You are on page 1of 16

KHOA CÔNG NGHỆ ĐỘNG LỰC HỆ THỐNG BÔI TRƠN

CHƯƠNG 4 : HỆ THỐNG BÔI TRƠN

Đũa đẩy
Lọc nhớt tinh

Con đội

Cạcte nhớt

Sên cam

Nhông cốt
máy
Thân máy

Trục cam

Đường nhớt
chính

Piston
Trục khủyu Thanh truyền
Bơm nhớt
Lọc nhớt thô Cạcte nhớt

4.1 NHIỆM VỤ CỦA HỆ THỐNG BÔI TRƠN VÀ CÔNG DỤNG CỦA DẦU
NHỜN
- Hệ thống bôi trơn của động cơ đốt trong có nhiệm vụ đưa dầu đến các mặt ma sát,
đồng thời lọc sạch những tạp chấ ́ t lẫn trong dầu nhờn khi dầu nhờn tẩy rửa các mặt ma sát
này và làm mát dầu nhờn để đảm bảo tính năng hoá lý của nó.
- Hệ thống bôi trơn của các loại động cơ đốt trong đều dùng dầu nhờn để làm
giảm ma sát của ổ trục, đưa nhiệt lượng do ma sát sinh ra ra khỏi ổ trục. Ngoài ra dầu
nhờn còn bảo vệ các bề mặt của các chi tiết trong động cơ không bị gỉ (oxyt hoá bề mặt).
- Dầu bôi trơn (dầu nhờn) dùng trong các hệ thống bôi trơn có rất nhiều loại. Lựa
chọn sử dụng loại dầu nhờn nào tuỳ thuộc vào mức độ phụ tải của ổ trục tính năng tốc độ
và mức độ cường hoá của động cơ. Nhưng nói chung, dầu nhờn trong động cơ đốt trong
có 4 công dụng cơ bản sau đây:

BỘ MÔN ĐỘNG CƠ
KHOA CÔNG NGHỆ ĐỘNG LỰC HỆ THỐNG BÔI TRƠN

1- Bôi trơn các bề mặt ma sát, làm giảm tổn thất ma sát: Trong trường hợp này
dầu nhờn đóng vai trò chất liệu trung gian đệm vào giữa các bề mặt ma sát có chuyển
động tương đối với nhau khiến cho các mặt ma sát không trực tiếp tiếp xúc với nhau.
Chính căn cứ vào tính chất này mà người ta phân loại ma sát trượt của ổ trục thành 4
loại:
-Ma sát khô xảy ra khi giữa hai bề mặt ma sát hoàn toàn không có dầu
nhờn, các mặt ma sát trực tiếp tiếp xúc với nhau.
-Ma sát ướt xảy ra khi giữa hai bề mặt ma sa(t có một lớp dầu bôi trơn
khiến trong quá trình chuyển động các mặt ma sát hoàn toàn không tiếp xúc trực tiếp với
nhau.
-Ma sát nửa khô hoặc nửa ướt xảy ra khi màng dầu nhờn ngăn cách bề mặt
ma sát bị phá hoại. Mặt ma sát tiếp xúc cục bộ ở những vùng màng dầu nhờn bị phá hoại.
-Ma sát tới hạn: là trạng thái trung gian giữa ma sát khô và ma sát ướt. Khi
xảy ra ma sát tới hạn, trên mặt ma sát tồn tại một màng dầu rất mỏng, màng dầu này chịu
tác dụng của lực phân tử của bề mặt kim loại nên bám chặt trên bề mặt kim loại và mất
khả năng lưu động. Vì vậy trong trường hợp này, lực ma sát quyết định bởi quá trình sản
sinh do kết quả của lực tương tác giữa bề mặt ma sát và màng dầu nhờn.
Vì vậy, trong quá grình
làm việc thực tế, ma sát của ổ Vật liệu ổ trục Hệ số ma sát
trục thường có thể đồng thời tồn Ma sát khô Ma sát ướt
tại 3 loại ma sát: ma sát ướt, ma
sát nửa khô hoặc nửa ướt và ma Gang với gang 0,15 0,07 0,12
sát tới hạn. Gang với đồng 0,15 0,2 0,07 0,15
Hệ số ma sát của các loại Thép với thép 0,15 0,05 0,1
vật liệu ổ trục trong điều kiện
Thép với đồng 0,15 0,01 0,15
ma sát khô và ma sát ướt giới
thiệu trong bảng bên. Thép với Babit 0,25 0,28 0,05 0,1
Thép với Nhôm 0,20 0,05 0,1

2 - Làm mát ổ trục: Trong quá trình làm việc, công do tổn thất ma sát chuyển biến
thành nhiệt năng làm nhiệt độ của ổ trục tăng lên rất cao. Nếu không có dầu nhờn, các ma
sát sẽ bị quá nóng rồi hư hỏng. Vì vậy, dầu nhờn trong trường hợp này đả ̃ đóng vai trò
chất lỏng làm mặt ổ trục, tải nhiệt lượng do ma sát sinh ra khỏi ổ trục, đảm bảo nhiệt độ
làm việc bình thường của ổ trục.

BỘ MÔN ĐỘNG CƠ
KHOA CÔNG NGHỆ ĐỘNG LỰC HỆ THỐNG BÔI TRƠN

Cần phải lưu ý


rằng nhiệt hoá hơi của
dầu nhờn chỉ vào
khoảng 40 
70kcal/kg (trong khi
đó nhiệt hoá hơi của
nước là 590kcal/kg)
và khả năng dẫn nhiệt
của dầu nhờn cũng rất
nhỏ (0,0005
cal/0C.g.s; trong khi
ấy, của nước là
0,0015cal/0C.g.s).
Nhưng nước không thể thay thế được chức năng của dầu nhờn. Vì vậy, để dầu nhờn phát
huy được tác dụng làm mát các mặt ma sát, bơm dầu nhờn của hệ thống bôi trơn phải
cung cấp cho các mặt ma sát một lượng dầu khá lớn.
3-Tẩy rửa mặt ma sát: Trong quá trình làm việc, các mặt ma sát cọ sát với nhau
gây nên mài mòn mạt kim loại rơi ra bám trên mặt ma sát. Do có dầu nhờn chảy qua mặt
ma sát nên nó cuốn theo các tạp chất trên mặt ma sát; vì vậy đảm bảo mặt ma sát luôn
luôn sạch, tránh được hiện tượng mài mòn do tạp chất cơ học.
4-Bao kín khe hở : giữa pittông với xilanh, giữa xecmăng với pittông v.v… khiến
cho khả năng lọt khí qua các khe hở này giảm đi.
Bốn công dụng kể trên của dầu nhờn phụ thuộc rất nhiều vào tính năng hoá lý của
dầu nhờn, nhất là phụ thuộc vào độ nhớt của nó.
4.2 CÁC PHƯƠNG ÁN BÔI TRƠN THƯỜNG DÙNG TRONG ĐỘNG CƠ ĐỐT
TRONG
- Để cung cấp dầu nhờn liên tục đến các mặt ma sát của các chi tiết máy chuyển
động của các động cơ đốt trong, ta có thể lựa chọn những phương pháp bôi trơn, kiểu bố
trí hệ thống bôi trơn khác nhau.
L- ựa chọn phương án bôi trơn nào, tuỳ thuộc vào tính năng tốc độ, công suất,
mức độ phụ tải trên ổ trục và công dụng của động cơ đốt trong. Nói chung khi thiết kế
chọn một trong những phương án bôi trơn dưới đây:
4.2.1-Bôi trơn bằng phương pháp vung té dầu.
- Phương án bôi trơn này thường dùng trong các động cơ một xylanh, kiểu xylanh
nằm ngang có kết cấu rất đơn giản như động cơ T62, W1105 v.v… hoặc trong một vài
loại động cơ một xylanh kiểu đứng kết hợp bôi trơn vung té dầu với bôi trơn bằng cách
nhỏ dầu như động cơ Bécna, Slavia kiểu cũ v.v…

BỘ MÔN ĐỘNG CƠ
KHOA CÔNG NGHỆ ĐỘNG LỰC HỆ THỐNG BÔI TRƠN

Nguyên lý làm việc cụ thể như sau: Dầu nhờn chứa trong cácte được thìa múc dầu
lắp trên đầu to thanh truyền múc hắt tung lên. Mỗi một vòng quay của trục khuỷu thìa
hắt dầu múc dầu một lần. Các hạt dầu vung té bên trong không gian của cácte sẽ rơi tự do
xuống các mặt ma sát của ổ trục. Để đảm bảo cho các ổ trục không bị thiếu dầu, trên các

vách ngăn bên trên ổ trục thường có các gân hứng dầu.
- Phương án bôi trơn này rất lạc hậu, không đảm bảo lưu lượng dầu bôi trơn của ổ
trục nên rất ít khi dùng. Nó chỉ còn tồn tại trong các động cơ kiều cũ, công suất nhỏ và
tốc độ thấp. Tuy nhiên, ưu điểm của phương án này là kết cấu của hệ thống bôi trơn rất
đơn giản.
4.2.2-Phương án bôi trơn cưỡng bức.
- Hầu hết các động cơ đốt trong ngày nay đều dùng phương án bôi trơn cưỡng bức:
Dầu nhờn trong hệ thống bôi trơn được bơm dầu đẩy đến các bề mặt ma sát dưới một áp
suất nhất định, do đó hoàn toàn có thể đảm bảo yêu cầu bôi trơn, làm mát và tẩy rửa mặt
ma sát của ổ trục.
- Hệ thống bôi trơn cưỡng bức của động cơ đốt trong thường bao gồm các bộ phận
cơ bản sau đây: thùng chứa dầu hoặc cácte, bơm dầu nhờn, bầu lọc thô và lọc tinh dầu
nhờn, két làm mát dầu nhờn, các đường ống dẫn dầu, đồng hồ báo áp suất và đồng hồ báo
nhiệt độ dầu nhờn.
- Tuỳ theo vị trí chứa dầu nhờn, hệ thống bôi trơn cưỡng bức phân thành hai loại: hệ
thống bôi trơn cácte ướt (dầu chứa trong cácte) và hệ thống bôi trơn cácte khô (dầu chứa
trong thùng dầu bên ngoài cácte). Căn cứ vào hình thức lọc và hệ thống bôi trơn cưỡng
bức lại phân thành hai loại: hệ thống bôi trơn dùng lọc thấm và hệ thống bôi trơn dùng
lọc ly tâm (toàn phần và không toàn phần).
* Nguyên lý làm việc của hệ thống bôi trơn cưỡng bức cácte ướt như sau.
Dầu nhờn chứa trong cácte được bơm dầu hút qua phao hút (vị trí của phao hút bao
giờ cũng nằm lập lờ ở mặt thoáng của dầu nhờn để hút được dầu sách và không có bọt
khí) đẩy qua lọc thô . Ở đây dầu được lọc sạch các tạp chất cơ học có cỡ hạt lớn, sau đó

BỘ MÔN ĐỘNG CƠ
KHOA CÔNG NGHỆ ĐỘNG LỰC HỆ THỐNG BÔI TRƠN

dầu nhờn được đẩy vào đường dầu nhờn chính để chảy đến các ổ trục khuỷu; ổ trục cam
v.v… Đường dầu trong trục khuỷu đưa dầu lên bôi trơn ổ chốt (ổ dầu to thanh truyền) rồi
theo đường dầu trên thanh truyền lên bôi trơn chốt pittông. Nếu trên thanh truyền không
có đường dầu thì đầu nhỏ thanh truyền phải có lỗ hứng dầu. Trên đường dầu chính còn có

các đường dầu đưa dầu đi bôi trơn cơ cấu phối khí v.v… .
Sơ đồ hệ thống bôi trơn cưỡng bức cạcte ướt
- Khi nhiệt độ của dầu lên cao quá 800C, do độ nhớt giảm sút, van điều khiển sẽ
mở để dầu nhờn đi qua két làm mát. Khi bầu lọc thô bị bí tắc, van an toàn được dầu nhờn
đẩy mở ra, dầu sẽ không qua lọc thô mà lên thẳng đường dầu chính. Van an toàn đảm bảo
áp suất của dầu bôi trơn của toàn hệ thống có trị số không đổi.
- Ngoài ra, để bôi trơn bề mặt làm việc của xylanh, pittông v.v… ta lợi dụng dầu
vung ra khỏi ổ đầu to thanh truyền trong quá trình làm việc. Ở một vài loại động cơ, trên
đầu to thanh truyền khoan một lỗ nhỏ để phun dầu về phía trục cam, cải thiện điều kiện
bôi trơn cho trục cam và cho xylanh.
* Nguyên lý làm việc của hệ thống bôi trơn cưỡng bức cácte khô.
- Sự khác nhau của hệ
thống bôi trơn cácte khô so với
hệ thống bôi trơn cácte ướt thể
hiện ở chỗ hệ thống bôi trơn
cácte khô dùng thêm hai bơm
dầu phụ 15 để hút hết dầu
trong cácte về thùng dưới 14,
sau đó bơm 2 hút dầu từ thùng
chứa đi bôi trơn.

BỘ MÔN ĐỘNG CƠ Sơ đồ hệ thống bôi trơn cưỡng bức cạcte khô


KHOA CÔNG NGHỆ ĐỘNG LỰC HỆ THỐNG BÔI TRƠN

- Do dầu nhờn được chứa trong thùng dầu ngoài cácte nên động cơ có thể làm việc
ở độ nghiêng lớn mà không sợ thiếu dầu như loại cácte ướt (ở loại này khi động cơ làm
việc ở độ nghiêng lớn, dầu nhờn dồn về một phía khiến phao hút dầu bị hẫng). Vì vậy các
loại động cơ điêzen dùng trên máy ủi
đất, xe tăng, máy kéo, tàu thuỷ v.v…
thường hay dùng hệ thống bôi trơn
cácte khô.
- Van d trên hệ thống sẽ đóng lại
khi nhiệt độ của dầu cao. Áp suất đóng
mở van thường điều chỉnh vào khoảng
0,15-0,2MN/m2 (1,5-2kG/cm2)
- Trong một số động cơ tĩnh tại
và tàu thuỷ, trên hệ thống bôi trơn còn
bố trí bơm tay hoặc bơm điện để cung
cấp dầu nhờn đến các mặt ma sát và Sơ đồ bố trí bơm tay và bơm điện
điền đầy các đường ống dẫn trước khi
khởi động động cơ; sơ đồ bố trí bơm tay hoặc bơm điện giới thiệu trên hình bên. Ngoài ra
để đảm bảo bôi trơn cho mặt làm việc của xylanh, hệ thống bôi trơn của các loại động cơ
này còn thường van phân phối để cấp dầu nhờn vào một số điểm chung quanh xylanh
như hình. Lỗ dầu thường khoan trên lót xylanh
như hình.
- Đưa dầu lên bôi trơn cơ cấu phối khí của
động cơ ôtô máy kéo thường thiết kế theo phương
án giới thiệu trên hình 5.5. Dầu nhờn theo đường
dầu khoan trên thân máy lên đũa đẩy rồi vào đòn
bẩy rồi vào trục đòn bẩy sau đó theo các đường
dầu khoan trên đòn bẩy phun về phía lò xo xupap
và trở về cạc te.
- Ưu điểm lớn nhất của các phương án bôi
trơn cưỡng bức là đảm bảo bôi trơn tốt các ổ trục
do đó giảm được mài mòn và tổn thất ma sát, tăng
tuổi thọ cho động cơ. Tuy vậy, nhược điểm cơ
bản của hệ thống bôi trơn cưỡng bức là kết cấu Sơ đồ dẫn dầu lên bôi trơn cơ cấu phối khí
của hệ thống rất phức tạp.

BỘ MÔN ĐỘNG CƠ
KHOA CÔNG NGHỆ ĐỘNG LỰC HỆ THỐNG BÔI TRƠN

4.2.3 Bôi trơn bằng cách pha dầu nhờn vào nhiên liệu.
- Cách bôi trơn này chỉ được dùng để bôi trơn các chi tiết máy của động cơ xăng
hai kỳ cỡ nhỏ, làm mát bằng không khí hoặc bằng nước. Dầu nhờn được pha vào xăng
theo tỷ lệ 1/20  1/25 thể tích. Một số động cơ cỡ nhỏ của Đức, Tiệp thường pha dầu
nhờn với tỷ lệ ít hơn, thường vào khoảng 1/30  1/33. Hỗn hợp của dầu nhờn và xăng sau
khi qua bộ chế hoà khí được xé thành các hạt nhỏ, cùng với không khí nạp tạo thành khí
hỗn hợp. Khí hỗn hợp này được nạp vào cácte của động cơ rồi theo lỗ quét đi vào xylanh.
Trong quá trình này, các hạt dầu nhờn lẫn trong khí hỗn hợp ngưng đọng bám lên bề mặt
các chi tiết máy để bôi trơn các mặt ma sát. Cách bôi trơn này thực tế không cần “hệ
thống bôi trơn” thực hiện việc bôi trơn các chi tiết máy rất đơn giản, dễ dàng nhưng do
dầu nhờn theo khí hỗn hợp vào buồng cháy nên dễ tạo thành muội than bám trên đỉnh
pittông. Pha càng nhiều dầu nhờn, trong buồng cháy càng nhiều muội, dễ làm cho pittông
quá nóng, dễ xảy ra hiện tượng cháy sớm, kích nổ và đoản mạch do buji bị bám muội
than. Ngược lại, pha ít dầu nhờn, bôi trơn kém, ma sát lớn dễ làm cho pittông bị bó kẹt
trong xylanh.
5.3 KẾT CẤU CỦA CÁC BỘ PHẬN CHỦ YẾU CỦA HỆ THỐNG BÔI TRƠN:
5.3.1 Thiết bị lọc dầu nhờn:
* Công dụng
- Để đảm bảo ổ trục ít bị mài mòn do tạp chất, dầu nhờn dùng để bôi trơn phải rất
sạch. Trong quá trình làm việc dầu nhờn bị phân huỷ và nhiễm bẩn bởi nhiều loại tạp chất
như:
+ Mạt kim loại do các mặt ma sát mài mòn, nhất là trong thời gian chạy rà
động cơ mới và trong thời gian động cơ đã làm việc quá chu kỳ đại tu.
+ Các chất tạp lẫn trong không khí nạp như cát bụi và các chất khác. Các
tạp chất này theo không khí nạp vào xylanh rồi lẫn với dầu nhờn, chảy xuống cácte.
+ Muội than do nhiên liệu hoặc dầu nhờn cháy bám trên xylanh, theo dầu
nhờn xuống cácte.
+ Các tạp chất hoá học do dầu nhờn biến chất, bị oxy hoá hoặc bị tác dụng
của các loại axit sinh ra trong quá trình cháy.
- Để loại bỏ những tạp chất trên, nhất là các tạp chất cơ học, người ta phải lọc sạch
dầu nhờn bằng các thiết bị lọc dầu.
- Thiết bị lọc dầu có thể lắp trực tiếp hoặc lắp theo mạch rẽ với đường dầu nhờn.
Khi lắp trực tiếp, 100% dầu đều phải qua lọc; vì vậu sức cản của loại bầu lọc này không
được lớn quá, độ chênh lệch áp suất trước và sau bầu lọc thường không vượt quá
0,1MN/m2 (2kG/cm2). Loại bầu lọc này chỉ lọa được các cặn bẩn có kích thước hạt lớn
hơn 0,03mm; vì vậy thường được gọi là bầu lọc thô. Các loại bầu lọc tinh thường lắp theo

BỘ MÔN ĐỘNG CƠ
KHOA CÔNG NGHỆ ĐỘNG LỰC HỆ THỐNG BÔI TRƠN

mạch rẽ vì sức cản bầu lọc rất lớn. Lượng dầu phân nhánh qua bầu lọc tinh không được
vượt quá 20% lượng dầu nhờn của toàn mạch. Các loại lọc tinh có thể lọc ṣch các tạp
chất có đường kính hạt nhỏ đến 0,1m, các chất keo, nước lã và thậm chí cả các axit lẫn
trong dầu nhờn nữa. Dầu sau khi qua lọc tinh thường trở về cácte.
* Cấu tạo và nguyên lý hoạt động của một số loại bầu lọc
* Bầu lọc cơ khí.
Dùng các phần tử lọc cơ khí, chủ yếu bao gồm các lọai sau:
- Phao hút dầu: Kết cấu của phao hút dầu giới thiệu trên hình. Nó bao gồm có hai
phần chính: bầu phao và lưới lọc thô. Bầu phao làm cho phao hút lúc nào cũng nổi lập lờ
trên mặt thoáng của dầu nhờn nên có thể hút được lớp dầu sạch.
- Lưới lọc bằng đồng hoặc bằng thép, cỡ mắt lưới lớn đến 1mm2, chủ yếu dùng để
lọc sạch bọt bẩn và tạp chất có kích thước lớn. Phao hút dầu được lắp với ống dẫn dầu 4
bằng khớp động vì vậy phao có thể lắc đi một góc nhất định, nhờ đó khi động cơ làm việc
ở độ cao khác nhau, phao hút dầu lúc nào cũng nổi trên mặt dầu, không bị hẫng ra khỏi
mặt dầu trong cácte.
* Bầu lọc thấm
- Bầu lọc thấm ngày nay được dùng hết
sức rộng rãi, nguyên lý làm việc của bầu lọc
thấm cụ thể như sau: dầu nhờn có áp suất cao
chui qua (thấm qua) các khe hở nhỏ (khe hở có
thể nhỏ đến 0,1m) của phần tử lọc, do đó các
tạp chất có đường kính hạt lớn hơn kích thước
khe hở đều bị gạt giữ lại không chui qua phàn
tử lọc, vì vậy dầu nhờn được lọc sạch.
Kết cấu bầu lọc:
1: thân bầu lọc; 2: Vòng đệm; 3: đường dầu
vào; 4: đường dầu ra; 5: van kiểm tra; 6: vật
liệu lọc; 7: van sẽ mở khi lọc bị tắc.

- Dầu bẩn theo đường dầu 3 vào trong


lọc, vật liệu lọc 6 sẽ giữ lại các căn bẩn và cho
dầu sạch thấm qua và đi ra đường dầu 4 để đi
bôi trơn các chi tiết của động cơ. Van 5 có tác
dụng ngăn cản dầu chảy ra ngoài khi bầu lọc
nằm ngang hoặc lật úp. Khi lõi lọc bị tắc thì áp

BỘ MÔN ĐỘNG CƠ
KHOA CÔNG NGHỆ ĐỘNG LỰC HỆ THỐNG BÔI TRƠN

suất dầu sẽ tăng lên khi đó van 7 sẽ mở, lúc này bầu lọc không có tác dụng lọc dầu.

- Tất cả ác loại bầu lọc thấm đều giống nhau về nguyên lý và cấu tạo chung, chúng
chỉ khác nhau về cấu tạo vật liệu lọc.
- Trong một số loại động cơ dùng trên xe ôtô, người ta còn dùng bầu lọc thấm dùng
tấm lọc kim loại, bầu lọc tổ hợm cả lọc thô và lọc tinh(lọc thô bao phía bên ngoài có thể
dùng loại lọc dùng dải lọc hoặc lưới lọc. Lọc tinh đặt phía bên trong dùng lõi lọc bằng
giấy lọc).
- Ưu điểm chung của tất cả các loại tấm lọc thấm là khả năng lọc rất tốt, lọc rất
sạch. Nhưng nhược điểm chung của chúng là kết cấu rất phức tạp và thời gian sử dụng rất
ngắn. Theo thí nghiệm thường không quá 50 giờ, chất bẩn đã bám đầy khe lọc khiến cho
khe lọc bị bí, van an toàn của lọc phải làm việc, khiến cho bầu lọc mất tác dụng.
* Bầu lọc ly tâm
- Trong những năm gần đây, bầu lọc ly tâm được dùng rộng rãi vì chúng có những
ưu điểm cơ bản sau đây:

Sơ đồ lắp bầu thấm thường dùng

+ Do không dùng lõi lọc (các phần tử lọc) nên khi bảo dưỡng định kỳ
không cần thay thế các phần tử lọc.
+ Khả năng lọc tốt hơn nhiều so với loại lọc thấm dùng lõi lọc.
+ Tính năng lọc ít phụ thuộc vào mức độ cặn bẩn lắng đọng trong bầu lọc.
+ Khả năng thông qua không phụ thuộc vào số lượng tạp chất lắng đọng
trong bầu lọc.

BỘ MÔN ĐỘNG CƠ
KHOA CÔNG NGHỆ ĐỘNG LỰC HỆ THỐNG BÔI TRƠN

- Kết cấu điển hình của bầu lọc ly tâm giới thiệu trên hình bên. Bộ phận chính của
bầu lọc là rôtô 2 lắp lỏng trên trục 7. Trên đế rôtô có hai vòi phun 1 lắp phía dưới các ống
dẫn 5. Đầu trên của ống dẫn 5 được bọc bằng lưới lọc dầu.

- Nguyên lý làm việc của bầu lọc ly


tâm như sau: Dầu nhờn có áp suất cao đi
vào bầu lọc theo khoang rỗng giữa ống 6
và trụ 7 (xem mũi tên trên hình vẽ) vào
đầy rôtô rồi theo hai ống dẫn 5 phun qua
vòi phun 1. Dưới tác dụng của phản lực
khi có tia phun, rôtô 2 quay với tốc độ
rất cao, thường đạt đến 5000 
6000vg/ph. Khối dầu bên trong rôtô
quay theo. Dưới tác dụng của lực ly tâm,
các hạt cặn bẩn bị văng ra phía vỏ rôtô.
Do đó khối dầu ở gần sát trục rôtô được
lọc sạch. Dầu sạch theo lỗ dầu 3 chảy
qua ống dẫn 6 đến đường dầu chính để
đi bôi trơn. Lượng dầu sau khi phun ra
khỏi vòi phun 1 chảy về cácte. Các tạp
chất trong khối dầu do tác dụng của
trọng lực ly tâm sẽ tích tụ, bám trên vỏ
đế rôtô theo hình khối parabol.
Tuỳ theo cách lắp bầu lọc ly tâm
trong hệ thống bôi trơn, người ta phân nó thành ba loại:
-Bầu lọc ly tâm không hoàn toàn.
-Bầu lọc ly tâm hoàn toàn.
-Bầu lọc ly tâm lắp bù.
* Lọc từ tính
Lọc từ tính chủ yếu được dùng nhiều để lọc mạt sắt trong dầu nhờn. Loại lọc này
thường dùng một thanh nam châm lắp trên nút dầu lắp ở đáy cácte. Do hiệu quả lọc mạt
sắt của loại nút dầu có gắn nam châm rất cao nên trong các động cơ ngày nay thường
được dùng rất rộng rãi.
* Lọc hoá chất

BỘ MÔN ĐỘNG CƠ
KHOA CÔNG NGHỆ ĐỘNG LỰC HỆ THỐNG BÔI TRƠN

Bầu lọc dầu loại này chủ yếu sử dụng các hoá chất như cácbon hoạt tính, phèn
chua v.v… để hấp thụ tạp chất như nước, các chất ôxyt, các axit yếu v.v… có lẫn trong
dầu. Các loại động cơ đốt trong ngày nay, không dùng loại bầu lọc này nữa.
5.3.2 Bơm dầu nhờn:
* Công dụng
* Cấu tạo và nguyên lý hoạt động của một số loại bơm
- Bơm dầu nhờn là một trong những bộ phận quan trọng của động cơ, nó có nhiệm
vụ cung cấp liên tục dầu nhờn có áp suất cao đến các mặt ma sát để bôi trơn, làm mát và
tẩy rửa mặt ma sát. Bơm dầu dùng trong động cơ đốt trong đều là loại bơm thể tích
chuyển dầu bằng áp suất thuỷ tĩnh như các loại bơm pittông, bơm phiến trượt, bơm bánh
răng và bơm trục vít. Trong đó
bơm bánh răng được dùng hết sức
phổ biến vì nó có các ưu điểm như:
nhỏ gọn, áp suất bơm dầu cao,
cung cấp dầu liên tục và làm việc
rất an toàn, tuổi thọ khá dài. Dưới
đây giới thiệu một vài loại bơm dầu
thường dùng trong động cơ đốt
trong.
* Bơm bánh răng
Sơ đồ kết cấu và nguyên lý làm
việc của bơm bánh răng giới thiệu
trên hình.
Nguyên lý làm việc và kết
cấu của bơm bánh răng rất đơn
giản nó gồm có hai bánh răng (số
răng thường ít hơn 17) được dẫn Bơm bánh răng ăn khớp ngoài
động theo chiều nhất định. Khi trục
chủ động được trục khuỷu hoặc trục cam dẫn động bánh răng chủ động quay dẫn động
bánh răng bị động quay theo chiều
ngược lại. Dầu nhờn từ đường dầu áp
suất thấp được hai bánh răng bơm dầu
guồng sang đường dầu áp suất cao
theo chiều mũi tên. Để tránh hiện
tượng chèn dầu giữa các răng của bánh
răng khi ăn khớp, trên mặt đầu của nắp
bơm dầu có rãnh triệt áp .

BỘ MÔN ĐỘNG CƠ
KHOA CÔNG NGHỆ ĐỘNG LỰC HỆ THỐNG BÔI TRƠN

- Ở đường ra của bơm có lắp một van an toàn để khi áp suất trên đường dầu áp
suất cao vượt quá trị số cho phép, dầu đẩy van toàn mở ra để chảy về đường dầu áp suất
thấp. - Đối với bơm bánh răng, lưu lượng và hiệu suất bơm của nó phụ thuộc rất nhiều
vào khe hở hướng kính giữa đỉnh răng với mặt lỗ khoang lắp bánh răng và khe hở dọc
trục giữa mặt dầu bánh răng với mặt dầu nắp bơm dầu. Thông thường các khe hở này
không vượt quá 0,1mm.
- Bơm bánh răng dùng trong động cơ đốt trong có thể dùng một cặp bánh răng
(bơm đơn) hoặc nhiều cặp bánh răng (bơm
nhiều cấp), các cặp bánh răng này lắp trên
nhiều trục hoặc cùng lắp trên hai trục. Mỗi
cấp bơm làm nhiệm vụ riêng biệt.
- Trong các động cơ điêzen trực tiếp
dẫn động chân vịt của tàu thuỷ, do trục khuỷu
của động cơ quay đảo chiều nên bơm dầu
nhờn phải dùng cơ cấu van đặc biệt để đảm
bảo dù bánh răng của bơm quay theo chiều
nào dầu nhờn vẫn không đổi chiều lưu động,
dầu luôn luôn đi đến các mặt ma sát mà
không bị hút chảy ngược về cácte. Một trong
những loại bơm đặc biệt này giới thiệu trên
hình bên. Từ hình vẽ cho thấy, do bố trí các
cặp van một chiều 1 và 2 như vậy, nên khi
bánh răng chủ động quay theo chiều kim
đồng hồ, cặp van 1 mở ra, cặp van 2 đóng lại,
dầu nhờn đi theo chiều mũi tên. Khi bánh
Bơm bánh răng của động cơ đảochiều
răng chủ động quay theo chiều ngược lại, cặp
van 2 mở ra, cặp van 1 đóng lại, dầu nhờn
vẫn đi theo hướng cũ, từ khoang dầu áp
suất thấp đến khoang dầu áp suất cao.
Trong một số động cơ dùng trên xe
du lịch, do yêu cầu kết cấu gọn nhẹ nên
bơm dầu thường dầu loại bơm bánh răng
ăn khớp trong như hình bên.

Bơm bánh răng ăn khớp trong

BỘ MÔN ĐỘNG CƠ
KHOA CÔNG NGHỆ ĐỘNG LỰC HỆ THỐNG BÔI TRƠN

Loại bơm này làm việc theo nguyên lý tương tự như bánh răng ăn khớp ngoài; ưu

điểm của nó là nhỏ gọn, chắc chắn, có áp suất cao nhưng nhược điểm là chế tạo rất khó.
* Bơm phiến trượt
Sơ đồ kết cấu của bơm
phiến trượt giới thiệu trên hình
bên.
Nó gồm có một trục
bơm trên có phay rãnh hướng
kính để lắp các phiến trượt (số
phiến từ 2  20 tuỳ theo kích
thước của bơm). Trục bơm lắp
lệch tâm với vỏ bơm tạo nên
các khoang chứa dầu áp suất
thấp và áp suất cao.
Bơm phiến trượt cũng
dùng van an toàn như các loại bơm bánh răng. Nguyên lý làm việc của bơm phiến trượt
như sau: khi trục bơm quay, dưới tác dụng của lực ly tâm, các phiến trượt văng ra ép sát
cạnh phiến trượt với vỏ bơm tạo nên độ chân không ở khoang hút và tạo áp suất ở khoang
đẩy. Dầu nhờn liên tục được các phiến trượt gạt vào đường dầu áp suất cao rồi đi lên
đường dầu chính. Ưu điểm của loại bơm này kết cấu rất nhỏ gọn, tạo ra áp suất của dầu
nhờn rất cao, lưu lượng lớn và hiệu suất bơm cao. Tuy nhiên nhược điểm cơ bản của loại
bơm này là mài mòn rất nghiêm trọng.

BỘ MÔN ĐỘNG CƠ
KHOA CÔNG NGHỆ ĐỘNG LỰC HỆ THỐNG BÔI TRƠN

* Bơm trục vít


- Bơm trục vít thường chỉ
dùng trên các động cơ tàu thuỷ và
tĩnh tại cỡ lớn. Lưu lượng của
bơm rất lớn và làm việc êm,
không rung nhiều như bơm bánh
răng. Sơ đồ kết cấu của bơm trục
vít giới thiệu trên hình bên.
Nó gồm có trục vít chủ
động 1 ăn khớp với hai hoặc bốn
trục vít bị động. Khi trục chủ
động quay; các trục vít guồng dầu
nhờn từ khoang dầu áp suất thấp Bơm trục vít
a, sang khoang dầu áp suất cap b.
* Bơm pittông
- Bơm pittông cung cấp dầu theo kiểu mạch động. Loại bơm chỉ dùng làm bơm tay
dùng để bơm dầu lên mạch dầu trước khi khởi động động cơ và đôi khi dùng làm bơm
cấp dầu cho máng phụ trong phương án bôi trơn phun té.
5.3.3 Két làm mát dầu nhờn
- Như chúng
ta đã biết, trong quá
trình làm việc của
động cơ, nhiệt độ
của dầu nhờn tăng
lên không ngừng, đó
là do các nguyên
nhân cơ bản dưới
đây:
+ Dầu
nhờn phải làm mát ở
trục, tải nhiệt lượng
sinh ra trong quá
trình ma sát của ổ
trục ra ngoài.
+ Dầu nhờn tiếp xúc với các chi tiết máy có nhiệt độ cao, nhất là trong loại
hệ thống bôi trơn phun dầu nhờn để làm mát đỉnh pittông.

BỘ MÔN ĐỘNG CƠ
KHOA CÔNG NGHỆ ĐỘNG LỰC HỆ THỐNG BÔI TRƠN

- Để đảm bảo nhiệt độ làm việc của dầu nhờn ổn định, giữ cho độ nhớt của dầu
không đổi, đảm bảo khả năng bôi trơn, người ta dùng két làm mát dầu nhờn để làm mát
(hạ nhiệt độ) dầu nhờn. Thông thường có thể làm mát theo hai cách: dùng nước làm mát
hoặc dùng không khí để làm mát. Nhiệt lượng dầu nhờn sẽ truyền cho các môi chất làm
mát theo nguyên lý trao đổi nhiệt.

5.3.4 Thông gió hộp trục khuỷu


- Trong quá trình làm việc của động cơ khí cháy thường lọt từ buồng cháy xuống
hộp trục khuỷu. Điều đó làm cho dầu nhờn dễ bị ô nhiễm và phân huỷ do các tạp chất
cháy đem xuống. Ngoài ra, do có hiện tượng lọt khí, nhiệt độ bên trong hộp trục khuỷu
cũng tăng lên làm hại đến tính năng hoá lý của dầu nhờn.
- Để tránh những tác hại nói trên, các động cơ ngày nay đều giải quyết tốt vấn đề
thông gió hộp trục khuỷu. Các loại động cơ đốt trong ngày nay thường dùng hai phương
án thông gió hộp trục khuỷu sau đây:
1-Thông gió hở:
- Là kiểu thông
gió tự nhiên, để khí
trong hộp trục khuỷu tự
thoát ra ngoài trời bằng
ống thông gió như hình
bên. Khí trong hộp trục
khuỷu lưu động được là
nhờ có pittông chuyển
động hoặc xe ô tô
chuyển động tạo thành
vùng áp suất thấp ở

BỘ MÔN ĐỘNG CƠ
KHOA CÔNG NGHỆ ĐỘNG LỰC HỆ THỐNG BÔI TRƠN

miệng ống, do đó khí trong hộp trục khuỷu thoát ra ngoài.


2-Thông gió kín:
- Là kiểu thông gió cưỡng bức, lợi dụng động chân không trong quá trình nạp để khí
trong hộp trục khuỷu lưu động vào đường nạp của động cơ.
- Sơ đồ thông gió hộp trục khuỷu kiểu thông gió kín giới thiệu trên hình. Ưu điểm
của phương án này là chống được lượng dầu nhờn bị ô nhiễm và hiệu quả thông gió rất
cao. Nhưng nhược điểm của nó là đưa hơi dầu và khí cháy lọt xuống hộp trục khuỷu đi
vào đường nạp nên cũng dễ làm cho xupap và xylanh bị đóng muội, khiến xylanh bị mòn
nhiều.

BỘ MÔN ĐỘNG CƠ

You might also like