You are on page 1of 10

Một số thành tựu tiêu biểu của nền văn minh Đại Việt

(Thủ công nghiệp)


- Trong văn minh Đại Việt, truyền thống thủ công nghiệp dân gian vẫn tiếp tục được duy trì và
phát triển mạnh mẽ tại các địa phương khắp cả nước, với sự hiện diện của nhiều làng nghề như
dệt lụa, làm đồ gốm, chế tác đồ trang sức, rèn sắt, đúc đồng, sản xuất giấy, nhuộm, sơn mài, và
khắc bản in.
- “Phường Yên Thái làm giấy. Phường Thụy Chương và phường Nghi Tàm dệt vải nhỏ và lụa.
Phường Hà Tân nung đá vôi. Phường Hàng Đào nhuộm điều. Phường Tả Nhất làm quạt. Tây Hồ
có cá to. Phường thịnh Quang có long nhãn. Phường Đường Nhân bán áo diệp y.

(Nguyễn Trãi, Toàn tập – Tân biên, Tập 2 (phần Dư địa chí))

- Thủ công nghiệp Đại Việt thời Lê Sơ chiếm vị trí khá quan trọng trong nền kinh tế Đại Việt thời Lê
Sơ. Có hai loại hình là thủ công nghiệp trong nhân dân và do triều đình tổ chức, gọi là Cục Bách
công.
- Thủ công nghiệp nhà nước do triều đình quản lí được chú trọng.

I, Các nghề thủ công nghiệp tiêu biểu:

1.Nghề gốm :

- Nghề làm đồ gốm là một trong những nghề truyền thống quan trọng trong văn minh Đại Việt. Từ thời
kỳ xưa, nghệ nhân gốm Đại Việt đã nổi tiếng với sự tinh xảo và độc đáo trong cách tạo ra các sản phẩm
gốm từ đất sét.

- Các làng nghề gốm ở Đại Việt thường tập trung ở các vùng có nguồn nguyên liệu dồi dào và điều kiện
nhiệt đới ẩm ướt, như làng gốm Bát Tràng (nay thuộc Hà Nội), làng gốm Chu Đậu (nay thuộc tỉnh Hải
Dương), làng gốm Phù Lãng (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh) và nhiều làng gốm khác trên cả nước.

 Gốm Chu Đậu:


- Chu Đậu thời Lê Sơ là xã nhỏ ở huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương. Đây là
trung tâm sản xuất gốm sứ cao cấp, xuất hiện từ cuối thời nhà Trần và đến thời Hậu Lê thì
bắt đầu phát triển mạnh mẽ.
- Gốm Chu Đậu là một trong những làng nghề gốm truyền thống nổi tiếng của Việt Nam, nằm
ở xã Nam Sơn, huyện Kim Động, tỉnh Hải Dương, cách Hà Nội khoảng 40km về phía đông.
Làng gốm Chu Đậu có một lịch sử phát triển lâu dài, được xem là nơi sản xuất gốm từ thế kỷ
11.
- Chu Đậu chuyên sản xuất đồ gốm sứ cao cấp, đa dạng về các loại hình sản phẩm như chén,
bát, hộp sứ, lọ, bình, tước... được trang trí bằng nhiều loại men màu, phổ biến là men trắng
trong, hoa lam, men ngọc. Một số sản phẩm tráng tới 2 màu men. Hoa văn chủ đạo là sen,
cúc dưới hình dạng phong phú; hình động vật là chim, cá, côn trùng và người.
- Gốm Chu Đậu không chỉ được ưa chuộng trong nước mà còn được xuất khẩu sang nhiều
quốc gia trên thế giới. Đây là một trong những nghề truyền thống được duy trì và phát triển
mạnh mẽ ở Việt Nam, đồng thời cũng là một di sản văn hóa và nghệ thuật quý báu của dân
tộc.
 Gốm Bát Tràng:
- Bát Tràng là một trong những làng nghề gốm nổi tiếng của Việt Nam, tọa lạc ở xã Bát Tràng,
huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Làng gốm Bát Tràng có một lịch sử sản xuất gốm lâu đời,
được ghi nhận từ thế kỷ 14. Làng nghề nổi tiếng này hình thành từ thời Lý, Trần và thường
cung cấp cống phẩm cho nhà Minh. Trước đây, người làng vốn ở làng Bồ Bát hay Bạch Bát
(Ninh Bình) di cư đến lập nghiệp, đặt tên làng mới là Bạch Thổ phường (phường đất trắng),
sau đổi là Bá Tràng phường, cuối cùng mới lấy tên Bát Tràng phường (nơi làm bát).
- Các sản phẩm gốm Bát Tràng nổi tiếng với sự tinh xảo trong thiết kế, đa dạng về mẫu mã và
chất lượng cao. Đặc điểm của gốm Bát Tràng là sự tinh tế trong từng đường nét và sự tỉ mỉ
trong cách trang trí. Các sản phẩm bao gồm đồ ăn, đồ uống, đồ trang trí như chén, bát, cốc,
ấm, nồi, đèn, chum, chậu hoa, và nhiều món đồ khác. Sản phẩm gạch Bát Tràng cũng rất nổi
tiếng, dùng lát nhiều sân chùa và đường làng.
- Gốm Bát Tràng đã trở thành điểm đến quen thuộc của du khách khi đến thăm Hà Nội, nơi họ
có cơ hội khám phá và mua sắm các sản phẩm gốm sứ tinh tế. Ngoài ra, gốm Bát Tràng cũng
được xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới, đóng góp vào việc quảng bá văn hóa và
nghệ thuật Việt Nam ra thế giới.

2.Nghề dệt

- Nghề dệt có ở Việt Nam từ hơn 1000 năm trước ( từ thời Hậu Lê).Tại kinh thành Thăng Long có các
phường dệt nổi tiếng như Thụy Chương, Nghi Tàm. Tại Hải Dương có 3 ấp nổi tiếng là Mao Điền (huyện
Cẩm Giàng), Hộ Am và ấp Bất Bế (huyệnĐồng Lai, nay là huyện Vĩnh Lại).Thời Lê sơ, các thợ dệt đã làm
được hàng sợi bông trông gần như dạ và nỉ hiện đại gọi là"nuy đoạn" hoặc "nhung thúc". Đến thế kỷ 20,
các cửa hàng bán đồ tế lễ dùng loại nhung này để cắt chữ dán câu đối hoặc bọc ngoài các đôi hia cúng
thần. Phủ Quốc Oai đã sản xuất thứ hàng này gồm đủ màu xanh, tím, vàng, biếc không kém chất lượng
hàng của Trung Quốc. Nghề dệt là một trong những nghề truyền thống quan trọng của văn minh Đại
Việt, đóng vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày của người dân cũng như trong phát triển kinh tế
và văn hóa của đất nước. Dệt vải từ lụa và bông là hai loại dệt phổ biến nhất trong văn minh Đại Việt.
Dệt vải từ lụa: Lụa được xem là một trong những sản phẩm cao cấp nhất trong lịch sử Đại Việt. Dệt lụa
đã trở thành một nghệ thuật tinh xảo và được coi trọng từ thời kỳ đầu của đất nước. Các sản phẩm lụa
Đại Việt thường được dùng để làm áo dài, áo tơ, váy cưới và các trang phục truyền thống khác. Những
chiếc áo lụa Đại Việt không chỉ có giá trị về mặt vật lý mà còn là biểu tượng của sự đẹp đẽ và tinh tế
trong văn hóa truyền thống.

Dệt vải từ bông và cái thô: Bông và cái thô là những nguyên liệu dệt phổ biến được sử dụng rộng rãi
trong văn minh Đại Việt. Nghề dệt vải từ bông và cái thô được thực hiện tại các làng nghề trên khắp đất
nước, như làng nghề cố đô Hoa Lư, làng nghề Vạn Phúc, làng nghề Kim Bảng, và nhiều làng nghề khác.
Các sản phẩm vải bông và cái thô được sử dụng cho quần áo, nội thất và trang trí.

 Nghề dệt không chỉ là nguồn sống của nhiều gia đình mà còn là một phần không thể thiếu của
văn hóa và truyền thống dân tộc. Công nghệ và kỹ thuật dệt trong văn minh Đại Việt đã được
phát triển mạnh mẽ và đặt nền móng cho sự phát triển về sau trong lĩnh vực này.

3.Nghề sơn

- Nghề sơn ở Đại Việt đã phát triển đa dạng các kỹ thuật và kỹ nghệ, từ sơn mài tới sơn dầu và sơn lạc.
Mỗi kỹ thuật đều mang lại cho sản phẩm những đặc điểm và vẻ đẹp riêng, đồng thời cũng yêu cầu các kỹ
năng và kiến thức chuyên môn cao. Sơn không chỉ được coi là một phương tiện bảo vệ và trang trí mà
còn là một phần không thể thiếu của văn hóa và nghệ thuật Đại Việt. Các công trình kiến trúc, đồ vật gia
đình và tác phẩm nghệ thuật được sơn trang trí, góp phần tạo nên bản sắc và đẹp mắt của văn minh này.
Sơn dùng trang trí ở hầu hết các đền thờ dinh thự ở đồng bằng Bắc Bộ. Sản phẩm nối tiếng xuất phát từ
làng Bình Vọng, huyện Thường Tín (Hà Nội) với ông tổ là Trần Lư.
+ Sơn trang trí kiến trúc: Các công trình kiến trúc như cung điện, đền chùa, cung điện và nhà cửa của quý
tộc thường được sơn với các màu sắc và họa tiết phong phú. Sơn được sử dụng để tạo ra các hoa văn,
hình ảnh tượng trưng và các biểu tượng tôn giáo.

+ Sơn trang trí nghệ thuật: Nghệ nhân sơn thường sử dụng kỹ thuật sơn mài để tạo ra các tác phẩm nghệ
thuật trên các bức tranh, bàn, ghế và các vật dụng gia đình khác. Các tác phẩm sơn mài thường được
chạm khắc cẩn thận và sử dụng màu sắc rực rỡ để tạo ra hiệu ứng đẹp mắt.

+ Sơn bảo vệ: Ngoài việc trang trí, sơn cũng được sử dụng để bảo vệ các bề mặt gỗ và kim loại khỏi ảnh
hưởng của thời tiết và môi trường. Các công trình kiến trúc và đồ vật được sơn một lớp chất phủ để bảo
vệ chúng khỏi mối mọt, ẩm ướt và ăn mòn.

+ Sơn trang trí đồ vật gia đình: Đồ vật gia đình như tủ, hộp, và đồ nội thất khác cũng thường được sơn và
trang trí để tạo ra các mẫu mã đa dạng và đẹp mắt.

 Sản phẩm sơn của Đại Việt không chỉ được ưa chuộng trong nước mà còn được xuất khẩu sang
các quốc gia khác, góp phần vào việc giao thương và trao đổi văn hóa với các quốc gia khác trên
thế giới.Tóm lại, nghề sơn trong văn minh Đại Việt không chỉ là một ngành nghề sản xuất mà còn
là một biểu tượng của sự tinh tế, sự đa dạng và sự phát triển của văn hóa và nghệ thuật của dân
tộc.

4.Nghề chạm khắc đá

- Nghệ thuật điêu khắc đá Đại Việt phát triển ngày càng rõ nét từ thời Lý, điểm chung trong
nghệ thuật điêu khắc đá ở giai đoạn này, vừa muốn khẳng định sự độc lập tự chủ, thể hiện sự
hưng vượng của vương triều khi muôn dân an lạc thái bình, nên trong nghệ thuật nói chung và
điêu khắc đá nói riêng, thể hiện sự tinh tế, chi tiết, độ sắc trong từng nét chạm với các đề tài
thiên nhiên như mây núi, hoa lá – đặc biệt là sen, hay các loài linh thú với tạo hình nổi trội là
rồng uốn khúc mềm mại. Giai đoạn phát triển nghệ thuật điêu khắc thời Lý, Trần (từ thế kỷ 11 –
15), vẫn thấy ảnh hưởng từ nghệ thuật Chămpa như hình tượng Kinari (tượng đầu người mình
chim) ở chùa Phật Tích, bệ đá tam thế ở chùa Thầy, hình tượng chim thần Garuda tại chùa Bối
Khê… Đến các giai đoạn muộn hơn, bắt đầu từ Lê Sơ đến Lê Trung Hưng (1428 – 1789), nghệ
thuật sáng tác, điêu khắc trên đá thực sự thăng hoa.

- Nổi tiếng nhất là làng Kính Chủ thuộc phủ Kinh Môn (Hải Dương). Hầu hết đàn ông tại làng Kính Chủ
đều biết nghề chạm đá.

- Đá là chất liệu xa xỉ được dùng trong kiến trúc Đại Việt, nghệ thuật điêu khắc trên đá đồng thời phản
ánh rõ nhân tình thế thái thời kỳ ấy. Điêu khắc đá ở thời kỳ này dùng trong các công trình kiến trúc, từ
hoàng cung, chùa miếu, bia ký, đền tháp… Các hình tượng linh thú như nghê, rồng, kỳ lân… cũng được
biến thể dáng thế cho hợp với thời đại. Dáng thế các linh vật Đại Việt thể hiện rõ nét sự thay đổi qua các
vương triều. Cùng một loài linh thú như rồng, nghê, sư tử… nhưng từng giai đoạn, lại có tạo hình và nét
trang trí riêng. Bên cạnh những sáng tạo về bố cục, hình khối, cảm xúc, dấu ấn nghệ thuật điêu khắc đá
Đại Việt từ các thời kỳ là chi tiết trang trí trên chủ thể với kỹ thuật đi nét điêu luyện, thể hiện qua các đề
tài mây, lửa, chim – hoa, vảy rồng – nghê, đao mác, râu, tóc, sen đơn, sen kép… như một ngôn ngữ định
dạng riêng, rất Việt, không thể nhầm lẫn.

Bảo tháp Báo Nghiêm, một công trình kiến trúc và trang trí toàn vẹn bằng đá từ thế kỷ 17.
Rồng đá thời Trần ở lan can thành bậc chùa Trăm Gian.

Điêu khắc trống đá (thạch cổ) án ngữ hai bên đầu cầu đá
trong khuôn viên chùa Bút Tháp.
Song sư hí cầu, đề tài trang trí ở chân tháp Báo
Nghiêm với lối chạm bong trên nền đá.

Gương mặt cảm xúc của hình tượng hổ trong khu


lăng mộ ở Lam Kinh.

Nghê đá thời Lê, một tạo hình oai vệ mang hào khí vương triều với chi
tiết trang trí vảy xoắn ốc, lửa, tạo độ thiêng hóa cho linh vật.

Lan can trang trí phù điêu hoa – điểu, tùng – lộc ở chùa Bút Tháp.
Chi tiết chạm khắc trên đá tinh xảo, tỉ mỉ các đề tài
linh thú, hoa lá trong trang trí đường diềm bia điện Nam Giao, Bảo vật quốc gia thời Lê sơ.

5.Nghề in mộc bản

- Nghề in mộc bản trong văn minh Đại Việt là một nghề truyền thống quan trọng, đóng vai trò không chỉ
trong việc sao chép văn bản mà còn trong việc bảo tồn, truyền bá và tôn vinh tri thức, văn hóa của dân
tộc. Thời gian chính của nghề in mộc bản trong văn minh Đại Việt là từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 15, khi nó
đạt đến đỉnh cao của sự phát triển và ảnh hưởng.Nổi tiếng nhất ở 2 làng Hồng Lục và Liễu Tràng (phủ Hạ
Hồng, Hải Dương).Sự thăng tiến của nghề này có ghi nhận sự du nhập kĩ thuật từ Trung Quốc.

- Một số điểm nổi bật về nghề in mộc bản trong thời kỳ này:

+ Phương tiện truyền bá tri thức và văn hóa: Nhờ nghề in mộc bản, các tác phẩm văn học, triết học, tôn
giáo và khoa học đã được sao chép và phân phối rộng rãi. Điều này giúp lan truyền tri thức, giáo dục và
giữ gìn văn hóa cho thế hệ sau một cách hiệu quả.

+ Sự phát triển của sách in: Nghề in mộc bản đã đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển sách in. Các
nhà in đã sử dụng kỹ thuật chạm khắc để tạo ra các bản sao của các tác phẩm văn học, kinh điển và sách
giáo khoa, làm cho tri thức trở nên dễ dàng tiếp cận hơn cho người dân.

+ Tầm quan trọng về mặt văn hóa: Sách in đã trở thành một phần không thể thiếu của văn hóa đọc viết,
giúp truyền đạt và duy trì những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

+ Nghệ thuật in và trang trí: Nghề in mộc bản không chỉ đơn giản là sao chép văn bản mà còn là một
nghệ thuật. Các nghệ nhân in thường sử dụng kỹ thuật chạm khắc để tạo ra các họa tiết và mẫu mã đẹp
mắt trên các bìa sách và trang trí nội dung, tạo nên những tác phẩm nghệ thuật độc đáo.

+ Đóng vai trò trong việc lan truyền tri thức và tôn giáo: Nghề in mộc bản đã giúp lan truyền tri thức về
tôn giáo và các giá trị truyền thống qua các tác phẩm văn hóa tôn giáo và kinh điển.

 Nghề in mộc bản trong văn minh Đại Việt không chỉ là một ngành nghề sản xuất mà còn là một
phần quan trọng của văn hóa, giáo dục và tri thức, góp phần quan trọng vào sự phát triển và
thịnh vượng của xã hội.
II.Cục bách tác

- Cục Bách tác là hình thức tổ chức sản xuất thủ công nghiệp của triều đình. Đây là nơi chuyên
sản xuất ra các sản phẩm phục vụ cho cung vua như tiền, vũ khí, các đồ nghi trượng, đồ
dùng vua quan, đồ trang sức...
- Các thợ thủ công tham gia Cục Bách tác gọi là công tượng. Họ là những thợ giỏi trong nhân
dân được triều đình trưng tập. Hàng năm, triều đình cử người về các địa phương cùng các
quan phủ, huyện có nhiệm vụ đề cử những thợ lành nghề lên Cục Bách công.
- Công tượng là chế độ lao động cưỡng bức, tổ chức thành đội ngũ như quân lính. Từ thời Lê
Thánh Tông chia công tượng làm hai ban luân phiên nhau, một nửa sản xuất, một nửa về
quê làm ruộng. Do chế độ công tượng có tính trói buộc người thợ thủ công nên họ không
hứng thú với công việc trưng tập của triều đình. Do đó nhiều người đã phản ứng bằng cách
trốn tránh, đến chậm hoặc thoái thác. Vì vậy Luật Hồng Đức đã có những điều khoản trị tội
họ[2].
- Ngoài công tượng, trong Cục Bách tác còn có các công nô là những người bị tội đồ, bị sung
vào đây sản xuất với thân phận nô tỳ.
- Sản xuất của Cục Bách tác chỉ phục vụ riêng cho cung đình, sản phẩm không phục vụ nhân
dân, không trở thành hàng hóa, do đó không có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế hàng
hóa[3].

III. Ý nghĩa trong công cuộc phát triển nền kinh tế.

- Nghề và làng nghề thủ công có các giá trị: Giá trị kinh tế, giá trị xã hội và giá trị văn hóa tinh
thần.

+ Nghề thủ công và làng nghề có giá trị kinh tế, vì đây là “một trong những ngành kinh tế,
có hàng hóa, có tham gia thị trường, có lợi nhuận... Nghề thủ công truyền thống còn là

lực lượng chủ yếu của thành phần kinh tế hộ gia đình. Nghề và làng nghề thủ công thực

sự góp phần vào việc phát triển kinh tế”.

+ Về giá trị xã hội, nghề thủ công có vai trò trong việc ổn định cơ sở xã hội bằng việc tạo việc làm;
vai trò trong việc giáo dục tinh thần lao động, ý thức trách nhiệm, quý trọng thời gian, bình đẳng
giới (thể hiện qua việc phân công lao động và vai trò của phụ nữ đối với các nghề truyền thống;
cũng như phát huy năng lực và tạo việc làm đối với nhiều phụ nữ)...

Giá trị văn hóa - tinh thần là một thành tố cơ bản, bộ phận hữu cơ của văn hóa dân gian, đời
sống dân gian, tạo những dấu ấn và sự phong phú của văn hóa dân tộc. Các nghề thủ công và
làng nghề phản ánh bản sắc của từng địa phương, khu vực, là tinh hoa được truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Các sản phẩm thủ công truyền thống không chỉ là hàng hóa thuần túy kinh
tế mà còn là mang tính sáng tạo và nghệ thuật, phản ánh phong tục, tập quán, tín ngưỡng của
các cộng đồng.

➤ Từ những giá trị như vậy, nghề thủ công truyền thống và làng nghề được chú trọng nghiên
cứu, bảo tồn và phát huy. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay cho thấy, nhiều nghề thủ công truyền
thống và các làng nghề đang dần bị mai một, bí quyết nghề nghiệp bị thất truyền. Xu hướng
thương mại hóa cũng ảnh hưởng không ít đến các làng nghề. Trong bối cảnh như vậy, Bảo tàng
có thể góp phần không nhỏ trong việc giới thiệu, diễn giải và bảo tồn hình thức di sản văn hóa
phi vật thể này.

IV, Bảo tồn và phát huy nghề thủ công nghiệp thời hiện đại

1. Thực trạng

Theo lịch sử đã ghi lại, nhiều ngành nghề thủ công đã xuất hiện ở nước ta từ hàng trăm năm nay, có
nghề từ hàng nghìn năm nay; từ đó, cũng đã hình thành các làng nghề; mỗi làng nghề mang đặc trưng
của nghề ấy. Tiêu biểu là những làng nghề Lụa Vạn Phúc, Gốm sứ Bát Tràng, chạm khảm Chuôn Ngọ, gò
đồng Đại Bái, vàng bạc Châu Khê ở miền Bắc; làng thêu Huế, đồ gỗ và đúc đồng Phước Kiều, thổ cẩm Mỹ
Nghiệp, gốm Bàu Trúc ở miền Trung, dệ thổ cẩm Châu Phong, đường thốt nốt An Giang; gồm Đồng Nai;
gốm sứ Bình Dương; kẹo dừa Bến Tre ở miền Nam....

2. Lợi ích

• Góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân và đất nước

• Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn

• Góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc

3. Cách bảo tồn và phát huy

• Xây dựng quy hoạch tổng thể cho các làng nghề truyền thống trong phạm vi cả nước
Xây dựng vùng nguyên liệu ổn định cho các làng nghề truyền thống

• Tìm kiếm thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm của làng nghề truyền thống

• Xây dựng nguồn nhân lực cho các làng nghề truyền thống

• Phát triển làng nghề truyền thống gắn với việc bảo vệ môi trường sinh thái

You might also like