Professional Documents
Culture Documents
Sông Đà Sông Hương
Sông Đà Sông Hương
Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề
ĐỀ THI THAM KHẢO KÌ THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NĂM 2021
Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề
Bất kỳ một quan điểm nào cũng có thể thay đổi, điều quan trọng là bạn có “muốn”
thay đổi hay không mà thôi. Mọi thứ không bỗng dưng mà có, thái độ cũng vậy. Để có
một thái độ sống đúng đắn, trước tiên ta cần hình thành nó, rồi dần dần phát triển lên,
biến nó thành tài sản quý giá cho bản thân.
Một số người từ chối việc thay đổi, họ cho rằng “Tôi đã quen sống như thế này từ
nhỏ, thay đổi chỉ làm cho cuộc sống thêm rắc rối mà thôi!” hoặc “Cha mẹ sinh mình ra
thế nào thì cứ để thế ấy, thay đổi làm gì cho mệt!”. Bạn cần biết rằng, không bao giờ là
quá trễ cho một sự thay đổi. Nhờ thay đổi, con người mới có những bước tiến vượt bậc.
Không chấp nhận thay đổi, cuộc sống của bạn sẽ trở nên nghèo nàn, thậm chí bạn sẽ gặp
những rắc rối lớn. Bạn gọi một cái cây không đâm chồi nẩy lộc, không ra hoa kết trái là
gì? Đó chẳng phải là “cây chết” hay sao? Con người chúng ta cũng vậy. Cuộc sống sẽ
luôn được vận hành tốt nếu ta không ngừng hoàn thiện bản thân.
Những ai không chịu thay đổi cho phù hợp với biến cố cuộc đời sẽ chẳng thể nào
thích nghi được với hoàn cảnh. Có thể họ vẫn hiện hữu nhưng trong cuộc sống của họ sẽ
bị tách biệt, không bắt nhịp được với đồng loại của mình.
(Trích Thái độ quyết định thành công, Wayne Cordeiro, NXB Tổng hợp TP. HCM, 2016,
tr.34)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên.
Câu 2: Theo tác giả, vì sao một số người từ chối việc thay đổi?
Câu 3: Theo anh/chị, vì sao tác giả lại viết: Nhờ thay đổi, con người mới có những bước
tiến vượt bậc?
Câu 4: Anh/Chị có đồng ý với ý kiến: Sống là phải thay đổi không? Vì sao?
Từ ý nghĩa của văn bản trong phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn nghị
luận (khoảng 200 chữ), trình bày suy nghĩ của mình về những điều bản thân thấy cần thay
đổi để phù hợp với cuộc sống hiện đại.
Trình bày cảm nhận của anh/chị về hình tượng Sông Đà trong đoạn trích sau. Từ đó
bình luận ngắn gọn nét độc đáo trong cách miêu tả Sông Đà nói riêng, thiên nhiên Tây Bắc
nói chung của nhà văn Nguyễn Tuân.
[…] Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình
một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Từ trên tàu bay
mà nhìn xuống Sông Đà, không ai trong tàu bay nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo
dưới chân mình kia lại chính là cái con sông hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm
mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà. Cũng
không ai nghĩ rằng đó là con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thuỷ Tinh “Núi
cao sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Hình như khi mà ta đã quen
đọc bản đồ sông núi, thì mỗi lúc ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ
quốc bao la, càng thấy quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng
mây dưới chân mình. Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc
chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn
mù khói Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà,
tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng
xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông
Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một nguời bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ
cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi
thấy dòng Sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào
mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào
Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách. Đã có lần tôi
nhìn Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm
chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một
cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi
bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng loé lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam
nguyệt há Dương Châu”. Bờ sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông
Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại
chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm
ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc
dịu dàng đấy, rồi lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.[…].
(Trích Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân, SGK Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo
dục Việt Nam, 2019, trang 190,191).
-------------HẾT-------------
Bất kỳ một quan điểm nào cũng có thể thay đổi, điều quan trọng là bạn có “muốn”
thay đổi hay không mà thôi. Mọi thứ không bỗng dưng mà có, thái độ cũng vậy. Để có
một thái độ sống đúng đắn, trước tiên ta cần hình thành nó, rồi dần dần phát triển lên,
biến nó thành tài sản quý giá cho bản thân.
Một số người từ chối việc thay đổi, họ cho rằng “Tôi đã quen sống như thế này từ
nhỏ, thay đổi chỉ làm cho cuộc sống thêm rắc rối mà thôi!” hoặc “Cha mẹ sinh mình ra
thế nào thì cứ để thế ấy, thay đổi làm gì cho mệt!”. Bạn cần biết rằng, không bao giờ là
quá trễ cho một sự thay đổi. Nhờ thay đổi, con người mới có những bước tiến vượt bậc.
Không chấp nhận thay đổi, cuộc sống của bạn sẽ trở nên nghèo nàn, thậm chí bạn sẽ gặp
những rắc rối lớn. Bạn gọi một cái cây không đâm chồi nẩy lộc, không ra hoa kết trái là
gì? Đó chẳng phải là “cây chết” hay sao? Con người chúng ta cũng vậy. Cuộc sống sẽ
luôn được vận hành tốt nếu ta không ngừng hoàn thiện bản thân.
Những ai không chịu thay đổi cho phù hợp với biến cố cuộc đời sẽ chẳng thể nào
thích nghi được với hoàn cảnh. Có thể họ vẫn hiện hữu nhưng trong cuộc sống của họ sẽ
bị tách biệt, không bắt nhịp được với đồng loại của mình.
(Trích Thái độ quyết định thành công, Wayne Cordeiro, NXB Tổng hợp TP. HCM, 2016,
tr.34)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên.
Câu 2: Theo tác giả, vì sao một số người từ chối việc thay đổi?
Câu 3: Theo anh/chị, vì sao tác giả lại viết: Nhờ thay đổi, con người mới có những bước
tiến vượt bậc?
Câu 4: Anh/Chị có đồng ý với ý kiến: Sống là phải thay đổi không? Vì sao?
Từ ý nghĩa của văn bản trong phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn nghị
luận (khoảng 200 chữ), trình bày suy nghĩ của mình về những điều bản thân thấy cần thay
đổi để phù hợp với cuộc sống hiện đại.
Trình bày cảm nhận của anh/chị về hình tượng Sông Đà trong đoạn trích sau. Từ đó
bình luận ngắn gọn nét độc đáo trong cách miêu tả Sông Đà nói riêng, thiên nhiên Tây Bắc
nói chung của nhà văn Nguyễn Tuân.
[…] Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình
một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Từ trên tàu bay
mà nhìn xuống Sông Đà, không ai trong tàu bay nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo
dưới chân mình kia lại chính là cái con sông hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm
mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà. Cũng
không ai nghĩ rằng đó là con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thuỷ Tinh “Núi
cao sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Hình như khi mà ta đã quen
đọc bản đồ sông núi, thì mỗi lúc ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ
quốc bao la, càng thấy quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng
mây dưới chân mình. Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc
chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn
mù khói Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà,
tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng
xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông
Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một nguời bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ
cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi
thấy dòng Sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào
mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào
Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách. Đã có lần tôi
nhìn Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm
chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một
cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi
bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng loé lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam
nguyệt há Dương Châu”. Bờ sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông
Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại
chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm
ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc
dịu dàng đấy, rồi lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.[…].
(Trích Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân, SGK Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo
dục Việt Nam, 2019, trang 190,191).
-------------HẾT-------------
ĐỀ THI THAM KHẢO KÌ THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NĂM 2021
Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề
Tên tác phẩm: NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄN TUÂN
ĐỀ SỐ 13
3 Tác giả viết: Nhờ thay đổi, con người mới có những bước tiến vượt bậc
vì: 1.0
- Khi thay đổi (nhận thức, thái độ, hành động…), con người sẽ cải thiện
được sự lạc hậu, cũ kĩ để theo kịp sự phát triển của xã hội, tiếp nhận được
những điều mới mẻ từ xã hội, do đó sẽ tạo cơ hội cho con người tạo ra
những bước tiến vượt bậc phù hợp với thời đại.
- Phải là những thay đổi tích cực mới tạo ra được những bước tiến vượt
bậc.
- Trong thực tế cuộc sống, nhờ thay đổi nhận thức, thái độ, hành động
mà một số người đã thành công và tạo nên những bước tiến vượt bậc cho
đất nước, cho nhân loại.
-…
(Học sinh có thể lí giải thêm nhưng phải phù hợp, thuyết phục)
4 - Học sinh bày tỏ được quan điểm của bản thân về ý kiến: Sống là phải 1.0
thay đổi, có thể:
+ Đồng tình
+ Không đồng tình
+ Vừa đồng tình vừa không đồng tình
- Lí giải để bảo vệ ý kiến: Học sinh có thể lí giải theo nhiều cách khác nhau
nhưng phải hợp lí, thuyết phục, đảm bảo tính nhân văn.
II LÀM VĂN 7.0
1 Từ ý nghĩa của văn bản trong phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn 2.0
văn nghị luận (khoảng 200 chữ), trình bày suy nghĩ của mình về những
điều mà bản thân thấy cần thay đổi để phù hợp với cuộc sống hiện đại.
a. Đảm bảo thể thức của một đoạn văn, có đủ các phần: Mở đoạn, 0.25
thân đoạn, kết đoạn.
b. Xác định đúng các vấn đề nghị luận: Những điều mà bản thân thấy 0.25
cần thay đổi để phù hợp với cuộc sống hiện đại.
c. Triển khai hợp lí nội dung đoạn văn: vận dụng tốt các thao tác lập 1.0
luận, kết hợp chặt chẽ các dẫn chứng, có thể viết đoạn theo định
hướng sau:
1. Giải thích:
Thay đổi: Thay cái này bằng cái khác, làm cho khác với cái trước đây.
2. Bàn luận:
- Nêu được những điều cần thay đổi về nhận thức, thái độ, hành động…
của bản thân trước yêu cầu của cuộc sống hiện đại. Những thay đổi đó phải
là thay đổi tích cực góp phần hoàn thiện bản thân và thúc đẩy xã hội phát
triển.
- Thay đổi là một quá trình, thay đổi có thể diễn ra mọi lúc mọi nơi, thay
đổi từ những điều bé nhỏ, đến những điều lớn lao.
- Phê phán những con người bảo thủ, lạc hậu không bao giờ chịu thay đổi,
hoặc những người thay đổi nhưng trái với chuẩn mực xã hội.
3. Bài học liên hệ bản thân:
- Cần phải nỗ lực để hoàn thiện bản thân.
- Thay đổi nhưng không đánh mất mình, không đánh mất những nét đẹp
truyền thống.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu: đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ 0.25
pháp tiếng Việt
e. Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn 0.25
đề nghị luận.
2 Trình bày cảm nhận của anh/chị về hình tượng Sông Đà trong đoạn trích 5.0
Người lái đò Sông Đà. Từ đó bình luận ngắn gọn nét độc đáo trong cách
miêu tả sông Đà nói riêng, thiên nhiên Tây Bắc nói chung của nhà văn
Nguyễn Tuân.
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết 0.25
bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết
luận được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: cảm nhận hình tượng Sông Đà 0.5
trong đoạn trích, bình luận ngắn gọn nét độc đáo trong cách miêu tả sông
Đà nói riêng, thiên nhiên Tây Bắc nói chung của nhà văn Nguyễn Tuân.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm: Học sinh có thể triển
khai theo nhiều cách nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp
chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; cần đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:
* Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Tuân, bài tùy bút Người lái đò 0.5
Sông Đà, hình tượng Sông Đà trong đoạn trích.
* Cảm nhận hình tượng Sông Đà 2.0
- Từ điểm nhìn trên cao, Sông Đà có vẻ đẹp duyên dáng, mềm mại, yêu
kiều.
+ Dòng chảy của Sông Đà uốn lượn như “cái dây thừng ngoằn ngoèo”.
+ Sông Đà thướt tha, duyên dáng, đầy nữ tính như mái tóc người thiếu nữ
Tây Bắc: Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu
tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng
hai và cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân….
+ Sông Đà có sự thay đổi kì diệu màu nước theo mùa, mỗi mùa có một vẻ
đẹp riêng: Mùa xuân – “dòng xanh ngọc bích”; mùa thu – “nước Sông Đà
lừ lừ chín đỏ”.
- Từ điểm nhìn gần hơn – điểm nhìn của một người đi rừng lâu ngày bất
ngờ gặp lại con sông, Sông Đà gợi cảm, Sông Đà “như một cố nhân”.
+ Sông Đà lung linh, thơ mộng, mang đậm vẻ đẹp Đường Thi.
+ Sông Đà gợi niềm vui, đem lại cảm giác “đằm đằm ấm ấm như gặp
lại cố nhân” cho con người.
- Hình tượng Sông Đà được cảm nhận bằng ngôn ngữ tinh tế, giàu chất thơ;
câu văn nhịp nhàng; hình ảnh bay bổng, lãng mạn; sử dụng thành công biện
pháp tu từ so sánh…tạo những liên tưởng độc đáo thú vị, làm nổi bật vẻ
đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông.
(Lưu ý: Phần nghệ thuật phải được lồng vào phần nội dung)
* Bình luận ngắn gọn nét độc đáo trong cách miêu tả sông Đà nói riêng, 1.0
thiên nhiên Tây Bắc nói chung của nhà văn Nguyễn Tuân.
- Nhà văn nhìn Sông Đà không chỉ là một dòng sông tự nhiên, vô tri vô
giác mà còn là một sinh thể có sự sống, có tâm hồn, tình cảm. Với Nguyễn
Tuân, sông Đà nói riêng, thiên nhiên Tây Bắc nói chung cũng là một tác
phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Vẻ đẹp của Sông Đà hòa quyện vào
vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc nên càng trở nên đặc biệt. …
- Cách miêu tả độc đáo này cho thấy Nguyễn Tuân có sự gắn bó sâu nặng,
tình yêu mến tha thiết đối với thiên nhiên Tây Bắc, với quê hương đất nước,
đồng thời cho thấy được ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch lãm của ông.
-…
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ 0.25
pháp tiếng Việt
e. Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề 0.5
nghị luận.
HẾT
ĐỀ THI THAM KHẢO KÌ THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NĂM 2021
Bài thi: NGỮ VĂN
Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề
ĐỀ SỐ 15
GỢI Ý ĐÁP ÁN
Phần Câu Nội dung Điểm
I Đọc hiểu (3.0 điểm)
1 Thể thơ: Tự do 0.5đ
2 Đời sống được ví như bờ 0.5đ
Những giấc mơ được xem như biển
3 Hai câu thơ: 1.0đ
“Giấc mơ đêm cứu vớt cho ngày
Trong hư ảo người sống phần thực nhất” có thể hiểu là:
- Những giấc mơ tươi đẹp vào ban đêm chính là “liều thuốc an
thần”, giúp chúng ta giải tỏa căng thẳng, tạm thời quên đi những
khó khăn, mệt mỏi trong cuộc sống thực ban ngày.
- Những điều đến với ta trong giấc mơ chính là cái khát vọng
thầm kín nhưng chân thực nhất: đó là những điều ám ảnh ta
nhất, khiến ta khát khao muốn đạt được nhất.
4 Thí sinh tự do bày tỏ quan điểm, miễn là có lý giải phù hợp thì 1.0đ
đều đạt điểm. Gợi ý:
- Đồng tình
- Lý giải:
+ Bờ luôn là cái nhỏ bé, trong khi biển luôn là cái rộng lớn, bao
la. Cũng như vậy, đời sống luôn là cái hạn hẹp, nghèo nàn; trong
khi đó giấc mơ luôn mở ra một thế giới vô cùng rộng lớn và
phong phú.
+ Nếu không có biển, bờ sẽ không còn lí do để tồn tại. Cũng
như vậy, nếu không có những giấc mơ, những khát vọng để
hướng về những điều tốt đẹp; cuộc đời sẽ trở nên vô vị, mất hết
ý nghĩa.
II Làm văn (7.0 điểm)
1 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết 01 đoạn văn 2.0đ
(khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về vấn đề: giấc
mơ vẫy gọi con người.
a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn: 0.25
Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp,
tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: giấc mơ vẫy gọi con 0.25
người.
c. Triển khai vấn đề cần nghị luận: 1.0
Thí sinh có thể vận dụng các thao tác lập luận khác nhau để
triển khai vấn đề cần nghị luận, tuy nhiên phải đúng trọng tâm
mà đề bài yêu cầu. Có thể tham khảo hướng sau:
Giải thích:- Giấc mơ ở đây có thể hiểu là khát vọng vươn tới
những điều tốt đẹp, để làm cho cuộc sống trở nên hạnh phúc
hơn. “Giấc mơ vẫy gọi con người” muốn nói về ý nghĩa của giấc
mơ trong việc thúc đẩy con người tiến về phía trước.
Bình luận: - Giấc mơ vẽ nên một viễn cảnh tươi đẹp, từ đó tạo
ra động lực, niềm cảm hứng để giúp chúng ta tiến về phía trước.
- Giấc mơ giúp chúng ta có đủ sức mạnh để đối mặt và vượt qua
những khó khăn.
- Giấc mơ giúp chúng ta bớt bận tâm bởi những việc vô bổ;
tránh xa những cám dỗ xấu xa để tập trung vào những việc có
ích.
- Giấc mơ giúp chúng ta có cái nhìn tích cực, lạc quan hơn về
cuộc sống.
Liên hệ, mở rộng: - Phê phán những người đắm chìm trong
giấc mơ, ảo tưởng cuộc sống thực tế.
d. Sáng tạo: có cách diễn đạt sáng tạo, suy nghĩ mới mẻ về vấn 0.25 đ
đề cần nghị luận.
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, 0.25 đ
đặt câu.
“Con sông Đà tuôn dài tuôn dài … mỗi độ thu về...” 5.0
2 (Trích Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân, Ngữ Văn 12, Tập
1, tr.191)
Cảm nhận vẻ đẹp của sông Đà qua đoạn văn trên. Từ đó
nhận xét những đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả của nhà văn
Nguyễn Tuân.
a. Đảm bảo cấu trúc của một bài văn nghị luận 0.25
Trình bày đầy đủ các phần Mở bài, Thân bài, Kết bài. Phần
Mở bài biết dẫn dắt hợp lý và nêu được vấn đề; phần Thân bài
biết tổ chức thành nhiều đoạn văn liên kết chặt chẽ với nhau
cùng làm sáng tỏ vấn đề; phần Kết bài khái quát được vấn đề,
thể hiện được cảm xúc cá nhân.
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: vẻ đẹp trữ tình của sông Đà 0.25
qua đoạn trích; những đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả của nhà
văn Nguyễn Tuân.
c. Triển khai hợp lí nội dung bài văn: vận dụng tốt các thao tác 4.0
lập luận, kết hợp chặt chẽ với dẫn chứng. Học sinh có thể triển
khai bài biết theo nhiều cách khác nhau, đảm bảo những nội
dung chính sau:
* Giới thiệu ngắn gọn tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận. 0.5
* Cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của sông Đà qua đoạn trích:
Tác giả đã phát huy cao độ trí tưởng tượng phong phú cùng với 2.0
những liên tưởng bất ngờ mà thú vị để tái hiện hình ảnh Sông
Đà:
- Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của con
sông như mái tóc của người thiếu nữ “con sông Đà tuôn dài
tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và
cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
+ Vừa mới đây thôi sông Đà còn là nơi hội tụ của những
dữ dằn, hung bạo; vậy mà trong chốc lát sóng nước đã xèo xèo
tan trong trí nhớ để hiện hình trước mắt người đọc trong một
dáng vẻ hoàn toàn khác lạ.
+ Mái tóc tuôn tài tuôn dài tưởng chừng như bất tận, nó
trập trùng ẩn hiện giữa mây trời Tây Bắc, nó bồng bềnh uốn
lượn quanh co thướt tha duyên dáng… Mái tóc ấy như đang ôm
lấy dáng hình thanh tân trẻ trung gợi cảm đầy sức sống của
người thiếu nữ Tây Bắc.
+ Màu trắng tinh khiết của hoa ban, màu đỏ rực rỡ của
hoa gạo điểm vào suối tóc ấy khiến nó thêm phần kiều diễm làm
say lòng người. Tác giả dùng lối đảo trật tự câu “bung nở hoa
ban hoa gạo tháng hai” để nhấn mạnh thêm sức sống tràn căng
của thiên nhiên Tây Bắc vào thời điểm giữa mùa xuân, tô điểm
thêm cho vẻ đẹp của suối tóc Sông Đà.
+ Hình ảnh “cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương
xuân” đã tạo nên cái sương khói hư ảo như ẩn giấu đi gương
mặt đẹp bí ẩn của người thiếu nữ càng làm tăng thêm sức hấp
dẫn…
- Nhìn ngắm sông Đà từ nhiều thời gian khác nhau, tác giả
đã phát hiện ra những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của dòng
sông. Màu nước biến đổi theo mùa, mỗi mùa có vẻ đẹp riêng
trong cách so sánh rất cụ thể:
+ Mùa xuân, nước sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”,
tươi sáng, trong trẻo, lấp lánh, khác với màu xanh canh hến của
nước sông Gâm, sông Lô.
+ Mùa thu, nước sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ”, như da
mặt một người bầm đi vì rượu bữa, như màu đỏ giận dữ ở một
người bất mãn, bực bội. Dường như nhà văn không phải đang
miêu tả một dòng sông mà miêu tả diện mạo một con người
trong sự biến thiên của cuộc đời.
→ sắc nước tuy biến ảo linh hoạt theo mùa, nhưng đều là thứ
màu sắc gợi cảm, đầy ấn tượng.
→ sông Đà mang gương mặt, dáng vóc và nhan sắc của một mĩ
nhân, có sức gợi cảm, cuốn hút đến vô cùng.
* Nhận xét những đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả của nhà
văn Nguyễn Tuân
- Đoạn trích đã cho thấy công phu lao động nghệ thuật 1.0
nghiêm túc, khó nhọc của nhà văn. Nguyễn Tuân đã phải dành
nhiều tâm huyết và công sức để làm hiện lên những vẻ đẹp và
sắc thái khác nhau của thiên nhiên Tây Bắc.
- Nhà văn đã huy động tối đa các giác quan thị giác, xúc
giác, thính giác và vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực để tái
hiện hình ảnh sông Đà gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc
- Nhà văn cũng đã thể hiện tài năng điêu luyện của một
người nghệ sĩ ngôn từ trong việc tái tạo những kì công của tạo
hóa.
*Đánh giá chung
- Nhân vật Sông Đà dưới ngòi bút sáng tạo của nhà văn
lấp lánh hai nét tính cách: hung bạo và trữ tình. Lúc hung bạo,
con sông “mang diện mạo và tâm địa của một thứ kẻ thù số một” 0.5
của con người. Lúc trữ tình, dòng chảy ấy lại tràn đầy, sóng
sánh chất thơ, là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo
hóa, trở một “mĩ nhân” đầy gợi cảm và hấp dẫn. Qua đây tác
giả cũng kín đáo thể hiện tình cảm yêu nước tha thiết và niềm
say mê, tự hào với thiên nhiên của quê hương xứ sở mình.
d. Chính tả: Đảm bảo những quy tắc về chính tả, dùng từ, 0.25
đặt câu.
e. Sáng tạo, cách diễn đạt độc đáo, có suy nghĩ riêng về 0.25
vấn đề nghị luận.
HẾT
ĐỀ THI THAM KHẢO KÌ THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NĂM 2021
Bài thi: NGỮ VĂN
Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề
3 - Thể hiện nỗi vất vả, gian lao và đức tính kiên trì, tinh
thần sáng tạo trong hành trình cuộc sống của những
người lính trẻ thời kì chống Mỹ.
- Bộc lộ niềm yêu quý, tự hào của nhà thơ về thế hệ mình.
- Chân dung của những người lính trong đoạn trích: cởi 1,0
mở, tinh nghịch, trẻ trung (không có gì phải che giấu
nữa, tinh nghịch ló đầu qua cửa sổ, chen bám ở bậc toa
như chồi như nụ); dám gánh vác trách nhiệm trước đất
nước (hiệu còi ấy là một lời tuyên bố); dày dạn, kiên trì
trước những thử thách khốc liệt (mỗi ngày đều đụng
4
trận, vác cối nặng, thức nhiều hơn ngủ, xoay trần đào
công sự…); đầy tinh thần sáng tạo trong hành trình cuộc
sống (xoay trần trong ý nghĩ, đi… bằng rất nhiều lối
mới…).
- Suy nghĩ của bản thân: (tình cảm, thái độ, hành động)
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Từ phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 2,0 điểm
200 chữ) trình bày nhận thức của anh/ chị về trách nhiệm
của thế hệ trẻ hôm nay trước đất nước.
a. Đảm bảo cấu trúc của đoạn văn nghị luận 0,25
Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách quy nạp,
diễn dịch, tổng-phân-hợp, móc xích hoặc song hành
a. Đảm bảo cấu trúc của một bài văn nghị luận: có đầy đủ 0.25 điểm
Mở bài, Thân bài, Kết bài. Mở bài giới thiệu được tác giả,
tác phẩm, hình tượng sông Đà; Thân bài triển khai được
các luận điểm thể hiện cảm nhận về hình tượng Sông Đà
và cái tôi Nguyễn Tuân trong tuỳ bút Người lái đò Sông
Đà; Kết bài khái quát được toàn bộ nội dung nghị luận.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu: đảm bảo chuẩn chính tả, 0.25 điểm
chuẩn ngữ pháp, ngữ nghĩa
e. Sáng tạo: biết liên hệ, so sánh; có cách diễn đạt độc 0.5 điểm
đáo; văn viết giàu cảm xúc; suy nghĩ, kiến giải mới mẻ
về nội dung hoặc nghệ thuật
Hết
ĐỀ THI THAM KHẢO KÌ THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NĂM 2021
Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề
Tên tác phẩm: Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
ĐỀ SỐ 17
+ sông Hương ở ngoại vi thành phố mềm mại, đương thì xuân
sắc với những đường cong gợi cảm và tuyệt mĩ.
+ sông Hương lúc tạm biệt kinh thành với khúc rẽ ngoặt độc
đáo, được khám phá ở chiều sâu tính cách lãng mạn, đa cảm và
chung tình.
– Vẻ đẹp sông Hương thể hiện niềm yêu da diết, niềm tự hào và
kiêu hãnh của tác giả về con sông quê hương nói riêng và xứ
Huế nói chung.
* Làm nổi bật nét tài hoa phong cách kí Hoàng Phủ Ngọc 1,0đ
Tường:
– Vốn ngôn từ đẹp, tao nhã, tinh tế, lịch lãm; những ví von, so
sánh nhân hóa giàu chất thơ, chất nhạc, chất họa và chất suy
cảm, hướng nội đã làm nên nét thanh tao rất riêng trong chất kí
HPNT; sự quan sát và tưởng tượng bằng lăng kính của tình yêu
và cái nhìn lãng mạn đã làm nên chất trữ tình riêng của kí HPNT;
– Giọng điệu rất Huế, rất trữ tình và sâu lắng, đầy suy niệm.
Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề
ĐỀ 18
THƯA THẦY
Đã vấp ngã
thưa thầy
(Hữu Thỉnh, Thương lượng với thời gian, NXB Hội nhà văn, 2005)
Câu 1. Văn bản trên được viết theo thể thơ nào?
Câu 2. Chỉ ra và nêu tác dụng của một biện pháp tu từ được sử dụng trong những câu thơ
sau:
Câu 3. Trình bày suy nghĩ của anh/chị về hai dòng thơ sau:
Câu 4: Anh/Chị hãy nhận xét về tình cảm của người học trò đối với thầy giáo được thể
hiện trong văn bản trên.
Từ nội dung văn bản ở phần Đọc - hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trình bày suy nghĩ của anh/chị về vấn đề: Bài học trong trang vở là bài học từ cuộc đời.
Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành
một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế
giữa ban ngày, hoặc trên sân khấu nhà hát. Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ
điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền
nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya. Nguyễn Du đã bao năm
lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi
suốt đời Kiều. Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỉ, một
buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua - Đục như tiếng suối
mới sa nửa vời”... Đến câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách
Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh!”.
(Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12,
Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr.198-199).
Phân tích hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về tình cảm
của Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho xứ Huế.
HƯỚNG DẪN CHẤM