Professional Documents
Culture Documents
Nguyễn Thị Diễm Thi-D20QHDT01-NL Thiết Kế Công Trình Dân Dụng
Nguyễn Thị Diễm Thi-D20QHDT01-NL Thiết Kế Công Trình Dân Dụng
ĐỒ ÁN MÔN:
NGUYÊN LÝ THIẾT KẾ KIẾN TRÚC DÂN DỤNG
1
QUY HOẠCH VÙNG VÀ ĐÔ THỊ
NỘI DUNG I:
PHẦN I:
TÌM HIỂU NHÀ Ở 3 MIỀN
BẮC BỘ
TRUNG BỘ
TÂY NAM BỘ
BẮC BỘ
• 1: Tổng quan
v Địa hình Bắc Bộ đa dạng và phức tạp. Bao gồm đồi núi, đồng bằng, bờ biển và
thềm lục địa. Có lịch sử phát triển địa hình và địa chất lâu dài, phân hóa mạnh mẽ.
Có bề mặt thấp dần, xuôi theo hướng tây bắc - Đông Nam, được thể hiện thông qua
hướng chảy của các dòng sông lớn.
v Bắc Bộ quanh năm có nhiệt độ tương đối cao và ẩm, nền khí hậu chịu ảnh hưởng
từ lục địa Trung Hoa chuyển qua và mang tính chất khí hậu lục địa. Trong khi một
phần khu vực Duyên hải lại chịu ảnh hưởng tính chất khí hậu cận nhiệt đới ấm và gió
mùa ẩm từ đất liền. Toàn vùng có khí hậu cận nhiệt đới ẩm với 2 mùa rõ rệt hè, đông.
2: KIẾN TRÚC
v Bắc Bộ chính là nơi lưu giữ cũng như phát huy
tốt nhất tập tục văn hóa làng xã của người Việt.
v Những ngôi nhà 3 gian miền Bắc được thiết kế
theo kiểu nhà cấp 4 và chia cấu trúc nhà thành 3
gian cũng có những ngôi nhà 5 gian, bên trên là
mái ngói cùng kèo cột truyền thống. Mặc dù
không được đánh giá quá cao về mặt khoa học
hay thẩm mỹ vì nó không cầu kỳ nhưng lại được
đánh giá cao hơn về cấu trúc truyền thống đơn
giản và khiến cho ngôi nhà luôn được mát mẻ
hơn vào mùa hè hay ấm cúng hơn vào mùa đông.
Đặc biệt là nó không hề tạo nên vách ngăn nào
trong không gian nhà từ đó gắn kết các thành
viên lại với nhau tốt hơn.
2: KIẾN TRÚC
v Vẫn còn khá nhiều vùng miền có kiến trúc
làng xã bao quanh với lối thiết kế nhà cổ nông
thông đúng chuẩn nhà 3 gian miền Bắc na ná
nhau đã tạo nên một thổng thể kiến trúc vô
cùng đẹp mắt, gây được sự ấn tượng và thổi
hồn vào truyền thống văn hóa xưa.
• Kiến trúc nhà xưa ở làng quê vùng đồng bằng bắc bộ thường
là 3 gian 2 chái, hoặc 5 gian, cửa bức bàn, mái lợp rơm rạ, có
điều kiện thì mới lợp ngói. Khung cảnh xưa tuy vậy mà tạo
cảm giác dễ chịu, đẹp về không gian kiến trúc và người sống
trong ngôi nhà thường thấy thoải mái, thoáng mát chứ không
bí bức, oi nồng như những ngôi nhà xây tầng san sát tường
gạch, bê tông như thời bây giờ.
• Người xưa còn quan niệm, “lấy vợ hiền hòa, ở nhà hướng
Nam”. Thực tế hướng Nam, Đông Nam là hướng gió mát,
hướng có ánh nắng buổi sớm mà không bị nắng gắt buổi
chiều của hướng Tây và gió lạnh từ hướng Bắc. Bởi vậy kiến
trúc nhà truyền thống nơi làng quê thường chọn hướng Nam,
Đông Nam để tạo không gian sống thoáng mát, dễ chịu cho
người cư ngụ.
• Ý NGHĨA “TRƯỚC CAU, SAU CHUỐI”
• Trước nhà thường chọn cau. Vì cây cau
thân tròn có nhiều đốt, mọc cao và ngay
thẳng, lá ở tít trên cao phần ngọn. Cau
thích nghi ánh sáng hướng Tây. Nếu
trồng ở phía trước nhà hướng Nam, cau
sẽ hấp thụ ánh sáng mạnh của hướng
Tây, thanh lọc bớt khí nóng, lại đón
được ánh nắng buổi sớm ban mai mà
không bị che chắn của hướng Đông để
lấy gió mát vào nhà. Hàng cau trước
nhà thẳng tắp vừa đẹp mắt, lại không
che khuất tầm nhìn của ngôi nhà, có tác
dụng như một hàng rào danh dự trấn giữ,
che chở bảo vệ cho ngôi nhà của bạn.
Tác dụng này của cây cau cũng gần
giống với cây trúc quân tử. Bởi vậy, ở
nhiều ngôi nhà chúng ta cũng thấy gia
chủ trồng bao quanh một hàng trúc. Đó
chính là “trước cau…” theo ý nghĩa bài
trí của người xưa.
Cây chuối có nhiều tàu lá to, thân to
tròn gồm nhiều lớp bẹ kết gắn chặt
lại mà thành cây. Cây chuối là
loại cây đẻ mầm rất nhanh, sống
khỏe, tạo thành khóm, bụi nên
mang nét vững chắc, có tác dụng
che chắn khí lạnh từ phương bắc và
đông bắc thổi tới để giữ ấm cho
ngôi nhà. Với những ngôi nhà dài,
như nhà 5 gian truyền thống, trồng
chuối phía sau nhà còn có tác dụng
che mát nắng nóng buổi chiều của
hướng tây. Bởi thế,“… sau trồng
chuối” theo nghĩa của người xưa là
vậy.
SỰ THAY ĐỔI KIẾN TRÚC NHÀ TỪ
TRUYỀN THỐNG TỚI HIỆN ĐẠI
Nhà Bắc Truyền thống có mái tranh Nhà Bắc cách tân xưa và nay ( phát
triển từ mái đến vách tường phải là
những chất liệu có thể chống chịu với
những mùa khắc nghiệt trong năm)
Nhà miền Bắc hiện đại thu hút (Những Nhà hiện đại pha nét cổ xưa theo xu
kiểu nhà phố theo phong cách Bắc trong hướng đưa thiên nhiên cây xanh vào
thời đại mới lần lượt ra đời phục vụ con cuộc sống. Giúp con người tiếp cận
người tốt hơn trong việc thích nghi với và gần gũi thiên nhiên
môi trường và sinh hoạt tinh thần)
o 1: TỔNG QUAN
v Trung Bộ có nhiều đồi núi lan sát ra biển, chia cắt
các đồng bằng nhỏ hẹp. Khí hậu và phần lớn đất
đai thường khắc nghiệt hơn hai vùng còn lại. Trung
Bộ hiện nay được chia thành 3 khu vực nhỏ hơn
là Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây
Nguyên với thành phố trung tâm là Đà Nẵng.
v Khu vực Bắc Trung Bộ vào mùa đông, do gió
mùa thổi theo hướng đông bắc mang theo hơi
nước từ biển vào nên toàn khu vực chịu ảnh hưởng
của thời tiết lạnh kèm theo mưa.
v Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ Gió mùa đông bắc
khi thổi đến đây thường suy yếu đi sẽ gây ra thời
tiết khô nóng cho toàn bộ khu vực.
TRUNG BỘ
2: KIẾN TRÚC
v Nhà ở truyền thống miền Trung là tổng
thể ngôi nhà bao gồm nhiều lớp nhà được
xây dựng với mái liền kề. Trong đó, nha
cho là nơi tôn Nghiêm đặt bàn thờ tổ tiên
còn nhà dưới là không gian sinh hoạt dành
cho các thành viên trong gia đình. Tại
miền Trung, nhà trên và nhà dưới thường
được thiết kết vuông góc nhau và cùng
hướng về sân phơi phía trước nhà.
v Nhà miền Trung chủ yếu được xây dựng
theo hệ thống kèo chống làm trụ. Cấu trúc
kèo chống có đặc trưng là các thanh kèo
được đặt nằm nghiêng theo chiều dốc của
mái nhà liên kết các đầu cột với nhau.
•
Nhà miền Trung chủ yếu xây dựng bằng hệ
thống kèo chống làm trụ. Cấu trúc kèo chống có
đăc trưng đó là đó là các thanh kèo dược đặt
nằm nghiêng theo chèo dốc của mái nhà liên
kết các đầu cột với nhau và đầu của thanh kèo
nằm phía dưới được gác lên đuôi của thanh kèo
nằm phía trên. Nét đặc trưng này đã được thể
hiện thông qua chính tên gọi của nó (nhà kèo).
NÉT ĐẶT TRƯNG NÀY ĐÃ ĐƯỢC THỂ
HIỆN QUA CÁI TÊN CỦA NÓ (NHÀ KÈO)
Ø NGOÀI RA q Nhà Rường
CÒN CÁC q Nhà rọi ( nhà nọc ngựa )
LOẠI KHÁC NHƯ: q Nhà thượng rượng hạ rọi
NHÀ RƯỜNG: LÀ LOẠI NHÀ LỚN HƠN, CÓ CẤU TRÚC PHỨC TẠP, GIÁ TRỊ ĐẮT ĐỎ,
THUỘC VỀ CÁC GIA ĐÌNH KHÁ GIẢ.
§ Nhà rọi: nhà có mặt bằng hình vuông với bước cột 3 gian X 3 gian.Gian giữa hơi rộng hơn các
gian khác. Ngôi nhà có kiểu bốn mái …kiểu nhà có rất nhiều ở khu vực miền Trung,kiểu nhà
thường sủ dụng cho các hoàng tộc.
§ Nhà lá mái:gồm một mái đầu tiên bằng đất nện để khô và một mái thứ 2 để lợp tranh, đỡ bằng
nữ phên đan thô sơ được bó đất cẩn thận, khoảng cách giữa 2 lớp mái đạt mức tối đa ở trên nóc.
NHÀ PHAO
Đây là dạng nhà nổi, kết cấu nhẹ bên trên
(khung gỗ/sắt, mái tôn, vách), bên dưới là
thùng phi nhựa/sắt để làm nổi. Do đó, khi
nước dâng đến đâu nhà sẽ nổi tới đó.
NHÀ KÊ NỀN
Nhà kê nền thấp và cao với chiều cao của
cột cách mặt đất lần lượt là 500m và 3m.
Còn với nhà kê nền linh hoạt sẽ phù hợp
với khu vực có lượng lũ cao dần theo
từng năm. Mô hình có thể tách rời móng
nhà và khối nhà mà không phá hủy kết
cấu.
NHÀ CÓ GÁC
Nhà ống có gác xép: ứng dụng tại vùng lũ ngập thấp từ
1,5 đến 2m hoặc vùng bị ảnh hưởng của bão. Độ cao
gác xép được tính toán phù hợp với đỉnh lũ lịch sử của
khu vực. Khi thiết kế có thể đổ sàn bê tông truyền
thống hoặc các vật liệu xây dựng kháng nước. Độ cao
gác xép tối thiểu 2,1m.
TÂY NAM BỘ
1: TỔNG QUAN
v Tây Nam Bộ có độ cao trung bình
gần 2m, chủ yếu là miền đất của phù
sa mới. Có một số núi thấp ở khu
vực miền tây tỉnh An Giang, miền
Tây tỉnh Kiên Giang
v Mùa đông có cường độ rất lớn, thời
gian xảy ra khá ngắn, phạm vi ảnh
hưởng khá nhỏ đều rất thường xuyên
trong suốt mùa mưa; mưa xuống có
thời gian xảy ra khá dài.
2: KIẾN TRÚC
v Chắc hẳn ai cũng biết, với đặc điểm của miền tây Nam bộ là sống ở vùng sông
nước, thì có lẽ nhà lá lợp bằng dừa nước là đặc trưng nơi đây. Nó gắn liền trên
những con sông êm đềm với những bóng dừa xanh mướt ngả bên dòng sông, với
những con thuyền chở đầy ước mơ và hoài bão lớn, với những trái ngọt thơm
ngon chính là hương vị tạo lên tình yêu và sức sống mãnh liệt của con người nơi
đây.
v Nhà lá là một trong những mẫu nhà thường thấy ở các vùng quê Tây Nam Bộ.
Nhà lá sử dụng chất liệu từ các loại lá chuyên dụng, liên kết với nhau, kết hợp
cùng khung và cột tạo nên ngôi nhà hoàn chỉnh.
2: KIẾN TRÚC
v Đặc điểm của những ngôi nhà là đó là sự đơn sơ, bình dị và giản đơn. Đó là sự sáng tạo
từ những bàn tay khéo léo của người dân. Ngôi nhà đó là nơi để người dân sinh hoạt,
tránh được ánh nắng gay gắt của những ngày hè oi ả, tránh mưa tránh gió. Chỉ đơn giản
vậy thôi nhưng những ngôi nhà lá luôn có chức năng quan trọng với người dân.
• Năm nào cũng có người trẻ ra riêng, ở đâu
cũng có người tạm cư phải thi gan với
nước nổi.
Ø Vùng này rừng ngập nước, • Miền Tây là đất sinh bùn, đất không đóng
cây đước, cây tràm cộng với gạch và làm ngói được, một ngôi nhà bê
lá dừa nước là những vật liệu tông ở đó rất công phu tốn kém, có khi
làm nhà không bền chắc vì họ dành dụm cả đời mới làm nổi. Vậy nên
thường di chuyển nơi ở và đừng thắc mắc tại sao người dân miền Tây
không chú trọng quá nhiều lại sử dụng những vật liệu tạm bợ để xây
vào không gian sống. Nếu nhà, vì họ có mùa nước nổi.
không quá gần sông nước họ
thường kết hợp làm nhà bằng
gỗ với lợp mái lá để tạo thêm
sự chắc chắn. Vì thế những
ngôi nhà mái lá dừa đước còn
tồn tại phổ biến ở đây.
Bát dần là là những ngôi nhà xây dựng từ cuối thế kỷ 19,
đây là những ngôi nhà của giới điền chủ xưa. Tất cả đều
được xây dựng bằng gỗ quý hiếm và diện tích rất rộng rãi.
Gỗ xây nhà có thể được mua từ nước ngoài chứ không phải
có tiền là dễ mua được, ví dụ như gỗ căm xe và gỗ đỏ.
• Nhà rất quy mô, việc xây dựng rất tốn kém, cho
dù về mặt bằng, nó cũng chỉ là loại nhà ba gian
hai chái hoặc năm gian hai chái…
• Nhà Bát Dần được thiết kế theo mô hình một
hoặc ba gian, nhưng nhất thiết hệ thống cột, trụ
phải bằng danh mộc, to, chắc, tương xứng với quy
mô mái ngói bên trên. Nhà phải có khoảng sân
rộng để tạo khoảng bình yên cho ngôi nhà với con
lộ công cộng phía trước.
• Gian giữa phía trong là bàn thờ ông bà, phía ngoài
là bộ trường kỷ hoặc bàn dài tiếp khách quý, hoặc
để tiếp sui gia ngày rước dâu, đón rể…
Ø Càng đặc biệt hơn trong kiến trúc nhà ở miền tây nam bộ là khi giữa những căn nhà hiện
đại kín cổng cao tường, nơi đây còn tòn tại nhiều ngôi nhà không cửa. Nhà không cửa
thoáng mát, tiện dụng, trải rộng như tấm lòng người dân nơi cuối trời tổ quốc.
• Nhà không cửa gần gũi, thân thiện, vừa minh chứng cho
sự yên bình, gắn bó tình làng nghĩa xóm của một làng quê,
vừa tạo cảm giác an tâm, tin tưởng cho những ai đặt chân
đến nơi cuối cùng trên mảnh đất hình chữ S. “Cái đáng
quý nhất ở những ngôi nhà không cửa chính là sự gắn bó,
đậm đà tình làng nghĩa xóm”.
• Những ngôi nhà sàn hay nhà lá bình thường cũng thường
thiết kế không cửa, đây là đặc trưng của kiến trúc nhà ở
vùng Đất Mũi. “ Không có cửa không phải vì nhà không
có tài sản quý giá cũng không phải do không có điều kiện
làm nổi cái cửa mà do trước kia nơi đây tôm cá nhiều, lại
dễ kiếm sống, ai làm cũng có cái ăn nên tuyệt nhiên không
có chuyện trộm cắp hay lòng tham, hơn nữa lối xóm bà
con ai cũng tốt bụng, quý mến, yêu thương lẫn nhau, nhà ở
cũng vì vậy mà không cần phải then cài, cửa đóng”.
Ø Kiến trúc nhà ở miền tây nam bộ kiểu nhà bè di động này, những nhà bè kiên cố, vững
chắc được làm từ những loại gỗ tốt nhất, phía trên là nơi để ở, sinh hoạt của gia đình,
phía dưới quây lưới lại làm chuồng nuôi cá hoặc thiết kế làm quán tạp hóa, bán hoa quả,
quán nhậu….
• Nhìn xa, làng bè một dãy nhưng không nhà nào giống nhà nào. Bè người nuôi cá làm ăn
khá giả thì giá trị của chiếc bè lên đến hàng trăm triệu đồng, có khi cả tỉ đồng: cột săn, cây
chắc, mái tôn cao cấp, phòng lạnh, máy điều hòa…
• Nhà bè ấn tượng bởi độ bền vững của mỗi nhà bè từ bốn, năm chục năm. Và cũng có
những chiếc bè gác tạm trên mặt nước, người ta chỉ cần kết vài ba thùng phuy lại cho chặt,
rồi gác cây lên, che mái tôn, dựng vách ván hoặc lá. Ở vài ba năm “bè giạt” lại kết cái mới
ở tiếp.
Ø Về miền tây cuối mùa nước nổi, hình ảnh những ngôi nhà sàn in bóng xuống những dòng
kênh gợi nên nét đặc trưng yên bình của vùng quê lam lũ. Trong những căn nhà sàn đơn
sơ ấy, cuộc sống bình dị, phòng khoáng đậm chất nam bộ diễn ra rất đỗi thân thương.
• Nhà sàn miền Tây rộng rãi, thoáng mát, cân đối, được dựng bằng
những cọc gỗ, cọc bê tông, cao hơn mặt đường, đa phần có ngõ lên
xuống cũng đổ bê tông chắc chắn nối ra tận đường. Từ ngoài nhìn
vào, gian chính đặt bàn thờ gia tiên, hai bên là gian thông hành.
Những bức tường xung quanh có thể làm bằng gỗ hoặc xây bằng
gạch, sơn màu xanh nước biển là chủ yếu.
• Kiểu nhà sàn hướng ra sông, bởi đi lại của bà con phần lớn dựa vào
kênh, sông, luồng, rạch. Nhà như chiếc ghe, mũi ghe phải quay
thẳng ra sông nên cửa chính được trổ ngay nơi vách đầu hồi. Cửa
chính ra vào thường thấp hơn đầu người nằm mục đích người lạ
vào nhà phải cúi thấp để chào ngôi nhà và chào chủ nhà. Kiến trúc
ngôi nhà từ lan can đến hết các khung cửa được chạm khắc công
phu, có chim muông, hoa lá với đường nét, góc cạnh khá cầu kỳ,
tinh xảo lồng vào nhau rất đẹp. Chỉ cần nhìn vào cột chống nhà sàn
và nét trạm trổ là phân biệt được mức độ giàu nghèo của gia chủ.
Ø Nhà có bàn thờ ông thiên trước cửa
– kiến trúc nhà ở miền tây nam bộ
theo tín ngưỡng
• Tục thờ ông Thiên là một tín ngưỡng
thờ Trời phổ biến ở miền Nam nước ta.
Theo tín ngưỡng dân gian. Trước năm
1975, ở các vùng quê Tây Nam Bộ,
hầu như nhà nào cũng đặt một bàn thờ
ông Thiên trước nhà. Bàn thờ thường
được làm bằng gỗ đơn sơ, gồm một
cây cột cao khoảng 1m, phía trên đặt
một tấm ván hình vuông, mỗi cạnh dài
khoảng 0.4m, khá giả thì cột đổ bê
tông và dán gạch men. Kiến trúc nhà
ở miền Tây Nam Bộ thờ ông Thiên
thì trên bàn thờ lúc nào cung có một lư
hương và mấy ly nước mưa (loại ly
nhỏ uống trà).
NỘI DUNG I:
PHẦN 2:
TÌM HIỂU VÀ TRÌNH BÀY CÁC
BỘ PHẬN CẤU TẠO NHÀ Ở
CÁC BỘ PHẬN CẤU TẠO NHÀ Ở
PHẦN KẾT CẤU
PHẦN KĨ PHẦN BAO
THUẬT CHE
PHẦN HOÀN
THIỆN
I. Phần kết cấu
Đây là phần bao gồm toàn bộ các bộ phận chịu lực
chính của công trình dân dụng. Trong đó:
1.1 Móng:
Phần liên kết với nền đất chống đỡ các yếu tố của công
trình và không gian bên trên. Bao gồm: Móng cóc,
móng băng, móng cọc, móng bè, móng gạch.
Móng cóc: Là các loại móng đỡ một cột hoặc một
cụm cột đứng sát nhau có tác dụng chịu lực.Sử
dụng dưới chân cột nhà, cột điện, mố trụ cầu...
Móng cóc có thể là móng cứng, móng mềm hoặc
móng kết hợp. Cũng thường dùng khi sửa chữa cải
tạo nhà nhỏ lẻ. Móng đơn là tiết kiệm nhất trong
các loại móng.
Móng băng: Thường có dạng một dải dài, có thể
độc lập hoặc giao nhau (cắt nhau hình chữ thập), để
đỡ tường hoặc hàng cột. Trong xây dựng nhà,
móng băng hay dùng nhất, vì nó lún đều hơn và dễ
thi công hơn móng đơn.
Móng cọc: Là loại móng gồm có cọc và đài cọc,
dùng để truyền tải trọng của công trình xuống lớp
đất tốt đến tận sỏi đá nằm ở dưới sâu.
Móng bè: Đây là loại móng trải rộng dưới toàn bộ công trình để giảm áp lực của công trình lên nền
đất. Thường dùng cho công trình có tầng hầm hoặc nơi có nền đất yếu.
Móng gạch: Loại móng truyền thống được sử dụng để xây nhà từ thời xưa. Tuy nhiên, không được
dùng móng này xây trên nền đất yếu. Chỉ thích hợp xây nhà cấp 4 hoặc nhà tạm.
1.2 Cột:
Là kết cấu chịu lực trực tiếp trên móng,
dầm, hay tường. Các loại cột phổ biến
hiện nay là: Cột gạch, cột bê tông cốt
thép; cột thép..
Cột gạch: là một trong những cấu tạo
cột nhà thông dụng. Thường thì cột
gạch thường được sử dụng trong quá
trình xây tường, có nghĩa là khi hoàn
thiện sẽ không lộ kết cấu cột ra ngoài.
Cột bê tông cốp thép: Đây là loại cột
chịu được lực uốn tốt. Được sử dụng
phổ biến trong các công trình có tải
trọng lớn, có khả năng chống rung
cao.
Cột thép: Là loại cột kết cấu theo
phương đứng của khung, nhận tải
trọng của mái, dầm cầu cậy và thiết bị
vận chuyển nâng, tường treo… truyền
vào móng.
1.3 Tường:
Là bộ phận quan trọng trong công trình kiến
trúc. Có chức năng là kết cấu bao che, ngăn
cách giữa các không gian và là kết cấu chịu
lực trong những công trình tường chịu lực.
Các loại tường được sử dụng phổ biến như
gạch, bê tông cốp thép, tấm vật liệu có sẵn,
vật liệu khác…
Tường gạch: Dùng gạch đất nung, gạch
silicát, gạch latarit, gạch xỉ, gạch bê tông...
để xây tường.
Tường bê tông cốp thép: Dùng những
tấm bêtông cốt thép đúc sẵn hoặc đỗ tại
chỗ để làm tường.
Tường tấm vật liệu sẵn: Tấm tường rỗng
đúc sẵn là những tấm tường có lỗ rỗng
chạy dọc theo chiều cao hoặc chiều dài
tường, được sản xuất từ bê tông thông
thường hoặc bê tông nhẹ. Thường sử dụng
để làm tường ngăn giữa các căn hộ và giữa
các phòng, tường bao che...
1.4 Dầm, sàn:
Dầm là kết cấu xây dựng nằm ngang hoặc nằm nghiêng chịu tải trọng và đỡ các bộ phận phía trên nó
như bản dầm (sàn), tường, mái. Trong đó:
Dầm: Dầm bê tông cốp thép, dầm thép, dầm bê tông đổ giả, tấm cemboard, ván ghép…
Sàn: Sàn bê tông cốp thép, tấm vật liệu có sẵn...
Ø SÀN
Định nghĩa
Là một bộ phận kết cấu tựa lên tường hay cột,
sàn giúp chia không gian trong nhà thành các
tầng khác nhau.
Chức năng, nhiệm vụ
Cũng giống tường, sàn vừa có nhiệm vụ chịu lực
vừa có nhiệm vụ bao che.
Ngoài trọng lượng của bản thân nó, sàn còn phải
gánh lực từ trọng lượng của người, các loại đồ
đạc, máy móc ở trên bề mặt nó và đóng vai trò
lớn trong việc đảm bộ độ cứng cho không gian
nhà ở.
Các bộ phận chính
Sàn gồm có: Dầm chính, dầm phụ, mặt sàn, bản
hay các tấm sàn lắp ghép (panen).
II. Phần bao che
Đây là phần che chắn, chống đỡ cho căn
nhà bao gồm hai phần: Mái che, cửa sổ,
cửa đi, ô văng, mái đua
1. MÁI CHE
a. Định nghĩa
Là bộ phận cấu tạo nhà ở trên cùng có nhiệm vụ che
cho ngôi nhà khỏi mưa, nắng và các hiện tượng khí
quyển nói chung.
b. Cấu tạo
Giống sàn nhà, mái che gồm 2 bộ phận chính là cấu
tạo chịu lực (vì kèo, dầm, dàn, vỏ…) và các bộ phận lợp.
Ø Phần lợp có giá đỡ gồm: Cầu phong, li-tô trong mái
ngói và các vật liệu không thấm nước như: ngói, tấm
lợp fibro xi măng, tôn lượn sóng, giấy dầu, bê tông
chống thấm…
Mái còn có máng hoặc sê nô (seno) để hứng nước mưa
và dẫn đến các ống máng.
c. Chức năng, nhiệm vụ
Mái thường có độ dốc để thoát nước mưa nhanh. Khi
mái nhà có độ dốc <5% gọi là nhà mái bằng. Khi mái nhà
có độc dốc >5% gọi là nhà mái dốc.
2. CỬA SỔ
a. Định nghĩa
Là bộ phận lấy ánh sáng và thông gió cho các căn
phòng.
b. Cấu tạo
Cửa sổ gồm có khuôn cửa và cánh cửa. Cũng có trường
hợp làm cửa sổ không cần khuôn.
Cửa sổ đặt trên tường hoặc vách. Nó cách mặt sàn nhà
khoảng 80-90cm và cách trần nhà khoảng 30-40cm.
Cửa sổ ở Việt Nam thường có 2 lớp: Cửa chớp bên
ngoài để che nắng, thông gió và cửa kính bên trong để
ngăn mưa, gió lạnh và lấy ánh sáng.
Cửa sổ ở các xứ lạnh có 2 lớp cửa kính nhưng không
có cửa chớp.
3. CỬA ĐI
a. Định nghĩa
Cửa đi (cửa ra vào) là một trong các bộ
phận nhà ở có chức năng liên hệ các
phòng, các không gian bên trong với bên
ngoài và ngược lại.
b. Cấu tạo
Giống cửa sổ, cửa ra vào cũng có khuôn
cửa và cánh cửa. Có trường hợp làm cửa
ra vào không cần khuôn.
Cửa đi thường ít khi có chiều cao thấp
hơn 1.8m. Chiều rộng cửa đi phụ thuộc
vào diện tích và nhu cầu đi lại.
Cửa đi thường được làm bằng gỗ (gỗ tự
nhiên, gỗ công nghiệp), kim loại, nhựa,
hỗn hợp gỗ - kính hay kim loại – kính…
4. Ô VĂNG
Là tấm mái che bằng bê tông cốt thép nằm
trên các cửa sổ, cửa ra vào để che mưa nắng
cho căn phòng ở bên trong.
Nhiều gia chủ muốn tiết kiệm chi phí nên
làm kết hợp giằng tường, ô văng và lanh tô
với nhau.
5. MÁI ĐUA
Định nghĩa
Là phần gờ tường nhô ra khỏi tường chu vi (tường
ngoài chịu lực) ở phía trên cùng nhà để tạo thành các
gờ hắt nước. Chúng có nhiệm vụ che cho tường khỏi bị
nước mưa chảy từ trên mái xuống làm ẩm mốc tường.
Chức năng, nhiệm vụ Mái đua cố định
Giống bệ tường, mái đua cũng là một bộ phận trang trí
tạo tính thẩm mỹ cho kiến trúc nhà ở. Nó tạo thành các
diềm mái - bộ phận chuyển tiếp giữa mái và tường giúp
kiến trúc nhà ở thêm mềm mại, duyên dáng.
Đối với các nhà mái bằng, mái đua có thể biến thành sê
nô (máng nước bê tông cốt thép) nhô ra ngoài có hình
dáng giống ô văng.