nhau không? Tôi không nghĩ thế. Ta cũng nghiên cứu ba sai lầm trong bối
cảnh của một trong những nguồn lực tâm lý gây ám ảnh nhất: tham lam.
Khi sự tham lam trở nên quá độ, thì giá bảo hiểm sẽ có xu hướng tăng cao. Điều đó làm cho lợi nhuận
thu về bị hạ thấp và rủi ro cao. Tài sản đang bàn tới sẽ xuất hiện những sai lầm chực chờ tạo ra thua lỗ...
hoặc để bị lợi dụng.
Sai lầm đầu tiên trong số ba sai lầm mới liệt kê – đầu hàng trước những ảnh hưởng tiêu cực – nghĩa là
dự phần vào sự tham lam và quyết định mua. Nếu khao khát kiếm tiền thúc đẩy bạn mua thậm chí là
với giá rất cao, với hi vọng rằng tài sản ấy sẽ tiếp tục đáng giá hoặc sách lược của bạn vẫn còn hiệu quả,
thì bạn hãy sửa soạn thất vọng đi. Nếu bạn mua khi giá vượt quá giá trị thực tại, thì bạn phải là người
thật may mắn – tức tài sản ấy sẽ phải đi từ chỗ được đánh giá quá cao đến chỗ được đánh giá còn quá
cao hơn nữa – như thế thì bạn mới kiếm được tiền thay vi thua lỗ. Chắc chắn cái giá đã bị nâng lên ấy
sẽ làm bạn lỗ chứ khó mà kiếm lời được.
Loại sai lầm thứ hai là thứ mà ta gọi là sai lầm do lơ đễnh. Có thể bạn không bị tham lam thúc đẩy; ví
dụ, kế hoạch 401(k) của bạn có thể đầu tư vào thị trường chứng khoán một cách ổn định và thụ động
thông qua một quỹ chỉ số. Hơn thế nữa, việc dự đoán, thậm chí là một cách mù mờ, rằng thị trường ấy
được nâng giá vì sẽ có những người mua không biết nguyên tắc sẽ gây ra cho bạn nhiều mối nguy tiềm
tàng.
Mỗi ảnh hưởng tiêu cực, và mỗi loại thị trường “sai lầm”, đều sẽ tiềm ẩn những cách sinh lợi thay vì
sai lầm. Vì thế, dạng sai lầm thứ ba không bao gồm việc làm một điều gì đó sai, nhưng là không làm
điều đúng. Các nhà đầu tư trung bình tránh được các cạm bẫy là do họ may mắn, tuy rằng những người
cao cơ hơn trông có vẻ như là lợi dụng các cạm bẫy ấy. Hầu hết các nhà đầu tư có thể bán nhanh để
kiếm lợi khi giá sụt giảm. Phạm phải dạng sai lầm thứ ba này – chẳng hạn như không rút ngắn một cổ
phiếu bị đẩy giá – lại là một dạng sai lầm khác, là sai lầm bỏ sót, nhưng có lẽ cũng là sai lầm mà hầu
hết các nhà đầu tư vui lòng sống chung với nó.
Như tôi đã lưu ý từ trước, một trong những cạm bẫy có góp phần của tâm lý đó ý muốn thất thường của
nhà đầu tư khi chấp nhận những lý lẽ viễn vông ẩn sau bong bóng và suy sụp, thương là do tin rằng
“lần này sẽ khác”. Trong những thị trường lạc quan nhất thì chủ nghĩa hoài nghĩ sẽ biến điều này
thành một sự kiện thường thấy, khi nhà đầu tư chấp nhận rằng:
 Một số phát triển mới sẽ thay đổi thế giới
 Các khuân mẫu đã thành lệ trong quá khứ (hẳng hạn như sự lên xuống của chu kỳ kinh doanh)
sẽ không xảy ra nữa,
 Các quy tắc đã thay đổi (chẳng hạn như những tiêu chuẩn xác định một công ty có đáng tin và
đáng cho vay tiền hay không), hoặc
 Các quy phạm giá trị truyền thống không còn liên quan nữa (bao gồm giá, tỉ lệ thu nhập từ cổ
phiếu, lợi nhuận từ trái phiếu hoặc tỉ lệ huy động vốn cho bất động sản)
Theo cách đung đưa của quả lắc (xem chương 9) sẽ có những sai lầm đồng thời xảy ra, khi nhà đầu tư
quá tin tưởng và mặc định và không biết hoài nghi.
Luôn có một cách lý giải sáng suốt – thậm chí là khôn ngoan – về lý do tại sao tám kỳ quan thế giới lại
vận hành theo hướng có lợi cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, người giải thích thường quên không lưu ý rằng
(a) hiện tượng mới sẽ gây ra một sự sai lạc khỏi lịch sử, (b) mọi thứ phải đúng, (c) có nhiều thứ khác sẽ
xảy ra, và (d) nhiều thứ trong số ấy có thể là thảm họa.
Bước quan trọng đầu tiên trong việc tránh các cạm bẫu bao gồm việc để ý chúng. Sự kết hợp giữa tham
lam và chủ quan thường hướng chúng ta theo đuổi những chiến lược với hi vọng mang lại thu nhập cao
mà không bị rủi ro; trả những cái giá quá cao cho bảo hiểm là một trong số này; và khư khư giữ những
thứ đã bị đánh giá quá cao ấy với hi vọng nó vẫn sẽ có cái giá đó. Sau đó, kết quả cho mọi người thấy
điều gì là sai lầm: những hi vọng ấy là phi thực tế và những rủi ro đã bị phớt lờ. Nhưng học về các cạm
bẫy thông qua kinh nghiệm đau đớn chỉ là một sự trợ giúp giới hạn. Mấu chốt là phải cố gắng tiên đoán
chúng. Để minh họa, tôi trở lại cuộc khủng hoảng tài chính gần đây.
Thị trường là một lớp học xảy ra các bài học hàng ngày. Chìa khóa để đầu tư thành công nằm ở việc
quan sát và học hỏi. Tháng Mười Hai 2007, với vấn đề dưới chuẩn (subprime) là nền tảng và khả năng
lây lan của nó sang các thị trường khác trong quá trình trở nên rõ ràng, tôi sẽ lập danh sách các bài học
mà tôi nghĩ ta có thể rút ra từ đó. Khi tôi hoàn thành nhiệm vụ này, tôi nhận ra rằng chúng không chỉ là
những bài học về cuộc khủng hoảng mới nhất, nhưng còn là những bài học mấu chốt cho mọi thời đại.
Phầm tôi thì tôi tìm hiểu về chúng ở những nơi khác, còn ở đây tôi sẽ gom chúng lại cho bạn thấy:
Chúng ta học gì từ một cuộc khủng hoảng – hoặc nên học gì
 Quá nhiều nguồn vốn khiến cho tiền luôn chuyển đến sai chỗ. Khi vốn khan hiếm và có nhu cầu
cao thì các nhà đầu tư phải đối diện với lựa chọn phân bổ sao cho đồng vốn được sử dụng tốt
nhất, và họ sẽ phải đưa ra quyết định với sự kiên nhẫn và theo nguyên tắc. Nhưng khi có quá
nhiều vốn và quá ít ý tưởng, thì người ta sẽ đưa ra những đầu tư không thích đáng.
 Khi vốn đi đến nơi không nên đến, hậu quả sẽ xảy ra. Vào những thời điểm thị trường vốn chính
xác, thì những người vay đủ tư cách sẽ quay lưng đi. Nhưng khi tiền có ở khắp mọi nơi, thì
những người vay không đủ tư cách lại được người ta dâng tiền tới cho mượn. Kết quả không thể
tránh khỏi sẽ bao gồm việc trễ nợ, phá sản, hoặc thua lỗ.
 Khi vốn vượt cung, nhà đầu tư sẽ đua nhau chấp nhận thu nhập thấp và ranh giới mong manh
cho sự sai lầm. Khi người ta muốn mua thứ gì đó, thì sự cạnh tranh giữa sẽ hình thành một kiểu
đấu giá trong đó người ta ra giá mỗi lúc một cao hơn. Khi bạn nghĩ tới điều đó thì việc đấu giá
cao cho thứ gì đó đồng nghĩa với việc bận nhận về ít tiền hơn. Như thế, việc đấu giá cho đầu tư
có thể xem là một cách giải thích cho việc nhà đầu tư yêu cầu thu nhập thấp tới mức nào và họ
sẵn sàng chấp nhận rủi ro ra sao.
 Càng lơ đễnh rủi ro thì rủi ro càng lớn. “Không có gì có thể sai lầm”. “Không có cái giá nào là
quá cao.” “Kiểu gì cũng sẽ có người trả tôi cao hơn.” “Nếu tôi không làm nhanh, ai đó sẽ mua
nó mất.” Những suy nghĩ kiểu ấy sớm muộn cũng sẽ gây ra rủi ro. Phiên bản này đã nhìn thấy
nhiều người nghĩ rằng vì họ đang mua ở những công ty tốt hơn hoặc huy động tài chính với
những món nợ cho người mượn thân thiện hơn, thì giao dịch mua ấy sẽ giúp tạo ra những khoản
tiền mỗi lúc một lớn hơn. Điều này khiến họ phớt lờ rủi ro không hướng tới sự tiến triển và
nguy hiểm trong những cấu trúc vốn bị nâng cao.
 Không đủ thận trọng dẫn đến thua lỗ đầu tư. Cách phòng vệ tốt nhất trước việc thua lỗ đó là
phải phân tích thấu đấu và sâu xa, và luôn tâm niệm điều mà Warren Buffet gọi là “ranh giới sai
lầm”. Nhưn trong những thị trường đang hot thì người ta lo lắng về việc bỏ lỡ chứ không lo
chuyện mất tiền, và tiêu tốn thời gian, phân tích hoài nghi là việc của những ông già gàn dở.
 Trong thời gian tới, vốn được dành cho các đầu tư sáng tạo, nhiều trong số đó không hề được
thời đại kiểm chứng. Những nhà đầu tư lạc quan tập trung vào những thứ có thể có hiệu quả,
không phải những thứ có thể sai lầm. Sự háo hức vượt trên tính thận trọng, khiến cho người ta
chấp nhận những sản phẩm đầu tư mới mà họ không hiểu. Về sau, họ tự nhủ rằng giá như mình
chịu suy nghĩ.
 Các yếu tố tâm lý và kỹ thuật có thể che lấp những nguyên tắc cơ bản. Về lâu dài, việc tạo ra và
phá hủy giá trị được thúc đẩy bởi những yếu tố nền tảng như xu hướng kinh tế, thu nhập của
công ty, yêu cầu sản phẩm và kỹ năng quản lý. Nhưng về ngắn hạn thì các thị trường lại phản
ứng nhanh chóng đối với tâm lý nhà đầu tư và các yếu tố kỹ thuật ảnh hưởng đến nguồn cung và
yêu cầu về tài sản. Trên thực tế, tự tin chứ không phải thứ gì khác mới là vấn đề về ngắn hạn.
Bất cứ thứ gì cũng có thể xảy ra về mặt này, với kết quả vừa không thể đoán được vừa phi lý.
 Thay đổi thị trường, các mô hình vô hiệu hóa. Các vấn đề khó khăn về quỹ “chuyên gia” chủ
yếu là sai lầm trong các mô hình tính toán và các giả định làm nền cho chúng. Máy tính vận
hành các danh mục đầu tư chủ yếu cố gắng tạo ra lợi nhuận từ những khuân mẫu đúng trong các
thị trường quá khứ. Chúng không thể dự đoán các thay đổi trong những khuân mẫu này; chúng
không thể dự đoán các thời kỳ sai lạc; và vì thế nhìn chung chúng đánh giá quá cao độ tin cậy
của những nguyên tắc trong quá khứ.
 Đòn bẩy phóng đại thu nhập nhưng không thêm vào các giá trị. Khi sử dụng đòn bẩy để gia
tăng đầu tư về tài sản với giá mua bán sẽ có ý nghĩa lớn, đưa ra những thu nhập hứa hẹn hoặc
những phần thưởng dồi dào. Nhưng cũng sẽ nguy hiểm khi sử dụng đòn bẩy để mua nhiều tài
sản hơn, khi đó thu nhập thì bị giảm thiểu hoặc thu hẹp, còn rủi ro thì lan rộng – hay nói cách
khác, tài sản được định tròn giá hoặc vượt giá. Không mấy ích lợi khi sử dụng đòn bẩy để cố
biến những nguồn thu không cân xứng thành những nguồn thu cân xứng.
 Điều chỉnh vượt mức. khi tâm lý nhà đầu tư trở nên quá lạc quan và thị trường “được định giá
quá tuyệt hảo” – dựa trên giả định rằng mọi thứ luôn luôn tốt – thì đó là lúc việc suy sụp vốn đã
hình thành. Điều này có thể xảy ra vì các giả định của nhà đầu tư hóa ra là quá lạc quan, vì các
sự kiện tiêu cực xảy ra, hoặc đơn giản chỉ vì giá quá cao sẽ tự sụp đổ do trọng lượng của nó.
Mười một bài học này ra có thể rút gọn lại thành một: hãy cảnh giác trước những gì đang diễn ra quanh
bạn, để ý đến sự cân bằng cung/cầu cho các khoản đầu tư và ham muốn chi tiền cho chúng. Chúng ta
biết cái cảm giác khi có quá ít vốn ở quanh và lưỡng lự dự phần vào nó: các khoản đầu tư thích đáng
có thể trở nên khó khăn, và việc kinh doanh diễn ra chậm chạp trong nền kinh tế. Điều này gọi là sự đổ
vỡ tín dụng. Nhưng điều ngược lại ta cũng nên chú ý. Không có thuật ngữ chính xác cho nó, tạm nói là
“quá nhiều tiền cho quá ít ý tưởng”.
Không liên quan đến việc nó được gọi bằng gì, việc vượt cung vốn và sự khan hiếm thận như ta đã
thấy vào những năm 2004 – 2007 – với các tác động nguy hại của nó – có thể sẽ nguy hiểm cho khả
năng đầu tư của bạn và bạn phải nhận ra và ứng phó với nó.
Khủng hoảng toàn cầu tạo ra cơ hội lớn để học tập, vì nó chi tiết hóa nhiều sai lầm chết người và đưa
ra các bài học mà tôi đã liệt kê trong hồi ký tháng Mười Hai 2007. Các cạm bẫy ở khắp mọi nơi: nhà
đầu tư không lo lắng, thậm chí là hào hứng trong những năm sắp tới. Người ta tin rằng các rủi ro đã
được ngăn chặn, và vì thế họ chỉ cần lo lắng về việc sợ bỏ lỡ thời cơ và không tiếp tục, chứ không lo
chuyện mất tiền. Rủi ro, những cải tiến đầu tư không qua kiểm định được chấp nhận dựa trên những
nền tảng hời hợt. Trọng lượng quá mức được làm cho hòa hợp với những mô hình không rõ ràng và
những “hộp đen”, các kỹ sư tài chính và các “chuyên gia”, và các hồ sơ năng được góp nhặt qua những
thời kỳ khả quan. Đòn bẩy được đẩy lên tới tột đỉnh.
Hầu như không có ai biết chính xác hậu quả gì sẽ xảy ra, nhưng có thể có một khả năng đó là chúng ta
đang hướng đến một sự trượt ngã. Dù thông qua những cạm bẫy cụ thể có thể không thể bị khả nghi
trong việc xác định và né tránh, thì đây vẫn là thời điểm tuyệt vời để nhận ra rằng còn nhiều cạm bẫy
khác đang lẩn khuất, và vì thế cần phải có một thái độ phòng vệ hơn. Không làm được thế chính là sai
lầm lớn gây ra khủng hoảng.
Nói tiếp, nhà đâu tư có thể hoàn thành điều gì? Câu trả lời nằm ở:
 Ghi lại hành vi vô tư, thiếu thận trọng của người khác.
 Chuẩn bị tâm lý cho sự suy thoái
 Bán tài sản, hoặc ít nhất là bán những cái nào có rủi ro cao hơn
 Hạn chế đòn bẩy
 Tăng tiền mặt (và trả về tiền mặt cho khách hàng về bạn đầu tư cho họ), và
 Hướng danh mục đầu tư theo hướng được bảo vệ nhiều hơn
Bất kì điều gì trong số những điều trên cũng sẽ có lợi. Tuy hầu hết không có điều nào được thực hiện
tốt trong cuộc tan băng 2008, nhưng vẫn có thể đó là kết quả của sự cẩn trọng trước sự thua lỗ.
Khủng hoảng lan tràn với những cạm bẫy tiềm tàng: trước tiên, cơ hội để đầu hàng và thua lỗ, sau đó là
cơ hội để rơi vào trong một vỏ bọc và để trượt. Trong những thời kỳ không xảy ra thua lỗ thì người ta
có xu hướng nghĩ về các rủi ro như là có tính không ổn định và tự cho rằng có thể sống cùng với chúng.
Nếu điều đó là thật thì họ sẽ phải gánh chịu sự sụt giảm nghiêm trọng, đầu tư nhiều vào những chỗ
thấp và tận hưởng sự phục hồi, hướng tới dài hạn. Nhưng nếu khả năng sống với sự thiếu ổn định và
giữ được sự bình tĩnh được đánh giá quá cao – và thường là thế - thì sai lầm sẽ có xu hướng bị xem nhẹ
khi thị trường trở nên tồi tệ. Mất mát tự tin và việc giải quyết có thể làm cho nhà đầu tư bán với giá sàn,
biến những biến động sụt giảm thành những thiệt hại cố định và ngăn chặn chúng khỏi dự phần vào
việc phục hồi theo sa. Đây chính là sai lầm lớn nhất trong đầu tư – khía cạnh thiếu may mắn nhất của
hành vi của hành vi theo chu kỳ - vì tính thường xuyên của nó và vì nó có xu hướng tác động đến các
bộ phận lớn trong danh mục đầu tư.
Vì hành vi ngược chu kỳ là yếu tố chính trong việc né tránh tác động tổng thể của khủng hoảng gần
đây, nên việc cư xử theo chu kỳ sẽ gây ra cạm bẫy tiềm ẩn nhất. Những nhà đầu tư khư khư ở vị trí lạc
quan như khi thị trường tăng trưởng sẽ ít được chuẩn bị cho sự bùng nổ và việc khôi phục theo sau.
 Các suy giảm có tác động tâm lý tối đa
 Gọi vốn biên và tịch thu các phương tiện đồng thời hủy hoại và làm gia tăng
 Các sự nắm giữ gây vấn đề yêu cầu hành động khắc phục phía người quản lý.
 Như thường lệ, mất mát niềm tin khiến nhiều người không làm đúng cách và đúng lúc.
Tuy đúng là bạn không thể làm tốt hơn một, nhưng bản chất con người sẽ làm cho những nhà đầu tư
bảo thủ và những khách hàng ít liều lĩnh của họ cảm thấy thoải mái trong những thị trường thụt giảm
khi họ mất mát ít hơn những người khác. Điều này có hai tác động rất quan trọng. Thứ nhất, nó cho
phép họ duy trì tính bình thản và sự kháng cự trước các áp lực tâm lý thương làm người khác bán ra
với giá thấp. Thứ hai, khi có một khung tâm trí tốt hơn và tình trạng tài chính tốt hơn, họ có xu hướng
tại ra lợi nhuận từ việc mua tràn lan với giá thấp. Như vậy, nhìn chung họ làm tốt hơn trong việc khôi
phục.
Chắc hắn đây là điều đã xảy ra trong một vài năm trở lại đây. Thị trường tín dụng chịu những tác động
mạnh trong năm 2007-2008, vì chúng tậpt trung vào việc cải tiến, chấp nhận rủi ro và sử dụng đòn bẩy.
Tương ứng với đó, những lợi ích thu về trong năm 2009 là tốt nhất trong lịch sử của chúng. Sống sót
trước những suy thoái và mua với giá thấp chính là công thức tuyệt vời cho thành công – nhất là thành
công tương đối – nhưng trước tiên cần phải tránh những cạm bẫy.
Công thức cho sai lầm rất đơn giản, nhưng cách nó xuât hiện thì vô vàn – không sao kể xiết. Dưới đây
là một số công thức thường thấy:
 Dữ liệu hoặc tính toán sai lầm trong quy trình phân tích dẫn đến đánh giá sai giá trị;
 Toàn bộ chuỗi khả năng hoặc hậu quả đều bị xem nhẹ
 Tham lam, sợ hãi, ghen tị, tự ái, nghi ngờ và thiếu tin tưởng, sự thỏa ước hoặc tuâ thủ, hay một
số sự kết hợp giữa chúng, sẽ dẫn đến tiêu cực.
 Kết quả là, cả việc chấp nhận rủi ro hay né tránh rủi ro đều trở nên thừa thãi.
 Giá cả phân tách lớn từ giá trị, và
 Nhà đầu tư không để ý đến sự phân tách này, và có lẽ còn khiến nó trở nên sâu sắc hơn.
Về mặt lý tưởng, những nhà tư duy cấp hai biết thận trọng và khôn ngoan sẽ lưu ý đến sai lầm về mặt
phân tích cũng như sai lầm của các nhà đầu tư khác khi phản ứng một cách không thích hợp. Họ phát
hiện hoặc định giá thấp tài sản trong bối cảnh các thị trường quá nóng hoặc quá lạnh. Họ thiết lập
phương pháp né tránh sai lầm mà người khác tạo ra và còn hi vọng tận dụng chúng. Kết quả của việc
đầu tư sai lầm rất dễ xác định: giá cả khác với giá trị bản chất. Việc phát hiện nó và hành động trên nó
thì ít đơn giản hơn.
Điều quyền rũ và thách thức đó là sai lầm luôn vây quanh. Đôi lúc các giá cả quá cao và đôi lúc chúng
quá thấp. Đôi lúc việc phân tách giá khỏi giá trị tác động đến an toàn cá nhân hoặc tài sản, và đôi lúc là
toàn bộ thị trường – đôi lúc là thị trường này đôi lúc là thị trường kia. Đôi lúc sai lầm nằm ở việc làm
gì đó và đôi lúc là do không làm gì đó, đôi lúc là do chủ quan đôi lúc là do thiếu tự tin. Và tất nhiên,
khi xác định rằng rất nhiều người mắc sai lầm, vì thiếu đi sự đồng nhất nơi họ nó không thể tồn tại.
hành động theo hướng ngược lại yêu cầu phải có vị trí vững chắc, độc lập về cảm giác sai lầm.
Nhu là phần còn lại của những nhiệm vụ đã bàn tới trong sách này, tránh cạm bẫy và xác định, hành
động trước sai lầm rõ ràng là những nguyên tắc, thuật toán và phương pháp. Điều mà tôi thúc giục phải
nhận ra, sự linh hoạt, khả năng thích ứng và một quan niệm tập trung vào việc rút ra những đầu mối từ
môi trường.
Một cách để cải thiện kết quả kinh doanh – mà tôi đang cố áp dụng tại Oaktree – đó là nghĩ về “sai lầm
của hôm nay” có thể xảy ra và cố gắng tránh nó.
Có những lúc trong đầu tư sai lầm sẽ bao gồm:
 Không mua
 Không mua đủ
 Không đưa ra đấu thầu cao hơn
 Giữ quá nhiều tiền mặt
 Không dùng đủ đòn bẩy, hoặc
 Không chấp nhận đủ rủi ro
Tôi không nghĩ những điều đỏ sẽ mô tả cho năm 2004. Tôi luôn nghe rằng không có ai đợi cấp cứu tim
than phiền rằng “tôi ước tôi đã đến văn phòng nhiều hơn” văng, cũng như tôi không nghĩ có bất kì ai
trong những năm sắp tới sẽ nhìn lại và nói rằng “Tôi ước tôi đã đầu tư nhiều hơn trong năm 2004”
Thay vào đó, tôi nghĩ sai lầm của năm nay sẽ là thế này:
 Mua quá nhiều
 Mua quá liều lĩnh
 Đấu thầu quá cao
 Dùng đòn bẩy quá nhiều, và
 Chấp nhận quá nhiều rủi ro trong việc theo đuổi thu nhập cao.
Có những lúc khi những sai lầm đầu tư bị bỏ ngỏ: những thứ bạn lẽ ra phải làm thì không làm. Hôm
nay tôi nghĩ những sai lầm ấy có lẽ là do sự vi phạm: những thứ bạn lẽ ra không nên làm thì lại làm.
Có những lúc đó là liều lĩnh. Tôi nghĩ đây là lúc phải cẩn trọng.
Cuối cùng, điều quan trọng là phải luôn nhớ rằng ngoài những thời điểm mà sai lầm mang tính vi phạm
(chẳng hạn như khi mua) và những thời điểm mang tính bỏ sót (như không mua) thì còn có những thời
điểm sai lầm không rõ ràng. Khi tâm lý nhà đầu tư ở trạng thái cân bằng và sợ hãi và tham lam được
cân đối, thì giá tài sản dường như sẽ khá tương ứng với giá trị. Trong trường hợp đó có thể khôg có
hành động thúc ép, và điều quan trọng là phải biết như thế. Khi không có gì thực sự khôn khéo để làm
thì cạm bầy tiềm tàng nằm ngay ở thứ tưởng là sẽ khéo léo.
19 Điều quan trọng nhất là. . .Giá trị gia tăng

Hiệu suất của các nhà đầu tư giá trị là không đối xứng. Tỷ lệ tăng mà họ nắm bắt của thị trường
là cao hơn so với tỷ lệ tổn thất mà họ phải chịu đựng. . . . Chỉ có kỹ năng mới có thể được tín
nhiệm để tăng thêm trong môi trường thuận lợi so với chi phí của những đối thủ. Đây là sự bất
đối xứng trong đầu tư mà chúng ta tìm kiếm.

Không quá khó để thực hiện cho phù hợp với thị trường trong điều kiện rủi ro và lợi nhuận. Bí quyết là làm tốt
hơn so với thị trường: để thêm giá trị. Điều này đòi kỹ năng đầu tư cao, cái nhìn sâu sắc vượt trội. Vì vậy, ở
đây, ở gần cuối của cuốn sách, chúng tôi quay lại chu kỳ đầy đủ của chương đầu tiên và những nhà tư tưởng
cấp độ hai sở hữu các kỹ năng đặc biệt.
Mục đích của chương này là để giải thích ý nghĩa cho các nhà đầu tư khéo léo để gia tăng giá trị. Để thực
hiện điều đó, tôi sẽ giới thiệu hai hạn định từ lý thuyết đầu tư. Một là beta, thước đo độ nhạy tương đối của
một danh mục đầu tư biến động thị trường. Cái còn lại là alpha, là cái mà tôi xác định là kỹ năng đầu tư cá
nhân, hay khả năng để tạo ra hiệu suất mà không liên quan đến chuyển động của thị trường.

Như tôi đã đề cập trước đó, thật dễ dàng để thu hồi lại vốn thị trường. Một quỹ chỉ số thụ động sẽ chỉ
cho ra kết quả như thế bằng cách giữ mỗi an ninh trong một chỉ số thị trường nhất định theo tỷ lệ vốn
chủ sở hữu của nó. Do đó, nó phản ánh đặc điểm - ví dụ, khả năng tăng giá, rủi ro giảm, beta hoặc biến
động, tăng trưởng, sự phong phú hay làm giảm thanh danh, chất lượng hoặc sự thiếu đồng nhất - của
chỉ số được lựa chọn và cung cấp trở lại của mình. Nó là biểu tượng đầu tư không có giá trị gia tăng.

Hãy nói rằng, sau đó, tất cả các nhà đầu tư vốn cổ phần bắt đầu không phải với một tờ giấy trắng mà là với khả
năng chỉ đơn giản là bắt chước một chỉ số. Họ có thể đi ra ngoài và mua một số lượng thụ động thị trường trọng số của
từng cổ phiếu trong chỉ số, trong trường hợp hiệu suất của họ sẽ giống như của các chỉ số. Hoặc họ có thể thử hiệu
suất vượt trội thông qua đầu tư tích cực hơn là thụ động.

Các nhà đầu tư tích cực có một số tùy chọn có sẵn dành cho họ. Đầu tiên, họ có thể quyết định làm
cho danh mục đầu tư của họ tích cực hơn hoặc cầm chừng hơn các chỉ số, hoặc trên một cơ sở cố định
hoặc trong một nỗ lực tại thời điểm thị trường nhất định. Nếu nhà đầu tư lựa chọn gây hấn, ví dụ, họ có
thể làm tăng độ nhạy cảm thị trường danh mục đầu tư của họ bằng tăng vượt trội những cổ phiếu trong
chỉ số mà có biết động nhiều hơn so với những cổ phiếu còn lại, hoặc bằng cách sử dụng đòn bẩy. Làm
những điều này sẽ làm tăng “có hệ thống” rủi ro của một danh mục đầu tư, và biên độ beta của nó.
(Tuy nhiên, lý thuyết nói rằng trong khi điều này có thể làm tăng lợi nhuận của một danh mục đầu tư,
sự chênh lệch lợi nhuận sẽ được giải thích đầy đủ bởi sự gia tăng rủi ro hệ thống được gây ra. Như vậy,
làm những việc này sẽ không cải thiện lợi tức điều chỉnh rủi ro của danh mục đầu tư).

Thứ hai, các nhà đầu tư có thể quyết định để đi chệch khỏi các chỉ số để khai thác khả năng lựa chọn cổ
phiếu của họ, mua thêm một số cổ phiếu trong chỉ số, giảm giá trị hoặc loại trừ những cổ phiếu khác, và
thêm vào một vài cổ phiếu mà không phải là một phần của chỉ số. Qua đó, họ sẽ làm thay đổi độ phơi bày
của danh mục đầu tư của họ với các sự kiện cụ thể xảy ra ở những công ty cá nhân, và do đó để làm giá
những biến động mà chỉ ảnh hưởng đến cổ phiếu nhất định, không phải toàn bộ chỉ mục. Như một thành
phần của danh mục đầu tư phân kỳ của chỉ số vì những lý do “không hệ thống” (chúng ta có thể nói “mang
phong cách riêng”), lợi nhuận của họ cũng sẽ đi chệch hướng. Tuy nhiên, về lâu dài, trừ khi các nhà đầu tư
có cái nhìn sâu sắc vượt trội, những sai lệch sẽ bị hủy bỏ, và hiệu suất điều chỉnh rủi ro của chúng sẽ hội tụ
với hiệu suất của chỉ số.

Các nhà đầu tư tích cực, những người không có cái nhiều sâu sắc vượt trội, được mô tả trong chương 1
cũng không tốt gì hơn so với các nhà đầu tư thụ động, và danh mục đầu tư của họ không nên được dự kiến sẽ
có hiệu suất tốt hơn so với danh mục của đầu tư thụ động. Họ có thể cố gắng hết sức, đặt trọng tâm của họ
vào thế tấn công hay cầm chừng, hoặc kinh doanh vũ bão, nhưng hiệu suất điều chỉnh rủi ro của họ không
nên được dự kiến sẽ tốt hơn so với các danh mục đầu tư thụ động. (Và nó có thể xấu hơn do các rủi ro không
hệ thống, và phải chịu chi phí giao dịch vô ích).

Điều đó không có nghĩa là nếu các chỉ số thị trường tăng lên 15 phần trăm, mỗi giá trị không gia tăng của nhà
đầu tư tích cực nên được dự kiến sẽ đạt được lợi tức 15 phần trăm.

Họ sẽ giữ danh mục đầu tư hoạt động khác nhau, và một số sẽ thực hiện tốt hơn những người khác. . . chỉ là không
nhất quán hoặc đáng tin cậy. Nói chung họ sẽ phản ánh các thành phần của thị trường, nhưng mỗi người đều có
đặc thù riêng của họ.

Những nhà đầu tư tích cực, tiên đoán trước rủi ro, chẳng hạn, nên được dự kiến sẽ thực hiện nhiều hơn
các chỉ số trong những thời điểm tốt và thua lỗ nhiều hơn ở những thời điểm xấu. Đây là lúc beta xen vào.
Thuật ngữ beta, lý thuyết có nghĩa là biến động tương đối, hoặc sự đáp ứng tương đối của lợi nhuận trong
danh mục đầu tư đối với lợi nhuận thị trường. Một danh mục đầu tư có một beta trên 1 được dự kiến sẽ có
nhiều biến động hơn thị trường tham khảo, và một beta dưới 1 có nghĩa là nó sẽ có ít biến động hơn. Nhân
số lợi nhuận thị trường với các chỉ số beta và bạn sẽ có được lợi nhuận mà một danh mục đầu tư nhất định
nên được dự kiến sẽ đạt được, bỏ qua các nguồn rủi ro không hệ thống. Nếu thị trường tăng 15 phần trăm,
một danh mục đầu tư có chỉ số beta là 1,2 nên trả lại 18 phần trăm (cộng hoặc trừ alpha).

Lý thuyết nhìn vào thông tin này và cho rằng lợi nhuận tăng được giải thích bởi sự gia tăng trong chỉ số
beta, hoặc rủi ro có hệ thống. Nó cũng cho biết lợi nhuận không tăng để bù đắp cho rủi ro nào khác ngoài rủi ro
hệ thống. Tại sao không? Theo lý thuyết, rủi ro mà thị trường bù đắp chính là rủi ro nội tại và không thể thiếu
trong đầu tư: hệ thống hoặc “không thể đa dạng hóa” rủi ro. Phần còn lại của nguy cơ xuất phát từ quyết định
nắm giữ cổ phiếu cá nhân: rủi ro không hệ thống. Kể từ khi nguy cơ có thể được loại bỏ bằng cách đa dạng hóa,
tại sao các nhà đầu tư nên được bù đắp thêm lợi nhuận bổ sung để chịu đựng nó?

Thế thì, dựa theo lý thuyết, công thức để giải thích hiệu suất danh mục đầu tư (y) là như sau:
y =α +βx

Ở đây α là biểu tượng cho alpha, β là viết tắt của chỉ số beta, và x là lợi nhuận của thị trường. Lợi nhuận
liên quan đến thị trường của danh mục đầu tư bằng với chỉ số beta của nó nhân với lợi nhuận thị trường, và
alpha (lợi nhuận liên quan đến kỹ năng) được thêm vào để đi đến tổng lợi nhuận (tất nhiên, lý thuyết nói
không có tồn tại alpha).

Mặc dù tôi bỏ qua đặc tính giữa rủi ro và biến động, tôi xin nhấn mạnh vào xem xét lợi nhuận của một danh
mục đầu tư dưới ánh sáng của rủi ro tổng thể của của, như đã thảo luận trước đó. Một nhà quản lý mà kiếm được
18 phần trăm với một danh mục đầu tư mạo hiểm không nhất thiết là phải vượt trội so với một người kiếm được 15
phần trăm với một danh mục đầu tư có rủi ro thấp hơn. Lợi nhuận điều chỉnh rủi ro nắm giữ chìa khóa, mặc dù - là
do nguy cơ hơn là biến động không định lượng được - tôi cảm thấy nó được phán đoán tốt, chứ không phải do tính
toán một cách khoa học.

Tất nhiên, tôi cũng gạt bỏ ý tưởng rằng thuật ngữ alpha trong phương trình phải bằng 0. kỹ năng đầu tư
là có, mặc dù không phải tất cả mọi người đều có nó.

Chỉ thông qua suy nghĩ về lợi nhuận điểu chỉnh rủi ro, chúng tôi có thể xác định liệu một nhà đầu tư sở
hữu cái nhìn sâu sắc vượt trội, khả năng đầu tư hay là alpha. . . đó là, nhà đầu tư có thêm giá trị.

Mô hình alpha / beta là một cách tuyệt vời để đánh giá danh mục đầu tư, quản lý danh mục, chiến lược đầu tư,
phương án phân bổ tài sản. Nó thực sự là một cách có tổ chức để xem xét lợi nhuận đến từ những gì môi trường
cung cấp và bao nhiêu từ giá trị tăng thêm của người quản lý. Ví dụ, trường hợp dưới đây thể hiện rõ ràng rằng
người quản lý này không có bất kỳ kỹ năng nào:

Giai Lợi nhuận tiêu Lợi nhuận danh mục


đoạn chuẩn đầu tư

1 10 10

2 6 6
3 0 0
4 −10 −10
5 20 20

Nhưng người quản lý này cũng vậy (người di chuyển chỉ một nửa so với điểm chuẩn):

Giai Lợi nhuận tiêu Lợi nhuận danh mục


đoạn chuẩn đầu tư

1 10 5

2 6 3
3 0 0
4 −10 −5
5 20 10

Hay người này (người di chuyển nhiều gấp hai lần):


Giai đoạn Lợi nhuận tiêu chuẩn Lợi nhuận danh mục đầu tư

1 10 20
2 6 12
3 0 0
4 −10 −20
5 20 40
Người này có một chút:

Giai đoạn Lợi nhuận tiêu chuẩn Lợi nhuận danh mục đầu tư

1 10 11
2 6 8
3 0 −1
4 −10 −9
5 20 21

Trong khi người này có nhiều:

Giai Lợi nhuận tiêu chuẩn Lợi nhuận danh mục


đoạn đầu tư

1 10 12
2 6 10
3 0 3
4 −10 2
5 20 30

Người ngày có rất nhiều, nếu bạn có thể chịu được biến động:

Giai đoạn Lợi nhuận tiêu chuẩn Lợi nhuận danh mục đầu tư

1 10 25
2 6 20
3 0 −5
4 −10 −20
5 20 25

Điều thấy được rõ ràng từ các bảng này là “việc đánh bại thị trường” và “đầu tư cao cấp” có thể khác
xa với tương đồng của năm thứ nhất và thứ hai trong ví dụ thứ ba. Nó không chỉ là vấn đề lợi nhuận,
mà còn là những nguy cơ mà bạn có thể gặp phải.
"Lợi Nhuận và Cách Họ Kiếm Được Lợi Nhuận", ngày 11 tháng 11, 2002

Điều quan trọng là luôn ghi nhớ nhận xét này khi đánh giá kỹ năng của một nhà đầu tư và khi so sánh
các bản ghi của của một nhà đầu tư cầm chừng và một nhà đầu tư tích cực. Bạn có thể gọi đây là quá
trình điều chỉnh phong cách.
Trong một năm xấu, các nhà đầu tư cầm chừng thua lỗ ít hơn so với các nhà đầu tư tích cực. Họ có thêm giá trị
hay không? Không nhất thiết là như vậy. Trong một năm thuận lợi, nhà đầu tư tích cực kiếm được nhiều tiền hơn
các nhà đầu tư cầm chừng. Có phải là do họ giỏi hơn? Hầu như không có ai trả lời được mà không cần điều tra
thêm.

Chỉ trong một năm thì không thể đánh giá được gì về kỹ năng, đặc biệt là khi các kết quả phù hợp với
những gì được mong đợi trên cơ sở phong cách của chủ đầu tư. Nó có nghĩa là tương đối nhỏ mà một người
thích mạo hiểm đạt lợi nhuận cao trong một thị trường đang lên, hoặc là một nhà đầu tư thận trọng có thể
giảm thiểu thiệt hại trong một suy giảm. Câu hỏi thực sự là cách họ làm dài hạn và trong những môi trường
không tạo điều kiện thuận lợi cho phong cách của họ.
Ma trận 2 nhân 2 sẽ cho ta thấy rõ.

Nhà đầu tư tích cực Nhà đầu tư cầm chừng


Không có kỹ năng Thu được rất nhiều khi Không lỗ nhiều khi thị trường đi xuống,
thị trường đi lên, và lỗ rất nhiều khi thị trường nhưng cũng không thu nhiều lợi nhuận khi thị
đi xuống. trường đi lên.

Có kỹ năng Thu rất nhiều khi thị trường Không lỗ nhiều khi thị trường giảm, nhưng chỉ
đi lên, nhưng không lỗ khi thị trường giảm thu được một số lợi nhuận không đáng kể khi thị
trường tăng.

Điểm cốt lõi của ma trận này là sự đối xứng hoặc không đối xứng của hiệu suất. Nhà đầu tư thiếu kỹ năng đơn
giản là kiếm được lợi nhuận từ thị trường và mệnh lệnh theo phong cách của họ. Nếu không có kỹ năng, các nhà
đầu tư tích cực dao động rất nhiều theo cả hai hướng, và các nhà đầu tư phòng thủ dao động ít trong cả hai hướng.
Những nhà đầu tư này không đóng góp được gì ngoài sự lựa chọn của họ về phong cách. Mỗi người đều làm tốt
khi phong cách của họ gặp thuận lợi nhưng kém đi khi không còn thuận lợi nữa. Mặt khác, hiệu suất của các nhà
đầu tư thêm giá trị là không đối xứng. Tỷ lệ lợi nhuận thị trường mà họ nắm bắt được là cao hơn so với tỷ lệ tổn
thất mà họ phải gánh chịu. Nhà đầu tư tích cực có kỹ năng sẽ làm tốt trong thị trường con bò nhưng không tốt
tương đương như thế trong thị trường con gấu, trong khi các nhà đầu tư cầm chừng có kỹ năng sẽ thua lỗ tương đối
ít trong thị trường con gấu nhưng tham gia một cách hợp lý trong thị trường con bò.

Mọi thứ trong đầu tư là một con dao hai lưỡi và hoạt động đối xứng, với ngoại lệ của kỹ năng vượt
trội. Chỉ có kỹ năng có thể được tính vào để thêm vào trong môi trường thuận lợi hơn so với chi phí
của những môi trường không thân thiện. Đây là sự bất đối xứng đầu tư mà chúng ta tìm kiếm. Kỹ năng
vượt trội là điều kiện tiên quyết cho nó.

Đây là cách tôi mô tả khát vọng hiệu suất của Oaktree:

Trong những năm thuận lợi của thị trường, nó đủ tốt để được mức trung bình. Mọi người đều làm ra tiền
trong những năm thuận lợi, và tôi chưa nghe ai giải thích một cách thuyết phục tại sao nó quan trọng để đánh
bại thị trường khi thị trường đang thuận lợi. Không, trong những năm thuận trung bình là tốt rồi.

Tuy nhiên, sẽ có lúc, khi chúng ta xem xét là nó cần thiết để đánh bại thị trường, và đó là những năm
xấu. Khách hàng của chúng tôi không mong đợi việc phải chịu đựng gánh nặng đầy lỗ của thị trường khi
chúng xảy ra, và chúng ta cũng vậy.

Vì vậy, nó là mục tiêu của chúng tôi cũng như thị trường khi nó thuận lợi hơn và tốt hơn so với thị
trường khi nó kém đi. Ban đầu, nó nghe có vẻ như một mục tiêu khiêm tốn, nhưng nó thực sự khá tham
vọng.

Để ở lại với thị trường khi nó bất ổn, một danh mục đầu tư phải kết hợp các biện pháp tốt trong chỉ số
beta và tương quan với thị trường. Nhưng nến chúng ta được hỗ trợ bởi chỉ số beta và tương quan theo
hướng đi lên, liệu chúng có nên được dự kiện sẽ làm tổn hại chúng ta theo hướng đi xuống?

Nếu chúng ta luôn có thể giảm ít hơn khi thị trường giảm và cũng tham gia đầy đủ khi thị trường tăng
lên, điều này có thể được quy cho một điều duy nhất: alpha, hoặc kỹ năng.

Đó là một ví dụ về đầu tư giá trị gia tăng, và nếu được chứng minh trong khoảng thời gian vài thập kỷ, nó phải
đến từ kỹ năng đầu từ. Không đối xứng - hiệu suất tốt hơn theo hướng đi lên hơn về mặt nhược điểm so với những
gì phong cách của một mình bạn sẽ tạo ra - nên là mục tiêu của mọi nhà đầu tư.
20 Điều quan trọng nhất là… Kết hợp nhuần nhuyễn với
nhau
Giá trị là nền tảng tốt nhất cho đầu tư thành công hoặc sự nghiệp đầu tư thành công. Bạn phải có một ý
tưởng tốt về những cái bạn đang cân nhắc để mua vào là giá trị. Có rất nhiều các thành tố và nhiều cách
nhìn về điều đó. Để đơn giản hóa, đó là tiền mặt trên sổ sách và giá trị của các tài sản hữu hình; khả
năng của công ty hoặc tài sản để tạo ra tiền mặt; và tiềm năng cho việc này để tăng số lượng tiền mặt.
§§§

Để đạt được kết quả đầu tư cao, bạn phải thấu hiểu sâu sắc về giá trị. Vì vậy bạn phải học hỏi những
điều người khác không học, nhìn những điều đó theo 1 cách khác biệt hay phân thích chúng 1 cách sâu
sắc, rõ ràng hơn – lí tưởng nhất là làm cả ba điều kể trên.
§§§

Quan điểm của bạn về giá trị phải được dựa trên một nền tảng phân tích và thực tế vững chắc, và bạn
phải nắm vững về nó. Chỉ từ đó bạn mới biết khi nào nên mua hay bán. Chỉ có một ý thức mạnh mẽ về
giá trị mới cung cấp cho bạn những sự rèn luyện cần thiết để có lợi nhuận từ tài sản được đánh giá cao
cái mà mọi người đều nghĩ sẽ tăng lên không ngừng nghỉ, hoặc can đảm để giữ giá và sự xa sút tại mức
trung bình trong một cuộc khủng hoảng ngay cả khi giá xuống thấp hơn mỗi ngày. Tất nhiên, vì những
nỗ lực của bạn về những sự liên quan đó là có sinh lợi, bạn phải đạt được những ước tính của mình về
giá trị.
§§§

Mối quan hệ giữa giá cả và giá trị nắm giữ chìa khóa cuối cùng để đầu tư thành công. Mua vào tại giá
trị thấp hơn là con đường đáng tin cậy nhất để tạo ra lợi nhuận. Chi trả tại giá trị cao hơn cũng hiếm
khi hiệu quả.
§§§

Điều gì gây ra việc một tài sản bị bán dưới mức giá trị của nó? Những cơ hội mua xuất sắc tồn tại chủ
yếu là do nhận thức không đủ thực tế. Trong khi đó, chất lượng cao có thể là rất hiển nhiên, nó có cái
nhìn sắc bén để phát hiện ra sự vô giá trị. Vì lý do này, các nhà đầu tư thường ngộ nhận ưu điểm khách
quan là cơ hội đầu tư. Các nhà đầu tư vượt trội không bao giờ quên rằng mục tiêu là để kiếm tìm 1 sự
tiêu thụ tốt, chứ không phải tài sản tốt.
§§§

Ngoài việc làm phát sinh lợi nhuận tiềm năng, mua vào khi giá cả thấp hơn giá trị là một yếu tố quan
trọng trong việc hạn chế rủi ro. Cả việc trả tiền cho tăng trưởng cao và tham gia vào một thị trường
thay đổi kịch liệt đều không thể làm như vậy.
§§§

Mối quan hệ giữa giá cả và giá trị bị ảnh hưởng bởi tâm lý và kỹ thuật, những ảnh hưởng có thể kiềm
chế những nguyên tắc căn bản trong thời gian ngắn. Sự thay đổi to lớn trong giá cả do hai yếu tố tạo cơ
hội cho những nguồn lợi nhuận lớn hoặc những sai lầm nghiêm trọng. Để có những lợi nhuận lớn thay
vì lỗi lầm nghiêm trọng, bạn phải ghi nhớ các khái niệm về giá trị và đối phó với tâm lý và kỹ thuật.
§§§

Các nền kinh tế và các thị trường đều có lúc thăng lúc trầm. Dù cho họ đang đi theo hướng nào tại thời
điểm này, thì hầu hết mọi người tin rằng họ sẽ đi theo cách đó mãi mãi. Suy nghĩ này là một cội nguồn
của sự nguy hiểm to lớn mà hầu hết các nhà đầu tư thấy khó cưỡng lại vì nó đầu độc các thị trường,
làm cho những sự định giá trở nên cực đoan, và đốt cháy những ảo tưởng và sự sợ hãi.
§§§

Tương tự như vậy, tâm lý của những nhà đầu tư di chuyển theo một cách đều đặn và có định kì – từ lạc
quan đến bi quan; từ dễ tin đến hoài nghi; từ việc lo sợ bỏ lỡ cơ hội đển sợ bị mất tiền; và do đó từ việc
mua vào bình tĩnh chuyển sang bán ra khẩn cấp– con lắc đồng hồ là 1 hình mẫu. Các sự thay đổi của
tâm lí làm cho đám đông mua vào với giá cao và bán ra với giá thấp. Vì vậy, là một phần của đám
đông là một thảm họa, trong khi tư tưởng phản đối ý kiến đám đông sẽ giúp ngăn chặn thiệt hại và cuối
cùng sẽ dẫn để thành công.
§§§
Đặc biệt, sự ngại rủi ro – một số lượng thích hợp của những yếu tố cần thiết trong một thị trường minh
bạch – đôi khi thiếu thốn và đôi khi quá mức. Sự biến động của tâm lý nhà đầu tư trong lĩnh vực này
đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra các bong bóng và sự thất bại của thị trường.
§§§

Không bao giờ được đánh giá thấp sức mạnh của những ảnh hưởng tâm lý. Tham lam, sợ hãi, dừng
hoài nghi, thủ cựu, ghen tị, bản ngã và đầu hàng đều là một phần của bản chất con người, và chúng có
khả năng mạnh mẽ để ép buộc, quy định hành động, đặc biệt là khi chúng trở nên cực đoan và bị ảnh
hưởng bởi đám đông. Chúng sẽ ảnh hưởng đến những những nhân tố khác, và ngay cả các nhà đầu tư
thận trọng cũng sẽ cảm nhận được chúng. Không ai trong chúng ta nên mong đợi để được miễn dịch và
cách ly khỏi chúng. Mặc dù chúng ta sẽ cảm nhận được chúng, chúng ta không được chịu thua; đúng
hơn, chúng ta phải nhận ra chúng là gì và chống lại chúng. Lý trí phải chiến thắng cảm xúc.
§§§

Hầu hết các xu hướng – cả tăng và giảm – cuối cùng trở thành quá đà, những người nhận ra chúng sớm
sẽ được hưởng lợi và những người nhận ra cuối cùng sẽ bị chừng phạt. Đó là lý do đằng sau câu ngạn
ngữ số một về đầu tư của tôi: “Điều mà những người khôn ngoan làm lúc khởi đầu thì thằng ngốc lại
làm khi kết thúc”. Khả năng chống lại sự thái quá là hiếm hoi, nhưng nó là một đặc tính quan trọng của
các nhà đầu tư thành công nhất.
§§§

Nó là không thể để biết khi nào một thị trường quá nóng sẽ hạ nhiệt, hoặc khi nào một cuộc suy thoái
sẽ chấm dứt và sự tăng giá sẽ diễn ra. Nhưng trong khi chúng ta không bao giờ biết chúng ta đang đi
đâu, thì chúng ta phải biết chúng ta ở đâu. Chúng ta có thể suy ra vị trí của thị trường trong chu kỳ của
chúng từ hành vi của những người xung quanh chúng ta. Khi các nhà đầu tư khác không thấy lo lắng,
chúng ta nên thận trọng; khi các nhà đầu tư hoảng sợ, chúng ta nên mạo hiểm và tiến lên.
§§§
Tuy nhiên, ngay cả những người đi ngược lại với tư tưởng của đám đông cũng sẽ không tạo ra lợi
nhuận tại tất cả mọi thời điểm. Các cơ hội tuyệt vời để mua và bán được tạo ra từ những cực đoan
trong việc định giá, và những đặc điểm khác với ngày thường. Chúng chắc chắn cũng mua và bán tại
những ít điểm hấp dẫn trong chu kỳ, vì ít người trong chúng ta có thể thấy thỏa mãn để hành động chỉ
một lần trong một vài năm. Chúng ta phải nhận ra khi nào thì những vận may sẽ ít hơn và phải bước đi
cẩn thận hơn.
§§§

Việc mua bán, trao đổi dựa trên giá trị mạnh mẽ, giá cả thì thấp hơn so với giá trị, và tâm lý chán nản
chung là khả năng mang đến các kết quả tốt nhất. Tuy nhiên, thậm chí mọi thứ có thể đi ngược lại với
chúng ta trong một thời gian dài trước khi quay lại như chúng ta nghĩ. Giá cả quá thấp thì khác xa với
những từ đồng nghĩa của sớm tăng giá. Do đó, tầm quan trọng của câu ngạn ngữ quan trọng thứ hai của
tôi là: “Những ý tưởng mới quá cấp tiến thì cũng không khác gì với sai trái” Nó có thể đòi hỏi sự kiên
nhẫn và dũng cảm để giữ những điều đó đủ lâu để được chứng minh là đúng
§§§
Ngoài việc có thể định lượng được giá trị và cố gắng giành được nó khi nó đang được bán đúng giá,
các nhà đầu tư thành công phải có một cách tiếp cận sâu sắc cho các khía cạnh của rủi ro. Họ phải vượt
ra ngoài định nghĩa đặc biệt của rủi ro như sự biến động khó lường và hiểu rằng những rủi ro mà tác
động đến chúng ta thì phần lớn là những rủi ro về việc thua lỗ thường xuyên. Họ phải từ chối việc
mang rủi ro gia tăng như một công thức chắc chắn cho sự thành công của đầu tư và biết rằng các khoản
đầu tư với rủi ro càng cao thì đòi hỏi một phạm vi của các kết quả càng rộng và xác suất thua lỗ càng
lớn. Họ cần phải có một sự nhận thức đối với khả năng thua lỗ cái mà hiện diện trong mỗi khoản đầu
tư và sẵn sàng chịu đựng điều đó chỉ khi phần thưởng là đầy đủ hơn.
§§§
Hầu hết các nhà đầu tư là những người đơn giản hóa vấn đề và luôn bận tâm đến những cơ hội để tạo
ra lợi nhuận. Một vài người đạt được cái nhìn sâu sắc hơn nữa và biết rằng việc hiểu về nguy cơ cũng
quan trọng như việc hiểu về lợi nhuận. Nhưng đó là những nhà đầu tư hiếm hoi người đạt được sự tinh
tế cần thiết để đánh giá cao sự tương quan giữa rủi ro và lợi nhuận, đó là một yếu tố quan trọng trong
việc kiểm soát rủi ro của một danh mục đầu tư tổng thể. Do sự khác biệt trong mối quan hệ tương quan,
các khoản đầu tư cá nhân của cùng sự rủi ro hiển nhiên có thể được kết hợp theo những cách khác nhau
để tạo thành danh mục đầu tư với tổng số mức độ rủi ro khác nhau. Hầu hết các nhà đầu tư nghĩ sự đa
dạng là giữ nhiều thứ khác nhau; ít người hiểu rằng đa dạng chỉ có hiệu quả chỉ khi các thị phần danh
mục đầu tư có thể được mong đợi để đáp ứng một cách khác nhau để phát triển được trong môi trường.
§§§

Trong khi đầu tư mạo hiểm có thể tạo ra những kết quả thú vị khi nó đi đúng hướng, đặc biệt là trong
những thời điểm tốt – nó dường như không tạo ra lợi nhuận đáng tin cậy như đầu tư phòng thủ, thân
trọng. Do đó, một tỷ lệ và mức độ thiệt hại thấp là một phần của hầu hết các kỉ lục đầu tư xuất sắc.
Phương châm của Oaktree là “Nếu chúng ta tránh những kẻ thua cuộc, những người chiến thắng sẽ
chăm sóc bản thân họ” đã hoạt động tốt trong những năm qua. Có một danh mục đa dạng của các
khoản đầu tư, mỗi danh mục trong số đó có lẽ không gây ra thiệt hại đáng kể, và nó là một khởi đầu tốt
đối với đầu tư thành công.
§§§
Kiểm soát rủi ro là điểm cốt lõi của đầu tư phòng thủ. Thay vì chỉ cố gắng làm những điều đúng, nhà
đầu tư phòng thủ đặt một sự nhấn mạnh vào việc không làm điều sai trái. Bởi vì bảo đảm khả năng
sống sót trong những tình huống bất lợi là không phù hợp với việc tối đa hóa lợi nhuận trong thời gian
tốt, nhà đầu tư phải quyết định nên đạt được thế cân bằng nào giữa 2 yếu tố. Các nhà đầu tư phòng thủ
chú trọng đến điều đầu tiên: đảm bảo khả năng để tồn tại trong những tình huống bất lợi.
§§§
Lợi nhuận từ việc sai số là một yếu tố quan trọng trong việc đầu tư phòng thủ. Trong khi hầu hết các
khoản đầu tư sẽ thành công nếu tương lai mở ra như mong muốn, lấy lợi nhuận từ lỗi sai số để làm cho
kết quả trở nên chấp nhận được khi tương lai không giúp đỡ bạn. Một nhà đầu tư có thể thu được lợi
nhuận từ lỗi sai số bằng cách nhấn mạnh vào những điều có thật, kéo dài giá trị trong hiện tại; chỉ mua
vào khi giá cả thấp hơn giá trị; tránh sử dụng đòn bẩy; và đa dạng hóa danh mục đầu tư. Nhấn mạnh
những yếu tố này có thể hạn chế lợi ích của bạn trong những thời điểm tốt, nhưng nó cũng sẽ tối đa hóa
cơ hội của bạn đạt tới sự nguyên vẹn khi mọi thứ không diễn ra tốt đẹp. Câu châm ngôn yêu thích thứ
ba của tôi là “Không bao giờ quên người đàn ông cao sáu phút người đã chết đuối khi băng qua dòng
nơi mà độ sâu trung bình là 5 phút.” Lợi nhuận từ lỗi sai số cho bạn sức mạnh bền bỉ và được đưa bạn
qua các thời điểm không tốt.
§§§

Kiểm soát rủi ro và lợi nhuận từ lỗi sai số nên luôn luôn có mặt trong danh mục đầu tư của mình ở.
Nhưng bạn phải nhớ rằng chúng là “tài sản ẩn.” Hầu hết các năm trong thị trường là những thời điểm
tốt, nhưng giá trị của phòng thủ chỉ trở nên rõ ràng tại những thời điểm khó khăn – khi mà thời cơ đã
trôi qua. Như vậy, trong những năm thuận lợi, các nhà đầu tư phòng thủ phải tự tin với sự hiểu biết
rằng họ đã đạt được nhiều lợi ích với sự bảo vệ rủi ro ở đúng chỗ, mặc dù có lẽ ít hơn mức tối đa… và
hóa ra nó là không cần thiết.
§§§

Một trong những yêu cầu thiết yếu cho sự thành công của đầu tư – phần lớn sự chuẩn bị tâm lý của các
nhà đầu tư vĩ đại là sự nhận thức rằng chúng ta không biết những gì nằm phía trước về tương lai vĩ mô.
Nếu có, rất ít người biết nhiều hơn sự đồng thuận về những gì sẽ xảy ra cho nền kinh tế, lãi suất và
những tổ hợp của thị trường. Như vậy, thời gian của nhà đầu tư thì tốt hơn được dành cố gắng để đạt
được một lợi thế kiến thức liên quan đến “những bí quyết có thể”: các ngành công nghiệp, các công ty
chứng khoán. Bạn càng tập trung vào những điều nhỏ nhặt, khả năng bạn có thể học hỏi những điều
người khác không học càng lớn.
§§§

Có nhiều nhà đầu tư hơn cho rằng họ có kiến thức về định hướng tương lai của nền kinh tế và thị
trường và họ hành động theo cách đó hơn là những điều thực sự diễn ra. Họ có những hành động hiếu
chiến khẳng định dựa trên hiểu biết rằng những gì sắp tới, và điều đó hiếm khi tạo ra những kết quả
mong muốn. Đầu tư trên cơ sở dự báo được tổ chức mạnh mẽ nhưng không chính xác là một nguồn
gốc của sự thua lỗ đáng kể tiềm tàng.
§§§

Nhiều nhà đầu tư – nghiệp dư lẫn các chuyên nghiệp – đều giả sử thế giới hoạt động theo các quá trình
có trật tự cái mà có thể được điều khiển và dự đoán. Họ bỏ qua tính ngẫu nhiên của mọi vật và sự phân
bố xác suất cái mà làm nền tảng cho sự phát triển trong tương lai. Do đó, họ lựa chọn để đặt hành động
của họ dựa trên một kịch bản mà họ dự đoán sẽ thuận lợi. Đôi khi công trình này sẽ mang đến thanh
danh cho các nhà đầu tư, nhưng không đủ bền vững để tạo ra thành công lâu dài. Trong cả dự báo kinh
tế và quản lý đầu tư, đáng ghi nhớ rằng luôn có một vài người đạt được điều đúng chính xác nhưng nó
hiếm khi lặp lại hai lần với cùng một người. Các nhà đầu tư thành công nhất đều làm những điều đúng
trong phần lớn thời gian, và điều đó thì tốt hơn nhiều so với phần còn lại.
§§§

Một phần quan trọng của việc làm những đúng bao gồm tránh những cạm bẫy mà thường được thể
hiện bởi những biến động kinh tế, những khó khan của các công ty, sự biến động thất thường của thị
trường, và sự cả tin của các nhà đầu tư khác. Không có cách nào chắc chắn để thực hiện điều này,
nhưng nhận thức về những mối nguy hiểm tiềm tàng đó chắc chắn đại diện cho các điểm khởi đầu tốt
nhất của một nỗ lực để tránh trở thành nạn nhân của chúng.
§§§

Không phải các nhà đầu tư phòng thủ người mà hạn chế tổn thất của họ trong một sự suy giảm và cũng
không phải các nhà đầu tư mạo hiểm với mức tăng đáng kể trong một thị trường tăng đã chứng minh
nhữn kỹ năng họ có. Đối với chúng tôi để kết luận rằng các nhà đầu tư thực sự gia tăng giá trị, chúng ta
phải xem cách họ thể hiện trong môi trường mà không phải là đặc biệt thích hợp với phong cách của họ.
Liệu các nhà đầu tư mạo hiểm có thể tránh khỏi việc giảm lợi nhuận khi thị trường đi xuống hay
không? Còn các nhà đầu tư phòng thủ sẽ vào cuộc khi thị trường tăng lên chứ? Tình trạng không đối
xứng này là sự biểu hiện của kỹ năng thực sự. Có phải nhà đầu tư có nhiều người chiến thắng nhiều
hơn là người thua cuộc hay không? Lợi ích của những người chiến thắng thì lớn hơn sự thua lỗ của
người thua cuộc phải không? Hay là những năm tháng thuận lợi đem lại nhiều lợi ích hơn so với những
năm tháng khó khăn đầy đau khổ? Và có phải là kết quả dài hạn thì tốt hơn so với phong cách của chủ
đầu tư với một đề nghị duy nhất? Những điều này là các dấu hiệu của các nhà đầu tư vượt trội. Nếu
không có chúng, lợi nhuận có thể là nhiều hơn một chút so với diễn biến và sự thành công của thị
trường.
§§§
Chỉ có các nhà đầu tư có cái nhìn sâu sắc khác thường mới có thể tiên đoán đều đặn sự phân bổ xác
suất cái mà điều chỉnh các sự kiện trong tương lai và có ý nghĩa khi những lợi nhuận tiềm năng bù đắp
cho những rủi ro cái mà ẩn nấp sự trong tiêu cực của phân phối rủi ro của việc thua lỗ. Điều này mô tả
đơn giản về các yêu cầu cho thành công đầu tư dựa trên sự hiểu biết nhiều về lợi ích có thể và nguy cơ
của những sự phát triển không mong đợi – những yếu tố đó nên nhận được sự chú ý của bạn. Tôi phó
thác nhiệm vụ cho bạn. Nó sẽ đưa bạn vào một thử thách, thú vị và suy nghĩ – hành trình phấn khích.

You might also like