Professional Documents
Culture Documents
● Việt Nam là một vương quốc nhiều dân tộc bản địa,
gồm 54 dân tộc bản địa. Trong đó, dân tộc bản địa
Kinh là chủ yếu chiếm 87,1 %. Kiến trúc truyền thống
cuội nguồn của dân tộc bản địa Kinh là tiêu biểu
vượt trội cho cả nước và cho các đô thị Việt Nam.
Bên cạnh kiến trúc nhà ở truyền thống cuội nguồn
của dân tộc bản địa Kinh, thì các kiểu kiến trúc dân
gian của các dân tộc bản địa khác cũng tạo ra sự
truyền thống riêng của từng địa phương.
SỰ KIỆN CHÍNH
DẪN TỚI SỰ HÌNH THÀNH
KIẾN TRÚC NHÀ Ở VIỆT NAM
Kiến trúc Việt Nam thời kỳ phong kiến
Tre gỗ luôn là vật liệu cơ bản nhất, vừa tham gia vào cấu trúc của ngôi nhà, vừa là thành phần
quan trọng cấu thành nên không gian nội thất. Trong đó, “Cây tre là nguyên liệu gần gũi duy nhất
trong tất cả mọi việc chế tác đồ dùng và đồ sản xuất” [7], thậm chí, PGS. TS. Nguyễn Thừa Hỷ
còn nhận định: “Thế giới đồ tre bao trùm toàn bộ căn nhà của người nông dân”. Đồ gỗ không
xuất hiện quá nhiều, bề mặt để mộc trơn hoặc trang trí thủ công, đem lại cảm giác ấm áp khi
tiếp xúc. Các đồ đan lát từ thảo mộc, dệt may nhuộm thủ công góp phần giúp không gian nội
thất mềm mại, đa dạng và hữu hiệu hơn. Đồ gốm sứ, đất nung xuất hiện trong đời sống thường
ngày, trên không gian thờ tự, hay trong không gian bày biện trang trọng trở thành điểm nhấn nội
thất tinh tế.
Không gian nội thất truyền thống nhà ở dân gian
vùng đồng bằng Bắc Bộ
● Tùy theo điều kiện kinh tế – lịch sử, vị thế xã hội của
chủ nhà mà những trang trí đơn giản hay phức tạp,
tập trung nhiều nhất ở khu vực thờ tự và tiếp khách.
Nhà thường dân chỉ sơn vẽ hình kỷ hà, hình tượng
biến hóa của tứ linh, hoa lá,… hoặc sáng tạo trang trí
trên vật liệu tạo tác. Nhà khá giả sang trọng cầu kỳ
tinh tế hơn trong tạo hình, từ đề tài và các dạng đồ
trang trí đến kỹ thuật chạm khắc, cẩn khảm, sơn vẽ.
Các motif trang trí gia tăng thêm ý nghĩa ở các chi
tiết đường nét tạo hình, sự cách điệu hình thể, thể
hiện ý tưởng thẩm mỹ của chủ nhà, mang lại giá trị
kết nối giữa con người, văn hóa và tín ngưỡng.
Không gian nội thất truyền thống nhà ở dân gian
vùng đồng bằng Bắc Bộ
Sử dụng màu sắc tối giản, trung tính
● Nội thất nhà ở truyền thống vùng ĐBBB thường sử dụng màu sắc tối giản, hạn chế dùng các màu sắc nóng và rực rỡ,
ưu tiên những gam trầm tối, trung tính, nhưng vẫn rất ấm cúng.
Sử dụng ánh sáng tự nhiên tinh tế
● Do đặc điểm lối sống, phong tục tập quán, cũng như kỹ nghệ, trong nội thất ngôi nhà ít có ánh sáng chiếu thẳng,
càng lên cao trên nóc càng tối; tuy vậy, vẫn tạo hiệu quả ánh sáng chính xác đến mức tinh tế. Ánh sáng tự nhiên đa
phần lấy từ hệ thống cửa bức bàn phía trước, cửa sổ – cửa thông gió nhỏ ở gian bên và gian hồi. Từ giữa thế kỷ 20,
xã hội và kỹ thuật phát triển, các ngôi nhà nâng cao mái và mở rộng lòng nhà, sử dụng hệ thống cửa lớn, giúp chiếu
sáng tốt hơn. Buổi tối, nhà ở được thắp sáng bằng nến hoặc đèn dầu chay, sau có dầu hỏa, chỉ đủ sáng mờ trong
khoảng gần xung quanh, tạo nên những tone màu ấm áp trong đêm.
Nội thất
● Đồ đạc nội thất trong nhà ở truyền thống không nhiều, mang tính thiết yếu, đáp ứng đủ nhu cầu, không thừa thãi.
Hình thức và kích thước của đồ đạc phù hợp với tỉ lệ nhân trắc học người Việt. Đó thường là các sản phẩm từ những
nghề thủ công đa dạng ở miền Bắc, được đúc rút kinh nghiệm và trao truyền qua nhiều đời.
Không gian nội thất truyền thống nhà ở dân gian
vùng đồng bằng Bắc Bộ
Nhà lá miền Tây – Kiến trúc nhà ở miền Tây
Nam Bộ phổ biến
● Nhà không cửa gần gũi, thân thiện, vừa minh chứng
cho sự yên bình, gắn bó tình làng nghĩa xóm của
một làng quê, vừa tạo cảm giác an tâm, tin tưởng
cho những ai đặt chân đến nơi cuối cùng trên mảnh
đất hình chữ S. “Cái đáng quý nhất ở những ngôi
nhà không cửa chính là sự gắn bó, đậm đà tình làng
nghĩa xóm”.
Nhà lá miền Tây – Kiến trúc nhà ở miền Tây
Nam Bộ phổ biến
● Kiến trúc nhà ở miền Tây Nam Bộ kiểu nhà không cửa có thiết kế đơn giản, rộng rãi và thoáng mát. Do địa hình gần biển, khoảng
từ tháng 9 – 11 mỗi năm nước biển dâng cao nên đa số những ngôi nhà nơi đây đều làm sàn, cao cách mặt đất 1 – 1.5m. Nền
nhà được lót bằng ván mỏng hoặc có hộ khá hơn thì làm nền kiên cố bằng bê tông. Nhà không làm cửa nên đứng ở trước nhà có
thể nhìn thấu ra phía sau. Những tài sản, vật dụng trong nhà phơi bày ra hết cũng giống như sự cởi mở, phòng khoáng của con
người nơi đây.
● Những ngôi nhà sàn hay nhà lá bình thường cũng thường thiết kế không cửa, đây là đặc trưng của kiến trúc nhà ở vùng Đất Mũi. “
Không có cửa không phải vì nhà không có tài sản quý giá cũng không phải do không có điều kiện làm nổi cái cửa mà do trước kia
nơi đây tôm cá nhiều, lại dễ kiếm sống, ai làm cũng có cái ăn nên tuyệt nhiên không có chuyện trộm cắp hay lòng tham, hơn nữa
lối xóm bà con ai cũng tốt bụng, quý mến, yêu thương lẫn nhau, nhà ở cũng vì vậy mà không cần phải then cài, cửa đóng”.
Mô hình nhà bè – kiến trúc nhà ở miền Tây Nam
Bộ điển hình vùng sông nước
● Diện tích của nhà ở miền trung cũng lớn hơn nhiều so
với miền bắc. Nhà trên thường được xây dựng từ năm
đến bảy gian và nhà dưới thì từ ba đến năm gian.
Không gian nhà trên cũng được thiết kế bố cục đối
xứng bao gồm gian giữa là nơi thờ cúng tổ tiên và
các gian buồng hai bên là chỗ ngủ hoặc là kho chứa
đồ của gia đình.
● Nhà miền Trung chủ yếu được xây dựng bằng hệ
thống kèo chống làm trụ. Cấu trúc kèo chống có đặc
trưng đó là các thanh kèo được đặt nằm nghiêng
theo chiều dốc của mái nhà liên kết các đầu cột với
nhau và đầu của thanh kèo nằm phía dưới được gác
lên đuôi của thanh kèo nằm phía trên. Nét đặc trưng
này đã được thể hiện thông qua chính tên gọi của nó
(nhà kèo).
Nhà ở truyền thống miền Trung