Enzyme thường có bản chất là protein nên rất dễ bị mất hoạt tính khi bị tách ra khỏi tế bào và cơ thể. Việc mất hoạt tính do các yếu tố như độ pH, nhiệt độ cao, kim loại nặng, áp suất cao, mất cofactor,…Do đó, trong sản xuất enzyme, việc giữ được hoạt tính là yếu tố được đặt lên hàng đầu. Để thực hiện được điều đó, người ta thường tiến hành theo một quy trình nghiêm ngặt, trong đó sử dụng phối hợp nhiều phương pháp khác nhau.
Quy trình sản xuất công nghệ enzyme bao gồm 4 giai đoạn: (1) Chọn nguồn nguyên liệu. (2) Tách chiết enzyme. (3) Tinh sạch enzyme. (4) Tạo chế phẩm enzyme.
a. Chọn nguồn nguyên liệu
Điều chế enzyme bằng phương pháp hóa học với số
lượng lớn là việc làm rất khó khăn và đầy tốn kém. Trong khi đó enzyme lại có nhiều trong cơ thể sinh vật sống nên người ta thường thu nhận chúng từ các nguồn sinh vật để quá trình dễ dàng và giảm chi phí. Mặc dù enzyme có trong tất cả các cơ quan, mô của động thực vật cũng như trong tế bào vi sinh vật, nhưng để đáp ứng yêu cầu về mặt kinh tế chỉ có thể tiến hành khi nguồn nguyên liệu được lựa chọn có một lượng lớn enzyme cũng như cho phép thu được enzyme với hiệu suất cao và dễ dàng tinh chế. b. Tách chiết enzyme Enzyme là phân tử có kích thước lớn nên không thể di chuyển qua màng của các bào quan, màng sinh chất và thành tế bào. Vì vậy, để thu nhận enzyme nội bào thì bước đàu tiên cần phải phá vỡ cấu trúc tế bào có chứa các enzyme. Đối với tế bào thực vật, người ta thường cắt nhỏ và cho vào ngăn đá hoặc cho vào dung dịch nhược trương trước khi nghiền bằng biện pháp cơ học. Thu nhận enzyme từ tế bài thực vật tương đối khó khăn do sự hiện diện của thành tế bào, không bào. Đối với tế bào động vật, trước tiên cần cắt nhỉ để loại bỏ các mô mỡ và mô liên kết. Sau đó, tiến hành xử lí các mô trong thiết bị đồng hóa (là thiết bị dùng để phá vỡ các lên kết của các phân tử). Cuối cùng, tiến hành li tâm để loại bỏ các thành phần thừa của tế bào. Đối với tế bào nấm men, người ta có thể tiến hành lắc với hạt thủy tinh (đường kinh 1mm); sử dụng một số hóa chất như toluen, EDTA 15mM, mercaptoethanol 2% để phá vỡ thành tế bào. Sau đó cho li tâm để thu nhận enzyme. Đối với tế bào vi khuẩn, nhiều phương pháp được sử dụng để phá vỡ tế bào như phương pháp cơ học (nghiền bi; sử dụng chất trợ nghiền như bột thủy tinh, cát thạch anh; đồng hóa bằng thiết bị đồng hóa ở áp suất cao); phương pháp vật lí (dùng sóng siêu âm); phương ohaso hóa học (dùng các loại dung môi như acetone, glycerol; chất tẩy rửa; lysozome;…) c. Tinh sạch enzyme Tinh sạch enzyme là quá trình loại bỏ các thành phần không phải là enzyme (nước, ion khoáng, chất hữu cơ, …) của tế bào ra khỏi enzyme. Để loại bỏ các chất này ra khỏi enzyme đòi hỏi phải có hiểu biết về enzyme, nắm vững quy trình kĩ thuật và phải sử dụng phối hợp nhiều biện pháp khác nhau. Để loại bỏ muối và các tạp chất có khối lượng phân tử thấp, người ta thường dùng các biện pháp thẩm tích đối với nước hay đối với các dung dịch đệm loãng, hoặc bằng cách lọc qua gel sephadex, hoặc dùng túi thẩm tích cleophan để loại bỏ các chất này.
*Thẩm tích là quá trình khuếch tán giữa hai pha lỏng
qua một màng có tính chất thẩm tích, có nghĩa là màng đó không chỉ cho dung môi đi qua mà còn cho cả chất tan đi qua, nhưng chỉ cho qua những chất có phân tử nhỏ.
*Dung dịch đệm là một dạng dung dịch lỏng chứa đựng
trong đó một hỗn hợp acid yếu và base liên hợp của nó hoặc base yếu và acid liên hợp.
Để loại bỏ các proten tạp và các tạp chất có khổi lượng
phân tử cao khác, người ta thường dùng kết hợp nhiều biện pháp khác nhau: phương pháp biến tính chọn lọc nhờ tác dụng của nhiệt độ hoặc pH của môi trường; phương pháp kết tủa phân đoạn bằng muối trung tính hoặc các dung môi hữu cơ; các phương pháp sắc kí (sắc kí hấp phụ, sắc kí trao đổi ion, sắc kí loại trừ phân tử, sắc kí ái lực,…); điện di; phương pháp lọc gel.
*Sắc ký là một phương pháp phân tách vật lý phân phối
các thành phần để phân tách giữa hai pha, một pha (pha tĩnh), pha kia (pha động) di chuyển theo một hướng xác định. d. Tạo chế phẩm enzyme Sau khi đã được làm tinh sạch và cô đặc đến nồng độ thích hợp, enzyme sẽ được bảo quản ở những điều kiện nhất định sao cho hoạt tính của enzyme không bị thay đổi trong suốt quá trình bảo quản và sử dụng. Hầu hết enzyme sẽ bị mất hoạt tính sau vài tuần hoặc vài tháng. Vì vậy, muốn đạt được mục tiêu bảo quan và sử dụng lâu dài, điều quan trọng là cần phải duy trì hình dạng của enzyme. Để làm được điều này, người ta có thế sử dụng các chất phụ gia, chỉnh sửa các liên kết cộng hóa trị hoặc cố định enzyme. Có nhiều phương pháp khác nhau được dùng để cố đingj cấu trúc của enzyme như sử dụng các muối vô cơ ( (NH4)2SO4, KH2PO4 ); dùng các polyols có khối lượng phân tử thấp (glycerol, sorbitol và manitol); đông khô để tạo bột enzyme;…
*Polyols là tên thu gọn của nhóm rượu đa phân tử
“polyhydric alcohol” hay "sugar alcohol”, là chất có vị ngọt thanh, độ ngọt thấp hơn đường nhưng không phải là đường, và có thể phối trộn với các loại đường để có độ ngọt như mong muốn. Trong công nghệ thực phẩm, polyols được dùng như chất tạo ngọt thay thế cho đường trong nhiều trường hợp…