Professional Documents
Culture Documents
Đề Cương Thảo Luận 1 (Moi Nhat)
Đề Cương Thảo Luận 1 (Moi Nhat)
Câu 1: Những nội dung cơ bản trong lý luận về kinh tế thị trường?
Trả lời:
Câu 2: Tính tất yếu và những đặc thù của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam? Liên hệ thực tiễn.
Trả lời:
1. Tính tất yếu và những đặc thù của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
1.1: Tính tất yếu: (trang 15)
1.1.1: Điều kiện trong nước:
+ Nền sản xuất hàng hóa việt nam sau thời kỳ đổi mới 1986 đã phát triển mạnh, những yếu tố cơ bản của quan hệ thị
trường được hình thành và phát triển, vì vậy tất yếu nền kinh tế xuất hiện
- Thời kỳ trước năm 1986, mô hình phát triển kinh tế xã hội tật trung bao cấp đã biểu hiện kìm hảm sự phát triển
kinh tế xã hội.
- Năm 1975-1986: Đại hội đảng lần thứ VI đã thực hiện cuộc cách mạng đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế
mà cốt lõi chuyển nền kinh tế vận hành theo cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường.
- Thực tiễn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam từ năm 2001 dến nay đã đạt được những
thành tựu to lớn: Việt nam thoát khỏi nghèo, kém phát triển, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội phát triển nhanh chóng.
1.1.2: Điều kiện quốc tế:
Trong lịch sử phát triển các mô hình kinh tế của nhân loại đã trải qua thì kinh tế thị trường là mô hình kinh tế có
hiệu quả nhất. Kinh tế thị trường đã tạo ra năng suất lao động cao, tạo ra nguồn hàng lớn để đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của tiêu dùng ( cả về số lượng chủng loại, mẫu mã và chất lượng) và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
hơn nền kinh tế tự cung, tự cấp, nền kinh tế tập trung bao cấp.
2. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.(trang 18)
+ Những đặc trưng chung của nền kinh tế thị trường:
- Về chủ thể kinh tế: Các chủ thể kinh tế được tự do sản xuất kinh doanh theo luật pháp và được bình đẳng không
phân biệt đối xử. Các chủ thể kinh tế đều có cơ hội để tiếp cận các nguồn lực phát triển có hiệu quả.
- Về thị trường: Thực hiện các giải pháp để tạo lập và phát triển các yếu tố thị trường cơ bản như thị trường hàng
hóa và dịch vụ; thị trường vốn, tiền tệ; thị trường khoa học, công nghệ; thị trường lao động, thị trường bất động sản
và lành mạnh hóa các yếu tố thị trường đó nhằm tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn định, bền
vững và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Về cơ chế vận hành: Tôn trọng tính khách quan của các quy luật kinh tế thị trường; tính năng động của cơ chế thị
trường.
- Về vai trò của Nhà nước: Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường trên cơ sở vận dụng các quy luật kinh tế của
nền kinh tế thị trường vào điều kiện Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế để định hướng phát triển nền
kinh tế, tạo lập môi trường cho nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững và hạn chế mặt trái của cơ chế thị trường.
Những đặc trưng riêng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Về hệ thống mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rỏ: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực hiện: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Để thực hiện được mục tiêu đó trong phát triển nền kinh tế thị trường, phải tạo điều kiện để giải phóng mạnh
mẽ sức sản xuất và không ngừng phát triển lực lượng sản xuất; phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với xây
dựng quan hệ sản xuất mới XHCN phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối; phát triển kinh tế thị
trường để từng bước xây dựng hạ tầng kinh tế cho chủ nghĩa xã hội; cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.
Mục tiêu kinh tế - xã hội - văn hóa mà nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải đạt là:
Làm cho dân giàu: Nội dung căn bản của dân giàu là mức bình quân GDP đầu người tăng nhanh trong một thời gian
ngắn và khoảng cách giàu, nghèo trong xã hội ngày càng được thu hẹp.
Làm cho nước mạnh: Thể hiện ở mức đóng góp to lớn của nền kinh tế thị trường cho ngân sách quốc gia; ở sự gia
tăng ngành kinh tế mũi nhọn; ở sự sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn tài nguyên quốc gia; ở sự bảo vệ môi
trường sinh thái, bảo vệ các bí mật quốc gia về tiềm lực kinh tế, khoa học, công nghệ và an ninh, quốc phòng.
Làm cho xã hội công bằng, văn minh: Thể hiện ở việc xử lý các quan hệ lợi ích ngay trong nội bộ nền kinh tế thị
trường, ở đó việc góp phần to lớn vào giải quyết các vấn đề xã hội, ở việc cung ứng các hàng hóa và dịch vụ có giá
trị không chỉ về kinh tế mà còn có giá trị cao về văn hóa, xã hội.
Về mục tiêu chính trị: Làm cho xã hội dân chủ, biểu hiện ở chỗ dân chủ hóa nền kinh tế, mọi người, mọi thành phần
kinh tế có quyền tham gia vào hoạt động kinh tế, vào sản xuất kinh doanh, có quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của
mình; quyền của người sản xuất và người tiêu dùng được bảo vệ trên cơ sở pháp luật của nhà nước.
- Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế: Nền kinh tế có nhiều thành phần, với nhiều hình thức sở hữu. Các
thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với nhau trên cơ sở pháp luật của nhà nước, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân; chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế
tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội về cơ bản được xây dựng xong.
- Về chế độ phân phối: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, thực hiện phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; đồng thời có các hình thức phân phối khác nữa (phân phối theo
vốn, theo tài năng cùng các nguồn lực khác đóng góp vào sản xuất kinh doanh), vừa khuyến khích lao động, vừa
bảo đảm phúc lợi xã hội cơ bản, bảo đảm sự phân phối công bằng, hợp lý và hạn chế sự bất bình đẳng trong xã hội.
- Về vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự quản lý
và điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Vì vậy, sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường phải định hướng cho nền kinh tế phát triển có
hiệu quả trên cơ sở đảm bảo lợi ích quốc gia, lợi ích của nhân dân lao động thông qua hệ thống pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời, có sử dụng cơ chế thị trường (vận dụng
các quy luật kinh tế thị trường để đưa ra những công cụ tác động vào thị trường) kích thích sản xuất, giải phóng sức
sản xuất, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường nhằm giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Nhà nước thực hiện chính sách xã hội,
một mặt, khuyến khích làm giàu hợp pháp, mặt khác phải thực hiện xóa đói, giảm nghèo.
- Về nguyên tắc giải quyết các mối quan hệ chủ yếu: Kết hợp ngay từ đầu giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất, bảo đảm giải phóng sức sản xuất; xây dựng lực lượng sản xuất kết hợp với củng cố và hoàn thiện quan hệ sản
xuất mới XHCN, nhằm phục vụ cho phát triển sản xuất và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữa phát triển
sản xuất với từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân; giải quyết tốt các vấn đề xã hội và công bằng xã
hội, ngăn chặn các tệ nạn xã hội; giải quyết tốt các nhiệm vụ chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường và an ninh, quốc
phòng.
- Về tính cộng đồng và tính dân tộc: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta mang tính cộng đồng
cao theo truyền thống của xã hội Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường có sự tham gia của cộng đồng và vì lợi ích
của cộng đồng, hướng tới xây dựng một cộng đồng xã hội Việt Nam giàu có, đầy đủ về vật chất, phong phú về tinh
thần, dân chủ, công bằng, văn minh, đảm bảo cuộc sống ấm no và hạnh phúc cho nhân dân.
- Về quan hệ quốc tế: Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta dựa vào sự phát huy tối đa nguồn lực trong
nước và triệt để tranh thủ nguồn lực nước ngoài theo phương châm “Kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của
thời đại” và sử dụng các nguồn lực đó một cách hợp lý, đạt hiệu quả cao, để phát triển nền kinh tế đất nước với tốc
độ nhanh, hiện đại và bền vững.
Như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa mang tính phổ biến (đặc trưng chung)
của mọi nền kinh tế thị trường; vừa có đặc trưng riêng của tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai nhóm nhân tố này
cùng tồn tại, kết hợp và bổ sung cho nhau. Trong đó, nhóm đặc trưng chung đóng vai trò là động lực thúc đẩy nền
kinh tế phát triển, nhóm đặc trưng riêng đóng vai trò hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
3. Liên hệ thực tiễn:
+ Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Việt Nam đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây chính là một trong những
thành tựu nổi bật của công cuộc đổi mới của Việt Nam. Thành tựu nổi bật này được biểu hiện cụ thể ở các điểm sau:
Thứ nhất: Nhận thức lý luận và tư duy kinh tế đã có bước đổi mới, được vận dụng vào xây dựng đường lối
phát triển kinh tế của Việt Nam. Đường lối đổi mới này đã được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật, tạo ra hành
lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển.
Thứ hai: Chế độ sở hữu và cơ cấu các thành phần kinh tế đã được đổi mới một cách căn bản với nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan xen, hỗn hợp, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, tạo động lực
và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Thứ ba: Các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất trong cả nước, gắn với thị
trường khu vực và thế giới. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã đi vào cuộc sống, tạo môi trường
thuận lợi cho doanh nghiệp, doanh nhân được tự chủ kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh để phát triển.
Thứ tư; Vai trò, chức năng quản lý nhà nước về kinh tế đã được đổi mới, từ can thiệp trực tiếp bằng mệnh
lệnh hành chính vào hoạt động sản xuất, kinh doanh chuyển sang quản lý bằng pháp luật, chính sách, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và các công cụ điều tiết vĩ mô khác.
Thứ năm: Luôn gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, như thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, xóa đói, giảm nghèo,… một cách tích cực.
+ Qua đây những nội dung trên là đánh giá chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về tình hình chuyển đổi cơ chế
kinh tế và xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hơn 20 năm qua
tại Hội nghị Trung ương 6, khóa X của Đảng Cộng sản Việt Nam(1). Để góp phần làm rõ hơn thực tiễn và sáng tạo
của đổi mới thể chế kinh tế Việt Nam, trong bài viết này, chúng tôi tập trung trình bày ba nội dung chính. Một số
vấn đề lý luận về kinh tế thị trường và thể chế kinh tế thị trường; những đổi mới trong nhận thức về xã hội chủ
nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; thực tiễn đổi mới thể chế kinh tế.
Câu 3: Giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay?
Trả lời:
1. Giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.(trang 25)
+ Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy vai trò của kinh tế nhà
nước.
+ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên môi
trường.
+ Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường.
+ Nâng cao vai trò lãnh đạo của đảng, năng lực và hiệu lực quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Mở rộng kinh tế đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Câu 4: Nêu những nội dung cơ bản của mô hình tăng trưởng kinh tế?
Trả lời:
1. Khái niệm mô hình tăng trưởng kinh tế: Mô hình tăng trưởng kinh tế là một cách diễn đạt quan điểm cơ bản
nhất về sự tăng trưởng kinh tế thông qua các biến số kinh tế và mối liên hệ giữa chúng.
2. Nội dung cơ bản của mô hình tăng trưởng kinh tế:
Thứ nhất: Từ ưu điểm, hạn chế của từng mô hình tăng trưởng. Mô hình tăng trưởng kinh tế, nói khái quát là
tăng trưởng kinh tế và các nhân tố tác động đến mô hình tăng trưởng kinh tế, bao gồm các nhân tố kinh tế và phi
kinh tế. Các nhân tố phi kinh tế có tác động gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế và khó lượng hóa tác động của chúng.
Tùy theo mức độ đóng góp khác nhau của các nhân tố vào tăng trưởng kinh tế đã hình thành nên các mô hình tăng
trưởng kinh tế khác nhau: tăng trưởng theo chiều rộng, theo chiều sâu và kết hợp chiều rộng với chiều sâu.
+ Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng có đặc trưng cơ bản là tăng khối lượng sản xuất nhờ vào tăng trưởng
vốn, lao động và tài nguyên thiên nhiên. Đồng thời, là con đường đơn giản nhất để mở rộng sản xuất, tạo việc làm,
tăng thu nhập,… nhưng cũng có nhiều hạn chế: nền kinh tế trì trệ, năng suất lao động thấp, cơ cấu kinh tế chuyển
dịch chậm, v.v.
Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu có đặc trưng cơ bản là dựa vào khoa học và công nghệ hiện đại, nâng
cao hiệu quả, chất lượng của tăng trưởng, như: nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng suất lao động, nâng cao sự
đóng góp của nhân tố năng suất tổng hợp (TFP), hướng hoạt động của nền kinh tế vào các ngành, lĩnh vực có giá trị
gia tăng, giảm chi phí sản xuất, chủ động sản xuất và xuất khẩu hàng hóa có dung lượng công nghệ cao, trên cơ sở
khai thác triệt để các lợi thế của đất nước, thực hiện đồng bộ hóa quá trình khai thác và chế biến sản phẩm. Tăng
trưởng theo chiều sâu không chỉ nâng cao chất lượng, hiệu quả nền kinh tế, mà còn gắn liền với bảo vệ môi trường
sinh thái, cải thiện phúc lợi xã hội, v.v.
Trong thực tế, không thể phân biệt rạch ròi tăng trưởng theo chiều rộng và tăng trưởng theo chiều sâu, mà chúng
thường được xen kẽ, kết hợp theo một mức độ nào đó. Mô hình kết hợp giữa hai loại hình tăng trưởng này vừa chú
ý tới tăng trưởng kinh tế về mặt lượng, quan trọng hơn là chú trọng nâng cao chất lượng và phối hợp giữa chúng
trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh,
chủ động hội nhập quốc tế.
Thứ hai: Xuất phát từ mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng là chủ yếu ở Việt Nam trong thời gian
qua. Mô hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta trong những năm qua đã tạo ra được tốc độ tăng trưởng nhanh, cao
trong một thời gian nhất định. Trong 30 năm đổi mới, đạt trung bình khoảng 6% - 7%/năm. Đáng chú ý là trong giai
đoạn 2008 - 2014, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu và những khó khăn khác, nhưng nền kinh tế Việt
Nam vẫn tăng trưởng bình quân 5,31%/năm; quy mô của nền kinh tế được mở rộng đáng kể. Năm 2014, GDP theo
giá trị thực tế đạt 186,300 tỷ USD, gấp 3 lần so với năm 2005 (57,848 tỷ USD). Do đó, thu nhập bình quân năm
2014 là 2.053 USD/người, gấp khoảng gần 3 lần so với năm 2005 (702 USD/người). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng tích cực, tiến bộ. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể, v.v. Tăng trưởng
kinh tế đã góp phần đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển và bước vào hàng ngũ các nước
đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp (1.025 - 3.035 USD/người/năm theo quy định của Ngân hàng Thế
giới từ năm 2012).
Nhưng kéo dài mô hình tăng trưởng theo chiều rộng với định hướng xuất khẩu, nguồn lực tăng trưởng chủ yếu dựa
vào vốn, lao động và tài nguyên thiên nhiên như thời gian qua trong bối cảnh hội nhập quốc tế mạnh mẽ và toàn
diện như hiện nay đã đưa đến những hệ lụy trực tiếp trước mắt. Đó là:
(1) Đạt được tốc độ tăng trưởng cao, nhưng vẫn ở trong tình trạng tụt hậu xa so với các nước phát triển trong khu
vực và thế giới;
(2) Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp và khi tài nguyên, lao động rẻ được khai thác “kịch
trần” thì động lực tăng trưởng, phát triển kinh tế sẽ không còn và Việt Nam sẽ rơi vào thời kỳ tăng trưởng thấp, hơn
nữa là khó tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu,… do đó, sẽ làm suy yếu khả năng tăng trưởng dài hạn của nền kinh
tế;
(3) Tăng trưởng kinh tế đang kéo theo tốc độ suy thoái môi trường tự nhiên một cách nhanh chóng, tài nguyên thiên
nhiên ngày càng bị khai thác cạn kiệt, ô nhiễm môi trường sinh thái ngày càng trầm trọng;
(4) Nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình - tình trạng một quốc gia thoát nghèo, gia nhập vào nhóm nước có mức
thu nhập trung bình (GDP trong khoảng 1.025 - 9.385 USD/người/năm), nhưng mất nhiều thập kỷ vẫn không trở
thành quốc gia phát triển (nước có GDP trên 9.385 USD/người/năm và đạt các tiêu chí khác về phát triển công nghệ,
kinh tế - xã hội).
Vì vậy, lựa chọn mô hình tăng trưởng như Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XII đề cập ở trên nhằm vừa thúc
đẩy kinh tế phát triển, tăng nhanh thu nhập, cải thiện đời sống dân cư, đưa nền kinh tế tiến lên mà không bị rơi vào
bẫy thu nhập trung bình; vừa giải quyết được vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái là đúng đắn. Điều đó đặt
ra và đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Phải duy trì được tốc độ tăng trưởng cao 6,5% - 7%/năm để đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200
- 3.500 USD. Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam hiện đứng thứ 7/11 nước trong khu vực Đông Nam Á,
thứ 36/50 nước và vùng lãnh thổ ở châu Á, và thứ 138/182 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hơn nữa, theo tính
toán của các chuyên gia, nếu duy trì tốc độ tăng trưởng như thời gian qua thì thu nhập bình quân đầu người của Việt
Nam bằng mức hiện tại của các nước sau đây thì số năm phải phấn đấu là: In-đô-nê-xi-a (5 năm), Phi-líp-pin (8
năm), Thái Lan (20 năm), Ma-lai-xi-a (24 năm), Sin-ga-po (40 năm). Đó là phép tính đặt trong trường hợp các nước
đó “đứng yên”, còn khi kinh tế của họ vẫn tiếp tục tăng trưởng thì cực khó để tính xem bao nhiêu năm nữa sẽ đuổi
kịp họ. Do đó, dù tăng trưởng cao và mục tiêu thoát nghèo đã vượt qua, nhưng nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế
vẫn hiện hữu. Vì vậy, không thể khác, buộc chúng ta phải đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Phải tiếp tục đổi mới và tái cơ cấu nền kinh tế. Đây là một quá trình liên tục, thường xuyên, vừa cấp bách, vừa lâu
dài. Cơ cấu kinh tế phải vừa khai thác lợi thế cạnh tranh hiện có, vừa tạo điều kiện để hình thành và xây dựng các
lợi thế cạnh tranh trong tương lai ở một số ngành công nghệ cao, công nghiệp hiện đại, ngành dịch vụ có tiềm năng
để từng bước đưa nền kinh tế nước ta đạt trình độ cao hơn và cuối cùng trở thành một nền kinh tế phát triển. Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập và định hướng xuất khẩu; kết nối được nền kinh tế nước ta với nền kinh tế
khu vực và toàn cầu; cải thiện vị thế của từng doanh nghiệp, từng ngành và cả nền kinh tế trong chuỗi giá trị toàn
cầu, đồng thời chú ý hơn đến nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Thay đổi phương thức tăng trưởng. Kết hợp hiệu quả giữa tăng trưởng theo chiều rộng và chiều sâu. Điều này có
nghĩa là Việt Nam phải tiếp tục huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư, các nguồn lực khác, kết hợp các loại công
nghệ có trình độ khác nhau để toàn dụng lao động. Đồng thời, liên tục cải thiện và nâng cao hiệu quả sử dụng các
nguồn lực để có thể đạt tốc độ tăng trưởng cao (6,5% - 7%/năm) liên tục, bền vững trong nhiều năm, kết hợp với
duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và ổn định chính trị, xã hội một cách vững chắc là một trong những điều kiện cần và
đủ để trở thành một nền kinh tế phát triển. Mặt khác, xử lý tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng tăng trưởng;
trong đó, lấy chất lượng tăng trưởng là vấn đề chính yếu. Trong dài hạn, cần tiến tới chấm dứt mô hình tăng trưởng
nhờ dồn sức vào tăng khối lượng vốn đầu tư, lao động giản đơn, chất lượng thấp, khai thác tài nguyên; xuất khẩu
sản phẩm thô và sơ chế,… chuyển dần sang mô hình tăng trưởng hiệu quả, bền vững, tập trung vào mục tiêu chất
lượng dài hạn. Cụ thể là nâng cao hiệu quả đầu tư, sự đóng góp của TFP, bảo đảm duy trì tốc độ tăng trưởng dài hạn
và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; tăng trưởng gắn với bảo vệ môi trường, cải thiện phúc lợi xã hội và xóa đói
giảm nghèo, v.v.
Nâng cao hiệu quả của các chỉ tiêu tăng trưởng. Việt Nam là quốc gia đang phát triển, có nhiều lợi thế về tài nguyên
và nguồn lao động; tuy nhiên, đang có những dấu hiệu giảm sút của các lợi thế ấy. Mặt khác, khi đã hội nhập sâu,
rộng vào nền kinh tế toàn cầu, sức ép cạnh tranh kinh tế quốc tế buộc chúng ta phải quan tâm đến hiệu quả của tăng
trưởng, hiệu quả của các hoạt động kinh tế, nếu không sẽ gặp bất lợi, chịu thua thiệt trong các mối quan hệ kinh tế
thương mại quốc tế và có thể thất bại trên thương trường quốc tế, thậm chí ngay cả trên sân nhà. Bởi vậy, cần phải
nâng cao hiệu quả của tăng trưởng, chuyển hướng hoạt động của nền kinh tế theo các khía cạnh chiều sâu của sự
phát triển. Cụ thể là: nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trình độ khoa học và công nghệ; tăng cường ảnh hưởng
của TFP; nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng suất lao động; hướng hoạt động của nền kinh tế theo các ngành,
lĩnh vực có giá trị gia tăng; chủ động sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm hàng hóa có dung lượng công nghệ cao,
trên cơ sở khai thác triệt để lợi thế của đất nước; thực hiện đồng bộ hóa quá trình khai thác và chế biến sản phẩm.
Điều đó đòi hỏi phải tăng cường đầu tư theo chiều sâu đối với các yếu tố nguồn lực làm nền tảng cho tăng trưởng
bền vững dài hạn; đồng thời, tăng đầu tư cho xây dựng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo tiền đề cho tăng trưởng
kinh tế dài hạn và bền vững. Tăng cường đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực được thể hiện trực tiếp nhất trong
lĩnh vực giáo dục và đào tạo, vì “đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển”. Việc đầu tư cho khoa học
và công nghệ phải có trọng tâm, trọng điểm để tạo bứt phá về một số công nghệ cao có tác động tích cực đến nâng
cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế.
Gắn tăng trưởng với việc tạo tác động lan tỏa tích cực đến các đối tượng ảnh hưởng, đặc biệt là hướng tới mục tiêu
phát triển con người. Vấn đề này đòi hỏi phải hướng tăng trưởng kinh tế tới các mục tiêu phát triển bền vững; duy
trì mức tăng trưởng hợp lý trong mối quan hệ ràng buộc với những điều kiện về tài nguyên, môi trường và các vấn
đề xã hội. Mô hình tăng trưởng kinh tế mới phải hướng tới mục tiêu thân thiện với môi trường: tăng trưởng kinh tế
đi đôi với sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên; nâng cao khả năng tái sinh tài nguyên; phòng, chống suy thoái, ô
nhiễm môi trường; coi trọng tăng trưởng kinh tế xanh, khuyến khích sản xuất và tiêu dùng sạch, bền vững. Đồng
thời, hướng tới mục tiêu phát triển con người. Quá trình tăng trưởng kinh tế phải được kiểm soát thường xuyên, chặt
chẽ, bởi các chỉ tiêu phát triển xã hội gắn với phát triển con người; trong đó, trọng tâm là vấn đề xóa đói giảm
nghèo, giải quyết việc làm, công bằng xã hội, nâng cao mức sống của nhân dân và các chỉ tiêu liên quan đến phát
triển toàn diện con người, như: giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao,… bình đẳng dân tộc và bình đẳng giới, v.v.
Chính việc đảm bảo các chỉ tiêu phát triển xã hội và sự bền vững về môi trường sinh thái là những yếu tố tích cực
củng cố và duy trì khả năng tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.
Hoàn thiện cơ chế vận hành nền kinh tế ở nước ta. Hoàn thiện cơ chế vận hành nền kinh tế, vừa phải nhanh
chóng tạo ra cơ chế tự do cạnh tranh thị trường, vừa phải duy trì sự can thiệp của Nhà nước ở mức độ hợp lý. Sự
can thiệp và quản lý phải tuân thủ và tôn trọng nguyên tắc của kinh tế thị trường. Cả hai mặt này được ví như hai
bàn tay (vô hình và hữu hình) đều phải được thực hiện ở mức độ và phạm vi thích hợp thì mới có hiệu quả. Xu
hướng chung là phải nới lỏng, giảm mạnh sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước, tăng cường sự điều tiết của cơ chế
thị trường đối với sản xuất, kinh doanh ở những nơi, những khâu mà thị trường điều tiết có hiệu quả hơn. Nhà nước
tập trung thực hiện vai trò dẫn dắt, thúc đẩy tạo tăng tốc độ và đột phá phát triển một số ngành ưu tiên và vùng lãnh
thổ làm động lực tăng trưởng, tạo dựng và tăng cường thêm lợi thế cạnh tranh, động lực tăng trưởng cho toàn bộ
nền kinh tế.
Để làm được điều đó, Nhà nước cần tập trung vào thực hiện tốt các vấn đề sau đây:
- Định hướng phát triển kinh tế, xã hội và môi trường;
- Đảm bảo kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, ổn định, hiệu quả, hiện đại cho sự phát triển;
- Cung cấp khung khổ thể chế (chủ yếu là hệ thống luật pháp) để điều hành và điều tiết nền kinh tế;
- Hệ thống đòn bẩy để thực hiện các ưu tiên phát triển cũng phải vận hành theo nguyên tắc thị trường. Thực hiện tốt
những điểm này thì đồng nghĩa với việc Nhà nước đã chuyển mạnh sang phương thức quản lý, điều hành gián tiếp
vĩ mô bằng pháp luật và biện pháp kinh tế là chủ yếu, thay cho điều hành trực tiếp và can thiệp sâu vào các hoạt
động vi mô bằng mệnh lệnh hành chính chủ yếu như trước đây.
Câu 5: Nêu những yêu cầu, mục tiêu, nội dung và nguyên tắc của đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam đến năm 2020?
Trả lời:
Câu 6: Nêu những quan điểm, định hướng và giải pháp chủ yếu phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế theo
hướng phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay.
Trả lời: