You are on page 1of 147

TIẾP CẬN THƠ VĂN NGUYỄN TRÃI

TIẾP CẬN THƠ VĂN NGUYỄN TRÃI

Tiến sĩ ĐOÀN THỊ THU VÂN (biên soạn)

LỜI NÓI ĐẦU

Tủ sách “Văn học trong nhà trường” là bộ sách được biên soạn theo
sát chương trình Văn bậc phổ thông, nhằm bổ trợ, mở rộng kiến thức cho học
sinh, đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo cho giáo viên và những ai quan
tâm đến văn học.

Tủ sách “Văn học trong nhà trường” sẽ thực hiện trong hai năm 2001 -
2003 gồm hai loạt sách:

- Loạt sách về Tác giả, Tác phẩm.

- Loạt sách về Các thể loại văn học.

Loạt sách về Tác giả, Tác phẩm có các phần:

- Tổng quan về thân thế, sự nghiệp của tác giả.

- Tuyển một số bài (hoặc đoạn) nghiên cứu, hồi ức, cảm nghĩ về tác
giả.

- Tuyển một sô bài phân tích bình luận về các tác giả được đưa vào
trong chương trình học bậc phổ thông.

- Thư mục tham khảo.

Ngoài ra, có thể thêm các phần:

- Tranh ảnh tư liệu.

- Thủ bút của tác giả.

- Giai thoại về tác giả.

- Một số đề làm văn.


- Một số bài văn hay của học sinh phổ thông, thí sinh thi đại học.

- Niên biểu.

Loạt sách về Các thể loại văn học có các phần:

- Giới thiệu thể loại.

- Những ý kiến của các nhà nghiên cứu, các nhà văn bàn về thể loại ấy.

- Một số tác phẩm (hoặc trích đoạn) của Việt Nam và thế giới về thể loại
ấy.

- Thư mục tham khảo.

Ngoài ra có thể có thêm các phần:

- Giới thiệu các tác gia tiêu biểu của thể loại ấy.

- Một số ảnh chân dung tác giả.

- Thủ bút, ảnh bìa của tác phẩm thuộc thể loại ấy.

Vì tính quan trọng của tủ sách “Văn học trong nhà trường”, Hội đồng
biên tập gồm các đại diện của Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học Thành
phố Hồ Chí Minh và Nhà Xuất bản Trẻ đã mời các giáo sư, tiến sĩ, nhà nghiên
cứu có uy tín, có tinh thần trách nhiệm cao và đáng tin cậy tham gia biên soạn
Tủ sách này.

Chúng tôi tin rằng tủ sách “Văn học trong nhà trường” sẽ mang đến cho
độc giả nhiều bổ ích và hứng thú. Chúng tôi cũng xin chân thành cám ơn các
nhà nghiên cứu phê bình cùng các tác giả có bài vở và ý kiến được trích đăng
trong tập sách này.

Mong nhận những ý kiến đóng góp của các vị, các bạn.

Giáo sư Nhà giáo nhân dân Hoàng Như Mai


Chủ tịch Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TPHCM
Phần một. TỔNG QUAN
NGUYỄN TRÃI-THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP

Đoàn Thị Thu Vân

Nguyễn Trãi (1380-1442) hiệu là Ức Trai, quê ở xã Chi Ngại, huyện Chí
Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời về xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
Cha ông là Nguyễn Phi Khanh (trước tên là Nguyễn Ứng Long), một nho sinh
nghèo, học giỏi, đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) đời Trần. Mẹ ông là Trần Thị Thái,
con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, một quý tộc đời Trần.

Lên sáu tuổi, mất mẹ, lên mười, ông ngoại qua đời, Nguyễn Trãi về ở
Nhị Khê, nơi cha dạy học. Năm hai mươi tuổi, 1400, ông đỗ Thái học sinh và
cùng cha ra làm quan với nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh cướp nước ta,
Nguyễn Phi Khanh bị giặc bắt đưa sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi cùng một
người em trai đi theo chăm sóc cha. Đến biên ải, nghe lời cha khuyên, ông
quay trở về, tìm cách “trả thù cho cha, rửa nhục cho nước”, nhưng rồi lại bị
giặc Minh bắt giữ. Sau đó, ông thoát ra được và lặn lội nhiều nơi tìm người
minh chủ để chung sức diệt giặc, ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi
khởi xướng, trở thành trợ thủ đắc lực của Bình Định Vương trong suốt mười
năm chiến đấu. Ông được phong làm Tuyên phụng đại phu Hàn lâm Thừa
chỉ, thường cùng dự bàn mưu lược nơi màn trướng. Sau đó lại được phong
Triều liệt đại phu Nhập nội Hành khiển, Lại bộ Thượng thư kiêm Hành Khu
mật viện sự. Với vai trò là quân sư cho thủ lĩnh Lê Lợi, một tay ông soạn thảo
những thư từ, mệnh lệnh trong quân đội - đã trở thành những áng văn chiến
đấu bất hủ - góp phần vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc.

Đầu năm 1428, sau khi quét sạch quân thù giành lại độc lập, Nguyễn
Trải hăm hở bắt tay vào xây dựng lại nước nhà thì bỗng dưng bị nghi oan và
bị bắt giam. Sau đó ông được tha, nhưng không còn được tin dùng như
trước. Năm 1433, Lê Thái Tổ qua đời, Lê Thái Tông lên ngôi tuổi còn non trẻ,
bọn quyền thần, vốn căm ghét Nguyễn Trãi vì ông quá ngay thẳng, trung
thực, thường vạch trần những sai trái của họ, đã dèm pha, xúc xiểm với vua
khiến ông nhiều lần suýt mang họa vào thân. Ông buồn, xin cáo quan về ẩn
dật tại Côn Sơn (khoảng những năm 1437, 1438). Năm 1440, Lê Thái Tông
chấn chỉnh lại triều đình, trừ khử những thế lực bất chính và mời Nguyễn Trãi
trở ra giúp việc nước, giao cho ông nhiều công việc quan trọng, ông đang
hăng hái giúp vua, thực hiện hoài bão an dân thì bỗng xảy ra sự biến. Năm
1442, Lê Thái Tông đi duyệt binh ở Chí Linh và nhân tiện đến thăm Nguyễn
Trãi (lúc đó đang ở Côn Sơn), trên đường về ghé nghỉ đêm tại Trại Vải (Lệ
Chi Viên, Bắc Ninh), bất ngờ qua đời. Bọn gian tà ở triều đình, vốn chứa thù
từ lâu đối với Nguyễn Trãi, liền vu cho ông âm mưu giết vua, kết tội tru di cả
ba họ.

Nỗi oan thảm khốc ấy, hơn hai mươi năm sau mới được giải tỏa. Năm
1464, Lê Thánh Tông xuống chiếu tẩy oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng Đặc
tiến kim tử Vinh Lộc đại phu, tước Tán Trù Bá, cho sưu tầm lại thơ văn ông và
tìm người con trai còn sống sót cho làm quan. Đến đời Lê Tương Dực, năm
1512, ông lại được truy phong tước Tế Văn Hầu.

Nguyễn Trãi để lại một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ nhưng văn
chương ông, cũng chung chịu số phận như con người, phải lắm phen chìm
nổi. Sau oan án Lệ Chi Viên, tác phẩm của ông không còn nữa. Năm 1467,
Trần Khắc Kiệm theo lệnh Lê Thánh Tông sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn
Trãi. Việc làm này mất khá nhiều công phu, mãi đến năm 1480 bộ sưu tập
mới hoàn thành. Tuy nhiên đáng tiếc là công trình quý giá này về sau lại bị
thất tán. Mãi đến bốn thế kỷ sau, một học giả đời Nguyễn là Dương Bá Cung,
người đồng hương với Nguyễn Trãi, mới dốc sức sưu tập lần thứ hai trong
khoảng hơn mười năm trời để hoàn thành bộ di văn của Nguyễn Trãi và được
nhà Phúc Khê tàng bản khắc in vào năm 1861, với tựa đề Ức Trai di tập, gồm
7 quyển. Đây là di sản thơ văn Nguyễn Trãi còn giữ lại được đến ngày nay.

Về văn, Nguyễn Trãi để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Quân trung từ
mệnh tập là tập văn luận chiến nổi tiếng bao gồm những thư từ gởi cho các
tướng giặc và những văn kiện ngoại giao với triều đình nhà Minh, trong đó
Nguyễn Trãi đã sử dụng “đao bút” như một thứ vũ khí lợi hại “đánh vào lòng
người” làm suy yếu tinh thần quân địch. Bình Ngô đại cáo, viết sau đại thắng
năm 1427, là bản tổng kết xuất sắc quá trình kháng chiến mười năm, không
chỉ thể hiện tinh thần yêu nước bảo vệ độc lập, truyền thống bất khuất chống
ngoại xâm, còn đặc biệt nêu cao “chí nhân, đại nghĩa” như một giá trị văn hóa
ngời sáng của dân tộc Đại Việt. Với bút lực hào hùng và lời văn truyền cảm
mạnh mẽ, tác phẩm đã trở thành một áng “thiên cổ hùng văn”. Viết sau chiến
thắng còn có Lam Sơn thực lục là quyển sử về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Dư
địa chí là sách địa lý lịch sử nước Việt, Chí Linh sơn phú nói về cuộc chiến
đấu chống giặc Minh gian khổ và anh hùng. Các bài chiếu viết thay Lê Thái
Tổ để dạy bảo thái tử, khuyên răn các quan, ban bố mệnh lệnh và bài Biểu tạ
ơn dâng lên Lê Thái Tông khi Nguyễn Trãi lại được vua tin dùng lúc tuổi đã
già đều chứa chan tâm huyết của tác giả đối với lý tưởng xã hội thân dân.
Băng Hồ di sự lục ghi chép về sự nghiệp của Trần Nguyên Đán cho thấy tình
cảm thân yêu, kính phục của Nguyễn Trãi dành cho ông ngoại và ảnh hưởng
của Băng Hồ tướng công đối với tư tưởng và nhân cách Ức Trai. Vĩnh Lăng
thần đạo bi ký là bài văn bia Vĩnh Lăng nêu bật công tích của Lê Lợi trong sự
nghiệp cứu nước. Tất cả những tác phẩm trên đều viết bằng chữ Hán.

Về thơ, có hai tập: Ức Trai thi tập, bằng chữ Hán, gồm 105 bài, sáng
tác theo quy phạm truyền thống và Quốc âm thi tập, bằng chữ Nôm, gồm 254
bài, có nhiều cách tân, sáng tạo trong ngôn ngữ, thể loại cũng như cảm quan
nghệ thuật về thiên nhiên, cuộc sống, và là đóng góp lớn, có tính chất nền
tảng cho thơ tiếng Việt buổi đầu. Hai tập thơ mang niềm vui, nỗi buồn, hoài
bão, ưu tư của cả một đời Nguyễn Trãi, từ tuổi trẻ đến lúc về già, trong đó
chan chứa tình điệu tâm hồn nhà thơ và tình điệu của cả quê hương, dân tộc.

***

Từ thuở thiếu thời, Nguyễn Trãi đã mang chí hướng tiên ưu - “Bình sinh
độc bão tiên ưu chí”. Tấm lòng ông suốt một đời dành cho nước và dân. Đất
nước bị giặc ngoại xâm giày xéo, ông đau lòng - “Sau cơn binh lửa, than ôi
khó ngăn họa rìu búa”. Càng đau lòng hơn khi nhìn cảnh kẻ thù ngang nhiên
“nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”.
Mười năm trôi nổi tìm đường, gia đình ly tán, thân bằng quyến thuộc đều mất
hết cả, nghĩ đến mồ mả ông bà và mẹ hoang tàn lạnh lẽo mà mình còn mải
lưu lạc phương xa, nhà thơ chỉ còn biết “đem suông nước mắt máu để tẩy
rửa mộ phần”. Sinh vào thời loạn, hơn ai hết, Nguyễn Trãi ý thức sâu sắc cứu
nước là cứu dân thoát khỏi cảnh lầm than. Đó là trách nhiệm trọng yếu và
thiêng liêng nhất. Và muốn làm được điều này cần phải nhờ vào dân, vì dân
là sức mạnh vạn năng có thể thay thời đổi thế, làm nên bao điều kỳ vĩ. Suy
ngẫm từ thành bại của những người đi trước, Nguyễn Trãi đã nhìn ra sức
mạnh “chở thuyền” và “lật thuyền” của dân, thấy được dân chính là chủ thể
lịch sử. Truyền thống thân dân kế thừa từ ông ngoại và cha, phần lớn cuộc
đời sống trong dân, từng trải cảnh nhà nghèo phải chăm lo lao động, rồi phiêu
dạt nổi trôi, nếm trải khổ nhục của người dân nô lệ, đã giúp Nguyễn Trãi cảm
thông, gắn bó với nhân dân sâu sắc. Thương yêu nhân dân, Nguyễn Trãi còn
có sự trân trọng nhân dân đúng mức. Để thực hiện lý tưởng “trừ bạo yên dân”
mà ông suốt đời theo đuổi, Nguyễn Trãi chủ trương dựa vào sức dân trong
đánh giặc giữ nước cũng như xây dựng đất nước và luôn lấy nguyện vọng
của dân làm gốc. Lời tâu của ông lên Lê Thái Tông về việc soạn nhạc cho
thấy ông coi cuộc sống và tâm tư của người dân là nền tảng cho sự thịnh suy
của quốc gia. Ông nhắc nhở những người cầm quyền đừng quên đóng góp
lớn lao của những con người không tên tuổi - “những quy mô lớn lao lộng lẫy
đều là sức lao khổ của quân dân” - và phải trân trọng công sức khó nhọc của
người làm ra nguồn sông cho xã hội - “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”. Người làm
vua nên “thương yêu dân chúng, nghĩ ban chính sách khoan nhân”. Kẻ làm
quan thì phải “bỏ thói tham ô, trừ tệ lười biếng”, “coi công việc của quốc gia là
công việc của mình, lấy điều lo của sinh dân làm điều lo thiết kỷ. Tấm lòng ưu
ái “đêm ngày cuồn cuộn nước chầu đông” hay “tấc lòng son luôn nghĩ đến
vua và cha”, niềm trung hiếu suốt đời “mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen”
của Nguyễn Trãi chung quy là một - hướng về dân, “đồng bào cốt nhục”, đem
“hổ phách, phục linh” của đời mình “dành còn để trợ dân này”.

Ở Nguyễn Trãi, tình yêu thiên nhiên cũng rất mực đậm đà. Trong thơ
chữ Hán, những cảnh sắc núi sông hùng vĩ và thơ mộng, hữu tình của đất
nước đã trở thành nguồn thi hứng dạt dào cho nhà thơ. Cánh buồm thơ của
Ức Trai đã lướt qua bao thắng tích để từ con mắt nhìn đầy trìu mến tự hào,
thiên nhiên hiện ra lộng lẫy, mới lạ:

“Liên hoa phù thủy thượng

Tiên cảnh trụy trần gian”

(Dục Thúy sơn)

(Cảnh tiên rơi cõi tục

Mặt nước nổi hoa sen)

(Núi Dục Thúy - Khương Hữu Dụng dịch)

“Nhất bàn lam bích trừng minh kính

Vạn hộc nha thanh đọa thúy hoàn”

(Vân Đồn)

(Một vùng nước xanh biếc yên lặng như tấm gương sáng

Muôn hộc đá đen lánh rủ xuống như mái tóc xanh)

(Cảnh Vân Đồn)

vừa uy nghi, hùng vĩ:

“Kình phun lãng hống lôi nam bắc

Sáo ủng sơn liên ngọc hậu tiền”

(Thần Phù hải khẩu)

(Cá kình phun thành sóng gầm như tiếng sấm vang động phía
nam phía bắc

Núi liền hàng như giáo dựng trông tựa ngọc bày đằng trước đằng
sau)

(Qua cửa biển Thần Phù)

lại vừa duyên dáng, đẹp tươi:

“Giáp ngạn thiên phong bài ngọc duẩn


Trung lưu nhất thủy tẩu thanh xà”

(Quá Thần Phù hải khẩu)

(Sát bờ, ngàn ngọn núi bày ra như búp măng ngọc

Ở giữa, một dòng nước lượn ngoằn ngoèo như con rắn xanh)

(Qua cửa biển Thần Phù)

Nhưng nhắc đến tình yêu thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi không thể
không nhắc đến Quốc âm thi tập. Ở đó làng quê Việt Nam hiện lên đậm đà
bản sắc với những vườn ao, ngõ xóm, ao rau muống, luông mồng tơi, cây đa,
cây chuối, chợ cá làng chài… hiền hòa bình dị và đầy sức sống. Cái nhìn của
người ngắm cảnh thật độc đáo. Cảnh vật có hồn, có cuộc sống, hoạt động.
Thuyền đậu san sát ngoài bãi trông xa như “tằm ươm lúc nhúc”, xóm cuối
làng thì lô nhô như “hàu chất so le”. Con cò, con hạc cùng nhà thơ là bạn
hữu, một tình bạn hồn nhiên, thân thiết, bình đẳng:

"Âu lộ cùng ta dường có ý

Đến đâu thì thấy nó đi theo”

(Tự thán XXXI)

Với Ức Trai, cuộc sống gần gũi thiên nhiên thật tự do thú vị. “Quét con
am để chứa mây”, để thuyền cho trăng chở nhờ, dưỡng cây cối cho chim về
làm tổ.

Sự giàu có của nhà thơ thật đặc biệt, không mấy ai sánh được. Kể về
điều này, lời thơ cất lên nghe hào hứng, sảng khoái:

“Kho thu phong nguyệt đẩy qua nóc

Thuyền chở yên hà nặng vạy then”

(Thuật hứng XXIV)

Sản vật quê nhà tuy không phải cao lương mỹ vị nhưng sẵn dành ưu ái
cho con người. Nhà thơ tự thấy đầy đủ, hài lòng, thậm chí tự hào:

“Quê cũ nhà ta thiếu của nào


Rau trong nội, cá trong ao”

(Mạn thuật XIII)

Yêu thiên nhiên, Nguyễn Trãi trân trọng, nâng niu từng mảnh trăng
muộn, cánh hoa tàn:

“Viện có hoa tàn chăng quét đất

Nước còn nguyệt hiện sá thôi chèo”

(Mạn thuật X)

Tâm hồn nhạy cảm và nhân hậu ấy như nghe được hơi thở của sự vật,
hiểu được tình cảm của cỏ hoa và mở rộng lòng chia sẻ. Ông để ngỏ cửa cho
trăng vào cùng thưởng thức thơ, gọi hộ gió đến khẽ mở bức thư tình còn
phong kín trên nõn chuối thanh xuân.

Nguyễn Trãi là người có cái nhìn độc đáo và những tứ thơ mới lạ về
thiên nhiên. Đi dạo quanh xóm buổi chiều, nhà thơ nhìn thấy những cụm ráng
chiều đậu trên rặng cây, nước lên đầy chôn lấp cây cầu nhỏ. Cũng với sự vật
vô tri là nước, ở bến đò xuân đầu trại nhà thơ lại nhìn thấy trên mặt sông
dâng đầy mênh mông như tiếp giáp chân trời, mưa xuân làm cho nước gợn lô
xô như vỗ nhịp vào trời xanh, còn con đò nhàn nhã thì gối đầu lên bãi cát mà
đánh giấc ngon lành. Cảnh tĩnh lặng, không có bóng người, hoạt động của
con người nhưng vẫn dạt dào sức sống.

Không gian trong thơ Nguyễn Trãi cao rộng mênh mông mà không lạnh
lẽo, cách biệt. Nó ấm áp, gần gũi và mang hơi hướng, bóng dáng con người.
Nhà thơ đã phả vào cảnh trời nước bao la, thiên nhiên hùng vĩ sự sông của
con người từ màu biếc của ngọc, sắc trong của pha lê đến tiếng đàn tiếng
sáo, vóc lụa vóc là - đều là những vật thể gắn liền với sinh hoạt của con
người:

“Khuê bích thiên trùng khai điệp hiến

Pha lê vạn khoảnh dạng tình ba

Quản huyền tào tạp lâm biên điểu


La ỷ phương phân ổ lý hoa”

(Hí đề)

(Núi non trùng điệp giăng ra như nghìn lớp ngọc khuê ngọc bích

Nước trong sóng sánh như muôn khoảnh pha lê

Chim bên rừng đua hót như tiếng đàn tiếng sáo réo rắt

Hoa trong xóm đưa hương như vóc là vóc lụa thơm tho)

(Đề chơi)

Không gian và cảnh vật trong Côn Sơn ca cũng mang ý nghĩa tương tự.
Bài ca Côn Sơn mở ra một khoảng không xanh tươi, trong trẻo, mát mẻ. Núi
rừng hùng vĩ nhưng không bí ẩn, xa cách. Thiên nhiên mang vẻ đẹp hoang
sơ, nguyên thủy mà thật ấm áp thân tình. Đem cái tâm của mình hòa đồng
cùng vạn vật, Nguyễn Trãi đã vận dụng được nguyên lý “vạn vật đồng nhất
thể” của triết học phương Đông để vui niềm vui khám phá và phát hiện. Côn
Sơn thực sự trở thành ngôi nhà thân thuộc khi nhà thơ nghe được tiếng nói
của suối, đá, thông, trúc, có thể cùng nhau trò chuyện, cảm thông, có thể lấy
nó làm đàn cầm, làm đệm chiếu êm mượt, làm lọng biếc che mát để nằm nghỉ
ngơi, làm tấm bình phong xanh để ngồi bên ngâm vịnh.

Tình yêu mến, gắn bó với thiên nhiên không những làm cho Nguyễn
Trãi có một cảm quan tinh tế đối với thiên nhiên mà còn giúp nhà thơ trong khi
quan sát, ngắm nhìn phát hiện ra những quy luật khách quan, những chân lý
cuộc sống mà con người cần xem như bài học - “Ý tứ vô cùng của trời đất
xưa nay; chính ở tại nơi đám khói trên rặng cây xa bên sóng nước xanh kia”.
Đọc thơ Nguyễn Trãi có thể thấy thiên nhiên đã làm vui, làm đẹp và làm
phong phú cho cuộc sống con người biết bao.

Với cỏ cây hoa lá còn quan tâm ưu ái đến thế, huống chi là con người.
Yêu thương con người, Nguyễn Trãi luôn muôn mọi người được sống hạnh
phúc, sống đẹp, hữu ích và có giá trị trong đời. Ông đem kinh nghiệm cả một
đời mình đúc kết thành những phương châm, những lời khuyên không cao
đạo mà thật gần gũi, thiết thực. Sống ở trên đời, đức là quan trọng hơn cả -
“Tích đức cho con hơn tích của”. Đức là trung hậu thủy chung, với bạn bè
không nên lúc giàu sang quên đi “người cố cựu”, với gia đình đừng nên khi
vinh hiển phụ bỏ “vợ tào khang”. Phải quý trọng tình anh em, nghĩa vợ chồng
- “Chân tay dù đứt khôn bề nối; Xống áo chăng còn mô dễ xin”. Đừng ham mê
vật chất mà ăn “cơm kẻ bất nhân”, mặc “áo người vô nghĩa” để bị cám dỗ đi
vào đường xấu. Đừng tham ruộng nhiều để rồi lười biếng, bỏ hoang. Phải biết
phòng xa, tiết kiệm, đừng nên “xa hoa, lơ đãng”, nhưng cũng không quá trọng
của cải đến trở thành kẻ ích kỷ, chỉ biết bo bo giữ của, không quan tâm đến ai
khác:

“Của thết người là của còn

Khó khăn phải đạo cháo càng ngon”

(Bảo kính cảnh giới XXII)

và cũng không nên sống ép xác, khắc kỷ đến coi thường bản thân, cuộc sống
chẳng còn ý nghĩa:

“Nằm có chiếu chăn cho ấm áp

Ăn thì canh cá chớ khô khan”

(Bảo kính cảnh giới VII)

Quan trọng hơn cả là phải siêng năng lao động. Lớp trẻ cần chăm học
chăm làm để “nên thợ nên thầy”, “no ăn no mặc” cho bản thân và giúp ích cho
xã hội.

Để dạy người có hiệu quả, trước hết bản thân người dạy phải là một
tấm gương sáng về tu dưỡng đạo đức. Cuộc sông Nguyễn Trãi là cuộc sống
vui thú, hồn nhiên trong cái thanh đạm, bình dị:

“Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh

Áo bô quen cật vận xênh xang”

(Tức sự IV)
trong đó có niềm tự hào giữ được mình cứng cỏi thẳng ngay - “Cốt lãnh hồn
thanh chăng khứng hóa”; không bị nước lũ cuộc đời cuốn trôi hay xói mòn
bản ngã - “Nước chảy âu khôn xiết bóng non”. Muốn nên người có giá trị phải
chăm lo rèn luyện. Điều tâm niệm của một đời, Nguyễn Trãi trao truyền cho
thế hệ đi sau:

“Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược

Có nhân, có trí, có anh hùng”

(Bảo kính cảnh giới V)

Nhân, trí, dũng, những phẩm chất cần yếu của con người, chỉ có thể
trui rèn được trong khó khăn thử thách, do đó không nên ngán ngại thử thách
mà cần có ý chí, nghị lực đương đầu và vượt lên nó:

“Khó khăn thì mặc có màng bao

Càng khó bao nhiêu chí mới hào”

(Thuật hứng XXI)

Dù hoàn cảnh ngặt nghèo như thế nào, Nguyễn Trãi vẫn giữ vững một
nhân cách cao thượng. Không gì làm thay đổi được một con mắt xanh biết
phân biệt chính tà, một tấm lưng đứng thẳng, không “cúi ngửa theo người”:

“Mắt hòa xanh, đầu dễ bạc

Lưng khôn uốn, lộc nên từ”

(Mạn thuật XIV)

Điều để Ức Trai tự hào một đời không phải là tiếng tăm, càng không
phải là phú quý mà là “một tấm lòng son luôn nóng hừng như lửa lò luyện
đơn” và trong vắt như “băng trong bầu ngọc”. Vì thế, ông tới lui tự tại, không
ưu tư dằn vặt về chuyện lợi danh, được mất. Ở đâu cũng tìm được niềm vui,
sự thú vị trong cuộc sống:

“Kề ngày con nước toan triều lạc

Bạn chúng thằng chài chác cá tươi”


(Tự thán VI)

Bởi vì:

“Ân cả lo chi thành thị nữa

Nào đâu là chẳng đất nhà quan”

(Ngôn chí XVI)

Tuy cuộc đời gặp không ít nghịch cảnh đáng buồn nhưng vẫn vững
vàng vượt lên trên để giữ bền một niềm ưu ái sắt son, một phần cũng nhờ
ông là con người biết sống, biết tìm niềm vui trong cuộc sống, Ức Trai quan
niệm con người cần có cuộc sống cân đối hài hòa. Có làm việc nhưng cũng
có vui chơi giải trí. Khi còn trẻ, chăm lo công hiến, phục vụ nhưng cũng không
để lợi danh trói buộc mà quên đi tu dưỡng tâm hồn. Khi về già không nên xem
là đã hoàn thành trách nhiệm với đời để chỉ lo nhàn lạc riêng mình mà vẫn
tiếp tục đóng góp trong điều kiện mình có thể sao cho lúc nào cũng là người
hữu ích. Cách sống lạc quan đó khiến cho Nguyễn Trãi khi làm quan vẫn có
được phong thái ung dung thư thái của một ông tiên - như nhận xét của
Nguyễn Mộng Tuân, người cùng thời; khi lui về nghỉ ngơi vẫn không quên đời,
vừa “dạy láng giềng mấy sĩ nho”, vừa chăm lo vườn tược - “Ao cạn vớt bèo
cấy muống; Đìa thanh phát cỏ ương sen”, vừa đúc kết kinh nghiệm đời mình
trong những vần thơ “Bảo kính cảnh giới” để trao truyền cho thế hệ đi sau.
Quan niệm sống này cho thấy Nguyễn Trãi đã thừa hưởng được di sản văn
hóa Lý Trần đậm đà chất nhân văn, trong đó có sự tiếp thu và dung hòa tinh
hoa của cả tam giáo - Nho, Phật, Đạo - trên cơ sở bản sắc dân tộc. Một quan
niệm sống tạo nên cuộc sống vui và ý nghĩa, đồng thời phát huy được những
nét riêng độc đáo, bản lĩnh của mỗi con người. Tinh thần độc lập sáng tạo của
thời Lý Trần bàng bạc trên câu thơ Nguyễn Trãi:

“Dầu bụt, dầu tiên ai kẻ hỏi

Ông này đã có thú ông này”

(Mạn thuật VI)


Những câu thơ vừa mang được phong cách riêng của Ức Trai, vừa
mang được hùng khí của một thời đại mà Nho giáo chưa thực sự làm con
người mất tự do:

“Ai hay ai chẳng hay thì chớ

Bui một ta khen ta hữu tình”

(Tự thán XIII)

Cũng với tinh thần rộng mở đầy chất nhân văn này, Nguyễn Trãi có
cách giáo dục con cái không khe khắt như nhiều nhà nho nói chung. Nho gia
quan niệm “Gia hữu cầm nữ tắc dâm; gia hữu kỳ nam tắc suy”, nên con trai
chỉ được đọc sách thánh hiền, con gái chỉ được chú tâm vào tam tòng tứ đức.
Nguyễn Trãi lại cho rằng:

“Gia hữu cầm thư nhi bối lạc”

(Mạn thành)

(Trong nhà có đàn và sách, con cái được vui vẻ)

(Làm chơi)

Đàn cũng như sách làm phong phú thêm cho con người, làm tâm hồn
con người an nhiên vui vẻ, hướng đến những cái cao thượng tốt lành, là
phương tiện dưỡng tâm tuyệt diệu. Thú chơi đàn, tác dụng của âm nhạc đối
với tâm hồn, chí khí của con người phải đâu như cách nhìn phiến diện hẹp
hòi của kẻ hủ nho. Lý Tử Tấn, làm quan cùng triều với Nguyễn Trãi, tỏ ra rất
hiểu chí hướng của bạn qua câu thơ đề vách nhà ức Trai:

“Công dư thoái thực phần hương tọa

Họa trục trương cầm lạc tuế niên”

(Đề ức Trai bích)

(Việc công xong, trở về nhà, đốt hương ngồi

Cùng bức vẽ, cây đàn, vui với tháng năm)

(Đề vách nhà ức Trai)


Không chỉ thấy được tác dụng của âm nhạc trong việc bồi bổ tâm hồn
con người, Nguyễn Trãi còn thấy được sức mạnh lớn lao của văn nghệ nói
chung đôi với cuộc sống - làm thăng hoa vạn vật và con người - “Tiếng hát
của ông chài ba lần cất lên thì mặt hồ phủ khói như tỏa rộng hơn; Một tiếng
sáo của trẻ chăn trâu trỗi lên mặt trăng trên trời như càng cao thêm”. Văn
nghệ có khả năng kỳ diệu cảm ứng đến thế giới tự nhiên, làm thiên nhiên cao
rộng hơn, cuộc sống thi vị hơn và tâm hồn con người phong phú thêm lên.

Nguyễn Trãi là một tài năng, một nhân cách toàn diện. Cuộc đời
Nguyễn Trãi là một cuộc đời tận tụy vì nước vì dân, nuôi chí “tiên ưu”. Thơ
văn ông, tiếng nói của tư tưởng và tình cảm cũng phản ánh trung thực và sâu
sắc lý tưởng đó. Nó vừa là vũ khí chiến đấu để “trừ bạo, yên dân”, vừa là lời
tâm tình chân thành tha thiết phản ánh trọn vẹn tấm lòng yêu thương của ông
dành cho con người, cuộc sống. Tác phẩm của Ức Trai mang dậm tính dân
tộc với phong cách vừa hào hùng, phóng khoáng, vừa giản dị, tự nhiên, trong
sáng. Những đóng góp của ông cho thơ tiếng Việt cũng là những công hiến
quý báu, đã góp phần làm tiền đề cho sự xuất hiện những tác phẩm tiếng Việt
ưu tú về sau.

Nhận xét, đánh giá về đức độ, tài năng, sự nghiệp lớn lao của Nguyễn
Trãi, từ xưa đến nay không ít lời ca ngợi. Đương thời, Nguyễn Mộng Tuân,
bạn đồng liêu cùa ông, từng tôn vinh, thán phục:

“Hoàng các thanh phong ngọc thự tiên

Kinh bang hoa quốc cổ vô tiền

Nho lâm kỷ hứa chiêm Sơn, Đẩu

Hảo vị triều đình lực tiến hiền”

(Tặng Gián nghị đại phu Nguyễn công)

(Nơi gác vàng, vẻ thanh cao của ông như một vị tiên trong lầu
ngọc
Tài kinh bang tế thế làm rạng rỡ cho đất nước, từ xưa chưa có
bao giờ

Rừng Nho bao lần ngưỡng vọng ông như núi Thái Sơn, sao Bắc
Đẩu

Dốc sức vì triều đình, tiến cử người hiền tài)

(Tặng ông Gián nghị đại phu họ Nguyễn)

Phan Phu Tiên thì mừng cho quốc gia có được hiền tài:

“Chân nguyên hội hợp hạnh phùng thần

Tá trị danh nho hỉ hữu nhân

Tứ hải phương kim qui nhất thống

Thùy năng dược đã xuất hồng quân”

(Hạ Gián nghị đại phu Nguyễn Ức Trai)

(May gặp đúng thời hội chân nguyên mở nước

Mừng có bậc danh nho giúp đỡ xã tắc

Từ nay bốn biển đã thu về một mối

Có ai được là người như ông có thể bước ra từ lò tạo hóa)

(Mừng Gián nghị đại phu Nguyễn Ức Trai)

Lê Nhân Tông (ở ngôi 1443 - 1459), khi oan án Lệ Chi viên chưa được
giải tỏ, cũng đã đề cao: “Nguyễn Trãi là người trung thành giúp đức Thái Tổ
dẹp loạn, giúp đức Thái Tông sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp
của Nguyễn Trãi, các danh tướng của bản triều không ai sánh bằng”. Lê
Thánh Tông (ở ngôi 1460 - 1497) để lại câu thơ nổi tiếng về Nguyễn Trãi
được đời sau truyền tụng: “Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo” (Lòng dạ
Ức Trai sáng rực văn chương). Các sử gia, học giả, văn nhân nổi tiếng đều
có lời bàn về ông. Tô Thế Huy (thế kỷ XVII - XVIII) ca ngợi: “Chính đó là sông
Giang, sông Hán trong các sông và sao Ngưu, sao Đẩu trong các sao vậy”.
Phan Huy Chú (1782 - 1840) khẳng định tài năng và nhân cách của ông trong
Lịch triều hiến chương loại chí: “Ông có văn chương mưu lược, gặp được
vua, kinh bang tế thế (Cai quản, trông nom việc nước để nhân dân sống yên
vui, bình ổn - kinh: sửa trị; bang: nước; tế: cứu; thế: đời) Về già muôn an
nhàn, không có ý tham luyến địa vị”. Nhận xét về văn chương Nguyễn Trãi, Lê
Quý Đôn (1726 - 1784) viết trong Toàn Việt thi lục: “Văn chương của ông có
khí cốt và phong cách, lời thơ giàu tình ý”. Nguyễn Dư (thế kỷ XVI) trong
Truyền kỳ mạn lục thì mượn lời các văn nhân luận bàn về thơ phú để tỏ ý
ngưỡng mộ: “(…) cầu lấy lời chín lẽ tới, có thể khiến cho làng phong nhã phải
phục thì chỉ duy những bài đầy lời trung ái của ông Nguyễn Ức Trai, lòng lúc
nào cũng chẳng quên vua, có thể chen vào môn hộ của Đỗ Thiếu Lăng
được”. Đặc biệt, Nguyễn Năng Tĩnh (thố kỷ XVIII - XIX), trong bài tựa Ức Trai
di tập đã nhận xét khá chi tiết: “Học vấn của tiên sinh sở đắc, bắt nguồn từ
trong gia đình, mà văn chương của tiên sinh tinh vi, thâm thúy, rộng rãi, chính
đáng, cứng rắn, là tự tiên sinh rèn luyện và phát huy được. Tiên sinh vốn
không có ý đúc chuốt văn chương, nhưng một khi lời nói thổ lộ đều sáng sủa,
đẹp đẽ, dồi dào, không cái gì có thể che lấp được”.

Đánh giá những đóng góp xuất sắc, đa dạng của Nguyễn Trãi đối với
lịch sử dân tộc Việt Nam và sự phát triển những giá trị văn hóa nhân loại, năm
1980, ủy ban Văn hóa - Khoa học và Giáo dục của Liên hiệp quốc (UNESCO)
đã ghi nhận ông là danh nhân văn hóa và tổ chức kỷ niệm rộng rãi trên toàn
thế giới. Tổng Giám đốc UNESCO đã trân trọng đánh giá Nguyễn Trãi là “sứ
giả của dân tộc Việt Nam”, “thành viên kiệt xuất của cộng đồng loài người” và
đi đến khẳng định: “Sáu trăm năm sau, nỗi thao thức canh cánh của nhà hành
động và nhà thơ Nguyễn Trãi vẫn là nỗi thao thức canh cánh bên lòng của tất
cả những người yêu công lý và nhân đạo trên đời này”.

Phần hai. CÁC BÀI NGHIÊN CỨU VỀ NGUYỄN TRÃI


BÚT PHÁP QUÂN TRUNG TỪ MỆNH TẬP

Đinh Gia Khánh


(…) Trong Quân trung từ mệnh tập, Nguyễn Trãi đã giương cao ngọn
cờ chính nghĩa của quân dân ta trong cuộc chiến đấu chống xâm lược. Nhân
dân ta lúc nào cũng noi theo nhân nghĩa, khác với giặc Minh tàn bạo, “dối trời
hại người” phản lại nhân nghĩa. Và chính vì noi theo nhân nghĩa mà nhân dân
ta tất thắng, chính vì phản lại nhân nghĩa mà giặc Minh thất bại. Đó là một
trong những nội dung căn bản được nhắc đi nhắc lại nhiều lần như một điệp
khúc, trong thư từ gửi cho tướng giặc cũng như nhiều bài văn khác của
Nguyễn Trãi. Sức chiến đấu mạnh mẽ của văn Nguyễn Trãi một phần lớn thể
hiện ở điểm này.

Mưu việc lớn, phải lấy nhân nghĩa làm đầu. Làm đại tướng phải lấy
nhân nghĩa làm gốc. Đó là một nguyên lý mà Nguyễn Trãi coi như bất di bất
dịch. Vì chân thành nghĩ như vậy cho nên Nguyễn Trãi mới có thể nói về điều
đó một cách hào hùng trong nhiều bức thư. Trong thư trả lời Phương Chính,
có những câu như: “Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên
công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu” (bài 8), “Bảo cho mày ngược tặc
Phương Chính biết: đạo làm tướng lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm
của…” (Thư số 5), “Bảo cho mày ngược tặc Phương Chính biết: “Ta nghe nói
danh tướng trọng nhân nghĩa, khinh quyền mưu. Bọn bay quyền mưu còn
chưa đủ huống chi là nhân nghĩa” (Thư số 7). Quân giặc phản nhân nghĩa
như thế nào, thì Nguyễn Trãi lại vạch rõ: “Nước mày nhân dịp họ Hồ lỗi đạo,
mượn tiếng điếu dân phạt tội, kỳ thực làm việc bạo tàn, lấn cướp đất nước ta,
bóc lột nhân dân ta, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn xóm làng
không được sống yên. Nhân nghĩa mà lại thế ư?” (Thư số 8).

Nhân nghĩa vốn là những khái niệm của Nho giáo và có nội dung đạo
đức gắn với quyền lợi của giai cấp phong kiến. Nhưng dưới ngòi bút của
Nguyễn Trãi, nhân nghĩa lại có nội dung lịch sử cụ thể: đó là bảo vệ Tổ quốc,
bảo vệ nhân dân, chống xâm lược, chống bóc lột. Điều đáng căm ghét là
chính bọn xâm lược, bọn bóc lột lại mượn danh nhân nghĩa. Cho nên Nguyễn
Trãi đã phải đập cho tan luận điệu lừa bịp ấy. Bọn tướng giặc thường tự nhận
là có văn minh, có lễ nghĩa và khinh ta là mọi rợ. Bức thư dụ thành Bắc Giang
mở đầu như sau: “Ta bảo cho tướng hiệu quan viên cùng quân nhân trong
thành Bắc Giang biết: Ta nghe nói người có Bắc Nam, đạo không kia khác.
Nhân nhân quân tử không đâu là không có. Nước An Nam ta tuy xa ở ngoài
nơi Ngũ Lĩnh mà có tiếng là một nước thi thư, những bậc trí mưu tài thức đời
nào củng có. Vì thế, phàm những việc ta làm đều theo lễ nghĩa, hợp trời
thuận người”. Nguyễn Trãi rất tự hào rằng nước ta là một nước “có lễ nghĩa”,
dân tộc ta là một dân tộc văn minh không cần kẻ nào đến khai hóa. Trái lại,
bọn tự cho mình cái quyền đi “khai hóa” thực ra không có văn minh lễ nghĩa gì
cả. Trong bức thư gửi Vương Thông (Thư số 35), ông vạch rõ sáu điều tất
thua của địch trong đó có điều thứ năm như sau: “(Ở nước ngươi) gian thần
chuyên chính, chúa yếu giữ ngôi, xương thịt hại nhau, gia đình sinh biến, đó
là điều phải thua thứ năm”. Nội bộ nhà Minh đã mục nát như thế, cương
thường điên đảo như thế, còn làm gì có nhân nghĩa mà ban bố cho nước
khác! Giặc Minh chỉ là một bọn giả nhân giả nghĩa mà thôi. Trong điều tất thua
thứ sáu của địch, Nguyễn Trãi đã nêu rõ tính chất chính nghĩa làm nên sức
mạnh của quân ta: “Nay ta dấy nghĩa binh, trên dưới cùng lòng, anh hùng hết
sức, quân sĩ càng luyện, khí giới càng tinh, vừa cày ruộng lại vừa đánh giặc;
quân sĩ trong thành thì đều mệt mỏi khốn khổ, tự chuốc lấy bại vong, đấy là
điều phải thua thứ sáu”. Nhuệ khí sắc bén, tinh thần đoàn kết vững chắc, ý
chí chiến đấu bền bĩ của quân dân ta đều có nguồn gốc từ đại nghĩa dân tộc.
Còn giặc Minh mang cái chiêu bài: “điếu dân, phạt tội”, “diệt Hồ, phục Trần”
để ăn cướp nước ta thì chẳng qua là một bọn lừa bịp, tất phải bại vong. Đó là
điều Nguyễn Trãi muôn nhấn mạnh. Phàm đã là phi chính nghĩa thì hay trí trá,
và chỉ có noi theo chính nghĩa mới trung thực được. Lúc còn mạnh, giặc Minh
đã quen thói trí trá, đến khi yếu chúng không đủ sức đe dọa áp đảo nghĩa
quân nữa, cho nên đã tận dụng mọi thủ đoạn lừa dối hòng phục hồi lại tình
thế cũ. Bên ta thì trái lại, danh chính ngôn thuận, không việc gì ăn gian nói
dối. Trong Quân trung từ mệnh tập, Nguyễn Trãi đã đem đối lập thái độ
đường hoàng chính đại của nghĩa quân với thái độ ám muội ty bỉ của quân
giặc.
Trong nhiều bức thư gửi cho tướng giặc, Nguyễn Trãi đã vạch rõ bộ
mặt phản tín nghĩa của chúng. (…) “Trước đây bụng mưu giả trá, mặt thác
giảng hòa, rồi cứ dào hào đắp lũy, ngồi chờ viện binh. Tâm tích không rõ,
trong ngoài khác nhau, sao đủ khiến cho ta chắc tin mà không ngờ được?…”
(Thư số 35).

Trái với quân địch, quân ta lúc nào cũng giữ vững chữ tín, trước sau
như một, vẫn muốn thực hiện lời giao ước cho địch giảng hòa. Trong hầu hết
các bức thư gửi cho tướng giặc khi chúng đã thất thế, Nguyễn Trãi đều nêu
thiện ý của quân dân ta sẵn sàng cung cấp mọi phương tiện, tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tàn quân của Vương Thông rút về nước yên ổn. Và điều
đó, sau này, quân ta đã thực hiện đúng như lời hứa.

(…) Để thuyết phục địch có lúc Nguyễn Trãi đứng về phía quyền lợi
chính đáng của tướng Minh mà bàn bạc phải trái, vạch cho chúng con đường
sáng sủa mà đi. Ông hay nhắc đến chữ thời và chữ thế. Ông viết cho Vương
Thông như sau: “Tôi từng xem Kinh Dịch 384 hào, mà cốt yếu là ở chữ thời,
cho nên người quân tử theo thời thông biến, nghĩa chữ thời to tát lắm sao!”
(…) Phân tích thời và thế, Nguyễn Trãi nêu rõ rằng lúc trước khác, bây giờ
khác. Lúc trước, quân Minh mượn danh diệt nhà Hồ là kẻ cướp ngôi, phục hồi
nhà Trần là triều đại chính thống cho nên tạm thời có thể thành công. Bây giờ
ở lại chiếm đóng, thống trị, bóc lột, vơ vét, đã mất lòng dân rồi. Cho nên nếu
không sớm rút lui, sẽ bị tiêu diệt. Lúc trước, quân Lam Sơn thế yếu mà quân
Minh còn chẳng làm gì nổi nữa là bây giờ quân Lam Sơn đã có phần lớn đất
đai. Binh lính trong quân Minh lại chán nản, đã nhiều nơi đầu hàng. Nếu còn
ngoan cố, trì hoãn không chịu rút quân thế tất phải thua to. Đó là nội dung các
bức thư gửi Vương Thông, khi viên tướng này tuy còn nhiều quân nhưng đã
nao núng (Thư số 32, số 34, số 37). Và Nguyễn Trãi nhận xét tình hình mà
tính toán hộ tướng giặc như sau: “Nay tính hộ các ông thì có sáu điều phải
thua: Nước lụt chảy tràn, tường rào đổ lở, lương cỏ thiếu thốn, ngựa chết,
quân ốm. Đó là điều phải thua thứ nhất. Xưa Đường Thái Tông bắt Kiến Đức
mà Thế Sung ra hàng. Nay những nơi quan ải hiểm yếu đều có quân và voi
đồn giữ, nếu viện binh đến thế tất phải thua, viện binh đã thua, bọn các ông
tất bị bắt. Đó là điều phải thua thứ hai. Ở nước các ông, quân mạnh ngựa tốt
nay đóng cả ở miền Bắc để phòng bị quân Nguyên, không rỗi nhìn đến miền
Nam. Đó là điều phải thua thứ ba. Luôn động can qua, liên tiếp đánh dẹp,
người sống không vui, nhao nhao thất vọng. Đó là điều phải thua thứ tư. Gian
thần chuyên chính, chúa yếu giữ ngôi, xương thịt hại nhau, gia đình sinh biến.
Đó là điều phải thua thứ năm. Nay ta dấy nghĩa binh, trên dưới cùng lòng, anh
hùng hết sức, quân sĩ càng luyện, khí giới càng tinh, vừa tự chuốc diệt vong.
Đó là điều phải thua thứ sáu. Nay giữ cái thành cỏn con để chờ sáu điều thất
bại, ta lấy làm tiếc cho các ông” (Thư số 35). Một mặt vạch con đường sáng
cho tướng giặc, một mặt Nguyễn Trãi lại nêu cái lẽ tùy thời thông biến cho
tướng giặc có thể dựa vào đó để rút quân mà bớt xấu hổ. Âu cũng là một
cách thông cảm với sĩ diện của tướng sĩ “Thiên triều”, ông viết: “Nay tính giùm
các ông chẳng gì bằng cùng Thái Đô đốc đem quân về nước là hơn cả… Kinh
Dịch có câu: “Cùng tắc biến, biến tắc thông”. Các ông sao không nghĩ thế”
(Thư số 37). Từ lý lẽ cho đến thái độ, những bức thư của Nguyễn Trãi đều có
ý nghĩa thuyết phục mạnh mẽ. Nguyễn Trãi rất chú ý đến đối tượng, đến kẻ
đọc thư của mình. Đối với những tên ra mặt hung hăng như Phương Chính,
Mã Kỳ thì từ cách xưng hô cho đến nội dung và lời văn thường có tính chất
đả kích không thương tiếc. Trái lại đối với hạng người có thể tranh thủ được
như Thái Phúc và tướng sĩ cấp dưới, thì từ cách xưng hô cho đến nội dung
và lời văn đều có tính chất ôn tồn trọng thị. Đối với hạng tướng tá cấp cao
như tổng binh Vương Thông, nếu thuyết phục được là có thể kết thúc chiến
tranh, thì Nguyễn Trãi lại tỏ thái độ kiên nhẫn vừa phê phán vừa tranh thủ.
Còn như lời lẽ trong các bài biểu và tấu gửi vua Minh thì lại nhún nhường.
Ngay trong thư từ gửi các tướng Minh, khi nói đến vua Minh thì bao giờ cũng
ra vẻ suy tôn. Đó chẳng qua chỉ là một thuật ngoại giao, thực tế không ảnh
hưởng gì đến chủ quyền quốc gia cả. Nhưng điều đó lại góp phần đưa đến
quân hệ hòa bình giữa nước nhỏ và nước lớn trong hoàn cảnh chế độ phong
kiến, vấn đề đối với nghĩa quân lúc bây giờ là làm thế nào cho nhà Minh bỏ
cái tham vọng chiếm đóng nước ta, đừng cho viện binh sang và chịu rút quân
về.

Nếu theo sát từng bức thư, ta lại càng thấy rõ tính chất tinh vi của bút
pháp Nguyễn Trãi. Khi thì lời văn phẫn nộ, đập hẳn vào mặt quân giặc. Ví dụ:
“Nay lũ bay chỉ chuyên lừa dối, giết hại kẻ vô tội, hãm người vào chỗ chết mà
không thương xót. Việc ấy trời không dung, thần người đều giận, cho nên liền
năm chinh phạt, hằng đánh hằng thua, thế mà không biết tự cải quá, lại còn
bới bẩn cho thêm thối, thì hối sao kịp được!…” (Thư số 5). Khi thì lời văn
châm biếm khích khí: ”…Nếu không nghe thế thì nên chỉnh quân bày trận,
giao chiến ở chốn bình nguyên, quyết một trận được thua, để xem cái tài
khéo vụng, chớ không nên chúi một xó hang cùng mà bắt chước thái độ một
mụ già như thế” (Thư số 35). Có khi lời văn ra vẻ thật là từ tốn mà lại bao
hàm cái uy thế áp đảo kẻ thù. Khi Lê Lợi kéo quân đến Bồ Đề ở hữu ngạn
sông Nhĩ để siết chặt vòng vây quanh thành Đông Quan, thì Nguyễn Trãi đã
viết cho Vương Thông như sau: “Trước vì trại đóng hơi xa, đi lại vất vả. Nay
tôi muôn dời đến bên thành, phía bắc sông, đối ngạn gần nhau, đi lại cho tiện.
Kính bẩm để ngài biết ý, xin đợi tôn mệnh. Nếu có xử trí khác, xin ngài chỉ
bảo cho, tôi xin cảm tạ. Thư nói không hết” (Thư số 18). Bức thư làm ra vẻ
đến ở gần cho tiện đi lại bàn bạc việc giảng hòa. Nhưng Vương Thông tất
phải thấy ở bức thư trên một lời cảnh cáo, trong khi sức ép quân sự của Lê
Lợi đã áp sát sườn quân Minh. Nguyễn Trãi lại thường lấy ngay lý lẽ của địch
mà đánh trả địch. Thấy tướng giặc trước kia đã gi ương cao chiêu bài phù
nhà Trần để lừa bịp thì Nguyễn Trãi lại theo dõi từng sự việc cụ thể một mà
bẻ gãy những luận điệu mà địch đưa ra. Ví dụ như cuộc bút chiến diễn ra qua
các bức thư thứ 6 và thứ 7.

(…) Với tinh thần chiến đấu không mệt mỏi, không khoan nhượng trên
những điểm căn bản, và tuân theo một sách lược linh hoạt, Nguyễn Trãi đã
giáng cho địch những đòn tới tấp, đã đánh cho kẻ địch phải thua trên mặt trận
tư tưởng, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của nghĩa quân. Quân trung từ
mệnh tập có tác dụng làm suy yếu kẻ địch về nhiều mặt, trước hết là phân
hóa hàng ngũ giặc Minh. Nguyễn Trãi, với ngòi bút của mình, ít nhiều đã tranh
thủ được một số tướng sĩ cấp dưới và cả những tướng sĩ cấp cao như Thái
Phúc chẳng hạn, tách dần bọn này ra khỏi bọn tướng tá hiếu chiến và ngoan
cố khác. Nguyễn Trãi đã đem những tin thắng trận của ta, những tin đầu hàng
của các thành địch, v.v… mà báo cho các tướng giặc còn ngoan cố biết để rồi
nhân cơ hội đó mà nêu lên những tấm gương trí hay ngu, an hay nguy mà
vạch lẽ tiến lui cho kẻ địch, thuyết phục chúng, khuất phục chúng, thôi thúc
chúng phải cuốn giáp quy hàng.

Đường lối đấu tranh quân sự kết hợp với đâu tranh chính trị, chiến lược
“mưu phạt tâm công” mà Nguyễn Trãi chủ trương, mà nghĩa quân thực hiện,
đã được thực tế chứng minh là đúng, đã dẫn cuộc kháng chiến đến thắng lợi
hoàn toàn. Quân trung từ mệnh tập xét chung thì đã biểu hiện chiến lược của
nghĩa quân, mà từng bức thư xét riêng thì lại biểu hiện sách lược của nghĩa
quân. Và văn chương của Nguyễn Trãi đã góp phần quan trọng vào sự thành
công của cuộc kháng chiến (…).

(Theo chương XII: “Nguyễn Trãi (1380-1442)

và tấm lòng ưu ái “Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”,

trong sách Văn học Việt Nam thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XVIII,

NXB Giáo dục, H, 1997)

BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO, HÙNG VĂN MUÔN THUỞ


Mai Quốc Liên

Bình Ngô đại cáo là tác phẩm tiêu biểu cho thiên tài văn học Nguyễn
Trãi. Hơn năm trăm năm qua, “khúc ca hùng tráng bất hủ” này đã đem lại biết
bao sức mạnh và niềm tin cho nhiều thế hệ (…).

***

Bình Ngô đại cáo lớn vì mang tầm tư tưởng lớn. Khó mà tách bạch
Nguyễn Trãi - nhà văn, người thảo Bình Ngô đại cáo và Nguyễn Trãi - nhà tư
tưởng, nhà chiến lược, của cuộc chiến đấu vĩ đại của dân tộc ta thế kỷ XV.
Bình Ngô đại cáo là một luận văn tổng kết lịch sử tư tưởng yêu nước Đại Việt,
dưới hình thức một áng văn được viết với “ngòi bút thần”, một áng hùng văn,
hơn nữa, “thiên cổ hùng văn”.

Bình Ngô đại cáo là sự chung đúc những tinh hoa của tư tưởng yêu
nước Việt Nam, đến Nguyễn Trãi, qua Nguyễn Trãi đã được nâng lên một
tầm cao chưa từng thấy trong lịch sử tư tưởng Việt Nam trước khi nhà yêu
nước vĩ đại Nguyễn Ái Quốc gặp chủ nghĩa Mác - Lênin.

Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng, Nguyễn Trãi tổng kết ngắn gọn, súc
tích lịch sử chiến đấu chống xâm lược của dân tộc. Lần đầu tiên trong lịch sử
tư tưởng, Nguyễn Trãi nêu cao giá trị lớn lao của truyền thông dựng nước và
giữ nước. Truyền thống đó, theo ý Nguyễn Trãi là đáng “khảo xét” (kẽ chư
vãng cổ) để “xét xưa nghiệm nay” (tức cổ nghiệm kim); vì đó là một trong
những nhân tố lớn dẫn đến thắng lợi. Nguyễn Trãi cũng là người đầu tiên
trong lịch sử tư tưởng Việt Nam thấy được vai trò cực kỳ quan trọng của văn
hóa trong việc cấu thành dân tộc; là người đầu tiên khẳng định sự tồn tại độc
lập của nền văn hóa Đại Việt tách dứt khoát khỏi quỹ đạo của văn hóa
phương Bắc. Độc lập dân tộc không phải chỉ dừng ở mức phân chia núi sông,
cương vực: yếu tố lãnh thổ là rất quan trọng và đã được nhấn mạnh cùng với
bài thơ - bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Lý Thường Kiệt. Nhưng cùng
với lãnh thổ là văn hóa mà Nguyễn Trãi quan niệm gồm văn (văn chương,
sách vở…) và hiến (hiền tài, hào kiệt - chủ thể của văn hóa). Phải có dòng
văn hóa dân gian của dân tộc mà Nguyễn Trãi chịu ơn sâu để có thể viết nên
những bài thơ hay và đẹp trong Ức Trai thi tập. Nền văn hóa dân gian ấy với
“phong tục” tập quán, lối cảm nghĩ, triết lý cùng lời ăn tiếng nói sản sinh ra
trong đâu tranh dựng nước và giữ nước, lao động và chiến đấu đã luôn luôn
chọi lại nền văn hóa mà phong kiến phương Bắc muốn áp đặt. Lại cũng phải
có mấy trăm năm độc lập dưới các triều Đinh, Lê, Lý, Trần… để xây dựng nên
nền “văn hóa Thăng Long”, phải có những con người “trí mưu tài thức” đã làm
nên “thi thư” của Đại Việt, những con người vừa làm nên chiến thắng vừa làm
nên văn hóa của mấy trăm năm… để cho Nguyễn Trãi viết lên những dòng
chói lọi về văn hóa, về con người Việt Nam:

Như nước Việt Nam ta

Thật là một nước văn hiến

Cõi bờ sông núi đã riêng

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên xưng đế mỗi phương

Dẫu cường nhược có lúc khác nhau

Mà hào kiệt không bao giờ thiếu.

Sự khẳng định dứt khoát của Nguyễn Trãi về văn hóa, về con người
Việt Nam là sự trả lời cho tư tưởng phân biệt giữa “hoa hạ” và “tứ di” vốn là tư
tưởng cực kỳ phản động của các triều đại phong kiến Trung Quốc mà ông
cha ta chống lại quyết liệt. Đặc biệt đối với triều Minh, triều đại đã xâm lược
tàn bạo đất nước ta, mưu toan hủy diệt toàn bộ nền văn hóa dân tộc của ta,
(…) thì những lời đanh thép trên kia của Bình Ngô đại cáo có giá trị như một
tuyên ngôn văn hóa dân tộc.

Đi đôi với sự khẳng định truyền thống yêu nước, truyền thống văn hóa
của dân tộc; Nguyễn Trãi khẳng định vai trò của nhân dân, đặc biệt của
những người gọi bằng manh lệ. Đây là một bước phát triển mới so với tư
tưởng yêu nước của thời Lý thời Trần.

(…) Nguyễn Trãi, một người trí thức đã sống trong nhân dân và đã thể
nghiệm đầy đủ sức mạnh của nhân dân vùng lên từ trong điêu linh, lầm than
giành lại nước. Nguyễn Trãi đã “Bữa ăn chỉ có dưa muối” cùng với nhân dân,
ông đã tận mắt thấy “dân chúng bốn phương cõng địu nhau mà kéo đến” với
nghĩa quân: “Manh lệ chi đổ tứ tập”, Nguyễn Trãi mang nặng Tổ quốc và nhân
dân trong trái tim mình, Nguyễn Trãi không chỉ nghĩ về dân, Nguyễn Trãi
không chỉ thây vai trò của nhân dân bằng lý trí; ông băn khoăn, thao thức, vì
dân. Nhân dân là nỗi xót thương, niềm tin yêu, là sức mạnh cuồn cuộn như
nước triều đông, nhân dân là sự định hướng cho toàn bộ tư tưởng của
Nguyễn Trãi. Hai vế đầu tiên trong Bình Ngô đại cáo, hai định đề tổng quát
của toàn bài, Nguyễn Trãi nói đến dân, hướng về dân: “an dân”, “điếu dân”,
và vì “an dân”, “điêu dân" mà phải đánh kẻ có tội và trừ khử bạo ngược.
Nguyễn Trãi nói đến nỗi đau khổ của nhân dân bằng những lời văn thống thiết
và những hình ảnh cụ thể từ trong đời sống thực của nhân dân, từ những
chiếc khung cửi bị bỏ phế đến sưu thuế và tạp dịch nặng nề, đến việc phải
làm mồi cho cá mập, thuồng luồng để mò ngọc, phải xông pha lam chướng để
đãi vàng. Đó là nỗi thống khổ ngút ngàn của người dân, của những người mà
Nguyễn Trãi gọi là “dân mọn các làng”, là người dân trong “thôn cùng xóm
vắng” là người đi cày, đi ở.

(…) Trên cơ sở của tư tưởng yêu nước và thân dân, trong Bình Ngô đại
cáo, Nguyễn Trãi đã chống lại những tín điều cơ bản của tư tưởng Nho giáo
truyền thống, lợi khí tư tưởng của chủ nghĩa bành trướng nước lớn trong suốt
hàng nghìn năm.

Trước hết, Nguyễn Trãi chống tư tưởng “con trời”, một tín điều quan
trọng bậc nhất của Nho giáo. Đối với vua nhà Minh đang tại vị là Tuyên Đức,
ông gọi hắn là “giảo đồng” (trẻ ranh, nhãi ranh), lên án hắn là tên đại diện cho
những cuồng vọng xâm lược “cùng binh độc vũ”. Nguyễn Trãi chiến đấu cho
quyền tồn tại độc lập của đất nước Đại Việt, ngang quyền với các triều đại
Trung Quốc “mỗi đằng xưng đế một phương”. Quan hệ thiên tử - chư hầu;
quan hệ nước lớn - phiên thuộc…, đã bị Nguyễn Trãi lật nhào một cách vô
cùng dũng cảm. Thời bấy giờ, có người Trung Quốc nói rằng ông bị tru di ba
họ là vì đã dám gọi vua Minh là “nhãi ranh” đủ biết Nguyễn Trãi đã vì đại
nghĩa của dân tộc mà vượt qua cương thường của Nho giáo truyền thống.

Đối với phạm trù trung tâm trong học thuyết Nho giáo là nhân nghĩa bọn
xâm lược nhà Minh lợi dụng như một chiêu bài, Nguyễn Trãi đã xé toang bức
màn dối trá của nó: “Nước mày nhân dịp họ Hồ lỗi đạo, mượn tiếng là “điếu
dân phạt tội”, kỳ thực làm việc bạo tàn, lấn cướp đất nước ta, bóc lột nhân
dân ta, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn các làng không được
sống yên. Nhân nghĩa mà lại thế ư?”.

Nhân, nghĩa theo Nguyễn Trãi là yêu nước, cứu nước, cứu dân; “triết lý
nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chẳng qua là lòng yêu nước thương dân: cái
nhân, cái nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng chống ngoại xâm, diệt tàn bạo,
vì độc lập của nước, hạnh phúc của dân” (Phạm Văn Đồng):

Rút cuộc, đem đại nghĩa thắng hung tàn,

Lấy chí nhân thay cường bạo.

Nhân và nghĩa hiểu như thế thì Khổng, Mạnh và toàn bộ Nho giáo chưa
bao giờ hiểu. Trong Luận ngữ, gần 150 lần Khổng Tử định nghĩa về chữ nhân
chưa bao giờ ông định nghĩa nhân bằng yêu dân, thương nước, Mạnh Tử có
tinh thần dân chủ hơn Khổng Tử, ông thống trách các vua chúa đương thời
“tranh đất, đánh nhau, giết người đầy đồng, tranh thành đánh nhau, giết
người đầy thành” như thời Mạnh Tử là thời theo chính ông, không có “chiến
tranh chính nghĩa” (Xuân thu vô nghĩa chiến), nên dù tiến bộ hơn Khổng Tử,
ông cũng không thể đem lại cho khái niệm nhân nghĩa một nội dung chân
chính như Nguyễn Trãi. Phải có Nguyễn Trãi “trái cây của thời đại mình”, theo
lời của Các Mác, hay nói như Phạm Văn Đồng “Nguyễn Trãi đầu đội trời,
chân đạp đất Việt Nam”, phải có Nguyễn Trãi của dân tộc Việt Nam ở thời đại
đánh thắng bọn cuồng Minh, thì mới vượt qua được những hạn chế của tư
tưởng Nho giáo truyền thống mà đi xa được đến thế trên hành trình tư tưởng
của mình.

Những đặc sắc trên đây của tư tưởng yêu nước Nguyễn Trãi thể hiện
trong Bình Ngô đại cáo đã làm cho nó trở thành đỉnh cao của tư tưởng
Nguyễn Trãi. Và nếu như nói văn hay nhờ có tư tương lớn, thì Bình Ngô đại
cáo là một áng văn như vậy. Sức mạnh của hùng văn trước hết phải là sức
mạnh của tư tưởng, của trí tuệ lớn.

***
Tư tưởng và trí tuệ ấy lại được văn chương của Nguyễn Trãi thể hiện
để trở thành “hùng văn thiên cổ”.

(…) Văn chương Bình Ngô đại cáo hay đến đâu mà được nhất trí khen
tặng như vậy? Nó chứa chất trong nó những nhân tố gì để được gọi là hùng
văn? Và tại sao, cho đến tận ngày nay, qua gần sáu thế kỷ, với một sự thụ
cảm thẩm mỹ khác người xưa, chúng ta đọc Bình Ngô đại cáo vẫn thấy có cái
cảm giác “đọc không chán miệng” của Phạm Đình Hồ, và vẫn nghĩ như Tô
Thế Huy: “Hùng văn trong thiên hạ không ai hơn được nữa, đó là sông Giang
sông Hán trong các sông và sao Ngưu sao Đẩu trong các sao vậy” <2).

Trước hết, chính bão táp chiến đấu của toàn dân tộc, của khởi nghĩa
Lam Sơn mà Nguyễn Trãi là người ở trung tâm cơn bão táp, đã đem lại
nguồn cảm hứng lớn lao cho Nguyễn Trãi, giục giã ông cầm bút viết nên
những tư tưởng, những tình cảm cao quý, tổng kết lại những bước đường
chiến đấu, những thử thách hiểm nghèo và những đỉnh cao của vinh quang
toàn dân tộc. Không có mười năm tham gia chiến đấu, Nguyễn Trãi làm sao
có được bút lực và tâm huyết để viết đại cáo bình Ngô? Văn chương không
bao giờ, chưa bao giờ chỉ là chuyện chữ nghĩa, mà văn chương, trước hết là
tâm huyết của đời sống, ở đây là đời sống chiến đấu của dân tộc. Có cảm
tưởng là lúc viết Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã sống lại trong những giờ
phút dạt dào cảm hứng ấy toàn bộ cuộc chiến đấu đã qua, và nhờ đó mà cảm
hứng của ông như một cánh chim bằng bay lên cao mãi trên ngọn gió lớn của
thời đại. Cảm hứng của Bình Ngô đại cáo, do đó, dồi dào đến nỗi đọc xong,
người đọc có thể thấy tác giả có dư sức bút, ngọn bút tung hoành, mà vẫn giữ
được “nhất khí quán hạ”.

Nhưng cảm hứng về hùng văn trong Bình Ngô đại cáo là sự tiếp nối từ
những kiệt tác có tầm quan trọng lịch sử như bài Chiếu dời đô của Lý Công
uẩn, như bài thơ Lý Thường Kiệt, bài hịch Trần Hưng Đạo, như những câu
thơ “thoái lỗ” của Trần Nhân Tông, Trần Quang Khải, Phạm Sư Mạnh,
Nguyễn Trung Ngạn… Nguyễn Trãi là nhà văn hóa lớn bậc nhất của nước
Đại Việt xưa, người đã được đào tạo trong nền văn hóa Lý - Trần, Nguyễn
Trãi đã có một sự kế thừa tất yếu đối với văn hóa dân tộc. Đồng thời, khi viết
Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi cũng đã kế thừa chính bản thân mình. Có thể
nói, để viết Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trăi có cái “lam bản” là Quân trung từ
mệnh tập. Quân trung từ mệnh tập, những bức thư luận chiến với giặc, về cơ
bản, cũng là hùng văn. Cảm hứng của những bức thư ấy cũng là cảm hứng
về chính nghĩa, về đại nghĩa; những tư tưởng thể hiện trong bức thư ấy là
những tư tưởng lớn của thời đại và của nghĩa quân Lam Sơn, bút pháp, hình
tượng của những bức thư ấy thật là đa dạng, biến ảo, kỳ diệu! Những hình
tượng ấy, những tư tưởng ấy đến Bình Ngô đại cáo thì được nâng lên, được
diễn đạt lại, nhưng về đại thể, có thể thấy nhiều ý trong Bình Ngô đại cáo bắt
nguồn từ Quân trung từ mệnh tập.

Mặc dù những điều kiện khách quan thuận lợi ấy, vẫn cần phải có bản
lĩnh sáng tạo của thiên tài văn học Nguyễn Trãi để biến “khả năng” thành
“hiện thực”. Và đây rõ ràng là một trong số những thiên tài văn chương không
có nhiều của dân tộc, của cả nhân loại, do một sự kỳ diệu của đời sống và
lịch sử, đã trở thành người anh hùng, nhà chiến lược, những lãnh tụ của cuộc
chiến tranh giải phóng. Phải có tài năng văn chương của Nguyễn Trãi được
ông cha mình - được nền văn hóa dân tộc hun đúc, và được sự dùi mài công
phu của bản thân mình - phải có thiên tài văn học của Nguyễn Trãi để làm bật
ra được cái hay cái đẹp của “văn chương làm vẻ vang cho nước”.

(…) Bình Ngô đại cáo là một văn bản tổng kết chiến tranh, và sự tổng
kết ở đây thật là độc đáo. Nguyễn Trãi đã dựng lại toàn bộ diễn biến của cuộc
chiến tranh, từ nguyên nhân cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, từ những ngày mới
nổi dậy, trải qua những bước đường chiến đấu đầy gian truân thử thách mà
lớn dần lên, có được thế chủ động chiến lược, thế áp đảo quân thù và cuối
cùng giành được thắng lợi trọn vẹn. Nghệ thuật miêu tả chiến tranh của
Nguyễn Trãi cũng thật là độc đáo. Với một số phương tiện ngôn từ tiết kiệm
đến mức tối đa (bài văn gồm 1343 chữ), Nguyễn Trãi đã làm việc thu nhỏ lại
toàn cảnh của một cuộc chiến tranh rộng lớn và vô cùng phức tạp mà người
đọc vẫn thấy chu tất, tỉ mỉ, có cân nhắc… Nghệ thuật miêu tả các trận đánh
cũng rất đa dạng, biến hóa. Có thể nói không trận nào giống trận nào. Từ Bồ
Đằng “sấm vang sét dậy”, Trà Lân “trúc chẻ tro bay”, đến Ninh Kiều “máu
chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm”; từ Tốt Động “thây chất đầy nội nhơ để
ngàn năm”, đến Lạng Giang, Xương Giang “thây chất đầy đường”, “máu trôi
đỏ nước”, “phong vân phải đổi, nhật nguyệt phải mờ”…, mỗi trận đều được
chỉ định một hình tượng riêng, một màu sắc riêng tinh tế. Đặc biệt trận quyết
chiến chiến lược cuối cùng, tiêu diệt hai đạo viện binh Liễu Thăng, Mộc Thạnh
và giải phóng Đông Quan, đã được Nguyễn Trãi dành cho một sự miêu tả tỉ
mỉ hơn, xứng với tầm vóc của nó. Ngày tháng, diễn biến, các sự kiện chính
đã được Nguyễn Trãi gợi lại trong một đoạn văn dài gồm 50 câu, một đoạn
văn có thể nói là hào hứng nhất của bản văn.

Một trong những đặc điểm về mặt kết cấu Nghệ thuật của Bình Ngô đại
cáo là nó có một kết cấu bề sâu theo hai tuyến ta - địch. Đây là tuyến đối lập
trong thực tiễn được phản ánh vào trong tư duy nghệ thuật của Nguyễn Trãi
và được biểu hiện thành hình tượng. Để nói về ta, Nguyễn Trãi đã dựng lại
một cách đầy xúc cảm trữ tình hình ảnh người lãnh tụ cuộc chiến dấu là Lê
Lợi; và qua Lê Lợi mà nói lên lòng căm thù quân giặc, nói đến những băn
khoăn, đôi lúc có một chút gì như xao xuyến về những ngày gian khổ, thất bại
lúc ban đầu và đặc biệt nói đến chiến lược, chiến thuật của khởi nghĩa. Chiến
lược đó, chung quy là đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, từ manh lệ cho đến
tướng sĩ trong đạo binh “phụ tử”, dưới ngọn cờ “đại nghĩa” và “chí nhân”. Với
chí nhân và đại nghĩa, ta đã lớn lên nhanh chóng, cuối cùng chiến thắng kẻ
thù, và cũng vì chí nhân và đại nghĩa mà ta đã kết thúc chiến tranh một cách
“cực kỳ thâm viễn”, “xưa nay chưa nghe thấy bao giờ”: ta đã tha cho tất cả, từ
bọn tướng giặc đầu sỏ đến những tên lính bại trận trốn chui trốn nhũi, bị
“người chăn trâu kiếm củi” bắt được và không những tha mà còn cấp cho
chúng phương tiện về nước.

Có thể nói trong việc thể hiện nhân vật trữ tình trung tâm của bài cáo là
Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã có sự đồng cảm cao độ, đã có một sự hóa thân, nhập
thân vào Lê Lợi như thế, thể hiện nhân cách Lê Lợi. Nguyễn Trãi cũng thể
hiện cả nhân cách, tâm huyết, chí hướng của mình, về sau, khi viết văn bia
Vĩnh Lăng (1433), khi làm những bài Hạ tiệp, Đề kiếm… dầu vẫn một lòng
kính yêu Lê Lợi, Nguyễn Trãi không còn có được tình cảm nồng hậu như thế
nữa. Vì sao, chúng ta đều đã rõ.

Lời văn của Nguyễn Trãi biết bao hùng tráng, sảng khoái khi nói về ta,
thì cũng biết bao căm giận và khinh bỉ khi nói đến kẻ thù. Đó là bọn người mà
Nguyễn Trãi gọi là thế thù, là nghịch tặc, bọn cuồng Minh, bọn làm thương
nhân bại nghĩa, bọn hung tàn, cường bạo, bọn “cố chấp kỷ kiên”, bọn tham
lam, và đặc biệt hèn nhát, tham sống sợ chết, ở đây ta thấy từ chữ dùng cho
đến hình tượng nghệ thuật, Nguyễn Trãi đều có suy nghĩ, cân nhắc sao cho
vừa khái quát được tâm địa và bản chất của kẻ thù, đồng thời không làm lu
mờ những nét cá thể hóa. Từ tên vua đầu sỏ, tên Tuyên Đức, Nguyễn Trải
dùng cho nó chữ “giảo đồng” (thằng trẻ con giảo quyệt), đến bọn Liễu Thăng,
Mộc Thạnh được dán nhãn hiệu “nhụ tướng” (tướng hèn, tướng nhát); từ tên
đô đốc Thôi Tụ “lê gôi dâng tờ tạ tội” đến tên thượng thư Hoàng Phúc “trói tay
để tự xin hàng”, rồi đến bọn Vương Thông, Mã Anh, Mã Kỳ, Phương Chính,
chúng nó đều một duộc như thế cả; có thể nói là chúng mỗi đứa mỗi vẻ hoàn
chỉnh bức chân dung của tướng tá Thiên triều. Sự miêu tả của Nguyễn Trãi
có tính chất nghệ thuật nhưng không phải là phóng đại hay ngoa dụ mà dựa
trên sự thật lịch sử. Chẳng hạn, Toàn thư chép là “Khi quân Minh bị thua,
Phúc bị quân ta bắt được xuống ngựa lạy rạp, quân ta không nỡ giết” (quyển
10); còn bọn Phương Chính, Mã Kỳ trước đây cực kỳ ngoan cố, tàn ác, nay
được tha về “đều đến dinh Bồ Đề lạy tạ…, vừa cám ơn vừa xấu hổ đến chảy
nước mắt”.

Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của áng văn này là nhịp điệu
của nó. Nhịp điệu hùng văn. Nhịp điệu của sử thi kết hợp với nhịp điệu trữ
tình. (…) Bình Ngô đại cáo đã có một nhịp điệu phong phú và điều này giúp
rất nhiều vào việc biểu hiện nội dung. Đây là một bài văn viết theo thể tứ lục
biến cách, các câu đối nhau và móc xích vào nhau từ đầu đến cuối. Nguyễn
Trãi rất sành dùng những từ làm móc xích (cố, khoảnh, nại di, tốt năng…), đó
cũng là những chỗ nghỉ ngơi, những chỗ chuyển làn điệu, chuyển bố cục.
Nhịp điệu bài văn nổi lên mạnh mẽ hào sảng ngay từ đầu và cứ thế, như
những đợt sóng dồn dập, liên tiếp nhau, gối đầu lên nhau cho đến cuối bài.
Nhưng đọc kỹ nguyên tác thì thấy để tránh rơi vào đơn điệu, tác giả đã nhiều
lần thay đổi nhịp, làm cho nó khi thì trầm lắng, phấn khích, thể hiện sự căm
hờn tội ác quân Minh; khi thì hào hùng, dồn dập, sảng khoái… khi nói đến
chiến thắng, nói đến lòng tự hào. Để tạo ra được nhịp điệu phong phú như
vậy, trong một đoạn, tác giả thay đổi độ dài ngắn của câu. Lấy ví dụ đoạn đầu
(…) chỉ trong một đoạn, độ dài ngắn của từng cặp câu đối nhau đã thay đổi
đến 6 lần, tức là toàn bộ tiết nhịp của đoạn văn cũng đã được thay đổi. Các
đoạn khác, cũng đều như vậy.

Nhạc điệu, từ ngữ, và cả cú pháp nữa đã góp phần tạo cho văn Bình
Ngô đại cáo một sự đa dạng mà nhất quán, dứt khoát, mạnh mẽ mà liên tục,
xuôi thoát, tạo nên sự truyền cảm, sự lôi cuốn, tạo nên sự khẳng khái, sự
mãnh liệt, tạo nên “áng văn hùng tráng của muôn đời” (…).

(Theo Sáu trăm năm Nguyễn Trãi,

NXB Tác phẩm mới, H, 1980)

ỨC TRAI THI TẬP NHỮNG VẦN THƠ CHẤT NẶNG SUY TƯ


Trương Chính

(…) Rất tiếc không có bài nào thuộc thời thanh thiếu niên, thời thi đỗ
Thái học sinh (năm Canh Thìn, 1400), cũng như thời làm quan nhà Hồ (1401-
1407); tuyệt đại bộ phận làm từ sau khi cuộc kháng chiến, do nhà Hồ lãnh
đạo, thất bại. Nhìn kỹ cũng không có bài nào làm khi bị giam lỏng ở Đông
Quan, có lẽ thời đó ông phải im hơi lặng tiếng, nghe ngóng tình hình, không
dám để lộ dấu tích gì khiến giặc nghi ngờ và cản trở công việc của mình.

Nhưng đột nhiên là một loạt bài viết dồn dập, chứng tỏ nhà thơ đã thoát
khỏi vòng kiềm chế và đang trên bước đường tìm “chân chúa”. Có thể những
bài này làm vào những năm 1416- 1417, nhất là các bài Loạn hậu cảm tác
(Sau loạn cảm tác), Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác (Sau loạn đến Côn Sơn
cảm tác), Ký cữu Dịch Trai Trần công (Gửi cậu Dịch Trai họ Trần), Thanh
minh (Tiết thanh minh),… tất cả cho thấy từ khi quân Minh sang cướp nước ta
(14070 đến lúc này tính đúng “mười năm”; “mười năm” xa Côn Sơn, “mười
năm” không được thăm phần mộ ông bà, tổ tiên. Đối với người thuở trước đó
là điều đau xót nhất, cho nên ngồi trên thuyền về Côn Sơn, ông tưởng nhớ lại
bao lần phải nhờ chiêm bao mà tìm về làng cũ, đem nước mắt lẫn máu rửa
mồ tổ tiên!

Kỷ thác mộng hồn tầm cố lý,

Không tương huyết lệ tẩy tiên uynh.

(Quy Côn Sơn chu trung tác)

Thật ra, không phải chỉ là nỗi đau xa quê hương. Nỗi đau ấy còn là nỗi
đau quê hương bị tàn phá, bà con cô bác bị giết hại. Về phần ông, tai họa còn
nặng nề hơn: cha bị bắt đi Kim Lăng từ lúc giặc mới sang, nay thân thích
không còn mấy ai. Điều này, ông nói đi nói lại nhiều lần, đầy đủ nhất là trong
bài Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác, số 12:

Nhất biệt gia sơn cáp thập niên,

Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên.

Lâm tuyền hữu ước na kham phụ,

Trần thổ đê đầu chỉ tự liên.

Hương lý tài qua như mộng đáo,

Can qua vị tức hạnh thân tuyền.

Hà thì kết ốc vân phong hạ?

Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên.

(Từ khi rời khỏi núi nhà, vừa đúng mười năm,

Nay trở về, tùng cúc phần nửa đã tiêu điều.

Từng hẹn với rừng suối, sao ta nỡ phụ?

Cúi đầu nơi đất bụi, nghĩ mà thương mình.


Đi qua xóm làng, tưởng như trong giấc mơ,

Nạn binh đao chưa dứt, may thân được vẹn toàn.

Bao giờ được làm nhà dưới hòn núi mây che,

Múc nước suối đun trà, gối đá mà ngủ?)

Ý trầm lắng, lời thơ nghẹn ngào. Tình cảnh ông lúc này có thể nói là
đứt ruột đứt gan, nhưng ông nén lại mà nghĩ đến những mơ ước cũ được
sống thanh bạch, với những niềm vui giản dị, giờ đây chưa biết đến lúc nào
mới thành hiện thực. Hoặc là gượng nhìn hoa nở sau trận mưa rào, tạm lấy
chén rượu làm khuây để khỏi nghĩ đến những ngày phiêu lưu sắp tới, như nói
trong bài Thanh minh, số 6:

Nhất tòng luân lạc tha hương khứ,

Khuất chỉ thanh minh kỷ độ qua.

Thiên lý phần oanh vi bái tảo,

Thập niên thân cựu tận tiêu ma.

Sạ tình thiên khí mô lăng vũ,

Quá bán xuân quang tê cú hoa.

Liêu bả nhất bôi hoàn tự cưỡng,

Mạc giao nhật nhật khổ tư gia.

(Kể từ khi lưu lạc chốn tha hương,

Bấm đốt tay, đã mấy lần tiết thanh minh,

Ở xa nghìn dặm, không đi tảo mộ được,

Trải qua mười năm, bà con thân thích hao mòn hết.

Đang tiết mưa rào, trời bỗng tạnh,

Mùa xuân đã già nửa, vẫn còn hoa đồ mi.

Hãy cầm chén, gượng uống cho khuây nỗi buồn,

Chớ để ngày ngày khổ về nỗi nhớ nhà).


Những bài thơ này có một sức truyền cảm mãnh liệt. Ông không nói
đến lòng căm thù giặc, không nói đến điều mình dự tính sẽ làm. Những ý đó
đều ở ngoài lời nên càng làm cho chúng ta xúc động. Chúng ta thấm thía một
điều là lòng yêu nước của vị anh hùng cũng bắt nguồn từ những tình cảm
thông thường như bất cứ ai khác, chứ không phải bắt nguồn từ giáo lý trung
quân của nhà nho. Nguyễn Trãi yêu nước là yêu làng xóm, quê hương, là
căm thù giặc giết hại bà con thân thích, ông trung thành là trung thành với
nhân dân phải chịu những hình phạt dã man chưa từng thấy, chứ không phải
trung thành với nhà Hồ, là triều đại ông vừa phục vụ nhưng cũng là triều đại
gây lắm chuyện phiền hà “để đến nỗi nhân tâm oán phản” (Bình Ngô đại cáo),
cũng không phải trung thành với nhà Trần là triều đại ông có liên hệ về huyết
thông, nhưng lại “bất đức” (Chiếu cấm các đại thần, tổng quản cùng các quan
ở viện, sảnh, cục tham lam, lười biếng). Nhiều người nói về Nguyễn Trãi hay
nhắc câu của Ngô Thế Vinh trong bài tựa cuốn Ức Trai di tập do Dương Bá
Cung sưu tầm: “Lời khen của các bậc tiền bối không quên quân thân rất dễ
tìm thấy trong tập thơ". Điều ấy đúng với những bài ông làm sao khi Lê Lợi
đánh thắng giặc Minh, giải phóng đất nước (Mậu Thân, 1428), còn những bài
làm trong khoảng thời gian này, không thấy nói đến vua, mà chỉ nói đến “sơn
hà”, “xã tắc”, đến “dân” như trong bài Loạn hậu cảm tác, số 4:

Thần châu nhất tự khởi can qua,

Vạn tính ngao ngao khả nại hà?

Tử Mỹ cô trung Đường nhật nguyệt,

Bá Nhân song lệ Tấn sơn hà (…)

(Đất Thần châu từ khi nổi can qua,

Muôn dân rên xiết biết làm sao được?

Tử Mỹ ôm lòng cô trung với xã tắc Đường,

Bá Nhân khóc vì sơn hà nước Tân) (…)


Khi Nguyễn Trãi “tay cầm roi ngựa” đến gặp Lê Lợi ở Lỗi Giang, hoặc
một địa điểm nào đó trong miền Thanh Hóa, dâng kế bình Ngô, thì Lê Lợi có
lẽ đang chuẩn bị hay chỉ mới bắt đầu khởi sự, không lấy danh nghĩa phục
Trần hay phục Hồ gì cả. Lê Lợi chỉ là một vị hào trưởng ở một vùng hẻo lánh
xứ Thanh, nhưng có “tính khẳng khái, hào hiệp”, “dùng quyền mưu để trừ
gian”, “vì lòng nhân nghĩa mà ra sức giữ gìn thế nước yên ổn”, “ngày đêm
xem Binh thư để vì dân đen mà đấu tranh”. Những ý ấy, ông nói trong hai bài
Mừng về Lam Sơn làm giai đoạn sau khi kháng chiến đã thắng lợi, nhưng
chính là ca tụng Lê Lợi ở buổi đầu này. (…)

Có một bài cần đặc biệt chú ý là bài Quan hải (Đóng cửa biển), số 13:

Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền,

Trầm giang thiết tỏa diệc đồ nhiên.

Phúc chu thủy tín dân do thủy,

Thị hiểm nan bàng mệnh tại thiên.

Họa phúc hữu môi phi nhất nhật,

Anh hùng di hận kỷ thiên niên.

Càn khôn kim cổ vô cùng ý,

Khước tại thương lang viễn thụ yên.

(Cọc đóng lớp này lớp khác trước sóng biển,

Dây sắt giăng ngầm dưới nước, tất cả đều vô ích!

Thuyền úp, mới tin câu nói “dân như nước” là đúng,

Không cậy được thế hiểm núi sông, mệnh là ở trời.

Họa phúc đều có nguyên nhân, không phải một ngày sinh ra,

Khiến anh hùng để hận mấy nghìn năm sau.

Nghĩ về trời đất xưa và nay, ý không cùng được,


Có thể biết khi nhìn đám khói trên rặng cây xa kia bên dòng nước
trong xanh)

Rõ ràng đó là những suy tư của nhà thơ về việc tổ chức lực lượng
kháng chiến. Dựa vào ai? Dựa vào cọc lim, dây sắt ư? Dựa vào núi sông
hiểm trở ư? Thì đó, Hồ Quý Ly không phải không anh hùng, nhiều mưu lắm
kế. Ông ta có một đội quân hàng chục vạn người; cuộc bố phòng của ông
cũng chu đáo, ý chí của ông cũng kiên quyết. Nhưng ông thất nhân tâm. (…)
Sự thất bại nhanh chóng và đau đớn của cha con Hồ Quý Ly chẳng phải là
chứng cớ rành rành trước mắt đó sao? Nhất định trong kế bình Ngô của
Nguyễn Trãi dâng Lê Lợi phải có ý này. Cho nên, buổi đầu “Nhân tài còn như
lá mùa thu, tuấn kiệt còn như sao buổi sớm”, mà chỉ trong vòng hai ba năm,
“người theo ngày càng đông” và mới có cái cảnh: “Sào dựng lên làm cờ, tụ
hợp bốn phương dân cày, phu tráng; Rượu hòa suối cùng uống, trên dưới sĩ
binh một dạ cha con…” (Bình Ngô đại cáo).

Có thể thấy, tiếp theo những ngày kháng chiến gian khổ, Nguyễn Trãi
liền bước vào thời kỳ sóng gió nhất trong đời ông. Cũng là thời kỳ ông nhiều
tâm sự nhất. Có một cuộc đấu tranh tư tưởng dai dẳng trong người ông: về
hay ở; cuộc đấu tranh tư tưởng ấy là đề tài chính của thơ ông lúc này.

Điều phải khẳng định là Nguyễn Trãi không hề rời bỏ “chí” của mình,
suốt đời tận tụy cho lý tưởng nhân nghĩa, mong mỏi đem ra thi hành cho dân
chúng. Mặc dù bị chèn ép, ông không chịu bó tay, cứ thản nhiên bênh vực
điều phải, không thèm luồn cúi trước bọn quyền thần hống hách, không thèm
hợp tác với bọn hoạn quan dốt nát. Trong thơ, ông luôn luôn nhắc đến cái chí
bình sinh đó của mình. Bài Đoan ngọ nhật, số 31, là bài tiêu biểu (…)

Có thể nói tinh thần nhập thế của Nguyễn Trãi là nền tảng của tư tưởng
ông và của thơ ông. Người xưa nói: “Không quên quân thân” là vì lẽ đó. Cho
nên chẳng lấy làm ngạc nhiên ông về hưu chưa bao lâu, được vời ra giữ
chức cũ, lần này kiêm nhiệm chức Môn hạ sảnh Tam quán sự, ông liền hăm
hở nhận lấy trọng trách, không chút do dự:

Thương thần như ngựa đến tuổi già,


còn kham rong ruổi,

Cho thần như thông qua năm rét,

càng dạn tuyết sương.

Quần ngôn mặc kệ dèm pha,

Thánh ý cứ bền tín nhiệm.

Khiến cho suy nát,

Trở lại sáng tươi…

Cảm mà chảy nước mắt,

Mừng mà sợ trong lòng.

Tự nghĩ ngu hèn,

Sao cho xứng đáng…

Bài Biểu tạ khẳng định một lần nữa rằng những ý nghĩ bi quan, tiêu cực
thường gặp trong thơ ông là của người bất đắc dĩ phải sống trong cảnh nhàn
hạ, không được thi thố tài năng mà thực hiện cái chí mình ấp ủ từ thuở bước
chân vào đời. Không thể nói ông hăm hở là vì được chút công danh. Công
danh ấy ông từng được hưởng, chỉ có điều chưa bao giờ ông có quyền hành
để làm việc ích nước lợi dân.

(…) Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi rất ít kỹ xảo, không vụ hào nhoáng
bề ngoài, không gò bó, cầu kỳ, không tìm những cách đặt chữ, gieo vần hiểm
hóc. Nhiều bài đọc có thể hiểu ngay, không phải xem chú thích. Như bài
Thính vũ (Nghe mưa), số 1:

Tịch mịch u trai lý,

Chung tiêu thính vũ thanh.

Tiêu tao kinh khách chấm,

Điểm trích sổ tàn canh.

Cách trúc xao song mặt,


Hòa chung nhập mộng thanh.

Ngâm dư hồn bất mị,

Đoạn tục đáo thiên minh.

(Trong phòng tối tăm, vắng vẻ.

Suốt đêm nghe tiếng mưa rơi.

Tiếng mưa rơi não nùng kinh động cả gối khách,

Từng giọt, từng giọt như đếm canh tàn.

Xuyên qua khóm trúc mà gõ dồn dập vào cửa sổ,

Hòa lẫn với tiếng chuông chùa đi vào giấc mộng nhẹ nhàng.

Làm xong bài thơ vẫn không ngủ được,

Tiếng mưa đứt rồi lại nối cho đến sáng)

Lời thơ giản dị, hay ở chỗ kín đáo, trầm lắng. Nhà thơ đang tìm đường
cứu nước, nằm trong quán trọ mà thao thức, không nhất thiết chỉ vì tiếng mưa
rơi. Nhà thơ không nói hết ý mình. Nói ra không tiện, mà nói ra để làm gì! Chỉ
một mình mình biết, một mình mình hay. Tâm sự khi không thổ lộ được lại
càng day dứt. Ý như thế nên lời không cần trau chuốt, không cần đẽo gọt
hình ảnh đẹp. Không thể để lời hại ý. Phải để cho ý đi thẳng vào tâm trí người
đọc.

Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi thường như thế. Không chỗ nào ông nói
rõ những gì xảy đến với ông, mà chỉ kể tâm tư của mình như thế nào. Trong
triều đình, có bao nhiêu cuộc đấu tranh dữ dội, nhưng trong thơ ông, chúng ta
chỉ gặp vài câu nói chuyện nhân tình thế thái (…)

Thời trước, làm thơ, nhất là làm thơ chữ Hán, ai cũng dùng điển cố.
(…) Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi cũng có điển cố, nhưng không nhiều. Điển
cố khó, càng ít. Những người dịch thơ ông, không mất công tìm kiếm lắm mới
chú thích được. Thơ ông đi thẳng vào tâm hồn, không cần những kỹ xảo đó.
Lấy bài Hý đề (Đề chơi), số 76 làm ví dụ:
Nhàn lai vô sự bất thanh nga,

Trần ngoại phong lưu tự nhất gia.

Khuê bích thiên trùng khai điệp hiển,

Pha lê vạn khoảnh dạng tình ba.

Quản huyền hào tạp lâm biên điểu,

La ỷ phương phân ổ lý hoa.

Nhãn để nhất thì chi liệu phú,

Ngâm ông thùy dử thế nhân đa?

(Khi nhàn rỗi, không có việc gì, thì thế nào cũng ngâm nga,

Ta đã có cốt cách riêng của một người phong lưu sống ngoài cõi
tục.

Núi trùng điệp dăng ra như những hòn ngọc,

Mặt nước phẳng lỳ muôn vạn khoảnh như những tấm gương
bằng pha lê.

Chim hót bên rừng ríu rít như đàn sáo,

Hoa nở trong khóm như gấm vóc thơm tho.

Trước con mắt, trong một lúc, thi liệu đến dồi dào như thế,

Thì người đời ai dễ sánh được với thi nhân).

Chúng ta có cảm tưởng lời thơ tuôn ra đầu ngòi bút thanh thoát, không
chút gọt đẽo, và nhà thơ trong khoảnh khắc gạt bỏ được nỗi riêng tư, hoàn
toàn dành tâm hồn để cảm thông với cái đẹp của thiên nhiên. (…)

***

Trong sự nghiệp của Nguyễn Trãi, thơ không phải là phần quan trọng
nhất. Lại trong thơ ông, thì thơ chữ Hán cũng không đáng kể vào hàng đầu;
phải dành cho thơ Nôm. Nhưng nói về thơ chữ Hán trong văn học Việt Nam,
thì thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi có một vị trí đặc biệt. Đây là tâm tư của một
người suốt đời lo cho nước, lo cho dân, chịu gian khổ trước để mọi người
được yên vui. Điều ấy, ông mới chỉ thực hiện được một phần trong cuộc
kháng chiến chống Minh, một phần nữa, ông chưa kịp làm gì thì đã bị họa.
Cho nên, tiếng thơ ông là tiếng “thơ xé lòng”, chúng ta không thể bình tâm mà
nhấm nháp, mặc dù gặp những vần hay ý đẹp.

(Theo Nguyễn Trãi - khí phách và tinh hoa của dân tộc,

NXB Khoa học Xã hội, H, 1980)

CHẤT ĐẠI VIỆT TRONG ỨC TRAI THI TẬP


Lê Trí Viễn

Đành rằng Nguyễn Trãi là một trụ cột của cuộc kháng chiến thần thánh
mười năm chống quân Minh, tài năng, đạo đức của ông phát triển đến độ viên
mãn trong thời gian ấy và còn xuyên được ánh sáng qua mười mấy năm về
sau. Tìm hiểu ông trong bối cảnh lịch sử ấy là đương nhiên và hợp lý. Nhưng
nếu muôn nhìn lên đến tận gốc để không những thấy con người anh hùng ấy
được thời thế làm nên và đã làm nên thời thế, mà còn thấy được tài năng,
đạo đức của đấng vĩ nhân bắt rễ từ nguồn thơm đất đẹp nào, thì phải ngược
lên thời đại Lý - Trần, một thời đại rực rỡ nhiều mặt mà đến nay cũng chưa
tìm hiểu được bao nhiêu. Bởi vì ở Nguyễn Trãi không phải chỉ có ảnh hưởng
của những gì tích cực trong thơ văn ông ngoại, thơ văn của cha, ảnh hưởng
của một gia đình thanh bần về vật chất nhưng khoáng đạt về tinh thần, ảnh
hưởng của đời sống gần gũi nhân dân, của giáo dục Nho học phong kiến… -
ấy là nói từ tuổi hai mươi về trước - mà còn vượt lên trên tất cả, bao trùm tất
cả, là truyền thống cao đẹp mà bốn thế kỷ dựng nước, hai triều đại Lý - Trần
khôi phục, phát huy, nhân lên mọi giá trị tinh thần của dân tộc, đã kết tinh
trong tâm não mọi người thành một chất chung: chất Đại Việt. Nguyễn Trãi là
con người của Lý - Trần trước khi là con người của đầu Lê.

Bài viết này muốn nhìn ở Nguyễn Trãi chất Đại Việt ấy, và xem nó đã
được nhào nặn trong bản lĩnh vĩ đại ấy như thế nào. Phạm vi vấn đề như vậy
khá rộng, ở đây xin giới hạn trong một tác phẩm: Ức Trai thi tập.
***

Lý - Trần là hai triều đại tiêu biểu của giai đoạn đầu tiên dân tộc ta
giành lại được độc lập sau mười một thế kỷ bị nước ngoài đô hộ, và thời đại
Lý - Trần coi như bao gồm cả các triều đại ngắn ngủi Ngô, Đinh, Tiền Lê. Đó
là giai đoạn lịch sử mà giai cấp phong kiến còn tiến bộ, tiêu biểu cho dân tộc.
(…) Xây dựng và bảo vệ đất nước đạt những thành tích hết sức rực rỡ và
oanh liệt, đặt nước ta vào địa vị một nước văn minh, cường thịnh thời trung
đại ở Đông Nam Á. Biểu hiện của nền văn minh, cường thịnh ấy là một đời
sống vật chất tương đối no ấm và một đời sống tinh thần độc đáo mà nét tiêu
biểu là tích cực vui vẻ, “cởi mở” và “phong phú”, “rộng rãi” và “sâu sắc” hay
nói cô đọng hơn, là giàu chất dân chủ và chất rộng mở.

Có lẽ không cần phải chứng minh về hai cái cốt lõi này ở thời đại Lý -
Trần. Sử sách còn ghi khá nhiều sự việc thuộc nhiều mặt của đời sống, đủ
làm bằng chứng cho một không khí, tuy có trên dưới, sang hèn, có vua quan
và dân thường, có triều đình và thôn ổ, nhưng vua thường lẫn vào dân, dân
có việc thường đến gõ chuông kêu thẳng lên nhà vua, vua chăm sóc đời sống
của dân, việc lớn vua hỏi ý kiến dân, việc nhỏ người lính có cách xử trí đúng,
Tể tướng cũng vui lòng nghe… Nghĩa là đời sống xã hội còn giản dị, gần gũi,
chưa có sự cách biệt quá gay gắt như sau này. Mặt khác, con người trong xã
hội ấy được phản ánh là có bao nhiêu những nhân cách đặc xuất, không
những cao về tài năng đạo đức, mà còn rộng về trí tuệ và tâm hồn. Nô tì,
thiếu niên, thiếu nữ, lão bà, nông dân, tăng ni, đạo sĩ, nho sĩ, quý tộc, hoàng
hậu, nhà vua… không tầng lớp nào, không tuổi nào, không giới nào mà không
có những tính cách vượt xa trên mức bình thường. Thái hậu ở một triều đại,
mà trước yêu cầu bức thiết của đất nước, dám đem ngôi của con mình trao
cho một kẻ khác đủ sức đánh tan quân xâm lược, giữ yên bờ cõi, tầm suy
nghhĩ ấy đã vượt lên trên cái ngai vàng của một dòng họ mà dạt đến đỉnh cao
của thời đại: ngôi vua không nhất thiết phải thế tập, người tài giỏi, đức độ,
được mọi người suy tôn thì làm vua. Sư tăng, đạo sĩ là người xuất gia và xuất
thế, nhưng lại hăng hái dấn thân, giúp đời, giúp nước. Người đang làm vua
bỗng dưng bỏ ngai vàng điện ngọc đi tu. Nhà vua anh hùng trong chống ngoại
xâm, lại là người lấy tâm mình làm Phật, hơn nữa là người tham gia sáng lập
cả một môn phái tu hành. Nhà sư mà khuyên tín đồ của mình hãy tự cứu
mình bằng con đường của mình, chứ đừng đi theo con đường của Phật. Học
kinh điển nhà nho mà dám suy nghĩ độc lập, lấy ý mình bác bỏ luận điểm của
danh nho thuở trước…

Bao nhiêu biểu hiện dân chủ và rộng mở ấy, người ta thường cho là do
Nho học chưa át Phật và Đạo nên mọi sự ràng buộc khắt khe của nó chưa có
tác dụng gì lớn đối với xã hội. Điều đó có đúng nhưng sâu xa và cơ bản hơn
là những truyền thống dân chủ và rộng mở trong truyền thông yêu nước và
nhân đạo của dân tộc đã được phục hưng và phát triển lên với bao nhiêu
đóng góp của các tư tưởng ngoại lai khác trong thời đại Lý - Trần này. Chính
những truyền thống yêu nước và nhân đạo của dân tộc được phát huy cao độ
đã làm nên cái bản lĩnh vững chắc, lành mạnh, khỏe khoắn, làm cơ sở cho
những yếu tố dân chủ và rộng mở được tự do đua nở. Cái bản lĩnh ấy làm
nên cái cao, cái lớn, cái vĩ đại của thời này. Nói chất Đại Việt là nói chất dân
chủ và chất rộng mở ấy…

Ở Nguyễn Trãi hình như có một số mâu thuẫn, mâu thuẫn với mình và
với người khác. Là con cháu ngoại nhà Trần và hẳn có biết chuyện Quý Ly
giết một lần những 370 người họ Trần, nhưng ông vẫn đi thi và cả hai cha con
cùng nhận chức quan. Nhà Hồ mất, con cháu họ Trần nổi lên chống quân
Minh, ông vẫn không theo, mãi sau lại tìm về với Lê Lợi. Căm thù giặc Minh
đến mức gọi hoàng đế chúng nó là thằng nhãi con, thế mà chúng nó chịu
thua, rút quân, thì lập tức chỉ còn nói chuyện hòa bình, tha sạch chúng nó.
Quý Ly, Hán Thương, bao nhiêu nho sĩ trước đó bài xích đạo Phật, nhưng
ông lại có cảm tình. Hành, tàng, xuất xử, nhập thế, xuất thế, ở người khác thì
dứt khoát, ngăn cách tuyệt đối, ở ông thì không…

Kỳ thực, với bản thân mình là không mâu thuẫn. Bởi vì các hiện tượng
có vẻ trái ngược nhau ắt đều thống nhất ở một nền tảng chung, đó là cái bản
lĩnh vững chắc và hết sức tốt đẹp của con người vĩ đại, và đặc điểm lớn nhất
của nó là rộng mở.

Biểu hiện đầu tiên của chất rộng mở ấy nằm trong thái độ đối với các
triều đại từ Trần đến Lê. Nguyễn Trãi có dòng họ với nhà Trần nhưng chỉ là
cháu ngoại. Bản thân vua Trần đối xử với cha ông chả ra gì. Quan trọng hơn
là tình hình sa đọa của nền chính trị cuối Trần, khiến nhân dân, cả cha con
ông, phải lầm than điêu đứng. Thân phụ ông đã có ghi điều đó:

Lại tư võng cổ hồn đa kiệt,

Dân mệnh cao chi bán di tiêu.

(Thôn cư cảm sự…)

(Quan lại vơ vét hết sạch,

Xương thịt của dân nửa đã mòn)

(Cám cảnh nông thôn)

Hoặc:

Vạn tính ngao ngao đãi bộ cừu,

Thùy gia kim ngọc á cao khâu.

(Tặng Hồng Châu Kiểm chính)

(Muôn dân nháo nhác trông được cơm áo,

Nhà ai vàng ngọc chất gần cao như gò)

(Tặng Hồng Châu…)

Ngay ông ngoại ông, khá lâu về trước, ý chừng cũng dự tính nhà Trần
sắp mất khi nói: “Thời sự như thế, ta được chết là may rồi, sao còn cầu sống
đã thấy họa hoạn?”. Về sau Trần Ngỗi, Trần Qúy Khoáng nổi lên chống Minh
nhưng không phải là kẻ có thế văn hồi tình thế. Còn đốì với nhà Hồ, chắc
chắn có mặt ông không đồng tình, nhưng lúc đầu, nhà Hồ cũng tỏ ra muốn hồi
phục nền thịnh trị của đất nước, nên cha con đều có chút mừng: “Lại mừng
nguyên khí vừa thịnh”, và sẵn sàng đóng góp: “Còn cậy vì hay một chữ đinh”
(Ngôn chí, bài 6). Nhưng họ Hồ gặp chống đối từ bốn phía và bại vong, mặc
dù, về mặt binh lực và quốc phòng không phải không có nỗ lực lớn.

Với Lê Lợi, gặp nhau thì như rồng mây gặp hội. Ông sẽ cúc cung tận
tụy cống hiến hết sức lực mình cho sự nghiệp cứu nước rồi dựng nước. Toàn
bộ thơ văn đều nói tới điều đó với lòng khâm phục, tin tưởng tuyệt đối.

Lấy gì giải thích sự thay đổi về thái độ chính trị đối với các triều đại tiếp
nhau này? (…) Có cái gốc dân tộc rất sâu trong vấn đề này. Ức Trai thi tập sẽ
nói tách bạch hơn:

Trượng sách hà tòng quy Hán thất?

Bão cầm không tự tháo Nam âm.

(Mạn Thành - bài 1)

(Chống vọt do đâu về Hán nhỉ?

Ôm đàn chỉ đánh khúc Nam thôi)

(Làm chơi - bài 1)

Tiếc rằng chưa xác định hẳn được bài thơ này sáng tác hồi nào. Giá
như được viết vào thời còn đương tìm đường thì tâm trạng trong hai câu thơ
trên đáng quý, đáng thương biết bao vì sâu sắc biết ngần nào! Nó là một câu
hỏi giày vò tâm can, trí tuệ hàng chục năm mà chưa có câu trả lời: về đâu?
Nó là một tiếng lòng xốn xang mà đường tơ đương chỉ mới đau buồn, chứ
chưa có một hướng âm thánh nào tươi sáng, chưa thấy một Chung Kỳ nào.
Nhưng đặt câu hỏi là đã có trả lời. Và câu trả lời cũng chính là đây. Ta như
Chung Nghi chỉ gảy nhạc phương Nam, ai là Chung Nghi với ta thì ta theo
với. Cũng như Lưu Tú dẹp loạn Vương Mãng cho dân nhờ thì Đặng Vũ cầm
roi ngựa tìm đến. Cái gốc của vấn đề là ở chỗ họ nào thật sự vì nước vì dân,
có khả năng làm được nhiệm vụ đó. Trần hay Hồ hay Lê hay ai nữa cũng
được, miễn là có tấm lòng Chung Nghi như ta, lại có đủ tài đức đảm đương
thì thái độ ta sẽ là thái độ Đặng Vũ, không đợi vời mà vội vàng ruổi ngựa tìm
theo.
Cái gôc ấy là chỗ dựa vững chắc để nhà yêu nước yêu dân vĩ đại vượt
qua mọi thành kiến hẹp hòi, có được cái nhìn rộng mở trong thái độ chính trị
của mìmh.

(…) Lịch sử chế độ phong kiến nước ta tất yếu ngày càng dành địa vị
ưu thắng cho Nho giáo.

(…) Tuy nhiên, Nho giáo chủ yếu là một học thuyết chính trị và đạo
đức. Nhu cầu của đời sống con người lại nhiều mặt. Nho giáo rất phiến diện,
không đủ đáp ứng. Nó cũng đã vay mượn nhiều nơi để tự bổ sung, nhưng
vẫn không đủ. Cho nên từ lâu đã xuất hiện tư tưởng “tam giáo đồng nguyên”,
ba hệ tư tưởng bổ sung cho nhau, ở nước ta, thời Lý - Trần coi trọng cả ba
giáo, trên cơ sở khôi phục, phát huy những truyền thống dân tộc, chủ yếu là
truyền thống yêu nước và nhân ái, kết tinh những mặt tích cực của cả ba,
thành một tinh thần rộng mở sáng ngời, trước và sau ít thấy trong thời phong
kiến. Nó không phải là một tinh thần chiết trung hay thỏa hiệp, nó cũng không
phải là một sự hỗn hợp tùy tiện, nó đúng là một sự kết tinh quanh một cốt
vững chắc là cốt dân tộc những nhân tố tích cực, phù hợp của ngoại lai, cho
nên nó là một sự nâng cao chót vót, sáng rỡ.

Nguyễn Trãi chắc đã kế thừa được tinh thần ấy. Hiểu Nho học nhưng
không sách vở, mà theo yêu cầu của đời sống Việt Nam, nên nhân nghĩa
không giống của Khổng - Mạnh. Không đi tu nhưng lại nhập diệu đạo thiền
đến độ biến ra thơ chứ không phải chỉ hiểu. Có người đã phân tích khá kỹ bài
Mộc cận (Hoa râm bụt) để chứng minh điều đó. “Bụt ấy là lòng bụt há cầu?”
(Mạn thuật, bài 8), câu thơ thiền ấy không phải là câu độc nhất.

Ức Trai thi tập lại rõ hơn. Nói nhà quan mà giống nhà chùa là nơi tấm
lòng muốn trong veo sự đời (Mạn hứng, bài 3). Lên chùa Tiên Du là như ngộ
được đạo, theo pháp chỉ của thiền, “vô ngôn đốn ngộ”:

Cá trung chân hữu ý,

Dục ngữ hốt hoàn vương (vong).

(Tiên Du tự)
(Ở trong dường có ý,

Muốn nói bỗng quên rồi)

(Chùa Tiên Du)

Tâm sự một đêm với nhà sư, bạn cũ, sao mà tâm đầu ý hợp đến kỳ lạ!
Nhắc chuyện cùng nhau dạy học buổi còn trẻ, thôi không nói làm gì. Đến bàn
việc trút bỏ việc đời, đi sâu vào mọi lẽ nhân duyên mà hớn hở, xoắn xít như
bắt được của, rồi lại hẹn hò sẽ cùng nhau thả lòng nghe suối chảy ở Côn Sơn
thì đã kỳ. Mà cuối cùng, như sợ bạn không tin mình nói thật, nên phải vội rào
đón rằng mình nói ngông, thì quả là lạ:

Lão khứ cuồng ngôn hưu quái ngã,

Lâm kỳ ngã diệc thượng thừa thiền.

(Tống tăng Đạo Khiêm quy sơn)

(Già rồi hay nói cuồng đừng lạ ta,

Từ biệt nhau rồi thì ta cũng sẽ đi tu đạo thượng thừa)

(Đưa sư Đạo Khiêm về núi)

“Ta cũng sẽ đi tu” là nói chơi hay nói thật? Dù sao đó cũng là một ý
nghĩ, cho dù là thoáng qua. Có lúc ý nghĩ đó kèm theo một nỗi gì xót xa, hổ
thẹn với suối, với rừng, trước một cảnh chùa:

Giản quý lâm tàm túc nguyện quai.

(Đề Đông Sơn tự)

(Thẹn rừng tủi núi ước xưa sai)

(Đề chùa Đông Sơn)

Thế là thế nào? Đối với một tâm hồn như Nguyễn Trãi, không được
phép hiểu giản đơn. Điều có thể khẳng định là con người ấy không chỉ là
khách vãng chùa mà thôi.

Còn Đạo giáo, Đạo gia? Không nói những hình ảnh của chim bằng trên
chín từng mây, của lửa nóng trong lò luyện đơn, của tử phủ dao đài, Bồng Lai
Nhược Thủy đã nhập vào vốn văn học. Còn bao nhiêu những chuyện mê tín
của phong thủy, của điềm trời, báo mộng, không xa lạ gì với thế giới quan
trung đại trong Lam Sơn thực lục, Văn bia Vĩnh Lăng. Thực ra, những điều
hoang đường ấy, ở đây cũng nhằm mục đích cứu nước. Trực tiếp hơn cả là
nhắc đến chuyện nấu thuốc luyện đơn, người tiên cưỡi hạc, Thiên Thai hái
thuốc, cuộc đời là giấc mộng, kể cả nhà lý luận của Đạo giáo phù thủy là Cát
Hồng. Và lạ lùng là câu kết của bài Đề Bão Phúc nham:

Thị xứ chân kham dung ngã ẩn,

Sơn trung hoàn hữu cựu sa phù?

(Chôn ấy thực đáng cho ta ẩn,

Trong núi có còn đơn sa cũ (để luyện đơn) chăng?)

(Đề lèn Bão Phúc)

Thật khó mà nói Nguyễn Trãi không dính dáng gì đến Đạo giáo, nhưng
câu thơ trên phải chăng chỉ là một cảm tưởng thoáng qua lúc bực mình với
cuộc đời?

Côn Sơn ca không chỉ là lời ca ngợi cảnh đẹp, kêu gọi “về đi” đối với
người muốn từ bỏ cuộc đời công danh trần lụy, mà còn và chủ yếu là sự nhận
thức có màu sắc Đạo gia về cuộc đời danh lợi trên phù thế, nhưng nó lại kết
luận ở thái độ thanh cao, trong sạch của những kẻ không màng công danh
phú quý mà chỉ yêu thích cuộc sống thanh bần giữ thiên nhiên, cuộc sống ấy
vừa có màu sắc cả Đạo lẫn Phật, Nho.

Cái tinh thần chót vót, sáng rỡ nói trên kia sẽ được biểu hiện trong một
vấn đề nhân sinh quan cơ bản, vấn đề xuất thế nhập thế.

Nhà nho có quan niệm hành tàng, xuất xử, nhưng là một học thuyết
nhập thế. Phật và Đạo, tu Phật tu tiên đều là xuất thế. Xuất thế thì sống ở
chùa, ở quán, với Phật, với tiên, xa trần tục, gần thiên nhiên. Nhà Nho trong
lúc tàng, xử, cũng sống đời sống thôn dã, trong sạch. Họ gặp nhau ở điểm
quý trọng thiên nhiên và trau dồi đạo đức cao thượng, cố nhiên mức độ có
khác nhau. Họ cũng gặp luôn tâm lý chuộng thiết thực, ít bay bổng siêu hình,
và phong cách sống cân đối giữa thiên tạo và nhân tạo của người Việt. Cái
rộng mở từ Lý - Trần đã tiếp nhận cái nhập thế của Phật và Đạo vốn là cái
xuất thế, cái xuất của Nho đi từ cái xử. Nho vốn là chính trị đạo đức nghiêm
khắc khô khan, thì cảnh u tịch của Phật, cảnh thoát trần thanh khiết của Đạo
bù vào. Cái hành cái tàng của nhà nho bị động và cứng nhắc, thì có nhập mà
xuất, xuất mà nhập của nhà Phật nhà tiên bồi bổ thêm. Tiến lên một chút nữa
thì trong hành có tàng, trong tàng có hành, xuất thế nhưng vẫn nhập, nhập
thế nhưng vẫn xuất. Giữ thăng bằng cho sự tình có vẻ trái ngược ấy là bản
lĩnh của người Việt, bản lĩnh vững chắc mà thanh cao, yêu nước thương dân
trên hết, rồi ở bên cạnh làm tiên làm Phật cũng hay, làm Phật làm tiên cũng
tốt, nhưng trước hết phải biết yêu nước thương dân. Tuồng như đã có quan
niệm bên đạo bên đời như ở phương Tây. Điều chắc đó là tinh thần của Trần
Thái Tông trong Thiền tông chỉ nam tự, xa hơn nữa, của Đỗ Pháp Thuận
trong Đáp quốc vương quốc tộ chi vấn.

Chính tinh thần rộng mở ấy đã đưa Nguyễn Trãi đến nhận xét: “Niên lai
xuất xử lược tương đồng” (Mấy năm nay xuất và xử đại khái giống nhau -
Họa vần ông người làng…) và “Vị xuất gia thời thả trú gia” (Chưa xuất gia thì
hãy ở nhà - Họa bài Yên hà…). Có phải đó là những nhận xét do bực mình
hay cám cảnh giây lát không? Đúng có bực mình, cám cảnh, nhưng bật ra
những lời có tính chất khái quát, liên quan đến vân đề nhân sinh như vậy
trong tâm sự và trong suy nghĩ của tác giả, đó hầu như là một quan niệm.
Chưa xuất gia đi tu thì ở nhà. Nghĩa là đi tu hay ở nhà chỉ còn khác nhau ở
còn ở và chưa đi, chỉ là vấn đề thời gian. Xuất hay xử đại khái giống nhau.
Nghĩa là giống mà cũng có khác, có khác nhưng mà giống.

Chả thế mà trong cảnh làm quan lại thấy mình như ở ẩn:

Tiểu tiểu hiên song nụy nụy lư,

Quan cư đốn giác loại u cư.

Thương ba giang thượng nhàn thùy điếu,


Lục thụ âm trung tỉnh khán thư.

(Tức sự)

(Hiên song nho nhỏ mái sàn sàn,

Nhà ẩn, đâu mà phải cửa quan!

Sóng biếc rợn sông, câu thả nổi,

Cây xanh um bóng, sách xem nhàn)

(Tức cảnh)

Cũng như đang quên mình trong cảnh “Giang sơn dạm được đồ hai
bức, Thế giới đông thành ngọc một bầu” thì lại đồng thời nhớ đến “Vui xưa
chẳng quản đeo âu” (Ngôn chí, bài 18).

(…) Ông từng nói trong thơ Nôm:

Tiêu sái mấy lòng đà mạc được,

Bảo chăng khứng mạc một lòng thơm.

(Tự thán - bài 27)

hay:

Chẳng bụt chẳng tiên át chẳng phàm.

(Tự thán - bài 27)

và rõ hơn:

Dù bụt dù tiên ai kẻ hỏi,

Ông này đã có thú ông này.

(Mạn thuật - bài 6)

hoặc:

Ai hay ai chẳng hay thì chớ,

Bui một khen ta hữu tình.

(Tự thán - bài 13)


Trong thơ chữ Hán cũng vậy:

Nhất thốn đan tâm chân hống hỏa,

Thập niên thanh chức ngọc hồ băng.

(Mạn hứng - bài 2)

(Thanh chức mười năm băng nậm ngọc.

Đan tâm một mảnh lửa lò tiên)

(Hứng chơi - bài 2)

Bình sinh vu khoát chân ngô bệnh,

Võ thuật năng y lão cánh gia.

(Ngẫu thành)

(Vu khoát đời ta manh bệnh ấy,

Chữa đành không thuật, tuổi thêm ra)

(Ngẫu nhiên làm)

Tấm lòng thơm không sao vẽ ra được ấy, tấm lòng son vừa nóng bỏng
như lửa vừa trong suốt tựa băng ấy, cái bệnh vu khoát không thuốc nào chữa
được mà càng già càng tăng ấy, cái thú của riêng “ông này” ấy, cái hữu tình
mà “ta khen ta” ấy là cái gì vậy? Toàn bộ cuộc đời, toàn bộ thơ văn là câu trả
lời, mà riêng câu “Chẳng bụt chẳng tiên ắt chẳng phàm” cũng là lời gợi mở.
Ngay từ thời còn tìm đường, một cuộc sống gần thiên nhiên, với suối rừng,
mai trúc, trong cảnh sinh hoạt nông thôn cấy muống ươm sen, “áo bô quen
cật” dưa muối nài chi đã như một ước hẹn thề bồi từ thuở nào. “Lâm tuyền
hữu ước na kham phụ” (Suối rừng có hẹn sao nên phụ - Sau loạn đến Côn
Sơn cảm tác). Và một ước ao cháy lòng thường trở đi trở lại trong thơ cũng
như trong mộng là “bao giờ dựng được nhà bên rừng mai”, “dưới ngọn núi
mây phủ”, “bên khóm hoa”, hoặc gửi mình cho “sông hồ” “hang núi”, “lều
tranh”.
(…) Nguyễn Mộng Tuân cho rằng ông có dáng dấp ông tiên, nhưng
Nguyễn Trãi không tu Phật tu tiên để thành Phật thành tiên, xa lánh cõi đời,
ông không là cao sĩ nhất định giấu mình để độc thiện kỳ thân; ông là một
người trí thức Việt Nam yêu nước thương dân, chí những muôn cứu nước,
yên dân, nhưng trí tuệ thật là rộng mở, đón nhận ánh sáng từ bốn phương
đến để làm cho lòng yêu nước thương dân của mình càng sáng rõ, càng cao
vót, và trong quan niệm nhân sinh của mình, phong cách sống của mình, vừa
làm việc hết mình cho dân cho nước, nhân nghĩa trí dũng có đủ, nhưng lòng
bao giờ cũng sạch nhẹ như kẻ xuất gia, không hề nặng danh lợi của kiếp trần,
và cũng vừa biết sống lành mạnh, vui tươi, giữa cuộc sống của nông thôn lao
động, với mọi cảnh vật thiên nhiên, để thưởng thức từ một quang cảnh to
rộng như “bầu trời trong tựa nước” đến “một chén nước chè tươi giải sạch
mọi nỗi ưu phiền”, không hiểu “lòng thơm” của ông như vậy, thì khi ông đang
sống như ở ẩn tại Côn Sơn, mà được vời ra làm việc trở lại, cái vui mừng hớn
hở như trút phăng được gánh nặng nghìn đời, cái vui mừng tưởng như làm
người trẻ lại đến mấy mươi tuổi, cái hớn hở gần như vồ vập đáng quý đáng
thương mà cũng đáng lạ ở con người đã ngoại sáu mươi, lấy gì cắt nghĩa
được?

***

(…) Nguyễn Trãi là một thiên tài nhiều mặt. Chính trị, quân sự, văn hóa,
giáo dục, lịch sử, địa lý, văn thơ, họa nhạc, mặt nào cũng xuất sắc. Rất tiếc là
tiểu sử còn quá sơ sài, chưa soi sáng thêm quá trình hình thành thiên tài ấy
được bao nhiêu. Những lời bình luận thời xưa cũng chẳng chú ý cắt nghĩa.
Căn cứ vào sự nghiệp và thơ văn thì thấy ở cơ sở của thiên tài ấy, nơi gốc rễ
đẻ ra bao nhiêu ngành nhánh, có hai nhân tố cơ bản: lòng thương dân và đầu
óc rộng mở, chất dân chủ và chất rộng mở. Dân chủ và rộng mở là trung tâm
của yêu nước và nhân đạo. Ở nước ta, yêu nước và nhân đạo lại liên quan
mật thiết, bổ sung nâng đỡ cho nhau. Yêu nước mà thương dân thì yêu nước
sâu sắc, thương người mà rộng mở thì thương người mới trọn vẹn. Đã dân
chủ sâu sắc thì dễ dàng rộng mở, mà rộng mở bao lao thì lấy dân chủ làm
phương hướng quy tụ. Thiên tài Nguyễn Trãi phong phú, đúng là “một tâm
hồn lộng gió thời đại”, thời đại đầu Lê, chủ yếu là thời đại Lý - Trần, một tâm
hồn rộng mở bốn phương nhưng quy về một hướng, hướng dân chủ, hướng
yêu nước thương dân, hướng Việt Nam truyền thống. Thiết tưởng đó là chỗ vĩ
đại của Nguyễn Trãi.

(Theo Sáu trăm năm Nguyễn Trãi,

NXB Tác phẩm mới, H, 1980)

NIỀM THAO THỨC LỚN TRONG THƠ NGUYỄN TRÃI


Nguyễn Huệ Chi

(…) Phải nói ngay rằng trên hai tập thơ của ức Trai, chưa hề có bài nào
làm để mà chơi. Toàn bộ thi phẩm của ông là tất cả suy nghiệm của một con
người luôn luôn băn khoăn trước tạo vật, phát hiện những hiện tượng biến
đổi khôn lường và tìm kiếm những chân lý chưa mấy ai tìm ra trong cuộc
sống. Nguyễn Trãi cơ hồ như đã phải dằn vặt đau khổ nhiều trong quá trình
cả một đời tìm tòi suy nghiệm ấy. Tất nhiên, có lúc nắm được quy luật của đời
sống; ông bỗng trở nên ung dung thích thảng, ông cất lên một tiếng cười:

Phúc nhiều xưa bởi nơi ta tích,

Xuân đến tự nhiên mọi vật tươi

(Bảo kính cảnh giới - bài 11)

Nhưng thật ra đấy là tiếng cười chi chút có phần hiếm trong thơ Ức
Trai. Điều thường thấy trong thơ ông là một nỗi thao thức khôn cùng, một cái
nhìn chất chứa bao nhiêu dấu hỏi về cuộc đời. Qua thơ Ức Trai, ta nhận ra
không hiếm những lần ông trắng đêm không ngủ.

Có khi, chỉ vì tấm lòng yêu nước thương dân của một người biết “lo
trước cái lo của thiên hạ” làm cho ông không sao chợp mắt nổi:

Bình sinh độc bão tiên ưu niệm,


Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên.

(Hải khẩu dạ bạc hữu cảm - bài 2)

Bình sinh riêng ôm tấm lòng tiên ưu,

Ngồi quàng một mảnh chăn lạnh thâu đêm không chợp mắt)

Có khi nhà thơ bắt gặp được trong tạo vật một sức mạnh nào đấy làm
ông xao xuyến; và nỗi thao thức thâu đêm của ông ở trường hợp này phản
ánh ý thức tích cực chờ đón một cái gì lớn lao đang xảy tới; cái lớn lao mang
tầm vóc và cảm quan vũ trụ:

Tiên lại ngữ thu kinh thảo mộc,

Ngọc thằng đê hán chuyển kiền khôn!

Cao trai độc tọa hồn vô mị,

Hảo bả tân thi hướng chí luân!

(Thu dạ dữ Hoàng Giang

Nguyễn Nhược Thủy đồng phú)

(Sáo tiên báo hiệu mùa thu, làm kinh động cỏ cây,

Sao Ngọc thằng hạ thấp gần sông Ngân Hán chuyển cả trời đất!

Một mình ngồi chốn thư phòng không sao ngủ được,

Đem câu thơ mới hướng vào chí mình mà nói!)

Nhưng cũng có khi ông không ngủ chỉ là vì lòng ông thốt nhiên trĩu
nặng một thứ tiếng âm thầm ưu uất của từng giọt mưa đêm bên ngoài:

Tịch mịch u trai lý,

Chung tiêu thính vũ thanh.

Tiêu tao kinh khách chẩm,

Điểm trích sổ tàn canh.

Cách trúc xao song mật,


Hòa chung nhập mộng thanh.

Ngâm dư hồn bất mị,

Đoạn tục đáo thiên minh.

(Thính vũ)

(Vắng vẻ trong thư phòng,

Thâu đêm nghe tiếng mưa.

Rả rích lạnh lùng làm kinh động gối khách,

Từng giọt từng giọt như điểm canh tàn.

Xuyên qua khóm trúc, tiếng mưa dày nhặt gõ vào cửa sổ,

Tiếng mưa hòa lẫn với tiếng chuông chùa mà đi vào giác mơ
trong trẻo.

Sau khi ngâm thơ xong vẫn không ngủ được,

Tiếng mưa dứt rồi lại nối cho mãi đến sáng ngày)

Nội một việc ngồi lặng trong phòng suốt đêm để nghe những tiếng mưa
dứt rồi lại nối cũng đủ rõ tâm sự của nhà thơ bức thiết đến mức nào!

Quả tình, thơ Nguyễn Trãi vẫn tiếp tục cái chất suy tưởng vốn là đặc
sắc của những bài văn hùng tráng, đầy tính chiến đấu của Nguyễn Trãi. Tuy
nhiên, có khác với những bài văn ông sáng tác giai đoạn trước mà tính tư
tưởng nổi bật và tập trung từ đầu đến cuối, ở hai tập thơ chữ Hán và chữ
Nôm của con người này lại như mang theo ít nhiều biểu hiện tư tưởng và tình
cảm không thống nhất, thậm chí thường khi còn trở nên mâu thuẫn, phức tạp.

Con người thi nhân trong thơ Nguyễn Trãi một mặt có tầm nhìn của một
triết gia hiểu thấu được mọi xu thế tiến triển của sự vật, biết hướng về những
nhân tố mới đang nảy sinh; nhưng rồi mặt khác, cũng con người thi nhân ấy
lại có cái thái độ thở dài ngao ngán khi thấy mình bất lực trước những thế lực
tối tăm đang ngự trị trong xã hội.
Con người hành động trong thơ Nguyễn Trãi, ở những hoàn cảnh nào
đấy, là con người tìm thấy hướng đi và đấu tranh không mỏi:

Quân tử hãy lăm bền chí cũ,

Chẳng âu ngặt, chẳng âu già.

(Ngôn chí - bài 17)

Nhưng ở những hoàn cảnh khác lại là con người “ghê sợ cả thế tục”,
quay về ở ẩn, ôm ấp cái triết lý “vạn sự trên đời đều là hư không”, và chỉ có
“vài tiếng chim kêu trên núi mới làm cho [lòng trần tục của ta] tỉnh lại”.

Nguyễn Trãi vừa cất lên tiếng hát lạc quan chào mừng cuộc sống:

Lãm huy nghi học minh dương phượng.

(Họa hương tiên sinh vận giản chư đồng chí)

(Ngắm nhìn ánh sáng muốn học chim phượng gáy với vừng
đông)

thì liền theo, một cảm giác chua xót về “thói tục bạc bẽo” lại đã làm cho ông
hết hứng thú đối với cõi đời:

Viễn hại chung vi tỵ đặc hồng

(Họa hương tiên sinh vận giản chư đồng chí)

(Xa lánh tai họa, rút cục là chim hồng tránh nơi săn bắn)

Và đằng sau tất cả những nét trái ngược được phơi bày bên cạnh
nhau, tưởng chừng khó giải thích đó, gần như bao giờ cũng nổi bật lên một
trạng thái tình cảm đặc biệt, một tâm sự có phần nung nấu, nó làm thành cái
phong cách suy nghĩ của ngòi bút thơ ức Trai.

(…) Nguyễn Trãi đã đụng đầu với bọn Lương Đăng, Nguyễn Thúc Huệ,
và cao hơn nữa là với bọn Lê Vấn, Lê Sát, những người từng có lúc kề vai
sát cánh với ông trong cuộc chiến đấu hồi nào. Ở tuổi sáu mươi, ông đành
phải vùng ra khỏi vòng vây ngột ngạt của cái triều đình Lê Thái Tông mà trở
về làng cũ. Sự đối lập giữa một nhà chính trị mang tư tưởng nhân ái, một con
người có tâm hồn nồng cháy yêu thương với một đám triều thần tối tăm vô sỉ
đã ở cái mức không về không được. Tưởng có thể ứa nước mắt lên được khi
bắt gặp từ trong đáy lòng Ức Trai cảm giác thốt nhiên ớn lạnh đối với cuộc
đời:

Tục cảnh kinh tâm suyễn nguyệt ngưu.

(Mạn hứng - bài 3)

(Cõi tục ghê lòng như trâu suyễn khi thấy trăng lên)

Rõ ràng cái “nhàn” trong thơ Nguyễn Trãi chỉ là một cách nói của nhà
thơ, một cách ông che giấu những nỗi đau lòng, cái buồn của ông là cái buồn
có duyên cớ sâu sắc, và việc “quy sơn” đâu phải là một điều sảng khoái đối
với ông, nó chỉ là một tình thế bất đắc dĩ, là cái kết quả bi thảm của trăm
nghìn sóng gió trong nội bộ giai cấp phong kiến lúc ấy mà thôi!

***

Có hiểu như thế thì mới không khe khắt với cái triết lý “ở ẩn” thường
được nhắc đến trong thơ như một lẽ sống của Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi nói
ẩn cư và ông đã từng làm như thế, nhưng thực tình lòng ông đâu có nghĩ như
ông nói và làm. Bỏ triều đình mà tìm về núi cũ, sống khoáng đạt trước một tạo
vật vô cùng rộng lớn, tâm hồn nhà thơ cũng được nâng lên đến tuyệt đỉnh
thanh cao. Ông mở lòng mình ra với mai với trúc; con người ông cao khiết
đến mức gội đầu bằng sương, lót lòng bằng tuyết, đón một ánh trăng vào nhà
hay lắng nghe tiếng đàn của gió qua lá trúc rì rào; nhưng như thế đâu có
nghĩa là cánh cửa nhìn xuống cuộc đời của ông đã khép chặt lại. Không, con
người tưởng như có lúc chỉ còn biết “Ta cùng bóng mây nguyệt, ba người”
nữa mà thôi ấy, ngay giữa lúc đang đắm mình trong một khung cảnh thiên
nhiên có sức cuốn hút lạ kỳ, vẫn biết tỉnh táo để lắng nghe những tiếng động
từ dưới chân núi; những hình ảnh khổ đau chồng chất của cõi đời vẫn sống
thủy chung trong trí nhà thơ, không sao dứt đi được:

Náu về quê cũ bấy nhiêu xuân,

Lẳng thẳng chưa lìa dưới trần.


(Mạn thuật - bài 11)

Chính cái thái độ “lẳng thẳng” ấy khiến cho mọi nỗi đau buồn lo lắng vì
con người và cuộc sống dường như không lúc nào không cuồn cuộn trong
lòng Ức Trai:

Bui một tấc lòng ưu ái củ,

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng.

(Thuật hứng - bài 5)

Và tưởng như chỉ cần một tiếng gọi nhỏ ở đâu đấy thôi, tiếng gọi khẩn
trương và chân thành của cuộc đời thực, là con người vốn đang nóng lòng
chờ đợi này sẽ vụt trở nên hăng hái:

Nghĩa khí tảo không thiên chướng vụ,

Tráng hoài hô khởi bán phàm phong.

(Quá hải)

(Nghĩa khí quét tan mây mù hàng nghìn dãy núi,

Tấm lòng hùng tráng gọi dậy cơn gió đầy nửa cánh buồm)

(…) Con người đó nhiều khi cũng chẳng cần chờ ai gọi nữa. Vì niềm
“ưu ái” vốn sẵn trong lòng, tự nó đã làm một thôi thúc, luôn luôn thẩm tra khe
khắt thái độ xuất xứ của mình rồi. Và gọi bằng thao thức thì phải nói chính
đây mới là nét thao thức quán xuyến hết thảy lòng thơ ức Trai, nó là tâm sự
sâu kín nhất, làm cho ông trằn trọc nhiều đêm không ngủ:

Còn có một lòng âu việc nước,

Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung…

(Thuật hứng - bàix2^)

(…) Đó là cái tâm sự trước sau duy nhất của nhà thơ, nó đi vào trong
hết thảy mọi ý thơ của ông, làm thành cái nỗi thao thức “vô hình hay hữu
hình”; nó tạo nên những hình tượng bất hủ, những tấm lòng son, những đôi
mắt mở to trong đêm dài… Và tất cả những hình tượng ấy chung đúc thành
một con người cụ thể, con người Ức Trai, con người có tầm suy nghĩ sâu
rộng khó lẫn lộn với con người nào trong lịch sử cũng như trong văn học.

***

(…) Cũng như Khuất Nguyên, Nguyễn Trãi chỉ có thể ra đi, cùng đất
cuối trời, còn nếu muôn quay trở lại với triều đình phong kiến lúc ấy thì trước
tiên phải nắm trong tay chuyện tính mạng nghìn cân treo sợi tóc. Nguyễn Trãi
đã sẵn sàng trở lại. Và hiện thực tàn nhẫn cũng đã quá phũ phàng - cái chết
oan khốc của nhà thơ vẫn không làm giảm sút tấm lòng trước sau như một
của Ức Trai. Thơ văn ông, sau bao nhiêu sóng gió của bao nhiêu thời đại, vẫn
ngời lên tấm lòng cao cả ấy. Nghĩa lớn mà nhà thơ ôm ấp đối với dân với
nước, cho đến nay vẫn “bền như đá vàng”, sâu nặng và dai dẳng như lòng
người nhớ thơ Nguyễn Trãi.

(Tạp chí Văn nghệ, tháng 9-1962, dưới đầu đề:

Con người Nguyễn Trãi qua thơ văn của ông.

In theo bản chỉnh lý, trong sách

Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam thời kỳ cổ - cận đại,

NXB Tác phẩm mới, H, 1983)

CẢM QUAN MÙA XUÂN TRONG THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI


Nguyễn Hữu Sơn

Mùa xuân với ý nghĩa hiện thực, cụ thể - ý nghĩa thời sinh học - chính là
sự lặp lại chu kỳ thời gian và là sự khởi đầu cho một năm mới. Mùa xuân đơn
thuần chỉ là quy luật của tự nhiên, song bản thân con người đã truyền thêm
cho nó phần hồn, cái phần được thể hiện trong phong tục, tập quán, hội hè, lễ
rước xuân, mừng xuân… Trong thơ Nguyễn Trãi, mùa xuân được cảm nhận
như là biểu tượng của vẻ đẹp toàn mỹ, hoàn chỉnh, phổ biến:

Đâu đâu cũng chịu lệnh đông qụân,


Nào chốn nào, chăng gió xuân.

Huống lại vườn còn hoa trúc củ,

Chồi thức tốt lạ mười phàn.

(Thơ tiếc cảnh - bài 13)

Ngọn gió mùa xuân hay là vị chúa đông quân kia đã đến, đã mang hơi
thở ấm áp tới khắp mọi miền. Trong con mắt mỗi người, mảnh vườn bất chợt
tươi xanh hơn bởi mầm non hoa lá. Biểu tượng của sự sống, sức sống mùa
xuân “Chồi thức tốt lạ mười phân” đã vượt lên lấn át cái khô cằn, đơn lẻ, lạc
lõng của một cành trúc mùa đông. Từ cách cảm nhận chung về mùa xuân
như thế, Nguyễn Trãi đã thể hiện tập trung qua một hình ảnh cụ thể, gợi cảm.
Không tìm nguồn thi hứng đâu xa, bằng vào hình ảnh cây chuối gần gũi thân
quen, Nguyễn Trãi đã phát hiện được một tứ thơ kỳ thú:

Tự bén hơi xuân tốt lại thêm,

Đầy buồng lạ màu thâu đêm.

Tình thư một bức phong còn kín,

Gió nơi đâu gượng mở xem.

(Cây chuối)

Nét mới lạ ở đây là nhà nghệ sĩ đã cảm nhận sức sống của khóm chuối
khi tiếp nhận hơi thở mùa xuân càng thêm tốt tươi hơn. Và như thế, sự sống
sẽ luôn luôn là cái tiếp tục vận động, đổi mới, nâng cao. Cho đến câu kết của
bài thơ, cái phong nhụy ban đầu của nõn chuối - bức tình thư hay là cái e ấp
của sự sống đã đạt tới nội dung thẩm mỹ tuyệt vời viên mãn “Gió nơi đâu
gượng mở xem”. Cái đẹp của sự sống bình thường đấy, quen thuộc đấy mà
xiết bao dịu nhẹ, thơ mộng, đòi hỏi phải được chăm chút, đón nhận với tất cả
sự tinh tế thuộc về tính người, bản chất con người. Chỉ riêng trước bài thơ
Nôm tứ tuyệt này, nhà thơ viện sĩ Xuân Diệu đã phải thừa nhận: “Một bài thơ
như Ba tiêu (tức Cây chuối - N.H.S chú) của Nguyễn Trãi đã trải qua 24 năm
mới chịu gửi cái bí mật tâm tình mình cho người bạn đọc”.
Là con người đam mê nhập cuộc với mùa xuân, Nguyễn Trãi càng thấu
hiểu hơn cái giá của ngày hôm nay, của thời gian hiện tại. Qua lời ngợi ca loài
hoa đào, nhà thơ đã nhìn ra cả quá trình biến chuyển của sự sống:

Khí dương hòa há có tư ai,

Năng một hoa này, nhẫn mọi loài.

Tính kể chỉn còn ba tháng nữa,

Kịp xuân mựa để má đào phai.

(Hoa đào - bài 4)

Ở đây nhà thơ cho thấy hoa đào biết mùa xuân chỉ có ba tháng nên đã
kịp đến và không để sắc màu của mình phôi pha trong những ngày đẹp đẽ ấy.
Cách cảm nhận về thời gian như trên đã làm thành chiều hướng chủ đạo
trong thơ vịnh mùa xuân của Nguyễn Trãi. Nỗi lo về thời gian, về hạnh phúc
đang qua đi đã là một nét vẽ đậm màu tương phản với mọi thái độ sống đơn
điệu, thờ ơ trước mùa xuân. Và ngay cả khi ấy, lời thơ phê phán cũng thật
nhẹ nhàng, độ lượng:

Ba xuân thì được chín mươi ngày,

Sinh vật lòng trời chẳng tây.

Rỉ bảo đông phong hời hạt ít,

Thế tình chớ tiếc, dửng dưng thay!

(Thơ tiếc cảnh - bài 11)

Bởi lẽ ngọn gió đông phong trong ba tháng kia là chung cho cả mọi
người, nào có thiên vị riêng ai đâu. Cho nên nhà thơ mới phải thương thay
cho ai kia dửng dưng không biết nuối tiếc, trân trọng cái đẹp của mùa xuân -
biểu tượng của sự sống - đã một đi không dễ trở lại. Có điều, sự “dửng dưng”
đó dẫu sao cũng chỉ là một khiếm khuyết, một cái thiếu trong nội tâm con
người - cũng hệt như kiểu một đôi tay thiếu đi sự nhạy cảm âm nhạc, đôi mắt
lạnh lùng trước đường nét sắc màu hội họa. Nó là sự đơn điệu nhưng vô can,
không gây tác hại trực tiếp cho ai. Rồi từ sự cảm nhận về mùa xuân của bản
thân mình, nhà thơ chiếu ứng và đặt câu hỏi về thái độ con người trước mùa
xuân:

Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm,

Những lệ xuân qua tuổi tác thêm.

Chẳng thấy ngoài hiên tơ liễu rủ?

Một phen liễu rủ một phen mềm.

(Thơ tiếc cảnh - bài 7)

Như vậy là cái đẹp của mùa xuân một mặt do thái độ con người quyết
định nhưng đồng thời nó còn là cái đẹp khách quan, tự thân. Việc thấy hay
không thấy cái đẹp của “tơ liễu rủ” chỉ còn tùy thuộc vào tâm hồn và khả năng
cảm nhận, khả năng chiếm hữu nghệ thuật với đối tượng kia mà thôi. Còn đối
với nhà thơ thì không thể cầm lòng được “Một phen liễu rủ một phen mềm”.

Cũng không phải ngẫu nhiên mà trong phần Thơ tiếc cảnh, Nguyễn Trãi
lại dành khá nhiều bài để nói về niềm tâm sự vừa trân trọng vừa luyến tiếc
thời gian, luyến tiếc tuổi trẻ.

- Tiếc thiếu niên qua lật hẹn lành,

Hoa hoa nguyệt nguyệt luống vô tình.

Biên xanh nỡ phụ cười đầu bạc,

Đầu bạc xưa rày có thuở xanh.

(Thơ tiếc cảnh - bài 4)

- Hỡi kẻ biên xanh chớ phụ người,

Thức xuân kể được mấy phen tươi?

Vỉ thu cho nhẫn đầu nên bạc,

Chưa dễ ai đà ba bảy mươi.

(Thơ tiếc cảnh - bài 5)

- Ba bảy mươi nào luống nhọc thân,


Được thua đã biết sự vân vân.

Chớ cười hiền trước rằng dại,

Cầm duốc chai đêm bởi tiếc xuân.

(Thơ tiếc cảnh - bài 6)

Nhưng ngay cả ở đây nữa, khi đã đến độ tuổi cho phép soi nhìn lại cả
một thời quá khứ. Nguyễn Trãi vẫn tự tin và tự hào về quãng đời “thuở tóc
xanh” của mình. Trong chiều hướng khẳng định cuộc sống, khẳng định bản
lĩnh con người cá nhân, ông già nghệ sĩ Nguyễn Trãi có được cách nói thật ý
vị, tinh tế, hóm hỉnh. Ông già nghệ sĩ ấy đã nói với chàng thiếu niên tóc xanh:
Chớ nên cười ta là kẻ đầu bạc. Ấy thế mà ta, chính ta, đã có một thuở tóc
xanh! Và khi anh đã rõ ta là kẻ tóc bạc thì chính anh cũng cần tự nghĩ về
mình, cần tự biết sợ quy luật phũ phàng của thời gian: mái tóc xanh của anh
sẽ không còn xanh mãi!

***

Không chỉ phong phú trong cách cảm nhận về thời gian, thơ viết về
mùa xuân củá Nguyễn Trãi còn đạt tới sự cô đọng, hàm súc về mặt nội dung.
Cái đẹp của mùa xuân không chỉ là hình thức mà sâu xa hơn, nó gắn liền với
phẩm chất thẩm mỹ cao đẹp, có ý nghĩa thanh lọc tâm hồn con người. Một lần
nữa ông già nghệ sĩ Nguyễn Trãi đã lấy bông mai nở giữa mùa xuân làm biểu
tượng cho cốt cách thanh cao, tuyết đẹp giá trong:

Xuân đến nào hoa chẳng tốt tươi,

Ưa mày vì tiết sạch hơn người.

Gác đông ắt đã từng làm khách,

Há những Bô tiên kết bạn chơi.

(Mai - bài 1)

Kết cấu bài thơ là một điển hình của lối thơ ước lệ, quy phạm vốn rất
phổ biến ở thể Đường luật và nằm trong loại hình tư duy Á Đông giai đoạn cổ
trung đại. Trước hết nhà thơ không thể hiện điều mình muốn nói như một sự
tự biểu hiện, tự giãi bày tâm trạng mà nhằm trình bày đối tượng qua hình ảnh
hoa mai và qua những điển cố xưa cũ. Ở đây Nguyễn Trãi ngợi ca hoa mai
như là tính cách, phẩm chất con người nói chung song dường như nhà nghệ
sĩ già ưu thời mẫn thế ấy cũng ngụ ý kín gửi gắm niềm tâm sự riêng của
mình. Bông mai kia đã từng có thời ở nơi “gác đông” - nơi cửa quan - mà nay
bất đắc dĩ phải lui về làm bạn với lão tiên Lâm Bô (Lâm Bô là một ẩn sĩ đời
Tông, sớm hôm chỉ lấy việc trồng mai và nuôi hạc làm bầu bạn). Hình tượng
bông mai kia thực chất cũng là cuộc đời Nguyễn Trãi đây thôi. Cũng một thời
sông hào hứng với biết bao tin yêu, hy vọng và đến khi tuổi già phải lui về ẩn
ở Côn Sơn, bạn cùng trăng gió, mặt đá rêu phơi, tiếng thông reo vi vút đêm
ngày… Nhưng bài thơ vẫn được con người thời hiện đại ghi nhớ bởi chính ý
nghĩa thanh lọc của hình tượng nghệ thuật đã được chiếm hữu: hình ảnh cây
mai vừa tiêu biểu cho mùa xuân vừa là phẩm chất, cốt cách, sức sống của
con người và cũng là nỗi lòng đầy bi kịch của nhà thơ. Đây là một đặc điểm
làm cho thơ để vịnh mùa xuân của Nguyễn Trãi cổ điển mà vẫn hiện đại, quy
phạm mà vẫn tao nhã, đi sâu vào lòng người.

Cảm quan về mùa xuân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi rõ ràng đã tạo
thành một mạch cảm hứng, một cụm đề tài sâu sắc, phong phú. Mùa xuân ấy
đồng nghĩa với vẻ tươi mới của đất trời, vẻ đẹp của bông hoa và với một thời
trẻ trung của đời người. Cảm quan ấy đã tạo nên một hệ thông các từ chỉ
mùa xuân và tính từ cảm thán, nuối tiếc mùa xuân, nuối tiếc tuổi trẻ: Tin xuân,
thức xuân, cầm xuân, tiếc xuân, tiếc cảnh xuân, và những biên xanh (mái tóc
xanh), tiếc thiếu niên, tiếc thiếu niên qua… Thật không phải ngẫu nhiên mà
các từ diễn tả mùa xuân và sự bộc lộ tâm trạng con người trước mùa xuân lại
xuất hiện với tần số cao đến thế. Thực hiện một phép so sánh ta sẽ thấy rằng
nếu thơ đề vịnh mùa xuân chiếm vị trí tuyệt đối trong thơ quốc âm thì tình
hình lại diễn ra khác hẳn ở bộ phận thơ chữ Hán cũng của chính Nguyễn Trãi.
Khảo sát Ức Trai thi tập ta nhận thấy trong khi chỉ có ba bài tả cảnh mùa
xuân: Thanh minh (Tiết thanh minh), Mộ xuân tức sự (Cuối xuân tức cảnh),
Trại đầu xuân độ (Bến đò xuân đầu trại) thì những bài thơ diễn tả tâm trạng
con người cá nhân trước mùa thu - mùa của những buổi chiều hắt hiu vắng
lặng, mùa rơi rụng của lá vàng đối lập với mùa xuân - lại xuất hiện với số
lượng vượt hẳn lên: Thôn xá thu châm (Tiếng đập vải mùa thu nơi thôn xóm),
Thu dạ khách cảm (Đêm thu khách cảm), Thu dạ dữ Hoàng Giang Nguyễn
Nhược Thủy đồng phú (Đêm thu cùng ngâm với Hoàng Giang Nguyễn Ngược
Thủy), Thu nguyệt ngẫu thành (Trăng thu ngẫu nhiên làm), Thu nhật ngẫu
thành (Ngày thu ngẫu nhiên làm)… Điều này có nghĩa là chỉ với thơ quốc âm,
với thứ chữ Nôm – thứ tiếng nói của tâm hồn dân tộc - thì Nguyễn Trãi mới có
điều kiện cảm nhận và diễn đạt được toàn bộ ý tưởng của mình trước cuộc
sống và cảnh đẹp của mùa xuân đất Việt.

***

Trong một bài thơ ngợi ca Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân viết:

Hoàng các thanh phong ngọc thự tiên,

Kinh bang hoa quốc cổ vô tiền.

(Tặng Giám nghị đại phu Nguyễn công)

(Gió thanh hây hẩy gác vàng, người như một ông tiên ở trong tòa
ngọc,

Cái tài làm hay làm đẹp cho nước, từ xưa chưa có bao giờ)

Cái tài của Nguyễn Trãi chúng ta đã được biết. Còn cái hay, cái ý thanh
cao của tâm hồn Nguyễn Trãi, chúng ta phải tiếp tục đi sâu tìm hiểu mới
mong phần nào hiểu được tấm lòng nhiều tin yêu mà cũng lắm trăn trở suy tư
ấy. Ngày nay đọc lại thơ xuân Nguyễn Trãi, chúng ta thưởng thức cái tài của
văn chương Nguyễn Trãi, ngưỡng mộ tinh thần nhân bản và niềm khát khao
đến vô cùng vô tận về tình yêu cuộc sống, tình yêu mùa xuân đất nước và
mùa xuân ở mỗi tâm hồn người.

(Theo Nguyễn Trãi, về tác gia và tác phẩm-


Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu)
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999)
Phần ba. CÁC BÀI PHÂN TÍCH, BÌNH GIẢNG THƠ VĂN NGUYỄN
TRÃI
THUẬT HỨNG XXIV

Trần Thị Thìn

Nguyễn Trãi là người anh hùng văn võ song toàn. Tên tuổi của ông mãi
mãi sáng ngời trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Những đóng góp to lớn trên các lĩnh vực chính trị, quân sự ngoại giao và văn
chương nghệ thuật… cùng với quan điểm sống tích cực, cao quý của ông đã
đưa ông lên tới tột đỉnh vinh quang. Cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Trãi chứa
đựng những bài học có ý nghĩa giáo dục sâu sắc.

Sau gần một đời phấn đấu, cống hiến cho dân, cho nước, Nguyễn Trãi
lui về chôn làng quê, vui với cuộc sống thanh nhàn; hòa hợp, gắn bó với thiên
nhiên tươi đẹp, an lành. Trong tâm trạng tưởng như không vướng bận những
éo le của cuộc đời trần tục, ông đã sáng tác bài thơ Thuật hứng XXIV.

Bài thơ thể hiện niềm vui của một triều quan được xa lánh chốn công
danh đầy cay đắng; được tự do, vui hưởng tuổi già an nhàn giữa làng quê
trong cảnh ương sen, thả muống, gió mát, trăng thanh… nhưng lúc nào cũng
đau đáu một tấm lòng son trung, hiếu.

Qua bài thơ, trước hết tác giả muốn bộc lộ tâm sự và thể hiện quan
niệm sống của mình. Có thể coi quan niệm ấy xuất phát từ nguồn gốc là lẽ
xuất xứ của nhà Nho thời xưa. Theo lẽ này thì đấng nam nhi, bậc trượng phu
phải có nghĩa vụ ra giúp vua, giúp nước và lập công danh. Trong điều kiện bất
đắc chí (có nhiều lí do, song chủ yếu là vì bất mãn với chính sách của nhà
vua) thì có thể cáo quan lui về quê cũ, ở ẩn lánh đời, mong gìn giữ danh tiết
trong sạch. Hoặc giả ngay từ đầu, thấy triều đình rối ren, nếu mình có ra với
đời (xuất) cũng chẳng ích chi, thì thà cứ ở ẩn nơi thôn dã (xử) để sống an
nhàn, thanh bạch (an bần lạc đạo).

Công danh đã được hợp về nhàn,

Lành dữ âu chi thế nghị khen.


Hai câu đề, lời thơ tự tình mà như một thứ tuyên ngôn nhẹ nhàng, thầm
lặng: khi công danh đã thành đạt thì hãy về nghỉ để hưởng nhàn, không quan
tâm đến sự khen chê của người đời.

Là đệ tử của cửa Khổng sân Trình, tầng lớp Nho sĩ thường theo đuổi lý
tưởng lập chí, lập thân, lập nghiệp; hay nói cách khác là phấn đấu công thành
danh toại để tên tuổi đời đời lưu thơm trong sử sách. Nguyễn Trãi thì khác,
ông nói công danh là không chỉ nói theo cách nghĩ thường tình của người đời
mà quan niệm công danh của Nguyễn Trãi còn gắn với lợi ích quốc gia, dân
tộc, gắn với lý tưởng của mình. Lý tưởng của ông là suốt đời lo cho dân, cho
nước, xây dựng cuộc sống của nhân dân thành một đài xuân tốt đẹp, luôn
tràn đầy niềm vui và hạnh phúc như mùa xuân; chứ ông không hề tính đến
công và danh, đến quyền lợi cá nhân nhỏ hẹp. Nguyễn Trãi thường coi mình
là bạn thân của thiên nhiên, suối rừng (Núi láng giềng, chim bầu bạn. Mây
khách khứa, nguyệt anh tam). Xa nó, ông coi mình như là kẻ phản bội.

Cả cuộc đời Nguyễn Trãi cho ta thấy cái tâm của ông trong sáng vàng
vặc tựa sao Khuê. Không một chút tham vọng nào có thể làm vẩn đục được
nhân cách cao khiết ấy.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, Nguyễn Trãi dốc
hết nhiệt tình và tài năng để cứu nước, cứu dân. Ông được Lê Lợi coi là mưu
thần số một, là cánh tay phải đắc lực. Đất nước sạch bóng quân thù, Nguyễn
Trãi mong được hiến cho vua Lê những sách lược, mưu kê sáng suốt để trị
quôc, an dân, sao cho người người đều no ấm, để chốn thôn cùng xóm vắng
không còn tiếng hờn giận oán sầu. Trớ trêu thay! Nguyện vọng cao cả ấy nào
được thực hiện! Chẳng những thế, ông còn suýt bị mất đầu. Không chết
nhưng rơi vào tình cảnh quan lạnh, nghĩa là vẫn giữ chức quan nhưng chẳng
được làm theo ý mình mong ước. Tuy vậy, theo quan niệm thường tình thì
công và danh để giúp sự nghiệp đuổi giặc cứu nước, lo dân… ông cũng đã
thực hiện như bao kẻ khác. Như vậy, có thể nói Công danh đã được, nghĩa là
đã xứng đáng, không có điều gì phải quá băn khoăn. Và người quân tử, bậc
trượng phu ấy giờ đây đã có thể coi chữ nhàn là hợp.
Dường như Nguyễn Trãi cứ đơn độc mà đi giữa cuộc đời với một niềm
tin son sắt: Lành dữ âu chi thế nghị khen. Chính vì chữ danh gắn với chữ lợi
chung của đất nước, không màng lợi ích riêng cho mình nên Nguyễn Trãi về
nhàn chỉ là thay đổi cuộc sống chứ không thay đổi cách sống. Sự chuyển dịch
ấy có vẻ nhẹ tênh, thách thức, đối mặt với mọi lành dữ của thói đời. Đúng ra,
chữ nhàn của Nguyễn Trãi vẫn còn khắc khoải một nỗi ưu tư không nhỏ với
hai chữ hiếu, trung.

Giữa chốn cửa quyền hiểm hóc (chữ dùng của Nguyễn Trãi), hay chốn
phồn hoa đô hội, làm sao có thể sống một cuộc sống an nhàn? Chỉ ở nơi thôn
dã điền viên với khung cảnh thiên nhiên tươi mát, hữu mát, hữu tình, với con
người thật thà chất phác mới đem lại sự bình yên cho một tâm hồn, một cuộc
đời đã trải qua nhiều phong ba, bão tố như Nguyễn Trãi, ông tạm biệt kinh kỳ
Thăng Long, lui về Côn Sơn ở ẩn, làm bạn với chim muông, hoa cỏ, san sẻ
vui buồn với những người áo vải chân quê. Vị đại thần xưa giờ đây nào có
khác chi một lão nông cần mẫn với công việc ruộng vườn.

Hai câu thực đã miêu tả được đỉnh cao của cái thú nhàn:

Ao cạn vớt bèo cấy muống,

Đìa thanh phát cỏ ương sen.

Hai câu thơ sáu chữ với nhịp 2/ 2/ 2 chậm rãi tạo nên âm hưởng thênh
thênh như lòng người ung dung, tự tại, hiểu mình và hiểu công việc mình làm;
cao hơn nữa là nắm bắt được quy luật của thiên nhiên.

Ao cạn, bèo hạ xuống, nước lấp xấp mặt bùn, đó là lúc vớt bèo tấp vào
bờ và cấy những cọng muống xuống, để lâu nữa bùn khô không cấy được.
Ao cạn (thì ta) vớt bèo cấy muống. Đó cũng là một thời cơ nảy sinh trong quy
luật vận hành của đất trời. Đìa thanh (thì ta) phát cỏ ương sen, cũng là một
thời cơ như thế. Nguyễn Trãi nắm vững và làm chủ được quy luật nên ông
càng thấy mình tự do, thanh thản, vui thích ngay trong những công việc lao
động, giản dị, bình thường ấy. Thêm nữa, cấy muống để lấy rau ăn, phục vụ
cho cuộc sống đạm bạc hằng ngày; bên cạnh đó, không quên phát cỏ ương
sen để thỏa thú vui tinh thần thanh cao vốn có. Đó là chất thực và chất thơ
hòa quyện làm một trong cuộc sống nhàn của thi nhân.

Ở một bài thơ khác cùng sáng tác vào thời gian này, Nguyễn Trãi có
viết: Ao quan thả gửi hai bè muống, Đất Bụt ươm nhờ một luống mùng. Kết
hợp với hai câu luận: Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc, Thuyền chở yên hà
nặng vạy then của bài thơ Thuật hứng này, ta sẽ hình dung ra cuộc sống hết
sức thanh bần của ông. Điều thú vị là ông chẳng những không bận lòng về sự
nghèo nàn, thiếu thốn mà ngược lại, ông thi vị hóa nó và biến nó thành một tài
sản vô giá ít ai có được. Kho của ông không chứa thóc lúa, bạc vàng mà chất
đầy trăng gió (phong nguyệt); còn con thuyền thì chở nặng sương khói và
ráng trời (yên hà).

Có ai để ý chăng! Đâu chỉ có thu đầy và chở nặng mà còn đầy qua nóc
và nặng vạy then kia! Trăng gió mà thu được và chất vào kho chẳng khác gì
lúa gạo, khoai sắn… đã là chuyện lạ, còn chất cao vượt qua nóc thì quả là
quá lạ! Khói và ráng mà cũng dồn được, gom được và chở bằng thuyền đã là
kỳ, còn chở nặng đến vạy then thì thật quá kỳ!

Gió mát, trăng thanh, khói lam trên sông, ráng đỏ chiều tà là vẻ đẹp của
đất trời, chung cho mọi người. Nói kiểu lạ như thế. cường điệu lên như thế là
nhà thơ đã có ý biến nó thành của cải vật chất nhiều vô cùng tận, khiến ông
trở thành “giàu có” nhất trên đời. Thật ra đó là thứ của cải tinh thần mà chỉ có
những người có tấm lòng, tâm hồn gắn bó tha thiết với thiên nhiên và dạt dào
thi hứng như Nguyễn Trãi mới cảm nhận được.

Hai câu thơ ẩn chứa niềm tự hào, thấp thoáng nụ cười và ánh mắt hóm
hỉnh của thi nhân khi nói về sự “giàu có” đặc biệt của mình, dẫu ngàn vàng
cũng không đổi được.

Cả sáu câu thơ đều chung một nhịp điệu, âm hưởng thênh thênh như
lòng người thoát tục, nhưng đến hai câu kết đã có sự thay đổi rõ rệt. Nhịp thơ
chậm hẳn lại, cảm xúc dồn nén, xoáy sâu như một lời tâm sự lắng đọng, thiết
tha:
Bui có một lòng trung lẫn hiếu,

Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.

Vậy là đã rõ. Dẫu cho thân đã nhàn mà tâm của con người suốt đời lo
dân lo nước như Nguyễn Trãi vẫn không nhàn nhã, thảnh thơi. Vẫn một nỗi
niềm trung hiếu canh cánh không nguôi. Một lần nữa, bậc đại trượng phu bày
tỏ và khẳng định tấm lòng son sắt trước sau như một của mình. Dầu cho bao
thăng trầm, oan trái của cuộc đời, chữ trung, chữ hiếu ấy vẫn đầy đặn và ngời
sáng tựa trăng rằm.

So với các tác giả cùng thời, Nguyễn Trãi có nhiều đổi mới táo bạo
trong sáng tác, trong cách sử dụng linh hoạt thể thơ Đường vốn rất nghiêm
ngặt về niêm, luật mà bài thơ Thuật hứng là một ví dụ chứng minh cho điều
đó. Bên cạnh những câu thơ bảy chữ là những câu sáu chữ thể hiện sự
phóng khoáng, tự nhiên của thi hứng, giúp tác giả thể hiện, bộc lộ đến mức
cao nhất cảm xúc và ý tưởng của mình. Đọc nhiều lần bài thơ này, chúng ta
sẽ hiểu sâu hơn và càng thêm kính phục, yêu mến Nguyễn Trãi - một tâm hồn
rộng mở, một trái tim nhân hậu và một nhân cách lớn lao.

(Trích Những bài văn mẫu lớp 9 –

Trần Thị Thìn - Nxb Trẻ, TPHCM, 1999)

BẠCH ĐẰNG HẢI KHẨU


(CỬA BIỂN BẠCH ĐẰNG)

Nguyễn Đức Quyền

“Cửa biển Bạch Đằng ở sông Thủy Đường là danh thắng núi sông vào
bậc nhất” (lời Nguyễn Trãi). Một vùng sông nước ngút trời, núi non sừng
sững, cửa biển mở ra lồng lộng. Nơi đã ghi dấu những chiến công oanh liệt
của Ngô Quyền thắng quân Nam Hán, Lê Hoàn thắng Tống, Trần Quốc Tuấn
thắng Nguyên Mông.
Nhà thơ Nguyễn Trãi đến cửa biển Bạch Đằng thi hứng trào dâng, ông
đã sáng tác bài thơ “Bạch Đằng hải khẩu” (Cửa biển Bạch Đằng) hào khí
ngùn ngụt:

“Biển rung gió bấc thế bừng bừng,

Nhẹ cất buồm tha lướt Bạch Đằng.

Kình ngạc băm vàm non mấy khúc,

Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng.

Quan hà hiểm yếu trời kia đặt

Hào kiệt công danh đất ấy từng.

Việc trước quay đầu ôi đã vắng

Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng…”

Sức hấp dẫn của “Cửa biển Bạch Đằng” trước tiên là ở không gian,
sông rộng, cửa biển mở ra bát ngát, gió biển lùa vào cửa sông, sóng lớn. Nhà
thơ dong buồm dạo chơi trên cửa sông Bạch Đằng:

“Biển rung gió bấc thế bừng bừng

Nhẹ cất buồm thơ lướt Bạch Đàng.”

Hình ảnh cánh buồm của nhà thơ kéo lên là nét cuối cùng hoàn mỹ bức
tranh “Cửa biển Bạch Đằng”. Cảnh vừa hùng vĩ với núi non, sông nước, cửa
biển, vừa thơ mộng với hình ảnh mong manh của cánh buồm trước gió. Nhà
thơ không nói lộ ra như Cao Bá Quát “núi non đã kỳ tuyệt, lại thêm ta đến
đây”, nhưng từng chi tiết, từng hình ảnh thơ khiến cho người đọc nghĩ đến lời
của họ Cao.

Dạo thuyền trên sông nước, nhà thơ quan sát quang cảnh Bạch Đằng.
Nhìn vào đâu nhà thơ cũng thấy dấu ấn của lịch sử:

“Kình ngạc băm vàm non mấy khúc,

Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng.”


Những hình ảnh ẩn dụ “Kình-ngạc băm vằm” vừa miêu tả được cảnh
núi non hiểm trở vừa gợi lại những chiến tích chống xâm lăng của cha ông
xưa. Quang cảnh như một bãi chiến trường với “Giáo gươm chìm gãy bãi bao
tầng”. Hình tượng thơ xứng với hào khí của người xưa, bộc lộ được niềm tự
hào của tác giả đối với chiến tích Bạch Đằng.

Chuyển sang hai câu luận (5,6), tác giả suy tưởng về địa thế hiểm trở
của núi non, về anh hùng hào kiệt của sông nước Bạch Đằng:

“Quan hà hiểm yếu trời kia đặt

Hào kiệt công danh đất ấy từng.”

Từ “hiểm yếu” dịch thoát mà hay. Trong nguyên bản chữ Hán là “bách
nhị”, tác giả dùng chữ của Tư Mã Thiên khen địa thế của nước Tần là “bách
nhị”, nghĩa là địa thế hiểm trở, quân ít có thể chống lại kẻ địch nhiều (hai
người có thể địch nổi trăm người). Tác giả còn suy tưởng một cách thiêng
liêng:

“Quan hà hiểm yếu trời kia đặt”

Trong văn chương mỗi khi hình ảnh trời xuất hiện đều tạo ra không khí
thiêng liêng. Trong bài “Nam quốc sơn hà”, Lý Thường Kiệt cũng viết:

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”

(Núi sông nước Nam vua Nam ở,

Cương giới đã ghi rõ trong sách Trời)

“Quan hà bách nhị do thiên thiết” này gắn liền với những anh hùng hào
kiệt như Ngô Quyền (diệt quân Nam Hán t.k. IX), Trần Hưng Đạo (diệt quân
Nguyên t.k. XIII). Từng chữ thơ thấm đẫm tinh thần tự hào của tác giả về non
nước, về những bậc anh hùng hào kiệt đã có những chiến công lẫy lừng bảo
vệ đất nước.

Từ cảm hứng lịch sử với giọng thơ hào hùng, nhà thơ chuyển sang
dòng cảm nghĩ về thế sự với giọng bùi ngùi:
“Việc trước quay đầu ôi đã vắng

Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng…”

Tâm trạng của nhà thơ được thể hiện một cách kín đáo nhưng cũng
không giấu được sự thất vọng của nhà thơ đối với xã hội bấy giờ. Theo ông,
những chiến công oanh liệt bảo vệ đất nước của cha ông, những anh hùng
hào kiệt chỉ còn là chuyện cũ, chuyện của lịch sử. Còn thời đại của nhà thơ
đang sống?. Một thời đại khởi đầu thật là oanh liệt, nhưng giờ đây chỉ còn
một lũ quan bất tài, xiểm nịnh, ghen ghét người trung nghĩa. Nhà thơ viếng
cảnh sông Bạch Đằng lòng bồi hồi khôn xiết:

“Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng…”

Nhiều nhà thơ đã đến cửa biển Bạch Đẳng lịch sử và đều có thơ để lại,
nhưng có lẽ bài thơ “Bạch Đằng hải khẩu” (Cửa biển Bạch Đằng) của Nguyễn
Trãi là bài thơ hay hơn cả. Quang cảnh Bạch Đằng được miêu tả vừa thơ
mộng, vừa hùng vĩ, tráng lệ. Những chiến tích của Bạch Đằng vừa là của anh
hùng hào kiệt lại vừa là của khí thiêng sông núi. Cảm hứng lịch sử hòa quyện
với cảm hứng thế sự khiến cho từng câu thơ có sự xôn xao ở bên trong và
rung động lòng người đọc.

(Trích 36 bài văn bình giảng - Nguyễn Đức Quyền -


NXB Trẻ, TPHCM, 1996)

BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO


(ĐẠI CÁO BÌNH NGÔ)

Mai Quốc Liên

I. GIỚI THIỆU

1. Hoàn cảnh ra đời

Sau khi quân Minh bị đánh đuổi khỏi nước ta, đầu năm 1428, Nguyễn
Trãi vâng lệnh Lê Lợi viết bài cáo này để công bố trước toàn dân.

2. Thể loại
Thể cáo, được viết theo lối văn biền ngẫu, thuộc loại văn chính luận, có
mục đích tuyên bố, tuyên ngôn.

3. Bố cục

(1) Nêu chính nghĩa của cuộc kháng chiến.

(2) Tố cáo tội ác của giặc.

(3) Lược thuật quá trình kháng chiến:

- Buổi đầu gian khổ.

- Chiến thắng vang dội.

(4) Tuyên bố hòa bình độc lập.

4. Đại ý

Nêu lập trường chính nghĩa, tổng kết cuộc kháng chiến chống quân
Minh vô cùng gian khổ nhưng thắng lợi vẻ vang, mở ra một kỷ nguyên mới
cho nước nhà.

5. Chủ đề

Ca ngợi tinh thần độc lập tự cường, niềm tự hào dân tộc trước thắng lợi
vẻ vang của nhân dân ta trong cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc.

II. PHÂN TÍCH

A. Nêu chính nghĩa của cuộc kháng chiến

Lập luận chặt chẽ, từng đôi vế câu biền ngẫu đối nhau thật chỉnh, giọng
văn hùng hồn, đoạn đầu của bài cáo toát lên niềm tự hào dân tộc, tư tưởng
nhân nghĩa và tư tưởng bình đẳng dân tộc.

1. Tư tưởng nhân nghĩa

- Nhân thể hiện bởi hành động chăm lo đời sống nhân dân được an vui;
nghĩa thể hiện bàng hành động diệt lũ bạo ngược để an dân:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân;

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.


- Tư tưởng nhân nghĩa ở đây có thể được tóm tắt: xuất phát từ (tư
tưởng) nhân nghĩa, ta nhắm (mục đích) yên dân, vì muôn yên dân, ta phải
(hành động) trừ bạo. Cho nên thực hiện việc nhân nghĩa cốt nhằm mục đích
duy nhất là làm cho nhân dân được sống an vui hạnh phúc. Vì thương dân
(điếu) đang bị giặc dày xéo mà ta khởi binh đánh dẹp (phạt) để diệt (trừ) lũ
hung bạo (bạo).

2. Tư tưởng bình đẳng dân tộc

- Thể hiện tư cách độc lập dân tộc của nước ta đối với Trung Quốc.

- Khẳng định sự bình đẳng dân tộc của một đất nước có nền văn hiến
lâu đời, có truyền thống bất khuất chống xâm lược:

Nước Đại Việt ta từ trước

……

Song hào kiệt đời nào củng có.

- Dẫn chứng bằng những chiến thắng vẻ vang trong lịch sử chống
ngoại xâm của dân tộc ta:

Lưu Cung tham công nên thất bại;

……

Sông Bạch Đàng giết tươi Ô Mã.

B. Tố cáo tội ác của giặc

1. Kể tội ác của giặc Minh xâm lược

- Lừa dối nhân dân dưới chiêu bài “phù Trần diệt Hồ”:

Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa;

- Bóc lột thuế khóa nặng nề:

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.

- Đày đọa phu dịch:

Nặng nề những nỗi phu phen;


- Bắt dâng nạp của quý:

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập,


thuồng luồng;

Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

- Phá hoại đời sống nhân dân:

Tan tác cả nghề canh cửi.

- Khủng bố, tàn sát dã man:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn;

- Cuối cùng, tổng kết tội ác của giặc:

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội;

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi.

2. Thái độ căm thù

- Miêu tả quân giặc như một bầy dã thú:

Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,

- Lên án chúng:

Lẽ nào trời đất dung tha;

Ai bảo thần dân chịu được.

3. Lập trường tố cáo

Tố cáo tội ác của giặc trên lập trường nhân dân - những người lao
động bình thường: dân đen, con đỏ, phu phen, canh cửi…

C. Lược thuật quá trình kháng chiến

1. Buổi đầu gian khổ

(1) Phẩm chất của người lãnh đạo:

- Căm thù giặc sâu sắc:


Ngẫm thù lớn há đội trời chung,

Căm giận nước thề không cùng sống.

- Tận tâm tận lực suy tính đại sự: nếm mật, nằm gai, trằn trọc, băn
khoăn, phần thì giận, phần thì lo…

(2) Những khó khăn, gian khổ của buổi đầu cuộc khởi nghĩa:

- Binh lực yếu kém, có khi lương cạn, quân tan:

Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,

Khi Khôi Huyện quân không một đội.

- Nhân tài hiếm hoi:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

Nhân tài như lá mùa thu.

(3) Phương lược chiến đấu:

- Chiến lược kháng chiến trường kỳ, đoàn kết quân dân:

Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới,
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.

- Chiến thuật du kích, chú trọng mưu cơ hơn là binh lực:

Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

2. Chiến thắng vang dội

(1) Quá trình phản công rồi tiến công giặc gồm hai đợt:

(a) từ Thanh Nghệ đánh ra, bao vây Đông Quan,

(b) tiêu diệt viện quân Liễu Thăng, Mộc Thạnh và Vương Thông phải
cầu hòa.

- Ta quyết tâm:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,


Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Cho nên trong đợt phản công, ta sĩ khí đã hăng, quân thanh càng
mạnh, còn giặc mất vía, nín thở, ta hăng lại càng hăng, còn giặc thì trí cùng
lực kiệt, ta mưu phạt tâm công, còn giặc thì thay lòng đổi dạ.

- Đợt tiến công càng tỏ rõ thế tất thắng của nghĩa quân: gươm mài đá,
voi uống nước, nổi gió to, thông tổ kiến, ào ạt đến núi cũng mòn, sông phải
cạn. Còn giặc hiện rõ thế bại vong: chủ tướng thất thế cụt đầu, tướng lãnh tử
vong tự vẫn, tạ tội, xin hàng… ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc, về đến
nước mà vẫn tim đập chân run.

- Đoạn văn đã diễn tả những chiến thắng lừng lẫy, liên tục với khí thế
vũ bão của nghĩa quân: Đợt phản công với chiến trận: Bồ Đằng, Trà Lân, Tây
Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều, Tốt Động… Chiến thắng ngày càng dồn dập, vang
dội: Chi Lăng, Mã Yên, Lạng Giang, Lạng Sơn, Xương Giang, Bình Than, Lê
Hoa, Cần Trạm, Đan Xá.

- Câu văn biền ngẫu ngắn gọn, từng vế đối nhau chan chát, điệu văn
gấp, tả cảnh xung sát dũng mãnh của nghĩa quân. Nhiều thành ngữ gợi hình
ảnh được sử dụng, lối so sánh cường điệu nhấn mạnh bản chất của sự
kiện… Tất cả đã tạo thành một bức tranh chiến trận hào hùng và cực kỳ sinh
động.

(2) Giặc thất bại thảm hại: sạch không kình ngạc, tan tác chim muông,
sạch lá khô, toang đê vỡ…

- Giặc tử vong nhiều không đếm xuể: máu chảv thành sông, thây chất
đầy nội, thây chết đầy đường, máu trôi đỏ nước…

- Tướng giặc chạy trốn thục mạng hoặc đầu hàng nhục nhã. Hình ảnh
bọn giặc:

Trần Tri, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,

Lý An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân.


Hoặc chúng đã phải bêu đầu, cũng đành bỏ mạng hoặc lê gối trói tay,
hoặc sợ bóng mà vỡ mật, xéo lên nhau để chạy thoát thân, hoặc như hổ đói
vẫy đuôi xin cứu mạng… đã trở thành những bức tranh ngàn đời bêu riếu bộ
mặt đê hèn của bọn xâm lược.

- Đoạn văn còn thể hiện thái độ sảng khoái đến cao độ, khi tường thuật
những chiến công lẫy lừng của ta, khi miệt thị giặc, kể cả bọn vua quan nhà
Minh, thằng nhãi con Tuyên Đức, đồ nhút nhát Thạnh, Thăng…

(3) Với tinh thần nhân đạo (thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh) và duy
trì hòa bình lâu dài (để nhân dân nghỉ sức), sau khi uy thế quân sự của giặc bị
đập tan (họ đã tham sống sợ chết, mà hòa hiếu thực lòng) ta đã tha chết và
cho chúng về nước. Tiết tấu từng vế câu biền ngẫu toát lên tinh thần đại
nghĩa chí nhân, tầm nhìn chính trị và phong thái đường hoàng của người
chiến thắng.

D. Tuyên bố hòa bình, độc lập

Đã chấm dứt một giai đoạn chiến tranh và mở ra một thời kỳ thanh
bình, xây dựng đất nước:

Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm,

Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn,

Nhịp điệu câu văn trở nên khoan thai, diễn tả tâm trạng sảng khoái, tự
hào.

III. KẾT LUẬN

Bình Ngô đại cáo đã thể hiện trọn vẹn truyền thống bất khuất chống
xâm lược, tinh thần anh dũng quyết chiến, quyết thắng giặc ngoại xâm của
dân tộc ta. Nội dung này được thể hiện bằng nghệ thuật diễn đạt thật đặc sắc:
bố cục logic theo quan hệ nhân quả, yếu tố trữ tình phát triển cao thành hơi
văn của sử thi, văn pháp điêu luyện, giàu hình tượng, đầy sức biểu cảm.

Bình Ngô đại cáo xứng đáng là một “thiên cổ hùng văn”, được xem là
một bản tuyên ngôn độc lập của nước ta.
LỜI BÌNH LUẬN

Trước hết, chính bão táp chiến đấu của toàn dân tộc, của khởi nghĩa
Lam Sơn mà Nguyễn Trãi là người ở trung tâm cơn bão táp, đã đem lại
nguồn cảm hứng lớn lao cho Nguyễn Trãi… Có cảm tưởng là lúc viết Bình
Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã sống lại trong những giờ phút dạt dào cảm hứng
ấy toàn bộ cuộc chiến đấu đã qua và nhờ nó mà cảm hứng của ông đã như
một cánh chim đại bàng bay lên cao mãi trên ngọn gió lớn của thời đại.

… Bình Ngô đại cáo là một văn bản tổng kết chiến tranh, và sự tổng kết
ở đây thật là độc đáo… Nghệ thuật miêu tả chiến tranh của Nguyễn Trãi cũng
thật là độc đáo. Với một số phương tiện ngôn từ tiết kiệm đến mức tối đa (bài
văn gồm 1343 chữ), Nguyễn Trãi đã làm việc thu nhỏ lại toàn cảnh một cuộc
chiến tranh rộng lớn và vô cùng phức tạp mà người đọc vẫn thấy chu tất, tỉ
mỉ, có cân nhắc… Nghệ thuật miêu tả các trận đánh cũng rất đa dạng, biến
hóa.

Một trong những đặc điểm về mặt kết cấu nghệ thuật của Bình Ngô đại
cáo là nó có một kết cấu bề sâu theo hai tuyến ta - địch. Đây là tuyến đối lập
trong thực tiễn được phản ánh vào trong tư duy nghệ thuật của Nguyễn Trãi
và được biểu hiện thành hình tượng.

… Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của áng văn này là nhịp điệu
của nó. Nhịp điệu hùng văn. Nhịp điệu của sử thi kết hợp với nhịp điệu trữ
tình… Bình Ngô đại cáo là một bài thơ văn xuôi… Nhịp điệu bài văn nổi lên
mạnh mẽ hào sảng, ngay từ đầu và cứ thế, như những đợt sóng dồn dập, liên
tiếp nhau, gối đầu lên nhau cho đến cuối bài.

(Trích Học tốt Văn học 10 - Nguyễn Thị Kim Dung,


Lê Minh Thanh, Nguyễn Thị Bích Hòa - NXBTrẻ, TPHCM, 2000)

BẢO KÍNH CẢNH GIỚI 43


(CẢNH TÌNH MÙA HÈ)
Lê Trí Viễn

Câu thơ mở đầu nghe rất lạ:

Rỗi, hóng mát, thuở ngày trường.

Lạ âm điệu: câu 7 chữ thể này (thể cách luật) kết cấu với nhịp 4/3 hoặc
2/2/3; đây là câu 6 chữ, dạng đã ngang ngang, bương bướng, nhịp lại kỳ:
1/2/3. Ông nhà thơ đặt chữ “rỗi” một mình ra như vậy chắc không phải là vô
cớ. Cảnh sống của ông đấy: ông rỗi. Tâm trạng của ông đây: có gì như mỉm
cười, yên mà không yên, như mặt nước phẳng sóng nhíu lên một tý rồi im trở
lại. Đó là tâm trạng ông những năm phải về nghỉ ở Côn Sơn. Con người ông
đâu có ưa cái rỗi trống lộng, rỗi chỉ có rỗi! Rỗi của ông là sau đậm đặc công
việc, ngay trong công việc. Chứ đâu có cái kiểu chỉ mỗi việc “hóng mát, thuở
ngày trường”, hóng mát dài dài, dù hè cần được mát và ngày hè không ngắn.
Nói vậy, nhưng với bản lĩnh “không vào cảnh nào mà không vững” (vô nhập
nhi bất tự đắc), ông vẫn vui với hè. Cũng là một thứ lạ: xưa, thơ thích xuân,
mến thu chứ mấy nơi đoái hoài tới hè!

Quả nhiên hè của ông cũng có các “đắc”, “cái được” thật. Đẹp hẳn hoi.
Đẹp lành và mạnh. Lại là cái nhìn tình, sắc, cái nhìn rất hiện đại, ra ngoài
phép tắc cổ điển.

Hòe lục đùn đùn tán rợp trương.

Hòe lục, tán rạp là trong lề lối, đùn đùn là vọt ra ngoài; chất miêu tả
khiến nghe như sức mạnh trong cây đang đùn nhau mà phun lên, phụt lên,
mà từng làn, từng khối; nghĩa và âm thanh đều dữ dội như nhau. Nếu như với
nghĩa ngày nay thì đùn đùn quả là hiện đại, ngang, thô nhưng chính xác, đầy
chất sống.

Đọc các câu 3, 4 của bài thơ thế nào cho đúng với ý ông nhà thơ nhỉ?
Có kẻ đọc:

Thạch lựu hiên / còn phun thức đỏ,

Hồng liên trì / đã tịn mùi hương.


Lý lẽ nêu ra là theo kết cấu Hán. Nhưng sao nghe cọc cạch thế? Ngắt
nhịp như thế này có hợp hơn không?

Thạch lựu / hiên còn phun thức đỏ,

Hồng liên trì / đã tịn mùi hương.

Nhiều khả năng là hợp với hồn và tài ông nhà thơ hơn. Thức đỏ là của
hoa lựu, thạch lựu là trồng ở hiên, đành thế. Nhưng để cái hiên nó phun thì có
mất gì? Hiên vẫn là hiên trồng thạch lựu, hiên và lựu nhập vào nhau thành
một chất thì hiên vôi trắng mà phun ra thức đỏ, gạch đá mà nở hoa, cảnh đó
vẫn hợp với thực tế và “thơ” biết bao nhiêu!, Nguyễn Trãi biết bao nhiêu!
Chẳng xa lạ chút nào với hồi và tài:

Hái cúc ương lan hương bén áo,

Tìm mai đạp nguyệt tuyết xâm khăn…

Hiểu “hiên phun” như thế thì “trì tịn” cũng không khác.

Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.

Cũng mạch thơ không tránh cái đời thường, cái thô, trái với khuôn phép
thơ xưa. Ở hai câu thơ này, ngòi bút càng chẳng sợ mùi chợ cá, mùi không
chỉ ở cá mà ở cả người đánh cá, bán cá, cũng chẳng kể gì cái ra rả, điếc tai
của tiếng ve. Trái lại, thấy vui, thích cái lao xao ở chợ đó, lao xao chen chúc,
lao xao trả giá, chịu giá, lao xao trong tanh tưởi, và dân chài trở thành lớp
người bậc trên: ngư phủ, một danh từ thơ, trân trọng. Cũng vui thích với cái
dắng dỏi của ve, toàn giọng kim (loại ve kim) rít lên, từng hồi, không dứt,
không phải của ve góc bụi, bờ giậu mà ở lầu cao nhạt nắng tà, lầu tịch
dương.

Không phải quý tộc hóa cổ điển. Đó là cái trân trọng, cái “được” thoang
thoảng một chất vui nhân hậu xuất phát từ cái “tâm” lớn của ông nhà thơ vốn
quý mến cái dân dã quê mùa.
Không phải chỉ có nhân hậu. Người ta không quên ngư phủ ở đây mà
chỗ khác ông gọi là thằng chài cũng như những cam, những quít, những nô
bộc quê mùa, dân dã này đã từng có mặt trong hàng ngũ “manh lệ bốn
phương tập hợp” và đã làm nên những Bồ Đằng, Trà Lân, Ninh Kiều, Tốt
Động mà mọi kẻ “ăn lộc” ngày nay phải “đền ơn”. Còn tiếng ve kia có gì mà
cũng trân trọng! Giáo sư nhạc sĩ Tô Vũ nói: “Nguyễn Trãi có câu thơ Thiền
thanh cung chủy tấu Ngu cầm (Tiếng ve tấu phím cung chủy trên đàn vua
Thuấn đời Ngu). Ở đất nước Việt Nam, con ve sầu kim (loại ve nhỏ màu
xanh) phát âm cao hơn con ve sầu thường (loại ve to màu nâu)… Phải chăng
loại ve ở ta phát ra khoảng âm cung - chủy?… Dù sao, nói như các nhà
chuyên môn âm nhạc bây giờ thì rõ ràng Nguyễn Trãi có lỗ tai âm nhạc tinh vi
và độc đáo” (Kỷ niệm 600 năm năm sinh Nguyễn Trãi, NXB Khoa học Xã hội,
H, 1982).

Rỗi không phải là chỗ đắc ý, nhưng ông nhà thơ vẫn hòa mình với cây
cỏ, người, vật mùa hè ở nông thôn và tìm thấy cái vui. Nhưng có cái vui mà
ông tha thiết gẩy bao lần, cái vui làm cho sự sống thầm kín ở màu sắc, âm
thanh rộn rã của lựu, của sen, của chợ, của ve ấy được hòa vào một bản
nhạc mới bao la hơn, vui tươi hơn là bản nhạc một đời sống ấm no, hạnh
phúc “dân giàu đủ khắp đòi phương”, từ sự chăm lo của bề trên đối với “hạng
dân mọn xóm làng ở hang cùng ngõ hẻm”, từ một tiếng đàn cầm của đời Ngu,
Thuấn:

Lẽ có Ngu cẩm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương.

Có lạ không sự lặp lại âm điệu một câu lục ngôn ở đầu và cuối bài thơ?
Có liên quan gì giữa cái rỗi rảnh dài dài và niềm ước mong giàu đủ cho nhân
dân khắp nơi? Chắc không ngoài cái tâm, cái chí của ông nhà thơ: lo cho dân,
cho nước nhưng không được như nguyện. Nghe như có chút gì tiếc hận ở
chữ “lẽ có”. Ý là lẽ ra phải có như thế nhưng lại không được.

(Theo Học tập thơ văn Nguyễn Trãi,


NXB Giáo dục, H, 1994)
TRÚC
Bùi Văn Nguyên

Trong chùm thơ Trúc này, cũng bằng hai câu đề sinh động từ thể phú
chuyển sang thể tỷ, tác giả giới thiệu ngay đối tượng mà không gọi đến tên:

Hoa liễu chiều xuân cũng hữu tình,

Ưa mi vì bởi tiết mi thanh.

Nói đến trúc là phải nói đến khí tiết thanh cao của trúc, hoặc ngược lại,
nói đến khí tiết thanh cao là người ta nghĩ đến trúc, cho nên Tô Đông Pha mới
nói: “Thà ăn không có thịt, còn hơn là ở không có trúc”, ý nói: thà chịu nghèo
khó mà vẫn giữ được khí tiết thanh cao như trúc. Đặc điểm của trúc là vỏ
cứng mà ruột rỗng (hư tâm), do đó, muốn có khí tiết thanh cao như trúc là
lòng trong sạch, không tham chứa gì hết, không vụ lợi, không chìm đắm trong
vòng vinh hoa phú quý, không vướng mắc vì những mùi tục lụy, những lạc thú
tầm thường. Hai câu thơ mở đầu trên nêu bật lên ý đó. “Hoa liễu chiều
xuân…” không nên chỉ được hiểu như mọi cây hoa chiều xuân nói chung, mà
thật ra từ ghép “hoa liễu” chính ngày nay cũng được dùng để chỉ một thứ
bệnh hoa tình, khi xét về gốc Hán, vốn ngày xưa là một tên gọi của kỹ viện,
nơi con gái hát xướng ở. Thơ Lý Bạch đời Đường có câu: “Tích tại Trường
An, túy hoa liễu; Ngũ hầu thất quý đồng bôi tửu” (Nghĩa: Xưa tại Trường An,
nơi Kinh đô, mê chốn hoa liễu; Cùng dăm bảy nhà quyền quý uống rượu
chơi).

Như vậy kẻ sĩ cũng như trúc, dù có lạc vào chỗ phồn hoa đô hội, sống
giữa xa hoa phú quý, cũng giữ cho được khí tiết thanh cao của mình, người
ta quý trúc, ưa trúc, vì bởi tiết trúc thanh, không chịu thả lỏng mình trong cám
dỗ tầm thường.

Sáu câu thực, luận kế tiếp hai câu phá và thừa đề trên, đề cập đến đặc
trưng của cây trúc, mà các nhân sĩ xưa tôn làm “quân tử trúc”. Nếu tùng được
gọi là bậc đại trượng phu, có tài lương đống, thì trúc lại có bản chất thanh
cao, nổi tiếng.

Câu lục ngôn: “Danh quân tử, tiếng nhiều ngày!” nối tiếp câu lục ngôn:
”Quân tử ai chẳng mảng danh” khắc họa giá trị tuyệt vời của cây trúc, tất
nhiên không phải để nói với những kẻ tham lam danh vọng, mà trước hết với
những kẻ “tri âm”, tức những kẻ có khí tiết, biết ham chuộng cái thanh cao, vì
hạnh phúc mọi người. Có như vậy tiếng thơm của trúc mới bay khắp mọi nơi,
ai cũng “mảng” đến, tức đều nghe tiếng đồn.

Ở đây, cũng nổi lên hai điểm về đặc trưng của trúc: sự cứng rắn và sự
rèn luyện. Nếu như ở tùng có sự vững chắc và sự thử thách, thì trúc cũng
phải đạt những điểm tương tự, hợp với khả năng, đặc trưng của trúc. Trúc
không thể có khả năng vững chắc như tùng để chống đỡ nhà cả (đại hạ),
chống đỡ miếu đường, qua thử thách của phong ba bão táp, của rét mướt gió
mưa, nhưng trúc lại có cái cứng rắn của mình, và sự thử thách ở đây không
chỉ thể hiện ở bên ngoài, mà còn ở mặt nội tâm, ở sự rèn luyện đạo đức của
mình, vượt hết những cám dỗ bình thường của cuộc sống. Hai câu thơ dạng
liên hoàn, nối bài tuyệt cú hai với bài tuyệt cú ba, đã nêu bật sự cứng rắn
trong quá trình rèn luyện đó. Xưa nêu là một kẻ sĩ có tâm huyết, thì kẻ sĩ đó
phải có tâm hồn rộng lớn rợp bóng muôn nơi, nhưng lại có một nghị lực phi
thường để làm chỗ vững chắc cho tâm hồn rộng lớn kia, thì ngõ hầu kẻ sĩ mới
thực hiện được lý tưởng cao xa vì dân, vì nước của mình: ý nghĩa hai câu thơ
dạng liên hoàn: “Trượng phu tiết cứng khác người thay!” là như vậy.

Nếu như, các nhân sĩ xưa mượn cây tùng để biểu thị một sức mạnh về
ngoại thể thiên về hoạt động, thì cũng có thể nói họ mượn cây trúc để biểu thị
một sức mạnh về nội tâm, thiên về tu dưỡng, tết nhiên phải là có xu hướng:
“Thiên về” với ý nghĩa góc cạnh, chứ không phải là phiến diện, vì rằng một kẻ
sĩ phiến diện không còn là một kẻ sĩ có phẩm chất cao.

Câu “Dưỡng dỗ trời có ý…” chuyển từ ý “trúc có tiết cứng” sang ý “trúc
hóa rồng” ở hai câu kết:

Từ thuở hóa rồng càng lạ nữa,


Chúa xuân gẫm càng huyễn thay!

Trúc do trời sinh ra, tức cũng là theo luật tự nhiên như nhiều cây khác,
nhưng chuyện “trúc hóa rồng” thì kể cũng lạ! Càng huyễn thay, càng khó mà
tưởng tượng được! Cái tinh túy của tùng là đến độ hóa thành phục linh, hổ
phách, còn cái tinh túy của trúc đến độ hóa rồng? Thật ra, ở đây chỉ là một
điển tích rút ra từ Thần tiên truyện để nói lên quá trình tu luyện cao của trúc:
Phí Trường Phòng vào núi học đạo, khi về sư phụ cho cái gậy bằng trúc, rồi
cưỡi gậy mà về. Đến nhà, ông vứt cái gậy ở bãi Cát Pha, thì cái gậy hóa
thành con rồng xanh mà bay mất. Như vậy, trúc có ba bảy thứ, hay theo Trúc
phả thì có đến hàng trăm thứ, nhưng trúc hóa rồng là trúc tiên, với một quá
trình tu luyện cao cường. Mức độ phấn đấu tu dưỡng của kẻ sĩ cũng phải như
vậy, như cây trúc, mà lại phải như cây trúc hóa rồng.

(Theo Học tập thơ văn Nguyễn Trãi,

NXB Giáo dục, H, 1994)

TÙNG
Lê Trí Viễn - Đoàn Thị Thu Vân

Căn cứ vào một số chi tiết trong bài thơ (“Nhà cả đòi phen chống khỏe
thay, Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày, Lâm tuyền ai rặng già làm
khách”) có thể phỏng đoán bài Tùng được sáng tác vào khoảng thời gian
Nguyễn Trãi về ở ẩn tại Côn Sơn (khoảng từ 1438 trở đi), tức là lúc ông đã có
tuổi, đã có nhiều đóng góp cho đất nước, đã từng “Mùi thế đắng cay cùng
mặn chát, ít nhiều đã trải một hai phen” (Thuật hứng, bài 1). Hoàn cảnh đó sẽ
cho phép ta khẳng định về chí hướng, phẩm chất và tài năng Nguyễn Trãi
đồng thời cũng giúp ta thấu hiểu nỗi niềm tâm sự của con người ấy.

Mượn cây tùng làm biểu tượng, bằng lối thơ tả cảnh ngụ tình, tác giả
muốn tâm sự về mình, chủ yếu là nói lên lý tưởng sống và tấm lòng thiết tha
với dân, với nước.
Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,

Một mình lạt thuở ba đông.

Quy luật của thiên nhiên xứ lạnh là vào thu, cây cỏ đều biến dạng, trơ
cành trụi lá, trở nên lạ lùng, chỉ có một loại - đúng ra là một số loại - là ngược
lại quy luật ấy, cứ tiếp tục xanh tươi, bất chấp giá rét của cả ba tháng mùa
đông.

Hai câu thơ bày ra cái thế so sánh, cái bình thường đối lập với cái phi
thường, và tất nhiên cái phi thường càng thêm nổi bật.

Đâu phải chỉ đối lập ở cái bề ngoài, bên trơ cành, bên tươi lá. Cũng
không phải là sự ngô nghê bên thuận lẽ trời, bên chống quy luật. Quan trọng
là nhắc lên rất cao cốt cách siêu quần của loài cây ấy.

Đi sâu thêm chút nữa, có phải về từ ngữ, đằng này là “cây nào” tức mọi
loài thảo mộc, còn đằng kia là “một mình”, chỉ một mình loài cây ấy, một mình
mà cứ khác, không e không ngại, bản lĩnh cứ vững như non, đằng này là “thu
đến” nghĩa là mới chớm mùa thu chứ chưa phải giá rét, còn đằng kia là “thuở
ba đông” nghĩa là suốt mùa đông đằng đẵng ba tháng, gió như kim châm,
tuyết như cưa xẻ, ấy thế mà đằng này đã “cây nào chẳng lạ lùng”, còn đằng
kia thì ngược lại “lạt thuở ba đông”. “Cây nào chẳng lạ lùng” là thể bị động,
nhất nhất tuân theo, trước hơi thu mới chớm đã rùng mình rởn ốc, thấm nhạt
vàng phai, rơi rụng, mất cả bản sắc, hóa “lạ lùng”; còn “lạt thuở ba đông” là
thế chủ động, chủ thể tự khẳng định mình trước dâu bể của đất trời, không
những không bị đổi thay của ngoại cảnh tác động đến mình mà còn tác động
trở lại ngoại cảnh, làm cho ngoại cảnh phải chịu khuất phục, chịu lạt.

Về âm điệu, một bên là nhịp 2/5 trong câu bảy chữ thông thường: “Thu
đến/cây nào chẳng lạ lùng”, nhịp hai ngắn ra trước còn nhịp năm dài ra sau là
để làm mạnh thêm cái ý tác động của thiên nhiên là quyết định, cây cỏ đều
phải cúi rạp một chiều, còn bên kia là nhịp 2/1/3 ở câu lục ngôn thu ngắn lại:
“Một mình/lạt/thuở ba đông”, đặt nhịp một vào giữa, dằn mạnh xuống đó như
tăng thêm sức tác động của chủ thể đối với thiên nhiên, thành một tư thế hiên
ngang, dũng mãnh: lạt nổi lên một mình giữa câu như một cái gì gan góc,
bướng bỉnh. Cây gì vậy? Đó là cây tùng, cây thông trong họ tùng bách. “Trời
rét mới biết tùng bách không điêu tàn” (Luận ngữ). Cốt cách của tùng là vậy.
Mới vào đề mà như đã đi sâu vào tinh thần của nội dung bài thơ.

Và từ đó mới tiếp hai câu:

Lâm tuyền ai rặng già làm khách?

Tài đống lương cao ắt cả dùng.

Người ta còn nhớ tứ thơ đầy lạc quan của tuổi trẻ hiệp khách ở Lý
Bạch: “Trời đất sinh ta, có tài ắt có chỗ dùng”. Cây tùng sinh ra ở chỗ rừng
suối (lâm tuyền), cốt cách khinh rẻ tuyết sương nhưng đâu phải để vĩnh viễn
làm khách nơi rừng khe. Không. Cây tùng có thể làm rường cột (đống lương)
được mà là rường cột lớn lao nữa kia, nên nó phải được dùng vào việc trọng
đại (cả dùng).

Cái lập luận logic này về tính năng cây tùng xét ra không được ổn. Vì
mấy ai làm nhà to cột mà lại dùng gỗ tùng, nôm na là gỗ thông. Tính chuyện
lâu dài, to tát ấy người ta phải dùng loại đại thiết mộc như lim, kiền kiền…
Cho là chuyện văn chương, có thể bỏ qua được, thì bắt đầu từ đây, khó mà
hiểu lời thơ thiên về cây tùng. Cây tùng chỉ là biểu tượng. Và lời thơ là để nói
về con người.

Lại nữa, hai câu thơ xem như được cấu tạo thành một câu hỏi và một
câu đáp:

- Ai bảo (cây tùng) làm khách lâm tuyền đến già?

- Không đâu, nó có tài đống lương, nó sẽ được dùng vào việc lớn.

Có người hỏi và có kẻ đáp? Hay chỉ là cách nói tu từ? Đúng ra hỏi cũng
người ấy và đáp cũng người ấy. Bởi vì đây là lời ngẫm nghĩ, lời tự tình nội
tâm của tác giả: mình hỏi và mình đáp - về cây tùng trước hiên, hay bên bờ
thạch bàn, mà cũng là về mình, về con người mình, cuộc đời mình. Cách cấu
tạo ấy của câu thơ là cách miêu tả cái tư thế trầm ngâm, yên lặng mà dào dạt,
ngẫm nghĩ, lắng sâu, chắt lọc tất cả một cuộc đời để tổng kết, lắng đọng lại
thành một câu mà đầy đủ, giọt nước mà một bầu trời. Phải chăng đây là lúc
nhìn cây tùng mà hồi tưởng chuyện xưa, thời còn ẩn mình trong nhân dân,
lẩn tránh quân giặc. Đó là thời gian lưu lạc, tung tích gửi chôn sông hồ:

Giang hồ lưu lạc mấy mươi năm.

(Đêm đậu thuyền ở cửa biển - dịch)

Và có khi có cả một nỗi ước mong tha thiết:

Bao giờ dưới núi mây về ở,

Nước suối, chè tươi, ngủ thạch bàn.

(Sau loạn đến Côn Sơn cảm tác - dịch)

Làm khách lâm tuyền không phải là chuyện xa lạ với tâm hồn người trai
thuở ấy! Có điều chí hướng một đời, trách nhiệm đối với nước non, đối với lời
dặn của cha - cũng là lời kêu gọi của non sông – là phải tìm đường cứu nước,
suy ngẫm lược thao, kim cổ, bền gan vững chí. Tất cả đều nhằm đem mình ra
dùng vào việc lớn.

Bây giờ thời ấy đã xa, chí hướng, trách nhiệm đã một bước thành đạt.
Điều ấy cho phép tuổi già ngẫm nghĩ về tuổi thanh xuân của mình, khách thể
hóa nó ra mà tỉ tê trong thâm tâm một lời xác nhận, thực chất là một niềm tin
bền vững, tin ở tài sức, ở chí hướng, ở điều tất yếu phải xảy ra là: tuổi trẻ tài
ba ấy đâu hẹn cho suối rừng mãi mãi mà nhất định phải được đem ra phục vụ
những mục đích cao cả.

Câu tự tình mà như một thứ tuyên ngôn, thầm lặng mà thật thâm trầm.

***

Đống lương tài có mấy bằng mày?

Nhà cả đòi phen chống khỏe thay!


Hai câu thơ vừa hỏi vừa khen. Hỏi mà khẳng định, mà ngợi khen: cây
tùng có tài lương đống mấy cây bì kịp? Bao phen nó đã chống đỡ một cách
mạnh mẽ cho nhà to cửa lớn?

Nhưng nói cây tùng chẳng qua là cái cớ. Nói mình mới là chính. Đúng
hơn là suy ngẫm về mình. Cũng tư thế trầm ngâm, suy tưởng như đã thấy ở
trên kia, cho nên mới có sự lặp lại giữa câu 4 khổ 1 và câu 1 khổ 2, lặp lại và
đảo quanh - “tài lương đống” rồi “đống lương tài” - là xiết mạnh, xoáy sâu,
nghiền ngẫm cho thật kỹ. Cũng như có sự phân thân làm hai để mình tự
ngẫm nghĩ về mình, tự mình vừa chủ thể vừa khách thể, để mình tự trò
chuyện với mình. Hay đúng hơn, cái mình ngày nay tâm tình với cái mình về
trước. Có chữ “mày” đột ngột ở câu đầu khổ thơ là vì thế. Chính là mình hỏi
lấy mình mới có giọng thân mật như vậy. Lại cả nhóm từ cảm thán “khỏe
thay” tiếp theo nữa. Người ta đều rõ trong thơ văn mình, Nguyễn Trãi chỉ một
lần nói đến công lao mình, mà nói bóng nói gió bằng điển tích. Cho nên không
thể nào nghe thấy ở đây mảy may hợm hĩnh, mà chỉ thấy vui tươi, thoải mái
một tiếng cười tự hào của ông lão suốt một đời lo toan chống chọi cho nước
nhà. Bởi vì đây vẫn là sự xác nhận và khen ngợi của nửa mình này đốì với
nửa mình kia. Và cho dù có chút thỏa mãn, hả hê đi nữa cũng vẫn chính
đáng. Tại sao ông già đầu tóc bạc phơ này, ngồi ngẫm lại cuộc đời mình mà
không được tự hào thành lời về những cống hiến thực sự lớn lao của mình
cho dân cho nước? Cuộc đời anh hùng ấy cần gì phải lặp lại mới biết! Âm
điệu câu 2 lại nổi bật lên âm thanh cao vút của từ “chống” và sau nhóm “khỏe
thay” vẫn kéo theo một ngữ khí gì như một tiếng cười hể hả. Điều đó không
phải không góp phần tạo nên sức tự hào khỏe khoắn mát rượi trong câu thơ.

Tiếp theo:

Cội rễ bền dời chẳng động,

Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày.

Vẫn là cây tùng. Cái tài đống lương, cái thành tích đôi phen chống đỡ
nhà cả ấy, đâu phải một sớm một chiều có được. Mà rễ con rễ cái phải hằng
năm, hằng kỷ lan rộng, ăn sâu, cho cội cắm chặt vào đất ngày một bền chắc,
gió bão có lay dời cũng chẳng động mảy may, tuyết sương có cưa xẻ bao
ngày cũng chẳng hề chi, đó chỉ là chuyện hằng từng trải. Tùng vẫn sừng sững
giữa trời như trụ kình thiên, gan lỳ, cao cả, bao nhiêu thử thách đều như thấp
ở dưới chân.

Nhưng nói con người mới thấm thía. Âm điệu khổ thơ đang trôi trên đà
bảy chữ bỗng dưng nghẽn lại, thắt lại trong âm điệu sáu chữ. Thắt lại một hơi
rồi lại mở ra êm thuận. Có chuyện gì ở đây? Thể văn ở cả hai câu đều là thể
khẳng định trên cơ sở phủ định, khẳng định mình và phủ định cái tác động
đến mình: dời chẳng động, thấy đã đặng nhiều ngày. Điều ấy phải chăng đã
nói lên trong biện chứng của cuộc sông cũng như của một con người bao giờ
hai mặt thành tích và gian lao cũng là đối lập và thống nhất? Có tài hơn người
là một đường, nhưng làm nên kỳ tích chống đỡ nước nhà, dù là chống đỡ
khỏe sức và khỏe lòng, đánh đuổi giặc Minh giành lại cái “thái” cho càn khôn,
đem lại ánh sáng cho mặt trời, mặt trăng, mở ra vận hội thái bình muôn thuở
cho dân tộc, nhân dân, đấu tranh với bọn quyền thần tha hóa… thì đâu có
phải đường đi chỉ toàn gấm hoa? Cho nên chuyển từ tự hào thoải mái, từ tự
thưởng mình một giây khen ngợi, hể hả đến cái giá thử thách mình phải trải
qua, muốn hay không muốn, trong tâm lý cũng có gì rắn lại, thắt chặt lại,
khẳng định mình và phủ định cái ngăn trở, tiêu ma mình. “Dời chẳng động”
tức là mình chẳng hề lay chuyển, còn bao nhiêu gió bão phũ phàng rốt cuộc
coi cũng như không. “Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày” nghĩa là mắt
mình đã từng thấy, đã từng chịu đựng và cũng đã từng vượt qua đến mức coi
thường. Câu thơ đầy tự hào nhưng đồng thời cũng pha chút cảm khái: phận
mình sao lắm gian truân - cảm khái nhưng vẫn bình tĩnh lắng sâu.

Đôì chiếu với thơ văn và cuộc đời nhà thơ lại càng nồng đượm.

“Cội rễ bền dời chẳng động”, là bản lĩnh, khí phách con người: “Không
thể cúi ngửa theo người đời” (Mạn hứng, bài 2) trước sau vẫn một “Cốt lãnh
hồn thanh chăng khứng hóa” (Thuật hứng, bài 9). Bời lẽ cuộc đời Nguyễn Trãi
không hề giản đơn. Bao nhiêu sóng gió sẵn sàng vùi dập cả bản thân cùng
với những phẩm chất cao quý nơi con người ấy. Nhưng ông đã bền. Càng
khó càng bền, người xưa nói vậy. Và “bền” trở thành cái chất thật sự của con
người kinh qua thử thách mà chỉ có những khát vọng tinh thần cao cả, không
hề vướng vào vật chất tầm thường: “Cơm ăn chẳng quản dưa muối, Áo mặc
nài chi gấm thêu” (Thuật hứng, bài 22).

“Cội rễ bền dời chẳng động” còn là nhân sinh quan, lẽ sống ở đời. Cội
là nước, rễ là dân, vun cội rễ ấy cho sâu, suốt đời không gì lay động được,
còn lẽ sống nào cao quý hơn?

Tuyết sương là những gian khổ, oan khuất, đắng cay, những ghét ganh
cạm bẫy của cuộc đời đối với con người. Nhưng tuyết sương ấy con người
“thấy đã đặng nhiều ngày”. Nghĩa là con người đã chứng nghiệm thử thách
bằng chính bản thân mình với một thái độ bình thản, an nhiên. Cuộc đời của
tác giả là một bài ca hùng tráng nhưng đâu phải không pha những nốt nhạc
máu xương. Từ ấu thơ sông cảnh hàn vi, thanh bạch cho đến khi sự nghiệp
lớn thành công, Nguyễn Trãi đã vượt biết bao cơn sóng gió hiểm nguy…

Cho nên “Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày” vừa là tự biểu hiện về
phẩm chất của mình trước những thử thách của cuộc sống vừa là ý vị cảm
thán xót xa trước thực tế sớm nắng chiều mưa khắc nghiệt. Giữa hai ý vị tự
hào và nỗi buồn sâu kín ẩn trong câu thơ hoàn toàn không mâu thuẫn. Nó chỉ
là hai khía cạnh thể hiện của một tâm trạng và có mối liên hệ nhân quả rất
khăng khít với nhau: càng tự hào về những khó khăn thử thách mình đã vượt
qua, nhà thơ càng cảm khái trước những thay đổi của cuộc đời.

Năng lực và phẩm chất là sự ngẫm nghĩ của người làm thơ trong khổ
thứ hai này.

***

Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày,

Có thuốc trường sinh càng khỏe thay.

Hổ phách, phục linh, nhìn mới biết,

Dành còn để trợ dân này.


Khổ thơ cuối, câu đầu lặp lại nguyên vẹn câu cuối của khổ trước:
“Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày”. Nhưng ý thơ đã chuyển từ cảm khái
có ít nhiều đau xót sang lạc quan, tin tưởng sau khi tác giả đã suy ngẫm như
tự kiểm điểm và kiên định về mình. Bài thơ bắt đầu lồng lộng một niềm vui
hồn nhiên, thư thái, cởi mở. Con người như thế đã nắm bắt được ánh sáng
chân lý của lẽ sống đời mình. Càng trải qua nhiều mùa sương tuyết thì cây
tùng càng có khả năng sản sinh được những vật quý - “thuốc trường sinh” -
cống hiến cho đời. Con người cũng thế. Càng trải nhiều gian truân thì càng
trau rèn thêm được nhiều phẩm chất quý báu. Thuốc trường sinh ở Nguyễn
Trãi chính là cái chất của tâm hồn: lý tưởng sống để phục vụ, phục vụ đất
nước, phục vụ nhân dân. Lý tưởng ấy nuôi sống cái vui trường cửu, cái an
nhiên tự tại trong tâm hồn nên ở con người ấy không bao giờ có sự đau buồn
đến ngã lòng cũng như trong ý thơ không bao giờ tắt lịm ánh sáng.

Cũng tận cùng bằng một từ tán thán, “thay” nhưng “khỏe thay” ở câu
thơ này sắc thái khác hẳn ở câu thơ khổ 2 (“Nhà cả đòi phen chống khỏe
thay”): Không còn là cái tự hào pha chút ý vị cảm khái vương trên ý thơ lắng
nghĩ, mà lại là cái gì rộng mở, tươi khỏe, trong sáng, tràn đầy sức sống.

Để giúp đời, thuốc trường sinh ấy hiện thành “phục linh, hổ phách”.

Nếu được sử dụng thì tùng làm rường cột, nếu chưa đắc dụng thì nó
âm thầm tự tôi luyện để chờ dịp đóng góp. Dù “xuất” hay “xử”, “hành” hay
“tàng”, con người ấy vẫn hữu ích vì đã chọn một lý tưởng sống đúng và quyết
tâm đeo đuổi nó đến cùng. Cho nên con người ấy đã vượt lên trên mọi cảnh
ngộ để tự tin vào tương lai mình sẽ có dịp cống hiến.

Tất cả tâm huyết ấy là “hổ phách, phục linh”. Đó là vật quý vô giá của
cây tùng sau cả quá trình tinh luyện dài trăm, ngàn năm. Đó là chất tinh túy
đúc nên từ bao gian lao rèn luyện của con người có tài năng, có ý chí và nhất
là có tấm lòng ưu ái với đời. Cái chất tinh túy ấy lại phải nhìn mới biết. Bởi lẽ
tri kỷ của nó không hẳn không phải là bọn tiểu nhân ích kỷ đang sông xa hoa
ngất ngưởng trên đầu nhân dân cùng khổ. Phải là cái nhìn của những ai cùng
lý tưởng mới thấy được. Và bảo vật ấy “Dành còn để trợ dân này”. Cả tinh
thần khổ thơ quy vào câu cuối: tất cả những cái hữu ích quý giá của cây tùng
- cũng chính là của tác giả - đều nhắm để trao cho dân, để phục vụ nhân dân.
“Trợ dân” là mục đích cuối cùng cho mọi nỗ lực. Một mục tiêu thật cao đẹp!
Một lần nữa nó biểu hiện rõ tấm lòng yêu dân thắm thiết, có khả năng rung
động lòng người muôn đời! Nhờ tấm lòng đó mà con người đã chiến thắng
mọi thử thách để hướng tới lý tưởng duy nhất một đời. Phải đâu là ngẫu
nhiên mà những câu thơ sáu chữ trong bài thơ đã xếp theo thứ tự đi xuống
dần ở mỗi khổ thơ? Để cho câu thơ sáu chữ cuối cùng rơi vào vị trí câu kết
của bài thơ - vị trí quan trọng nhất? Phải chăng đây chính là chủ não của khổ
thơ cuối, và cũng là tư tưởng chủ đề của cả bài thơ: tấm lòng thương dân của
tác giả. Câu thơ cuối ngắn, gọn, khẳng định dứt khoát tư tưởng cao đẹp ấy.

****

Nói đến cây tùng không ai không nhớ đến bài Vịnh cây thông của
Nguyễn Công Trứ:

Kiếp sau xin chớ làm người,

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.

Lưng trời vách đá cheo leo,

Ai mà chịu rét thì trèo với thông.

Cũng là cây tùng có sức chịu rét giữa trời đông, trên vách đá, nhưng
sao mà hắt heo, tủi cực, cô đơn, bi quan đến hư vô thê thảm! Trong khi đó,
bài Tùng đầy chất ngẫm nghĩ của Nguyễn Trãi toát ra cái phong vị nồng hậu,
rộng mở của một con người có lý tưởng sống vững chắc. Đi vào bài thơ, vừa
bắt gặp cái khí phách bất khuất của con người “Tuổi cao, tóc bạc, cái râu bạc;
Nhà ngặt, đèn xanh, con mắt xanh” (Tự thán, bài 29), vừa bắt gặp những tình
cảm cao đẹp của con người “Còn có một lòng âu việc nước, Đêm đêm thức
nhẫn nẻo sơ chung” (Thuật hứng, bài 23). Bài thơ không chỉ thể hiện chí
hướng, phẩm chất của Nguyễn Trãi mà còn thể hiện cả tấm lòng của ông -
một tấm lòng đã nuôi dưỡng nên chí sắt đá, rèn luyện nên những phẩm chất
cao đẹp, đã giúp ông vượt qua bao nghịch cảnh để giữ mãi ngọn lửa của một
niềm tin không bao giờ tắt. Ông sống vành vạnh như trăng rằm là nhờ thuốc
trường sinh ấy. Ông mất đi, thuốc trường sinh vẫn còn truyền lại đầy đủ cho
ta. Đẹp đẽ thay và quý hóa thay!

(Theo Giảng văn, tập II, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, 1982;
In trong Học tập thơ văn Nguyễn Trãi, NXB Giáo dục, H, 1994)

CÂY CHUỐI
Nguyễn Đình Chú

1. Bài thơ Cây chuối là bài thơ Nôm trong Quốc âm thi tập của Nguyễn
Trãi thuộc nhóm thơ “Môn mộc hoa” viết về hoa, về cây. Bài thơ nói về cây
chuối “tự bén hơi xuân” nhưng qua đó còn là nói về sức xuân, tình xuân, thậm
chí còn là tình yêu nam nữ. Từ ý này có thể nêu ra kết luận về một phương
diện của ngôn ngữ thơ là tính đa nghĩa. Để rõ thêm thuộc tính này, cũng có
thể so sánh về sự khác nhau giữa nhà thơ và nhà thực vật học khi cùng nói
về cây chuối. Kết luận rút ra là: cùng nói về cây chuối, nhà thực vật học chỉ
thấy đó là một loài cây, nhà thơ cũng thấy vậy nhưng qua đó còn là sự sống
con người, tâm hồn, tình cảm con người…

2. Cây chuối trong mùa xuân

- Thơ có tính đa nghĩa nhưng nghĩa nào cũng phải ra nghĩa ấy, không
thể vì nghĩa này mà nói sai nghĩa kia. Ở đây, trước hết nói cây chuối, phải
đúng là cây chuối.

- Cây chuối ở đây là cây chuối vào mùa nào? Dễ thường phải hiểu
ngay đó là cây chuối vào mùa xuân: “Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm; Đầy
buồng lạ mầu thâu đêm”. Nhưng có vấn đề rắc rối: có hẳn mùa xuân (gồm
tháng giêng, tháng hai, tháng ba âm lịch) thì cây chuối “tốt lại thêm” (đã tốt lại
thêm tốt) và có những buồng chuối chín đến thơm nức cả đêm như thế
không? Có người nói: các loài cây khác vào mùa xuân đều tươi tốt thêm,
riêng cây chuối thì vẫn héo lụi, sang mùa hè mới phát triển. Vậy sự thật là thế
nào? Sự thật là vào mùa xuân, cây chuối dù chưa hết độ lụi héo từ mùa đông
vẫn đón nhận sức sống mà mùa xuân ban cho như với bất cứ loại cây nào.
Sự thật là cây chuối sinh trưởng tùy từng cây cụ thể mà do đó tàn lụi hoặc
sinh trưởng không hoàn toàn một lúc. Ở đây, Nguyễn Trãi đã nhìn và gợi tả
cây chuối đang “bén”, đang tiếp nhận sức sống của mùa xuân, cho nên đã tốt
lại tốt thêm, cho nên có buồng chuối tỏa mùi thơm thâu đêm, cho nên có đọt
chuối non đang cuộn tròn, chờ gió xuân nhẹ thổi tới mà mở dần ra.

Có thể nói, bằng một bút pháp tổng hợp (nghĩa là không tả hẳn vào một
cây cụ thể) đơn sơ, không cần nhiều lời, Nguyễn Trãi đã gợi tả đúng cây
chuối đang được sức xuân nuôi dưỡng, phát triển.

3. Sức xuân, tình xuân từ cây chuối xuân

Quả trong bài thơ không chỉ miêu tả những cây chuối bình thường mà
những cây chuối này còn là nơi hội tụ thể hiện tất cả sức sống mùa xuân
trong cảm hứng xuân tình của Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi nói “hơi xuân”. Hơi
xuân cũng như khí xuân “bén” được “hơi xuân” là “tốt lại thêm”. “Bén” là bắt
đầu. Bắt đầu một sự tốt lành. (Người ta vẫn nói bén duyên, bén số, bén
nghĩa, bén tình). Nhờ “bén” “hơi xuân” mà chuối có “buồng lạ”. Buồng đây là
gì? Hiện đã có hai cách hiểu: buồng chuối, buồng của cô gái bắt đầu gặp tình
yêu. Cách hiểu sau là của nhà thơ Xuân Diệu. Nhưng còn có cách hiểu thứ
ba khác nữa: buồng của chính thi nhân. Ở đây cứ tạm hiểu theo nghĩa nhất
hoặc nghĩa thứ ba thì cũng đã thấy tác dụng của sức xuân, “hơi xuân”. “Hơi
xuân” cho “buồng lạ” - “lạ” là lạ lùng và lạ lùng thú vị, chứ không chỉ là sự
khác lạ. Thú vị vì có “mầu thâu đêm”, tức là mùi thơm sực nức suốt đêm. Cái
“hơi xuân” mầu nhiệm đến là thế. Cả đến những đọt chuối non tơ còn cuộn
kín kia cũng là mát mắt, cũng là hứa hẹn biết bao. Từ những đọt chuối non
còn phong kín này sẽ mở dần, phát triển dần thành những tàu lá chuối xanh
rì, đầy sức sống. Trong cảnh xuân này, đến cái ngọn gió cũng dễ chịu. Bởi nó
là gió nhẹ chứ không phải gió to, gió lớn của bão táp. Có nhẹ thì mới có
chuyện “gượng mở” cái đọt chuối non kia. Nếu không đã lay quật, làm dập nát
lá non. Cái sức sống, cái xuân tình, xuân ý được gợi lên trong bài thơ Cây
chuối đơn sơ mà rạo rực như thế.
4. Một chút tình yêu thoáng thoảng mà hấp dẫn.

Cứ theo cách hiểu của nhà thơ Xuân Diệu thì bài thơ Cây chuối là một
bài thơ tình. Điều đó đã hoàn toàn đúng chưa, còn phải bàn bạc thêm. Điều
có thể nói được là bài thơ Cây chuối nếu không hẳn là một bài thơ tình thì vẫn
có chất phong tình, vẫn thoáng thoảng một chút tình yêu nam nữ khá là hấp
dẫn. Nguyễn Trãi đã nhìn cảnh vật phần nào qua lăng kính của tình yêu. Bởi
thế, đọt chuối non còn cuộn kín kia mới thành một bức thư tình còn phong kín
“Tình thư một bức phong còn kín”, và ngọn gió thổi đến kia cũng không phải
là ngọn gió vô tình. Nó cũng đến với một cử chỉ nhẹ nhàng, một thái độ lịch
sự, tế nhị. “Gió nơi đâu, gượng mở xem” cái bức thư tình còn phong kín kia.
Ở dây quả là thoáng hiện một thứ tình yêu mới “bén”, đang e ấp mà tươi mát,
mà thanh tao, xa lạ với sự thấp hèn, sự thô bạo, sỗ sàng. Và một khi đã thừa
nhận trong hai câu thơ sau có thoáng hiện một thứ tình yêu như thế thì đọc lại
hai câu thơ đầu, cũng không phải không thấy sự liên quan. Nói hẳn ra rằng
“buồng lạ” là buồng cô gái mới bén tình thì chưa biết nên tin hay chưa nên tin,
nhưng từ câu “Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm” mà liên tưởng đến chuyện tình
yêu thì không phải không được. Vấn đề là tùy theo tác giả cảm nhận ý thơ.

5. Kết luận

- Bài thơ có một giá trị đáng quý. Nó nói từ cây chuối mà nói tới sức
xuân, nói tới xuân tình, xuân ý, nói tới tình yêu của tuổi trẻ trong sự sống
nhân bản của con người.

- Bài thơ cũng cho thấy một phần tâm hồn phong phú và nghệ thuật tài
hoa của Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi anh hùng nhưng Nguyễn Trãi cũng rất đa
tình, cũng phong tình. Từ cái chất đa tình, phong tình này mà Nguyễn Trãi để
lại cho muôn đời bài thơ Cây chuối rất hay.

(Theo Nguyễn Trãi, về tác gia và tác phẩm – Nguyễn Hữu Sơn
tuyển chọn và giới thiệu) – NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999)
CÂY CHUỐI
Nguyễn Đăng Mạnh

Trong lịch sử Việt Nam, Nguyễn Trãi là một trong số những người toàn
tài, xưa nay hiếm. Ông là một nhà chính trị, một nhà quân sự, một nhà ngoại
giao, đồng thời cũng là một nhà văn, một nhà thơ có tầm cỡ kiệt xuất, vĩ đại.
Riêng ở lĩnh vực thơ, có thể nói Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập viết bằng
chữ Nôm đã đặt nền móng cho thơ ca tiếng Việt. Trong tập thơ nói trên,
người đời sau thường chú ý nhiều đến phần Hoa mộc môn tả các loại cây và
các loại hoa. Trong số này, không thể không nói đến bài thơ Cây chuối được
viết theo thể thất ngôn chen lục ngôn sau đây:

Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm

Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm.

Tình thư một bức phong còn kín

Gió nơi đâu gượng mở xem.

Trước hết điều lý thú đáng ghi nhận ở đây là Nguyễn Trãi không những
chỉ viết bằng chữ Nôm mà quan trọng hơn là ông viết về loại cây dân dã, gần
với cuộc sống bùn đất quê mùa. Như nhiều người đều biết, thơ cổ không
thiếu những bài tả về hoa lá, cây cối, nhưng thường chỉ tập trung miêu tả một
số cây “cao sang” quen thuộc như tùng, cúc, trúc, mai. Dường như phải đến
Nguyễn Trãi, những loại cây cối “tầm thường” kia mới được hiện diện trong
thơ ca. Như vậy có nghĩa, tuy cùng viết về thiên nhiên (như không ít nhà thơ
thời phong kiến khác), nhưng hướng khai thác của Nguyễn Trãi đã có sự
cách tân so với những cây bút cùng thời. Bài thơ Cây chuối, giúp ta hiểu thêm
về con người Nguyễn Trãi. Nếu qua Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh
tập… người đọc biết một Nguyễn Trãi anh hùng, yêu nước thiết tha, thì qua
bài Cây chuối ta thấy thêm một Ức Trai nhạy cảm, đa tình và trẻ trung. Tuy
bài thơ có nhan đề là Cây chuối và cả bốn dòng thơ đều nói về cây chuối,
nhưng không phải là bài thơ tả cây chuối đơn thuần mà thực chất là một bài
thơ tình, bộc lộ một cái nhìn trẻ trung tươi mát, đầy lãng mạn của nhà thơ
trước tạo vật. Có thể nói, bao trùm bài thơ là cảm hứng về tình yêu nồng
thắm.

Lâu nay, đã có nhiều cách hiểu khác nhau về bài thơ này. Để tránh có
những suy diễn đáng tiếc, thiết tưởng trước hết phải hiểu đúng câu chữ của
bài thơ. Bài Cây chuối có thể diễn Nôm như sau: Bén khí hậu thời tiết của
mùa xuân, cây chuối vốn đã tươi tốt, nay lại tốt tươi thêm. Cũng nhờ hơi xuân
ấy, buồng chuối đẹp lạ lùng tựa hồ như tỏa hương thơm quyến rũ suốt đêm…
Mùa xuân, nhìn những đọt chuối non còn cuộn lại chưa nở, thi sĩ tưởng tượng
như một bức thư tình còn phong kín. Nhà thơ muốn nhờ một làn gió xuân thổi
tới, gượng nhẹ giúp cho đọt chuối - bức thư tình kia mở ra xem…

Ở đây cần phải lưu ý, một mặt, Nguyễn Trãi có những cách tân khiến
cho bài thơ có giá trị độc đáo, nhưng mặt khác, nhà thơ vẫn không thể hoàn
toàn thoát ra khỏi những quy phạm của thi pháp văn học trung đại. Có lẽ
không nên hiểu cây chuối ở đây phải là một cây chuối cụ thể “tả thực" nào, và
đang ở vào một mùa xác định nào trong năm. Và “hơi xuân” cũng không phải
chỉ có ba tháng mùa xuân (chuối không trổ buồng vào mùa xuân). Cố nhiên
có nhiều cách hiểu về mây từ “đầy buồng lạ”; “buồng” là phòng của người
thiếu nữ, phòng của thi nhân hay là buồng chuối. Theo giáo sư Bùi Văn
Nguyên, một chuyên gia về Nguyễn Trãi, tự dạng (dạng chữ Nôm) của chữ
buồng trong bài thơ là chữ buồng chỉ buồng chuối, buồng cau (khác với chữ
buồng chỉ căn buồng, buồng the, khuê phòng).

Vậy mở đầu bài thơ, Nguyễn Trãi có lẽ cho người đọc cảm nhận về một
cây chuối biểu tượng. Do có được sức xuân, tình xuân tiềm tàng từ bên trong
nên khi gặp được “hơi xuân”, cây chuối càng thêm tươi tốt. Xuân Diệu trong
khi bình bài thơ này đã lưu ý người đọc lý giải tại sao Nguyễn Trãi không viết
“lại tốt thêm” mà viết ”tốt lại thêm”, ông cho rằng: “Lại tốt thêm thì có bề dung
tục, không đủ trân trọng đối với chủ từ của câu, chẳng qua theo đà, theo thời
mà thêm tốt, bớt tốt, còn “tốt lại thêm” tức là vốn cái tốt đã là bản chất rồi.
Ngay từ lúc bén hơi thì tốt thêm”. Đây thật là những lời bình tinh tế, sâu sắc.
Khi nói đến mùa xuân Nguyễn Trãi nhấn mạnh đến “hơi xuân”, sức xuân nét
tiêu biểu, đặc thù của nó chứ không cốt ghi nhận ở phương diện thời gian.

Đến câu thứ hai, tác giả miêu tả đặc điểm của cây chuối. Đây là loại
cây có buồng “Đầy buồng lạ” và kỳ diệu hơn là hương thơm của buồng chuối
ngào ngạt, quyến rũ suốt đêm. Nhà thơ Quang Huy cho rằng: “Nghĩ cho cùng,
quả chuối kể cũng lạ. Nó không giống bất cứ một thứ quả cây nào dù mơ hay
mận, dù là cau hay bưởi… Đến như cách xếp đặt quả chuối thành nải thành
buồng như vậy cũng kỳ lạ nốt. Mặc dù quả chuối rất gần gũi và thân quen với
mỗi chúng ta, nhưng Nguyễn Trãi vào lúc ấy đã sửng sốt: “Đầy buồng lạ”,
chính là như vậy. Tìm ra cái lạ trong sự vật đã quá quen nhàm: đó là tư chất
của nghệ sĩ.

Nhưng sức nặng của bài thơ là ở vào hai câu cuối cùng:

Tình thư một bức phong còn kín

Gió nơi đâu gượng mở xem.

Có lẽ khi viết những câu này, Nguyễn Trãi đã được gợi ý từ một vế cầu
đối “Thư lai tiêu diệp văn do lục” (Thư viết trên lá chuối gửi đến lời văn còn
xanh). Cho dù sự phán đoán trên đây là đúng thì công lao của Nguyễn Trãi
cũng rất lớn. Từ cách diễn đạt của người xưa, Ức Trai sáng tạo ra một hình
tượng vừa chân thực vừa mới mẻ. Bằng cái nhìn tinh tế rất nghệ sĩ, Nguyễn
Trãi thấy tàu lá chuối kia như là một bức thư tình còn đang phong kín, chứa
chất trong đó bao ngọt ngào ân ái và e ấp của một tình yêu buổi đầu trao gửi
còn rất đỗi ngập ngừng. “Phong còn kín” vừa nói được sự trắng trong vừa nói
được ý e lệ, giữ gìn.

Ôi, người anh hùng Nguyễn Trãi nhìn một cái đọt chuối mà tưởng
tượng ra một phong thư, một bức thư tình trai gái viêt cho nhau. Người ta
thường nói, thi sĩ là “giống hữu tình” là “nòi tình” quả là đúng với trường hợp
của tác giả bài thơ Cây chuối này.

Nhưng tình tứ hơn nữa là câu cuối cùng. Câu kết bài thơ kết lại bằng 6
chữ: “Gió nơi đâu gượng mở xem”, dùng thủ pháp nhân hóa thể hiện liên
tưởng nghệ thuật rất nghệ sĩ. Đọc câu này, ta có thể hình dung: Gió xuân từ
nơi xa thổi đến, như một bàn tay run rún và hồi hộp vì xúc động, gió gượng
nhẹ, mơn man và khẽ khàng trân trọng mở dần dần bức tình thư kia… Cảm
nhận bài thơ như một chỉnh thể, chúng ta có thể nghĩ đến cây chuối và gió
xuân cũng như cô gái và chàng trai. Chàng trai say mê, trẻ trung nhưng cũng
rất ý nhị, tinh tế. Cô gái thì trinh trắng và e ấp… Hai câu thơ nói trên ít nhiều
cũng có yếu tố tả thực: đọt chuối non đang vươn dần lên, đang mở dần ra
trong gió xuân. Nhưng điều quan trọng hơn là Nguyễn Trãi đã gửi vào đó cảm
hứng tươi mát của một khách đa tình mà tao nhã.

(Trích 217 đề và bài văn dành cho học sinh lớp 10-11-12,
ôn thi tốt nghiệp PTTH và Đại học – Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên –
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)

DỤC THÚY SƠN


Đoàn Thị Thu Vân

Dục Thúy Sơn là một thắng cảnh của Ninh Bình. Tên của núi cũng đã
nói lên điều đó. Dục Thúy là tắm màu xanh (lông chim trả) có thể hiểu là dầm
ngọn núi phủ màu xanh biếc giữa vùng nước mênh mông, cũng có thể hiểu là
ngọn núi tắm mình giữa nước biếc.

Mở đầu bài thơ là lời giới thiệu vị trí và vẻ đẹp khái quát của núi Dục
Thúy:

“Hải khẩu hữu tiên san”

(Cửa biển có non tiên)

Câu phá đề gọi ngay vào ấn tượng nổi bật mà đối tượng gợi lên - non
tiên - thu hút ngay sự chú ý của người đọc. Câu thừa đề mới nghe qua chỉ là
một lời kể bình thường, giản dị:

“Tiền niên lủ vãng hoàn”

(Từng qua lại mấy phen)


nhưng lại thật khéo léo thừa tiếp ý câu trước - nhà thơ không phải mới đến
lần đầu, mà đã từng đến, thậm chí không chỉ một lần, song giờ đây vẫn không
thể không đến nữa - làm sức hấp dẫn của cảnh càng tăng, lôi cuốn người đọc
theo bước chân thưởng ngoạn của tác giả.

Và kia, toàn cảnh Dục Thúy bỗng hiện ra bất ngờ, kỳ diệu:

“Liên hoa phù thủy thượng

Tiên cảnh trụy trần gian”

(Cảnh tiên rơi cõi tục

Mặt nước nổi hoa sen)

Người ngắm cảnh ngỡ ngàng, tưởng như lạc sang thế giới khác. Cùng
một đối tượng nhưng tác giả đã khéo léo phác họa từ những góc độ đối lập
nhau: từ dưới đáy nổi lên mặt nước một đóa hoa sen, từ trên cao rơi xuống
cõi trần một cảnh tiên. Xuất phát từ những điểm nguồn mông lung không xác
định, nửa thực nửa hư, theo hai hướng đối nghịch, những tinh anh của đất
trời đã chung đúc lại thành núi Dục Thúy - cảnh tiên giữa cõi trần. Một cảnh
đẹp siêu phàm trong con mắt nhìn thán phục, ngưỡng mộ lẫn sung sướng, tự
hào. Chỉ mới là nét vẽ khái quát nhưng đã đủ tạo ấn tượng sắc nét về cái đẹp
vừa thanh tao, thoát tục, vừa thơ mộng, quyến rũ.

Trí tưởng tượng phong phú của tác giả tiếp tục dẫn dắt người đọc đi
vào ngắm nhìn chi tiết:

“Tháp ảnh trâm thanh ngọc

Ba quang kính thúy hoàn”

(Bóng tháp cài trâm ngọc

Gương sông ánh tóc huyền).

Núi Dục Thúy có tháp Linh Tế nổi tiếng được xây dựng từ thời Trần.
Bóng tháp trên núi như cây trâm ngọc cài vào mái đầu cô gái. Và vùng nước
trong sáng mênh mông in bóng ngọn núi phủ xanh cây cối như gương soi mái
tóc biếc óng ả. Vật thể, màu sắc, ánh sáng hài hòa, tương hỗ. Đối lập hình
ảnh trong hai câu luận cũng góp phần tạo nên nét hài hòa của cảnh - bóng
tháp cao gầy và sóng nước trải rộng bao la, trâm ngọc xanh cài vào mái tóc,
tóc xanh - gương sáng cùng ánh vẻ đẹp lên nhau. Qua liên tưởng và phát
hiện độc đáo, thú vị của nhà thơ, cảnh vật sáng bừng lên một vẻ đẹp mới lạ.
Và từ hai câu thơ này, cũng đã xuất hiện bóng dáng, hơi hướng con người.
Nước non kỳ tú ấy một phần nhờ có bàn tay con người góp sức tạo nên. Nhìn
cảnh nhớ người. Xưa Trương Hán Siêu từng đến đây ngoạn cảnh và khắc
bia:

“Hữu hoài Trương Thiểu bảo

Bi khắc tiễn hoa ban”

(Nhớ xưa Trương Thiếu bảo

Bia khắc dấu rêu hoen)

Tấm bia ngày trước giờ đã lốm đốm rêu gợi niềm hoài cảm người xưa
và dấu vết tài hoa đã tàn phai theo năm tháng. Hai cầu kết bài không tả núi
Dục Thúy nữa mà nhắc nhở đến linh hồn của cảnh vật. Núi Dục Thúy đã gắn
liền với tên tuổi, văn chương của Trương Hán Siêu. Hơi hướng của tiền nhân
thấm đượm trên từng tấc đất, ngọn cây, qua bao thế hệ tạo nên “hồn sông
núi”. Cảm xúc hoài niệm cuối bài đã hoàn chỉnh mạch cảm xúc của nhà thơ
diễn tiến theo hoạt động ngấm cảnh từ xa đến gần, từ khái quát đến chi tiết,
cụ thể, từ hiện tại ngược về ngày xưa… Kết thúc bài thơ là một kết thúc mở
để lại nhiều dư vị - vừa bùi ngùi man mác, vừa sâu lắng tự hào - tự hào về
sông núi, về anh tài nước Việt.

Bằng cảm quan nghệ thuật tinh tế, bút pháp tả cảnh tài hoa và lời thơ
giàu cảm xúc, chỉ trong khuôn khổ nhỏ gọn của một bài thơ ngũ ngôn bát cú,
Nguyễn Trãi đã khắc sâu ấn tượng về vẻ đẹp diệu kỳ của thắng cảnh Dục
Thúy, đồng thời khơi gợi nơi người đọc một tình yêu mến, gắn bó thiết tha,
sâu sắc với quê hương.
Phần bốn. CÁC BÀI VĂN HAY CỦA HỌC SINH
ĐỀ

Hãy phân tích bài thơ “Thuật hứng” và nêu cảm nghĩ của em về tâm
trạng của Nguyễn Trãi lúc ra về hưởng cái thú thanh nhàn.

BÀI LÀM

Nguyễn Hữu Quang - Nguyễn Lê Tuyết Mai

Bài thơ như có hai điều mới lạ: Một là viết bằng chữ Nôm mở đường
cho tư tưởng và nghệ thuật thơ ca viết bằng tiếng Việt thời ấy. Hai là thể hiện
một nhân sinh quan mới mẻ. Cho nên mở đầu nhà thơ như phân bua việc về
nhàn của mình:

“Công danh đã được hạp về nhàn

Lành dữ âu chi thế nghị khen”.

Ông cho rằng đã có công danh - chức tước và danh vọng - như người
đời quan niệm thì vui về ở ẩn là thỏa đáng thậm chí là đúng với cái nghĩa
“không tham quyền cố vị”. Cho nên việc chê khen của miệng thế chẳng có gì
đáng quan tâm. Quan niệm, cách nghĩ này của riêng ông không lẫn lộn với ai,
không phải là thói thường của thế lực lúc đó.

Nguyễn Trãi cứ thế đi theo con đường của mình không sợ lầm lẫn, lầm
lạc. Nhưng đọc kĩ câu thơ ta vẫn cảm thấy ông có băn khoăn, trong cách xử
thế ấy như có một nỗi niềm. Có nghĩa là việc “về nhàn” là điều cực chẳng đã!
Vì thật ra phải chăng không phải ông không hề nghĩ đến cái sự nghiệp, tượng
trưng là cái triều đình hiện nay mà ông đã mất bao xương máu, hao tổn tâm
trí để xây dựng nên?

Tuy vậy, ông đã diễn tả cái “lạc thú thanh nhàn” bằng hai câu thơ rất
mộc mạc:

“Ao cạn vớt bèo cấy muống

Đìa thanh phát cỏ ương sen”.


Đây là thứ lao động làm cho con người trở về với cuộc sống đậm đà
phong vị chân quê, nhưng không phải để tìm thấy do chính mình không muốn
chiếm lĩnh thiên nhiên bằng cách đó, vì còn nhiều ham muôn trần tục hay nói
là tham vọng.

Với cách nói của Nguyễn Trãi thì ông rất giàu có. Cái kho báu không để
dự trữ lương thực, con thuyền không nặng nề chở khách thường nhật. Cái
kho ấy là một tâm hồn đang mở rộng cửa cho trăng gió tràn vào bằng khối
lượng, trọng lượng cảm giác của nhà thơ mà đầy qua nóc cũng như con
thuyền đang chứa một thứ hàng hóa không thể cân đong mà đến nỗi vạy cả
then:

“Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc

Thuyền chở yên hà nặng vạy then”…

Cái giàu có của thi nhân không phải là của cải, tiền bạc mà giàu cảnh
vật thiên nhiên.

Như vậy là khi ra về Nguyễn Trãi thả sức tận hưởng cái nhàn với bao
cảnh thiên nhiên mĩ lệ, tao nhã, nên thơ… Tuy nhiên cái đẹp, cái sung mãn
của nhà thơ không dễ gì nắm bắt vì nó đứng ở thế ẩn dụ, phóng đại chênh
vênh giữa cái thực và cái mộng.

Qua mấy câu thơ trên ta thấy Nguyễn Trãi từ trên đỉnh cao của cuộc
chiến đấu vung gươm, thả bút viết nên Bình Ngô đại cáo bất hủ, nay lại bước
sang đỉnh cao của sự an nhàn ẩn dật.

Tuy nhiên dù sống ở phương diện nào, Nguyễn Trãi vẫn đi theo con
đường “hành đạo” đã vạch sẵn từ khi gạt nước mắt từ giã cha già! Đánh giặc
không hẳn chỉ là lòng yêu nước, trung quân, mà còn là lòng chí hiếu theo lời
cha dặn dò.

Bởi vậy, sau khi nói đến cái vui thú của cảnh nhàn, ông hạ bút trải lòng
mình trên trang giấy:

“Bui có một lòng trung với hiếu


Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”.

Quả thực, ông đã từng là bậc đại thần, giữ quyền cao chức trọng trải
qua hai đời vua mà vẫn sống đạm bạc, thanh bạc… Nhưng tiếc thay dù có
sống theo cách nào đi nữa thì công danh nêu còn cũng đầy rẫy chông gai!
Nguyễn Trãi dứt khoát ra đi và sống cảnh “vớt bèo cấy muống”, “phát cỏ
ương sen” và hưởng cái thú “phong nguyệt”, “yên hà” không thể cân đong đo
đếm được.

Như vậy bài thơ “Thuật hứng” là sự trang trải món nợ lòng: dứt hẳn sự
ràng buộc của hai chữ công danh đổi lấy cuộc sống có niềm vui trong trẻo,
thanh cao.

Tuy nhiên từ ở đây ta thấy Nguyễn Trãi sống thì rất đơn giản “đạo lí”
làm người, thì mở rộng thêm chữ trung và chữ hiếu, lấy việc tu thân thành lẽ
sống, lấy việc thờ phụng tổ tiên làm trọng.

Về nghệ thuật, trong “Quốc âm thi tập” Nguyễn Trãi đã đưa câu thơ sáu
chữ vào nhiều bài thơ thất bát cú, hoặc tứ tuyệt Đường luật, làm cho thể thơ
truyền thống thay đổi, có thể gọi là thơ “thất ngôn xen lẫn lục ngôn”.

Hiện tượng mới mẻ về nghệ thuật làm thơ này, Nguyễn Trãi tìm kiếm ra
một lối thơ cho hợp với ngôn ngữ dân tộc. Chẳng hạn hai câu thực ở bài thơ
này tạo nên một cảm giác đột ngột, nhịp điệu mới mẻ, gân guốc, nhấn mạnh:

“Ao cạn / vớt bèo / cấy muống

Đìa thanh / phát cỏ /ương sen…”

Câu cuối cùng cắt nhịp 3/3 (“Mài chăng khuyết / nhuộm chăng đen”) tạo
nên câu thơ có hai vế cân đối, làm cho câu thơ có dáng điệu của câu tục ngữ.

Có khi Nguyễn Trãi sử dụng ngôn ngữ hàng ngày để tả cảnh, tả tình, ta
vật (lành dữ, ao cạn, vớt bèo, cấy muống, đìa, phát cỏ, ương sen, bụi, lẫn,
mài, nhuộm…). Điều đó chứng tỏ Nguyễn Trãi có ý thức sâu sắc với từ ngữ
dân tộc.

(Trích 100 bài làm văn mẫu lớp chín – NXB Đồng Nai, 1998)
ĐỀ

Vận dụng những hiểu biết về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Trãi (1380 -
1442), hãy làm sáng tỏ những ý tưởng sâu kín của ông gửi trong hình tượng
cây tùng (bài thơ Tùng - Quốc âm thị tập).

Sau Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm - cây đại thụ của văn học thế kỷ
XVI (1491 - 1858) cũng có bài thơ Tùng, trong đó có những câu:

“Vui cùng suối đá, tính cách riêng thanh cao

Ngạo với tuyết sương, sắc xanh không biến đổi

Dùng thì ra giúp đời, không dùng thì ẩn náu

Ai bảo rằng: gỗ lớn khó dùng?”.

(Bản dịch)

Hãy phân tích những điểm gặp gỡ và khác biệt giữa hình tượng cây
tùng của Nguyễn Trãi và hình tượng cây tùng trong những câu thơ trên của
Nguyễn Bỉnh Khiêm.

BÀI LÀM

Trần Cẩm Thanh

(Học sinh lớp 10V, trường PTTH Hà Nội - Amsterdam)

“Văn học nằm ngoài những định luật của băng hoại. Chỉ mình nó không
thừa nhận cái chết” (Xantưcôp Sêđrin). Ra đời cách đây năm thế kỷ, bài thơ
Tùng (trích Quốc âm thi tập) của Nguyễn Trãi, mặc dù đề cập tới một hình
tượng quen thuộc trong văn học phương Đông trung đại, vẫn tìm ra chỗ đứng
của riêng nó, vẫn ngời sáng trong tâm hồn bao thế hệ. Người xưa khen văn
hay, bảo rằng cũng như tiếng đàn hay, trong đó, không nghe xuất phát từ
tiếng dây tơ nữa mà chỉ thấy tiếng tâm hồn. Đến với bài Tùng, lạ thay, lớp vỏ
ngôn ngữ dường như tan biến, chỉ còn lại tâm hồn “quang Khuê Tảo” của ức
Trai, chỉ còn lại những tiếng lòng sâu kín nơi ông…
Nổi bật trong bài thơ, đầu tiên là hình tượng cây tùng với bản lĩnh phi
thường, với khí phách cứng cỏi, bất khuất:

“Thu đến cây nào chẳng lạ lùng

Một mình lạt thuở ba đông”

Cây tùng được đặt trong hai mối quan hệ. So với muôn loài thảo mộc
chôn lâm tuyền, nó là hiện tượng đặc biệt, “một mình”, khác biệt với cỏ cây
quanh nó. So với “thuở ba đông”, nó là số ít đó, cô độc đó mà cứng cỏi lạ
thường. “Một mình lạt thuở ba đông”, Khinh thường sương tuyết, giá băng,
bất chấp sự “chẳng lạ lùng” đã trở thành chẳng lạ của cây cối khi mùa thu
đến, tùng vẫn giữ nguyên màu xanh bất diệt, gan góc. Song sự khác biệt ấy
không tạo nên cảm giác kiêu căng, khinh thị như núi Hy Mã Lạp Sơn trong
thơ Xuân Diệu:

“Ta là một, là riêng, là thứ nhất

Không có chi bè bạn nổi cùng ta

Ta bỏ đời mà đời cũng bỏ ta

Giữa băng giá, giữa lạnh lùng thế tuyệt”

Phải chăng là vì cây tùng ý thức được phẩm giá cao quý của nó nhưng
không phải để tự coi mình là “thứ nhất” để rồi “bỏ đời”, mà ngược lại, nó luôn
ôm ấp khát vọng giúp đời, luôn đinh ninh:

“Tài đống lương cao át cả dùng”

Sau cây tùng sừng sững hiện lên hình ảnh Nguyễn Trãi. Là một người
có tài, năm hai mươi tuổi đã đỗ đên Thái học sinh, ra làm quan với nhà Hồ,
ông luôn ôm ấp hoài bão giúp đời. Trong lúc “quân cuồng Minh đã thừa cơ
gây họa; lũ gian tà còn bán nước cầu vinh”, đất nước lầm than, dân tình khôn
đôn, Nguyễn Trãi vâng lời cha, theo tiếng gọi của “đại hiếu” tìm đường cứu
nước. Dằn lòng sống trong cảnh:

“Góc thành Nam, lều một gian

No nước uống, thiếu cơm ăn”


Nguyễn Trãi vẫn “đau lòng nhức óc” nuôi chí phục thù để đến một ngày
kia, tìm đến Lam Sơn tụ nghĩa, dâng Bình Ngô sách cho Lê Lợi.

“Tài đống đống lương cao ắt cả dùng” đã đến lúc không chỉ là niềm tin
mà đã biến thành hiện thực. Tiềm năng đã biến hóa thành hoạt năng:

“Nhà cả đòi phen chống khỏe thay”

Không còn là chuyện cây tùng làm “lương đống”, dựng nhà nữa mà là
vai trò quan trọng của Nguyễn Trãi trong việc bình Ngô khai quôc. “Đao bút
phải dùng tài đã vẹn”, tự ý thức được sức mạnh của ngòi bút trong chiến lược
“mưu phạt tâm công”, Nguyễn Trãi đã “múa bút mềm gan tướng giặc” (Sóng
Hồng), tạo cho cây bút của mình “sức mạnh ngang mười vạn quân” (Phan
Huy Chú). Dựng được nhà mới là bước đầu, cây tùng còn phải chống đỡ cho
ngôi nhà đó vững bền. Dẹp xong quân cuồng bạo. Nguyễn Trãi lại dốc sức
phò vua dựng nước. Lấy tư tưởng nhân nghĩa làm nền móng, ông chú trọng
đến mối bang giao Việt - Trung, nhằm đem lại nền hòa bình lâu dài cho đất
nước:

“Hồ Việt từ nay về một cõi

Biển khơi kình ngạc bặt im lìm”.

Ông chú trọng đến gốc của nhạc là ở chỗ “bệ hạ rủ lòng thương yêu
chăm sóc muôn dân, khiến cho khắp thôn cùng xóm vắng không một tiếng
hờn giận oán sầu”; ông chú trọng đến việc “pháp luật không nên dừng lại lâu
la mà nên mau chóng quay về với nhân nghĩa”. Với những cột trụ vững vàng
về mọi mặt mà Nguyễn Trãi góp phần dựng lên ấy, giang sơn Đại Việt - ngôi
nhà cả - ngày càng lớn mạnh, vững bền…

Nguyễn Trãi luôn nung nấu một niềm tin sắt son:

“Cội rễ bền, dời chẳng động”

“Cội rễ bền” là nguyên nhân, “dời chẳng động” là kết quả; “cội rễ bền” là
bề sâu bản chất, “dời chẳng động” là bề mặt của một khí phách kiên trung. Tự
sâu thẳm ý thức luôn hướng về dân, mọi việc làm đều vì dân vì nước, đó
chính là “cội rễ bền” của Ức Trai, là động lực giúp ông thêm cứng cỏi chống
lại những trái ngang của cuộc đời. Ông tự biết “lưng khôn uốn, lộc nên từ”
nên có thể quật thẳng vào thói đời.

“Chớ cậy sang mà ép nề

Lời chẳng phải vưỡn không nghe”

Với nhân cách cứng cỏi đó, Ức Trai xứng đáng là cây trúc đứng ngăn
giữa cõi trần bất chấp “vườn quỳnh dù có chim hót”. Giáo sư Bùi Văn Nguyên
có phát hiện rất đặc sắc: “Trãi theo tên ông là tên một giống thú giống hươu
nhưng chỉ có một sừng giữa trán. Nó chỉ húc kẻ gian chứ không húc người
ngay nên Trãi tượng trưng cho chức Ngự sử là chức quan chuyên khuyên răn
vua quan”. Phải chăng, khi đặt tên cho cháu ngoại, Trần Nguyên Đán cũng
muốn gửi gắm ý đó…?

Song một vĩ nhân vẫn là một con người. Nguyễn Trãi cũng không phải
không có lúc xót xa, ngậm ngùi:

“Thuyền mọn còn chèo chăng khứng đỗ

Trời ban tối, ước về đâu?”.

Những lúc đó Nguyễn Trãi lại tìm đến với thiên nhiên, gửi tâm hồn ứa
máu trong vòng tay dịu hiền của thiên nhiên:

“Láng giềng một áng mây bạc

Khách khứa hai ngàn núi xanh”

Nhưng ông luôn tâm niệm “Lâm tuyền ai rặng già làm khách”. Đối với
chốn lâm tuyền, cây tùng tự ý thức nó chỉ là “khách” ở đó, tạm thời mà thôi,
đất dụng võ của nó phải ở chôn khác kia. Cho nên, lúc này lúc khác, khi u uất
lên đến tột đỉnh, Nguyễn Trãi có thốt lên:

“Sào Do bằng có tái sinh

Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn”

thì đó cũng chỉ là tâm trạng nhất thời. Thường trực trong lòng ông là:
"… một tấc lòng ưu ái củ

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”

là tâm trạng “quân thân chưa báo lòng canh cánh”. Trong thơ Nguyễn Trãi
luôn văng vẳng tiếng chim cuốc, tiếng kêu ra máu trong mấy lời nhớ nước
thương nhà. Nó gợi nhớ tới hình tượng anh lái đò Trương Chi, con người có
tình yêu nóng bỏng không nói nên lời, đến chết mà trái tim vẫn đỏ như son,
không tan ra được. Tấm lòng, trái tim Ức Trai với dân với nước cũng là một
trái tim son như vậy:

“Bui có một niềm trung mấy hiếu

Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”

Ta không ngạc nhiên khi vua Lê Thái Tông vời ra, Nguyễn Trãi hăng hái
vâng mệnh ngay:

“Những vĩ chúa thánh âu đời trị

Há kể thân nhàn, tiếc tuổi tàn”

Không những thế, ông còn làm Biểu tạ ơn: “Thương thần như ngựa
đến tuổi già, còn kham dong ruổi; cho thần như thông qua năm rét, càng dạn
tuyết sương”. Sau Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có bài thơ Tùng,
trong đó, ngoài những điểm gặp gỡ dường như đã thành thi liệu có sẵn khi
viết về tùng như:

"… tính cách riêng thanh cao

Ngạo với tuyết sương, sắc xanh không biến đổi”

còn có một nét khác biệt rõ rệt. Nguyễn Bỉnh Khiêm quan niệm:

“Dùng thì ra giúp đời, không dùng thì ẩn náu”

Lẽ xuất - xử của cụ Trạng Trình rất rõ ràng. Do đó, khi dứt áo quay lưng
với đời, “Bụi xe ngựa không bám được vào am” (Trung Tân ngụ hứng),
Nguyễn Bỉnh Khiêm có cái “lạnh” cần thiết khi ông nói:

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ


Người khôn người đến chốn lao xao”

Cây tùng của Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể thanh thản “vui cùng suối đá”
chứ không băn khoăn day dứt, luôn tự nhủ “lâm tuyền ai rặng già làm khách”
như cây tùng của Nguyễn Trãi. Hậu quả nhãn tiền là trong khi cụ Trình Quốc
công ung dung di dưỡng tính tình, sống gần một thế kỷ thì Nguyễn Trãi chỉ
lĩnh nhận “phần thưởng” cho bao tận tụy, tâm huyết của mình là án tru di oan
khốc bậc nhất trong lịch sử:

“Ở đời dại dại với khôn khôn

Nào ai biết dại, biết ai khôn?”.

Đánh giá sự dại khôn của Nguyễn Trãi là tùy ở mỗi cách nhìn nhưng sự
vĩ đại của con người ấy thì không thể phủ định.

Trong bài Tùng, có thể khổ thơ tâm huyết nhất của Nguyễn Trãi là khổ
thơ cuối với những lời thơ như được viết ra từ mực mài nước mắt vậy:

“Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày

Có thuốc trường sinh càng khỏe thay

Hổ phách phục linh nhìn mới biết

Dành còn để trợ dân này”.

Không chỉ là xanh kiên trinh của lá, sự vững vàng cột trụ của thớ gỗ
nữa mà lời thơ đã động tới nguồn cội của sức sống mãnh liệt ấy: đó là “thuốc
trường sinh”, là dòng nhựa sống đang từng ngày từng giờ rần rật chảy trong
thân tùng. Nhưng đâu phải cây tùng nào cũng có hổ phách, phục linh. “Thiên
nhiên hổ phách, bách niên phục linh”, phải “đặng nhiều ngày”, đó là điều kiện
trước tiên. Đó phải là những chuỗi ngày sương tuyết sóng gió, bản thân tùng
cũng phải chịu những vết thương nơi cội rễ, dòng nhựa cây chảy vào lòng
đất, lâu năm mới tạo thành hổ phách, phục linh. Cũng như tùng, Nguyễn Trãi
phải gánh chịu bao đau thương:

“Càng một ngày càng ngặt đến xương

Ắt vì số mệnh, ắt văn chương”


Một “khai quốc công thần” được trọng vọng là thế mà chỉ một chút dèm
pha, đau đớn thay, ông đã bị chính minh chủ Lê Lợi mà mình đã cúc cung tận
tụy ra lệnh hạ ngục:

“Trong lao tủi nhục trăm chiều đủ

Bệ ngọc khôn thông một mảnh tiên”

Mới thế mà đã ngậm ngùi xót xa vậy thì khi lãnh thảm án tru di, Ức Trai
còn oan khổ biết chừng nào, song cũng như tuyết sương và các vết thương
chỉ làm cây tùng thêm rắn rỏi, sóng gió cuộc đời cũng chỉ là “lửa luyện” cho
tấm “lòng son” của Nguyễn Trãi thêm rạng ngời:

“Nước càng tuôn đến bể càng cả

Đất một chồng thêm núi một cao”.

Suốt một đời canh cánh vì dân vì nước đến phút cuối cùng, Nguyễn
Trãi vẫn chắt lọc từ những đau thương riêng mình những điều bổ ích, tốt đẹp
để giúp dân - “Dành còn để trợ dân này”. Cả bài Tùng là một trường dụ, duy
nhất trên bề mặt chỉ nổi lên hình tượng tùng nhưng rồi “cuồn cuộn nước triều
đông”, tấc lòng ưu ái của Ức Trai vô hình trung vẫn lồ lộ hiện lên chỉ qua một
chữ “dân” cuối bài. Bất giác trong ta hiện lên hình tượng cây tùng trong bài
Tùng thụ, rút trong tập Hồng Đức quốc âm thi tập.

“Tiết cứng chẳng kinh sương tuyết bén

Tài cao dưỡng để miếu đường dùng”

Cái dâng hiến cho đời của cây tùng ở đây chỉ là “tài cao” chứ không
phải “hổ phách, phục linh” chắt lọc từ máu thịt như cây tùng của Nguyễn Trãi,
đối tượng dâng hiến của nó cũng chỉ là “miếu đường” tôn nghiêm, cao quý
chứ đâu phải “dân” như trong thơ Ức Trai…

Trong truyền thống văn học trung đại phương Đông, hệ thống “đông
thiên tam hữu” gồm tùng, trúc, mai đâu phải là thi đề xa lạ. Biết bao người viết
về tùng trước và sau Nguyễn Trãi. Lời thơ thì chưa hẳn mới mẻ nhưng ý thơ
thì khiến bạn đọc muôn đời sau còn ứa nước mắt. Lo đời hết mình như Ức
Trai thật hiếm trên cõi đời này. “Việc đời đáng rơi nước mắt không thể nói nên
lời” nhưng những tâm tư sâu kín ấy vẫn cồn cào trên từng trang viết, nó là thơ
ông không ngủ hơn năm trăm năm nay rồi. Ca ngợi ức Trai đến như Nguyễn
Mộng Tuân:

“Hoàng các thanh phong ngọc thự tiên

Kinh bang hoa quốc cổ vô tiền”

đến như Lê Thánh Tông - “Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo” - đã là sâu
sắc lắm nhưng thiết tưởng đúng đắn nhất, hợp với lòng người nhất vẫn là bốn
chữ khắc trên bức hoành phi đơn sơ trong đền thờ Nguyễn Trãi tại làng Nhị
Khê: “Bình dị cận dân”. Nói như Xuân Diệu, “núi Tản Viên Nguyễn Trãi, núi
Hoàng Liên Sơn Nguyễn Trãi, núi Chư Lây Nguyễn Trãi mãi in hình lên chân
trời, in bóng xuống lòng sông, ngay cả đến con nước thời gian bao thê kỷ
cũng in hình ngọn núi vĩ đại ấy…

“Nước chảy âu khôn xiết bóng non…”

ĐỀ

Phân tích bài thơ “Cửa biển Bạch Đằng” của Nguyễn Trãi.

BÀI LÀM

Nguyễn Hữu Quang, Nguyễn Lê Tuyết Mai

“Bạch Đằng Giang”, cái tên gọi vang lên biết bao chiến công chói lọi
trong lịch sử vẻ vang của dân tộc. Cảnh trí non sông đất nước hùng vĩ tươi
đẹp nơi đây cũng đã gợi lên biết bao thi hứng cho các nhà văn, nhà thơ, các
bậc anh hùng hào kiệt xưa nay. Nguyễn Trãi, người anh hùng, nhà thơ lớn,
cũng đã có nhiều cảm hứng về dòng sông lịch sử này, tạo nên những bức
tranh tuyệt tác qua thơ văn của ông: “Cửa biển Bạch Đằng” trong “Ức Trai thi
tập” là một trong những bài thơ bất hủ đó. Đứng trước cảnh thiên nhiên hùng
vĩ tươi đẹp, cảm hứng của nhà thơ đã hướng về những trang lịch sử oanh
liệt, những anh hùng hào kiệt của dân tộc đã lập biết bao chiến công. Vẻ đẹp
của cảnh vật vừa nên thơ vừa trang trọng, giàu cảm xúc của một tâm hồn sâu
lắng, nhưng lại vô cùng phóng khoáng:

Mở đầu, hai câu đề:

Biển rung gió bấc thế bừng bừng,

Nhẹ cất buồm thơ lướt Bạch Đằng.

Hai câu thơ đã gợi lên cảnh con thuyền thơ đang giương buồm theo gió
bấc vượt cửa biển Bạch Đằng mênh mông sóng nước. Đây là con thuyền
“vượt” qua làn gió bấc thổi mạnh trên biển. Câu thơ tiếp theo cho ta thấy rõ
thêm thái độ nhà thơ vô cùng ung dung, thư thái, Nguyễn Trãi thăm lại nơi
đây không chỉ là để thưởng ngoạn, mà với một tâm trạng đặc biệt. Hình ảnh
hùng vĩ, tứ thơ khoáng đạt, tất cả tạo nên một cảm hứng mạnh mẽ, vừa nên
thơ vừa dạt dào sức sống. Hình ảnh và giọng thơ gợi cho người đọc thấy một
tâm hồn sống động:

Kình ngạc băm vằm non mấy khúc,

Giáo gươm chìm gãy, bãi bao tầng.

Hai câu thơ trên thể hiện sâu sắc “hổn thơ” đó. Bằng phương pháp ẩn
dụ, một cách viết quen thuộc có ý nghĩa tượng trưng ước lệ, lại tả thực, nhà
thơ cổ điển tài ba này thực sự miêu tả cảnh trí thiên nhiên nơi cửa biển này,
núi non nhấp nhô nổi lên từng khúc đày đặc như những con cá ngạc, cá kình
bị chặt đầu, bị băm thành từng khúc. Bãi sông trải dài với vô vàn binh khí giáo
gươm bọn giặc bỏ lại nơi đây. Câu thơ vừa gợi lên khung cảnh thiên nhiên kì
vĩ, hùng tráng, vừa như gợi lại được những trận đánh của ông cha ta xưa kia
đã từng nhiều phen làm cho giặc xâm lược kinh hoàng. Nguyễn Trãi, người
anh hùng dân tộc đã từng xông pha trận mạc trong cuộc kháng chiến trường
kì chống quân Minh hẳn đã trở về với những kỉ niệm hãy còn nóng bỏng của
mình để liên tưởng đến những chiến công của Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo
ngay trên dòng sông lịch sử này. Trí tưởng tượng của nhà thơ thật là phong
phú đã tạo dựng lại không khí giao tranh dữ dội, sinh tử trong các trận thủy
chiến ác liệt một mất một còn đã từng diễn ra.
Tứ thơ hào hùng, hình ảnh dữ dội được nối tiếp bằng những lời thơ
nhẹ nhàng mà ý tứ:

Quan hà hiểm trở trời kia đặt

Hào kiệt công danh đất ấy từng.

Hai câu luận đối nhau đúng luật thơ qui định, nhưng lại nêu lên một
nhận xét khá tế nhị sâu sắc về cảnh vật thiên nhiên và tài trí con người. Vị trí
hiểm trở của núi non sông nước nơi đây như đã được dựng lên để dành cho
các bậc anh hùng hào kiệt xưa kia, nhờ đó mà lập nên những chiến công
lừng lẫy. Họ đã biết tổ chức và lãnh đạo các cuộc kháng chiến, để giành
thắng lợi vẻ vang. Lối đối của hai câu thơ góp phần khẳng định một chân lí:
cuộc chiến đấu của dân tộc là hợp lẽ trời, là chính nghĩa.

Trước cảnh tượng đó, tác giả cảm thấy lòng se lại nhớ thương các bậc
anh hùng đã bỏ mình vì nước:

Việc trước quay đầu ôi đã vắng,

Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng…

Hai câu kết thể hiện vẻ buồn bâng khuâng tiếc nhớ. Đây cũng chính là
cảm nghĩ sâu lắng của nhà thơ trước cảnh vật. Những trang sử cũ đã đi qua
lâu rồi nhưng trên dòng sông xưa, nhà thơ vẫn như đang tìm bóng những
người anh hùng thuở trước. Câu thơ như một tiếng thở dài, luyến tiếc nhớ lại
những anh hùng đã làm cho lịch sử dân tộc thêm rạng rỡ.

Học bài thơ trữ tình đầy hào khí và tràn ngập lòng yêu thương này của
Nguyễn Trãi, lòng em càng yêu thêm non sông gấm vóc, Tổ quốc, thêm quí
trọng các vị anh hùng dân tộc đầy tài trí và dũng cảm, thêm tự hào những
trang sử oai hùng của dân tộc. Ôi! Dòng sông Bạch Đằng như đang hiện ra
trước mắt em hiền hòa và dữ dội. Từ dòng sông đổ ra biển, phóng tầm mắt ra
xa thấy cả cái lớn lao vĩ đại. Phải chăng “Cửa biển Bạch Đằng” một đề tài
thích hợp với chí khí và tầm cao tư tưởng của Nguyễn Trãi.
Vì thế, bài thơ trên không những nói lên những cảm hứng về chiến
công của các vị anh hùng mà còn nói lên những cảm hứng về thiên nhiên, cái
cao cả về tâm hồn Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc, nhà thơ lớn.

(Trích 100 bài làm văn mẫu lớp chín – NXB Đồng Nai, 1998)

ĐỀ

Bằng những hiểu biết của mình về thơ văn Nguyễn Trãi, em hãy chứng
minh ý kiến sau đây:

“Đọc thơ văn Nguyễn Trãi, chúng ta không chỉ thấm thía lí tưởng nhân
nghĩa mà còn rung động trước tình yêu thiên nhiên thiết tha, đằm thắm của
ông đối với thiên nhiên, đất nước tươi đẹp”.

BÀI LÀM

Nguyễn Ngọc Diệp

(Học sinh lớp 10A, PTTH Nguyễn Huệ, Hà Nội)

Nhắc đến thơ văn thời kì trung đại chắc chúng ta đều nhớ đến Nguyễn
Trãi, ông không chỉ là một nhà chính luận hùng biện có tấm lòng yêu nước
cao cả mà còn là một thi sĩ, một nhà thơ nổi tiếng. Tác phẩm của ông vừa
mang đậm nét tình cảm yêu nước, thương dân vừa tràn đầy tình yêu thiên
nhiên thiết tha đằm thắm. Chính vì vậy, có người đã từng nhận xét về thơ văn
của ông: “Đọc thơ văn Nguyễn Trãi, chúng ta không chỉ thấm thía lí tưởng
nhân nghĩa mà còn rung động trước tấm lòng yêu thiên nhiên, đất nước tươi
đẹp”. Lời nhận xét thật ngắn gọn nhưng đã tổng kết được một nội dung bao
trùm của thơ văn Nguyễn Trãi. Đó là lí tưởng nhân nghĩa và tình yêu thiên
nhiên.

Trước hết, ta hãy nghiên cứu về nội dung thứ nhất “Đọc thơ Nguyễn
Trãi, chúng ta không chỉ thấm thía lí tưởng nhân nghĩa…”. Có lẽ, lí tưởng
nhân nghĩa của ông thể hiện qua các bài văn, bài thơ rất sâu sắc nên khi đọc
thơ ông, người đọc mới có thể nhận xét như thế. Thật vậy, Cáo bình Ngô là
một tác phẩm thể hiện rõ nét lí tưởng nhân nghĩa của ông. Ở ngay hai câu
thơ đầu:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

chúng ta đã cảm nhận được ở ông một tấm lòng yêu thương dân tha thiết,
“yên dân” và “trừ bạo” là hai nhiệm vụ thiêng liêng của dân tộc ta, cũng là hai
ước vọng lớn lao của Nguyễn Trãi. Sông ở thời kì này, Nguyễn Trãi không chỉ
theo lí tưởng “ái quốc, trung quân” (yêu nước tức là trung thành với vua) mà
ông còn theo đuổi hai chữ “yên dân” tức là đem lại sự yên vui, ấm no cho
nhân dân. Đó là một tư tưởng tiến bộ của ông, mang đầy tính nhân đạo cao
cả.

Trong suốt cả tác phẩm, lí tưởng nhân nghĩa được thể hiện như một
sợi chỉ đỏ xâu chuỗi các nội dung, chi tiết. Nguyễn Trãi tố cáo quân thù:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Lẽ nào trời đất dung tha

Ai bảo thần dân chịu được.

Phải có một tấm lòng yêu thương dân tha thiết, lòng căm thù giặc sôi
sục, Nguyễn Trãi mới có được những lời lẽ thật mạnh mẽ như vậy. Càng
thương dân, ngọn lửa căm thù giặc bùng cháy trong ông càng dữ dội. Vì vậy
mà ông:

“Ngẫm thù lớn há đội trời chung

Căm giặc nước thề không cùng sống

Đau lòng, nhức óc, chốc đã mười mấy năm trời

Nếm mật, nằm gai, há phải một hai sớm tối”


Không những thế, lí tưởng nhân nghĩa của ông còn được thể hiện qua
việc tập hợp những người dân:

“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”.

Và lí tưởng nhân nghĩa còn là điểm tựa tinh thần vững chắc khích lệ
quân dân ta đánh giặc.

“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn

Lấy chí nhân để thay cường bạo”

Quân ta và quân giặc, “đại nghĩa” và “hung tàn”, “chí nhân” và “cường
bạo” là những cặp từ đối lập với nhau như nước với lửa. Chính có “đại
nghĩa”, có “chí nhân” mà quân ta mới giành được những thắng lợi rực rỡ sau
này.

Lí tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi không chỉ được thể hiện ở tấm
lòng yêu nước, thương dân mà còn được thể hiện sâu sắc ở lòng rộng mở
bao dung đối với quân giặc:

“Mã Kì, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể
mà vẫn hồn bay phách lạc

Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước
mà vẫn tim đập, chân run”.

Có thể nói, chỉ qua áng thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo, chúng ta
đã cảm nhận được sâu sắc lí tưởng nhân nghĩa của Ức Trai: đó là lòng yêu
nước, thương dân, dùng điều thiện làm điểm tựa tinh thần để đánh giặc. Phải
là một người có tấm lòng yêu thương con người, yêu Tổ quốc nồng nàn thì
Ức Trai mới viết nên được những câu thơ hay như thế.

Ngoài những bài thơ mang đầy tính chính trị, triết lí, Nguyễn Trãi còn có
những bài thơ thể hiện sâu sắc tình cảm yêu quê hương, đất nước. Một trong
những bài thơ đó là Bến đò xuân đầu trại. Ông viết bài thơ này khi về ở ẩn
Côn Sơn:
“Cỏ xanh như khói bến xuân tươi

Lại có mưa xuân nước vỗ trời

Quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách

Con đò gối bãi suốt ngày ngơi”

Đọc hai câu thơ đầu, chúng ta cũng có thể tưởng tượng được một cảnh
đẹp giản dị của bến đò trong những ngày mưa xuân ở nông thôn Việt Nam:
Màu cỏ xanh non hòa quyện với sương sớm mùa xuân mờ ảo tưởng chừng
như sương khói dang bay khắp bến đò. Hòa với màu sắc của cỏ non xanh là
màu sáng huyền ảo của mưa xuân và tiếng nước vỗ trời. Thi sĩ đã sử dụng
biện pháp nghệ thuật so sánh, ví ngầm để vẽ lại bức tranh xuân bằng chất
liệu thiên nhiên ẩn hiện trong gam màu mát nhẹ. Với một tình yêu thiên nhiên
quê hương đất nước, một cảm xúc rất thi sĩ, một tài năng ngôn ngữ tuyệt vời,
Nguyễn Trãi đã đem lại cho chúng ta những câu thơ thật sống động, ở hai
câu thơ sau: Cảnh xuân mở rộng và khơi sâu, con mắt thi sĩ mở rộng, hướng
tới tầm xa, bao quát, nhìn thấu tới cánh đồng đường làng, ông nhận thấy tất
cả như vắng lặng hắt hiu, im ắng, có một chút se buồn trước khung cảnh.
Hình ảnh đặc sắc nhất là con đò nằm đậu ở bến sông, im ắng ngủ say suốt
ngày. Phải chăng con đò ở đây chính là Nguyễn Trãi. Giữa cuộc đời tràn đầy
sức xuân mà “con đò” lại nằm cô đơn như tách biệt với cuộc sống xung
quanh thì thật buồn. Bức tranh xuân được Nguyễn Trãi vẽ lại thật đẹp nhưng
thoảng một nét buồn.

Bên cạnh bài Bến đò xuân đầu trại, chúng ta còn được biết bài Cuối
xuân tức sự với hình ảnh thiên nhiên đặc sắc nhất là trong hai câu cuối:

“Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn

Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan”

Tuy sống cô đơn, nhàn nhã “suốt ngày nhàn nhã khép phòng văn”, lấy
văn chương làm người bạn thân thiết nhưng tâm hồn nhà thơ luôn hướng về
thiên nhiên, chan hòa cùng thiên nhiên. Dường như nhà thơ còn cảm nhận
được từng nét tàn tạ của mùa xuân qua tiếng cuôốc kêu, cảm nhận được cả
cái đẹp của muôn ngàn bông hoa xoan đang rớt xuống sân như những làn
mưa bụi. Hình ảnh “hoa xoan” ở câu cuối thật đẹp. Đọc câu thơ này, ta cảm
nhận thấm thía cái “hồn” của bức tranh xuân và cũng chính là cái hồn của bài
thơ, tâm hồn thi sĩ của Ức Trai.

Tình yêu thiên nhiên của Nguyễn Trãi không chỉ được thể hiện qua các
bài thơ về thời khắc, về các mùa mà còn được thể hiện sâu sắc qua các bài
thơ tả phong cảnh thiên nhiên đất nước:

“Cửa biển có non tiên

Từng qua lại mấy phen

Cảnh tiên rơi cõi tục

Mặt nước nổi hoa sen

Bóng tháp hình trâm ngọc

Gương sông ánh tóc huyền”

(Núi Dục Thúy)

Đọc câu thơ, ta có cảm tưởng như đang đắm chìm trong cảnh đẹp của
thế giới thần tiên: “Mặt nước nổi hoa sen”, “Bóng tháp hình trâm ngọc”,
“Gương sông ánh tóc huyền”. Trong cái đẹp đầy huyền bí ấy dường như
phảng phất bóng dáng của người con gái có mái tóc đen với chiếc trâm ngọc
cài đầu. Cảnh vật tưởng như tĩnh lặng, vắng bóng con người mà lại hóa ra
không. Trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đất nước, Nguyễn Trãi đã có
những cảm xúc thật lớn lao, đầy thơ mộng. Chính những cảm xúc này cùng
với tài năng ngôn ngữ tuyệt vời đã giúp Nguyễn Trãi sáng tác nên những câu
thơ thật hay. Và đây nữa, một bức tranh thiên nhiên không kém phần thơ
mộng:

“Côn Sơn suối chảy rì rầm

Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai

Côn Sơn có đá rêu phơi


Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm

Trong ghềnh thông mọc như nêm

Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm

Trong rừng có bóng trúc râm

Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn…”

(Bài ca Côn Sơn)

Cảnh vật - con người như hòa quyện, gắn bó làm một. Ở nơi đâu trong
cái bao la của Côn Sơn cũng đều thấp thoáng bóng người - tác giả. Người với
cảnh vật như bạn của nhau. Khổ thơ đã biểu hiện rõ nét tình yêu, lòng gắn bó
với thiên nhiên của Nguyễn Trãi.

Ở phần thơ Bảo kính cảnh giới trong Ức Trai thi tập, ta lại được ngắm
và thưởng thức bức tranh cảnh cuối hè:

“Rỗi, hóng mát thuở ngày trường

Hòe lục đùn đùn tán rợp trương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tịn mùi hương”

Nhà thơ miêu tả phong cảnh thiên nhiên bằng nhiều giác quan rất linh
hoạt: hòe thắm màu xanh, hoa lựu phun màu đỏ, một màu đỏ tươi, đậm đà.
Đó là sắc màu đập mạnh vào thị giác, làm đẹp bức tranh. Tiếp đó, nhà thơ
cảm nhận thiên nhiên bằng khứu giác khi nói đến hương sen trong đầm
“Hồng liên trì đã tịn mùi hương”. Thi sĩ đã sử dụng một năng lực quan sát
phong cảnh thật tinh tế đa dạng để tạo dựng một bức tranh mang tính dân dã
nhưng đầy sức gợi cảm, sống động và hấp dẫn.

Có thể nói, qua một số bài thơ, ta bắt gặp ở Nguyễn Trãi một tâm hồn
yêu thiên nhiên tha thiết. Chính vì vậy mà chủ đề về thiên nhiên chiếm một vị
trí quan trọng trong các tác phẩm văn thơ của ông. Đọc những bài thơ này, ta
như thấy thêm yêu Tổ quốc, cảm nhận được vẻ đẹp của núi sông mà chúng
ta chưa một lần đặt chân đến.

Tóm lại, các tác phẩm thơ văn của Nguyễn Trãi đã thể hiện rõ nét tấm
lòng của người anh hùng yêu quê hương, đất nước, cảm thương với nỗi bất
hạnh của nhân dân và nhất là một tấm lòng của người thi sĩ giàu cảm xúc đối
với thiên nhiên, cảnh vật đất nước. Phải chăng, tất cả những tình cảm đó là
nguồn động lực lớn lao giúp ông viết nên những áng thơ bất hủ truyền lại cho
con cháu đời sau. Thật tự hào cho nền văn học nước nhà Việt Nam có một
“cây đại thụ” văn thơ Nguyễn Trãi.

(Trích Những bài làm văn chọn lọc lớp 10 – Đỗ Kim Hồi (chủ biên)
- NXB Giáo dục, 2000)

ĐỀ

Phân tích tình yêu thiên nhiên, tình cảm gắn bó với cuộc sống nông
thôn trong một số bài thơ của Nguyễn Trãi

BÀI LÀM

Vũ Thu Nga

Nói đến thơ văn của Nguyễn Trãi, người ta luôn luôn ca ngợi áng “thiên
cổ hùng văn” “Bình Ngô đại cáo” và tài thao lược của ông, người được coi là
cánh tay phải của thủ lĩnh Lê Lợi trong kháng chiến chống quân Minh. Nhưng
người ta cũng không thể quên một Nguyễn Trãi rất giàu tình cảm. Thơ trữ tình
của Nguyễn Trãi là tiếng nói của tâm hồn bình dị và vô cùng thanh tao. Tình
yêu thiên nhiên, tình cảm gắn bó cuộc sống nông thôn trong thơ Nguyễn Trãi
là một trong những tình cảm tôt đẹp. Ông sống một cuộc sống thanh đạm
giữa quê hương yêu quí của mình.

Trái tim nhân hậu giàu cảm xúc ấy luôn rung lên những nhịp đập mãnh
liệt trước cảnh sắc thiên nhiên, trước cuộc sông nơi thôn dã. Ông yêu bốn
mùa xuân, hạ, thu, đông, cây cỏ, muông thú, ngọn gió, mây bay và cả trăng
hoa nữa. Thiên nhiên vốn vô tình, nhưng qua con mắt nghệ sĩ Nguyễn Trãi lại
rất hữu tình, cảnh đẹp Côn Sơn vốn đã đáng yêu, nhưng qua lời thơ Nguyễn
Trãi thiên nhiên như thổi linh hồn, trở nên sống động và thành bầu bạn tâm
giao với nhà thơ:

Côn Sơn suối chảy rì rầm

Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai

Côn Sơn có đá rêu phơi,

Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.

Trong ghềnh thông mọc như nêm.

Tìm nơi bóng mát ta lên mà nằm.

Cảnh quê nhà Nguyễn Trãi đẹp như chính tâm hồn ông vậy. Ông đã
cảm nhận nó tinh tế, nhạy bén bằng tất cả các giác quan của mình. Âm thanh
nước suối chảy ông thấy reo rắt trầm bổng “như cung đàn cầm”, phiến đá
bỗng trở thành cái giường để nhà thơ có thể nghỉ ngơi… Dưới bóng mát mát
dịu của rừng trúc tâm hồn ông như bay bổng lâng lâng, như hòa nhập vào tạo
vật. Ông yêu hoa lá cỏ, cây. Ông nói về “tùng, cúc, trúc, mai”, nhưng là trúc
mai trong vườn nhà, chứ không phải hoàn toàn là những hình ảnh ước lệ sáo
mòn, xa cuộc sống:

“Hái cúc ương lan hương bén áo

Tìm mai đạp nguyệt tuyết xâm khăn”.

Nếu chỉ hái một bông cúc, tách một nhành lan thì hương không thể bén
áo. Còn trong áo Nguyễn Trãi hương hoa lan, hoa cúc đã thấm đượm ngọt
ngào, chứng tỏ ông luôn gần gũi bên cây, bên hoa để chăm sóc và cũng để
thưởng thức. Đến bên cúc, đi ương lan, tìm mai để ngắm trong đêm trăng là
một hứng thú của Nguyễn Trãi, tất cả dường như chìm trong ánh trăng, tràn
ngập ánh trăng, màu trắng tinh khiết của hoa mai hòa quyện vào màu sáng
xanh của ánh trăng tạo nên một vẻ đẹp thật tinh khiết trắng trong. Ánh trăng
mờ ảo làm cho tạo vật có vẻ đẹp kín đáo, ẩn hiện. Chắc nhà thơ thức cùng
hoa khuya lắm, nên hơi lạnh đã “xâm khăn”, ngấm vào da, vào thịt khiến nhà
thơ tưởng hơi lạnh là tuyết, “tuyết xâm khăn”. Cũng vì sống luôn chan hòa
gắn bó cùng cảnh vật thiên nhiên nên ông coi thiên nhiên là những người bạn
thân thiết gần gũi nhất, chúng đã luôn an ủi vỗ về ông trong lúc buồn bã, cô
đơn:

Núi láng giềng, chim bầu bạn

Mây khách khứa, nguyệt anh tam.

Ngọn núi trước nhà là láng giềng, những cánh chim trời như bầu bạn
của tác giả. Gió thổi mây bay, mây là khách quí của ông, còn trăng thì như
người anh em trong một nhà. Tất cả đều gần gũi và gắn bó đến mức không gì
chia rẽ nổi. Tình cảm của ông dành cho thiên nhiên với con người. Tác giả và
thiên nhiên là hai mà như một, thật tri âm tri kỉ:

Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén

Uống rượu thưởng trăng, ông ngắm trăng và ánh trăng đẹp đến nỗi ông
như uổng trăng để tận hưởng vẻ đẹp thấm vào tận tâm hồn. Ánh trăng rọi vào
chén rượu, ông đưa chén rượu lên môi, chưa uống mà đã ngây ngất chẳng
những vì men nồng mà còn vì vẻ đẹp của trăng. Từ “hớp nguyệt” khiến ta liên
tưởng đến hình ảnh con cá chép hớp khí vào đêm trăng tưởng như đang hớp
trăng, trong một bức tranh dân gian chẳng biết có tự bao giờ. Và cũng gợi cho
người đọc nhớ tới một câu ca dao từng làm xao động tâm hồn bao thế hệ:

Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?

Điều đó chứng tỏ thơ của Nguyễn Trãi thật gần gũi quen thuộc với
chúng ta. Điều đó xuất phát từ chính tâm hồn vô cùng gắn bó với cuộc sống
bình dân của nhà thơ.. Tuy cuộc đời ông có nhiều éo le gặp nhiều cay đắng
gian truân, nhưng tâm hồn ông vẫn toát lên vẻ bình thản khoan thai, ông vẫn
giữ niềm lạc quan yêu đời:

Rỗi, hóng mát thuở ngày trường

Hòe lục đùn đùn tán rạp trương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ


Hồng liên trì đã tịn mùi hương

Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương

Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương

Lúc rỗi rãi, thanh nhàn nhất ông tìm ra cho mình một hứng thú, đó là
ngồi hóng mát để cho tinh thần sảng khoái. Qua con mắt nhà thơ, phong cảnh
mùa hè ở một làng quê được vẽ lên sống động, mà trong đó nhìn những hình
ảnh, âm thanh, hương vị… vừa gần gũi, vừa thanh cao. Thơ của ông giàu
hình ảnh, màu sắc, nhạc điệu, sắc hòe màu xanh lục tươi tắn dày đặc, cành
lá đan sít vào nhau tạo ra “bóng rợp trương”. Con người dưới bóng mát tỏa
rộng, được màu xanh êm ả dịu dàng trùm lên làm tan đi cái oi ả của mùa hè,
mang lại cho nhà thơ sự thư thái trong tâm hồn, điều đó là nguồn an ủi: thiên
nhiên luôn là người bạn trung thành của ông vậy. Thông thường người ta nói
lựu đỏ rực hoa, nhưng Nguyễn Trãi diễn tả sắc đỏ của hoa lựu rực lên bằng
từ “phun”. Từ này làm cho hình ảnh cây lựu sống động hơn nhiều, khắc họa
rõ nét sự sinh sôi nảy nở mạnh mẽ, tràn đầy sức sống của nó. Hiên nhà như
phun ra thức đỏ, nền hiên màu trắng với những đốm đỏ rực, rập rờn như lửa.
Hình ảnh đó thật tuyệt vời. Và đã vào cuối hè, nhưng hình ảnh mùa hè vẫn
còn hiện diện đâu đây, trong ao, tuy không còn hương thơm của sen, nhưng
vẫn còn gương sen. Giữa không gian êm ru của trưa hè, đến cả hương hoa
cũng lắng lại, một âm thanh lao xao từ làng xa vọng lại cũng mang đến cho
nhà thơ một niềm vui, bởi đó là dấu hiệu của một cuộc sống. Tiếng ve mùa hè
ran ran, Nguyễn Trãi nghe mà tưởng là đàn cầm rung dây. Ông đón nhận
thiên nhiên bằng cả tâm hồn, ngắm cảnh nhưng vẫn lắng nghe, như đón đợi
một âm thanh của làng quê, của sự sống, của con người thôn quê. Thiên
nhiên trong hồn thơ Nguyễn Trãi là tất cả cảnh sắc xung quanh mình, cảnh
sắc thông qua lăng kính người nghệ sĩ trở nên sống động có linh hồn. Là
người yêu thiên nhiên, yêu con người nên ông cũng ao ước cho người dân có
cuộc sống sung sướng, hạnh phúc. Ước mơ đó thật đẹp đẽ, chan chứa tình
người:

Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương

Ông yêu cảnh vật xung quanh mình đến mức đau xót, khi chứng kiến
sự phai tàn của thiên nhiên, ông trân trọng nâng niu từng bông hoa trên cành,
và ông còn xót thương cho cánh hoa khi đã rụng, ông không dám đưa chổi
quét, sợ làm nát thêm cánh hoa rơi:

Hé cửa đêm chờ hương quế lọt

Quét hiên ngày lệ bóng hoa tàn.

Trong đêm tĩnh lặng, ông hé cửa để chờ gió đưa hương quế vào và
cũng là mở lòng mình đón nhận, đợi chờ hương quế nồng nàn trong đêm.
Sáng ra, quét hiên nhưng lại e ngại khi nhìn thấy những cánh hoa rụng, sợ
rằng cánh hoa rụng xuống kia sẽ nát thêm. Câu thơ biểu lộ tình cảm hòa nhập
gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên. Trong cảm nhận của nhà thơ, thiên nhiên
như có linh hồn, một cánh hoa rơi cũng xót xa đau đớn. Tình cảm trân trọng
thương yêu đối với cái đẹp bị tàn phai theo năm tháng, trước sự hững hờ của
nhân thế chứng tỏ tâm hồn thi sĩ, chứng tỏ trái tim nhân đạo sâu sắc của
người anh hùng Nguyễn Trãi.

Qua thơ Nguyễn Trãi, ta thấy cảnh vật với con người hòa quyện vào
nhau, tình người đối với hoa lá cỏ cây tha thiết biết bao!

Được làm quen, tiếp xúc với thơ trữ tình của Nguyễn Trãi người đọc
như được truyền thêm tình yêu thiên nhiên cuộc sống nông thôn từ thi nhân.
Tình yêu chân thật đã góp phần tạo nên sức sống vĩnh cửu cho thơ ông. Đọc
thơ ông, ta cảm thấy mình thêm yêu đời và thêm yêu cuộc sống, yêu thiên
nhiên đất nước. Nói một cách khác, tình yêu thiên nhiên trong thơ Nguyễn
Trãi khiến cho tâm hồn chúng ta ngày nay thêm phong phú giàu có và tinh tế.
Ở đề tài miêu tả thiên nhiên, thơ Nguyễn Trãi rõ ràng đã ghi nhận được
những thành công đáng kể. Có thể nói rằng ông là một trong những tác giả
tiêu biểu có những thành công sớm nhất trong việc sử dụng ngôn ngữ dân
tộc, miêu tả sinh động cảnh sắc dân tộc. Những dòng thơ miêu tả thiên nhiên
bất hủ của Đoàn Thị Điểm, của Nguyễn Du, của Nguyễn Khuyến sau này ít
nhiều có phần đã được Nguyễn Trãi khơi nguồn từ những thế kỉ trước. Điều
đó đã đưa nhà thơ lên vị trí vinh quang trong lịch sử văn học dân tộc.

(Trích 100 bài làm văn mẫu lớp chín - Nguyễn Hữu Quang,
Nguyễn Lê Tuyết Mai - NXB Đồng Nai, 1998)

ĐỀ

Nói về Nguyễn Trãi, có ý kiến cho rằng “Ở ông, ta bắt gặp một nhà
chiến sĩ và thi sĩ”. Hãy trình bày suy nghĩ của em về ý kiến trên.

BÀI LÀM

Vân Trang

(Trường PTTH Ngô Quyền - Đồng Nai)

Nhắc đến Nguyễn Trãi, có người khâm phục ông ở tài năng quân sự,
có người khâm phục ông là con người có tình yêu thiên thiên, yêu quê hương
đất nước thiết tha. Có ý kiến cho rằng: “Ở ông, ta bắt gặp một nhà chiến sĩ và
thi sĩ”. Cuộc đời và thơ văn của Nguyễn Trãi đã giúp ta hiểu rõ hơn ý kiến
trên.

Nguyễn Trãi luôn canh cánh nỗi lo phò dân giúp nước. Vì thế mà cuộc
đời, cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, ông luôn đem tài sức ra giúp dân, giúp
nước. Từ lúc bôn ba tìm đường cứu nước đến khi về ở ẩn ở Côn Sơn, lúc
nào Nguyễn Trãi cũng nghĩ đến dân, làm sao cho dân được ấm no, hạnh
phúc, dù biết rằng:

“Nhân sinh thức tự đa ưu hoạn”


Vì thế mà, khi vua Lê Thái Tông mời ra giúp nước lần thứ hai, ông vẫn
nhận lời dù tuổi cao, sức yếu như cây tùng đến cuối đời vẫn đem các vị thuốc
quý để cứu dân:

“Hổ phách, phục linh nhìn mới biết

Dành còn để trợ dân này”

(Tùng)

Tài chính trị của Nguyễn Trãi còn được đưa vào ngòi bút “đủ sức đánh
tan mười vạn quân”. Trong chiến tranh, ông dùng ngòi bút ấy dụ hàng
Phương Chính (thư dụ Phương Chính) khiến giặc phải rút quân về nước mà
ta không tốn một mũi tên.

Trong thời bình, ông dùng ngòi bút ấy để khuyên vua nên chăm lo đến
đời sông nhân dân “khiến nơi thôn cùng xóm vắng không một tiếng kêu hờn
giận oán sầu”, dạy thái tử trong “những việc kính trời chăm dân không dám
khinh suất chỗ nào” (Răn bảo thái tử). Cũng chính ngòi bút ấy đã cảnh cáo
bọn tham tàn sâu dân mọt nước:

“Chớ cậy sang mà ép nề

Lời chẳng phải vưỡn không nghe

Làm người mà cậy khi quyền thế

Có thuở bàn cờ tốt đuổi xe”.

Ông cảnh cáo bọn chúng đừng ỷ quyền thế mà ức hiếp nhân dân, ông
chỉ ra cho chúng là có ngày nhân dân, những con tốt trong bàn cờ, sẽ đứng
lên trị tội chúng, những con xe đang nghênh ngang tự đắc.

Không chỉ lỗi lạc trong lãnh vực quân sự, chính trị, Nguyễn Trãi còn là
một thi sĩ xuất sắc “là cây đại thụ tỏa bóng mát che rợp thi đàn thế kỷ XV”,
như lời của người đời sau nhận xét về ông.

Tâm hồn ông luôn chan hòa mở cửa đón thiên nhiên, hòa nhập với đất
trời. Với ông, thiên nhiên chính là người bạn rất đỗi thân thiết.
Từ cảnh bến đò xuân hoang vắng, thiếu bóng người đến cảnh chợ cá
làng chài rộn rịp, tắt cả đều được đưa vào thơ ông thật sinh động và tràn
ngập sức sống.

“Độ đầu xuân thảo lục như yên

Xuân vũ thiên tai thủy phách thiên

Dã kính hoang lương hành khách thiểu

Cô châu trấn nhật gác sa miên”

(Trại đầu xuân độ)

Dịch thơ:

“Cỏ xanh như khói bến xuân tươi

Lại có mưa xuân, nước vỗ trời

Quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách

Còn đò gối bãi suốt ngày ngơi”

(Bến đò xuân đầu trại)

Một thảm cỏ xanh mướt, một làn mưa rắc nhẹ xuống bến đò, hợp cùng
những con sông khiến người ta có cảm giác “nước vỗ trời”, một con đường
không bóng người qua lại, vắng đến mức “quạnh quẽ”, một con đò tưởng
chừng bình thản nằm “gối bãi”, nhưng thực ra đang mơ đến một ngày được
lướt sóng ra khơi. Tất cả là một bức tranh thủy mặc đã được Nguyễn Trãi vẽ
lên không phải bằng cọ, bằng màu mà cảnh cứ hiển hiện ra trước mắt người
ta.

Cảnh sinh hoạt ở làng quê cũng được đưa vào thơ Nguyễn Trãi với tất
cả nét chân thực vốn có của nó:

“Lao xao chạ cá làng ngư phủ

Dắng doi cầm ve lầu tịch dương”

(Cảnh tình mùa hè)


Những âm thanh bình thường trong sinh hoạt làng quê Việt Nam giờ
đây đã trở thành âm điệu rộn ràng của cuộc sống trù phú khiến người đọc
tưởng chừng đang nghe và say cùng cảnh, cùng người.

Là một quan đại thần, một tướng lĩnh tài ba nhưng ta vẫn thấy trong
Nguyễn Trãi nét ý nhị và không kém phần hóm hỉnh của một nhà thơ:

“Tình thư một bức phong còn kín

Gió nơi đâu gượng mở xem”

(Cây chuối)

Ý nhị mà đậm đà làm sao! Một bức thư tình - nõn chuối cuộn kín lại,
trông thật hấp dẫn mà chẳng ai dám mở xem. Chỉ có gió tinh nghịch len lén
gượng mở ra xem, chỉ “gượng” mà thôi, ở đây, gió đã được nhà thơ thổi vào
nét tinh nghịch của một tâm hồn trẻ trung đến kinh ngạc. Ta lại bắt gặp một
nét mới trong tâm hồn người chiến sĩ và thi sĩ: phóng khoáng và tươi trẻ đến
lạ kỳ.

L.Tônxtôi đã từng nói: “Người ta nghiêng mình trước tài năng nhưng
phải cúi đầu trước lòng nhân”, ở Nguyễn Trãi hội tụ cả hai yếu tố khiến người
ta vừa phải cúi đầu, vừa phải nghiêng mình. Chính tư tưởng nhân nghĩa luôn
có trong Nguyễn Trãi đã giúp ông trở thành nhà chiến sĩ và thi sĩ tài hoa, lỗi
lạc. Phương châm của ông là: “Nhân nghĩa duy trì quốc thái an” (Nhân nghĩa
duy trì thế nước yên). Dù bất cứ lúc nào, ở đâu, ông cũng luôn tâm niệm là
phải lấy dân làm gốc. Ông đánh giặc trừ tham tàn là vì dân: “Việc nhân nghĩa
cốt ở yên dân. Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” (Bình Ngô đại cáo) ông không
phải là kẻ hiếu chiến mà luôn đặt nhân nghĩa lên đầu.

“Họ đã tham sống sợ chết, mà hòa hiếu thực lòng

Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”

(Bình Ngô đại cáo)

Ông ra làm quan với mục đích là lo cho dân có cuộc sống ấm êm như
thời vua Nghiêu, vua Thuấn:
“Đọc sách thời thông đòi nghĩa sách

Chân dân mạ nỡ mất lòng dân

Dân Nghiêu Thuấn, vua Nghiêu Thuấn

Dường ấy ta đã phỉ sở nguyền”

Ngay cả trong những bài thơ tả cảnh của ông ta vẫn thấy bóng dáng
cảnh sống bình dị ở thôn quê, cảnh sinh hoạt của nhân dân, cuộc sống ấm
êm được ông ca ngợi.

Trải qua mười năm sống trong dân, mười năm chiến đấu nhờ sức dân,
Nguyễn Trãi đã trở thành người cha hết lòng vì những con đỏ, dân đen.

Nguyễn Trãi là một thi sĩ tài hoa, một chiến sĩ, lỗi lạc luôn đặt tư tưởng
nhân nghĩa lên đầu. Ông thật xứng đáng với lời ca ngợi của Lê Thánh Tông:

“Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”

(Ức Trai lòng dạ sáng sao khuê)

Người chiến sĩ là người chiến đấu dể bảo vệ cuộc sống an lành của
nhân dân. Thi sĩ là người làm thơ về cuộc sống, về cảnh vật quê hương đất
nước. Trong con người Nguyễn Trãi, nhà chiến sĩ và Ức Trai luôn tồn tại song
song bên nhau.

(Trích 100 bài làm văn mẫu lớp chín - Nguyễn Hữu Quang,
Nguyễn Lê Tuyết Mai - NXB Đồng Nai, 1998)

MỘT SỐ ĐỀ LÀM VĂN


1. Phân tích bài Thuật hứng 24, qua đó làm rõ tình yêu thiên nhiên và
nhân cách cao đẹp của Nguyễn Trãi.

2. Phân tích bài thơ Bảo kính cảnh giới 43, qua đó làm rõ bút pháp
miêu tả thiên nhiên đặc sắc và tấm lòng thương dân của Nguyễn Trãi.

3. Chứng minh tinh thần “đại nghĩa, chí nhân” xuyên suốt bài Bình Ngô
đại cáo của Nguyễn Trãi.
4. Qua thơ văn Nguyễn Trãi đã học (và đã đọc), hãy chứng minh nhà
thơ có một đời sống trong sạch, một lòng vì nước vì dân.

5. Vẻ đẹp thiên nhiên đất nước qua bài Dục Thúy Sơn của Nguyễn
Trãi.

6. Cảm quan nghệ thuật về thiên nhiên và lịch sử của Nguyễn Trãi
trong bài thơ Bạch Đằng hải khẩu.

7. Bình Ngô đại cáo được xem là một áng “thiên cổ hùng văn”. Hãy
phân tích và chứng minh tính chất hùng văn của bài cáo.

8. Trong bài Thuật hứng 5, Nguyễn Trãi có viết:

“Bui một tấc lòng ưu ái cũ

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”

Hãy phân tích hai câu thơ trên và chứng minh tấm lòng ưu ái của
Nguyễn Trãi luôn bộc lộ trong thơ văn ông.

NIÊN BIỂU NGUYỄN TRÃI


1380 (Canh Thân) - Nguyễn Trãi, hiệu ức Trai, sinh tại dinh quan Tư đồ
Trần Nguyên Đán (1325 - 1390) ở Thăng Long, nay thuộc Hà Nội.

- Cha: Nguyễn Ứng Long (tức Nguyễn Phi Khanh), hiệu Nhị Khê (1356 -
1429). Người làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay thuộc
huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương); sau dời đến làng Ngọc Ổi, huyện Thượng
Phúc, lộ Đông Đô (nay thuộc xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây).
Thi đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) đời Long Khánh thứ 2 nhà Trần (Giáp Dần -
1374).

- Mẹ: Trần Thị Thái, con gái Trần Nguyên Đán và là học trò Nguyễn Phi
Khanh.

- Quân Chiêm Thành sang đánh Thanh Hóa, Nghệ An.

1381 (Tân Dậu) - Thi Thái học sinh.

1382 (Nhâm Tuất) - Quân Chiêm Thành sang đánh Thanh Hóa.
1383 (Quý Hợi) - Chế Bồng Nga sang đánh Quảng Oai. Vua Trần Phế
Đế bỏ chạy khỏi kinh đô Thăng Long.

1384 (Giáp Tý) - Thi Thái học sinh.

1385 (Ất Sửu) - Triều Minh sai sứ sang xin 20 nhà sư. Mùa thu, Trần
Nguyên Đán cáo quan về nghỉ ở Côn Sơn. Trần Thị Thái qua đời, thọ 39 tuổi.

- Nguyễn Trãi về Nhị Khê ở với cha.

- Anh hùng dân tộc Lê Lợi sinh (ngày 6 tháng tám âm lịch)

1387 (Đinh Mão) - Thượng hoàng Trần Nghệ Tông giao Hồ Quý Ly
(1336 - 1407) chức Đồng bình chương sự.

1388 (Mậu Thìn) - Hồ Quý Ly cùng Nghệ Tông mưu giết Phế Đế và đưa
con út Nghệ Tông là Ngung lên làm vua, tức Trần Thuận Tông.

1389 (Kỷ Tỵ) - Nguyễn Thanh, Nguyễn Kỵ khởi nghĩa ở Thanh Hóa; sư
Phạm Sư ôn nổi dậy ở vùng Quốc Oai - Hà Tây. Chế Bồng Nga đánh ra
Thanh Hóa. Hồ Quý Ly và quân nhà Trần rút chạy.

1390 (Canh Ngọ) - Quân dân nhà Trần đánh quân Chiêm Thành ở sông
Hoàng Giang (?), Chế Bồng Nga tử trận. Trần Nguyên Đán mất, thọ 65 tuổi.
Khoảng cuối đời ông có thơ cảnh báo nguy cơ triều chính suy vi.

1392 (Nhâm Thân) - Đại hạn. Triều đình cầu lời nói thẳng.

- Hồ Quý Ly soạn 14 thiên Minh đạo công kích Nho giáo và dâng Nghệ
Tông.

1393 (Quý Dậu) - Thi Thái học sinh.

- Thi tuyển quan lại.

1394 (Giáp Tuất) - Thượng hoàng Trần Nghệ Tông mất vào tháng
mười hai âm lịch (tháng 1-1395).

1396 (Bính Tý) - Hồ Quý Ly soạn sách Thi nghĩa và viết bài tựa bằng
chữ Nôm. Phát hành loại tiền giấy “Thông báo hội sao” và định phép thi tứ
trường. Nâng cao chất lượng giới tăng lữ và lệnh cho các sư chưa đến 50
tuổi phải hoàn tục.

- Hồ Quý Ly thi hành phép hạn điền.

1397 (Đinh Sửu) - Trần Thuận Tông ra chiếu dụ về việc lập trường học
và chức Giáo thụ ở các phủ, lộ.

- Hồ Quý Ly ép Thuận Tông dời đô từ Thăng Long về Thanh Hóa.

1398 (Mậu Dần) - Hồ Quý Ly ép Thuận Tông ban bố chiếu truyền ngôi
cho Thái tử Ấn (tức Trần Thiếu Đế) để đi tu tiên.

1399 (Kỷ Mão) - Hồ Quý Ly buộc Thuận Tông ra ở quán Ngọc Thanh
thuộc thôn Đạm Thủy (Đông Triều - Hải Dương, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh)
và phải chịu chết.

- Nguyễn Nhữ Cái bạo động ở vùng sông Đà.

1400 (Canh Thìn) – Hồ Quý Ly ép Trần Thiếu Đế nhường ngôi cho


mình, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, quốc hiệu là Đại Ngu. Ngay sau đó lại
nhường ngôi cho con thứ là Hổ Hán Thương.

- Thi Thái học sinh. Nguyễn Trãi đỗ cùng Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng
Tuân, v.v… cộng 20 người.

1401 (Tân Tỵ) - Hồ Hán Thương ban hành chính sách hạn nô.

- Nguyễn Ứng Long đổi tên là Nguyễn Phi Khanh, ra làm quan với nhà
Hồ, giữ chức Viện Hàn lâm kiêm Tư nghiệp Quốc tử giám.

- Nguyễn Trãi được bổ dụng chức Ngự sử đài Chánh chưởng.

1402 (Nhâm Ngọ) - Hồ Hán Thương đem quân đánh Chiêm Thành,
phong Nguyễn Vi làm Chiêu dụ sứ, Nguyễn Bằng Cử làm Đông chiêu dụ sứ.

1405 (Ất Dậu) - Sứ nhà Minh sang đòi đất Lộc Châu (Lạng Sơn). Nhà
Hồ nhượng 59 thôn ở cổ Lậu cho vua Minh.

- Bộ Lễ thi Cử nhân, lấy đỗ 170 người.

- Thi quan lại.


- Hồ Quý Ly biếm Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ lộ Thăng Hoa, lấy
Phong quốc giám quả cán là Nguyễn Ngạn Quang làm Tuyên phủ sức kiêm
Chế trí sứ trấn Tân Ninh.

- Hồ Quý Ly làm bài thơ Tứ Thăng Hoa lộ Tuyên phủ sứ Nguyễn Ngạn
Quang (Ban cho Nguyễn Ngạn Quang, Tuyên phủ sứ lộ Thăng Hoa).

- Một người tên là ông Kiều vì đem phổ biến bài thơ do Hồ Quý Ly làm
ra để răn dạy Hán Thương và Nguyên Trừng mà bị giết.

- Hồ Hán Thương sai Hoàng Hối Khanh đốc thúc đắp thành Đa Bang
(Hà Tây) chuẩn bị chống quân Minh.

1406 (Bính Tuất) - Hàn Quan và Hoàng Trung chỉ huy 5.000 quân
mượn tiếng đưa Trần Thiêm Bình là con cháu nhà Trần về nước. Quân nhà
Hồ mai phục ở biên giới đánh tan đạo quân Minh, giết Thiêm Bình.

- Mùa thu, nhà Minh chia các tướng Trương Phụ đánh qua cửa ải Pha
Lũy (Nam Quan), Chu Vinh qua ải Chi Lăng, Mộc Thạnh đánh qua vùng biên
ải Vân Nam.

1407 (Đinh Hợi) - Quân Minh chiếm Đông Đô, bắt được cha con Quý Ly
và Hán Thương ở ghềnh Chẩy Chẩy, núi Thiên cầm, cửa biển Kỳ La (Hà
Tĩnh), đổi nước ta làm quận Giao Chỉ và sáp nhập vào lãnh thổ nhà Minh.

- Trương Phụ buộc Nguyễn Phi Khanh gọi Nguyễn Trãi ra hàng và
quản thúc tại thành Đông Quan.

- Nhà Minh tìm bắt người tài giỏi đưa về Kim Lăng, trong đó có Nguyễn
Phi Khanh.

- Trần Quỹ, tức Giản Định Đế, con thứ hai của Trần Nghệ Tông, khởi
nghĩa chống quân Minh, kéo quân đánh ra Đông Đô nhưng thua trận phải rút
vào Nghệ An.

- Tháng Mười, Lê Cảnh Tuân (? - 1416) gửi cho bạn là Bùi Bá Kỳ bức
Vạn ngôn thư (Thư vạn lời), bị giặc Minh phát hiện, phải trốn tránh.
1408 (Mậu Tý) - Nghĩa quân Trần Quỹ thắng lớn ở Bô Cô (xã Hiếu Cổ,
Ý Yên, Nam Định).

1409 (Kỷ Sửu) - Trần Quỹ nghe lời gièm pha nghi Quốc công Đặng Tất
và Tham mưu quân sự Nguyễn Cảnh Chân lộng quyền nên tìm cách giết đi.

- Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị (con Đặng Tất và Nguyễn Cảnh


Chân) bỏ Trần Quỹ, đem quân từ Thuận Hóa ra Thanh Hóa tôn Trần Quý
Khoáng (cháu Nghệ Tông) lên làm vua, đặt niên hiệu Trùng Quang. Một tháng
sau, nghĩa quân đón Trần Quỹ về tôn làm Thái thượng hoàng, thống nhất lực
lượng chống giặc.

- Quân Minh bắt được Trần Quỹ ở Mỹ Lương (Sơn Tây), đưa về Kim
Lăng.

1411 (Tân Mão) - Quân Minh cho mở thêm nhiều trường học.

- Nhà giáo, tiến sĩ Lê Cảnh Tuân bị quân Minh bất giữ ở Đông Quan và
đưa sang Yên Kinh.

1413 (Quý Tỵ) - Trần Quý Khoáng sai Đài quan Nguyễn Biểu đến dinh
Trương Phụ ở Nghệ An vờ “cầu phong”. Nguyễn Biểu vạch rõ âm mưu xâm
lược của nhà Minh, tỏ thái độ can đảm “án cỗ đầu người”, ngay sau đó bị giết
ở bến sông Lam.

- Cuộc khởi nghĩa của Trần Quý Khoáng thất bại, bị bắt giải sang Yên
Kinh cùng các tướng Đặng Dung, Nguyễn Súy, Nguyễn Cảnh Dị…

- Đặng Dung làm bài thơ Cảm hoài nổi tiếng và sau đó tuẫn tiết trên
đường bị giải sang Yên Kinh.

1414 (Giáp Ngọ) - Trần Quý Khoáng nhảy xuống sông tự tử

trên đường bị bắt giải sang Yên Kinh.

1415 (Ất Mùi) - Quan cai trị nhà Minh là Hoàng Phúc đưa một

số nhà nho, thầy tướng số, tăng đạo sang Yên Kinh.
1416 (Bính Thân) - Lê Lợi tể chức hội thề Lũng Nhai để chuẩn bị khởi
nghĩa. Nguyễn Trãi có tên trong số 18 người dự lễ hội thề.

- Nguyễn Trãi dâng Bình Ngô sách.

- Tháng mười một, nhà Minh phái Giám sát Ngự sử Hoàng Tông Tái
sang làm Tuần giáo để xem xét tình hình cai trị của quân Minh ở “quận Giao
Chỉ”.

1417 (Đinh Dậu) - Quân Minh định lệ tuyển người vào Quốc tử giám.

- Các nhóm Lý Sát, Nguyễn Chích nổi dậy ở Thanh Hóa.

1418 (Mậu Tuất) - Ngày 2 tháng giêng (7-2), Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa
ở Lam Sơn (Thanh Hóa), tự xưng là Bình Định Vương.

- Nghĩa quân đánh thắng Mã Kỳ, sau đó phải rút về núi Chí Linh.

- Nguyễn Trãi được giữ chức Tuyên phụng đại phu, Thừa chỉ học sĩ
Viện Hàn lâm.

1419 (Kỷ Hợi) - Nghĩa quân đánh đồn Nga Lạc (Nga Sơn - Thanh Hóa)
rồi phải rút về núi Chí Linh lần thứ hai. Lê Lai đổi áo cứu Lê Lợi.

- Nhà Minh cử Đường Nghĩa mang các loại kinh sách sang để giảng
dạy trong các trường. Thu giữ các nguồn sách vở nước Việt đưa về Yên
Kinh.

- Nhà sư Phạm Ngọc (Đồ Sơn - Hải Phòng) và gia nô nhà Trần là Lê
Ngã (Quảng Ninh) nổi dậy chống quân Minh.

1420 (Canh Tý) - Nghĩa quân đánh thắng giặc ở Thi Giang rồi đến đóng
ở Lỗi Giang (Cẩm Thủy - Thanh Hóa).

1421 (Tân Sửu) - Nghĩa quân đánh thắng đạo quân Trần Trí ở Ba Lẫm
(Lỗi Giang).

1422 (Nhâm Dần) - Nghĩa quân thắng giặc ở Khôi Sách nhưng rồi phải
rút về Chí Linh lần thứ ba.
1423 (Quý Mão) - Lê Lợi chủ trương hòa hoãn với giặc Minh và kéo
quân về Lam Sơn.

- Nguyễn Trãi viết Thư tố oan gửi Sơn Thọ, Mã Kỳ - bức thư giảng hòa
sớm nhất còn lại trong Quân trung từ mệnh tập.

- Lần đầu, nghĩa quân Nguyễn Chích về dự hội nghị ở Lam Sơn, thống
nhất lực lượng chống giặc Minh.

1424 (Giáp Thìn) - Theo kế hoạch của Nguyễn Chích, nghĩa quân đánh
đồn Đa Căng, chuyển hướng vào Nghệ An.

- Nguyễn Trãi viết thư gửi Phương Chính.

1425 (Ất Tỵ) - Tháng giêng, đại quân vây thành Nghệ An và đánh tan
viện binh của Lý An.

- Phương Chính cố thủ trong thành Nghệ An. Nguyễn Trãi viết thư kích
động Phương Chính, dụ địch ra giao chiến.

- Tháng năm, Đinh Lễ đánh tan giặc ở thành Diễn Châu rồi kéo ra bao
vây Tây Đô.

- Tháng chín, Trần Nguyên Hãn đem quân vào giải phóng Tân Bình,
Thuận Hóa.

1426 (Bính Ngọ) Nguyễn Trãi viết thư cho Phương Chính.

- Tiếp tục vây đánh thành Nghệ An.

- Tháng tám, nghĩa quân chia làm 4 đạo tiến ra Bắc bao vây Đông
Quan (Hà Nội), chặn đường rút lui của Phương Chính về Đông Quan và chặn
viện binh từ Vân Nam sang.

- Tháng mười, Vương Thông kéo quân vào Đông Quan.

- Nghĩa quân thắng lớn ở Tốt Động (Mỹ Lương - Sơn Tây). Vương
Thông rút chạy về cố thủ trong thành Đông Quan.

- Lê Lợi dời đại bản doanh đến Tây Phù Liệt (Thanh Trì - Hà Nội), vây
chặt Đông Quan.
- Tháng mười một, Lê Lợi lập Trần Cảo làm vua, đặt niên hiệu Thiên
Khánh.

- Tháng mười hai, Vương Thông xin hòa.

- Nguyễn Trãi viết thư trả lời Tổng binh Vương Thông và Thái giám Sơn
Thọ.

- Ban dụ cầu hào kiệt, mở khoa thi “minh kinh”. Đào Công Soạn đỗ đầu.

1427 (Đinh Mùi) - Lê Lợi dời bản doanh đến đóng ở dinh Bồ Đề (Gia
Lâm - Hà Nội), dựng lầu cao quan sát tình hình địch trong thành Đông Quan.

- Nguyễn Trãi được phong Thượng thư bộ Lại, Triều liệt đại phu, Nhập
nội Hành khiển kiêm trông coi công việc ở Viện Xu mật, soạn thảo thư từ địch
vận và các văn kiện chính trị, ngoại giao.

- Nguyễn Trãi viết thư dụ hàng các thành Thuận Hóa, Tây Đô, Đông
Quan…

- Tháng ba, Nguyễn Trãi cùng hàng tướng họ Tăng đến dụ hàng thành
Tam Giang thắng lợi.

- Nguyễn Trãi liên tục viết thư dụ hàng Vương Thông.

- Tháng chín, tháng mười, đánh tan hai đạo quân cứu viện của Liễu
Thăng ở Chi Lăng (Lạng Sơn), Xương Giang (Bắc Giang) và quân Mộc
Thạnh ở Lãnh Thủy, Đan Xá.

- Nguyễn Trãi đề xuất chủ trương thuyết phục Vương Thông đầu hàng,
được Lê Lợi đồng ý. Nguyễn Trãi năm lần vào thành Đông Quan thuyết phục
Vương Thông đầu hàng.

- Ngày 22 tháng mười một (10 - 12), Vương Thông đầu hàng. Nguyễn
Trãi soạn thảo Văn hội thề. Lễ hội thề được tổ chức ở phía nam thành Đông
Quan.

- Ngày 29 tháng mười một (17 - 12), Sứ bộ Lê Thiếu Đĩnh sang trả ấn
tín của Liễu Thăng, Lý Khánh, Hoàng Phúc cho nhà Minh. Nguyễn Trãi soạn
Biểu cầu phong gửi vua Minh.
- Ngày 12 tháng mười hai (29 - 12), Vương Thông rút quân về nưđc.

1428 (Mậu Thân) - Tháng giêng, Trần Cảo qua đời.

- Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, đạt niên hiệu Thuận Thiên, quốc hiệu Đại
Việt.

- Nguyễn Trãi được giao viết Bình Ngô đại cáo.

- Lê Lợi định công và phong tước cho các công thần. Nguyễn Trãi được
ban tước Quan Phục hầu, dự hàng quốc tính.

1429 (Kỷ Dậu) - Tháng giêng, Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết Chiếu
lập con là Tư Tề làm Quốc vương.

- Trần Nguyên Hãn bị bức tử. Nguyễn Trãi bị bắt giam một thời gian.

- Mở khoa thi “minh kinh” ở Đông Đô. Lấy đỗ các tiến sĩ đời Trần như
Thiệu Thái, Trình Thuân Du, Phan Phu Tiên…

1430 (Canh Tuất) - Phạm Văn Xảo bị giết và tịch biên gia sản. Nguyễn
Trãi thay mặt Lê Lợi viết Chiếu cấm các đại thần, tổng quản cùng các quan ở
viện, sảnh, cục tham lam, lười biếng.

1431 (Tân Hợi) - Bế Khắc Thiệu bị bắt.

- Mở khoa thi hoành từ ở Bồ Đề.

- Tháng mười hai, Lê Lợi xuống chiếu sai soạn sách Lam Sơn thực lục.

1432 (Nhâm Tý) - Lê Lợi làm thơ khắc vào núi đá sau chiến thắng Đèo
Cát Hãn, Đèo Mạnh Vượng (Lai Châu).

- Nguyễn Trãi làm 4 bài thơ Hạ tiệp mừng chiến thắng.

1433 (Quý Sửu) - Tháng sáu, Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết Chiếu
giáng Tư Tề làm Quận vương và cho Nguyên Long nối ngôi và Chiếu “Hậu tự
huấn” để răn bảo Thái tử.

- Tháng tám, Lê Thái Tổ về thấm Lam Sơn, trở ra Bắc bị ốm rồi qua
đời.

- Lê Nguyên Long lên nối ngôi, tức Lê Thái Tông.


- Tháng mười một, Nguyễn Trãi được giao soạn Văn bia Vĩnh Lăng.

1434 (Giáp Dần) - Lê Thái Tòng xuống chiếu bổ dụng 156 người.

- Nguyễn Trãi được phục chức Hành khiển và Thừa chỉ.

- Nguyễn Trãi khuyên vua lấy nhân nghĩa làm gốc, xin giảm án cho 7
tên tội phạm.

- Lê Thái Tông sai Nguyễn Trãi làm sách Dư địa chí.

- Tháng mười hai, nhân giỗ đầu Lê Lợi, Nguyễn Trãi xin để tang thêm
27 ngày nữa rồi bỏ hẳn.

1435 (Ất Mão) - Nguyễn Trãi cùng Trình Thuấn Du được cử vào tòa
Kinh Diên dạy vua.

1437 (Đinh Tỵ) - Tháng giêng, triều đình giao cho Nguyễn Trãi và Ty
giám bộ Lễ là Lương Đăng soạn lễ nhạc. Hai người bất đồng chính kiến,
Nguyễn Trãi xin từ chức.

- Tháng tư, Nguyễn Trãi dâng vua bộ sưu tập thơ Nôm của Hồ Quý Ly
(1335 -?)

1439 (Kỷ Mùi) - Nguyễn Trãi cáo quan về nghỉ tại Côn Sơn (Chí Linh -
Hải Dương).

- Lê Thái Tông xuống chiếu vời "Nguyễn Trãi ra nhận lại mọi chức tước
cũ, lại phong thêm chức Môn hạ sảnh tả ty Gián nghị đại phu kiêm Tri tam
quán sự, Đề cử chùa Tư Phúc ở Côn Sơn, đặc trách trông coi hai đạo Đông
và Bắc.

- Nguyễn Trãi dâng Biểu tạ ơn.

1440 (Canh Thân) - Lê Thái Tông lập Nghi Dân, bà con phi họ Dương,
làm Thái tử, phong Ngô Thị Ngọc Dao là Tiệp dư.

1441 (Tân Dậu) - Bà Phi Nguyễn Thị Anh sinh Bang Cơ (sau là vua
Nhân Tông).
- Tháng mười một, Nghi Dân bị giáng làm Lạng Sơn vương. Bang Cơ
được lập làm Thái tử.

1442 (Nhâm Tuất) - Tháng ba, mở khoa thi Tiến sĩ đầu tiên. Nguyễn
Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tân ở trong ban giám khảo; Lê Văn Linh làm
Đề điệu.

- Tháng bảy, Ngô Thị Ngọc Dao sinh Lê Tư Thành, sau là Lê Thánh
Tông. Nguyễn Trãi cùng Nguyễn Thị Lộ cứu mẹ con bà thoát khỏi tay hoàng
hậu Nguyễn Thị Anh, đưa tới vùng An Bang (Quảng Ninh) ẩn náu.

- Lê Thái Tông đi duyệt võ ở Phả Lại - Chí Linh có ghé thăm Nguyễn
Trãi ở Côn Sơn. Nguyễn Thị Lộ cùng theo xa giá vua.

- Ngày 4 tháng tám (7-9-1442), vua về đến Lệ Chi Viên (Đại Lai - Gia
Lương - Bắc Ninh) thì mất đột ngột.

- Ngày 16 tháng tám (19-9-1442), vụ án Lệ Chi Viên, Nguyễn Trãi bị tru


di tam tộc. Người vợ lẽ là Phạm Thị Mẫn trốn thoát khi đang có mang, sau
sinh ra Nguyễn Anh Vũ.

1447 (Đinh Mão) - Bản khắc in Dư địa chí bị hủy bỏ.

- Đại Tư đồ Lê Thận, Thái phó Lê Văn Linh qua đời.

1459 (Kỷ Mão) - Nghi Dân nổi loạn, giết mẹ con Lê Nhân Tông, cướp
ngôi vua.

- Tháng sáu, Nguyễn Xí giết Nghi Dân, đưa Lê Tư Thành lên ngôi tức
vua Lê Thánh Tông.

1464 (Giáp Thân) - Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan, truy tặng tước
Tán Trù bá, bổ dụng Anh Vũ làm Tri huyện và cấp 100 mẫu ruộng dùng vào
việc thờ cúng.

1467 (Đinh Hợi) - Lê Thánh Tông xuống chiếu cho Trần Khắc Kiệm sưu
tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi.

1480 (Canh Tý) - Trần Khắc Kiệm hoàn thành việc sưu tập thơ chữ Hán
Nguyễn Trãi và đề tựa Ức Trai di tập.
1512 (Nhâm Thân) - Lê Tương Dực truy tặng Nguyễn Trãi tước Tế Văn
hầu.

1822 (Nhâm Ngọ) - Cấn Đình Dương Bá Cung (1794-1868) là người


làng và Nguyễn Thâm (hậu duệ Nguyễn Trãi) soạn lại Gia phả họ Nguyễn Nhị
Khẽ và viết lời tựa.

1868 (Mậu Thìn) - Bộ sách Ức Trai di tập, 7 quyển, do Dương Bá Cung


sưu tập, biên soạn đã được nhà Phúc Khê tàng bản in xong.

1962 (Nhâm Dần) - Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức kỷ
niệm lần thứ 520 ngày mất Nguyễn Trãi.

1980 (Canh Thân) - Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Tổ chức Văn hóa - Khoa học và Giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) tổ
chức kỷ niệm lần thứ 600 năm sinh danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi.

(Theo Nguyễn Trãi, về tác gia và tác phẩm –

Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu,

NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999)

THƯ MỤC THAM KHẢO CHÍNH


1. Bùi Văn Nguyên, 1984, Văn chương Nguyễn Trãi, Hà Nội, Đại học và
Trung học Chuyên nghiệp.

2. Bùi Văn Nguyên (chủ biên), 1995, Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 4,
Hà Nội, Khoa học Xã hội.

3. Bùi Văn Nguyên (chủ biên), 1995, Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 5,
Hà Nội, Khoa học Xã hội.

4. Đinh Gia Khánh,… 1992, Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu
thế kỉ XVIII, T.1, TP.HCM, Đại học và Trung học Chuyên nghiệp.

5. Hồ Sĩ Hiệp, 1997, Nguyễn Trãi - tác phẩm văn học trong nhà trường,
TP. HCM, Văn nghệ.
6. Hội Văn Nghệ (nhiều tác giả), 1980, Nguyễn Trãi - Thăng Long Hà
Nội, Hà Nội, Sở Văn hóa và Thông tin.

7. Lê Bảo, 1996, Nguyễn Trãi - Nhà văn và tác phẩm trong trường phổ
thông. TP.HCM - Giáo dục.

8. Lê Trí Viễn, Đoàn Thu Vân, 1993, Học tập thơ văn Nguyễn Trãi,
TP.HCM, Giáo dục.

9. Lê Trí Viễn (chủ biên), 1997, Văn học trung đại Việt Nam (giáo trình
Đại học Sư phạm), TP.HCM, Ban Ấn bản phát hành Nội bộ ĐHSP.

10. Nguyễn Hữu Sơn, 1999, Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm,
TP.HCM, Giáo dục.

11. Nguyễn Lương Bích, 1975, Nguyễn Trai đánh giặc cứu nước, Hà
Nội, Quân đội Nhân dân.

12. Trần Văn Giàu, 1983, Trong dòng chủ lưu của Văn học Việt Nam:
tư tưởng yêu nước, TP.HCM, Văn nghệ.

13. Trần Văn Giàu, 1993. Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam, TP.HCM, Văn nghệ.

14. Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Sử học, 1976, Nguyễn
Trãi toàn tập, Hà Nội, Khoa học Xã hội.

15. Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Sử học, 1980, Nguyễn
Trãi thân thế và sự nghiệp, Hà Nội, Khoa học Xã hội.

16. Xuân Diệu, 1981, Các nhà thơ cổ điển Việt Nam - tập 1, Hà Nội,
Văn học.

MỤC LỤC
Phần một: TỔNG QUAN

Nguyễn Trãi - Thân thế và sự nghiệp - Đoàn Thị Thu Vân

Phần hai: CÁC BÀI NGHIÊN CỨU VỀ NGUYỄN TRÃI


Bút pháp Quân trung từ mệnh tập - Đinh Gia Khánh

Bình Ngô đại cáo, hùng văn muôn thuở - Mai Quốc Liên

Ức Trai thi tập - Những vần thơ chất nặng suy tư - Trương Chính

Chất Đại Việt trong Ức Trai thi tập - Lê Trí Viễn

Niềm thao thức lớn trong thơ Nguyễn Trãi - Nguyễn Huệ Chi

Cảm quan mùa xuân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi - Nguyễn Hữu Sơn

Phần ba: CÁC BÀI PHÂN TÍCH, BÌNH GIẢNG THƠ VĂN NGUYỄN TRÃI

Thuật hứng XXIV - Trần Thị Thìn

Bạch Đằng hải khẩu - Nguyễn Đức Quyền

Binh Ngô đại cáo - Mai Quốc Liên

Bảo kính cảnh giới - Lê Trí Viễn

Trúc - Bùi Văn Nguyên

Tùng - Lê Trí Viễn & Đoàn Thị Thu Vân

Cây chuối - Nguyễn Đình Chú

Cây chuối - Nguyễn Đăng Mạnh…

Dục Thúy Sơn - Đoàn Thị Thu Vân

Phần bốn: CÁC BÀI VĂN HAY CỦA HỌC SINH

Một số đề làm văn

Niên biểu Nguyễn Trãi

Thư mục tham khảo chính

---//---

TIẾP CẬN THƠ VĂN NGUYỄN TRÃI

Tiến sĩ ĐOÀN THỊ THU VÂN (biên soạn)

HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP


1. GS. Hoàng Như Mai

2. GS. Trần Hữu Tá

3. GS. Nguyễn Lộc

4. Nhà giáo Trần Phò

5. TS. Lê Tiến Dũng

NHÀ XUẤT BẢN TRẺ

HỘI NGHIÊN CỨU & GIẢNG DẠY VĂN HỌC TPHCM

Chịu trách nhiệm xuất bản: LÊ HOÀNG

Chịu trách nhiệm nội dung: GS. HOÀNG NHƯ MAI

Biên tập: TRẦN THỊ KHÁNH

Vẽ bìa: VIỆT HẢI

Sửa bản in: NGỌC HUYỀN

NHÀ XUẤT BẢN TRẺ

161B Lý Chính Thắng - Quận 3 - Thành phố Hồ Chí Minh

ĐT: 9.316289 - 9.317849 - 9.316211

E-mail: nxbtre@hcm.vnn.vn

In 2.000 cuốn, khổ 14x20cm, tại Xí nghiệp in Nguyễn Minh Hoàng. Địa chỉ:
100 Lê Đại Hành, P.7, Q.11, TP. HCM. ĐT: 8555812. Số đăng ký kế hoạch
xuất bản 1108/75-CXB. Do Cục xuất bản cấp ngày 14/8/2001 và giấy trích
ngang KHXB số 933/2001. In xong và nộp lưu chiểu tháng 10 năm 2001.

You might also like