You are on page 1of 14

Thảo Luận Lần 1

Câu 1: Những nội dung cơ bản trong lý luận về kinh tế thị trường?
Trả lời:

1. Khái niệm về Kinh tế thị trường:


+ Kinh tế thị trường nói chung là những hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá, một hình thức mà ở đó hầu
hết các quan hệ kinh tế trên diễn ra trên thị trường, chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế vốn có của nó. Kinh tế
thị trường là kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường, diễn ra trong môi trường cạnh tranh và lấy lợi nhuận
làm động lực thúc đẩy.
2. Những nội dung cơ bản trong lý luận về kinh tế thị trường:
+ Kinh tế thị trường nói chung bao hàm những yếu tố chủ yếu cơ bản như sau:
 Thứ nhất: Độc lập của các chủ thể trong nền kinh tế.
+ Nền kinh tế thị trường đòi hỏi sự tồn tại của các chủ thể kinh tế độc lập dưới nhiều hình thức sở hữu khác nhau.
Các chủ thể này hoàn toàn động lập, tự chủ trong việc quyết định: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất
cho ai? Họ tự chịu trách nhiệm đối với quyết định sản xuất kinh doanh của bản thân dựa trên những tín hiệu thị
trường.
+ Về bản chất, nền kinh tế thị trường thị trường có cấu trúc đa sở hữu. Trong cấu trúc, sở hữu tư nhân luôn luôn là
thành tố tất yếu, bắt buộc. Phủ nhận sở hữu tư nhân có nghĩa là bác bỏ kinh tế thị trường trên thực tế. Bên cạnh sở
hữu tư nhân, còn có các dạng sở hữu khác là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và dạng đồng sở hữu của các chủ thể
khác, ví dụ sở hữu CTCP, DN tư bản nhà nước, v.v.
+ Về nguyên tắc, các chủ thể sở hữu và các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường là độc lập và bình đẳng
với nhau trước pháp luật và trong hoạt động kinh doanh. Nhưng mỗi hình thức sở hữu và mỗi chủ thể sở hữu lại có
vai trò, vị thế và chức năng đặc thù trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường.
 Thứ hai: Hệ thống đồng bộ các thị trường và thể chế tương ứng.
+ Mọi nền kinh tế thị trường đều có các yếu tố cấu thành cơ bản là các thị trường, bao gồm các thị trường yếu tố
[các thị trường đầu vào như thị trường đất đai, thị trường sức lao động, thị trường tài chính (thị trường tiền tệ, thị
trường vốn, thị trường chứng khoán), thị trường hàng hoá, thị trường khoa học - công nghệ] và thị trường hàng hóa
và dịch vụ tiêu dùng. Để nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả, phải bảo đảm hai yêu cầu.
- Sự hiện diện đầy đủ của tất cả các thị trường nói trên.
- Các thị trường phải vận hành đồng bộ.
Để đáp ứng hai yêu cầu này, việc hình thành và phát triển các thị trường phải tuân theo một trật tự bước đi xác định.
Việc không tuân thủ trật tự đó (ví dụ xây dựng thị trường vốn, thị trường chứng khoán nhưng hệ thống các quyền tài
sản không xác định rõ, thị trường đất đai không được thừa nhận chính thức) thường dẫn đến sự rối loạn, vận hành
kém hiệu quả của từng thị trường chức năng và của cả nền kinh tế.
Bên cạnh đó, sự vận hành đồng bộ của các thể chế thị trường đòi hỏi phải thực hiện đầy đủ các nguyên tắc cơ bản
của thị trường (chủ thể sở hữu độc lập, mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp, cơ chế phân bổ nguồn lực
do các lực lượng thị trường quyết định là chính, thông qua cạnh tranh tự do, v.v.) trên cơ sở dược sự bảo đảm của
luật pháp. Nếu không được bảo vệ bằng các đạo luật cơ sở như luật cạnh tranh, luật về các quyền sở hữu, luật chống
độc quyền, luật chống bán phá giá thì nền kinh tế không thể hoạt động bình thường.
 Thứ ba: Hệ thống giá cả được xác lập thông qua tương quan cung-cầu quyết định sự vận hành của nền
kinh tế thị trường.
+ Giá cả trên các loại thị trường được xác định dựa trên tương quan cung và cầu của từng thị trường đó. Tín hiện giá
cả là căn cứ khách quan đối với các chủ thể kinh tế đưa ra các quyết định sản xuất-kinh doanh của mình trong môi
trường cạnh tranh thị trường.
+ Nền kinh tế thị trường chỉ vận hành được một khi hệ thống giá cả được quyết định khách quan bởi thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận là động lực chủ yếu thúc đẩy nỗ lực hoạt động và hiệu
quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Để phục vụ mục tiêu đó, giá cả phải được thiết định trên các cơ sở khách
quan và được điều tiết bằng cơ chế tự điều tiết (cạnh tranh tự do).
 Thứ tư: Cơ chế căn bản vận hành của nền kinh tế thị trường là cạnh tranh tự do.
+ Không có cạnh tranh tự do, không thể nói đến kinh tế thị trường. Về bản chất, cơ chế cạnh tranh thị trường là cơ
chế tự điều chỉnh. Do vậy, nó còn được gọi là “bàn tay vô hình”. Cơ chế này giúp nền kinh tế tạo lập sự cân bằng
mỗi khi bị trục trặc.
+ Cạnh tranh là cơ chế chủ yếu phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế thị trường. Thông qua cạnh tranh, các
nguồn lực được rút ra khỏi những ngành, lĩnh vực và địa điểm đang hoạt động kém hiệu quả, di chuyển đến những
nơi có lợi thế phát triển và thu được hiệu quả kinh doanh, lợi nhuận cao hơn. Thực tế xác nhận rằng cho đến nay,
sau khi nền kinh tế đã vượt qua trình độ kinh tế nông dân tự cấp - tự túc, cạnh tranh là cơ chế phân bổ các nguồn lực
hiệu quả nhất.
 Thứ năm: Vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước.
+ Thị trường có những khuyết tật và cơ chế thị trường có thể bị thất bại trong việc giải quyết một số vấn đề phát
triển, ví dụ như khủng hoảng, đói nghèo, công bằng xã hội, môi trường, v.v. Để khắc phục chúng và tránh khỏi thất
bại thị trường, nhà nước phải tham gia quản lý, điều tiết sự vận hành nền kinh tế. Nhà nước tham gia vào các quá
trình kinh tế thị trường vừa với tư cách là bộ máy quản lý xã hội, vừa là một yếu tố nội tại của cơ chế vận hành kinh
tế. Với các tư cách đó, nhà nước thực hiện ba chức năng:
- Quản lý, định hướng và hỗ trợ phát triển;
- Phân phối lại thu nhập quốc dân.
- Bảo vệ môi trường.
Để thực hiện ba chức năng đó, nhà nước phải giải quyết các nhiệm vụ:
- Cung cấp khung khổ pháp lý rõ ràng, nghiêm minh, có hiệu lực và phù hợp với đòi hỏi của cơ chế thị trường;
- Kiến tạo và bảo đảm môi trường vĩ mô ổn định, có tính khuyến khích kinh doanh;
- Cung cấp kết cấu hạ tầng (gồm hạ tầng "cứng" - giao thông vận tải, cung cấp điện nước, v.v. và hạ tầng "mềm" -
dịch vụ thông tin, bưu chính - viễn thông; tài chính, v.v.) cũng như các dịch vụ và hàng hoá công cộng (chăm sóc
sức khoẻ, giáo dục - đào tạo, bảo vệ môi trường, v.v.).
- Hỗ trợ nhóm người nghèo các điều kiện tối thiểu để tham gia thị trường bình đẳng.
+ Năm yếu tố nói trên là 5 yếu tố cấu thành cơ bản khung thể chế chung của mọi nền kinh tế thị trường. Chúng hình
thành một tổng thể, quy định lẫn nhau. Thiếu bất cứ yếu tố nào trong số đó đều không thể có nền kinh tế thị trường
bình thường, vận hành hiệu quả. Tuy nhiên, trong mỗi nền kinh tế thị trường, tuỳ theo các điều kiện phát triển cụ
thể, vai trò, vị trí và chức năng của từng yếu tố không hoàn toàn giống nhau. Điều này tạo nên đặc thù của các mô
hình kinh tế thị trường và nền kinh tế thị trường ở những quốc gia cụ thể.

Câu 2: Tính tất yếu và những đặc thù của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam? Liên hệ thực tiễn.
Trả lời:

1. Tính tất yếu và những đặc thù của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
1.1: Tính tất yếu: (trang 15)
1.1.1: Điều kiện trong nước:
+ Nền sản xuất hàng hóa việt nam sau thời kỳ đổi mới 1986 đã phát triển mạnh, những yếu tố cơ bản của quan hệ thị
trường được hình thành và phát triển, vì vậy tất yếu nền kinh tế xuất hiện
- Thời kỳ trước năm 1986, mô hình phát triển kinh tế xã hội tật trung bao cấp đã biểu hiện kìm hảm sự phát triển
kinh tế xã hội.
- Năm 1975-1986: Đại hội đảng lần thứ VI đã thực hiện cuộc cách mạng đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế
mà cốt lõi chuyển nền kinh tế vận hành theo cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường.
- Thực tiễn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam từ năm 2001 dến nay đã đạt được những
thành tựu to lớn: Việt nam thoát khỏi nghèo, kém phát triển, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội phát triển nhanh chóng.
1.1.2: Điều kiện quốc tế:
Trong lịch sử phát triển các mô hình kinh tế của nhân loại đã trải qua thì kinh tế thị trường là mô hình kinh tế có
hiệu quả nhất. Kinh tế thị trường đã tạo ra năng suất lao động cao, tạo ra nguồn hàng lớn để đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của tiêu dùng ( cả về số lượng chủng loại, mẫu mã và chất lượng) và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
hơn nền kinh tế tự cung, tự cấp, nền kinh tế tập trung bao cấp.
2. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.(trang 18)
+ Những đặc trưng chung của nền kinh tế thị trường:
- Về chủ thể kinh tế: Các chủ thể kinh tế được tự do sản xuất kinh doanh theo luật pháp và được bình đẳng không
phân biệt đối xử. Các chủ thể kinh tế đều có cơ hội để tiếp cận các nguồn lực phát triển có hiệu quả.
- Về thị trường: Thực hiện các giải pháp để tạo lập và phát triển các yếu tố thị trường cơ bản như thị trường hàng
hóa và dịch vụ; thị trường vốn, tiền tệ; thị trường khoa học, công nghệ; thị trường lao động, thị trường bất động sản
và lành mạnh hóa các yếu tố thị trường đó nhằm tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn định, bền
vững và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Về cơ chế vận hành: Tôn trọng tính khách quan của các quy luật kinh tế thị trường; tính năng động của cơ chế thị
trường.
- Về vai trò của Nhà nước: Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường trên cơ sở vận dụng các quy luật kinh tế của
nền kinh tế thị trường vào điều kiện Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế để định hướng phát triển nền
kinh tế, tạo lập môi trường cho nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững và hạn chế mặt trái của cơ chế thị trường.
Những đặc trưng riêng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Về hệ thống mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rỏ: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực hiện: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Để thực hiện được mục tiêu đó trong phát triển nền kinh tế thị trường, phải tạo điều kiện để giải phóng mạnh
mẽ sức sản xuất và không ngừng phát triển lực lượng sản xuất; phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với xây
dựng quan hệ sản xuất mới XHCN phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối; phát triển kinh tế thị
trường để từng bước xây dựng hạ tầng kinh tế cho chủ nghĩa xã hội; cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.
Mục tiêu kinh tế - xã hội - văn hóa mà nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải đạt là:
Làm cho dân giàu: Nội dung căn bản của dân giàu là mức bình quân GDP đầu người tăng nhanh trong một thời gian
ngắn và khoảng cách giàu, nghèo trong xã hội ngày càng được thu hẹp.
Làm cho nước mạnh: Thể hiện ở mức đóng góp to lớn của nền kinh tế thị trường cho ngân sách quốc gia; ở sự gia
tăng ngành kinh tế mũi nhọn; ở sự sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn tài nguyên quốc gia; ở sự bảo vệ môi
trường sinh thái, bảo vệ các bí mật quốc gia về tiềm lực kinh tế, khoa học, công nghệ và an ninh, quốc phòng.
Làm cho xã hội công bằng, văn minh: Thể hiện ở việc xử lý các quan hệ lợi ích ngay trong nội bộ nền kinh tế thị
trường, ở đó việc góp phần to lớn vào giải quyết các vấn đề xã hội, ở việc cung ứng các hàng hóa và dịch vụ có giá
trị không chỉ về kinh tế mà còn có giá trị cao về văn hóa, xã hội.
Về mục tiêu chính trị: Làm cho xã hội dân chủ, biểu hiện ở chỗ dân chủ hóa nền kinh tế, mọi người, mọi thành phần
kinh tế có quyền tham gia vào hoạt động kinh tế, vào sản xuất kinh doanh, có quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của
mình; quyền của người sản xuất và người tiêu dùng được bảo vệ trên cơ sở pháp luật của nhà nước.
- Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế: Nền kinh tế có nhiều thành phần, với nhiều hình thức sở hữu. Các
thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với nhau trên cơ sở pháp luật của nhà nước, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân; chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế
tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội về cơ bản được xây dựng xong.
- Về chế độ phân phối: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, thực hiện phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; đồng thời có các hình thức phân phối khác nữa (phân phối theo
vốn, theo tài năng cùng các nguồn lực khác đóng góp vào sản xuất kinh doanh), vừa khuyến khích lao động, vừa
bảo đảm phúc lợi xã hội cơ bản, bảo đảm sự phân phối công bằng, hợp lý và hạn chế sự bất bình đẳng trong xã hội.
- Về vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự quản lý
và điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Vì vậy, sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường phải định hướng cho nền kinh tế phát triển có
hiệu quả trên cơ sở đảm bảo lợi ích quốc gia, lợi ích của nhân dân lao động thông qua hệ thống pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời, có sử dụng cơ chế thị trường (vận dụng
các quy luật kinh tế thị trường để đưa ra những công cụ tác động vào thị trường) kích thích sản xuất, giải phóng sức
sản xuất, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường nhằm giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Nhà nước thực hiện chính sách xã hội,
một mặt, khuyến khích làm giàu hợp pháp, mặt khác phải thực hiện xóa đói, giảm nghèo.
- Về nguyên tắc giải quyết các mối quan hệ chủ yếu: Kết hợp ngay từ đầu giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất, bảo đảm giải phóng sức sản xuất; xây dựng lực lượng sản xuất kết hợp với củng cố và hoàn thiện quan hệ sản
xuất mới XHCN, nhằm phục vụ cho phát triển sản xuất và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữa phát triển
sản xuất với từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân; giải quyết tốt các vấn đề xã hội và công bằng xã
hội, ngăn chặn các tệ nạn xã hội; giải quyết tốt các nhiệm vụ chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường và an ninh, quốc
phòng.
- Về tính cộng đồng và tính dân tộc: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta mang tính cộng đồng
cao theo truyền thống của xã hội Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường có sự tham gia của cộng đồng và vì lợi ích
của cộng đồng, hướng tới xây dựng một cộng đồng xã hội Việt Nam giàu có, đầy đủ về vật chất, phong phú về tinh
thần, dân chủ, công bằng, văn minh, đảm bảo cuộc sống ấm no và hạnh phúc cho nhân dân.
- Về quan hệ quốc tế: Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta dựa vào sự phát huy tối đa nguồn lực trong
nước và triệt để tranh thủ nguồn lực nước ngoài theo phương châm “Kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của
thời đại” và sử dụng các nguồn lực đó một cách hợp lý, đạt hiệu quả cao, để phát triển nền kinh tế đất nước với tốc
độ nhanh, hiện đại và bền vững.
Như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa mang tính phổ biến (đặc trưng chung)
của mọi nền kinh tế thị trường; vừa có đặc trưng riêng của tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai nhóm nhân tố này
cùng tồn tại, kết hợp và bổ sung cho nhau. Trong đó, nhóm đặc trưng chung đóng vai trò là động lực thúc đẩy nền
kinh tế phát triển, nhóm đặc trưng riêng đóng vai trò hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
3. Liên hệ thực tiễn:
+ Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Việt Nam đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây chính là một trong những
thành tựu nổi bật của công cuộc đổi mới của Việt Nam. Thành tựu nổi bật này được biểu hiện cụ thể ở các điểm sau:
 Thứ nhất: Nhận thức lý luận và tư duy kinh tế đã có bước đổi mới, được vận dụng vào xây dựng đường lối
phát triển kinh tế của Việt Nam. Đường lối đổi mới này đã được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật, tạo ra hành
lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển.
 Thứ hai: Chế độ sở hữu và cơ cấu các thành phần kinh tế đã được đổi mới một cách căn bản với nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan xen, hỗn hợp, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, tạo động lực
và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
 Thứ ba: Các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất trong cả nước, gắn với thị
trường khu vực và thế giới. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã đi vào cuộc sống, tạo môi trường
thuận lợi cho doanh nghiệp, doanh nhân được tự chủ kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh để phát triển.
 Thứ tư; Vai trò, chức năng quản lý nhà nước về kinh tế đã được đổi mới, từ can thiệp trực tiếp bằng mệnh
lệnh hành chính vào hoạt động sản xuất, kinh doanh chuyển sang quản lý bằng pháp luật, chính sách, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và các công cụ điều tiết vĩ mô khác.
 Thứ năm: Luôn gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, như thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, xóa đói, giảm nghèo,… một cách tích cực.
+ Qua đây những nội dung trên là đánh giá chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về tình hình chuyển đổi cơ chế
kinh tế và xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hơn 20 năm qua
tại Hội nghị Trung ương 6, khóa X của Đảng Cộng sản Việt Nam(1). Để góp phần làm rõ hơn thực tiễn và sáng tạo
của đổi mới thể chế kinh tế Việt Nam, trong bài viết này, chúng tôi tập trung trình bày ba nội dung chính. Một số
vấn đề lý luận về kinh tế thị trường và thể chế kinh tế thị trường; những đổi mới trong nhận thức về xã hội chủ
nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; thực tiễn đổi mới thể chế kinh tế.

Câu 3: Giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay?
Trả lời:
1. Giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.(trang 25)
+ Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy vai trò của kinh tế nhà
nước.
+ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên môi
trường.
+ Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường.
+ Nâng cao vai trò lãnh đạo của đảng, năng lực và hiệu lực quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Mở rộng kinh tế đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Câu 4: Nêu những nội dung cơ bản của mô hình tăng trưởng kinh tế?
Trả lời:

1. Khái niệm mô hình tăng trưởng kinh tế: Mô hình tăng trưởng kinh tế là một cách diễn đạt quan điểm cơ bản
nhất về sự tăng trưởng kinh tế thông qua các biến số kinh tế và mối liên hệ giữa chúng.
2. Nội dung cơ bản của mô hình tăng trưởng kinh tế:
 Thứ nhất: Từ ưu điểm, hạn chế của từng mô hình tăng trưởng. Mô hình tăng trưởng kinh tế, nói khái quát là
tăng trưởng kinh tế và các nhân tố tác động đến mô hình tăng trưởng kinh tế, bao gồm các nhân tố kinh tế và phi
kinh tế. Các nhân tố phi kinh tế có tác động gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế và khó lượng hóa tác động của chúng.
Tùy theo mức độ đóng góp khác nhau của các nhân tố vào tăng trưởng kinh tế đã hình thành nên các mô hình tăng
trưởng kinh tế khác nhau: tăng trưởng theo chiều rộng, theo chiều sâu và kết hợp chiều rộng với chiều sâu.
+ Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng có đặc trưng cơ bản là tăng khối lượng sản xuất nhờ vào tăng trưởng
vốn, lao động và tài nguyên thiên nhiên. Đồng thời, là con đường đơn giản nhất để mở rộng sản xuất, tạo việc làm,
tăng thu nhập,… nhưng cũng có nhiều hạn chế: nền kinh tế trì trệ, năng suất lao động thấp, cơ cấu kinh tế chuyển
dịch chậm, v.v.
Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu có đặc trưng cơ bản là dựa vào khoa học và công nghệ hiện đại, nâng
cao hiệu quả, chất lượng của tăng trưởng, như: nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng suất lao động, nâng cao sự
đóng góp của nhân tố năng suất tổng hợp (TFP), hướng hoạt động của nền kinh tế vào các ngành, lĩnh vực có giá trị
gia tăng, giảm chi phí sản xuất, chủ động sản xuất và xuất khẩu hàng hóa có dung lượng công nghệ cao, trên cơ sở
khai thác triệt để các lợi thế của đất nước, thực hiện đồng bộ hóa quá trình khai thác và chế biến sản phẩm. Tăng
trưởng theo chiều sâu không chỉ nâng cao chất lượng, hiệu quả nền kinh tế, mà còn gắn liền với bảo vệ môi trường
sinh thái, cải thiện phúc lợi xã hội, v.v.
Trong thực tế, không thể phân biệt rạch ròi tăng trưởng theo chiều rộng và tăng trưởng theo chiều sâu, mà chúng
thường được xen kẽ, kết hợp theo một mức độ nào đó. Mô hình kết hợp giữa hai loại hình tăng trưởng này vừa chú
ý tới tăng trưởng kinh tế về mặt lượng, quan trọng hơn là chú trọng nâng cao chất lượng và phối hợp giữa chúng
trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh,
chủ động hội nhập quốc tế.
 Thứ hai: Xuất phát từ mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng là chủ yếu ở Việt Nam trong thời gian
qua. Mô hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta trong những năm qua đã tạo ra được tốc độ tăng trưởng nhanh, cao
trong một thời gian nhất định. Trong 30 năm đổi mới, đạt trung bình khoảng 6% - 7%/năm. Đáng chú ý là trong giai
đoạn 2008 - 2014, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu và những khó khăn khác, nhưng nền kinh tế Việt
Nam vẫn tăng trưởng bình quân 5,31%/năm; quy mô của nền kinh tế được mở rộng đáng kể. Năm 2014, GDP theo
giá trị thực tế đạt 186,300 tỷ USD, gấp 3 lần so với năm 2005 (57,848 tỷ USD). Do đó, thu nhập bình quân năm
2014 là 2.053 USD/người, gấp khoảng gần 3 lần so với năm 2005 (702 USD/người). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng tích cực, tiến bộ. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể, v.v. Tăng trưởng
kinh tế đã góp phần đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển và bước vào hàng ngũ các nước
đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp (1.025 - 3.035 USD/người/năm theo quy định của Ngân hàng Thế
giới từ năm 2012).
Nhưng kéo dài mô hình tăng trưởng theo chiều rộng với định hướng xuất khẩu, nguồn lực tăng trưởng chủ yếu dựa
vào vốn, lao động và tài nguyên thiên nhiên như thời gian qua trong bối cảnh hội nhập quốc tế mạnh mẽ và toàn
diện như hiện nay đã đưa đến những hệ lụy trực tiếp trước mắt. Đó là:
(1) Đạt được tốc độ tăng trưởng cao, nhưng vẫn ở trong tình trạng tụt hậu xa so với các nước phát triển trong khu
vực và thế giới;
(2) Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp và khi tài nguyên, lao động rẻ được khai thác “kịch
trần” thì động lực tăng trưởng, phát triển kinh tế sẽ không còn và Việt Nam sẽ rơi vào thời kỳ tăng trưởng thấp, hơn
nữa là khó tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu,… do đó, sẽ làm suy yếu khả năng tăng trưởng dài hạn của nền kinh
tế;
(3) Tăng trưởng kinh tế đang kéo theo tốc độ suy thoái môi trường tự nhiên một cách nhanh chóng, tài nguyên thiên
nhiên ngày càng bị khai thác cạn kiệt, ô nhiễm môi trường sinh thái ngày càng trầm trọng;
(4) Nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình - tình trạng một quốc gia thoát nghèo, gia nhập vào nhóm nước có mức
thu nhập trung bình (GDP trong khoảng 1.025 - 9.385 USD/người/năm), nhưng mất nhiều thập kỷ vẫn không trở
thành quốc gia phát triển (nước có GDP trên 9.385 USD/người/năm và đạt các tiêu chí khác về phát triển công nghệ,
kinh tế - xã hội).
Vì vậy, lựa chọn mô hình tăng trưởng như Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XII đề cập ở trên nhằm vừa thúc
đẩy kinh tế phát triển, tăng nhanh thu nhập, cải thiện đời sống dân cư, đưa nền kinh tế tiến lên mà không bị rơi vào
bẫy thu nhập trung bình; vừa giải quyết được vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái là đúng đắn. Điều đó đặt
ra và đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Phải duy trì được tốc độ tăng trưởng cao 6,5% - 7%/năm để đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200
- 3.500 USD. Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam hiện đứng thứ 7/11 nước trong khu vực Đông Nam Á,
thứ 36/50 nước và vùng lãnh thổ ở châu Á, và thứ 138/182 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hơn nữa, theo tính
toán của các chuyên gia, nếu duy trì tốc độ tăng trưởng như thời gian qua thì thu nhập bình quân đầu người của Việt
Nam bằng mức hiện tại của các nước sau đây thì số năm phải phấn đấu là: In-đô-nê-xi-a (5 năm), Phi-líp-pin (8
năm), Thái Lan (20 năm), Ma-lai-xi-a (24 năm), Sin-ga-po (40 năm). Đó là phép tính đặt trong trường hợp các nước
đó “đứng yên”, còn khi kinh tế của họ vẫn tiếp tục tăng trưởng thì cực khó để tính xem bao nhiêu năm nữa sẽ đuổi
kịp họ. Do đó, dù tăng trưởng cao và mục tiêu thoát nghèo đã vượt qua, nhưng nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế
vẫn hiện hữu. Vì vậy, không thể khác, buộc chúng ta phải đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Phải tiếp tục đổi mới và tái cơ cấu nền kinh tế. Đây là một quá trình liên tục, thường xuyên, vừa cấp bách, vừa lâu
dài. Cơ cấu kinh tế phải vừa khai thác lợi thế cạnh tranh hiện có, vừa tạo điều kiện để hình thành và xây dựng các
lợi thế cạnh tranh trong tương lai ở một số ngành công nghệ cao, công nghiệp hiện đại, ngành dịch vụ có tiềm năng
để từng bước đưa nền kinh tế nước ta đạt trình độ cao hơn và cuối cùng trở thành một nền kinh tế phát triển. Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập và định hướng xuất khẩu; kết nối được nền kinh tế nước ta với nền kinh tế
khu vực và toàn cầu; cải thiện vị thế của từng doanh nghiệp, từng ngành và cả nền kinh tế trong chuỗi giá trị toàn
cầu, đồng thời chú ý hơn đến nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Thay đổi phương thức tăng trưởng. Kết hợp hiệu quả giữa tăng trưởng theo chiều rộng và chiều sâu. Điều này có
nghĩa là Việt Nam phải tiếp tục huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư, các nguồn lực khác, kết hợp các loại công
nghệ có trình độ khác nhau để toàn dụng lao động. Đồng thời, liên tục cải thiện và nâng cao hiệu quả sử dụng các
nguồn lực để có thể đạt tốc độ tăng trưởng cao (6,5% - 7%/năm) liên tục, bền vững trong nhiều năm, kết hợp với
duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và ổn định chính trị, xã hội một cách vững chắc là một trong những điều kiện cần và
đủ để trở thành một nền kinh tế phát triển. Mặt khác, xử lý tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng tăng trưởng;
trong đó, lấy chất lượng tăng trưởng là vấn đề chính yếu. Trong dài hạn, cần tiến tới chấm dứt mô hình tăng trưởng
nhờ dồn sức vào tăng khối lượng vốn đầu tư, lao động giản đơn, chất lượng thấp, khai thác tài nguyên; xuất khẩu
sản phẩm thô và sơ chế,… chuyển dần sang mô hình tăng trưởng hiệu quả, bền vững, tập trung vào mục tiêu chất
lượng dài hạn. Cụ thể là nâng cao hiệu quả đầu tư, sự đóng góp của TFP, bảo đảm duy trì tốc độ tăng trưởng dài hạn
và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; tăng trưởng gắn với bảo vệ môi trường, cải thiện phúc lợi xã hội và xóa đói
giảm nghèo, v.v.
Nâng cao hiệu quả của các chỉ tiêu tăng trưởng. Việt Nam là quốc gia đang phát triển, có nhiều lợi thế về tài nguyên
và nguồn lao động; tuy nhiên, đang có những dấu hiệu giảm sút của các lợi thế ấy. Mặt khác, khi đã hội nhập sâu,
rộng vào nền kinh tế toàn cầu, sức ép cạnh tranh kinh tế quốc tế buộc chúng ta phải quan tâm đến hiệu quả của tăng
trưởng, hiệu quả của các hoạt động kinh tế, nếu không sẽ gặp bất lợi, chịu thua thiệt trong các mối quan hệ kinh tế
thương mại quốc tế và có thể thất bại trên thương trường quốc tế, thậm chí ngay cả trên sân nhà. Bởi vậy, cần phải
nâng cao hiệu quả của tăng trưởng, chuyển hướng hoạt động của nền kinh tế theo các khía cạnh chiều sâu của sự
phát triển. Cụ thể là: nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trình độ khoa học và công nghệ; tăng cường ảnh hưởng
của TFP; nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng suất lao động; hướng hoạt động của nền kinh tế theo các ngành,
lĩnh vực có giá trị gia tăng; chủ động sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm hàng hóa có dung lượng công nghệ cao,
trên cơ sở khai thác triệt để lợi thế của đất nước; thực hiện đồng bộ hóa quá trình khai thác và chế biến sản phẩm.
Điều đó đòi hỏi phải tăng cường đầu tư theo chiều sâu đối với các yếu tố nguồn lực làm nền tảng cho tăng trưởng
bền vững dài hạn; đồng thời, tăng đầu tư cho xây dựng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo tiền đề cho tăng trưởng
kinh tế dài hạn và bền vững. Tăng cường đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực được thể hiện trực tiếp nhất trong
lĩnh vực giáo dục và đào tạo, vì “đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển”. Việc đầu tư cho khoa học
và công nghệ phải có trọng tâm, trọng điểm để tạo bứt phá về một số công nghệ cao có tác động tích cực đến nâng
cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế.
Gắn tăng trưởng với việc tạo tác động lan tỏa tích cực đến các đối tượng ảnh hưởng, đặc biệt là hướng tới mục tiêu
phát triển con người. Vấn đề này đòi hỏi phải hướng tăng trưởng kinh tế tới các mục tiêu phát triển bền vững; duy
trì mức tăng trưởng hợp lý trong mối quan hệ ràng buộc với những điều kiện về tài nguyên, môi trường và các vấn
đề xã hội. Mô hình tăng trưởng kinh tế mới phải hướng tới mục tiêu thân thiện với môi trường: tăng trưởng kinh tế
đi đôi với sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên; nâng cao khả năng tái sinh tài nguyên; phòng, chống suy thoái, ô
nhiễm môi trường; coi trọng tăng trưởng kinh tế xanh, khuyến khích sản xuất và tiêu dùng sạch, bền vững. Đồng
thời, hướng tới mục tiêu phát triển con người. Quá trình tăng trưởng kinh tế phải được kiểm soát thường xuyên, chặt
chẽ, bởi các chỉ tiêu phát triển xã hội gắn với phát triển con người; trong đó, trọng tâm là vấn đề xóa đói giảm
nghèo, giải quyết việc làm, công bằng xã hội, nâng cao mức sống của nhân dân và các chỉ tiêu liên quan đến phát
triển toàn diện con người, như: giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao,… bình đẳng dân tộc và bình đẳng giới, v.v.
Chính việc đảm bảo các chỉ tiêu phát triển xã hội và sự bền vững về môi trường sinh thái là những yếu tố tích cực
củng cố và duy trì khả năng tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.
 Hoàn thiện cơ chế vận hành nền kinh tế ở nước ta. Hoàn thiện cơ chế vận hành nền kinh tế, vừa phải nhanh
chóng tạo ra cơ chế tự do cạnh tranh thị trường, vừa phải duy trì sự can thiệp của Nhà nước ở mức độ hợp lý. Sự
can thiệp và quản lý phải tuân thủ và tôn trọng nguyên tắc của kinh tế thị trường. Cả hai mặt này được ví như hai
bàn tay (vô hình và hữu hình) đều phải được thực hiện ở mức độ và phạm vi thích hợp thì mới có hiệu quả. Xu
hướng chung là phải nới lỏng, giảm mạnh sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước, tăng cường sự điều tiết của cơ chế
thị trường đối với sản xuất, kinh doanh ở những nơi, những khâu mà thị trường điều tiết có hiệu quả hơn. Nhà nước
tập trung thực hiện vai trò dẫn dắt, thúc đẩy tạo tăng tốc độ và đột phá phát triển một số ngành ưu tiên và vùng lãnh
thổ làm động lực tăng trưởng, tạo dựng và tăng cường thêm lợi thế cạnh tranh, động lực tăng trưởng cho toàn bộ
nền kinh tế.
 Để làm được điều đó, Nhà nước cần tập trung vào thực hiện tốt các vấn đề sau đây:
- Định hướng phát triển kinh tế, xã hội và môi trường;
- Đảm bảo kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, ổn định, hiệu quả, hiện đại cho sự phát triển;
- Cung cấp khung khổ thể chế (chủ yếu là hệ thống luật pháp) để điều hành và điều tiết nền kinh tế;
- Hệ thống đòn bẩy để thực hiện các ưu tiên phát triển cũng phải vận hành theo nguyên tắc thị trường. Thực hiện tốt
những điểm này thì đồng nghĩa với việc Nhà nước đã chuyển mạnh sang phương thức quản lý, điều hành gián tiếp
vĩ mô bằng pháp luật và biện pháp kinh tế là chủ yếu, thay cho điều hành trực tiếp và can thiệp sâu vào các hoạt
động vi mô bằng mệnh lệnh hành chính chủ yếu như trước đây.

Câu 5: Nêu những yêu cầu, mục tiêu, nội dung và nguyên tắc của đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam đến năm 2020?
Trả lời:

1. Khái niệm đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế:


+ Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là
một năm). Đó là sự gia tăng quy mô sản lượng nhanh hay chậm so với thời điểm gốc.
Chỉ tiêu chính biểu hiện mức tăng trưởng kinh tế là tỷ lệ tăng GDP hoặc GNP của thời kỳ sau so với thời kỳ trước.
2. Yêu cầu:
- Lựa chọn và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta có tầm quan trọng hàng đầu để sớm vượt ra khỏi
tình trạng một nước có mức thu nhập trung bình thấp, đảm bảo tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng
cao và bền vững. Để thực hiện việc lựa chọn và chuyển đổi đó cần phải hiểu rõ các mô hình tăng trưởng kinh tế,
thực trạng mô hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta hiện nay, phương hướng và giải pháp chuyển đổi mô hình tăng
trưởng kinh tế trong giai đoạn tới.
3. Mục tiêu:
Mục tiêu của mô hình tăng trưởng mới là đáp ứng yêu cầu khắc phục các khuyết tật của mô hình tăng trưởng cũ,
giúp cho nền kinh tế không bị rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”, bảo đảm cho nền kinh tế tham gia có hiệu quả vào
chuỗi giá trị toàn cầu, hội nhập thành công vào nền kinh tế thế giới. Các trụ cột chính của mô hình tăng trưởng mới
đó là công nghệ-kỹ thuật và lao động có chuyên môn kỹ thuật cao. Phấn đấu “nâng tỷ trọng đóng góp của yếu tố
năng xuất tổng hợp (TFP) lên 31-32% vào năm 2015 và 35% vào năm 2020.
4. Nội dung:
+ Mô hình tăng trưởng kinh tế (TTKT) là sự phản ánh khái quát những đặc tính chủ yếu của phương thức TTKT
thể hiện các yếu tố tăng trưởng và mối quan hệ tương hỗ giữa chúng với nhau trong từng giai đoạn nhất định. Các
yếu tố đóng góp tạo nên TTKT gồm lao động, tư bản (vốn) và các yếu tố tăng năng suất lao động. Tùy theo mức
đóng góp của các yếu tố vào TTKT, đã hình thành nên các mô hình TTKT khác nhau: tăng trưởng theo chiều rộng,
tăng trưởng theo chiều sâu và tăng trưởng kết hợp theo chiều rộng với theo chiều sâu.
+ Mô hình TTKT theo chiều rộng có đặc trưng cơ bản là tăng khối lượng sản xuất chỉ bằng tăng các yếu tố đầu vào:
vốn, lao động và tiêu hao vật chất mà không kèm theo tiến bộ công nghệ. Tăng trưởng theo chiều rộng là con đường
đơn giản nhất để mở rộng sản xuất, nó nhanh chóng khai thác được các nguồn tự nhiên, thu hẹp nạn thất nghiệp,...
Nhưng con đường tăng trưởng như vậy có nhiều hạn chế là trì trệ và về lâu dài sẽ dẫn đến tình trạng nhịp độ tăng
năng suất lao động xã hội thấp, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, chất lượng của từng sản phẩm nói riêng và cả nền
sản xuất nói chung ngày càng kém đi, tới một thời điểm nào đó sẽ xuất hiện bế tắc xã hội, đời sống vật chất và tinh
thần của các tầng lớp dân cư trở nên kém phát triển... Thoát khỏi tình thế đó chỉ có con đường TTKT theo chiều sâu.
+ Mô hình TTKT theo chiều sâu có đặc trưng chủ yếu là nâng cao hiệu quả của tất cả các yếu tố truyền thống trên
cơ sở tiến bộ kỹ thuật, còn được gọi là năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP - Total Factor Productivity). Mô hình
TTKT theo chiều sâu có tính đặc thù và ưu điểm là: Tiến bộ khoa học kỹ thuật đóng vai trò chính trong quá trình
tăng trưởng; không chỉ tăng tổng khối lượng mà còn tăng cả chất lượng sản phẩm; giảm chi phí lao động và tư liệu
sản xuất tính trên một đơn vị thu nhập quốc dân, giảm giá trị một đơn vị sản phẩm. Trong tổng khối lượng sản xuất,
tỷ trọng của các ngành có hàm lượng khoa học cao tăng lên; tỷ trọng sản phẩm trung gian giảm và tỷ trọng sản
phẩm cuối cùng đi vào tiêu dùng tăng lên tương ứng, do vậy mà nâng cao được hiệu quả kinh tế, nâng cao chất
lượng sống của dân cư. Việc nâng cao mức sống của con người trong điều kiện TTKT theo chiều sâu không chỉ thể
hiện ở tăng phúc lợi vật chất, mà còn ở tăng chất lượng các dịch vụ xã hội (giáo dục, y tế...) và môi trường xung
quanh (giảm thiểu ô nhiễm môi trường, loại bỏ những công nghệ rủi ro...), tăng thời gian tự do, nâng cao mức thỏa
mãn nhu cầu đẳng cấp cao...
+ Tăng trưởng kinh tế được tính là thuộc mô hình này hay mô hình kia phụ thuộc vào mức độ đóng góp của các yếu
tố sản xuất vào tổng mức tăng trưởng chung của cả nền kinh tế. Trong TTKT chủ yếu theo chiều rộng, sự tăng đơn
thuần khối lượng các yếu tố sản xuất (lao động, vốn) tạo ra trên 50% tổng số sản phẩm tăng thêm. Còn trong mô
hình TTKT chủ yếu theo chiều sâu thì trên 50% tổng số sản phẩm tăng thêm là do TFP mang lại.
Tuy nhiên, trong thực tế không thể phân biệt rạch ròi phương thức tăng trưởng theo chiều rộng hay theo chiều sâu,
mà chúng thường được kết hợp theo một tỷ lệ nào đó, có thể gọi đó là mô hình kết hợp giữa TTKT theo chiều rộng
với TTKT theo chiều sâu. Mô hình kết hợp giữa TTKT theo chiều rộng và TTKT theo chiều sâu vừa chú ý tới số
lượng các yếu tố tăng trưởng, nhưng quan trọng hơn là vừa chú trọng nâng cao chất lượng và phối hợp giữa chúng
trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, làm cho yếu tố TFP đóng góp ngày càng lớn hơn vào tăng trưởng
chung của nền kinh tế.
 Mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong thời gian qua và hướng chuyển đổi trong thời gian tới.
+ Ở Việt Nam, TTKT những năm qua chủ yếu chỉ dựa vào tăng vốn, lao động và khai thác các nguồn lực tự nhiên,
còn mức đóng góp của TFP có tăng lên nhưng vẫn rất chậm và thấp so với nhiều nước trong khu vực cùng thời kỳ
phát triển. Trong tổng tốc độ TTKT 5 năm (2003 - 2008), yếu tố số lượng vốn đã đóng góp tới 52,73%, yếu tố số
lượng lao động đóng góp khoảng 19,07%; cộng hai yếu tố về số lượng tới 71,8%, gấp hơn 2,5 lần so với TFP; còn
yếu tố TFP chỉ đóng góp khoảng 28,2% (xem bảng 1), thấp xa so với các nước trong khu vực (đóng góp của TFP
vào TTKT của Trung Quốc là 52%, Inđônêxia 49%, Malaixia 50%, Thái Lan 53%, Philippin 38%)(1). Điều này
chứng tỏ rằng, kinh tế Việt Nam thời gian qua tăng trưởng chủ yếu là theo chiều rộng.
Trình độ công nghệ của nền kinh tế nước ta thấp và lạc hậu. Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF),
trình độ công nghệ của nước ta xếp thứ 92/117 nước được điều tra. Nhóm các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất
thuộc các ngành công nghệ cao mới chiếm 20,6%, công nghệ trung bình chiếm 20,7% và công nghệ thấp chiếm
58,7%. Đóng góp theo tỷ lệ phần trăm Mô hình TTKT nước ta trong những năm qua dựa nhiều vào tăng vốn đầu tư
mà phần lớn là từ ngân sách nhà nước (NSNN) và từ các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Những năm gần đây, vốn
đầu tư lên tới trên 40% - 41,9% GDP, cao hơn nhiều so với các nước Đông Nam Á khác, hiện chỉ ở mức 15-20%.
Trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2010, vốn khu vực nhà nước chiếm 38,1%(2). Theo Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, năm 2011, doanh nghiệp nhà nước chiếm 70% vốn đầu tư của toàn xã hội, 50% vốn đầu tư nhà nước,
60% tín dụng của các ngân hàng thương mại, 70% nguồn vốn ODA nhưng chỉ đóng góp vào GDP ở mức khoảng
37-38%. Hiệu quả đầu tư thấp, hệ số ICOR có xu hướng tăng lên, năm 2005 là 4,6; năm 2006 là 5,01; năm 2007 là
5,20, năm 2008 là 6,66, năm 2010 là 6,19, cao hơn đáng kể so với các nước khác: Trung Quốc là 4,1; Hàn Quốc là
3,2
+ Lực lượng lao động tuy đông về số lượng nhưng chủ yếu là lao động phổ thông, ít qua đào tạo. Theo một tham
luận tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam tháng 6-2010, khoảng 65% lực lượng lao động Việt Nam có kỹ năng rất
thấp và khoảng 78% dân số trong độ tuổi 20-24 không được đào tạo hoặc thiếu các kỹ năng cần thiết. Chương trình
đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động; học sinh học lý thuyết nhiều, nhưng khả năng vận dụng
thực tế rất yếu. Theo kết quả khảo sát của Hội Liên hiệp sinh viên Việt Nam, khoảng 50% sinh viên Việt Nam ra
trường không tìm được việc làm trong lĩnh vực chuyên môn của mình, tỷ lệ sinh viên phải đào tạo lại sau khi ra
trường rất lớn.
+ Từ tình hình trên cho thấy, mô hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng ở Việt Nam đã đạt tới giới hạn,
thể hiện rõ qua mức năng suất lao động (NSLĐ) thấp và tính lạc hậu của cơ cấu nền kinh tế. NSLĐ của Việt Nam
năm 2009 chỉ tương đương 14,9% của Xingapo, 9% của Mỹ, 40% của Thái Lan và 52,6% của Trung Quốc(3). Cơ
cấu kinh tế chuyển dịch chậm và lạc hậu. Trong giai đoạn từ năm 2000 - 2010, tỷ trọng nhóm ngành sản xuất sản
phẩm vật chất trong GDP hầu như không đổi, chiếm khoảng 61 - 62%, nhóm ngành dịch vụ dao động trong khoảng
38 - 39%, thấp hơn các nước khác (tỷ trọng của nhóm ngành dịch vụ trong GDP năm 2001 của Malaixia là 41,9%;
Thái Lan là 49,8%; và Hàn Quốc là 54,1%...)(4). TTKT của Việt Nam vẫn chủ yếu tập trung ở một số ngành và sản
phẩm truyền thống có công nghệ không cao như dệt may, thủy sản, nông sản chưa qua chế biến... Tỷ trọng của
ngành công nghiệp chế biến trong GDP còn thấp. Công nghiệp khai thác vẫn chiếm một tỷ trọng khá ổn định trong
GDP.
5. Nguyên tắc:
- Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và
chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững”
- Để chuyển sang mô hình tăng trưởng mới, đòi hỏi phải nâng cao nhanh chóng tỷ lệ đóng góp của yếu tố TFP vào
tăng trưởng GDP. Hướng kết hợp giữa tăng trưởng theo chiều rộng và theo chiều sâu một cách hợp lý ở Việt Nam
tới đây là chuyển mạnh sang tăng trưởng theo chiều sâu. Đại hội XI của Đảng đã đề ra mục tiêu đến năm 2015 đóng
góp của TFP vào TTKT là 31- 32% và năm 2020 là 35%. Dựa vào tiềm năng trong nước và khả năng mở rộng hợp
tác khoa học - công nghệ với các nước, có ý kiến cho rằng, cần và có thể nâng tỷ lệ đóng góp của TFP lên tới 40%
vào năm 2020 khi nước ta đã trở thành một nước công nghiệp (nếu đạt được như vậy thì cũng mới chỉ gần ngang
với các nước Inđônêxia, Malaixia, Thái Lan... hiện nay).
- Phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và phát triển tất cả các vùng.
- Phải hài hòa vai trò Nhà nước và thị trường trong phân bổ các nguồn lực tăng trưởng.
- Phải gắn kết tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
- Phải đổi mới mô hình tăng trưởng một cách toàn diện, đồng bộ và có hệ thống.
6. Giải pháp chủ yếu nhằm chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta từ nay đến năm 2020.
+ Để chuyển đổi mô hình TTKT ở Việt Nam theo hướng nâng cao nhanh chóng mức đóng góp của yếu tố TFP vào
tăng GDP, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
 Một là: Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ vào các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế.
Tạo điều kiện để các doanh nghiệp có đủ năng lực ứng dụng công nghệ mới bằng cách tạo môi trường đầu tư lành
mạnh, làm cho yếu tố công nghệ trở thành điều kiện quyết định giành thắng lợi trong cạnh tranh, giảm các ưu tiên,
ưu đãi cho một số loại hình doanh nghiệp; có chính sách thúc đẩy ứng dụng khoa học - công nghệ, khuyến khích các
doanh nghiệp thực hiện đầu tư đổi mới công nghệ; có các giải pháp quyết liệt để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho các
doanh nghiệp đi đầu trong ứng dụng công nghệ mới; thúc đẩy tăng tốc chuyển giao công nghệ vào các ngành, lĩnh
vực bằng cách thúc đẩy phát triển thị trường khoa học và công nghệ, phát triển doanh nghiệp khoa học - công nghệ
để tăng nguồn cung sản phẩm công nghệ mới cho thị trường. Thu hút vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ từ
nhiều nguồn, chọn các nhà khoa học đầu đàn làm chủ các công trình nghiên cứu khoa học. Quy định mức thù lao,
mức thưởng thỏa đáng đối với những người có năng lực sáng tạo, có công trình khoa học được áp dụng vào thực
tiễn. Tăng cường chuyển giao công nghệ tiên tiến, hiện đại trong các dự án FDI.
 Hai là: Đổi mới chính sách tài chínhđể góp phần thực hiện chuyển đổi quá trình tăng trưởng từ chỗ chủ yếu
dựa vào tăng vốn đầu tư mà phần lớn là từ NSNN và các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, sang quá trình tăng
trưởng dựa trên cơ sở tăng mạnh vốn đầu tư của khu vực dân doanh để khai thác tiềm năng của đất nước. Kinh
nghiệm của các nước Đông Nam Á cho thấy, cần phải tìm cách tăng tỷ trọng tích lũy đầu tư của khu vực dân doanh
trong tổng số vốn tích lũy đầu tư của toàn xã hội. Ở Việt Nam, đây là khu vực đầu tư đang có hiệu quả cao gấp đôi
so với khu vực kinh tế nhà nước. Giảm tỷ lệ vốn đầu tư từ NSNN, vì hiệu quả đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước
thấp và có xu hướng giảm.
Để khuyến khích tích lũy vốn đầu tư ở khu vực dân doanh thì chính sách tài chính quốc gia cần được đổi mới theo
hướng: Chính sách thu phải đảm bảo nâng cao tiềm lực tài chính cho các doanh nghiệp, đặc biệt là cho khu vực dân
doanh bằng cách giảm tỷ lệ huy động GDP vào NSNN. Hiện nay tỷ lệ này là khoảng 26% - 27%, theo nhiều chuyên
gia kinh tế, đó là tỷ lệ cao, cần giảm xuống còn khoảng 15% - 16%. Về chính sách chi NSNN cần điều chỉnh theo
hướng tăng chi cho các mục tiêu, nhiệm vụ xã hội, giảm chi cho đầu tư và chi hành chính, đồng thời nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn đầu tư, huy động các nguồn lực xã hội cho tăng đầu tư phát triển thông qua kênh phát hành trái
phiếu. Thu hẹp phạm vi trang trải của ngân sách, mở rộng phạm vi xã hội hóa, áp dụng mô hình phối hợp công và tư
(mô hình PPP - Public Private Partnerships) trong hoạt động dịch vụ công. Cơ cấu lại đầu tư công theo hướng ưu
tiên cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở các vùng kinh tế trọng điểm, vùng sâu, vùng xa. Giảm tỷ
trọng đầu tư của Nhà nước trong tổng đầu tư toàn xã hội không chỉ làm giảm tỷ lệ bội chi ngân sách mà còn hạn chế
được mức nợ công.
 Ba là: Phát triển nguồn nhân lực đủ về số lượng, không ngừng nâng cao chất lượng. Thực hiện các giải pháp
quyết liệt nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, chú trọng đào tạo công nhân kỹ thuật, trung cấp để thay đổi cơ cấu
lao động hiện nay. Đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục - đào tạo theo hướng tăng cường đào
tạo các kỹ năng chuyên sâu, giảm tải thời gian học lý thuyết, tăng cường thời gian thực hành cho học sinh, sinh
viên. Xây dựng đội ngũ giáo viên, giảng viên đáp ứng sự đổi mới của chương trình giáo dục - đào tạo. Tăng cường
nâng cấp chất lượng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các cơ sở đào tạo, chú trọng xây dựng mới và củng cố các phòng
thí nghiệm, xưởng thực nghiệm của các cơ sở đào tạo, đặc biệt là đối với cơ sở đào tạo các chuyên ngành mũi nhọn,
các ngành nghề mới. Mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khuyến khích và mở rộng cơ chế để
các cơ sở đào tạo trong nước hợp tác với các cơ sở đào tạo của các nước phát triển. Đổi mới chính sách sử dụng,
đánh giá và đãi ngộ nhân lực theo hướng dựa trên năng lực chuyên môn và hiệu quả thực hiện công việc.

Câu 6: Nêu những quan điểm, định hướng và giải pháp chủ yếu phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế theo
hướng phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay.
Trả lời:

1. Khái niệm về phát triển bền vững:


+ Phát triển bền vững là xu hướng phát triển hiện đại bảo đảm sự hài hòa giữa kinh tế - xã hội- môi trường, giữa các
ngành, lĩnh vực, các vùng lãnh thổ, giữa trước mắt và lâu dài và giữa các thế hệ... mục tiêu phát triển không chỉ là
phát triển kinh tế đơn thuần mà phải phát triển xã hội, phát triển con người trong sự cân đối hài hòa giữa đời sống
vật chất và phát triển con người vừa an toàn, vừa bền vững.
2. Quan điểm, định hướng các ngành kinh tế chủ yếu:
+ Đất nước bước vào thời kỳ thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 trong bối cảnh kinh tế thế
giới rất khó khăn, các nền kinh tế hàng đầu, như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản,... trong khi chưa thoát ra
khỏi cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế bắt đầu từ năm 2008 lại đứng trước nguy cơ bước vào vòng
suy thoái mới,... Bên cạnh đó, thế giới lại có một số xu thế chuyển dịch mới:
- Thay đổi mạnh mẽ của cơ cấu thị trường toàn cầu do sự dẫn dắt của khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức; sự
khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên; sự cạnh tranh gay gắt của các chuỗi giá trị đã thúc đẩy các quốc gia
cải tiến công nghệ để sử dụng tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu, thân thiện với môi trường.
- Với sự phát triển mạnh mẽ của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và ngày càng có nhiều hiệp định thương mại
tự do (FTA) giữa các quốc gia, khu vực,... đã góp phần làm cho quá trình toàn cầu hóa ngày càng được điều phối,
định hướng tốt hơn, đặc biệt là thị trường lao động quốc tế chưa bao giờ liên thông và năng động như hiện nay. Đó
chính là cơ hội cho các quốc gia đang phát triển cung ứng lao động và thu hút chất xám, tri thức và kinh nghiệm
quốc tế phát triển các ngành kinh tế.
- Sự phát triển mạnh mẽ của các nền kinh tế trong khối BRICS(1) sẽ tạo ra những cơ hội kinh tế rất lớn cho các nền
kinh tế đang phát triển hướng về xuất khẩu như Việt Nam.
Những diễn biến này sẽ tác động mạnh đến kinh tế nước ta, buộc chúng ta phải tính toán trong hoạch định chiến
lược phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế thời gian tới.
Quán triệt quan điểm “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt
trong Chiến lược” đã được đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, các ngành kinh tế chủ yếu
sẽ được chú trọng theo những quan điểm sau:
 Một là: Duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững, từng bước thực hiện “tăng trưởng xanh”, phát triển năng lượng
sạch, năng lượng tái tạo, thực hiện tốt bảo vệ môi trường.
 Hai là: Khai thác hợp lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, đẩy mạnh ứng dụng tiến để tăng năng suất
lao động, nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, chất lượng tăng trưởng của toàn bộ nền
kinh tế.
 Ba là: Phát triển công nghiệp với cơ cấu ngành nghề đa dạng, phát triển mạnh công nghiệp phụ trợ làm tăng
giá trị gia tăng nội địa trong mỗi sản phẩm dịch vụ và ứng dụng công nghệ thân thiện với môi trường; tích cực ngăn
ngừa và xử lý ô nhiễm công nghiệp, xây dựng nền “công nghiệp xanh”, đẩy mạnh phát triển công nghệ cao tại các
đô thị lớn. Từng bước phát triển ngành công nghiệp môi trường.
 Bốn là: Phát triền nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có khả năng cạnh
tranh cao, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và nông
thôn theo hướng công nghiệp hóa, phát huy thế mạnh của từng vùng; phát triển sản xuất nông sản hàng hóa có hiệu
quả, chất lượng, chú trọng việc bảo đảm các tiêu chuẩn trong nước và quốc tế về vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo
vệ môi trường; phát triển bền vững các làng nghề.
 Năm là: Phát triển các vùng và địa phương. Tập trung ưu tiên phát triển trước các vùng kinh tế trọng điểm,
có khả năng bứt phá và dẫn dắt sự phát triển, đồng thời chú ý tới việc hỗ trợ các vùng kém phát triển và có điều
kiện khó khăn hơn, nhằm tạo ra một sự cân đối nhất định về không gian phát triển; phát huy lợi thế của từng vùng,
tạo sự liên kết giữa các vùng, từng bước thu hẹp khoảng cách về xã hội và tiến tới giảm bớt sự chênh lệch về kinh tế
giữa các vùng và địa phương.
+ Đại hội XI của Đảng đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển các ngành kinh tế đến năm 2020, gắn với 3 đột
phá chiến lược:
Thứ nhất, các ngành công nghiệp và xây dựng tập trung nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của các sản phẩm.
Phát triển các sản phẩm công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, có khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn
cầu, ưu tiên phát triển những sản phẩm có chất lượng, giá trị gia tăng cao, áp dụng công nghệ mới, công nghệ sạch,
sử dụng tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường. Quá trình chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp được
đẩy mạnh theo hướng tăng nhanh công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, góp
phần hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại. Các ngành công nghiệp nền tảng được ưu tiên để đáp ứng nhu cầu về tư
liệu sản xuất cơ bản của nền kinh tế trong giai đoạn phát triển tới.
- Tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ, hình thành cơ chế liên kết, hợp tác, phân công sản xuất trong việc tham
gia chế tạo từng công đoạn sản phẩm. Thực hiện phân bố không gian công nghiệp phù hợp nhằm phát huy lợi thế so
sánh của các vùng, miền và tạo điều kiện để liên kết ngành mang lại hiệu quả cao.
- Phát triển mạnh công nghiệp chế biến, cơ khí, công nghiệp công nghệ thông tin, công nghiệp sinh học và công
nghiệp môi trường.
- Tập trung lấp đầy các khu công nghiệp gắn với việc đầu tư bổ sung các công trình, dịch vụ hạ tầng xã hội (nhà ở,
trường học, y tế, chợ,...) và thực hiện tốt bảo vệ môi trường.
Thứ hai, thực hiện đổi mới mạnh mẽ tư duy để hướng tới phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới có năng lực cạnh
tranh cao và thương hiệu tốt. Phát triển nông nghiệp toàn diện, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn thực
phẩm; phát huy lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên và sinh thái của mỗi vùng, mỗi địa phương. Tập trung đầu tư
khâu nghiên cứu và phát triển giống cây trồng, vật nuôi, nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học. Khuyến khích
tích tụ ruộng đất, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, các “cánh đồng mẫu lớn”; các trang trại nuôi
trồng thủy, hải sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm lớn; phát triển sản xuất gắn với bố trí, chuyển đổi hiệu quả cơ cấu lao
động trong nông nghiệp, nông thôn. Trong thập niên tới, ngành nông nghiệp nước ta cần tập trung vào một số nội
dung trọng tâm sau:
- Xây dựng và phát triển đa dạng các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả theo hướng liên kết, hợp
tác giữa các hộ nông dân với doanh nghiệp, các hợp tác xã, tổ hợp tác, hiệp hội ngành hàng để sản xuất hàng hóa
quy mô lớn, tập trung, gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu sản phẩm. Trong đó, doanh nghiệp
giữ vai trò chủ đạo là người thiết kế xây dựng sản phẩm, đầu vào, đầu ra, giá thành, thị trường tiêu thụ, hướng dẫn,
tổ chức sản xuất, đầu tư hỗ trợ kinh tế hộ phát triển theo hình thức trang trại, sản xuất hàng hóa lớn.
- Sản xuất theo mô hình “cánh đồng mẫu lớn” cần được tổng kết, đánh giá và mở rộng, nhưng trước hết cần mở
rộng trong sản xuất lúa gạo, rau, hoa, các cây nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu. Các doanh nghiệp, địa
phương sản xuất lúa gạo xuất khẩu phải khẩn trương quy hoạch xây dựng vùng nguyên liệu hàng hóa, hình thành
các “cánh đồng mẫu lớn”, sản xuất theo đơn đặt hàng, kế hoạch sản xuất, bảo đảm tiêu chuẩn, năng suất, chất lượng
cao, giảm giá thành, tăng lợi nhuận và kết nối bằng hài hòa lợi ích của các chủ thể từ khâu sản xuất, thu hoạch, bảo
quản, chế biến, phân phối sản phẩm, tạo ra chuỗi giá trị có tính cạnh tranh và hiệu quả cao. Các doanh nghiệp kinh
doanh xuất khẩu gạo trước mắt tham gia liên kết để hình thành chuỗi giá trị dựa trên mô hình “cánh đồng mẫu lớn”
và về lâu dài phải coi đây là mô hình tổ chức sản xuất chủ yếu để bảo đảm ổn định nguồn hàng và lợi ích của doanh
nghiệp.
- Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ vào tất cả các khâu, từng bước hiện đại nền
sản xuất nông nghiệp. Tập trung tự bảo đảm nguồn và khối lượng giống lúa, giảm dần sự phụ thuộc vào nhập khẩu
giống lúa hằng năm từ nước ngoài, ứng dụng khoa học công nghệ vi sinh để chọn tạo và sử dụng giống mới năng
suất, chất lượng cao; áp dụng quy trình canh tác, nuôi trồng tiên tiến, quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt
(VietGAP), an toàn thực phẩm; phòng, chống dịch bệnh; bảo quản chế biến, giảm tổn thất sau thu hoạch; tăng
cường cơ giới hóa trong các khâu; bố trí cơ cấu giống, mùa vụ, sản phẩm phù hợp và đạt hiệu quả cao nhất để nông
nghiệp nước ta sớm đạt trình độ tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực.
- Phát triển ngành trồng trọt theo hướng tiếp tục giữ ổn định diện tích cây trồng đã hình thành vùng sản xuất hàng
hóa tập trung, có lợi thế cạnh tranh, còn tiềm năng để gia tăng giá trị, như gạo, cao-su, cà-phê, hạt điều, hồ tiêu, sắn;
vùng nguyên liệu về mía, chè gắn với các nhà máy chế biến và xuất khẩu. Phát triển theo chiều sâu, trên cơ sở đa
dạng hóa cây trồng, sản phẩm, phát huy lợi thế vùng, miền, tiếp cận thị trường nhanh; áp dụng khoa học - công
nghệ, đặc biệt là công nghệ cao; đẩy nhanh cơ giới hóa đồng bộ các khâu từ sản xuất đến thu hoạch, chế biến, bảo
quản để giảm tổn thất sau thu hoạch, hạ giá thành, nâng cao giá trị gia tăng hàng nông sản và thích ứng với biến đổi
khí hậu, nâng cao thu nhập cho người sản xuất.
- Phát triển ngành chăn nuôi thành ngành sản xuất hàng hóa, theo phương thức trang trại công nghiệp, bán công
nghiệp, an toàn dịch bệnh, đáp ứng nhu cầu thực phẩm, bảo đảm chất lượng cho tiêu dùng và xuất khẩu, bảo vệ và
giảm ô nhiễm môi trường. Tập trung phát triển sản phẩm chăn nuôi có lợi thế và khả năng cạnh tranh, như lợn, bò,
gia cầm; đồng thời phát triển sản phẩm chăn nuôi đặc sản của vùng, địa phương; cải tạo và nâng cao chất lượng
giống, áp dụng quy trình chăn nuôi tiên tiến, sử dụng thức ăn chăn nuôi công nghiệp, tăng cường công tác thú y,
phòng, chống dịch bệnh, phát triển chăn nuôi hiệu quả, bền vững.
- Phát triển lâm nghiệp thành ngành kinh tế quan trọng theo hướng toàn diện từ quản lý, bảo vệ, trồng rừng, cải tạo
làm giàu rừng đến khai thác, chế biến tăng năng lực, hiệu lực bảo vệ môi trường, góp phần ứng phó hiệu quả với
biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, tập trung bảo vệ diện tích rừng hiện có, khai thác hiệu quả quỹ đất được quy hoạch
để trồng rừng sản xuất nhằm tăng tỷ lệ rừng kinh tế trong tổng diện tích rừng của cả nước, phát triển mạnh nghề
trồng rừng sản xuất để giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân miền núi, nhất là đồng bào dân tộc,
đáp ứng nhu cầu gỗ và các lâm sản khác cho tiêu dùng và xuất khẩu, đồng thời chú trọng phát triển vành đai rừng
ngập mặn ven biển vừa giúp phát triển nuôi trồng thủy sản, vừa chống sạt lở, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước
biển dâng.
- Phát triển thủy sản được coi là một mũi nhọn cần tập trung đầu tư để khai thác tiềm năng, lợi thế về mặt nước, khí
hậu nhằm tạo bước đột phá, đặc biệt là xuất khẩu. Phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng công nghiệp, hiện đại,
đa dạng sản phẩm, có hiệu quả, sức cạnh tranh cao và bền vững, bảo đảm chủ động nguyên liệu cho chế biến và
xuất khẩu. Đồng bằng sông Cửu Long được xác định là địa bàn tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng để phát triển mạnh
các loại thủy sản, đặc biệt là cá tra, tôm, nhuyễn thể và các loại thủy sản có giá trị cao khác. Trong quá trình phát
triển ngành nuôi trồng thủy sản phải bám sát quy hoạch. Quá trình mở rộng diện tích nuôi thâm canh năng suất cao
phải bảo đảm áp dụng công nghệ cao về nuôi trồng, quy trình công nghệ sinh sản nhân tạo các đối tượng nuôi chủ
lực... Bên cạnh đó, phải chú trọng đầu tư cho hệ thống xử lý nước thải, bảo đảm nuôi đúng tiêu chuẩn kỹ thuật, môi
trường, phòng tránh dịch bệnh phát sinh gắn với các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm ngay từ khâu nuôi trồng.
Đồng thời, tăng cường hệ thống thú y thủy sản nhằm kiểm soát chặt chẽ chất lượng con giống. Phát triển nhanh lực
lượng khai thác xa bờ gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường biển theo hướng đầu tư trang bị
phương tiện và công nghệ hiện đại, phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng và dịch vụ hậu cần nghề cá, hệ thống thông
tin liên lạc; cơ cấu lại lực lượng đánh bắt gần bờ, có chính sách hỗ trợ ngư dân chuyển đổi nghề, tạo việc làm, cải
thiện đời sống cũng được xác định là nhiệm vụ quan trọng từ nay đến năm 2020.
Thứ ba, các ngành dịch vụ được đẩy mạnh, nhất là các dịch vụ có giá trị, hàm lượng tri thức cao, tiềm năng lớn, có
lợi thế và có sức cạnh tranh, như du lịch, hàng hải, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin, y tế; hình thành
một số trung tâm dịch vụ, du lịch có tầm cỡ khu vực và quốc tế.
Hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ có giá trị gia tăng cao, như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, logistics, dịch vụ
phát triển phần mềm công nghệ thông tin và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh khác. Đẩy mạnh tham gia mạng phân
phối toàn cầu, phát triển nhanh hệ thống phân phối các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh ở cả trong và ngoài nước; xây
dựng thương hiệu hàng hóa và dịch vụ Việt Nam.
Thứ tư, hệ thống kết cấu hạ tầng được đầu tư đồng bộ, hiện đại, có ưu tiên những trọng tâm, trọng điểm trong phát
triển hệ thống.
- Ưu tiên đầu tư xây dựng, nâng cấp và mở rộng các trục giao thông đường bộ quốc gia, đến năm 2015 hoàn thành
cơ bản một số đoạn trọng điểm và đến năm 2020 hoàn thành nâng cấp toàn tuyến. Dự kiến đến năm 2020 đường bộ
cao tốc đạt tổng chiều dài 2.000 km.
- Cải tạo, nâng cấp các tuyến đường sắt hiện có đạt cấp tiêu chuẩn kỹ thuật đường sắt quốc gia. Phát triển giao thông
vận tải bánh sắt tại các đô thị, đường sắt nội - ngoại ô làm nòng cốt trong vận tải hành khách công cộng. Nghiên cứu
đầu tư mới tuyến đường sắt khổ 1.435mm nối Thành phố Hồ Chí Minh với Cần Thơ và Thành phố Hồ Chí Minh -
Biên Hòa - Vũng Tàu.
- Rà soát lại quy hoạch, tiếp tục đầu tư phát triển hệ thống cảng biển quốc gia, các cảng cửa ngõ quốc tế, các bến
cảng nước sâu tại ba vùng kinh tế trọng điểm có khả năng tiếp nhận các tầu công-ten-nơ thế hệ mới, các cảng tổng
hợp, cảng chuyên dùng, cảng hành khách đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế. Đầu tư phát
triển đồng bộ kết cấu hạ tầng cảng biển, bao gồm bến cảng, luồng vào cảng, giao thông đến cảng và hệ thống dịch
vụ hỗ trợ sau cảng. Tin học hóa các hoạt động dịch vụ cảng.
- Hoàn thành nâng cấp các tuyến đường thủy nội địa chính đạt cấp kỹ thuật quy định; tập trung cải tạo, chỉnh trị một
số đoạn tuyến quan trọng; tăng chiều dài các đoạn tuyến sông được quản lý khai thác. Tập trung đầu tư phát triển
vận tải đường sông ở đồng bằng sông Cửu Long; khai thác hiệu quả vận tải đường thủy trên sông Hồng, các tuyến
ven biển. Đầu tư chiều sâu, nâng cấp và xây dựng mới các cảng đầu mối, bến hàng hóa và hành khách ở đồng bằng
sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng.
- Hoàn thành cơ bản việc nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới một số cảng hàng không. Ưu tiên đầu tư đồng bộ và
hiện đại hóa 5 sân bay quốc tế, gồm các sân bay Nội Bài, Long Thành, Cam Ranh, Cần Thơ, Đà Nẵng. Trong đó,
sân bay Nội Bài và Long Thành sẽ được tập trung đầu tư thành các sân bay có quy mô và chất lượng phục vụ ngang
tầm với các cảng hàng không quốc tế lớn trong khu vực.
 Một số giải pháp chủ yếu phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế theo hướng phát triển bền vững ở Việt
Nam hiện nay.
+ Để thực hiện những định hướng và nhiệm vụ phát triển các ngành kinh tế như đã nêu ở trên, cần tiếp tục triển
khai một số giải pháp chủ yếu sau đây:
 Một là, rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển các ngành kinh tế và kết cấu hạ tầng kinh tế, các
vùng, địa phương, bảo đảm tính đồng bộ, liên ngành trên phạm vi cả nước theo quan điểm và yêu cầu mới, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp, vùng công nghiệp trọng điểm và các khu, cụm công nghiệp đồng bộ
với quy hoạch phát triển nguồn nhân lực: hệ thống cơ sở dạy nghề, các công trình hạ tầng xã hội phục vụ người lao
động. Cơ cấu lại nền công nghiệp theo hướng phát triển mạnh những ngành có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến
lược đối với sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, từng bước có
khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào các công đoạn sản xuất và mạng lưới phân phối toàn cầu.
Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, bảo đảm hiệu quả và tính
khả thi. Coi trọng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch và xử lý nghiêm các vi phạm quy
hoạch.
 Hai là, ưu tiên phát triển nguồn nhân lực và khuyến khích phát triển tinh thần doanh nghiệp. Phấn đấu hình
thành đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nghệ, nghiên cứu phát triển, quản lý nhà nước và quản trị doanh nghiệp có trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ, thông hiểu pháp luật Việt Nam và quốc tế, có lập trường và quan điểm chính trị vững
vàng, có khả năng hội nhập quốc tế, có tác phong công nghiệp, gắn bó với nghề, với doanh nghiệp, tạo ra một thế
hệ doanh nhân mới, có tinh thần kinh doanh bền chí, phát triển doanh nghiệp, làm giàu cho mình và cho xã hội;
tương lai sẽ trở thành những doanh nhân tầm cỡ khu vực. Tăng cường đào tạo nghề cho lao động, đặc biệt là lao
động kỹ thuật cao.
Rà soát, sắp xếp, củng cố, mở rộng hệ thống cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành công nghiệp (các trường đại học,
cao đẳng nghề, trung cấp nghề,...) theo hướng tổ chức đào tạo sát hơn với yêu cầu của xã hội. Ưu tiên phát triển ở
các vùng kinh tế trọng điểm một số trường cao đẳng nghề đạt trình độ quốc tế nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao, trực tiếp sản xuất, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Phát
triển các lớp dạy nghề hoặc cơ sở dạy nghề trong doanh nghiệp; thực hiện liên kết, liên doanh giữa doanh nghiệp
với các cơ sở dạy nghề, gắn việc dạy lý thuyết tại các cơ sở dạy nghề với thực hành tại doanh nghiệp, tạo nguồn lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật phù hợp với yêu cầu phát triển các ngành công nghiệp.
 Ba là, tập trung và thu hút các nguồn vốn đầu tư phát triển hạ tầng đồng bộ. Sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư
từ ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ. Tiến hành đầu tư theo kế hoạch trung hạn để chủ đầu tư chủ động bố
trí nguồn vốn đúng tiến độ và bảo đảm hiệu quả. Rà soát, hoàn thiện các quy định của pháp luật về đầu tư công,
mua sắm công. Sửa đổi cơ chế phân cấp đầu tư và nâng cao năng lực quản lý đầu tư theo hướng người quyết định
đầu tư phải cân đối khả năng bố trí vốn trước khi phê duyệt dự án đầu tư, chịu trách nhiệm quyết định hình thức lựa
chọn nhà thầu và chất lượng, hiệu quả của dự án.
- Thu hút mạnh và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Đẩy mạnh vận động các nhà
tài trợ tiếp tục cung cấp ODA để phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là các công trình lớn. Thời gian tới phải tập trung rà
soát, sửa đổi bổ sung các văn bản pháp luật có liên quan, ưu tiên bố trí vốn đối ứng và tháo gỡ khó khăn để đẩy
nhanh tiến độ giải ngân và hoàn thành các dự án.
- Thu hút mạnh các thành phần kinh tế, kể cả các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vào phát triển kết cấu hạ
tầng, bảo đảm lợi ích thỏa đáng của nhà đầu tư. Hoàn thiện quy định pháp lý, cơ chế, chính sách khuyến khích các
hình thức hợp tác, như hợp tác đầu tư giữa Nhà nước và tư nhân (PPP), BT, BOT,...
- Đổi mới cơ chế, chính sách huy động mạnh nguồn lực đất đai vào phát triển hạ tầng. Có chính sách khai thác địa
tô chênh lệch do xây dựng công trình hạ tầng đem lại để đầu tư phát triển hạ tầng. Thực hiện cơ chế thị trường thông
qua việc đấu giá quyền sử dụng đất đối với các dự án kinh doanh để tạo vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Có
chính sách phù hợp thu hồi đất để tạo vốn hỗ trợ cho xây dựng công trình hạ tầng. Chính phủ đang khẩn trương
trình Trung ương và Quốc hội về sửa đổi Luật Đất đai theo tinh thần này.
 Bốn là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Rà soát, hoàn thiện thể chế để tạo môi trường thuận
lợi thu hút mạnh mẽ và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm
thông thoáng, thuận lợi, khắc phục phiền hà và giảm chi phí cho sản xuất, kinh doanh. Khuyến khích ứng dụng
công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước. Hoàn thiện cơ chế phân cấp để vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo
của cấp dưới, vừa bảo đảm sự quản lý thống nhất của cấp trên, đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát và
xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.
Đại hội XI của Đảng chỉ rõ con đường phát triển đất nước, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã nêu
rõ các mục tiêu phát triển các lĩnh vực, các ngành kinh tế lớn. Trước mắt chúng ta là con đường dài, còn nhiều gian
khó, nhưng với bài học kinh nghiệm quý báu được tích lũy qua 25 năm đổi mới và quyết tâm cao của toàn Đảng,
toàn dân, nhất định đất nước ta sẽ đạt mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020./.

You might also like