Professional Documents
Culture Documents
LỚP Chuyên Ngành NTB: Lịch Sử Nội Thất Việt Nam
LỚP Chuyên Ngành NTB: Lịch Sử Nội Thất Việt Nam
LỚP
CHUYÊN
NGÀNH
NTB
LỊCH SỬ NỘI THẤT VIỆT NAM
THỜI NGUYỄN
1802-1858
KHU VỰC MIỀN TRUNG
OUTLINE
1 4
CÁC YẾU TỐ CHÍNH TRỊ, PHƯƠNG PHÁP HOÀN
KINH TẾ, VÀ VĂN HÓA THIỆN BỀ MẶT VẬT LIỆU
TÁC ĐỘNG ĐẾN KIẾN
TRÚC VÀ NỘI THẤT
3
CÁC CÔNG TRÌNH VÀ
NHÀ THIẾT KẾ TIÊU BIỂU
1 CÁC YẾU TỐ CHÍNH TRỊ, KINH TẾ, VÀ VĂN HÓA TÁC ĐỘNG
Tác động của những yếu tố chính trị đến Kiến Trúc và Nội Thất
Trong giai đoạn này các Vua Nguyễn tư tưởng giảm quan hệ với Tây phương, thực hiện chính
sách bế môn toả cảng đoạn tuyệt với Tây phương, quan hệ chủ yếu với Trung Quốc, do vậy tư
tưởng Trung Quốc ảnh hưởng rất lớn đến Vua và Triều đình Nguyễn trên tất cả phương diện văn
hóa, kinh tế, nghệ thuật. Vì vậy cùng với sự ảnh hưởng đó kiến trúc, hội họa, đồ nội thất cũng bị
ảnh hưởng lớn.
Kiến trúc
- Kiến trúc kinh đô Huế là quần thể kiến trúc gồm
sự phương Tây.
- Nhìn chung, thành thời Nguyễn đắp đất rồi ốp
Đồ mộc Hoàng cung Triều Nguyễn mang phong cách thời nhà Minh Trung Quốc
Nội thất
Loại thứ hai, tạo hình tổng thể to lớn, vững chắc, chân cong (dạng chân quỳ), hoặc chân thẳng. Giữa mặt
và vai sản phẩm có thiết kế thắt eo. Phần vai thường tạo hình võng giữa (dạ cá). Tổng thể sản phẩm
trang trí cầu kỳ phức tạp, sử dụng nhiều phương thức trang sức trên toàn bộ diện tích bề mặt sản phẩm
tạo vẻ đẹp lộng lẫy (hình 3). Cách tạo hình này đồ mộc bị ảnh hưởng bởi phong cách Nhà Thanh Trung
Quốc. Những sản phẩm tiêu biểu cho phong cách này như Long sàng, Ngai Vàng, sập, bàn ghế...
Đồ mộc Hoàng cung Triều Nguyễn mang phong cách thời nhà Thanh Trung Quốc
1.2 Yếu tố kinh tế
Kinh tế Việt Nam thời nhà Nguyễn phản ánh kết quả hoạt động của các ngành nông nghiệp, thủ công
nghiệp và thương mại Việt Nam dưới sự cai trị của nhà Nguyễn thời kỳ còn độc lập
là nền kinh tế chủ yếu dựa trên nông nghiệp. Bên cạnh đó là sự tái phục hồi hoạt động nội thương sau thời
gian dài đất nước bị chia cắt.
Nhà Nguyễn ra sức chấn chỉnh chế độ công điền, cho đo đạc lại ruộng đất, lập sổ đinh và sổ điền, phục
hồi chính sách quân điền với lệ định quân cấp mới là 3 năm.
Hoạt động công thương nghiệp dưới triều Nguyễn kế thừa từ các giai đoạn trước, cũng có nhiều thuận lợi
để phát triển, nhất là các ngành khai thác mỏ, đúc đồng, làm gốm, dệt vải lụa…
Thương nghiệp Việt Nam hồi nửa đầu thế kỷ XIX có nhiều bước phát triển nhưng vẫn chưa tạo ra được điều
kiện cho quan hệ sản xuất mới nảy sinh, thoát khỏi sự bế tắc của kinh tế nông nghiệp truyền thống.
Yếu tố kinh tế tác động tới kiến trúc & nội thất
Thủ công nghiệp:
Thủ công nghiệp Nhà nước thời Nguyễn chế tạo tất cả những đồ dùng cho hoàng gia, tham gia đóng
thuyền cho quân đội, đúc vũ khí, đúc tiền,... Nhà Nguyễn còn tập trung xây dựng hệ thống các xưởng thủ
công Nhà nước, nhất là ở kinh đô và các vùng phụ cận. Năm 1803, Gia Long thành lập xưởng đúc tiền
Bắc Thành tiền cục ở Thăng Long. Nhà Nguyễn cũng lập các Ti trông coi các ngành thủ công.
Trấn phong của Việt Nam thời Nguyễn Trấn phong của Việt Nam thời Nguyễn
Trấn phong
Ảnh chụp quan triều Nguyễn cùng
Áo hoàng bào bằng vóc được thêu
Phần lớn nhân lực trong các xưởng thủ công Nhà nước là do triều đình trưng dụng thợ khéo - những người thợ
thủ công mỹ nghệ tài hoa trên các lĩnh vực chạm khảm, xà cừ, thêu gấm… đã có công khôngPresentations
nhỏ trong are việc
chạm khảm thành quách, lăng tẩm của cung đình, thêu gấm trang phục, nội thất của vuacommunication
chúa - trong tools các
that
ngành như khảm xà cừ, kim hoàn, thêu thùa... tới làm việc để cung cấp đồ dùng cho triều đình. Vìcanvậy người thợ
be used
luôn tìm cách trốn tránh dù chính phủ áp dụng những biện pháp trừng phạt nặng nề để ngăn chặn.
Án (bàn)
LỚP CHUYÊN NGÀNH NTB THỜI NGUYỄN 1802-1858 Page
Thương mại:
Triều đình đã tổ chức nhiều chuyến đi công cán để thực hiện giao dịch buôn bán và du nhập kĩ thuật
kiến trúc, nội thất. Năm 1824, Minh Mạng đã sai người đi công cán ở Hạ Châu (Singapore) và Giang
Lưu Ba (Indonesia). Năm 1825, vua Minh Mạng phái người sang Hạ Châu mua vải và đồ thủy tinh
Sau đó, mỗi năm đều có quan viên được phái đi tới các trung tâm mậu dịch của người Âu ở khắp Đông
Nam Á.
Từ 1831-1832 trở đi, điểm đến cũng khá đa dạng: Hạ Châu, Lữ Tống (Luzon - Philippines), đảo Borneo,
Quảng Đông, Giang Lưu Ba,... Trong khoảng 1835-1840 đã có 21 chiếc được cử đi.
Hàng bán ra chủ yếu là gạo, đường, lâm thổ sản quý, hàng mua về là len dạ và vũ khí, đạn dược. Các
hoạt động này gần như là độc quyền của triều đình dù tư nhân không bị cấm.
Kỹ thuật công nghệ:
Từ các cuộc nội chiến ở Đại Việt trước, kỹ thuật công nghệ của phương Tây đã được các vua
chúa đem vào Việt Nam rất nhiều đặc biệt trong lĩnh vực quân sự. Thời nhà Nguyễn vẫn kế thừa
Sang đến thời Minh Mạng, nhiều máy móc mang tính
- Văn hóa Huế về bản chất vẫn giữ và thể hiện yếu tố chủ đạo là gốc Đại Việt, đồng thời quy tụ được những yếu tố văn hóa mới,
khác lạ, có tính tích cực từ nhiều vùng miền với sự ảnh hưởng đan xen, tất yếu và không thể bài trừ. Và “…đồng thời, nó còn đóng
vai trò của một điểm trung tâm, hội tụ những nét điển hình của một vùng đất.”
- Nhóm cư dân với bản tính chắt chiu, cần kiệm của người xứ Nghệ, có tính khí khái, hào hiệp, can trường của người xứ Quảng, cùng
với tính chịu thương chịu khó của những lớp người di cư từ Đàng Ngoài đan xen đã góp phần tạo nên tính cách đa sắc thái của cư
dân miền Trung – xứ Huế. Điều đó cũng in dấu đậm nét trong nghệ thuật dân gian và trong trang trí kiến trúc nội thất cung đình thời
Nguyễn, nơi vẫn còn lưu lại nhiều dấu ấn văn hóa nghệ thuật của một vùng đất, của triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam.
Những đặc tính này không chỉ là ở lối sống, phong thái văn hóa mà ít nhiều còn có ảnh hưởng đến việc tạo lập không gian kiến trúc
nhà ở, chi phối cách lựa chọn ứng xử, hòa nhập với thiên nhiên trong không gian cư trú, sinh hoạt văn hóa, tâm linh và biểu hiện
nghệ thuật.
“Văn hóa Huế là văn hoá đô thị nhưng tĩnh lặng và thanh bình đến lạ thường... là sự đan xen và giao thoa, giao hòa văn hóa Việt –
Chàm, Việt – Minh”
- Sự gắn bó mật thiết với thiên nhiên mang biểu tượng, triết lý, tâm linh, văn hóa phong phú, sự tinh tế và tính nghệ thuật, thẩm mỹ –
là những tố chất góp phần tạo nên nét văn hóa, mỹ thuật mang đậm dấu ấn của người dân Huế, người miền Trung.
Sự dung hòa với thiên nhiên, cảnh quan không gian
kiến trúc với những tác phẩm tạo hình trang trí giàu sắc
thái mới, làm nổi bật yếu tố biểu hiện cho khối hình kiến
Trải qua một thời gian dài, sự tàn phá của chiến tranh, các thảm
họa thiên nhiên và con người, Cố đô Huế còn bảo lưu được một
khối lượng rất lớn thơ văn trên các di tích kiến trúc này. Theo thống
kê hiện nay, trên các di tích kiến trúc cung đình có tổng số 2679 ô
thơ văn và cũng có chừng đó ô họa được chạm khắc, sơn thếp,
cẩn xà cừ trên gỗ, trên pháp lam và đắp ngõa sành sứ. Đây thật sự
là một bảo tàng sống động về văn chương của triều Nguyễn.
2 CÁC XU HƯỚNG THIẾT KẾ
-Đặc trưng rõ nét của các thành thời Nguyễn, đặc biệt là thành ngoài (phòng thành), là kiểu
kiến trúc phòng thủ Vauban2, những tòa thành thời Nguyễn đều có sự pha trộn đặc điểm kiến
trúc truyền thống phương Đông như vọng lâu, gác canh được xây bằng vật liệu nhẹ như gỗ,
lợp mái ngói âm dương, và cột kèo có chạm trổ hoa văn.
-Nhìn chung, thành thời Nguyễn đắp đất rồi ốp gạch, nền thường lát đá Thanh. Kích thước
thành phụ thuộc vào quy mô cơ quan hành chính là Đô, Trấn, Tỉnh, Huyện,… Các thành đều xây
theo kiểu kiến trúc Vauban, thường có hình vuông.
-Một số thành khác có dạng hình lục giác, bán nguyệt hoặc hình tròn. Xung quanh thành có
hào, trên có chỗ đặt các pháo đài.
3
CÁC CÔNG TRÌNH VÀ
NHÀ THIẾT KẾ TIÊU BIỂU
năm 1805, quy mô diện tích rất lớn 520 ha, chu
vi 10km.
- Thành gồm 3 phần: Phòng Thành, Hoàng
chính để ra vào.
-Phòng thành Huế được tạo thành những
đường zích zắc, gồm các hệ thống: lũy,
pháo đài, giác bảo, đoạn thành nối hai
mãi đến năm 1833 đời vua Minh Mạng mới hoàn
thành
- Trong đồ án hơi lệch về phía Nam kinh thành,
Ảnh chụp Hoàng thành Huế ngày 11 tháng 9, năm 1932.
có một cửa chính Ngọ Môn (Nam), Hòa Bình
các cung Diên Thọ (các bà mẹ vua ở). Cung Trường sanh (các bà nội vua ở) các kho tàng, vườn Thượng
uyển … Ngọ Môn và Hiển Lâm Các là hai công trình kiến trúc đồ sộ, độc đáo tuyệt mỹ của kiến trúc
Phủ Nội Vụ là nhà kho tàng trữ đồ quý, xưởng chế tạo đồ
Diên Thọ chính điện Vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn là nơi các
HOÀNG THÀNH
ra dùng làm bốn pháo đài có hào thành bao quanh, Mỗi cửa thành đều có chiếc cầu bắc qua hào
thành
+ Cửa thành bằng gạch, gồm hai tầng: tầng 1 là phần nền có lối ra vào dạng vòm cuốn và tầng 2 là
+ Phủ thành và huyện thành: là một công trình phòng vệ và là một tòa nhà nhỏ được xây bằng gạch,
đá ong hoặc hàng rào tre và đắp hào xung quanh, nhìn chung các phủ thành và huyện thành phần lớn
+ gạch, đá được sử dụng nhiều ở nội thành trên các pháo đài nhỏ để phòng thủ thường có dạng hình
bằng gỗ thường là gỗ lim và kiền, có thể để mộc hoặc sơn son thếp vàng để trang trí
+ mái lợp ngói có kết cấu khác nhau tùy vào cấp bậc của công trình nhưng có 1 đặc điểm chung là
đều được làm khung bằng gỗ bên trên lợp ngói VD như các công trình bình thường như đền thì được
lợp ngói âm dương còn với các công trình dành cho nhà vua thì được lợp ngói hoàng lưu ly hoặc thanh
lưu ly, trên nóc có trang trí các mô típ như “lưỡng long tranh châu”, “lưỡng long chầu nguyệt”
Hầu hết là các loài sinh vật tượng trưng cho sức mạnh quyền lực như rồng, phượng, quy, kỳ lân….
+ tường được đóng bằng gạch hoặc ván gỗ, vật liệu xây dựng nền móng là gạch vồ hoặc gạch Bát
Tràng
+mặt ngoài và phần chân tường được ốp đá Thanh
Kinh thành Huế tiêu biểu của kiến trúc thười Nguyễn ở Miền Trung được xây dựng theo mô
típ trên
Kết luận : nhìn chung kiến trúc thời Nguyễn đặc biệt là miền Trung năm 1802-1865 thành lũy thường
được đắp đất rồi ốp gạch, nền được lát đá Thanh, xây theo kiến trúc Vauban
5 CÁC MOTIF
Bên cạnh giá trị về mặt nghệ thuật, kiến trúc cung đình triều Nguyễn còn mang nhiều thành tố của văn hóa dân gian truyền thống Việt
Nam thể hiện thông qua các biểu tượng trang trí phong phú được phân thành các bộ chủ đề khác nhau: linh thú, linh vật, thần tiên,
các biểu tượng may mắn, con người và thiên nhiên…
Khi nói đến thời Nguyễn là ta phải nhắc tới Huế cùng với nghệ thuật trang trí khảm sành xứ. Dưới đôi bàn tay tài hoa của những người
thợ xứ Huế mà những chiếc bát vỡ bỏ đi cũng trở thành kiệt tác. Dần dần, việc khảm các mảnh sành sứ vào kiến trúc phát triển và
ngày một tinh xảo hơn nên được ứng dụng vào đền chùa, miếu mạo và các kiến trúc hoàng gia của triều Nguyễn. Thời kỳ đỉnh cao của
nghệ thuật khảm sành sứ bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, thời kỳ này hầu hết các kiến trúc ở Huế tiêu biểu như Hoàng thành,
phủ, đệ, đình làng, từ đường, lăng tẩm đều được khảm sành sứ. Phong cách kiến trúc này được đánh giá có vai trò và vị trí quan trọng
hàng đầu trong việc tạo nên diện mạo tiêu biểu cho kiến trúc cung đình triều Nguyễn.
Triều Nguyễn còn có những thành tố quan trọng đóng vai trò nền tảng của mỹ thuật triều Nguyễn, đó là những bộ biểu tượng trang trí
mang thuộc tính “hóa” được bắt gặp ở nhiều nơi từ đền miếu, cung điện, lăng tẩm cho đến những kiến trúc trong dân gian xứ Huế.
Kiểu thức ngũ phúc (5 con dơi) “hóa” từ những cành lá Mặt hổ phù “hóa” Hồi văn trang trí với kiểu ttại nóc Thế Tổ Miếu
Những hình mẫu trang trí kiến trúc
- Nghệ thuật trang trí kiến trúc thế kỷ XIX có rất nhiều hình mẫu, nhất là ở Huế. Nổi
lên các hình mẫu hoa, lá, trái cây cách điệu hóa thành những hoa văn trang trí rất
phong phú
- Trong kiến trúc cung đình và đền chùa thì "tứ linh" gồm rồng, kỳ lân, phượng
hoàng và rùa thường hay được dùng rồi đến hạc, sư tử, dơi và cá. Còn hổ với tên là
ông ba mươi thì được thờ cúng để chống tà ma trong mê tín.
- Hình tượng truyền khẩu của rồng Trung Quốc là sừng nai, đầu lạc đà, mắt dữ tợn,
cổ rắn, bụng cá sấu, vẩy cá, móng chân diều hâu, tai bò. Rồng Việt Nam qua mỗi
thời đại có những đặc điểm khác nhau. Nhưng nói chung thì rồng có sừng, mắt dữ
tợn, vẩy cá, bờm và râu ria, móng sắc và đuôi xoáy tròn ốc. Rồng biểu trưng nhà
vua.
LỚP CHUYÊN NGÀNH NTB Ngày 2 Tháng 5 Năm 2022
1 4
CÁC YẾU TỐ CHÍNH TRỊ,
PHƯƠNG PHÁP HOÀN
KINH TẾ, VÀ VĂN HÓA
THIỆN BỀ MẶT VẬT LIỆU
TÁC ĐỘNG ĐẾN KIẾN
TRÚC VÀ NỘI THẤT
3
CÁC CÔNG TRÌNH VÀ
NHÀ THIẾT KẾ TIÊU BIỂU
1
CÁC YẾU TỐ CHÍNH TRỊ, KINH TẾ, VÀ VĂN HÓA
Từ năm 1887 cho đến khi có Hiệp định Genève năm 1954,
Việt Nam là một phần của Đông Dương thuộc Pháp, một
ngày 17-10-1887, thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông
BỐI CẢNH Dương, Việt Nam bị chia cắt làm 3 kỳ: Bắc Kỳ (Tonkin),
giữ lại chính quyền phong kiến về hình thức; Nam Kỳ là đất
thuộc địa hoàn toàn do Pháp nắm quyền. Việt Nam, Lào,
Giai đoạn 1858-1888, là giai đoạn chiến Giai đoạn 1888-1920, thực dân Pháp bắt đầu Bắt đầu từ 1920 chương trình khai thác được
tranh, thực dân Pháp đã tàn phá các di công cuộc khai thác thuộc địa. Người Pháp đã tiến hành với quy mô lớn hơn nhằm bù đắp lại
Ga Đà Lạt
Đà Lạt
2 CÁC XU HƯỚNG THIẾT KẾ
Những đặc điểm của phong cách kiến trúc Đông Dương:
Hình thức kiến trúc bên ngoài và các chi tiết thì theo
kiến trúc Á Đông
Là một sự kết hợp giữa kiến trúc Âu-Á, hình thức châu
Ga Huế (1908)
Xây dựng vào năm 1908 với tên gọi là ga Trường
Súng trên tuyến đường sắt Đông Hà -Đà Nẵng.
Sau Hiệp định Geneve 1954, tuyến đường sắt Bắc
– Nam bị chia cắt cùng với đất nước, ga Huế chủ
yếu chỉ còn phục vụ các chuyến tàu quân sự. Sau
ngày 30/4/1975, tuyến đường sắt Bắc – Nam
Các motif thường thấy và dễ nhận ra là từ bắt đầu từ những năm 1880 từ những lúc Pháp dục dịch muốn
tiến vào Việt Nam. Họ nhận ra rằng khí hậu ở Việt Nam khá khắc nhiệt và thực dân Pháp đã thay đổi về
mặt kiến trúc cũng như nội thất để phù hợp với điều kiện không thuận lời
THỜI KỲ PHÁP THUỘC 1884-1945
Về kiến trúc Motif thường gặp:
1. Thiên nhiên
2. Tường dày
3. Cửa sổ
4. Hiên, ban công và logia
5. Trần và mái
Ban công,
Logia
Nhà biệt thự Pháp thường
phải xây trên một nền
cao để hứng gió, tách xa
mặt đất để hạn chế nhiệt
và
với trần cao giúp tạo ra
một đệm không khí để
Mái
ngăn nhiệt thâm nhập từ
mái, ở đây còn bố trí các
cửa sổ mái để thông
thoáng nhiệt cho khoảng
không gian đệm giữa
trần và mái.
THỜI KỲ PHÁP THUỘC 1884-1945
Về nội thất
1. Chất liệu
2. Màu
Tính chất: mềm, bền, chắc, gỗ tạo Tre có khả năng chống mối mọt, Thường được sử dụng để lát nền,
được cảm giác sang trọng và được ưa dẻo, độ bền cao., tre được sử dụng tạo nên vẻ sang trọng, sự ấn
chuộng. Gỗ là vật liệu chính trong các làm trang thiết bị, đồ trang trí, những tượng và đầy tính nghệ thuật cho
công trình có đặc trưng của kiến trúc tấm vách ngăn... vì dễ tạo những công trình. Đây là một nét đặc
Chất
pháp: hệ khung kết cấu và console hình mềm mại và đẹp mắt. trưng riêng của phong cách Pháp
liệu
nhà, trang thiết bị, chi tiết trang trí,
Sử dụng tone màu trung tính: vàng nhạt, vàng kem, trắng để tạo cảm giác mát
mẻ phù hợp với khí hậu nhiệt đới ở Việt Nam. Không gian nội thất là sự kết hợp
của tone màu trung tính và màu sắc của gỗ, đồ mây tre gợi được chất Á Đông.
Màu
sắc
Một số không gian bố trí theo đặc trưng của kiến trúc pháp cũng sử dụng màu sắc
nhiệt đới ấm, nóng tạo ấn tượng mạnh như: Màu đỏ, màu tím, màu vàng cam...
LỚP CHUYÊN NGÀNH NTB Ngày 2 Tháng 5 Năm 2022
1 4
CÁC YẾU TỐ CHÍNH TRỊ, PHƯƠNG PHÁP HOÀN
KINH TẾ, VÀ VĂN HÓA THIỆN BỀ MẶT VẬT LIỆU
TÁC ĐỘNG ĐẾN KIẾN
TRÚC VÀ NỘI THẤT
3
CÁC CÔNG TRÌNH VÀ
NHÀ THIẾT KẾ TIÊU BIỂU
1 CÁC YẾU TỐ CHÍNH TRỊ, KINH TẾ, VÀ VĂN HÓA
TÁC ĐỘNG ĐẾN KIẾN TRÚC VÀ NỘI THẤT
Ở vùng tự do hay ở chiến khu chủ yếu xây dựng các công trình tạm
Giai đoạn bằng vật liệu thô sơ, tại chỗ. Ở các vùng tạm chiếm với thế tranh chấp,
Yếu tố chính trị
1945-1954 chính quyền đô hộ hạn chế xây dựng, chủ yếu sử dụng kiến trúc có sẵn,
chỉ xây dựng mới các công trình cần thiết phục vụ chiến tranh.
Hai mươi năm tiếp theo, đất nước bị chia cắt với các thể chế chính trị khác nhau
Mặc dù có nhiều tiềm năng kinh tế, nhưng hoạt động xây dựng của thời kỳ này chủ yếu ở Sài
Giai đoạn Gòn và tại một số thành phố lớn hoặc các đô thị có mục tiêu quân sự. Họ xây dựng các khu
1954-1975 quân sự với các công trình phục vụ cho người nước ngoài, cho chính quyền công sở, nhà ở,
nơi vui chơi, nghỉ mát, công trình thương mại, tài chính…và công trình phục vụ chiến tranh
như: Doanh trại, kho tàng, sân bay, bến cảng, đường sá, công trình dịch vụ quân sự
-Giai đoạn 1945 – 1986 là giai đoạn đất nước gặp nhiều khó khăn,
1.2 Yếu tố kinh tế đặc biệt là về phát triển kinh tế. Công trình kiến trúc được xây
dựng thời kỳ này suất đầu tư thấp, không đa dạng về thể loại, quy
mô không lớn, nhưng không phải không có thành quả. Giá trị cao
nhất là đã đáp ứng được nhu cầu của xã hội lúc bấy giờ.
-Giai đoạn này, giá trị nghệ thuật tuy chưa cao nhưng giá trị hiện
thực nhân văn của một nền kiến trúc Chân - Thiện - Mỹ đã được
tạo lập.
-Phát huy các giá trị này trên nền tảng xã hội ngày càng thuận lợi
về đầu tư, điều kiện kỹ thuật công nghệ mới…sẽ là xu hướng tốt và
đúng cho con đường phát triển, kiến trúc nước nhà.
-Tuy nhiên, việc ứng xử với các công trình giai đoạn này đang
đứng trước sự lựa chọn và cả thách thức: Được cải tạo hoàn thiện
“Chiến tranh” (bột màu, 1970) của Bùi Xuân Phái hay là phá bỏ để xây dựng mới.
=> Việc lựa chọn giải pháp thường chủ yếu dựa vào quy mô, sự
xuống cấp, chất lượng công trình…,còn giá trị phi vật thể, giá trị
văn hóa, giá trị tinh thần của thời đại thì chưa được xem xét một
cách nghiêm túc.
1.3 Yếu tố văn hóa
Kiến trúc mới ở Việt Nam chia ra 2 lớn thời kỳ rõ là kiến trúc thời kỳ thuộc địa của thực
THỜI KÌ 2
Kiến trúc thời kì Độc Lập
8. Xu hướng cấu trúc không và kiến tạo theo tinh thần dân tộc
3
CÁC CÔNG TRÌNH VÀ
NHÀ THIẾT KẾ TIÊU BIỂU
Ở thời kỳ này song song với sự bành trướng của CNTB Châu Âu sang vùng Đông Nam Á kèm theo đó
là sự xâm nhập của kiến trúc phương Tây Việt Nam cũng ở trong bối cảnh như vậy
Đối với công trình tầng 1: Cấu trúc bên trong nhà vẫn theo hệ thống gian với kèo gỗ cổ truyền
tường vây bên ngoài xây bằng gạch với các hình thức sử dụng các hệ cột phương Tây bên trên
kết thúc bằng tường hoa chắn mái . Trên đó sử dụng các trang trí kiểu Châu âu cửa theo kiểu
cửa pano sau đó là cửa 2 lớp: kính , chớp
Sự xây dựng nhà 2 3 tầng đã đòi hỏi phải áp dụng các kết cấu cột dầm sàn bằng vật liệu bền
vững hơn.
Sử dụng cột gạch, dầm thép sàn gạch rỗng hoặc vỉa gạch trên hệ thống dầm gỗ lim hay thép
thay cho cột dầm sàn gỗ của kiến trúc truyền thống
Hình thức bên ngoài hoàn toàn theo kiến trúc phương Tây song sử dụng các hoa văn trang trí
dân tộc ( chữ triện,..) sử dụng mái ngói Tây
Từ những năm 1980 kiến trúc có nhiều khuynh hướng khác nhau . Khuynh hướng phục cổ nhái cổ sử
dụng các thức cột cổ điển Châu Âu hoa văn trang trí , ban công bụng chửa
Khuynh hướng hiện đại: tìm cái đẹp trong tạo khối hình và sử dụng sự tương phản hình khối đặc
rỗng . Sử dụng các mảng tường kính ( kính phản quang kính màu ) với cửa nhôm
THỜI KỲ PHÁP THUỘC 1884-1945
Về kiến trúc Motif thường gặp:
1. Mái nhà
2. Kiểu nhà chống bão, lụt
3. Kiến trúc ngữ cảnh
4. Nhà ở dân gian
GIAI ĐOẠN
1986 ĐẾN NAY
KHU VỰC MIỀN TRUNG
OUTLINE
1 3
CÁC YẾU TỐ CHÍNH TRỊ,
CÁC CÔNG TRÌNH VÀ
KINH TẾ, VÀ VĂN HÓA
TÁC ĐỘNG ĐẾN KIẾN NHÀ THIẾT KẾ TIÊU BIỂU
TRÚC VÀ NỘI THẤT
2 4
PHƯƠNG PHÁP HOÀN
CÁC XU HƯỚNG THIẾT KẾ THIỆN BỀ MẶT VẬT LIỆU
1 CÁC YẾU TỐ CHÍNH TRỊ, KINH TẾ, VÀ VĂN HÓA
TÁC ĐỘNG ĐẾN KIẾN TRÚC VÀ NỘI THẤT
Chính sách đổi mới được ban hành vào năm 1986, tuy nhiên chỉ đến sau năm 1990, lĩnh
vực xây dựng và kiến trúc mới có thay đổi rõ nét:
Hà Nội đón nhận sự bùng nổ về phong cách kiến trúc trong hai thập niên 90 – 2000. Rất nhiều
đặc điểm của các trường phái kiến trúc khác nhau trên thế giới đột ngột xuất hiện bên cạnh phong
cách Xô Viết. Từ kiến trúc thuộc địa, cổ điển châu Âu, Chủ nghĩa Hiện đại, phong cách Biểu hiện cho
đến Hậu hiện đại và Hiện đại mới.
Cũng do sự ồ ạt, thiếu định hướng về quy hoạch, kiến trúc dẫn đến một số biểu hiện lệch lạc như xu
hướng nhại cổ, không đem lại giá trị thẩm mỹ mà còn làm giảm giá trị công trình, ảnh hưởng đến cấu
trúc đô thị.
Tác động đến nội thất
Từ 1986 đến nay, đời sống xã hội ngày càng được nâng cao, nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng
của người dân ngày một cao, không chỉ có chỗ để ở mà phải tiện nghi, hiện đại.
Người ta không chỉ xây dựng nhà với hình thức kiến trúc đẹp mà đã giành những phần kinh phí
lớn hơn chi phí xây dựng cơ bản để trang trí nội thất bên trong, tạo những không gian ở bên
trong thật tiện nghi phục vụ cho cuộc sống ở mức cao nhất mà kinh tế cho phép.
Nhu cầu của trang trí nội thất ngày càng nhiều và không thể thiếu trong qui trình xây dựng
Những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin làm cho việc thiết kế,
tham khảo, tư liệu về hình thức ngôn ngữ trang trí ngày một đơn giản, thuận lợi , đạt trình độ
hoạt động ngành trang trí nội thất ngày một lớn mạnh.
1.2 Yếu tố kinh tế
Sau năm 1986, Việt Nam chuyển sang thời kỳ mở cửa, kinh tế hội nhập cũng là cơ hội cho việc
hội nhập kiến trúc, các ngôn ngữ kiến trúc phát triển đa dạng. Quá trình đô thị hóa phục vụ việc
phát triển kinh tế chung của đất nước được hiện thực hóa bằng việc ra đời các khu “đô thị mới”
tại các TP lớn của Việt Nam.
Đây cũng là cơ hội cho việc du nhập các ngôn ngữ kiến
trúc của các nước phát triển vào Việt Nam. Đầu tiên phải kể
đến các ngôn ngữ kiến trúc hiện đại thông qua các văn
phòng thiết kế kiến trúc của Pháp, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapore… Đặc biệt, sự xuất hiện kiến trúc nhà cao tầng bởi
những nhà đầu tư Hàn Quốc, Nhật Bản và những ngôn ngữ
kiến trúc do chính các nhà đầu tư quyết định lựa chọn. Ngôn
ngữ kiến trúc từ đó phát triển theo xu thế “trăm hoa đua nở”
từ hiện đại cho đến cổ điển, thậm chí các công trình cao
tầng cũng xuất hiện các hệ mái mansard điển hình của kiến
trúc thấp tầng Pháp…
1.3 Yếu tố văn hóa
Mỗi dân tộc, hay Quốc gia hay vùng miễn đều có những sắc thái văn hóa đặc trưng riêng,
điều này được thể hiện trên nhiều lĩnh vực như văn học, âm thanh và cả trong xây dựng
cũng như nội thất.
Ở Việt nam, các vùng miền và dân tộc khác nhau đều có những nét riêng trong không
gian nội thất của mình nhưng hầu hết đều có điểm chung là giản dị, gần gũi, màu sắc
không lòe loẹt.
Phát huy nền kiến trúc truyền thống vùng duyên hải miền Trung và ảnh hưởng của phong
cách kiến trúc miền Nam, kiến trúc tiêu biểu thuộc miền Trung có thể kể đến tỉnh Quảng
Bình được thể hiện qua các tác phẩm kiến trúc trước tiên đáp ứng yêu cầu về công năng
sử dụng, phù hợp với điều kiện khí hậu nắng nóng, mưa nhiều và giông bão. Mặt bằng các
phòng chức năng sử dụng chính thường được ưu tiên bố trí hướng Đông, Nam, hạn chế
hướng Bắc và Tây. Sử dụng hành lang ngoài hoặc kết cấu tấm che nắng, gió, mưa và
bão... Đường nét kiến trúc đơn giản, nhẹ nhàng, thanh thoát hoà vào không gian và cảnh
quan xung quanh.
Các công trình phần lớn được nghiên cứu thiết kế
rất kỹ về phần mái, vừa để trang trí đồng thời che
mưa nắng như những mái nhà Việt truyền thống.
Xung quanh công trình đều được nghiên cứu thiết
kế sân vườn, bố trí cây xanh, vườn hoa, thảm cỏ, hồ
nước... sử dụng các vật liệu địa phương gần gũi,
thân thiện và sử dụng các vật liệu mới để trang trí,
hoàn thiện, đẹp, hiện đại và bền vững trước thiên khu nghỉ dưỡng Sun Spa Resort
nhiên....
-Nắm bắt chính xác xu thế thời đại, từ năm 1986 Việt Nam đã tiến hành đổi mới, mở cửa thành công.
Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân no ấm, nhu cầu xây dựng tăng cao, giới KTS có nhiều “đất diễn”.
-Nên là Kiến trúc không còn bị bó buộc bởi ý thức hệ chính trị khắt khe như giai đoạn trước.
Các xu hướng
Về cơ bản, kiến trúc Việt Nam sau năm 1975 đến nay được phát triển theo 4 xu hướng chính, đó là:
-Xu hướng Hiện đại
-Xu hướng Hồi cổ
-Xu hướng Xanh – Bền vững
-Xu hướng Ngữ cảnh
LỚP CHUYÊN NGÀNH NTB THỜI NGUYỄN 1802-1858 Page
Biệt thự Hằng Nga, Đà Lạt Nội thất trong biệt thự Hằng Nga Nội thất trong biệt thự Hằng Nga
Nga
GIAI ĐOẠN 1986 ĐẾN NAY
THÁP BÀ PONAGAR
- NHA TRANG
Cầu Vàng là tên một cây cầu bộ hành dài khoảng 150
m tại khu nghỉ dưỡng Bà Nà, Đà Nẵng, Việt Nam. Nằm
ở độ cao khoảng 1.414 m (so với mực nước biển) trên núi
Bà Nà, cầu nối liền trạm cáp treo với các khu vườn khác
của khu nghỉ dưỡng. Ở giữa cầu có hai bàn tay lớn được
thi công bằng lắp ráp khung xương và đắp vữa vào bên
ngoài để tạo điểm nhấn cho cây cầu
Cầu Vàng chính thức được khánh thành vào tháng 6
năm 2018. Công trình được thiết kế bởi Trung tâm
Nghiên cứu thiết kế kiến trúc cảnh quan
4
PHƯƠNG PHÁP HOÀN
THIỆN BỀ MẶT VẬT LIỆU