You are on page 1of 26

Chương 3

SỰ SUY THOÁI VÀ TỔN THẤT


ĐA DẠNG SINH HỌC
3.1. Sự phân bố đa dạng sinh học
Môi trường giàu có nhất về số lượng loài có lẽ ở các rừng nhiệt
đới, rạn san hô, các hồ lớn ở vùng nhiệt đới và ở các biển sâu. Sự phong
phú về loài cũng tìm thấy ở các sinh cảnh khô cạn vùng nhiệt đới như các
rừng lá rụng, cây bụi, đồng cỏ và sa mạc và ở các cây bụi ôn đới thuộc khí
hậu Địa Trung Hải, như ở Nam Mỹ, Nam California và Tây Nam
Australia. Trong các rừng mưa nhiệt đới, tính đa dạng sinh học chủ yếu
dựa vào nhóm động vật phong phú nhất là lớp côn trùng. Trong các rạn
san hô, và các biển sâu, sự đa dạng sinh học thuộc nhiều ngành và lớp
khác nhau. Sự đa dạng trong các biển sâu nhờ vào diện tích lớn, tính ổn
định của môi trường cũng như vào sự biệt hoá của các loại nền đáy khác
nhau.
Đa dạng loài lớn nhất là ở vùng rừng nhiệt đới. Mặc dù rừng nhiệt
đới chỉ chiếm 7% diện tích trái đất, chúng chứa hơn 1/2 loài trên thế giới.
Đánh giá này chỉ dựa vào các mẫu côn trùng và chân khớp, là những nhóm
chính về số loài trên thế giới. Đánh giá về số lượng các loài côn trùng
chưa được mô tả ở rừng nhiệt đới nằm trong phạm vi từ 5 đến 30 triệu
loài; hiện tại, con số 10 triệu loài là tạm chấp nhận và được sử dụng nhiều
trong các tài liệu hiện nay. Nếu là 10 triệu loài, có nghĩa là côn trùng
chiếm đến 90% số loài trên thế giới. Khoảng 40% loài thực vật có hoa trên
thế giới (100.000 loài) ở vùng nhiệt đới, trong khi 30% loài chim trên thế
giới phụ thuộc vào những khu rừng nhiệt đới.
Rạn san hô tạo nên một nơi tập trung khác về loài. Các loài san hô
bé nhỏ tạo ra các hệ sinh thái san hô vĩ đại, là vùng biển tương đương với
rừng nhiệt đới về sự phong phú loài và độ phức tạp. Rạn san hô lớn nhất
thế giới là rạn San Hô Lớn (Great Barrier Reefs) ở bờ biển phía đông nước
Úc, có diện tích là 349.000 km2. Rạn san hô này có hơn 300 loài san hô,
1500 loài cá, 4000 loài thân mềm, 5 loài rùa biển và là nơi sinh sản của
khoảng 252 loài chim. Rạn san hô này chiếm 8% loài cá trên thế giới mặc
dù chúng chỉ chiếm 0,1% diện tích đại dương.
Đối với hầu hết các nhóm sinh vật, sự đa dạng loài tăng về hướng
nhiệt đới. Ví dụ như Kenia có 308 loài thú, trong khi đó Pháp chỉ có 113

24
loài mặc dù hai nước này có cùng diện tích. Sự tương phản này đặc biệt
chặt chẻ đối với cây cỏ và thực vật có hoa: một hecta rừng Amazon ở Peru
hay vùng đất thấp ở Malaisia có thể có đến hơn 200 loài cây, trong khi đó
ở rừng Châu Âu hay nước Mỹ thì chỉ có khoảng 30 loài trong cùng diện
tích. Kiểu đa dạng của các loài trên đất liền cũng giống như ở biển, nghĩa
là cũng gia tăng sự đa dạng loài về phía nhiệt đới. Ví dụ rạn San hô lớn ở
Úc, phía Bắc có 50 giống trong khi phía Nam chỉ có 10 giống san hô.
Nhân tố lịch sử cũng rất quan trọng trong việc xác định kiểu phân
bố đa dạng về loài. Những vùng đất cổ có nhiều loài hơn các vùng đất
mới. Các vùng có tuổi địa chất già hơn có nhiều thời gian hơn để nhận
được các loài phát tán từ các nơi khác và cũng có nhiều thời gian hơn để
các loài thích nghi đáp ứng với các điều kiện địa phương.
Sự phong phú về loài cũng bị ảnh hưởng bởi các biến đổi về địa
hình, khí hậu và môi trường địa phương. Trong các quần xã trên cạn, sự
giàu có về loài theo xu hướng tăng ở các địa hình thấp, tăng theo lượng
bức xạ của mặt trời và tăng theo lượng mưa. Sự thay đổi lớn về nhiệt độ
theo mùa là một nhân tố khác ảnh hưởng nhiều đến số lượng loài ở vùng
ôn đới.
Sự phong phú loài cũng có thể lớn hơn ở những nơi có địa hình
phức tạp, để tạo nên những sự cách ly di truyền, thích ứng địa phương, và
sự biệt hoá có thể xảy ra. Những vùng có tính địa chất phức tạp, tạo ra một
sự đa dạng về các loại đất, có ranh giới rõ rệt, dẫn đến sự đa dạng trong
các quần xã và các loài có sự thích nghi với mỗi loại đất riêng.
3.2. Những điểm nóng về đa dạng sinh học trên thế giới
Khi mà ngân quỹ dùng cho việc bảo tồn thiếu hụt thì việc đưa ra số
loài đe dọa tuyệt chủng để xác định quyền ưu tiên bảo tồn là vấn đề thiết
yếu. Norman Myers, nhà sinh thái học Anh đưa ra khái niệm điểm nóng đa
dạng sinh học vào 1988 để nói về tình trạng nan giải mà những người bảo
vệ môi trường phải đối mặt: những vùng nào có vai trò quan trọng nhất để
bảo tồn loài và sinh cảnh? Mục tiêu của khái niệm điểm nóng là những nơi
bị đe dọa lớn nhất tới số loài lớn nhất và cho phép những nhà bảo tồn tập
trung những nổ lực về chi phí hiệu quả ở đó. 25 điểm nóng đa dạng sinh
học chứa 44% tất cả các loài thực vật và 35% tất cả các loài động vật có
xương sống trên cạn chỉ chiếm 1,4% diện tích hành tinh.

25
Các điểm nóng đa dạng sinh học trên thế giới

Hình 1. Các điểm nóng đa dạng sinh học trên thế giới
1. Tropical Andes 14. Polynesia & Micronesia
2. Sundaland 15. New Caledonia
3 Mediterirranean Basin 16. Guinean Forests of West Africa
4. Madagasca & Indian Ocean Island 17. Choco-Darian-Western Ecuador
5. Indo - Burma 18. Western Ghats & Sri Lanka
6. Caribbean 19. California Floristics Province
7. Atlantics Forest 20. Succulent Karoo
8. Philippines 21. New Zealand
9. Cape Floristic Regions 22. Central Chile
10. Mesoamerica 23. Caucasus
11. Brazilian Cerrado 24. Wallacea
12. Southest Australia 25. Eastern Arc Moutains & Coastal
13. Mountains of Southest China
Nguồn: www.IUCN. org
Có hai nhân tố được xem xét để chỉ định điểm nóng. Điểm nóng là
những vùng chứa đựng một số lớn các loài đặc hữu và đồng thời bị tác
động một cách đáng kể các hoạt động con người.

26
Tính đa dạng thực vật là cơ sở sinh học cho sự chỉ định điểm nóng; để là
một điểm nóng, một vùng phải có 1.500 loài cây đặc hữu. Sự có mặt của
thực vật nguyên sinh là cơ sở để đánh giá tác động con người trong một
vùng; để là một điểm nóng. một vùng phải bị mất đi hơn 70% môi trường
sống nguyên thuỷ của nó.
Phần lớn các điểm nóng nằm trong các đảo hay các vùng biệt lập
trên các lục địa là những hệ sinh thái riêng biệt rất dễ bị huỷ hoại. Hầu hết
các loài bị tuyệt chủng là những loai riêng biệt. Điều gì làm những loài
này có thể bị tổn thương hơn cho tới tuyệt chủng hơn những loài khác?
Theo định nghĩa, những loài riêng biệt không phải là những loài phân bố
rộng. Chúng bị giới hạn bởi chỗ ở thích hợp trên những vùng biệt lập, một
hòn đảo thực hoặc trong một vùng biệt lập của lục địa. Khi quần thể đó bị
mất đi, thì loài bị tuyệt chủng. Chúng cũng có thể bị tổn thương bởi vì lịch
sử tiến hóa của chúng chỉ quen với những loài thường gặp của chúng,
những loài cùng tiến hoá với chúng qua những thời kỳ dài của thời gian.
Chúng thường không được chuẩn bị để cạnh tranh với những loài du nhập
và những loài ngoại lai, những "bạn" đồng hành tiêu biểu cho chế độ thực
dân của con người. Sự tuyệt chủng của các loài chim trên thế giới là
những ví dụ. Những loài chim lớn như chim Moa và chim Dodo, đã mất
khả năng bay do chúng sống trong môi trường không có vật dữ và vì vậy,
chúng dễ dàng là mục tiêu cho con người và những vật săn mồi ngoại lai.
Con người đã bị thu hút tới các điểm nóng tự nhiên trong suốt lịch
sử. Những phong cảnh được thay đổi trước hết do những người săn bắt và
hái lượm, rồi bởi những người trồng trọt nông nghiệp và những mục đồng
và rộng lớn nhất là chế độ buôn bán thực dân những mặt hàng nông
nghiệp. Trong năm trăm năm trước, nhiều loài bị khai thác tới cá thể cuối
cùng. Ngày nay, viêc gia tăng dân số nhanh trong các điểm nóng góp phần
tới sự suy thoái điểm nóng do việc du nhập của những loài ngoại lai, việc
buôn bán bất hợp pháp những loài bị đe doạ, nền nông nghiệp đốt nương
làm rẫy, khai mỏ, xây dựng đường cao tốc, đập nước và tràn dầu. Mười
một điểm nóng đã mất ít nhất 90% cây cỏ tự nhiên nguyên thuỷ và ba
trong số đó đã mất 95%.
Theo định nghĩa, điểm nóng là những nơi tập trung của đa dạng
sinh học độc nhất. Chúng tao ra một sự đa dạng về những loài và hệ sinh
thái bị đe doạ và xứng đáng sự chú ý bảo tồn. Việc so sánh điểm nóng bởi
các tiêu chuẩn khác nhau rất hữu ích để hiểu những sự khác nhau giữa
chúng. Quan trọng hơn, nó có thể giúp đỡ xúc tiến việc đầu tư ưu tiên bảo
tồn ở quy mô toàn cầu.

27
Điểm nóng có thể được đánh giá dựa vào tính độc nhất của đa dạng
sinh học, số lượng nơi ở bị mất và nơi ở được bảo vệ, và số loài đặc hữu
trong một diện tích nhỏ. Tất cả những nhân tố này là quan trọng trong việc
quyết định nơi nào được bảo tồn.
Có một số nhân tố quan trọng để việc xác định tình trạng ưu tiên
của một điểm nóng. Các nhân tố quan trọng nhất để xem xét là số của
những loài thực vật và động vật tìm thấy trong điểm nóng và không có ở
nơi nào khác trên thế giới; mức độ của sự mất mát nơi ở và số loài thực
vật và động vật đặc hữu trên đơn vị diện tích.
Lấy tất cả những nhân tố này để tính toán, thì vùng Madagascar và
những hòn đảo ở Ấn Độ Dương, Philippines, Sundaland, Atlantic Forest
và vùng Caribbean được coi như những nơi nóng nhất của các điểm nóng
(Bảng 1.3). Những điểm nóng này xuất hiện trong tốp mười của ít nhất
bốn của năm nhân tố. Nói cách khác, đa dạng sinh học độc nhất của năm
điểm nóng này bị mất đi và có nguy cơ cao của việc mất nó nếu không có
hoạt động bảo tồn có hiệu quả và tức thời.
Bảng 1.3. Các điểm nóng nhất về đa dạng sinh học trên thế giới
Các điểm nóng Thực vật Động vật Thực vật Động vật % hệ thực
đặc hữu có xương đặc hữu có xương vật còn lại
đặc hữu /100 km2 đặc hữu
/100 km2
Madagascar & Indian 9.704 771 16.4 1.3 9.9
Ocean Islands

Philippines 5.832 518 64.7 5.7 3.0


Sundaland 15.000 701 12.0 0.6 7.8
Atlantic Forest 8.000 654 8.7 0.6 7.5
Caribbean 7.000 779 23.5 2.6 11.3
Indo-Burma 7.000 528 7.0 0.5 4.9
Western Ghats & Sri 2.180 355 17.5 2.9 6.8
Lanka
Eastern Arc 1.500 121 75.0 6.1 6.7
Mountains & Coastal
Forests
Nguồn: Myers. N., 2000.

28
Các điểm nóng có những sự tập trung cao nhất của đa dạng sinh
học duy nhất trên hành tinh. Chúng cũng là những nơi có nguy cơ lớn nhất
của sự phá hủy. Nhu cầu cho sư bảo tồn trong những vùng này là khẩn cấp
để ngăn ngừa một làn sóng tuyệt chủng loài. Với thời gian không nhiều và
quỹ bảo tồn có hạn, chúng ta phải thực hiện những chương trình và những
chiến lược có hiệu quả trong việc bảo vệ đa dạng sinh học. Để làm được
điều đó, chúng ta cần phải hiểu chi tiết hiện trạng trong những vùng này,
ví dụ:
Các loại đa dạng sinh học: Những loài nào tập trung trong những
vùng nào? Đa dạng sinh học đang thay đổi trong cả thời gian như thế nào?
Những nhân tố góp phần tới việc mất mát đa dạng sinh học:
Những hoạt động và những chính sách của con người tác động và tiếp tục
đe doạ đa dạng sinh học. Hiệu quả bảo tồn: Những hoạt động bảo tồn
nào đã có hiệu quả (hoặc không hiệu quả) trong việc ngăn chặn sự phá hủy
trong điểm nóng là gì?
Khả năng bảo tồn: Chúng ta có kiến thức và công cụ cần thiết để
gìn giữ điểm nóng hay không ?
Điểm nóng là những nơi biến động. Chính trị, xã hội, và phong
cảnh sinh vật trong điểm nóng thay đổi theo thời gian. Chúng ta cần phải
liên tục đánh giá - hoặc quan trắc - tình trạng trong những vùng này.
Ngoài việc cung cấp thông tin về những gì đã xảy ra, việc quan trắc còn
tạo cơ hội để dự báo hoặc đoán trước cái gì có thể xảy ra, dựa vào những
gì đã xảy ra trước đây. Đây là cốt lõi của Hệ thống cảnh báo sớm (Early
Warning System) của Trung tâm Khoa học đa dạng sinh học ứng dụng
(CABS) thuộc tổ chức Bảo tồn Quốc tế (IUCN).
3.3. Nguyên nhân suy thoái đa dạng sinh học.
3.3.1. Khai thác quá mức
Nhằm thoả mãn các nhu cầu của cuộc sống, con người đã thường
xuyên săn bắn, hái lượm thực phẩm và khai thác các nguồn tài nguyên
khác. Khi dân số loài người vẫn còn ít và phương pháp thu hái còn thô sơ,
con người đã thu hái và săn bắt một cách bền vững mà không làm cho các
loài trở nên tuyệt chủng. Tuy vậy, khi dân số tăng lên, nhu cầu khai thác
tài nguyên cũng tăng theo. Các phương pháp thu hái dần dần được cải tiến
và trở nên hữu hiệu hơn. Việc khai thác quá mức là nguyên nhân thứ hai
sau nguyên nhân mất nơi cư trú và là một trong những nguyên nhân quan
trọng dẫn các loài đến tuyệt chủng.

29
Trong luật lệ xã hội từ xa xưa, đã tồn tại những qui định nghiêm
ngặt hạn chế việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, ví
dụ, quyền được phép săn bắn trong một khu vực nhất định được kiểm soát
rất chặt chẽ; một số khu vực hoàn toàn không được phép săn bắn; cấm săn
bắn các con cái, con non và theo những kích cở qui định; không được săn
bắn vào một số thời gian trong năm và vào một số thời gian trong ngày.
Các quy định này đảm bảo cho sự khai thác các nguồn tài nguyên được lâu
dài hơn và bền vững hơn. Thế mà trên thế giới ngày nay, các nguồn tài
nguyên thiên nhiên đang bị khai thác bằng các phương tiện nhanh nhất mà
con người có thể có. Hể có thị trường tiêu thụ sản phẩm là người dân sẽ
tìm cách khai thác tối đa nguồn tài nguyên của họ để sử dụng, để bán sản
phẩm thu lợi nhuận làm giàu. Việc khai thác quá mức các nguồn tài
nguyên thường được đẩy mạnh hơn khi thị trường thương mại có nhu cầu
sử dụng một loài chưa hề được khai thác trước kia hoặc mới chỉ được khai
thác trong phạm vi một địa phương nhỏ hẹp.
Các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực quản lý các loài hoang dã, đánh
bắt cá và lâm nghiệp đã cố gắng xây dựng một phương pháp tính toán mô
hình để xác định số lượng tối đa có thể khai thác được một cách bền vững
của các nguồn tài nguyên. Lượng tối đa nguồn tài nguyên có thể khai thác
được một cách bền vững là sản lượng có thể thu hoạch hằng năm tương
đương với năng suất mà quần thể tự nhiên sản sinh ra được. Trong thực tế
việc săn bắt khai thác các loài theo định mức cho phép là khó thực hiện.
Để thỏa mãn nhu cầu kinh doanh buôn bán địa phương và duy trì việc làm,
các chính phủ thường đặt ra mức kế hoạch khai thác quá cao gây tổn hại
đối với các nguồn tài nguyên. Một điều khó khăn nữa là dù định mức khai
thác có thể ổn định, nhưng bản thân nguồn tài nguyên tự nó lại biến đổi;
việc đánh bắt cá theo một định mức bình quân trong suốt cả năm vào thời
điểm mà sản lượng nguồn cá bị suy giảm do điều kiện thời tiết không bình
thường có thể làm suy thoái hoặc hủy hoại nghiêm trọng quần thể của loài
cá này. Các loài di cư vượt qua biên giới hai quốc gia đi vào hải phận quốc
tế rất khó có thể được khai thác một cách bền vững do vấn đề phối hợp
thực hiện các công ước thỏa thuận quốc tế.
Điều hy vọng cho các loài đang bị khai thác quá mức là đến một
lúc nào đó chúng chỉ còn lại ít ỏi và sẽ không còn là đối tượng săn bắt
thương mại và số lượng của chúng sẽ có điều kiện để phục hồi.
3.3.2. Sự du nhập các loài ngoại lai
Phạm vi sống về địa lý của nhiều loài được giới hạn bởi các hàng
rào do chính các yếu tố môi trường và khí hậu tạo ra ngăn cản sự phát tán.

30
Các sa mạc, đại dương, đỉnh núi, và những dòng sông đều đã ngăn cản sự
di chuyển của các loài. Con người đã làm thay đổi cơ bản đặc tính này
bằng việc vận chuyển phát tán các loài trên toàn cầu. Tại thời kỳ trước
cách mạng công nghiệp, con người mang các cây trồng và vật nuôi từ chổ
này sang chổ khác khi họ tạo dựng những nơi định cư và các thuộc địa
mới. Ngày nay đã có một lượng lớn các loài do vô tình hay cố ý, được
đem đến những khu vực không phải là nơi cư trú gốc của chúng. Những
loài đó đã được du nhập do các nguyên nhân sau đây:
• Chế độ thuộc địa của các nước Châu Âu: những người Châu
Âu mang đến một vùng thuộc địa mới mang theo các hàng
trăm giống chim, thú của Châu Âu để làm cho phong cảnh ở
đây trở nên thân quen với họ cũng như tạo ra thú vui săn bắn.
• Nghề trồng cây cảnh và làm nông nghiệp: nhiều loài cây được
mang đến và trồng tại những vùng đất mới như cây cảnh, cây
nông nghiệp hoặc cây cho chăn nuôi gia súc. Rất nhiều loài
trong số đó thoát vào tự nhiên và thâm nhập vào các loài bản
địa.
• Những sự vận chuyển không chủ đích: thường xảy ra là các hạt
cỏ vô tình bị thu hoạch cùng các hạt ngũ cốc được đem bán và
được gieo trên địa bàn mới. Chuột và các loài côn trùng cư trú
bất hợp pháp trên máy bay, tàu thủy, các vectơ truyền bệnh,
các động vật ký sinh được vận chuyển cùng với các động vật
chủ của chúng. Các tàu thuyền thường mang theo các loài
ngoại lai trong các khoang hầm. Các túi đất để dằn tàu thường
mang theo các hạt cỏ và ấu trùng sống trong đất. Các túi nước
để dằn tàu đổ ra ở cảng thường đem theo các loại rêu tảo, động
vật không xương sống và các loại cá nhỏ.
Phần lớn các loài du nhập không sống được tại những nơi mới đến
do môi trường không phải lúc nào cũng phù hợp với điều kiện sống của
chúng. Dù vậy, vẫn có một tỷ lệ nhất định các loài nhập cư thiết lập được
cuộc sống trên vùng đất mới và nhiều loài trong đó còn vượt trội, xâm lấn
các loài bản địa. Các loài du nhập này thậm chí còn cạnh tranh với các loài
bản địa để có được nguồn thức ăn và nơi ở. Các loài du nhập còn ăn thịt
các loài bản địa cho đến khi chúng tuyệt chủng hoặc làm chúng thay đổi
nơi cư trú đến mức nhiều loài bản địa không thể nào tồn tại được nữa.
Tại sao các loài du nhập lại dễ dàng xâm nhập và chiếm lĩnh các
nơi cư trú và thay thế các loài bản địa đến như vậy? Một trong những lý
do quan trọng là ở nơi cư trú mới chưa có các loài thiên địch của chúng

31
như các loài động vật là kẻ thù, các loài côn trùng và các loài ký sinh, gây
bệnh. Các hoạt động của con người đã tạo nên những điều kiện môi trường
không bình thường, như sự thay đổi các nguồn dinh dưỡng, gây cháy rừng,
tăng lượng ánh sáng,... đã tạo cơ hội cho các loài du nhập thích ứng nhanh
hơn và loại trừ được các loài bản địa.
3.3.3. Sự phá hủy những nơi cư trú
Mối đe dọa chính đối với đa dạng sinh học là nơi cư trú bị phá hủy
và mất mát. Do vậy việc làm có ý nghĩa nhất để bảo vệ đa dạng sinh học là
bảo tồn nơi cư trú của các loài. Mất nơi cư trú là nguy cơ đầu tiên làm cho
các loài động vật có xương sống bị tuyệt chủng và rõ ràng đó là nguy cơ
đối với cả động vật không xương sống, thực vật, các loài nấm và các loài
khác (Bảng 2.3.).
Bảng 2.3. Những yếu tố là nguyên nhân gây ra sự tuyệt chủng cũng
như mối đe dọa tuyệt chủng đối với một số nhóm động vật.
Phần trăm của mỗi nguyên nhân
Nhóm Sự mất cư Khai thác Loài du Thú săn Các nguyên Các nguyên
trú quá mức nhập mồi nhân khác nhân chưa
biết
TUYỆT CHỦNG
Thú 19 23 20 1 1 36
Chim 20 11 22 0 2 37
Bò sát 5 32 42 0 0 21
Cá 35 4 30 0 4 48
DE DỌA BỊ TUYỆT CHỦNG
Thú 68 54 6 8 12 -
Chim 58 30 28 1 1 -
Bò sát 53 63 17 3 6 -
Ếch 77 29 14 - 3 -
nhái
Cá 78 12 28 - 2 -
Nguồn: Reid và Miller, 1989.

32
Hơn 50% những nơi cư trú là các rừng nguyên sinh bị phá hủy tại
47 nước trong tổng số 57 nước nhiệt đới trên thế giới (Bảng 2.4.). Tại
Châu Á nhiệt đới, 65% các nơi cư trú là các cánh rừng tự nhiên đã bị mất.
Tốc độ phá hủy đặc biệt lớn tại các nước Philippines, Bangladesh,
Sri Lanka, Việt Nam, Ấn Độ, các nước Châu Phi,... đã làm mất phần lớn
các các nơi cư trú của các loài hoang dã, trầm trọng nhất là các nước
Gambia, Ghana và Ruanda. Tốc độ phá rừng hiện nay khác nhau tại nhiều
nơi trên thế giới, tốc độ khá nhanh ở mức 1,5 đến 2% là các nước như Việt
Nam, Paraguay, Mehico và Costa Rica. Tại vùng Địa Trung Hải, diện tích
rừng nguyên sinh chỉ còn lại 10%.
Đối với các loài động vật hoang dã quan trọng, phần lớn những nơi
cư trú thích ứng của chúng đã bị phá huỷ, chỉ còn lại một số rất ít được
bảo vệ. Ví dụ loài đười ươi khổng lồ ở Sumatra và Borneo đã mất 63% nơi
sinh sống và chỉ còn 2% diện tích nơi sinh sống nguyên thuỷ của chúng
được bảo tồn.
Các rừng mưa bị đe dọa
Việc phá hủy các rừng mưa nhiệt đới là dấu hiệu đi kèm với việc
mất các loài. Rừng nhiệt đới ẩm chiếm 7% diện tích bề mặt trái đất, nhưng
ước tính chúng chứa hơn 50% tổng số loài trên trái đất. Diện tích ban đầu
của rừng mưa nhiệt đới ước tính khoảng 16 triệu km 2. Kết hợp với việc
khảo sát mặt đất, chụp ảnh không gian và số liệu viễn thám từ vệ tinh
người ta thấy rằng vào năm 1982 chỉ còn lại 9,5 triệu km 2. Hằng năm có
khoảng 180.000 km2 rừng mưa bị mất, trong đó 80.000 km2 bị mất hoàn
toàn và 100.000 km2 bị suy thoái đến mức cấu trúc loài và các diễn thế của
hệ sinh thái phần lớn đã bị thay đổi. Người ta còn dự báo thêm rằng với
tốc độ mất rừng như hiện nay thì đến năm 2040 sẽ còn lại một số rất ít
rừng nhiệt đới nguyên vẹn trừ một số khu nhỏ được đặt dưới sự bảo tồn
nghiêm ngặt.
Những nơi cư trú khác bị đe dọa
Ngoài rừng mưa nhiệt đới, các nơi cư trú khác cũng đang bị đe dọa
là:
• Rừng khô nhiệt đới
• Đất ngập nước và những nơi cư trú của hệ sinh thái thủy vực
• Rừng ngập mặn
• Thảo nguyên

33
• Các rạn san hô
Sa mạc hóa
Rất nhiều các quần xã sinh vật sống trong các vùng khí hậu khô
hạn theo mùa đã bị suy thóai và đất đai trở thành sa mạc mà nguyên nhân
chính là do các hoạt động của con người, quá trình đó gọi là quá trình sa
mạc hóa. Lúc đầu các vùng đất này rất phù hợp cho việc phát triển nông
nghiệp, nhưng việc gieo trồng liên tục đã làm cho đất bị xói mòn dẫn đến
việc mất khả năng giữ nước. Thảm cỏ ở đây cũng liên tục bị trâu bò, dê
cừu ăn trụi, các cây thân gỗ thì bị khai thác để làm củi, hậu quả là sự suy
thoái rất nhanh và không thể hồi phục trở lại của các quần xã sinh vật cũng
như việc mất thảm che phủ bề mặt đất và hậu quả là khu vực này biến
thành sa mạc. Trên thế giới có khoảng 9 triệu km2 đất vùng khô hạn đã
biến thành sa mạc do quá trình nói trên.
Ngoài việc bị phá hủy trực tiếp, các nơi cư trú nguyên là những
khu vực rộng lớn của các loài thường bị chia cắt thành nhiều phần nhỏ do
việc làm đường sá, ruộng vườn, xây dựng thành phố và nhiều hoạt động
khác của con người. Sự chia cắt manh mún nơi cư trú của các loài là
quá trình mà một khu vực rộng lớn bị thu nhỏ lại hoặc bị chia cắt thành hai
hay nhiều mảnh nhỏ. Những phần này thường bị cách ly khỏi những phần
khác và hình thái cấu trúc cảnh quan bị thay đổi nhiều. Một mảnh hay một
phần của nơi cư trú mới khác biệt với nơi cư trú nguyên thủy ở hai điểm
quan trọng: đó là mảnh của nơi cư trú mới có tỷ lệ giữa phần biên và diện
tích lớn hơn, và tâm điểm của mỗi mảnh của nơi cư trú mới rất gần với
phần biên của mảnh hơn.
Ngoài ra, việc phá hủy các nơi cư trú có thể hạn chế khả năng phát
tán và định cư của loài. Rất nhiều loài chim, thú và côn trùng sống trong
địa phận của rừng sẽ không vượt qua dù là một quảng ngắn khoảng diện
tích trống vì có nhiều nguy cơ bị đánh bắt. Tác hại của việc chia cắt nơi cư
trú sẽ làm giảm khả năng kiếm mồi của các loài thú. Ngoài ra nơi cư trú bị
chia cắt cũng góp phần làm suy giảm quần thể và dẫn đến sự tuyệt chủng
do quần thể lớn lúc đầu bị chia ra hai hay nhiều quần thể nhỏ. Các tiểu
quần thể này rất dễ bị tổn thương do bị ức chế sinh sản và các vấn đề khác
liên quan đến quần thể nhỏ.
Sự chia cắt nơi cư trú thành các phần nhỏ đã làm tăng một cách
đáng kể tỷ lệ tương đối của sự tác động đường biên so với diện tích nơi cư
trú như đã trình bày. Một số tác động khác quan trọng hơn của đường biên
là sự dao động nhiều hơn về ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm và gió. Việc nơi cư
trú bị xé nhỏ, xé lẻ còn làm tăng khả năng xâm nhập của các loài ngoại lai

34
và bùng nổ số lượng các loài côn trùng địch hại và bản địa. Việc nơi cư trú
bị chia cắt cũng làm tăng khả năng tiếp xúc của các loài động vật, thực vật
thuần dưỡng với các quần thể hoang dã. Các bệnh dịch của các loài thuần
dưỡng có thể lây lan rất dễ dàng sang các loài hoang dã vốn thường có khả
năng miễn dịch kém.
3.3.4. Nạn ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu toàn cầu
Cho dù nơi sinh sống không bị ảnh hưởng một cách trực tiếp do
việc phá hủy hay chia cắt, nhưng các quần xã và các sinh vật sống trong
đó có thể bị ảnh hưởng sâu sắc do các hoạt động khác của con người.
Dạng nguy hiểm nhất của phá hủy môi trường là sự ô nhiễm. Nguyên nhân
chủ yếu của tình trạng này là do thuốc trừ sâu, hóa chất và các chất thải
công nghiệp, chất thải sinh hoạt của con người và các ô nhiễm gây ra bởi
các nhà máy, ô tô, cũng như các trầm tích lắng đọng do sự xói mòn đất từ
các vùng cao, sườn núi.
Ô nhiễm do thuốc trừ sâu: sự nguy hại của thuốc trừ sâu được
khuyến cáo từ những năm 1962. Nồng độ của DDT và các loại thuốc trừ
sâu khác tích luỹ trong cơ thể sinh vật, tăng lên theo bậc cao dần của chuổi
thức ăn thông qua quá trình tích tụ sinh học (bioaccumulation) và khuếch
đại sinh học (magnification) (Bảng 2.4.).
Bảng 2.4. Hàm lượng tích lũy DDT ở các bậc dinh dưỡng ở nước và trên
cạn
Số lần khuếch đại Sinh vật Hàm lượng DDT (ppm)
80.000 Chim nước 1600,00
5.000 Cá 100,00
250 Tôm 5,00
1 Các loài tảo 0,02
75 Chim cổ đỏ 750,00
9 Giun đất 90,0
1 Đất 10,0
(Nguồn : Lê Huy Bá. Độc học môi trường)
Việc sử dụng các loại thuốc trừ sâu để phòng trừ các loài côn trùng
gây hại cho cây trồng và phun vào nước để diệt các ấu trùng muỗi đã làm
hại tới những quần thể khác sống trong thiên nhiên, đặc biệt đối với những
loài chim ăn côn trùng, cá và các loại động vật khác bị ảnh hưởng bởi

35
DDT hay các sản phẩm bán phân hủy của chúng. Khi nồng độ thuốc trừ
sâu có độ độc lớn tích luỹ đến mức cao trong các tế bào cơ thể chim, như
các loài diều hâu hay ó, thì chúng yếu đi và có xu hướng đẻ ra những quả
trứng có vỏ mỏng hơn bình thường, vỏ này dễ vỡ trong quá trình ấp. Do
vậy, trứng không thể nở thành con non và quần thể loài chim suy giảm
một cách đáng kể. Tại các hồ và các cửa sông, dư lượng DDT và các loại
thuốc trừ sâu khác được tích luỹ lại trong cơ thể các loại cá lớn như cá heo
và các động vật biển khác. Trên các khu vực canh tác nông nghiệp, các
loài côn trùng có ích hay các loài có nguy cơ bị tuyệt chủng cũng đều bị
tiêu diệt cùng với các côn trùng gây hại.
Ô nhiễm nước: ô nhiễm nước gây hậu quả xấu cho loài người như
hủy hoại các nguồn thực phẩm thủy sản như cá, ốc, hến và làm ô nhiễm
nguồn nước sinh hoạt. Tương tự như vậy, ô nhiễm nước còn gây tác hại to
lớn cho các quần xã sống dưới nước. Sông, hồ và đại dương thường xuyên
được sử dụng như một bãi thải các chất thải công nghiệp, chất thải dân
dụng. Thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ dầu thải, dầu bị rò rỉ, kim loại nặng, các
chất tẩy rửa có thể làm tổn thương hay giết chết các sinh vật thủy sinh
sống trong môi trường nước. Nếu như các chất thải được chôn lấp vào khu
vực của hệ sinh thái trên cạn chỉ gây tác động cục bộ tại một địa điểm nhất
định, thì các chất thải độc hại vào môi trường nước lan toả đi xa theo dòng
chảy và lan rộng trên một diện tích lớn. Các hóa chất độc, dù chỉ với một
liều lượng rất thấp thì dư lượng của chúng vẫn có thể tồn đọng, tích luỹ
dần vào trong cơ thể sinh vật thủy sinh đến nồng độ gây chết do chúng
phải lọc một lượng lớn nước khi ăn. Các loài chim và thú ăn thịt các sinh
vật này sẽ là đối tượng tích luỹ các hóa chất độc vào cơ thể của chúng.
Các khoáng chất vi lượng tuy rất cần cho cuộc sống của động vật
và thực vật nhưng chúng cũng có thể trở nên gây hại khi xuất hiện ở nồng
độ cao. Các chất thải của người, các loại phân bón hóa học, các chất tẩy
rửa và các quá trình sản xuất trong công nghiệp thường xuyên thải ra một
lượng lớn nitrat, photphat vào hệ sinh thái thủy vực, dẫn đến hiện tượng
phú dưỡng nước. Chỉ một lượng nhỏ các chất dinh dưỡng này có thể kích
thích thực vật và động vật phát triển, nhưng với một nồng độ cao hơn sẽ
gây ra sự nở hoa của các loài tảo sống trên bề mặt nước. Sự nở hoa của
các loài tảo này có thể rất dày đặc đến mức lấn chiếm cả các loài động,
thực vật nổi và che khuất những loài sống dưới tầng đáy. Khi lớp tảo bề
mặt quá dày, phần dưới của chúng sẽ bị chết và chìm xuống đáy. Số lượng
vi khuẩn và nấm phân hủy lớp xác tảo này sẽ tăng lên với cấp số nhân do
nguồn dinh dưỡng mới được cung cấp thêm, hậu quả là chúng hấp thụ hầu
hết lượng oxy hoà tan trong nước. Thiếu oxy, hầu hết các loài động vật sẽ

36
chết. Kết quả quần xã bị suy giảm, chỉ còn sót lại những loài thích nghi
được với điều kiện nước bị ô nhiễm hay nước có lượng oxy hoà tan thấp.
Các trầm tích có nguồn gốc do xói mòn từ các vùng đất trống, đồi
núi trọc cũng có thể gây hại cho hệ sinh thái thủy vực. Các chất trầm tích
có lẫn mùn lá cây, bùn, các chất rắn lơ lững,... làm tăng độ đục của nước,
làm giảm độ chiếu sáng trong nước nên đã cản trở quá trình quang hợp. Sự
tăng độ đục của nước có thể làm giảm khả năng nhìn, khả năng săn mồi,
làm giảm sức sống của một số loài động vật thủy sinh. Sự gia tăng lớp
trầm tích đã gây hại cho nhiều loài san hô, những loài đòi hỏi môi trường
sống tuyệt đối trong sạch.
Ô nhiễm không khí: các hoạt động của con người làm thay đổi và
làm ô nhiễm bầu không khí của trái đất. Các dạng ô nhiễm không khí như:
• Mưa axit: các nền công nghiệp như luyện thép, các nhà máy
nhiệt điện sử dụng nhiên liệu là than hay dầu đã thải ra một
lượng lớn các khí NOx, SOx vào không khí, các khí này khi
gặp hơi nước trong không khí sẽ tạo ra axit nitric và axit
sulfuric. Các axit này liên kết với những đám mây và khi tạo
thành mưa đã làm giảm độ pH của nước mưa xuống rất thấp.
Mưa axit sẽ làm giảm độ pH của đất và của nước trong các hồ,
ao, sông suối trên lục địa. Mưa axit đã tiêu diệt nhiều loài động
và thực vật. Do độ axit của các hồ ao tăng lên, nhiều cá con của
nhiều loài cá và cả những con cá trưởng thành cũng bị chết. Độ
axit tăng và nước bị ô nhiễm là nguyên nhân chính làm suy
giảm đáng kể các quần thể động vật lưỡng cư trên thế giới.
Đối với phần lớn các loài động vật lưỡng cư, ít nhất một phần
trong chu kỳ sống của chúng phụ thuộc vào môi trường nước,
độ pH của nước giảm làm cho tỷ lệ trứng và ấu trùng bị chết
tăng cao.
• Sương mù quang hoá: Xe ô tô, các nhà máy điện và các hoạt
động công nghiệp thải ra các khí hydrocacbon, khí NO. Dưới
ánh sáng mặt trời, các chất này tác dụng với khí quyển và tạo
ra khí ozon và các chất phụ phẩm khác, tất cả khí này được gọi
chung là sương mù quang hóa (photo-chemical smog). Nồng
độ ozon cao ở tầng khí quyển gần mặt đất sẽ giết chết các mô
thực vật, làm cho cây dễ bị tổn thương, làm hại đến các quần
xã sinh học, giảm năng suất nông nghiệp. Các quần xã sinh học
trên toàn cầu cũng có thể bị phá hủy hay bị thay đổi do các hợp
chất chứa nitơ trong không khí theo mưa và bụi lắng đọng tự

37
do và do đó có thể ảnh hưởng đến nguồn sản xuất lương thực
và thực phẩm.
• Các kim loại độc hại: xăng có chứa chì, các hoạt động khai mỏ,
luyện kim và các hoạt động công nghiệp khác thải ra một
lượng lớn chì, thiếc và nhiều loại kim loại độc hại khác vào khí
quyển. Các hợp chất này trực tiếp gây độc cho cuộc sống của
động và thực vật.
Sự thay đổi khí hậu toàn cầu: khí cacbonic, mêtan và các khí khác
trong khí quyển không ngăn cản ánh sáng mặt trời, cho phép năng lượng
xuyên qua khí quyển và sưởi ấm bề mặt Trái đất. Tuy vậy, những khí này
và hơi nước giữ lại năng lượng do trái đất phát ra, làm chậm lại tốc độ
phát tán nhiệt và bức xạ khỏi trái đất. Các khí này được gọi là khí nhà kính
do tác dụng của chúng rất giống với nhà kính - cho ánh sáng mặt trời đi
qua nhưng giữ lại năng lượng bên trong nhà kính và chuyển thành năng
lượng nhiệt.
Hiện tượng khí nhà kính từng đóng vai trò rất quan trọng, tạo nên
sự phồn vinh cho cuộc sống trên trái đất. Vấn đề của ngày hôm nay là
nồng độ của khí nhà kính tăng cùng với các hoạt động của con người đến
mức làm thay đổi khí hậu của trái đất gây nên hiện tượng trái đất nóng dần
lên.
Lượng khí nhà kính gia tăng đã làm ảnh hưởng đến khí hậu trái đất
và các tác hại này tiếp tục gia tăng trong tương lai. Những nhà khí tượng
học ngày càng đồng ý với quan điểm cho rằng ở thế kỷ XXI khí hậu trái
đất sẽ còn nóng lên từ khoảng 2-60C nữa vì sự gia tăng của khí CO2 và các
khí khác. Các chi tiết về sự thay đổi khí hậu trên trái đất vẫn đang được
các nhà khí hậu tranh cãi, nhưng không nghi ngờ gì nữa tác hại của sự
thay đổi nhanh chóng này vào các quần thể sinh học là rất lớn. Ví dụ như
các vùng khí hậu ở khu vực ôn đới miền Bắc và miền Nam sẽ chuyển hoàn
toàn về phía vùng cực. Các loài sống thích ứng với các khu rừng rụng lá
phía Bắc Mỹ sẽ phải di cư từ 55 -1000 km về phía Bắc trong suốt thế kỷ
XXI để thích ứng với điều kiện khí hậu thay đổi. Trong khi các loài có
vùng phân bố rộng và dễ phát tán có thể thay đổi để thích ứng với sự thay
đổi, thì đối với nhiều loài có vùng phân bố hẹp hoặc do khả năng phát tán
kém nên việc tuyệt chủng là khó tránh khỏi.
Hiện tượng nhiệt độ tăng dần lên còn làm các khối băng ở vùng
cực tan ra. Do việc giải phóng một lượng nước lớn như vậy, trong vòng 50
-100 năm tới mức nước biển có thể tăng từ 0,2 -1,5 m. Mức nước biển

38
dâng cao có thể làm ngập lụt những vùng đất thấp, những khu đất ngập
nước ven bờ biển và nhiều thành phố lớn.
Mực nước tăng có khả năng gây hại đến nhiều loài san hô, nhất là
những loài chỉ tồn tại trong một độ sâu nhất định, nơi có ánh sáng và dòng
chảy của nước phù hợp. Một số loài san hô không phát triển nhanh kịp với
tốc độ nâng cao mực nước biển và dần dần chúng sẽ bị chết đuối. Sự hủy
hoại còn lớn hơn nếu như nhiệt độ nước cũng tăng. Nhiệt độ cao bất
thường tại vùng biển Thái Bình Dương vào năm 1982 và 1983 làm chết
loài tảo cộng sinh sống trong các dãi san hô, những dãi san hô này sau đó
chết hàng loạt, ước tính 70 đến 95% san hô trong khu vực.
Sự thay đổi khí hậu trái đất và nồng độ khí CO 2 trong khí quyển
gia tăng có thể làm thay đổi triệt để cấu trúc của các quần xã sinh học và
sẽ chỉ còn một số loài có khả năng phát triển thích ứng với điều kiện sống
mới.
3.3.5. Sự tuyệt chủng các loài
Khái niệm tuyệt chủng có rất nhiều ý nghĩa và khác nhau tùy thuộc
vào từng bối cảnh cụ thể. Một loài bị coi là tuyệt chủng (extinct) khi
không còn một cá thể nào của loài đó còn sống sót tại bất kỳ nơi nào trên
thế giới. Nếu như một số cá thể của loài còn sót lại chỉ nhờ vào sự kiểm
soát, chăm sóc, nuôi dưỡng của con người, thì loài này được coi là đã bị
tuyệt chủng trong thiên nhiên hoang dã (extinct in the wild). Trong hai
trường hợp trên, các loài có thể coi như bị tuyệt chủng trên phạm vi toàn
cầu (globally extinct). Một loài bị coi là tuyệt chủng cục bộ (locally
extinct) nếu như chúng không còn sống sót tại nơi chúng đã từng sinh
sống, nhưng người ta vẫn còn tìm thấy chúng tại những nơi khác trong
thiên nhiên. Một số nhà sinh học sử dụng cụm từ loài bị tuyệt chủng về
phương diện sinh thái học (ecologically extinct), điều đó có nghĩa là số
lượng cá thể loài còn lại ít đến nổi tác dụng của nó không có chút ý nghĩa
nào đến những loài khác trong quần xã.
Một vấn đề quan trọng đối với sinh học bảo tồn đó là khi nào thì
một loài sẽ tuyệt chủng bởi sự giảm thiểu đáng kể phạm vi của nó, hay là
sự suy thoái và chia cắt nơi sống? Khi quần thể của loài có số lượng cá thể
hạ xuống ở mức độ báo động nhất định, nhiều khả năng loài sẽ bị tuyệt
chủng. Trong một số quần thể một vài cá thể có thể sống dai dẳng vài năm
hay vài thập kỷ, thậm chí có thể sinh sản, nhưng rồi cuối cùng số phận của
nó cũng bị tuyệt chủng. Đặc biệt trong các loại cây gỗ, các cá thể bị cách
ly, không sinh sản có thể tồn tại đến hàng trăm năm. Những loài này được
coi là “cái chết đang sống”. Nói một cách nghiêm túc thì loài không bị

39
tuyệt chủng vì một số cá thể còn sống, nhưng quần thể không còn sinh sản
nữa, do vậy, tương lai của nó được giới hạn trong quãng thời gian ngắn
ngủi của các cá thể còn lại.

3.3.5.1. Tuyệt chủng là một quá trình tự nhiên


Sự đa dạng loài trên thế giới đã được tăng lên kể từ khi cuộc sống
được hình thành. Sự gia tăng này không đều, hay đúng hơn mang tính chất
của các thời kỳ có tỷ lệ hình thành loài cao, theo sau đó là thời kỳ thay đổi
không đáng kể và giai đoạn tuyệt chủng hàng loạt (mass extinction). Điều
đó được coi như là hậu quả của một số vấn đề nguy hại có qui mô lớn, như
là sự tràn ngập của nham thạch núi lửa, sự va chạm của các thiên thạch
gây ra những sự thay đổi mạnh mẽ trong khí hậu trái đất làm nhiều loài
không còn khả năng tồn tại. Tuy nhiên, sự tuyệt chủng loài xảy ra thậm
chí không bắt nguồn từ những xáo động to lớn. Lý thuyết tiến hóa nói rõ
rằng một loài có thể bị dồn vào tuyệt chủng do không cạnh tranh nổi với
một loài khác hay do bị ăn thịt. Một loài có thể tiến hóa từ một loài khác
để đáp ứng với những thay đổi của môi trường hay là do sự thay đổi ngẫu
nhiên của quỹ gen. Hiện tại chúng ta cũng không biết đầy đủ những nhân
tố xác định sự phồn thịnh hay suy thoái của một loài, nhưng ít nhất chúng
ta có thể khẳng định rằng sự tuyệt chủng là một hiện tượng nằm trong chu
trình vận động của tự nhiên tương tự như sự hình thành loài.
Nếu tuyệt chủng là một phần trong các quá trình tự nhiên, thì tại
sao lại phải suy nghĩ và quan tâm nhiều đến chuyện mất mát các loài. Câu
trả lời nằm trong mối tương quan về sự tuyệt chủng và hình thành loài. Sự
hình thành loài là một quá trình diễn ra rất chậm, qua sự tích luỹ dần các
đột biến và những sự chuyển đổi các allen qua cả hàng chục ngàn năm
thậm chí cả hàng triệu năm. Kirchner và cộng sự (2001) đã báo cáo rằng,
trung bình trái đất cần khoảng 10 triệu năm để hồi phục sự đa dạng từ
những tuyệt chủng mang tính toàn cầu. Nếu tốc độ của việc hình thành
loài tương đương hay vượt quá tốc độ tuyệt chủng, sự đa dạng sinh học
được duy trì hay tăng lên. Trong lịch sử các thời kỳ địa chất, đa dạng sinh
học tương đối ổn định nhờ sự cân bằng giữa sự hình thành loài mới và sự
tuyệt diệt loài cũ. Tuy nhiên trong những khoảng thời gian ngắn hơn, tốc
độ đa dạng hóa kém hơn nhiều so với tốc độ tuyệt chủng. Điều đó có
nghĩa là sự tiến hóa của sinh giới sẽ không theo kịp với những sự tuyệt
chủng nhanh chóng. Một trong những lý do để giải thích tại sao sự đa
dạng lại cần phải có một thời gian dài như thế để phục hồi, đó là sự tuyệt

40
chủng không chỉ là mất đi một hay một số loài mà cả tổ sinh thái - vai trò
của loài trong hệ sinh thái - cũng bị mất đi. Sự phục hồi trở nên phức tạp
do những vai trò chuyên biệt như là vật ký sinh, thức ăn,... thích hợp, do
vậy các loài không thể hình thành được khi chưa có sẵn vật chủ, nguồn
thức ăn.
Các hoạt động của con người trong thời gian gần đây đang gây ra
sự tuyệt chủng ở tỷ lệ vượt xa tỷ lệ các loài được thay thế. Sự mất đi của
loài hiện nay là chưa từng thấy, không theo một qui luật nào và có thể là
không cứu vãn được.
3.3.5.2. Tuyệt chủng do con người gây ra
Các nhóm sinh vật tiến hóa cao như côn trùng, động vật không
xương và các loài thực vật có hoa, đạt đến sự đa dạng nhất vào khoảng
30.000 năm trước. Tuy nhiên, kể từ thời gian đó, sự giàu có về loài đã
giảm do sự gia tăng của quần thể người.
Tác động dễ nhận thấy đầu tiên về hoạt động của con người vào tỷ
lệ tuyệt chủng có thể thấy vào sự sa sút các loài thú lớn ở Australia và Nam,
Bắc Mỹ vào thời gian mà con người bắt đầu thống trị hai lục địa này từ
hàng ngàn năm trước. Chỉ một thời gian ngắn sau khi con người đặt chân
đến, 74% đến 86% các loài thú lớn, có trọng lượng hơn 40 kg, trong các
vùng này bị tuyệt chủng. Nguyên nhân trực tiếp của sự tuyệt chủng này có
thể là do săn bắn, và nguyên nhân gián tiếp là do đốt rừng và khai hoang.
Tỷ lệ tuyệt chủng được biết rõ nhất là về chim và thú do chúng là
những loài tương đối lớn, được nghiên cứu kỹ và dễ làm cho người ta chú
ý. Tỷ lệ tuyệt chủng của các loài còn lại chỉ là dự đoán. Tuy vậy, tỷ lệ
tuyệt chủng ngay cả của chim và thú cũng không chắc chắn, do một số loài
được coi là tuyệt chủng thì được phát hiện lại, các loài khác được cho là
hiện đang có thì có thể thật sự đã tuyệt chủng. Dựa vào các chứng cứ có
sẵn thì khoảng 85 loài thú và 113 loài chim đã bị tuyệt chủng từ năm
1600, tương ứng với 2,0% các loài thú và 1,3% các loài chim. Trong khi
những con số ban đầu này có vẻ như chưa ở mức báo động thì xu hướng
tuyệt chủng tăng rất nhanh trong khoảng 150 năm lại đây.
Bảng 2.1. Một số nhóm loài tuyệt chủng từ năm 1600 đến nay
Số loài tuyệt chủng % tuyệt
Số loài chủng
Bậc phân loại Đất Đảo Đại Tổng số
liền dương
Thú 30 51 4 85 4.000 2,10

41
Chim 21 92 0 113 9.000 1,30
Bò sát 1 20 0 21 6.300 0,30
Lưỡng thê 2 0 0 2 4.200 0,05
Cá 22 48 0 23 19.100 0,10
Không xương 49 48 1 98 1.000. 0,01
sống 000
Thực vật có 245 139 0 384 250.00 0,20
hoa 0
Nguồn: Reid và Miller 1989.
Tỷ lệ tuyệt chủng của chim và thú vào khoảng 1 loài trong 10 năm
trong thời gian từ 1600 -1700, nhưng tỷ lệ này tăng lên 1 loài/năm trong
thời gian từ 1850 -1950. Sự gia tăng tỷ lệ tuyệt chủng loài là một sự chỉ
định về tính nghiêm trọng của vấn đề đe dọa đa dạng sinh học. Nhiều loài
còn chưa bị tuyệt chủng nhưng đã bị hao hụt rất nhiều do các hoạt động
của con người và chỉ tồn tại với số lượng rất thấp. Những loài này cũng
được coi là tuyệt chủng sinh thái và chúng không còn vai trò gì trong tổ
chức quần xã. Tương lai của nhiều loài là không chắc chắn. Khoảng 11%
các loài chim tồn tại trên trái đất đang bị đe dọa tuyệt chủng cũng với tỷ lệ
như thế cho các loài thú (Bảng 2.2.). Sự đe dọa đối với các loài cá nước
ngọt và thân mềm cũng ở mức trầm trọng tương tự. Các loài thực vật cũng
bị đe dọa, nhất là nhóm cây hạt trần.
Bảng 2.2. Số loài bị đe dọa tuyệt chủng trong các nhóm động vật
và thực vật chính
Nhóm Số loài Số loài bị đe dọa % số loài đe dọa
tuyệt chủng tuyệt chủng
ĐỘNG VẬT CÓ XƯƠNG
Cá 24.000 452 2
Lưỡng thê 3.000 59 2
Bò sát 6.000 167 3
Chim 9.500 1.029 11
Thú 4.500 505 11
THỰC VẬT
Hạt trần 758 242 32
Hạt kín 240.000 21.895 9
Palmae (cọ) 2.820 925 33

42
(Nguồn: Peter J. Bryant. Biodiversity and Conservation)

3.3.5.3. Sự tuyệt chủng hàng loạt (mass extinction)


Theo các nhà khoa học, tuyệt chủng hàng loạt là những sự kiện
tuyệt chủng xảy ra ở qui mô lớn, đã tác động đến sinh vật trong các môi
trường khác nhau ở đất liền và biển, gây ra những mất mát nặng nề về số
lượng trong các bậc phân loại.
Tuyệt chủng hàng loạt trong quá khứ.
Theo một đánh giá về số loài đã tồn tại trên trái đất thì có đến
99,9% số loài đã bị tuyệt chủng. Hay nói một cách khác, số các loài động
vật, thực vật, vi sinh vật hiện có chỉ chiếm 0,1% tổng số loài đã từng sống
trên hành tinh.
Trong lịch sử tiến hoá của trái đất, hầu hết các loài bị mất đi do các
thời kỳ tuyệt chủng, trong đó có 5 thời kỳ tuyệt chủng hàng loạt nghiêm
trọng kéo dài trong thời gian 350 triệu năm. Năm thời kỳ tuyệt chủng hàng
loạt này được xác định qua việc nghiên cứu các dẫn chứng của những thay
đổi các hoá thạch động, thực vật.
Ordovician muộn (440 triệu năm trước): khí hậu toàn cầu ấm lên
gây ra sự tuyệt chủng của một phần lớn các loài trong đại dương.
Devonian muộn (360 triệu năm trước): nhiều quá trình ảnh hưởng
đến sự tuyệt chủng trongn giai đoạn này đó là những tác động bên ngoài
trái đất, mức nước biển thay đổi, thay đổi khí hậu và hiệu ứng lạnh toàn
cầu
Trong số 5 sự kiện tuyệt chủng hàng loạt thì sự kiện được con
người biết rõ nhất xảy ra ở kỷ phấn trắng và kỷ thứ ba (Cretaceous và
Tertiary), còn gọi là thời kỳ K/T, cách đây 66 triệu năm trước. Đây là thời
kỳ các giống động vật biển bị mất trong diện rộng, tạo ra những thay đổi
cơ bản trong các hệ sinh thái trên cạn và sự biến mất của khủng long. Khi
khủng long bị mất đi và các cấu trúc của hệ sinh thái thay đổi, các loài thú
có cơ hội để gia tăng về kích thước và đa dạng hoá loại hình. Trong thời
kỳ tiến hoá đổi mới này, các loài linh trưởng phát triển mạnh và loài người
(Homo sapiens) xuất hiện.
Tuyệt chủng hàng loạt ngày nay

43
Tuyệt chủng hàng loạt trong giai đoạn hiện nay, hay còn gọi là
tuyệt chủng hàng loạt thứ 6, xảy ra vào kỷ Pleistocent từ hơn 1 triệu năm
trước. Đây là thời kỳ có những biến động lớn về khí hậu toàn cầu, sự dâng
cao và hạ thấp mức nước biển cùng với sự mở rộng vùng phân bố của loài
người từ Châu Phi, Châu Âu, Á đến các vùng khác trên thế giới. Đặc tính
quan trọng nhất của sự tuyệt chủng trong giai đoạn này liên quan với sự
lan rộng của loài người trên khắp thế giới, trong đó các loài thú có kích
thước lớn hơn 44 kg, bị tuyệt chủng đến 74 - 86%.
So với các sự kiện tuyệt chủng hàng loạt xảy ra trong quá khứ thì
tuyệt chủng hàng loạt trong giai đoạn hiện nay có tỷ lệ tuyệt chủng cao
nhất. Tỷ lệ tuyệt chủng trung bình trong quá khứ là 0,0001 đến 0,00001%
số loài mỗi năm, trong khi đó tỷ lệ tuyệt chủng ở giai đoạn hiện nay là
0,01% (gấp từ 100 -1000 lần tỷ lệ tuyệt chủng trong quá khứ).
Khác với các cuộc tuyệt chủng hàng loạt trong quá khứ, xảy ra chủ
yếu do các hiện tượng thiên nhiên, tuyệt chủng hiện nay chủ yếu do con
người. Cứ 100 loài bị tuyệt chủng thì có đến 99 loài là do con người.
Ngoài ra, theo sau các cuộc tuyệt chủng hàng loạt trong quá khứ là sự hình
thành loài mới để bù đắp cho số loài bị mất đi, còn sự tuyệt chủng hàng
loạt giai đoạn hiện nay không kèm theo sự hình thành loài mới.
3.3.6. Áp lực dân số

2.3. Những ví dụ về một số loài bị đe dọa


2.3.1. Loài Hổ Đông Dương (Panthera tigris corbetti)
Trong số 8 loài Hổ trên thế giới có 3 loài đã bị tuyệt chủng là Hổ
Baly (tuyệt chủng năm 1940), Hổ Caspian (1970) và Hổ Javan (1980), 5
loài hổ còn lại, đang bị đe dọa do sự kết hợp của việc phá huỷ nơi cư trú,
nơi cư trú bị cắt đoạn, suy thoái và săn bắn trộm do nhu cầu của thị
trường thuốc cổ truyền.
Số lượng cá thể của các loài hổ trên thế giới giảm đến 95% trong
thế kỷ XX, còn khoảng 5.000 đến 7.500 cá thể (Bảng 2.5.).
Bảng 2.5. Hiện trạng các loài hổ trên thế giới
Stt Số lượng cá thể
Tên loài
Tối thiểu Tối đa
1 Hổ Bali Panthera tigris balica Tuyệt chủng 1940

44
2 Hổ Caspian Panthera tigris virgata Tuyệt chủng 1970
3 Hổ Javan Panthera tigris sondaica Tuyệt chủng 1980
4 Hổ Amur Panthera tigris altaica 360 406
5 Hổ Amoy (Nam TQ) Panthera tigris 20 30
amoyensis
6 Hổ Sumatra Panthera tigris sumatrae 400 500
7 Hổ Bengal Panthera tigris tigris 3.176 4.556
8 Hổ Đông Dương Panthera tigris 1.227 1.785
corbetti
Campuchia 150 300
Trung Quốc 30 40
Lào
Malaysia 491 510
Thái Lan 250 501
Việt Nam 200 200
5.000 7.500
(Nguồn: www. IUCN. org)
Loài Hổ Amur (Siberi) có thể bị tuyệt chủng trong thời gian tới
nếu Trung Quốc không có những biện pháp có hiệu quả tức thời. Trung
Quốc vừa qua đã thành lập một khu bảo tồn Hổ để bảo vệ một quần thể
chỉ có 6 cá thể. Hổ Ấn Độ (Bengal) số cá thể xuống còn khoảng 3.176 đến
4.556 cá thể và có thể tuyệt chủng trong 10 năm tới do việc săn bắn trái
phép ở Ấn Độ để cung cấp cho nhu cầu "cao hổ cốt" ở Trung Quốc.
Loài Hổ Đông Dương có số lượng cá thể dao động từ 1.227 tới
1.785 cá thể phân bố chủ yếu trong điểm nóng Indo - Burma. Sự phân bố
của loài Hổ Đông Dương tập trung ở Thái Lan (với số lượng cá thể từ 250
- 501 cá thể). Loài này cũng phân bố ở Myanmar, Nam Trung Quốc,
Campuchia, Lào, Việt Nam và bán đảo Malaysia. Trong phạm vi phân bố,
loài hổ này sống trong các khu rừng hẻo lánh trên các vùng đồi hay các
đỉnh núi nằm dọc theo biên giới của các nước kể trên. Lối vào các khu vực
này rất bị hạn chế và các nhà sinh học chỉ có được những giới hạn cho

45
phép trong các chuyến khảo sát thực địa. Kết quả là hiện trạng của loài
này còn được biết đến rất ít.
Loài Hổ Đông Dương nhỏ hơn so với hổ Bangal. Con đực có chiều
dài khoảng 2,7 mét (từ đầu đến đuôi) trọng lượng khoảng 180 kg. Con cái
có kích thước nhỏ hơn, khoảng 2,4 mét và nặng khoảng 115 kg.
Theo Paul Leyhuasen 1969, thì quần thể với số lượng khoảng 300
cá thể là đủ để có thể có được những biến dị di truyền. Đây là kích thước
quần thể tối thiểu có thể sống được của các loài hổ. Do không có những số
liệu đánh giá khác, nên con số trên có thể chấp nhận như là trạng thái lý
tưởng để đạt tới, tuy vậy hiện nay khó có một nơi nào trên thế giới có thể
có được một diện tích nơi cư trú thích hợp, không bị chia cắt đủ lớn để
duy trì một quần thể hổ với 300 cá thể.
Những mối de dọa lớn nhất hiện nay tới loài hổ là có thể kể là:
Nơi cư trú bị mất mát: để có thể sống được ngoài thiên nhiên
hoang dã, các loài hổ cần phải có nước để uống, các loài động vật để ăn
thịt và thực vật để ẩn náu. Khi mà các vùng núi, các bụi rậm, các khu
rừng, đồng cỏ là nơi cư trú cho hổ bị biến mất, thì cũng đến lượt hổ bị mất
đi. Mở rộng nông nghiệp, đốn gỗ, phát triển đường sá, mở rộng công
nghiệp và các đập thuỷ điện đã thúc đẩy các loài hổ vào những vùng đất
nhỏ hơn. Những cánh rừng bị chia cắt được bao bọc bởi bởi sự phát triển
nhanh chóng cua cộng đồng tương đối nghèo khó, làm gia tăng việc săn
bắn trái phép. Không có nơi hoang dã, các loài hổ sẽ không tồn tại.
Sự phát triển dân số: dân số Châu Á bùng nổ, đòi hỏi càng nhiều
đất chuyển đổi cho phát triển nông nghiệp. Hầu hết các vùng đất thấp ở
Châu Á đã bị khai hoang cho việc trồng lúa. Ví dụ như ở Ấn Độ, khoảng
60% các loài hổ vẫn còn lang thang, do dân số tăng 50% trong vòng 20
năm qua. Dân số Trung Quốc tăng gấp đôi trong 40 năm qua, và gần 99%
các nơi cư trú nguyên thuỷ là rừng của Trung Quốc bị phá huỷ.
Sự cạnh tranh: do hổ phải cạnh tranh với con người và công
nghiệp về đất đai, chúng càng có ít thức ăn hơn. Dân địa phương cũng săn
bắt cùng vật mồi như hổ, đã gia tăng áp lực đối với hổ và phương sách là
hổ phải tìm đến gia súc, thậm chí phải ăn thịt cả con người. Để ngăn chặn
sự xâm lấn của hổ, dân địa phương thường dùng bả thuốc độc, săn bắn và
bẫy đối với hổ. Ngoài thức ăn, dân địa phương cũng sử dụng các vùng đất
bao quanh các khu bảo vệ để chăn nuôi gia súc và lấy gỗ để đun nấu.
Sự xung đột giữa hổ và con người: để bảo tồn hổ từ các tay săn bắn
trộm và từ sự gia tăng việc mất đất, các nhà bảo tồn động vật hoang dã đã

46
làm việc với các chính phủ để thiết lập hệ thống bảo tồn. Các khu bảo tồn
là những vùng được bảo vệ rất khác nhau về diện tích, từ khoảng 21 km 2 ở
Xioaling, Trung Quốc tới 14.846 km2 ở Kerinci Seblat ở Indonesia. Tuy
nhiên, hầu hết các khu bảo tồn đều là những vùng biệt lập trong rừng, ở đó
các loài hổ khó có cơ hội để tồn tại do những khó khăn trong việc ghép
đôi, bệnh tật, trôi dạt di truyền và giao phối cận huyết. Thêm nữa, các khu
vực bảo vệ này cũng rất khó để bảo vệ, các Bộ Lâm nghiệp, Các Vườn
Quốc gia và các khu Bảo tồn Động vật hoang dã không đủ nhân lực và
kinh phí để bảo vệ các loài hổ từ việc gia tăng săn bắn trộm.
Thiếu tổ chức, thiếu những khoản phụ cấp cho công việc nguy cơ
cao, thiếu huấn luyện, thiếu lều trại trong khu bảo tồn, thiếu tuần tra đêm,
thiếu các nguồn vật chất như súng ống, xe cộ và dụng cụ thông tin liên lạc,
lực lượng bảo vệ ngăn chặn việc săn bắn rất bị giới hạn. Bên này là cộng
đồng nông thôn sống phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên cho cuộc sống
hằng ngày, bên kia là quần thể cho các loài hổ có thể sống được, vấn đề
bảo tồn động vật hoang dã và phát triển cuộc sống của cộng đồng thực sự
là vấn đề nan giải và phức tạp.
Những nổ lực cho việc bảo tồn nơi cư trú của các loài hổ đã tập
trung vào việc giảm thiểu các xung đột giữa các nhà quản lý các khu bảo
tồn hổ và người dân sống quanh các khu bảo tồn đã có được thành công ở
một số nơi. Các điều kiện về chính trị và kinh tế giới hạn hiệu lực, đặc biệt
là sự tấn công của các người săn bắn trộm, giết hổ để làm các bài thuốc cổ
truyền theo Trung Quốc
2.3.2. Sao La (Pseudoryx nghetinhensis) Sao La là loài thú lớn
hoang dã đã được liệt kê trong danh sách các loài động vật hoang dã được
WWF bảo vệ. Trong vài năm qua, WWF đã hợp tác với chính phủ và các
tổ chức từ nhiều quốc gia trên thế giới để nghiên cứu và bảo vệ loài thú
đang bị đe dọa này.
Chương trình động vật hoang dã Đông Dương đã phối hợp với
Việt Nam, Lào, Campuchia để thực hiện kế hoạch hành động, đồng thời
để bảo trợ và giúp đỡ trong việc đánh giá, qui hoạch và bảo tồn loài động
vật quý hiếm với những kết quả rất lạc quan. Sao La được tìm thấy trong
Khu bảo tồn thiên nhiên Vũ Quang (Hà Tĩnh) vào năm 1992 và một số
khu rừng trong tỉnh Thừa Thiên Huế.
Theo thống kê của các chuyên gia WWF và các nhà khoa học Việt
Nam thì có một số lượng cá thể của Sao La trong khoảng từ 70 đến 100 cá
thể, giới han trong một diện tích khoảng 4.000 km2 trong các cánh rừng
dọc theo biên giới Việt Nam và Lào. Vùng mà Sao La bị bắt được xem

47
như là một khu vực nhỏ còn lại trong nơi cư trú của loài và việc mất mát
nơi này có thể là tai hoạ cho sự sống sót của quần thể trong vùng cũng như
đối với toàn bộ loài. May mắn là Sao La không phải là đối tượng có giá trị
đặc biệt về y học và cũng không có giá trị cao như các loài quý hiếm khác
như hổ chẳng hạn. Các tay săn bắn trộm không có ý định nhắm vào Sao
La do nó không có giá trị về kinh tế. Như vậy, các nhà bảo tồn hy vọng
rằng với sự nhận thức và niềm tự hào quốc gia về một loài động vậy duy
nhất, đẹp đẽ và đang bị nguy cơ, có thể có hy vọng vào sự tồn tại của Sao
la. Chính phủ Việt Nam và các ban ngành liên quan phối hợp với WWF
đã thực hiện các biện pháp hiệu quả và đặc biệt để bảo tồn môi trường
Sinh thái cho Sao La và các loài quý hiếm khác.
Để có thể giới thiệu loài động vật quý hiếm này, Tổng Cục Bưu
chính Viễn Thông đã phát hành bộ tem về Sao La. Có 4 loại tem có giá trị
khác nhau nêu lên các hình ảnh về Sao La trong môi trường tự nhiên - khi
còn non với dáng vẻ ngây thơ ngờ nghệch và khi trưởng thành với cặp
sừng dài, thẳng như kiếm.
2.3.3. Các loài rùa
Năm 2000, Tổ chức bảo tồn thế giới (IUCN) đã xác định 200
trong số 300 loài rùa nước ngọt và ở biển (67%) đang bị đe dọa tuyệt
chủng và cần có những hành động bảo tồn. Tình trạng này tiếp tục tồi tệ
hơn với việc gia tăng của sự mất nơi cư trú, nhu cầu thực phẩm, dược
phẩm hay vật nuôi và những tác động của bệnh tật và sự thay đổi khí hậu
thế giới.
Không có một nơi nào mà các loài rùa lại bị đe dọa nhiều như ở
Châu Á, nơi mà hơn 90 loài đang nguy cấp. Mối đe dọa khẩn cấp nhất
hiện nay ở Châu Á đó là tình trạng không kiểm soát được việc buôn bán
các loài rùa cho nhu cầu thực phẩm và y dược cổ truyền .
Quỹ bảo tồn rùa (TCF, The Turtle Conservation Fund) được thành
lập năm 2002 để phát triển và thực hiện kế hoạch hành động bảo tồn toàn
cầu để bảo đảm sự tồn tại của tất cả các loài rùa. Nhiệm vụ của TCF là bảo
đảm không có một loài rùa nào bị tuyệt chủng và duy trì các quần thể của
rùa ngoài thiên nhiên hoang dã.
TFC đã ban hành một kế hoạch hành động nhằm đưa ra một chiến
lược dựa trên nền tảng khoa học khả thi nhằm bảo tồn các loài rùa. Kế
hoạch này kết hợp các chương trình phát triển cho việc nhân nuôi, tiến
hành các điều tra sinh học, sinh thái, và xây dựng các năng lực về kinh tế,
khoa học, luật pháp và các năng lực khác nhằm bảo vệ hữu hiệu các loài

48
rùa và nơi cư trú của chúng. TCF sẽ tiến hành hoạt động tại Châu Á, Châu
Phi, Châu Úc, Địa Trung Hải, Châu Âu, Bắc Mỹ, Trung Mỹ.

49

You might also like