Professional Documents
Culture Documents
BÀI GIẢNG
HỌC PHẦN: NHIÊN LIỆU DẦU MỠ
SỐ TÍN CHỈ: 02
LOẠI HÌNH ĐÀO TẠO: ĐẠI HỌC CHÍNH QUY
NGÀNH: CÔNG NGHỆ KỸ THUẬT Ô TÔ
Chương 3
DẦU, MỠ BÔI TRƠN - DUNG DỊCH LÀM MÁT
3.1. Dầu bôi trơn.
3.1.1. Khái niệm về ma sát và bôi trơn:
a. Ma sát:
Ma sát là kết quả của nhiều dạng tương tác phức tạp khác nhau, khi có sự tiếp
xúc và dịch chuyển hoặc có xu hướng dịch chuyển giữa hai vật thể, trong đó diễn ra
các quá trình cơ, lý, hoá, điện... quan hệ của các quá trình đó rất phức tạp phụ
thuộc vào đặc tính tải, vận tốc trượt, vật liệu và môi trường.
- hệ số ma sát, = f(p,v,C)
N-tải trọng pháp tuyến
C-điều kiện ma sát (vật liệu, độ cứng, độ bóng, chế độ gia công, môi trường).
Công ma sát A chuyển hoá thành nhiệt năng Q và năng lượng hấp phụ giữa 2 bề mặt
E.
Các yếu tố ảnh hưởng tới hệ số ma sát:
+ Tải trọng
+ Vận tốc
+ Vật liệu và các yếu tố khác: nhiệt độ, độ nhám bề mặt...
Phân loại ma sát:
+ Dựa vào động học và chuyển động
Ma sát trượt
Ma sát lăn
Ma sát xoay Các dạng ma sát
Khi gia công các chi tiết dù đạt độ chính xác cao thì trên bề mặt vẫn có độ mấp
mô quá trình chuyển động tương đối giữa hai chi tiết lắp ghép với nhau các chỗ mấp
mô nào sẽ khớp vào nhau và tạo thành lực cản chuyển động giữa tại vị trí tiếp xúc sẽ
xảy ra sự tiếp xúc đàn hồi xuất hiện các biến dạng dẻo và có sự cắt gọt lẫn nhau làm
cho các chi tiết bị mài mòn.
Ta có công thức xác định lực ma sát khô
Fmskhô = ftrượt.Ph
Trong đó: ftrượt - Hệ số ma sát khô phụ thuộc và vật liệu chế tạo và trạng thái bề mặt
tiếp xúc đó là khô ráp hay nhẵn bóng.
Ph - Tải trọng tác dụng theo phương vuông góc với phương chuyển động.
Tác hại của ma sát khô:
Ma sát khô có tác hại làm tổn thất năng lượng, tăng nhiệt độ làm việc tại bề mặt
của các chi tiết dẫn tới sự ôxy hoá phá huỷ bề mặt làm việc giảm công suất hữu ích
dẫn đến giảm tuổi thọ máy.
Biện pháp hạn chế:
Để hạn chế tác hại của ma sát khô người ta áp dụng một số biện pháp sau:
Lắp vào giữa hai bề mặt mặt ma sát chi tiết có hình dạng phù hợp được gia công có độ
chính xác cao để chuyển ma sát trượt thành ma sát lăn.
Ví dụ như từ sử dụng bạc sang dùng vòng bi.
Hình thành và duy trì giữa các bề mặt làm việc một lớp vật liệu bôi trơn ở dạng lỏng
hoặc dạng dẻo đó là dầu bôi trơn hoặc mỡ...
Công thức xác định lực ma sát lăn
Fmslăn = flăn. Ph/r
Trong đó: r - bán kính con lăn
c. Ma sát ướt:
Khái niệm: Là dạng ma sát mà giữa hai bề mặt làm việc của các chi tiết được
ngăn cách với nhau bởi một lớp dầu có chiều dầy lớn hơn tổng chiều cao của các lớp
mấp mô (chi tiết được bôi trơn theo dạng này gọi là bôi trơn thuỷ động học).
d. Ma sát giới hạn:
Khái niệm: Là giữa các bề mặt của các chi tiết có một lớp dầu rất mỏng tồn tại
dưới tác dụng tương hỗ của các lực phân tử giữa hai bề mặt kim loại, lớp dầu này gắn
chặt vào kim loại mà không chuyển động tự do được, ma sát ở dạng này gọi là ma sát
giới hạn.
Dầu bôi trơn có thành phần làm giảm ma sát, giảm mài mòn, tăng tuổi thọ của
chi tiết do đó chúng được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực đó là công nghiệp,
giao thông.
3.1.2. Phân loại công dụng và yêu cầu đối với chất lượng của dầu bôi trơn:
3.1.2.1. Phân loại:
Theo ngành sử dụng thì dầu bôi trơn được chia ra làm 4 nhóm:
Nhóm 1: Dầu dùng cho động cơ đốt trong, trong nhóm này lại phân ra: dầu
dùng cho động cơ máy bay, động cơ tàu thủy, dầu dùng cho động cơ ô tô máy kéo
(động cơ xăng, động cơ diesel).
Nhóm 2: Dầu bôi trơn dùng cho các hệ thống truyền động: hộp số, cầu...
Nhóm 3: Dầu dùng cho các thiết bị công nghiệp: Máy gia công cắt gọt, và các
thiết bị khác.
Nhóm 4: Dầu chuyên dùng: dầu biến thế, dầu tuốc bin...
3.1.2.2. Công dụng:
Dầu bôi trơn làm giảm ma sát giữa các chi tiết có chuyển động tương đối với
nhau do đó làm giảm tổn hao năng lượng do ma sát sinh ra bằng cách chuyển ma sát
khô thành ma sát ướt.
Giảm độ mài mòn của các chi tiết do có sự ngăn cách bởi lớp dầu.
Làm mát các chi tiết bằng cách nhận nhiệt lượng toả ra từ các bề mặt làm việc
và trao đổi nhiệt qua hệ thống làm mát trong quá trình chuyển động.
Làm kín các khe hở các chi tiết lắp ghép.
Bảo vệ bề mặt các chi tiết tránh sự tiếp xúc trực tiếp với các chất gây ôxy hoá
với nước, với môi trường.
Làm sạch các bề mặt bôi trơn nhờ rửa trôi các cặn bẩn mạt kim loại.
Làm chất lỏng công tác trong các bộ truyền động thuỷ lực.
Ngoài ra còn là môi trường cách điện trong một số thiết bị, linh kiện.
3.1.2.3. Yêu cầu:
Dầu phải có nhiệt độ đông đặc thấp, có độ nhớt nhất định, có sự ổn định về lý
hóa, tác dụng ăn mòn kim loại nhỏ nhất, không lẫn tạp chất cơ học và nước.
3.1.3. Tính chất của dầu bôi trơn:
3.1.3.1. Nhiệt độ đông dặc và phương pháp giảm nhiệt độ đông đặc:
Xác định nhiệt độ đông đặc của dầu giống như với nhiên liệu diesel.
Khi làm lạnh tới một nhiệt độ nào đó thì dầu mất tính lưu động. Khi dầu mất
tính lưu động sẽ tăng tổn thất năng lượng của động cơ, và dầu không còn giữ được vai
trò của nó. Do đó, yêu cầu nhiệt độ đông đặc của dầu phải thấp.
Trong sản xuất, người ta thực hiện nhiều biện pháp nhằm giảm nhiệt độ đông
đặc của dầu như:
+ Pha thêm vào dầu các chất phụ gia.
+ Tách các hydrocacbon có nhiệt độ sôi cao bằng dụng cụ chuyên dùng.
Trong hai phương án này thì phương án một có hiệu quả rất cao và được ứng dụng phổ
biến ngày nay.
3.1.3.2. Độ nhớt của dầu bôi trơn:
1. Độ nhớt của dầu ở nhiệt độ làm việc:
Dầu bôi trơn có độ nhớt xác định ở nhiệt độ làm việc. Khi nhiệt độ thay đổi,
yêu cầu độ nhớt của dầu bôi trơn chỉ được thay đổi trong phạm vi hẹp.
Dầu có độ nhớt quá thấp sẽ dễ dàng bị ép ra khỏi khe hở giữa các chi tiết dẫn
đến các bề mặt làm việc tiếp xúc trực tiếp với nhau làm tăng nhanh sự mài mòn.
Ngược lại, độ nhớt quá cao sẽ làm tăng tổn hao năng lượng.
Nhiệt độ làm việc của cac cơ cấu tổng thành khác nhau, thì yêu cầu độ nhớt
khác nhau, ví dụ:
+ Trong đa số các thiết bị công nghiệp nhiệt độ làm việc khoảng 500C, do đó
trong tiêu chuẩn của dầu công nghiệp nhất thiết phải cho độ nhớt 500C.
+ Trong động cơ ô tô máy kéo, nhiệt độ làm việc thấp nhất ở cácte, trục khuỷu
là 1000C.
+ Trong các bộ phận truyền động: hộp số, cầu...nhiệt độ làm việc cũng khoảng
1000C. Do đó độ nhớt cơ bản của dầu truyền động là độ nhớt ở 1000C.
Độ nhớt của dầu bôi trơn phù hợp với kêt cấu và điều kiện làm việc của động cơ ô tô
máy kéo hiện nay là 5~15 cst ở 1000C.
2. Ảnh hưởng của nhiệt độ tới độ nhớt của dầu bôi trơn:
Trong điều kiện sử dụng khác nhau, độ nhớt của dầu cũng khác nhau. Khi điều
kiện làm việc của động cơ chuyển từ mùa đông sang mùa hè hoặc chuyển từ chế độ tải
nặng sang chế độ tải nhẹ đều làm cho độ nhớt của dầu thay đổi. Vì vậy, độ nhớt của
dầu cần phải quy định sao cho nhiệt độ thay đổi thì độ nhớt của dầu không được thay
đổi quá lớn so với quy định. Nói chung ta thấy nhiệt độ tăng thì độ nhớt giảm.
Tính chất độ nhớt thay đổi theo nhiệt độ biểu thị bằng chỉ tiêu: Đặc tính độ nhớt
theo nhiệt độ.
Người ta dùng tỷ số độ nhớt của dầu ở các nhiệt độ khác nhau để đánh giá đặc
tính độ nhớt nhiệt độ của dầu. Đối với dầu dùng cho động cơ cho phép dùng tỷ số: độ
nhớt ở 500C với độ nhớt ở 1000C. Tỷ số này càng nhỏ thì dầu càng tốt (đối với dầu lý
tưởng tỷ số này bằng 1).
Độ nhớt của dầu có ảnh hưởng tới khả năng khởi động của động cơ. Dựa trên
kết quả của các thí nghiệm người ta đã xác định rằng: muốn khởi động động cơ dễ
dàng và không bị mài mòn nhiều (kể cả hâm nóng) chỉ đạt được trong điều kiện nếu độ
nhớt của dầu bôi trơn không vượt quá một giá trị giới hạn bằng 104 cst, đối với động
cơ ô tô.
Người ta căn cứ vào giá trị độ nhớt thay đổi theo nhiệt độ, để xác định được
nhiệt độ nhỏ nhất có thể khởi động được động cơ, ví dụ: dầu AK3n-6 có độ nhớt 104 cst
ở -350C. Vậy nhiệt độ thấp có thể khởi động được động cơ khi dùng loại dầu này là -
350C.
3. Đặc điểm của các loại dầu hóa đặc:
Để sử dụng dầu bôi trơn tốt trong điều kiện nhiệt độ thay đổi người ta thường
pha thêm vào dầu các chất hóa đặc. Đó là những chất lấy từ dầu mỏ có độ nhớt thấp.
Sử dụng phổ biến nhất là chất pôly iso butilen có trọng lượng phân tử giới hạn
10000~20000.
Đặc điểm của dầu hóa đặc là: ở nhiệt độ thấp có độ nhớt nhỏ hơn 3-4 lần so với
độ nhớt của dầu ô tô bình thường. Còn ở nhiệt độ cao chúng lại có độ nhớt giống nhau.
Do đó, dầu hóa đặc tạo điều kiện khởi động động cơ dễ hơn trong mùa đông và đảm
bảo bôi trơn bình thường các bề mặt ở nhiệt độ làm việc.
Độ nhớt của dầu là một chỉ tiêu rất quan trọng nên được ghi ngay trong ký hiệu
của dầu.
3.1.3.3. Tính ổn định của dầu, tính ăn mòn kim loại, tạp chất cơ học ở trong dầu
bôi trơn:
a. Tính ổn định của dầu:
Là khả năng bảo toàn thành phần, tính chất trong toàn bộ quá trình sử dụng.
Tính ổn định thường được chia ra là ổn định vật lý và ổn định hóa học.
Tính ổn định vật lý: gắn với sự thay đổi trạng thái của dầu dưới tác dụng của quá
trình biến đổi vật lý như bay hơi, đông đặc, hút ẩm.
Tính ổn định hóa học: gắn với các quá trình biến đổi hóa học của các thành phần có
mặt trong dầu. Các quá trình biến đỏi hóa học quan trọng nhất bao gồm ôxy hóa và
pôlyme hóa.
- Mức độ ổn định của dầu trong sử dụng, bảo quản phụ thuộc vào thành phần hóa học
của dầu, điều kiện làm việc và mức độ tác động của các yếu tố liên quan như nhiệt độ,
ánh sáng, độ ẩm, nước, chất xúc tác ...
- Khi sử dụng trực tiếp trên các cụm chi tiết máy, dầu chịu tác động nhiều nhất của
nhiệt độ làm việc. Nhiệt độ càng cao các phản ứng ôxy hóa các thành phần xảy ra càng
nhanh và sản phẩm tạo ra các phản ứng đó càng nhiều.
b. Tính ăn mòn kim loại:
Bản thân dầu nhờn có tính ăn mòn thấp khi tiếp xúc với kim loại do tỷ lệ các
thành phần có hoạt tính cao, gây ăn mòn kim loại chỉ hình thành sau một thời gian bảo
quản hoặc trong các điều kiện sử dụng trực tiếp ở các cụm chi tiết.
Các loại dầu động cơ sau một thời gian sử dụng thường có tính ăn mòn cao, đặc biệt
đối với động cơ diesel nguyên nhân do lượng SO2, SO3 tạo thành khi đốt cháy nhiên
liệu bị lọt lại một phần xuống đáy dầu và hòa trộn với dầu sau khi đã kết hợp với nước
tạo thành các axít tương ứng.
SO2 + H2O = H2SO3
SO3+ H2O = H2SO4
Các axít này có tính ăn mòn đối với miếng kim loại (đồng, chì) việc hạn chế tính ăn
mòn của dầu thường đạt được bằng cách chọn thành phần dầu hoặc sử dụng phụ gia
(các chất ức chế ăn mòn).
Để đánh giá lượng axit có trong dầu, người ta đưa ra chỉ tiêu đó là số mg KOH
để trung hòa hết số lượng axit naptenic có trong 1g dầu. Đối với dầu dùng cho động cơ
xăng, lượng KOH cho phép từ 0,1 ~ 0,25 mg KOH cho một gam dầu nhờn AK-15, còn
đối với động cơ diesel lượng KOH không được vượt quá 0,15mg KOH đối với 1 gam
dầu.
c. Tạp chất cơ học, nước có trong dầu bôi trơn:
Hàm lượng nước là lượng nước được tính bằng phần trăm (%) so với khối
lượng của dầu, nước lẫn vào trong dầu làm thay dổi rất nhiều chất lượng của dầu. Với
hàm lượng nước từ 100 ppm làm độ cách điện của dầu giảm rõ rệt. Hàm lượng nước
lớn hơn làm giảm khả năng bôi trơn của dầu, làm tăng tính ăn mòn kim loại, xúc tiến
quá trình ô xy hóa, phân hủy các loại phụ gia do đó làm tăng quá trình tạo muội, mài
mòn xéc măng, bạc lót cổ trục. Hàm lượng nước trong dầu đến 2% được đánh giá là có
vết nước trong dầu.
Quy định hàm lượng nước không vượt quá không được phép quá 0,025% và
hàm lượng cơ học không được vượt quá một vài phần nghìn.
3.1.3.4. Tính chất đặc biệt của dầu bôi trơn động cơ:
1. Điều kiện làm việc của dầu bôi trơn:
Dầu bôi trơn động cơ làm việc trong điều kiện hết sức khắc nghiệt: áp suất đạt
100kG/cm2, nhiệt độ đạt tới 20000C.
Theo nhiệt độ động cơ có thể chia ra làm 3 phần sau:
+ Vùng nhiệt độ cao: là các chi tiết tạo thành buồng cháy của động cơ, đỉnh
piston 4000C, xupáp xả 8000C.
+ Vùng nhiệt độ trung bình bao gồm tất cả các phần bao xung quanh piston,
xécmăng, đầu nhỏ thanh truyền và thành xylanh. Nhiệt độ lớn nhất ở vùng này có thể
đạt là 3000 ~ 3500.
+ Vùng nhiệt độ thấp bao gồm trục khuỷu, cácte... nhiệt độ lớn nhất ở vùng này
có thể đạt là 1800C.
2. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự ổn định vật lý của dầu:
Ở vùng nhiệt độ thấp và trung bình, khi nhiệt độ tăng dầu nhờn có khả năng bốc
hơi mạnh làm cho tính chất vật lý của dầu kém ổn định. Kết quả hàm lượng dầu bôi
trơn trong hệ thống giảm, chất lượng dầu kém đi.
Để giảm mức tiêu hao và sự thay đổi tính chất của dầu trong quá trình làm việc
cần thiết phải chọn dầu phù hợp với điều kiện làm việc cụ thể theo khả năng bay hơi
(theo thành phần chưng cất).
Nhưng xác định thành phần chưng cất rất phức tạp, để đơn giản người ta xác
định nhiệt độ bốc cháy của dầu (Nhiệt độ bốc cháy là nhiệt độ nhỏ nhất mà hơi dầu có
thể bốc cháy khi gặp lửa). Dựa vào nhiệt độ bốc cháy, có thể phán đoán được tính bay
hơi của dầu và thành phần nhẹ của dầu bôi trơn. Nhiệt độ bốc cháy càng cao, tính bay
hơi của dầu càng nhỏ và độ ổn định vật lý của dầu càng tốt.
3. Dầu nhờn ở vùng có nhiệt độ cao của động cơ:
Trong quá trình động cơ làm việc, một phần dầu bôi trơn bị đốt và tạo thành
muội than, nhựa. Chúng bám lên bề mặt các chi tiết: Piston, Xéc măng, Bugi... làm
giảm khả năng truyền nhiệt của chi tiết, làm ngắn mạch bugi, tăng khả năng cháy kích
nổ của động cơ xăng.
Như vậy ở vùng nhiệt độ cao, dầu không có khả năng bôi trơn mà còn làm xấu
khả năng công tác của động cơ.
Ở vùng nhiệt độ này dầu tạo thành màng mỏng trên bề mặt chi tiết. Khi nóng
đến 2000C - 3000C dầu có thể bị cháy.
Trong điều kiện như vậy cácbuahydro bị ôxy hóa tạo nhựa, làm kẹt xéc măng
do đó làm lọt khí xuống cácte làm loãng dầu nhờn.
Biện pháp chống tạo nhựa là nâng cao tính ổn định hóa học bằng cách pha thêm
vào các chất phụ gia chống ôxy hóa.
5. Dầu nhờn ở vùng nhiệt độ thấp của động cơ:
Ở vùng nhiệt độ này, dầu nhờn ít bay hơi, trong dầu có lẫn một hàm lượng nhỏ
xăng hoặc diesel nhất là những loại nhiên liệu mà có hàm lượng lưu huỳnh lớn, gây
loãng dầu nhờn, đồng thời axit hữu cơ có tác dụng ăn mòn mạnh, đặc biệt axit napten
hoạt động mạnh ở nhiệt độ thấp. Đặc biệt đối với bạc lót làm bằng hợp kim Đồng - Chì
thì sự ăn mòn của axit này lại càng mạnh. Do vậy, để ngăn chặn hiện tượng này dầu
phải được pha thêm chất phụ gia chống ăn mòn.
3.1.4. Dầu bôi trơn dùng trên Ôtô:
3.1.4.1. Dầu bôi trơn dùng cho động cơ đốt trong:
1. Ý nghĩa của việc phân cấp:
Dầu bôi trơn và kỹ thuật bôi trơn có vai trò quan trọng để duy trì hoạt động và
tuổi thọ của động cơ.
Do có vô số loại động cơ với kích thước và điều kiện sử dụng khác nhau nên
yêu cầu bôi trơn cũng khác nhau. Từ đó hàng loạt chủng loại dầu bôi trơn động cơ
được nghiên cứu và thương mại hóa nhằm đáp ứng các yêu cầu sử dụng. Các loại dầu
gốc và nhiều loại phụ gia thích hợp đã được sử dụng để đạt được các tính chất lý hóa
và tính năng sử dụng của động cơ. Việc dùng dầu đúng chủng loại sẽ giúp cho động
cơ:
+ Kéo dài tuổi thọ của động cơ
+ Tăng thời gian sử dụng dầu
+ Giảm mức tiêu hao nhiên liệu.
2. Phân cấp:
a. Phân cấp theo độ nhớt SAE:
Hiệp hội kỹ sư ô tô Hoa Kỳ SAE đưa ra một hệ thống phân cấp dầu động cơ
theo độ nhớt, được áp dụng phổ biến trên toàn thế giới. Theo tiêu chuẩn này dầu được
phân cấp theo độ nhớt ở 1000C và -180C.
Trong hệ thống phân cấp này dầu nhờn được chia ra làm hai loại: Nhóm chữ W
(được dùng ở nhiệt độ thấp) và nhóm không có chữ W (được dùng ở nhiệt độ cao hơn)
việc phân loại này chỉ dựa trên cơ sở độ nhớt động học đo bằng cst ở 1000ºC.
Ở bảng trên độ nhớt ở nhiệt độ thấp (cột khởi động) xác định theo tiêu chuẩn
ASTMD 2602 (phương pháp thử dùng đo độ nhớt biểu kiến của động cơ ở nhiệt độ
thấp bằng thiết bị mô phỏng khởi động lạnh). Thiết bị này có thể đo độ nhớt biểu kiến
trong một khoảng rộng từ 500 – 2000 mPa.s. Vì hầu hết các loại dầu động cơ là chất
lỏng (có độ nhớt thay đổi theo tốc độ trượt) ở nhiệt độ thấp, cho nên độ nhớt biểu kiến
có thể rất khác biệt do tốc độ trượt.
Trị số nhiệt độ ở cột khả năng bơm là nhiệt độ bơm tới hạn (nhiệt độ của các
loại dầu mà ở đó độ nhớt đạt 3000 cP (centipoazơ) xác định theo tiêu chuẩn ASTMD
3829).
Dầu đa dụng (đa cấp) là loại dầu có độ nhớt ở nhiệt độ thấp thỏa mãn yêu cầu
của dầu thuộc nhóm W, còn độ nhớt ở 1000ºC lại nằm trong một phạm vi của một loại
dầu nào đó trong nhóm không có chữ W. Ví dụ nếu một loại dầu pha chế đạt giới hạn -
200ºC của dầu phân cấp 10W (3500mPa.s), còn độ nhớt ở 1000ºC trong khoảng 9,3
đến 12,5 cst thì ta sẽ đặt tên dầu là 10W-30.
b. Phân cấp theo chất lượng API:
Phân loại dựa vào kết quả nghiên cứu của viện dầu mỏ Mỹ (API), hiệp hội kỹ
sư ô tô hoa kỳ (SAE) được viện nghiên cứu dầu mỏ Mỹ xây dựng nên (do đó gọi là
phân cấp API). Theo cách này thì dầu bôi trơn được chia thành hai nhóm:
+ Nhóm S: Dùng cho những động cơ chạy bằng nhiên liệu xăng
+ Nhóm C: Dùng cho những động cơ chạy bằng nhiên liệu diesel
STT Nhóm – cấp dầu Phạm vi ứng dụng
- Đây là loại dầu có phẩm chất cao nhất hiện nay, phù
hợp với các loại xe chạy xăng sản xuất từ năm 1996 trở
lại đây.
1.10 Cấp SJ
- Dầu cấp SJ vượt cấp SH về tính năng kiểm soát khí
thải, tiết kiệm nhiên liệu, giảm tiêu hao dầu và giảm thời
gian bảo trì máy.
C là kí hiệu thương mại (Commercal) dùng cho bôi
II Nhóm dầu C
trơn động cơ diesel.
- Dùng cho động diesel nhẹ đến trung bình, sử dụng
nhiên liệu chất lượng cao, ít lưu huỳnh.
2.1 Cấp CA
- Dùng phổ biến trong giai đoạn 1940-1950, tới nay
không phù hợp nữa.
- Dùng cho động cơ diesel tải trọng trung bình, dùng
2.2 Cấp CB nhiên liệu có nhiều lưu huỳnh hơn cấp CA.
- Dầu cấp CB xuất hiện từ năm 1949.
- Dùng cho động cơ diesel và động cơ xăng có tải trọng
2.3 Cấp CC trung bình. Có nạp khí tự nhiên hoặc có turbo tăng áp
- Dầu cấp CC xuất hiện từ năm 1961.
- Dùng cho động cơ diesel trong điều kiện khắc nghiệt,
tải trọng cao.
2.4 Cấp CD - Sử dụng nhiên liệu có hàm lượng lưu huỳnh cao lên
phải kiểm soát chặt chẽ sự tạo cặn và mài mòn.
- Các loại dầu này xuất hiện từ năm 1955.
- Dùng cho động cơ diesel hai kỳ làm việc trong điều
kiện khắc nghiệt, cần kiểm soát chặt chẽ sự tạo cặn và
2.5 Cấp CDII
mài mòn.
- Đáp ứng yêu cầu của dầu cấp CD.
- Dùng cho động cơ diesel tăng áp, tải trọng nặng, tốc độ
2.6 Cấp CE thấp và cao.
- Dầu này sản xuất từ năm 1983 trở lại đây.
- Dùng cho động cơ diesel phun gián tiếp.
2.7 Cấp CF
- Các loại động cơ dùng loại dầu này có từ năm 1994.
- Dùng cho động cơ diesel 2 kì, dầu có tính năng kiểm
2.8 Cấp CF2 soát đóng cặn.
- Có thể thay thế cho CDII, có từ năm 1994.
- Dầu truyền động ô tô máy kéo mùa hè có tên là dầu 90 (còn gọi là dầu đen) là phần
dầu cặn chưa được làm sạch từ dầu mỏ ít parapin. Các loại dầu tương đương với dầu
90 là hãng Shell: Dầu Vittrea 79, dentax Oil 140, hãng Esso: Dầu Gear Oil ST 140.
Nhãn hiệu các dầu truyền động ở thị trường việt nam.
Công ty PLC: SAE 90 EP, SAE 140EP
Công ty PVPDC : SAE 90 TĐ EP, : SAE 140 TĐ EP.
Công ty BP: SAE 80 W EP, SAE 90 EP, SAE 140 EP.
Công ty Castrol: SAE 90 EP, SAE 140 EP, SAE 80 W, SAE 140 W.
3.1.4.3. Dầu dùng cho hệ thống thủy lực:
1. Công dụng và tính chất của dầu thủy lực:
Dầu thủy lực hay chính xác hơn là chất lỏng thủy lực được sử dụng trong hệ
thống thủy lực trang bị trên ô tô, máy kéo, xe tải và các tàu thủy....
Để hệ thống thủy lực có thể làm việc cần có các loại chất lỏng thủy lực đó
chính là môi trường truyền năng lượng. Mặc dù trong hệ thống thủy lực các chất lỏng
thủy lực cũng có tác dụng nào đó trong quá trình bôi trơn nhưng chức năng chính của
chúng là truyền lực. Chúng không thuộc nhóm dầu bôi trơn chúng là một trong các
nhóm dấu công nghiệp quan trọng nhất đang được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp
như trong các máy công cụ, cơ cấu lái... Ngoài ra nó còn được sử dụng trong giao
thông đường bộ, đường thủy, cũng như trong các hệ thống phanh thủy lực, ngoài
những tính chất cơ bản của 1 loại dầu như độ nhớt và tính chất nhớt nhiệt tốt (chỉ số độ
nhớt cao).
Các tính chất đặc trưng của chất lỏng thủy lực là: Độ nén, khả năng tách khí và
chống tạo bọt, khả năng thích hợp đối với vật liệu làm kín, đảm bảo độ sạch cao, có độ
trượt ổn định.
2. Phân loại dầu thủy lực:
Phân loại theo thành phần:
Có rất nhiều dầu thủy lực, chúng có nguồn gốc khác nhau, gồm có 4 nhóm dầu
thủy lực chủ yếu sau:
Dầu thủy lực tổng hợp: Có nguồn gốc là các sản phẩm tổng hợp hữu cơ như
các polyglycol, silicon, các este của axit phosphoric... Dầu này, vừa có tính truyền lực
tốt vừa có khả năng chịu nhiệt cao, nên thích hợp làm chất lỏng truyền lực cho các
thiết bị, dây truyền làm việc tại các nơi có nhiệt độ cao như hầm lò, các phân xưởng
luyện thép đúc gang.
Dầu thủy lực gốc dầu khoáng: Được sản xuất từ các phân đoạn dầu gốc được
tính chế sâu, không pha phụ gia hoặc pha thêm phụ gia để tăng khả năng bôi trơn,
chống ôxy hóa, chống tạo bọt...Dầu này, làm việc được hầu hết với các loại vật liệu, có
khoảng nhiệt độ làm việc rộng, có khả năng bôi trơn tự nhiên tốt, nên được sử dụng
hết sức rộng rãi.
Dầu thủy lực dạng nhũ tương: Có hai loại nhũ tương là nhũ tương dầu trong
nước và nhũ tương nước trong dầu. Dầu này được xếp vào nhóm HFAE, HFB, do có
dạng nhũ tương nên dễ bị các loại vi khuẩn phân hủy làm giảm chất lượng dầu.
Dầu thủy lực gốc nước: Là các dung dịch nước được làm đặc bằng các
Polyme, chúng thuộc nhóm HFC. Cụ thể chúng là các glycol và các polyete tan được
trong nước cùng một số phụ gia chống ăn mòn, chống ôxy hóa...
Phân loại theo tiêu chuẩn ISO:
Ký hiệu:
HH là dầu khoáng tinh chế không có phụ gia
HL là dầu khoáng tinh chế chứa phụ gia chống gỉ, ôxy hóa
HM là kiểu HL có cải thiện tính chống mài mòn
HR là kiểu HL có cải thiện chỉ số nhớt
HV là kiểu HM có cải thiện chỉ số nhớt
HG là kiểu HM có chống kẹt
HS là chất lỏng tổng hợp không có chất chống cháy đặc biệt.
Theo tiêu chuẩn ISO 3448 mỗi nhóm dầu thủy lực trên lại được chia thành nhiều
nhãn hiệu khác nhau theo độ nhớt động học trung bình ở 400ºC là 10, 15, 22, 32, 46,
68, 100, 150, 220 và 320 cst.
Ví dụ: Dầu thủy lực nhãn hiệu HL-32 là thuộc nhóm HL và có độ nhớt động học
trung bình ở 400ºC là 32 cst.
3. Dầu phanh:
Để đảm bảo Ôtô hoạt động an toàn cần có nhiều chỉ tiêu, song một hệ thống
phanh có độ tin cậy cao chắc chắn là một trong những tiêu chí hàng đầu. Dầu phanh
được sử dụng cho cả phanh và ly hợp của của xe số tay. Nó là dung dịch không có dầu
mỏ bao gồm chủ yếu là Glicon và ete cũng như este của dầu hỏa.
a. Yêu cầu chất lượng của dầu phanh:
Dầu phanh cần có các phẩm chất sau:
Điểm sôi cao
Phanh bị nóng lên do ma sát thường xuyên. Thực tế dầu phanh có thể bay hơi
làm cho dầu sủi bọt. Nếu điều này xảy ra, đạp bàn đạp phanh chỉ ép lên dầu phanh đã
bay hơi và không có lực tác động lên xylanh phanh. Hiện tượng này được gọi là khóa
bay hơi. Điểm sôi cao là cần thiết ngăn ngừa hiện tượng này.
Màu sắc
Để giúp nhận biết ATF với các loại dung dịch khác, ATF có màu đỏ hoặc hổ
phách. Việc tạo màu như vậy giúp quá trính xác định rò rỉ dầu được nhanh chóng
chính xác.
Các phụ gia khác
ATF phải không có tác động xấu đến tính năng của phớt, các miếng đệm, đai
phanh và mài mòn đĩa. Do đó, phụ gia làm sạch được đưa vào ATF để ngăn chặn việc
tạo cặn do ôxy hóa, tạp chất mài mòn, và bị bẩn do tạp chất bên ngoài.
b. Phân loại:
Dầu hộp số tự động đã được tiêu chuẩn hóa bởi các nhà sản xuất Ô tô như:
Ford, GM. Chẳng hạn Ford F, GM Standard, DEXRON (r) II hay III.
giữa các bộ phận… tác dụng làm kín của mỡ tốt hơn dầu vì mỡ ở thể đặc sệt có tính
dính bám tốt hơn.
Mỡ khác dầu nhờn ở chỗ không có tác dụng làm nguội và làm sạch vì mỡ
không có tính năng lưu chuyển.
3.2.2. Thành phần của mỡ:
Các loại mỡ nói chung và các mỡ nhờn nói riêng là một thể cấu trúc dạng gel
(nửa rắn) hay có thể nói là thể đặc sệt. Cấu trúc gel này bao gồm hai pha là pha phân
tán rắn và môi trường phân tán lỏng. Pha phân tán rắn tồn tại dưới dạng một khung cấu
trúc và do các phân tử chất làm đặc liên kết lại với nhau mà tạo thành. Còn các phân tử
môi trường phân tán lại tồn tại một cách không hoàn toàn “tự do” trong lòng bộ khung
phân tán này (dù lượng môi trường phân tán là dầu nhờn lỏng chiếm tỷ lệ rất cao từ
70% - 95% còn pha phân tán rắn chiếm tỷ lệ khá thấp 5% - 30% mà nó vẫn có thể giữ
cho mỡ nhờn tồn tại ở dạng bán rắn).
Thành phần của mỡ nhờn gồm chủ yếu hai thành phần chính sau: Dầu nhờn và
chất làm đặc.
a. Dầu nhờn:
Dầu làm nhiệm vụ bôi trơn và là thành phần chính của mỡ, thông thường chiếm
từ 70% - 95% mỡ thành phẩm. Do là thành phần chính nên hàm lượng dầu và tính chất
lý hóa của dầu đều có ánh hưởng rõ ràng đến tính năng làm việc của mỡ. Nếu mỡ nhờn
dùng cho bộ phận làm việc ở nhiệt độ thấp, phụ tải nhẹ và tốc độ quay nhanh thì phải
dùng dầu nhờn có nhiệt độ đông đặc thấp, chỉ số độ nhớt cao. Còn nếu làm việc ở nơi
có phụ tải lớn, nhiệt độ cao và tốc độ thấp thì phải dùng dầu có độ nhớt cao và pha
thêm chất độn (như bột graphit).
Trong nhiều trường hợp phải dùng dầu tổng hợp thay cho dầu khoáng trong chế
biến mỡ. Dầu tổng hợp làm cho mỡ có khả năng chịu lạnh và chịu nhiệt tốt (dải nhiệt
làm việc -700C đến 4000C).
b. Chất làm đặc:
Có nhiệm vụ tạo ra cấu trúc rắn và nửa rắn của mỡ, chúng giữ cho dầu tồn tại
trong cấu thể đặc sệt không bị chảy loãng ra, chiếm từ 5% - 30% thành phần mỡ. Có
nhiều loại chất làm đặc như xà phòng (mỡ gốc xà phòng), các hydrocacbon rắn (mỡ
gốc sáp)….
Ngoài hai thành phần chính này trong mỡ còn có một số chất độn như bột
graphit hay một số phụ gia để ổn định tính chất của mỡ như: tính ổn định hóa học, tính
chịu nhiệt, tính bám dính…
hợp nhất từ 1-3% mỡ này có ưu điểm là giá thành thấp, tính chống xước và mài mòn
cao, bảo vệ kim loại tốt, có độ ổn định lớn, nhiệt độ mà mỡ có thể chịu được từ 30-
700C do đó mỡ canxi dùng chủ yếu là mỡ chống ma sát. Nhược điểm là nhiệt độ nóng
chảy thấp nên phạm vi sử dụng bị hạn chế.
a. Mỡ Natri.
Trong thành phần cấu trúc của mỡ này không có nước, mỡ có khả năng hấp thụ
hơi ẩm khi đó sẽ làm giảm các tính chất quan trọng như giới hạn bền, tính ổn định cơ
học, nhiệt độ sử dụng từ -20÷1100C.
b. Mỡ canxi-Natri.
Nó bao gồm các tính chất của hai loại mỡ kể trên ít nhạy cảm với nước và độ
ẩm nhiệt độ làm việc nhỏ hơn 1000C được sử dụng ở những nơi làm việc có tốc độ
quay lớn.
c. Mỡ Liti.
Được sản xuất rất nhiều do nhiệt độ nhỏ giọt cao, ít tan trong nước, nhiệt độ sử
dụng từ 60-1400C mỡ này có tính ổn định cơ học và tính ổn định độ keo rất tốt.
d. Mỡ chì.
Có khả năng chịu tải trọng cao, thông thường chì không có xà phòng để tạo sự
pha rắn mà còn kết hợp với các loại xà phòng khác và hiđro cacbon.
e. Mỡ hữu cơ.
Với chất làm đặc là các hợp chất hữu cơ của clo, flo, các polyme... Loại mỡ này
được sản xuất với khối lượng không nhiều chỉ để dùng trong các trường hợp đặc biệt
như nhiệt độ cao, môi trường ăn mòn mạnh.
f. Mỡ vô cơ.
Dùng chất làm đặc là hợp chất hoặc đơn chất vô cơ như silic, đất sét, than
grapyt được dùng để sản xuất mỡ có tính chất đặc biệt mà các loại trên không có, khả
năng chịu nhiệt có thể 6000C nhưng giá thành rất đắt.
g. Các loại phụ gia.
Các chất phụ gia có tác dụng làm cho cấu trúc của mỡ được tốt hơn, làm tăng
các tính chất ổn định nhiệt, ổn định hoá học, ổn định cơ học, tính bôi trơn, tăng độ bám
dính, tăng khả năng làm kín…
Dầu nhờn dùng để sản xuất mỡ cần có độ nhớt động học thích hợp, trung bình
vào khoảng 10 - 50 cst ở 500C. Dầu có độ nhớt lớn quá hoặc bé quá đều khó tạo thành
khung cấu trúc cho mỡ, nên chất lượng mỡ tạo thành không tốt.
Dầu có gốc parafin tạo ra mỡ nhờn có tính ổn định nhiệt và oxy hóa cao. Dầu
nhờn có chỉ số độ nhớt cao sẽ tạo ra loại mỡ nhờn mềm và mịn nhất.
Ngoài ra còn yêu cầu dầu nhờn có độ dính bám, tính chống ăn mòn kim loại,
tính bôi trơn càng tốt thì chất lượng mỡ nhờn tạo thành càng cao.
Ảnh hưởng của chất ổn định cấu trúc
Việc thêm vào mỡ nhờn một thành phần nào đó của cấu tử thứ 3 với vai trò ổn
định cấu trúc là rất cần thiết các chất ổn định cấu trúc thường là: Nước, rượu, glyxêrin
và các phênolamin. Các chất này có khả năng làm tăng độ tan của xà phòng trong dầu
nhờn. Do đó làm bền liên kết giữa xà phòng và dầu nhờn tạo ra một cấu trúc tốt cho
mỡ.
Ví dụ: Với mỡ xà phòng canxi một lượng nước dưới 3% có tác dụng ổn định
cấu trúc mỡ còn lớn hơn 3% thì làm cấu trúc của mỡ kém đi.
Ảnh hưởng của phụ gia chất độn
Người ta thường pha vào mỡ nhờn một số loại phụ gia để cải thiện chất lượng
mỡ. Thông thường có các loại phụ gia chống oxy hóa, chống xước, chống mài mòn,
chống ăn mòn…
Việc dùng phụ gia trong từng trường hợp phải tính đến ảnh hưởng của chúng
đối với tính chất của tầng loại mỡ.
Ví dụ: Đối với mỡ có phản ứng kiềm yếu nên dùng hợp chất amin làm phụ gia chống
oxy hóa. Mỡ có phản ứng axit lại phải chọn phụ gia gốc phenol.
Ảnh hưởng của lượng kiềm tự do và axit béo không xà phòng hóa
Trong mỡ gốc xà phòng bao giờ cũng có một lượng kiềm tự do <0,2% tồn tại ở
dạng Glyxerat, là chất ổn định cấu trúc cho mỡ nhờn ngoài ra còn một lượng axit béo
không xà phòng hóa. Hai thành phần này là những yếu tố quan trọng quyết định chất
lượng của mỡ nhờn.
3.2.5. Các loại mỡ và cách sử dụng:
Người ta có các cách phân loại mỡ như sau:
a. Phân theo chất làm đặc.
Mỡ gốc xà phòng:
Xà phòng kim loại kiềm (Li, Na, K) dùng phổ biến nhất là mỡ nhờn gốc xà
phòng Liti, ít dùng nhất là mỡ nhờn gốc xà phòng kali. Mỡ gốc xà phòng Na có nhiệt
độ nóng chảy cao chịu được nhiệt nhưng kém chịu nước. Ngày nay thay thế bằng mỡ
gốc xà phòng liti vừa chịu nhiệt vừa chịu nước.
Xà phòng của kim loại kiềm thổ: Mg, Ca, Ba: Có nhiệt độ nóng chảy trung bình
kém chịu nhiệt nhưng chịu nước tốt.
Xà phòng của các kim loại khác Zn, Al, Pb: Có tính chịu nước kể cả nước mặn.
Xà phòng hỗn hợp của hai kim loại như: Na + Ca, Li + Ca…
Mỡ nhờn gốc sáp (Hydrocacbon rắn):
Loại thạch lạp (prafin rắn) có nhiệt độ nóng chảy thấp.
Loại địa lạp có nhiệt độ nóng chảy cao hơn.
Thường được dùng làm mỡ bảo quản.
Mỡ nhờn gốc vô cơ
Gồm mỡ silicat, mỡ nhờn đất sét, mỡ grafit… loại mỡ này không bị nóng chảy
có độ ổn định khá cao thường dùng mỡ bôi trơn chuyên dụng trong một số ngành xi
măng, sắt thép có nhiệt độ nóng chảy khoảng 2000C.
b. Phân loại theo phạm vi sử dụng.
Mỡ bôi trơn hữu cơ thông thường: Là loại mỡ dùng hầu hết ở các loại xe máy
có phạm vi nhiệt độ sử dụng khoảng 500C – 2000C, chúng được phân biệt theo nhiệt
độ nóng chảy gồm 3 phân nhóm: Mỡ bôi trơn nóng chảy thấp loại này có nhiệt độ nhỏ
giọt 40-700C sử dụng cho các loại máy làm việc có nhiệt độ thấp do nhóm mỡ này là
các loại mỡ bảo quản và thành phần chủ yếu là dầu nhờn có độ nhớt lớn…
Mỡ bôi trơn nóng chảy trung bình có nhiệt độ từ 650C-1000C thành phần gồm
có dầu nhờn và xà phòng canxi.
Mỡ bôi trơn nóng chảy cao có nhiệt độ nhỏ giọt nhỏ hơn 1000C.
Mỡ bôi trơn chuyên dùng: Là các loại mỡ chuyên dùng cho các bộ phận máy
móc theo quy định của nhà thiết kế chế tạo mà không được thay thế tùy tiện bằng các
loại mỡ khác.
Ví dụ: Mỡ bôi trơn các loại đồng hồ, cho ôtô, hàng hải các loại đường sắt…
c. Phân loại theo công dụng.
Mỡ chống ma sát
Mỡ bảo quản
Mỡ làm kín.
d. Phân loại theo Viện mỡ bôi trơn của Mỹ (NLGI).
Viện dầu mỡ quốc gia mỹ NLGI (National Lubricating Grease Institute) phối
hợp với hiệp hội kỹ sư ô tô SAE (Society of Automotive Engineers) và hiệp hội thử
nghiệm vật liệu hoa kỳ ASTM (American Society for Testing and Materials) đã phát
triển hệ thống cho việc chỉ định mô tả, phân loại và đặc tính của mỡ dùng cho ô tô
gồm:
- Loại phục vụ cho khung gầm:
NLGI LA
NLGI LB
- Loại phục vụ cho ổ trục bánh xe
NLGI G-A
NLGI G-B
NLGI G-C
- NLGI LA: cho những bộ phận của khung gầm và khớp các đăng ở trong xe khách, xe
tải, ít thay mỡ
- NLGI LB: cho những bộ phận của khung gầm và khớp các đăng trong xe khách xe
tải làm việc dưới điều kiện: định kỳ thay mỡ kéo dài, tải cao rung động mạnh, dễ hở,
nước và các chất nhiễm bẩn dễ xâm nhập.
- NLGI GA: ổ trục bánh xe trong xe khách, xe tải và một số xe khác trong điều kiện:
xe thay mỡ thường xuyên.
- NLGI GB: điều kiện: tải nhẹ đến trung bình gặp trong hầu hết các xe hoạt động trong
thành phố bình thường, trên đường cao tốc.
- NLGI GC: Tải nhẹ đến khắc nghiệt, nhiệt độ cao, những xe chạy dừng thường xuyên.
f. Mỡ bảo quản.
-Điều kiện sử dụng:
Mỡ bảo quản được sử dụng để bảo vệ các chi tiết kim loại chống lại sự ôxi hoá, sự ăn
mòn và các hoá chất khác. Điều kiện sử dụng của mỡ tuỳ thuộc vào yếu tố khí hậu
trang thiết bị, bề mặt cần bảo quản, nhiệt độ không khí về mùa hè có thể lên tới 500C.
Độ ẩm có thể tới 100%. Sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm… sẽ phát sinh và
phát triển các quá trình ăn mòn.
-Tính chất:
Phải có khả năng tạo màng bảo vệ trên bề mặt kim loại,
Có tính bám dính tốt,
Có tính chịu nước đây là tính chất đặc trưng cho khả năng của mỡ không bị rửa trôi
khỏi bề mặt kim loại. Không hoà tan trong nước, không tạo thành nhũ tương với nước
và không bị thay đổi tính chất khi bị nước tác dụng.
Một số loại mỡ bảo quản:
Mỡ bảo quản của Nga
Ví dụ:
Hình 3.1. Dầu mỡ được chứa trong phi, can hoặc chai
TIỆN ÍCH
ENOC EN-COOL ENGINE COOLANT cung cấp các tiện ích sau:
- Làm mát động cơ hiệu quả và ngăn chặn hiện tượng sôi của nước làm mát trong
mùa hè.
- Khả năng chống ăn mòn cao và tác dụng kéo dài với tất cả các loại động cơ
hiện đại.
- Tương thích với các chi tiết bằng cao su và vật liệu làm kín.
- Không chứa các hợp chất độc hại như các hợp chất photphat, nitrat và amin.
- Ngăn ngừa hiện tượng đóng băng trong mùa đông, phụ thuộc vào độ đậm đặc.