You are on page 1of 18

NGUYỄN TRÃI

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, Nguyễn Trãi là một
nhân vật kiệt xuất. Trí tuệ, tài năng và phẩm chất của ông là ánh sao Khuê
không bao giờ lụi tắt, soi sáng tới tận muôn đời sau. Ông là “ khí phách của dân
tộc, là tinh hoa của dân tộc. Sự nghiệp và tác phẩm của ông là bài ca yêu nước,
tự hào dân tộc”. Ông là một người đa tài,ông không những là một nhà chính trị,
nhà quân sự, nhà ngoại giao thiên tài đã góp công rất lớn trong cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn mà còn là một tác gia xuất sắc với nhiều tác phẩm sống mãi với thời
gian.

Nguyễn Trãi (1380–1442) hiệu là Ức Trai. Ông sinh ra trong một gia đình có
truyền thống khoa bảng và yêu nước. Cha ông là 1 học trò nghèo đỗ Thái học
sinh – Nguyễn Phi Khanh. Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái quan Tư Đồ Trần
Nguyên Đán. Quê gốc Nguyễn Trãi là làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải
Dương nhưng sinh ra ở Thăng Long trong dinh ông ngoại, về sau dời về sống ở
làng Ngọc Ổi, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Nguyễn Trãi từ nhỏ
đã phải chịu nhiều bi kịch.

Năm ông lên 5 tuổi đã phải chịu cảnh mồ côi mẹ. Sau đó không lâu, ông ngoại
cũng qua đời. Ông về ở với cha tại quê nội ở làng Nhị Khê. Cuộc đời của ông là
một chuỗi những gian nan, thử thách.

Năm 1400, sau khi lên ngôi Vua, Hồ Quý Ly mở khoa thi. Nguyễn Trãi ra thi,
ông đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) năm 20 tuổi. Hồ Quý Ly cử ông giữ chức Ngự sử
đài chánh chưởng. Còn cha ông là Nguyễn Phi Khanh đỗ bảng nhãn từ năm
1374, được Hồ Quý Ly cử giữ chức Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm
Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám.

Năm 1406, nhà Minh đem quân sang xâm lược nước ta. Nhà Hồ đem quân ra
chống cự, nhưng bị đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và một số triều thần trong đó
có Nguyễn Phi Khanh bị bắt và bị đưa về Trung Quốc. Nguyễn Trãi nghe lời cha
quay trở lại tìm con đường đánh giặc, cứu nước.

Ông vượt được vòng vây của giặc vào Thanh Hóa theo Lê Lợi. Ông trao cho Lê
Lợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh – Bình Ngô sách “hiến mưu trước lớn
không nói đến việc đánh thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người”.

Lê Lợi khen chiến lược của Nguyễn Trãi là đúng. Và ông đã vận dụng chiến
lược này để đánh quân Minh. Từ đây, ông thường giữ Nguyễn Trãi gần bên
mình để cùng bàn mưu tính kế đánh quân Minh.

Trong kháng chiến, Nguyễn Trãi chủ trương phải dựa vào dân thì mới đánh
được giặc, cứu được nước. Khi kháng chiến đã thắng lợi, ông cũng thấy rằng
phải lo đến dân, thì mới xây dựng được đất nước. Trong tờ biểu tạ ơn được cử
giữ chức Gián nghị đại phu tri tam quân sư, ông đã viết: “Chí những muốn, việc
cố nhân đã muốn: để tâm dân chúng, mình lo trước điều thiên hạ phải lo”.

Do luôn luôn “lo trước điều thiên hạ phải lo, vui sau cái vui của thiên hạ”,
Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Nhà
của ông ở Đông Kinh (Thăng Long) chỉ là một túp nhà tranh (góc thành Nam
lều một gian). Khi ông cai quản công việc quân dân ở hải đảo Đông Bắc, nhà
của ông ở Côn Sơn “bốn mặt trống trải, xác xơ chỉ có sách là giàu thôi” (thơ
Nguyễn Mộng Tuân, bạn Nguyễn Trãi). Năm 1442, án oan “Lệ chi viên” đột
ngột đổ xuống hãm hại ông. Ông và gia đình phải chịu tội chu di tam tộc bi thảm
nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Mãi đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông
hạ chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước,tìm con cháu còn sót
lại và bổ nhiệm làm quan.

Ông đã để lại cho kho tàng văn học nhiều tác phẩm có giá trị: về quân sự và
chính trị có “Quân trung từ mệnh tập” gồm những thư từ do ông viết trong việc
giao thiệp với quân Minh. Những thư này là những tài liệu cụ thể chứng minh
đường lối ngoại giao vào địch vận hết sức khéo léo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi
làm cho quân Lam Sơn không mất xương máu mà hạ được rất nhiều thành.

“Bình ngô đại cáo ” là áng ” thiên cổ hùng văn ” trong lịch sử, tổng kết cuộc
kháng chiến mười năm chống quân Minh và mở ra một kỉ nguyên mới cho nước
nhà … Về lục sử có ” Lam Sơn thực lục ” là cuốn sử về cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn và ” Dư địa chí ” viết về địa lý nước ta lúc bấy giờ.Về văn học, Nguyễn
Trải có ” Ức trai thi tập”, “Quốc Âm thi tập”

“Quốc Âm thi tập” được viết bằng chữ nôm, đánh dấu sự hình thành của nền thơ
ca Tiếng Việt.Ông là người đứng đầu trong sự nghiệp khởi nghĩa dòng thơ Nôm
trong hàng nghìn, vạn văn chương chữ Hán dày đặc đương thời.

Ngoài ra thơ văn của ông còn thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa, triết lí thế sự và
tình yêu thiên nhiên, nổi bật trong thơ văn Nguyễn Trãi là tư tưởng nhân nghĩa
mang nội dung yêu nước, thương dân.Yêu nước gắn với thương dân, ciệc nhân
nghĩa nhằm làm cho nhân dân được sống yên ổn – đó là tư tưởng chủ đạo suốt
đời của Nguyễn Trãi.Thơ Nguyễn Trãi thể hiện những triết lí thế sự sâu sắc mà
giản dị,những trải nghiệm đau đớn về cuộc đời. Và trong thơ của ông còn tràn
đầy tình yêu thiên nhiên, đối với ông thiên nhiên là bầu bạn, là gia đình ruột thịt.

Thơ văn Nguyễn Trãi là đỉnh cao chói lọi trong nền văn học dân tộc, ông là nhà
văn có nhiều cống hiến to lớn cho văn học đất nước, cùng với các bài chiếu,biểu,
lục, ông đã xây đắp nền móng văn hóa tư tưởng cho dân tộc. Thơ chữ Hán của
Nguyễn Trãi là một thế giới thẩm mĩ phong phú, vừa trữ tình, trí tuệ, vừa hào
hùng, lãng mạn. Về thơ Nôm, Nguyễn Trãi là người tiên phong, để lại tập thơ
xưa nhất và nhiều bài nhất.Đó là những bài thơ giàu trì tuệ, sâu sắc, thấm dẫm trỉ
nghiệm về cuộc đời, được việt bằng ngôn ngữ tinh luyện trong sáng, đăng đối
một cách cổ điển. Nguyễn Trãi là nhà thơ đã sớm đưa tục ngữ vào tác phẩm, ông
cũng là người đã sáng tạo hình thức thơ thất ngôn xen lục ngôn, một hình thức
khác với Đường Luật.Có thể nói Nguyễn Trãi là một nhân vật tài đức có đủ, trí
dũng song toàn trong lịch sự Việt Nam thời phong kiến.Bài Bình Ngô đại cáo
của ông là một “thiên cổ hùng văn”. Đó là một thiên anh hùng ca bất hủ của dân
tộc.

Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, ông chẳng những
góp phần viết nên các trang hào hùng trong lịch sử giữ nước mà còn góp phần
xây đắp nền móng vững chãi cho văn học dân tộc. Nguyễn Trãi nêu cao tư
tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân, gắn bó thiết tha với cảnh vật thiên
nhiên đất nước, thể hiện tình yêu ngôn từ Việt nồng thắm. Tâm hồn và sự nghiệp
của ông mãi mãi là vì sao sáng như Lê Thánh Tông truy tặng “Ức Trai tâm
thượng quang Khuê Tảo”. Thời gian có thể phủ rêu lên tất cả nhưng ánh sao
khuê ấy vẫn sẽ mãi soi rọi đến các thế hệ mai sau. Danh nhân văn hóa thế giới
Nguyễn Trãi sẽ mãi là niềm tự hào của nước Việt.

ĐẠI NGÔ BÌNH CÁO


Bình ngô đại cáo được Nguyễn Trãi sáng tác năm 1428, khi quân ta giành thắng
lợi trước quân Minh, dưới ngọn cờ lãnh đạo của nghĩa quân Lam Sơn và chủ
tướng Lê Lợi. Sau thắng lợi, Lê Lợi đã lên ngôi hoàng đế và bắt tay vào xây
dựng vương triều của mình. Việc đầu tiên sau khi lên ngôi, đó là truyền lệnh cho
Nguyễn Trãi soạn thảo văn bản “ Bình ngô đại cáo” để tuyên bố với toàn dân
rằng cuộc khởi nghĩa gian nan cuối cùng cũng kết thúc thắng lợi, kể từ đây nhân
dân sẽ bước vào một cuộc sống mới, tự do, độc lập. Bình ngô đại cáo là một áng
văn chính luận xuất sắc, là một áng “thiên cổ hùng văn” của nền văn học dân
tộc.
Trong “Bình ngô đại cáo” Nguyễn Trãi rất đề cao tư tưởng thân dân, theo ông,
một quốc gia muốn trường tồn, thịnh vượng, thì yếu tố căn cốt nằm ở người dân.
Người dân có thể đẩy thuyền nhưng cũng có thể lật thuyền. Vì vậy, ngay câu thơ
đầu, Nguyễn Trãi đã đề cập đến tư tưởng thân dân vừa như khẳng định vai trò
của dân, vừa như lời nhắc nhở tế nhị đến bậc quân vương, việc nhân nghĩa luôn
luôn được dân chúng nhắc đến, và những người đứng đầu đất nước luôn luôn
phải có trách nhiệm với dân với chúng, trước hết phải biết lo cho dân cho chúng,
lo trừ đi bạo ngược để giữ cho đất nước ngày càng phát triển mạnh mẽ và có giá
trị to lớn hơn, những người luôn luôn biết lo cho dân yêu dân như con, điều đó
để lại cho dân tộc những điều có ý nghĩa mạnh mẽ nhất, khi mỗi chúng ta đều
hưởng được một nền thái bình thịnh trị:
“Từng nghe
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Quốc gia muốn trường cửu thì phải “yên dân”, tức là phải chăm lo đến cuộc
sống của người dân. Trách nhiệm của triều đình, của “quân điếu phạt” là phải
“lo trừ bạo”, diệt trừ mọi mối đe dọa đến cuộc sống của người dân.  Nền văn
hiến của dân tộc Việt Nam luôn luôn được cải thiện và giữ gìn mỗi ngày. Trong
các tác phẩm thơ ca, nó cũng nhấn mạnh điều đó, dân quốc đã có từ xưa đến
nay, nền văn hiến cũng luôn luôn được giữ gìn và nâng cao trên nền mỗi ngày.
Giá trị của nó để lại cho dân tộc ta cũng vô cùng có giá trị. Nền văn hiến của dân
tộc đã khẳng định từ trước tới nay, nó luôn mang những giá trị vẻ vang cho dân
tộc của mình, mỗi khi các giá trị đó được cải tạo là làm cho văn học nước nhà
được củng cố và nâng cao lên mỗi ngày, những định giới của Việt Nam luôn
luôn được cải thiện và nâng cao mỗi ngày, nó luôn trở thành một giá trị vô giá
và để lại cho dân tộc Việt Nam những điều có ý nghĩa to lớn, khi những giới hạn
biên giới đó đã được khẳng định từ trước tới nay, phong tục của hai miền cũng
luôn luôn được phân định rõ ràng:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Đến những câu thơ tiếp theo, Nguyễn Trãi đã khẳng định ranh giới lãnh thổ bờ
cõi, cùng với đó là sự tự hào về truyền thống văn hiến lâu đời của dân tộc “Đã
xưng nền văn hiến đã lâu”. “Văn hiến”, “phong tục” là những dẫn chứng nhà thơ
đưa ra để tăng thêm tính thuyết phục của lời khẳng định. Đại Việt là một quốc
gia độc lập, có ranh giới, lãnh thổ riêng. Trên mảnh đất ấy, con người Đại Việt
đã sinh sống, hình thành nên những phong tục, những nền văn hiến mang bản
sắc của dân tộc mình. Các đời vua từ xưa đến nay, luôn luôn xưng nền độc lập,
không có thể bỏ qua những quân thù mà phải sánh vai với cường quốc năm
châu, cần phải tạo nên những giá trị có ý nghĩa và có tầm quan trọng đặc biệt
cho đất nước của mình, dù có chênh lệch lực lượng đi chăng nữa thì chúng ta
cần phải dốc hết lòng để bảo vệ cho đất nước của mình. Thời nào cũng luôn thấy
xuất hiện những vị anh hùng của dân tộc điều đó tạo nên những giá trị có ý
nghĩa và vẻ vang nhất, song mỗi người luôn luôn biết quyết tâm để bảo vệ đất
nước và dân tộc của mình:
“Từ Triệu, Đinh, Lí,Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Nếu câu thơ trên nhà thơ khẳng định một cách rõ ràng về chủ quyền lãnh thổ
cùng với niềm tự hào về văn hiến lâu đời thì trong những câu thơ này, nhà văn
thể hiện niềm tự hào về truyền thống đấu tranh, truyền thống anh hùng của dân
tộc. Nhà văn khẳng định Việt Nam có nền độc lập riêng, nền độc lập ấy được
xây dựng bởi bao đời vua từ Triệu, Đinh, Lí, Trần. Vì vậy cùng với Trung
Quốc,Việt Nam hoàn toàn bình đẳng, vì vậy kẻ thù không có quyền xâm phạm.
Nguyễn Trãi thể hiện tinh thần dân tộc, lòng tự  hào sâu sắc khi đặt Đại Việt
sánh ngang với các triều đại Trung Quốc: “Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên
mỗi bên xưng đế một phương”. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, tuy có
những thăng trầm “mạnh yếu từng lúc khác nhau”,nhưng nhà thơ cũng khẳng
định “hào kiệt đời nào cũng có”. Đó là những trang nam tử, những người anh
hùng, khi mà đất nước lâm nguy, họ sẵn sàng đứng lên, dốc sức bảo vệ tổ quốc.
“Cho nên
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi”
Vì cố tình xâm phạm vào quốc gia có chủ quyền, có nền độc lập nên những kẻ
xâm lược đã phải gánh chịu hậu quả vô cùng thê thảm. Lưu Cung, Triệu Tiết, Ô
Mã, Toa Đô đều là những danh từ chỉ người, họ là những tên tướng cầm đầu đội
quân xâm lược, vì bất chấp luân lí xâm phạm Đại Việt mà chúng đã nhận lấy
những thất bại cay đắng. Nguyễn Trãi cũng sử dụng hệ thống các động từ để
diễn tả sự thất bại ê chề này: “thất bại”, “tiêu vong”, “bắt sống”, “giết”.  Bên
cạnh việc chỉ ra những thất bại của quân giặc, Nguyễn Trãi cũng nêu lên những
thắng lợi vang dội của quân dân Đại Việt như trận ở Hàm Tử, chiến thắng trên
sông Bạch Đằng. Những dẫn chứng mà nhà thơ nêu đều căn cứ vào sự thực lịch
sử “chứng cớ còn ghi”, vì vậy mà không thể chối cãi.
“Vừa rồi
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ”
Nguyễn Trãi đã kể lại sự rối ren trong nước, khi họ Hồ “chính sự phiền hà’,
nhân dân lầm than, đau khổ rồi mang lòng oán hận với triều đại “lòng dân oán
hận”. Nhân sự mâu thuẫn nội bộ của Đại Việt, quân Minh đã mưu kế xấu xa,
muốn nhân cơ hội này để thực hiện những hành động phi nghĩa “Quân cuồng
Minh thừa cơ gây họa”. Một triều đại lớn mạnh như nhà Minh mà cũng “thừa
cơ”, cách dùng từ của Nguyễn Trãi làm bật lên cái phi nghĩa của quân đội nhà
Minh, đồng thời cũng thể hiện được cái tiểu nhân đê hèn trong hành động xâm
lược ấy. Không chỉ lên án quân Minh mà nhà thơ còn vạch tội của những kẻ
“bán nước cầu vinh”. Vì hành động bắt tay xâm lược của chúng đã đẩy nhân dân
ta vào biết bao nhiêu tai họa. Nhà thơ đã sử dụng những động từ mạnh “nướng
dân đen”, “vùi con đỏ” để vạch trần bản chất tàn nhẫn, độc ác của chúng.
“Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng khốn rừng sâu nước độc
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hưu đen, nơi nơi cạm đặt
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ”
Để mang lại lợi ích cho mình, quân giặc không từ một thủ đoạn, một hành động
nhẫn tâm, tàn ác nào. Chúng không chỉ bắt dân ta nộp nhiều loại tô thuế mà còn
bắt những người dân vô tội lên rừng xuống biển tìm cho chúng những món đồ
quý giá. Cuộc sống của người dân vô cùng đau khổ, bi thương. Nhưng tiếng
khóc của người dân chúng đâu thấy được, không chỉ người dân mà ngay cả
những loài thú quý, hay những loài côn trùng, cây cỏ chúng cũng không buông
tha.
“Bình ngô đại cáo”là một áng văn chính luận xuất sắc của dân tộc ta. Bài cáo
vừa khẳng định hùng hồn, mạnh mẽ chủ quyền của dân tộc vừa thể hiện niềm tự
hào với truyền thống văn hóa cũng như truyền thông đấu tranh của dân tộc. Là
lời cảnh cáo đanh thép với lũ quân xâm lược, với bọn bán nước. Như vậy, “Bình
ngô đại cáo”xứng đáng là một áng “thiên cổ hùng văn”.

PHÚ SÔNG BẠCH ĐẰNG


  Mỗi chúng ta, ai cũng thường có cho mình một nơi nào đó để gửi gắm kí ức. Các nhà
văn, nhà thơ cũng vậy, họ hay chọn cho mình một miền đất hoặc một con sông. Và ở
đó bao nhiêu kí thác tâm hồn được vắt ngang qua. Trở lại thế kỉ XIV, văn học trung đại
của dân tộc đã có một nhà thơ như thế. Đó chính là Trương Hán Siêu – nhà thơ nặng
lòng với con sông Bạch Đằng oai hùng của lịch sử qua văn phẩm nổi tiếng Phú sông
Bạch Đằng. Có lẽ biết bao tâm tư của cả một đời cống hiến được ông dồn nén hết thảy
vào dòng chảy bất diệt ấy để làm nên một tác phẩm trở thành đỉnh cao của thơ văn dân
tộc.
   Phú sông Bạch Đằng (tên chữ Hán Bạch Đằng giang phú) được dự đoán ra đời vào
khoảng 50 năm sau cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên thắng lợi của nhà
Trần. Lấy cảm hứng từ một đề tài cũng không hề xa lạ, bởi sông Bạch Đằng đã trở
thành thi liệu sáng tác của nhiều nhà thơ như Trần Minh Tông, Nguyễn Sưởng, sau này
là Nguyễn Trãi. Nhưng Trương Hán Siêu trong Phú sông Bạch Đằng đã mang tới biết
bao cảm xúc vừa chân thực, thiết tha vừa hoài niệm, xúc động để khơi dậy nên niềm tự
hào, lòng yêu nước và khẳng định những tư tưởng nhân văn cao đẹp về giá trị con
người. Có nhiều ghi chép cho rằng,Trương Hán Siêu sáng tác bài phú này vào thời
điểm đất nước dưới thời hậu Trần (hai vị vua Trần Hiến Tông và Trần Dụ Tông) có dấu
hiệu suy thoái. Vốn là một trọng thần, học vấn uyên thâm, tính tình đức độ, trải qua bốn
đời vua Trần, từng được các vua tôn kính và gọi là "thầy", trước thực trạng đất nước
như vậy, ông cảm thấy chán nản và tự mình ngao du đây đó. Và điểm đến của ông
không đâu khác chính là con sông Bạch Đằng để hoài niệm về một thời vàng son của
dân tộc. Có lẽ bởi vậy mà bài phú mới toát lên dư vị pha lẫn của một tâm hồn nghệ sĩ
lãng tử, một sử nhân hoài cổ và một nỗi niềm nhân thế thầm kín.
   Với đặc trưng cơ bản của loại phú cổ thể, Phú sông Bạch Đằng có bố cục 4 đoạn
(mở, giải thích, bình luận, kết) và có hình thức đối đáp quen thuộc giữa nhân vật
"khách" và nhân vật "các vị bô lão" được tác giả hư cấu. Tuy nhiên, điểm tựa của toàn
bộ bài phú là cảm xúc, tâm trạng của nhân vật "khách" được bộc lộ xuyên suốt từ lúc
đặt chân tới sông Bạch Đằng cho đến khi lắng nghe được những lời kể đầy hào hùng
về những chiến công trên dòng sông ấy của các vị bô lão. Vì vậy mà nhiều đánh giá
cho rằng cấu tứ iống như một bài thơ hơn là một bài văn tả cảnh, kể việc thông thường.
   Cứ như thế, nhân vật "khách" bước ra mang đầy cảm hứng thơ, cảm hứng của một vị
khách hải hồ:
    Khách có kẻ:
    Giương buồm giong gió chơi vơi,
    …
    Học Tử Trường chừ thú tiêu dao
   Qua hàng loạt các hình ảnh đậm chất ước lệ, có tính phóng đại giương buồm giong
gió, lướt bể chơi trăng, sớm gõ thuyền, chiều lần thăm gợi lên cả không gian, thời gian
đều rộng mở. Lại thêm các từ láy chơi vơi, mải miết diễn tả thật đậm nét tâm hồn của
một bậc mặc khách, tao nhân đang vi vu cùng với đất trời, thỏa chí mà phóng khoáng,
ngao du. Khách xuất hiện như thể mang theo một giấc mộng hải hồ, đắm mình cùng
thiên nhiên. Kẻ lãng du ấy kéo theo cả hàng loạt những địa danh, những phong cảnh
đẹp của Trung Hoa vốn chỉ biết trong sách vở. Nào là Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, nào là
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, Đầm Vân Mộng… nơi có người đi, đâu mà
chẳng biết, chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều. Có cả một trình độ hiểu biết sâu rộng
hay là cách để đấng mặc khách ấy thực hiện khát vọng thỏa cái tráng trí bốn phương
vẫn còn tha thiết? Sao cũng phải, bởi trước hết cái tráng trí ấy mang trong mình tâm
thức của một bậc thi nhân đầy lãng mạn, ưa thích ngao du. Cho nên việc học Tử
Trường đâu có phải học cách của một sử kí gia, mà là học thú tiêu dao, cái thú thưởng
ngoạn để giữa dòng chừ buông chèo không nỡ bỏ lỡ cảnh đẹp nên thơ, lại thêm mở
mang hiểu biết.
   Nhưng giấc mộng hải hồ ấy chợt thành hiện thực khi chiếc thuyền ngoặt:
    Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều
    …
    Tiếc thay dấu vết luống còn lưu
    Một lần nữa thủ pháp liệt kê lại đưa chúng ta đến những địa danh khác, nhưng lần
này là thực, là thủy lưu dẫn đến sông Bạch Đằng. Và hiện ra trước mắt người nghệ sĩ
một Bạch Đằng trong khung cảnh đối lập. Đó là khung cảnh tuyệt sắc của thiên nhiên.
Cổ nhân thường nói: "Thi trung hữu họa" quả không sai. Trên trời, dưới nước mênh
mông, một Bạch Đằng không lúc nào tĩnh lặng nhưng vẫn hiền hòa, nên thơ: sóng kình
muôn dặm/ đuôi trĩ một màu/ nước trời: một sắc/ phong cảnh: ba thu. Bức tranh mở ra
hết tầm trên độ rộng, lắng xuống ở độ sâu. Hai từ láy bát ngát, thướt tha càng làm cho
biên độ ấy thêm lớn. Nhưng cảnh thu đi đến hồn thu, cảnh đẹp nhưng đượm buồn. Vì
những bờ lau, bến lách đìu hiu, vì những chứng tích năm xưa còn sót lại thật thê thảm.
Phải chằng bởi thế mà lòng người có sự thay đổi cảm xúc từ vui, tự hào trở nên u
buồn, ảm đạm, ngậm ngùi, thương tiếc cho những giá trị lịch sử oai hùng bị mai một
trước sự trôi chảy khắc nghiệt của thời gian. Trước cảnh trí đầy tiêu sơ như vậy, lòng
người sao tránh được những cảm khái, ưu tư gợn lòng hoài cổ! Giống như Nguyễn
Trãi:
    Việc trước quay đầu ôi đã vắng
    Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng
            (Cửa biển Bạch Đằng)
   Nét tâm trạng, cảm xúc ấy là nguyên cớ để nảy sinh cuộc trò chuyện với các vị bô lão
ở phần tiếp theo. Cuộc đối thoại này diễn ra vừa như một quy ước văn chương vừa
như một nhu cầu chia sẻ, giãi bày để làm thức dậy một quá khứ tưởng đã ngủ yên
trong quên lãng. Các vị bô lão – người dân địa phương, cũng có thể là những nhân
chứng lịch sử đã trực tiếp tham gia vào chiến trận Bạch Đằng năm xưa, đối đãi "khách"
với một thái độ đầy kính trọng, nhiệt thành (hỏi ý ta sở cầu, gậy lê chống trước, thuyền
nhẹ bơi sau, vái ta mà thưa). Với tư cách là người trong cuộc, họ đã tái hiện, phục chế
lại một bức tranh đã nhuốm màu dâu bể, đã phủ bụi thời gian.
    Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã
    Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao
   Đó là hai trận đánh lịch sử ghi dấu chiến công oanh liệt, vang dội nhất trên sông Bạch
Đằng. Bằng lời kể đậm sắc thái ước lệ, bút pháp cường điệu, sử thi mang cảm hứng vũ
trụ thế trận, quy mô cuộc chiến "thư hùng" diễn ra ngang tài, ngang sức, không phân
thắng bại:
    Đương khi ấy:
    Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới
    …
    Tái tạo công lao, nghìn xưa ca ngợi.
   Vua, quân tướng của ta được tôn vinh là "Trùng Hưng nhị thánh", " Ngô chúa", còn kẻ
thù cứ thẳng tên mà gọi, bọn chúng cứ như bầy thiêu thân lao vào lửa, chỉ còn trần trụi
những Tất Liệt, Lưu Cung. "Gieo gió gặt bão", đó là quy luật tất yếu ắt phải nhận của
những kẻ huênh hoang, hiếu chiến. Không tự nhiên mà Trương Hán Siêu lại sử dụng
điển tích Trung Quốc trận Xích Bích, trận Hợp Phì để so sánh. Sự tương đồng giữa xưa
và nay vừa để khẳng định chiến công vang dội vừa ẩn ngầm niềm tự hào vô hạn của
một đất nước nhỏ bé, hay bị coi thường với một đất nước lớn như Trung Hoa. Tan tác
tro bay/ hoàn toàn chết trụi đăng đối lại càng nhấn mạnh đến sự thảm bại của kẻ thù
ôm theo giấc mộng: gieo roi một lần/ quét sạch Nam bang bốn cõi để muôn đời nước
sông chảy hoài mà nhục quân thù khôn rửa nổi. Giọng văn khí thế, hùng hồn đã khơi
dậy một tinh thần yêu nước, niềm tự hào mãnh liệt trước truyền thống oanh liệt, vẻ
vang của dân tộc.
   Điểm nhấn rất hay của bài phú chính là ở chỗ chiến công trên sông Bạch Đằng không
hề bị huyền thoại hóa, mà nó cắt nghĩa được rõ ràng nguyên nhân. Trong lời bình luận
của các vị bô lão, họ đã nhắc tới phép dùng binh trong sách cổ, có ba yếu tố: "Thiên
thời, địa lợi, nhân hòa":
    Tuy nhiên: Từ có vũ trụ, đã có giang san
    …
    Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn
   Trời đất cho nơi hiểm trở là Địa. Bởi đại vương coi thế giặc nhàn, đã sẵn sàng mọi con
đường tiến lui là Thiên. Nhân tài giữ cuộc điện an là Nhân, là cái tài lớn của kẻ làm
tướng thu phục được lòng dân. Trong đó, vai trò của Nhân là quyết định. Bởi người anh
hùng là phải biết tạo thời thế, chứ không trông chờ vào thời thế. Vì vậy, một lần nữa
việc sử dụng điển tích Trung Hoa (hội Mạnh Tân, trận Duy Thủy) càng đề cao vai trò
của nhân tài là lấy được lòng dân. Nhận thức đầy lý trí ấy lại làm trào dâng lên cảm xúc
tiếc thương khi nhớ người xưa. Một xưa đầy hào khí thì dù đến nay có nước mắt chừ lệ
chan thì niềm tự hào vẫn còn mãi. Nhưng tiếc thay, nay không bằng xưa nên nước mắt
ấy là nỗi xót xa nhân thế bàng bạc hiện ra.
   Dẫu sao nỗi niềm ấy cũng được thay bằng sự nối tiếp nhau qua lời ca của các vị bô
lão và khách. Cách kết thúc rất đặc trưng của phú cổ thể, nhưng cái hay là đã được các
nhà soạn dịch chuyển thể thành những vần thơ lục bát. Trong lời ca của mình, các vị bô
lão đem so sánh cái quy luật tự nhiên bất biến của Bạch Đằng giang sẽ cuồn cuộn chảy
ra biển cũng như quy luật muôn đời của nhân thế là những kẻ bất nghĩa sẽ bị tiêu vong,
còn người anh hùng sẽ lưu danh thiên cổ. Lời ca một lần nữa phê phán mạnh mẽ quân
thù phương Bắc và ngợi ca những anh hùng dân tộc sẽ được lưu danh muôn đời. Còn
khách vẫn mang trong mình một hoài vọng, ngợi ca hai vị thánh quân nhà Trần đã anh
minh, có đức cao mới thu phục được lòng dân và tận dụng được đất hiểm để quét sạch
quân thù, để đất nước thanh bình, yên ổn. Đoạn kết đã thể hiện rất sâu sắc tư tưởng
nhân văn cao cả. Hai lời ca đều nhấn mạnh đến vai trò to lớn của con người trong lịch
sử. Điều đó càng khiến nhà thơ khao khát có những đấng minh vương cho xã tắc lúc
bấy giờ.
   Khẳng định Phú sông Bạch Đằng là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học
trung đại Việt Nam thật xác đáng. Với lối kết cấu đặc trưng, câu văn, giọng điệu linh
hoạt, bút pháp ước lệ, tượng trưng kết hợp với lối nói cường điệu, hình tượng nhân vật
đặc sắc, bài phú đã thể hiện sâu sắc những hoài niệm về quá khứ của tác giả Trương
Hán Siêu. Qua đó, tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc trước
những chiến công trên sông Bạch Đằng và ngợi ca truyền thống anh hùng bất khuất,
truyền thống đạo lí nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Hơn thế, bài phú đã chuyển tải
được tư tưởng nhân văn cao đẹp trong việc đề cao vai trò, vị trí của con người trong
lịch sử mà điều đó vẫn còn có ý nghĩa đến ngày nay.

TRAO DUYÊN
Đại thi hào Nguyễn Du là một trong những cây bút sáng chói đóng góp cho dòng chảy văn
học nước nhà những bước chuyển mình vàng son. Trong thời kì văn học trung đại, Nguyễn
Du cùng với những tác giả khác như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,...
tạo thành những tượng đài thơ ca của văn học Việt Nam. Tác phẩm làm nên tên tuổi của
Nguyễn Du là tập truyện viết bằng chữ Nôm "Đoạn trường tân thanh" hay còn gọi ngắn gọn
bằng cái tên "Truyện Kiều". Đoạn trích "Trao duyên" là một trong những đoạn tiêu biểu trong
tập truyện, thể hiện sự dằn vặt, nỗi lòng đau đớn của nàng Kiều khi buộc phải bán mình chuộc
cha, đành nhờ cô em Thúy Vân trả nghĩa cho chàng Kim Trọng.
Truyện Kiều là một tác phẩm được coi như kiệt tác văn chương của nhân loại, được viết dưới
dạng truyện kể bằng thơ, lấy cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân người Trung Quốc. Tác
phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân không hề được biết đến cho tới khi Nguyễn Du khai thác cốt
truyện bình thường ấy thành tiếng kêu ai oán đến xé lòng, một bản sầu ca não nề của người
con gái hồng nhan bạc phận. Đoạn trích "Trao duyên" từ câu 723 đến câu 756 trong phần "Gia
biến và lưu lạc", tái hiện lại cuộc trò chuyện của chị em Thúy Vân Thúy Kiều. Gia đình gặp
hoạn nạn, Thúy Kiều đành bán mình chuộc cha, trong tình cảnh đó, biết mình không thể giữ
trọn lời thề thủy chung với Kim Trọng, nàng Kiều đành phải trao lại tấm chân tình cho Thúy
Vân, nhờ em làm tròn bổn phận, giữ trọn lời hứa của mình với người yêu.
Mở đầu câu chuyện bằng lời Thúy Kiều nhờ cậy của mình với em:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Ngay từ đầu, Nguyễn Du đã để cho Thúy Kiều ở vị trí phía dưới, trái ngược với cách xưng hô
"chị, em". Từ "cậy" đặt ở đầu câu gợi tả tình thế tiến thoái lưỡng nan, chẳng còn cách nào
khác, lại thật khó khăn để có thể nhờ vả. Vốn dĩ, Thúy Kiều xét theo vai vế là chị của Thúy
Vân, sẽ không cần "thưa" hay "lạy", nhưng trong hoàn cảnh ấy, nàng chấp nhận đặt mình vào
vị trí của người đi nhờ vả, van xin, chỉ với mục đích giữ trọn lời hứa của mình với chàng Kim
Trọng. Từ "em" được nhắc lại hai lần, đi kèm các động từ mạnh "lạy", "thưa" "cậy" mở ra
một nỗi lòng chua xót, báo hiệu tương lai mịt mù, tăm tối, phải nhờ vả, dựa dẫm, mưu cầu
lòng thương của người khác. Thúy Vân trở thành bề trên, "ngồi lên" để chị lạy, thưa đã một
lần nữa nhấn mạnh kiếp người trôi nổi, bấp bênh, lỡ làng duyên phận của nàng Kiều. Kiều tha
thiết van em, đồng thời đặt lên vai em sức nặng của sự tin tưởng, trông cậy. Trong hoàn cảnh
ngặt nghèo đó, tình chị em được mang ra để bấu víu, Vân trở thành niềm hy vọng cuối cùng
của Kiều khi nàng buộc phải rời xa gia đình, thất hẹn với người yêu.
Thúy Kiều bắt đầu bày tỏ nỗi lòng mình với em gái bằng những lời chua xót, đau đớn:
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Đến đây, người đọc bỗng hiểu ra cái nhờ cậy ban đầu của Thúy Kiều thực ra là một lời phó
thác, buộc Thúy Vân phải chấp nhận. Với thân phận là chị gái, chị cả trong nhà, Kiều cảm
thấy mình phải có trách nhiệm giúp đỡ gia đình qua cơn hoạn nạn. Nàng chấp nhận bán mình
chuộc cha, vì chữ hiếu quên thân, chấp nhận lỡ duyên với người thương chứ không thể phụ
lòng cha mẹ. Người con gái "đứt gánh tương tư" ấy chẳng nỡ làm Kim Trọng đau lòng, đứng
trước chữ tình và chữ hiếu, nàng chỉ còn cách mong em gái Thúy Vân có thể giúp mình tiếp
tục mối duyên đứt quãng. Hai tiếng "mặc em" giống như một sự phó thác trách nhiệm bằng
tấm lòng tha thiết, âu sầu. Kiều thủ thỉ tâm sự với Vân về mối tình nồng thắm của minh với
chàng Kim:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Câu thơ thể hiện sự đau khổ của Thúy Kiều khi nhớ lại những kỉ niệm mùi mẫn còn dang dở
giữa mình và Kim Trọng. Đối với nàng, mối tình với Kim Trọng là những kỉ niệm lứa đôi đẹp
nhất, nhưng đối với Thúy Vân, đó là trách nhiệm, là nghĩa vụ. Vì thế, Kiều không muốn em
phải bận lòng, băn khoăn, nàng chọn cách tâm tình với em từ những kỉ niệm của mình để em
gái cảm thấy gần gũi, cảm thông. Từ buổi gặp gỡ đến hôm thề nguyện đính ước. hình ảnh
"quạt ước", "chén thề", nàng muốn khẳng định tình cảm giữa hai người là tình cảm thật lòng,
sâu sắc. Trao duyên cho em mà lòng đau như cắt, vì bản thân nàng đâu hề muốn phải sinh ra
nông nỗi ấy. Cùng với sự tiếc nuối, Kiều chỉ biết trải lòng về những khó khăn bất chợt ập đến
gia đình, buộc nàng vào tình thế bất đắc dĩ. "Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai", một câu nói
vừa tự nhủ lòng mình, vừa là cái cớ của Kiều khi trao duyên cho Thúy Vân. Bản thân Kiều
không hề muốn hai chị em phải đối mặt với nhau trong tình thế khó xử, nhưng chị đã vì cha
mẹ bán mình, thì em cũng nên vì chị mà giúp chị nối tiếp tơ duyên. Người đọc dường như còn
cảm thấy một khao khát nhỏ nhoi trong lòng Thúy Kiều, khao khát sống trọn vẹn, tình nghĩa,
nhưng trớ trêu thay, cuộc đời bất hạnh lại không cho phép nàng thực hiện ước muốn nhỏ nhoi
ấy.
Không những thế, Kiều còn thể hiện sự khéo léo, tinh tế khi lựa lời đề cập đến hoàn cảnh của
Vân để cất lời nhờ em:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương tan
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Xét về tình, Thúy Kiều và Thúy Vân là hai chị em đều đang độ tuổi cập kê, Kiều đã lấy cái cớ
đó để nhờ cậy em nối tiếp mối duyên với Kim Trọng. Xét về lý, tình ruột rà máu mủ cũng là
một lý do hợp lý để Thúy Vân có trách nhiệm thực hiện những mong muốn dở dang của chị.
Đồng thời, nàng Kiều cũng thể hiện sự chua xót, đắng cay khi nhắc đến cái chết "Chị dù thịt
nát xương tan / Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây". Dường như khi chọn con đường bán
mình chuộc cha, Kiều đã xác định về tương lai mịt mờ, dự cảm không lành về số phận nghiệt
ngã. Nếu không có những chuyện tai bay vạ gió, không có những uẩn khúc gia đình thì có lẽ
giờ đây, Kiều đã được hạnh phúc với tình yêu của mình. Lời nói không chỉ thể hiện cái đớn
đau khi phải chia lìa gia đình mà còn chứa đựng cả những tủi thân, buồn rầu khi không được
ở bên người thương. Trong hoàn cảnh ấy, nàng chỉ biết nhờ đến em, để sau này khi "thịt nát
xương tan", nàng vẫn có thể ngậm cười nơi chín suối, nhìn em mình và người yêu được hạnh
phúc vẹn toàn, được thực hiện trọn vẹn lời hứa với Kim Trọng. Trao đi mối duyên mà nàng
hằng khao khát, nâng niu là điều đau đớn đến tột cùng, nhưng Kiều đã chấp nhận chọn chữ
hiếu để cứu cha, chỉ một lòng mong em hãy đồng ý giúp nàng nối tiếp mối duyên tình để
không phụ lòng Kim Trọng.
Trao cho em những vật đính ước, Kiều thủ thỉ tâm tình với em những lời chân thành nhất:
Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền, những kỉ vật của mối tình đầu thanh
thuần, ngây thơ. Nhìn những kỉ vật ấy, lòng người con gái sao tránh khỏi bồi hồi, nhớ nhung.
Trong hoàn cảnh ấy, khi Kim Trọng đang ở xa, không hề hay biết tin tức gì, bản thân chuẩn bị
một cuộc đời lưu lạc, chẳng rõ tương lai đi đâu về đâu, sự xót xa, đau đớn lại dâng đến tận
cùng. Những kỉ vật ấy thật khó lòng buông bỏ, vì thế mà câu "Duyên này thì giữ, vật này của
chung" có phần lạ kì, ngập ngừng. Duyên đã trao đi rồi nhưng hiện vật thì chẳng nỡ lòng nào
chối bỏ, nên Kiều vẫn muốn giữ đó làm "của chung", của cả hai chị em. Câu nói có một chút
con gái, một chút ích kỉ nhưng cũng dễ hiểu thôi, chẳng cô gái nào muốn san sẻ tình yêu của
mình với ai khác. "Dù em nên vợ nên chồng / Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên", một
câu dặn dò của Thúy Kiều với em gái, rằng dù em thay chị kết duyên cùng Kim Trọng, nhưng
bản thân chị là người yêu của chàng, chỉ mong đến ngày hạnh phúc, em đừng quên tấm lòng
chị, số phận bạc bẽo đưa đẩy chị đến đường cùng chứ thật tâm chẳng hề muốn rời xa. Có
người cho rằng, Kiều là một cô gái ích kỉ, nhỏ nhen, rành rành thân phận nhờ vả mà còn đòi
hỏi, yêu cầu. Nhưng nhìn về mặt tình cảm, sự ngập ngừng, không rõ ràng từ Kiều cũng chỉ bắt
nguồn từ tình yêu chân thành, từ tấm lòng người con gái lần đầu biết yêu mà lại buộc phải
chia lìa. Chỉ còn vài kỉ vật làm của tin, làm hiện vật chứng minh tình cảm, chẳng ai cam tâm
trao cho người khác, kể cả đó là ruột thịt, máu mủ.
Trao lại kỉ vật cho em nhưng tâm hồn Kiều vẫn không thể nguôi ngoai, thật tâm vẫn chưa hề
quên đi Kim Trọng:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này,
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin chén nước cho người thác oan.
Lời nói mang một sự đau lòng não nề, Kiều tự coi mình là kẻ đoản mệnh, những câu từ thể
hiện Kiều đã ở một thế giới khác, không thể trở về với cuộc sống bình thường, không được
đoàn tụ với gia đình. Sống trong một xã hội bất công, nơi con người sẵn sàng hãm hại nhau vì
đồng tiền, Kiều không dám nghĩ đến việc mưu cầu cho hạnh phúc cá nhân mà chỉ dám mong
được chứng kiến hạnh phúc của em gái và người yêu. Sự bế tắc và khổ đau trong lòng nàng
chất chứa trong từng câu nói. "Lò hương, ngọn cỏ lá cây, hiu hiu gió, hồn, nát thân, cách mặt
khuất lời, người thác oan", hàng loạt những từ mang âm hưởng cô tịch, chết chóc như một vết
cứa vào lòng người đọc. Người con gái tuổi mới mười tám đã nghĩ đến cái chết bi kịch, cái
chết oan khuất, bế tắc. Nhưng bản thân người con gái ấy lại chỉ mong mỏi được thanh thản, có
thể giũ bỏ hết tình duyên dương thế. Đau xót thay cho một số phận tài sắc vẹn toàn nhưng
sớm rơi vào lam lũ, bi kịch, chấp nhận bán mình chuộc cha nhưng vẫn nghĩ đến nghĩa tình,
thề hẹn.
Tâm sự với em, Thúy Kiều cũng không quên gửi lời tới Kim Trọng với những dòng tâm trạng
tha thiết:
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng
Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
Tâm sự với Kim Trọng nhưng thực chất, Kiều chỉ được độc thoại với chính mình, vì người
nàng yêu đang ở phương xa, đâu hay biết gì tình thế của nàng hiện tại. Nàng ý thức được số
phận bạc bẽo bằng những điển cố "gương gãy", "trâm tan", những hình ảnh gợi sự chia lìa đôi
lứa. Xét đến cùng, mục đích của cuộc trao duyên này là do mối tình nặng nghĩa với Kim
Trọng chưa thể kết thúc, nên trong những lời cuối gửi đến chàng, Kiều luôn muốn nhắc lại
những hoài niệm tươi đẹp của hai người trước khi buộc phải tự mình cắt đứt mối duyên chẳng
được bao lâu. "Muôn vàn ái ân" nay đã trở thành quá khứ, sự thật giờ chỉ còn "tơ duyên ngắn
ngủi có ngần ấy thôi!".Cùng với nỗi tiếc nuối về tình yêu, Kiều còn khóc thương cho số phận
của mình. Phận nữ nhi chân yếu tay mềm trong xã hội xưa đã bị rẻ rúng, giờ đây lại còn "bạc
như vôi", "nước chảy, hoa trôi lỡ làng", sự bất lực, phó mặc số phận vì không có tiếng nói,
không có quyền tự quyết định . Tiếng gọi xé lòng " Hỡi Kim Lang!" thay cho một lời than,
tiếng khóc tức tưởi. Cách gọi "lang" là cách gọi chồng trong xã hội xưa, cho thấy tình cảm
của Thúy Kiều vô cùng chân thành, thủy chung, dù có bất kì hoàn cảnh nào thì lời thề duyên
lứa của nàng đêm ấy vẫn vẹn nguyên. Có thể, người đọc cảm thấy một chút phi lý trong câu
nói của Kiều, rằng tại sao đã trao duyên với em rồi nhưng vẫn gọi Kim Trọng là "lang", là
chồng, Phải chăng, trong dòng hồi tưởng về những giây phút ở cạnh nhau, Thúy Kiều được
tạm quên đi những đớn đau nàng phải đối mặt, nhưng cảm giác tội lỗi của mình với chàng
Kim, chỉ còn nàng với chàng, hai người yêu nhau say đắm, là vợ chồng. Câu gọi bật ra vừa để
thể hiện ước nguyện được hạnh phúc của Thúy Kiều, vừa thể hiện tấm lòng nặng tình nặng
nghĩa của nàng, một nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong xã hội xưa.
Đoạn trích "Trao duyên" đã khái quát một cách sâu sắc nhất những cung bậc cảm xúc của
Thúy Kiều khi buộc phải rời xa người yêu, đành trao duyên lại nhờ cậy em gái tiếp tục lời hứa
với Kim Trọng. Một người phụ nữ yêu hết mình, thủy chung da diết, lại khéo léo, sắc sảo
nhưng bạc mệnh, long đong. Bằng bút pháp nghệ thuật khai thác tâm lý nhân vật, để nhân vật
tự bộc lộ cảm xúc qua hành động, cử chỉ, tác giả đã truyền đạt tới người đọc niềm thương xót
cho bi kịch tình yêu tan vỡ của nàng Kiều. Tâm trạng nhân vật được đặc tả qua những chi tiết
đắt giá, thể thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại cùng những từ ngữ mạnh, gợi sự xót xa đã làm
rung động trái tim bạn đọc với những nỗi niềm của nhân vật.
Qua "Trao duyên", Nguyễn Du cũng gửi gắm sự tôn trọng, nâng niu những con người đẹp,
biết trọng chữ hiếu, vẹn chữ tình, đồng thời lên án xã hội bất công, bạc bẽo đã đẩy con người
vào cửa ải chia lìa, chia cắt hạnh phúc lứa đôi của những người xứng đáng được hưởng hạnh
phúc.
ua hành động, cử chỉ, tác giả đã truyền đạt tới người đọc niềm thương xót cho bi
kịch tình yêu tan vỡ của nàng Kiều. Tâm trạng nhân vật được đặc tả qua những chi
tiết đắt giá, thể thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại cùng những từ ngữ mạnh, gợi sự
xót xa đã làm rung động trái tim bạn đọc với những nỗi niềm của nhân vật.
Qua "Trao duyên", Nguyễn Du cũng gửi gắm sự tôn trọng, nâng niu những con
người đẹp, biết trọng chữ hiếu, vẹn chữ tình, đồng thời lên án xã hội bất công, bạc
bẽo đã đẩy con người vào cửa ải chia lìa, chia cắt hạnh phúc lứa đôi của những
người xứng đáng được hưởng hạnh phúc.
CHÍ KHÍ ANH HÙNG
Trên diễn đàn văn học Việt Nam, Thúy Kiều xuất hiện trong trang thơ của đại thi hào
Nguyễn Du với số phận “hồng nhan bạc mệnh” qua mười lăm năm lưu lạc. Nhưng
trong quãng đường đầy rẫy oan khổ đó, có những lúc nàng Kiều được tận hưởng
những niềm hạnh phúc về lứa đôi, về gia đình. Đó chính là thời điểm nàng gặp gỡ
Từ Hải. Vị anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” đó đã đem đến cho người phụ nữ
tài sắc vẹn toàn một danh phận, một vị trí xứng đáng. Đoạn trích “Chí khí anh hùng”
đã khắc họa thành công bức chân dung nhân vật Từ Hải với phẩm chất, chí khí, lí
tưởng hiên ngang và mang tầm vóc vũ trụ.

Trong tác phẩm “Đoạn trường tân thanh”, “Chí khí anh hùng” là trích đoạn thuộc
phần “Gia biến và lưu lạc”. Sau khi rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều tình cờ
gặp Từ Hải – vị anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất”. Khác với Thúc Sinh, Từ Hải
đã cho Kiều một danh phận chính đáng. Với cảm hứng ngợi ca kết hợp bút pháp
lãng mạn hóa, tác giả Nguyễn Du đã phác họa thành công vẻ đẹp của hình tượng
nhân vật anh hùng Từ Hải với chí khí, tầm vóc, phẩm chất phi thường.

Trước hết, tác giả Nguyễn Du đã gợi ra không gian cuộc sống “Nửa năm hương lửa
đương nồng” của Từ Hải và Thúy Kiều. Mặc dù đã tìm được “tri âm, tri kỉ” nhưng
cuộc sống ấm êm, hạnh phúc vẫn không thể dập tắt khát vọng của Từ Hải: “Trượng
phu thoắt đã động lòng bốn phương”. Tác giả Nguyễn Du đã dùng từ “trượng phu”
kết hợp cụm từ ước lệ “lòng bốn phương” với thái độ trân trọng, ngưỡng mộ, khâm
phục để diễn tả chí nguyện lập công, lập danh lớn lao của người anh hùng. Và tư thế
làm chủ, hướng ra phương trời tự do đã được tái hiện rõ nét hơn nữa:

“Trông vời trời bể mênh mang


Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”
Rõ ràng, Từ Hải không phải là con người của những đam mê, khát vọng thông
thường. Đó là bậc trượng phu luôn hướng đến những không gian bao la, mang tầm
vóc vũ trụ của “trời bể mênh mang”. Trong không gian vĩ mô đó, con người hiện lên
với khát vọng làm chủ: Một người, một ngựa, một gươm hiên ngang, mạnh mẽ “lên
đường thẳng rong”, tự tin về tương lai phía trước. Như vậy, với thái độ trân trọng,
ngợi ca, ngưỡng mộ và kính phục, tác giả đã khắc họa nhân vật Từ Hải với tư thế
hiên ngang cùng những khát vọng phi thường.

Ý chí quyết tâm trong việc “lập công, lập danh” của Từ Hải càng được thể hiện rõ nét
hơn nữa trong cuộc đối thoại với Thúy Kiều. Là bậc tri kỉ của người anh hùng, Thúy
Kiều thấu hiểu những khát vọng của chồng và xin đi theo chàng. Trước mong muốn
của nàng, Từ Hải cũng đưa ra những lí lẽ từ chối “thấu tình đạt lí”:

“Từ rằng: Tâm phúc tương tri


Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”
Qua những lời lẽ đó, chúng ta có thể thấy được Từ Hải không hề quyến luyến, bịn rịn
mà quên đi khao khát, ước vọng lớn lao của bản thân. Thậm chí, chàng còn tự tin
khẳng định về niềm tin vào viễn cảnh tương lai của bản thân. Tác giả đã sử dụng
những hình ảnh thuộc phạm trù không gian để thể hiện niềm tin sắt đá đó: “mười vạn
tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất”, “bóng tinh rợp đường”. Và thời gian mà chàng hứa
hẹn với Thúy Kiều “một năm sau vội gì” càng khẳng định rõ nét hơn quyết tâm, niềm
tin mãnh liệt thực hiện đến cùng lí tưởng của người anh hùng:

“Quyết lời dứt áo ra đi


Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”
Hành động dứt khoát, mạnh mẽ, không do dự của người anh hùng đã được thể hiện
rõ qua những động từ “quyết”, “dứt áo”, “ra đi”. Bằng cảm hứng ngợi ca, khẳng định
và lí tưởng hóa, tác giả đã tái hiện viễn cảnh không gian ra đi mang tầm vóc vĩ mô
của người anh hùng. Giữa không gian “gió mây”, “dặm khơi” kì vĩ, rộng lớn, con
người hiện lên với tư thế sánh ngang tầm vũ trụ. Hình ảnh “chim bằng” sải cánh trên
bầu trời cao rộng, trong bao la “dặm khơi” cùng gió, cùng mây đã làm nổi bật tư thế
của người anh hùng có bản lĩnh phi thường, quyết tâm ra đi vì nghiệp lớn. Đó là khát
vọng vùng vẫy bốn bể trong khung trời tự do và thoát khỏi mọi khuôn khổ, bế tắc để
làm nên sự nghiệp lẫy lừng.

Như vậy, qua đoạn trích Chí khí anh hùng, đại thi hào Nguyễn Du đã khắc họa thành
công hình tượng người anh hùng với khát vọng lớn lao vùng vẫy “bốn bể năm châu”
cùng ý chí sắt đá, tư thế hiên ngang, lẫm liệt làm chủ vũ trụ thông qua những hình
tượng có tính ước lệ như “lòng bốn phương”, “mặt phi thường”,.... Qua đó, chúng ta
có thể thấy được thái độ trân trọng ngợi ca của tác giả đối với hình tượng nhân vật.

CHUYỆN HÁN SỰ ĐỀN TẢN VIÊN


Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất
của văn trung đại Việt Nam thế kỉ XVI. “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là
một tác phẩm được trích ra trong số 20 tập truyện của “Truyền kỳ mạn lục”,
truyện xoay quanh nhân vật Ngô Tử Văn với tính cách dũng cảm, kiên cường,
được coi là hình ảnh đại diện cho chính nghĩa luôn đứng ra đấu tranh chống lại
các thế lực gian tà, bảo vệ cuộc sống ấm no yên bình cho nhân dân, khẳng định
niềm tin vào công lý, chính nghĩa luôn thắng gian tà.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã giới thiệu ngay nhân vật chính của truyện, một cách
giới thiệu trực tiếp, ngắn gọn giống như lời kể gây sự chú ý, tò mò và hứng thú
cho người đọc “Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng, đất Lạng
Giang...là một người cương trực”. Với tính cách của Tử Văn, thấy việc gian tà
thì chướng mắt không chịu được nên khi biết rằng tướng giặc họ Thôi tử trận
gần đền bao năm làm yêu làm quái nhũng nhiễu dân gian, Tử Văn đã quyết định
đi đốt đền mặc cho kết quả ra sao. Trước khi đốt đền Tử Văn tắm rửa sạch sẽ,
thắp hương vái lạy thể hiện sự chân thành, chứng minh sự trong sạch và ý muốn
bảo vệ sự yên bình cho nhân dân, mong muốn hành động chính nghĩa của mình
được trời đất chứng giám. Hành động đốt đền của Tử Văn đã cho thấy anh là
một người cương trực, dũng cảm. 
Tuy nhiên sau khi đốt đền Tử Văn đã bị hồn ma tên tướng giặc họ Thôi đòi xây
lại đền, hắn làm cho Tử Văn cảm thấy khó chịu “đầu lảo đảo và bụng run run,
nổi lên một cơn sốt nóng sốt rét”, dù bị hồn ma tướng giặc đe dọa sẽ gặp tai vạ
và phải gặp Diêm Vương nhưng Tử Văn không hề tỏ ra sợ hãi mà ngược lại vẫn
ngất ngưởng tự nhiên, mặc kệ những lời đe dọa. Đến khi Thổ Công bị hại hiện
lên gặp Tử Văn anh mới ngỡ ra hồn ma tên tướng giặc là kẻ đã cướp đền của
Thổ Công đất Việt, Thổ Công đã kể lại sự tình mình bị cướp đền cùng căn dặn
những việc Tử Văn cần làm nếu muốn diệt trừ hung thần và giải trình với Diêm
Vương. Ban đầu Tử Văn rất kinh ngạc, hỏi Thổ Công “Hắn có thực là tên hung
thần, có thể gieo vạ cho tôi không?”, nhưng rồi với bản lĩnh của kẻ sĩ, Tử Văn
đã chấp nhận nghe theo lời Thổ Công, đi xuống gặp Diêm Vương đòi lại công
bằng cho Thổ thần đất Việt. Khi Ngô Tử Văn bị bắt xuống Minh Ti, quang cảnh
nơi đây lạnh lẽo, rùng rợn, đáng sợ với nhiều hình ảnh kỳ ảo như “cầu dài ước
hơn nghìn thước, gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương”, Tử Văn không sợ
hãi mà vẫn gan dạ lớn tiếng kêu oan. Cuộc xét xử tội của Tử Văn dưới âm phủ
diễn ra rất căng thẳng, ban đầu hồn ma tên tướng giặc tố cáo Tử Văn đốt đền,
Diêm Vương trách mắng ngay nhưng Tử Văn đáp lại bằng giọng cứng cỏi, lên
tiếng vạch mặt bản chất xấu xa của tên tướng giặc. Sau đó tướng giặc họ Thôi sợ
bị bại lộ nên đạo đức giả xin giảm tội cho Tử Văn “Xin đại vương khoan dung
tha cho hắn… nếu thẳng tay trị tội nó, sợ hại đến cái đức hiếu sinh”, ngược lại
Tử Văn càng kiên quyết, xin đem tư giấy đến đền Tản Viên chứng thực, Diêm
Vương chấp thuận quả nhiên sự thật đúng như Tử Văn nói, kết quả Tử Văn được
xử thắng kiện. Tử Văn đã đấu tranh đến cùng cho lẽ phải, không hề run sợ ở
chốn ma quỷ, Tử Văn thắng kiện đã chứng minh một quy luật tất yếu, chính
nghĩa luôn chiến thắng gian tà. Để đền ơn nghĩa với Tử Văn, Thổ Công đã tiến
cử anh giữ chức phán sự ở đền Tản Viên, Tử Văn là người chính trực, gan dạ
dũng cảm và lòng tin vào công lý nên anh xứng đáng nhận chức phán sự. Lời
bình ở cuối truyện như một lời nhắn nhủ, nhắc nhở của tác giả khiến chúng ta
phải thừa nhận và suy nghĩ, thứ nhất là thừa nhận hiện thực xã hội đương thời
thối nát đầy rẫy những áp bức bất công, biểu hiện tiêu cực nơi âm ti phản chiếu
chính hiện thực xã hội tham ô, hối lộ; thứ hai điều chúng ta phải suy nghĩ đó là
“cứng quá thì gãy” hay chỉ sợ “ta không cứng cỏi được”, đừng vì sợ gãy mà
không dám cứng cỏi, chỉ khi ta dám đấu tranh đến cùng mới giành được phần
thắng, mới diệt trừ được tận gốc cái ác, lấy lại công lý, chính nghĩa.
“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” với cốt truyện đầy kịch tính, các yếu tố kỳ
ảo xen kẽ tạo nên một sự hấp dẫn riêng với người đọc. Truyện không chỉ củng
cố niềm tin của nhân dân vào công lý, chính nghĩa luôn thắng gian tà mà còn
khuyên răn con người ta đứng trước cái xấu cái ác phải “cứng cỏi” đấu tranh đến
cùng, không nên run sợ, trốn tránh, thờ ơ mà phải quyết tâm diệt trừ tận gốc gian
tà.

You might also like