You are on page 1of 7

Đa dạng sinh học đang bị suy thoái một cách nghiêm trọng.

Trong những
thập kỷ qua, sự suy thoái đa dạng sinh học đã xảy ra với một tốc độ khủng khiếp
trên toàn thế giới, ở cả các nước phát triển như Mỹ, Nhật,... đến các nước chậm
phát triển ở châu Phi, châu á và Mỹ Latinh. Điều này có thể lí giải bằng tốc độ
tăng dân số và tốc độ khai thác. Dân số tăng dẫn đến nhu cầu cung cấp thực
phẩm tăng, do đó gây áp lực lên quá trình khai thác các giống, loài cấu thành
nên đa dạng sinh học. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là tốc độ khai thác đã và
đang làm biến mất một số cánh rừng đại ngàn. Trong lúc đó, chỉ mất khoảng vài
ngày, một công ty khai thác gỗ đã có thể làm biến mất cả hàng chục héc ta rừng.
Chỉ với những chiếc thuyền câu và những mảnh lưới nhỏ, cũng không khó có
thể làm suy kiệt được nguồn hải sản. Thêm vào đó, việc khai thác thuỷ sản bằng
điện và chất nổ đang tận diệt tất cả các loài thuỷ sản, kể cả những thuỷ sản
không nằm trong mục tiêu khai thác. Các loài động vật, nhất là những động vật
có giá trị về y học như hổ, tê giác, về trang sức như chồn, gấu trắng đang bị tiêu
diệt đến mức báo động tuyệt chủng. Theo tính toán của các nhà khoa học thì có
khoảng 10 đến 30 triệu loài sống trên trái đất và có khoảng 50 đến 90% trong số
đó tồn tại trong các cánh rừng nhiệt đới. Tuy nhiên, theo ước tính của các nhà
khoa học, khoảng 60 trong số hơn 240.000 loài thực vật của thế giới có thể sẽ bị
tuyệt chủng. Theo số liệu được công bố tại Hội nghị bảo tồn thế giới, Liên minh
bảo tồn thế giới (IUCN) dù số loài trong sách đỏ ngày càng tăng vọt. Sách đỏ
năm 2004 cho thấy có khoảng 12.259 loài bị đe doạ.
Hiện trạng đa dạng sinh học ở Việt Nam.
Đa dạng hệ sinh thái và sự suy thoái của các hệ sinh thái tự nhiên.
 Các kiểu hệ sinh thái ở Việt Nam rất đa dạng, ở những vùng địa lý không
lớn cũng có nhiều kiểu hệ sinh thái. Kết quả nghiên cứu cho thấy đã có khoảng
95 kiểu hệ sinh thái thuộc 7 dạng hệ sinh thái chính ở trên cạn; khoảng 39 kiểu
hệ sinh thái đất ngập nước, gồm 28 kiểu đất ngập nước tự nhiên và 11 kiểu đất
ngập nước nhân tạo; 20 kiểu hệ sinh thái biển khác nhau. Có thể kể đến một số
hệ sinh thái tiêu biểu sau đây: 
+ Hệ sinh thái rừng: Hệ sinh thái rừng ở Việt Nam khá phong phú với các
kiểu rừng kín vùng cao, rừng kín vùng thấp, rừng thưa với hệ thực vật vô cùng
phong phú.
+ Hệ sinh thái rừng ngập mặn: Đây là loại hình hệ sinh thái đặc thù ở vùng
triều cửa sông, ven biển nước ta. Chúng góp phần quan trọng vào việc bảo vệ
đất đai, điều hoà khí hậu đồng thời là môi trường sinh sống của nhiều động thực
vật vùng triều có tính đa dạng lớn và còn là nơi nuôi dưỡng ấu trùng của nhiều
thuỷ sản có giá trị.
+ Hệ sinh thái rạn san hô: Khu vực và thành phần các loài san hô biển
nước ta rất phong phú. Rạn san hô cũng như rừng trên mặt đất, không chỉ cho
nguồn lợi sinh vật thuỷ sản lớn mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì
trạng thái cân bằng của cả vùng nước.
 + Hệ sinh thái đầm phá, vũng, vịnh: Loại hình hệ sinh thái này chủ yếu tập
trung ven biển miền Trung nước ta. Chúng là nơi sinh sống của nhiều sinh vật
cửa sông, các loài rong tảo nước lợ, nơi phân bố của nhiều nhuyễn thể hai
mảnh quý như trai ngọc, sò, vẹm và một số vùng là nơi cư trú của các loài chim
nước có giá trị thuộc đối tượng bảo tồn của Công ước Ramsar.
Thành phần các quần xã trong các hệ sinh thái nêu trên cũng rất đa dạng,
cấu trúc quần xã trong các hệ sinh thái phức tạp, nhiều tầng bậc, nhiều nhánh.
Đặc điểm này làm cho đa dạng hệ sinh thái ở Việt Nam có nhiều điểm khác biệt
so với các nước trên thế giới.
Các hệ sinh thái ở Việt Nam phần lớn là những hệ sinh thái có tính mềm
dẻo về sinh thái, có khả năng thích ứng và phục hồi nhanh trước những biến
động môi trường. Do đó, chúng có tính ổn định không cao, thế cân bằng sinh
thái dễ bị phá vỡ khi có tác động từ bên ngoài hay nội tại.
Đa dạng loài và sự suy giảm các loài tự nhiên
Việt Nam là một trong những nước có đa dạng sinh học cao thứ 16 trên
thế giới, về các loài động vật, thực vật và vi sinh vật, do sự phong phú về các
dạng địa hình, khí hậu. Sau đây là các con số thống kê:
Về thực vật, các kết quả điều tra cho thấy nước ta có khoảng 13.894 loài
thực vật, trong đó có 2.400 loài thực vật bậc thấp, 11.494 lài thực vật bậc cao,
14 loài cỏ biển, 151 loài rong biển.
Về động vật trên cạn: Cho đến nay đã thống kê xác định được 312 loài và
phân loài thú trên cạn, 840 loài chim, 260 loài bò sát, 200 loài giun đất, 162 loài
ếch. Tính độc đáo của đa dạng sinh học ở Việt Nam khá cao: gần 10% số loài
động thực vật (chim, thú và cá) của thế giới tìm thấy ở Việt Nam, gần 40% loài
thực vật thuộc loài đặc hữu.
Về vi sinh vật: Đã ghi nhận hơn 7500 loài, trong đó có hơn 2800 loài gây
bệnh cho thực vật, 1500 loài gây bệnh cho người và gia súc và hơn 700 loài vi
sinh vật có lợi.
Các hệ sinh thái của Việt Nam còn là nơi cư trú của một số động vật quý
hiếm trên thế giới. Trong mỗi hệ sinh thái đặc trưng của Việt Nam, tính đa dạng
loài cũng rất lớn. Ví dụ, hệ sinh thái rạn san hô có trên 400 loài san hô khác
nhau, gồm 80 giống, 17 họ.
Bên cạnh tính đa dạng cao của các loài sinh vật trong các hệ sinh thái thì
sự giảm sút ngày càng nhiều các cá thể, các loài trong tự nhiên là vấn đề đáng
báo động ở Việt Nam. về mức độ suy thoái, Việt Nam được xếp vào nhóm 15
nước hàng đầu thế giới về số loài thú, nhóm 20 nước về số loài chim, nhóm 30
nước về số loài thực vật lưỡng cư.
Suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam:
Suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam bắt nguồn trước hết từ sự giảm sút diện
tích rừng. Rừng, đặc biệt là rừng già là hệ sinh thái cổ độ da dạng sinh học
phong phú nhất. Đó là nơi cư trú, phát triển của nhiều giống loài thực vật, động
vật và vi sinh vật. Tốc độ giảm sút diện tích rừng ở nước ta là khá cao. Khai thác
tự phát, khai thác gỗ trộm là những mối lo nhất ở các địa phương. Nạn chặt phá rừng
làm nương rẫy hàng năm vẫn lớn. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 1999, lực
lượng kiểm lâm đã phát hiện và xử lý vụ chặt cây phá rừng làm nương rẫy. Diện
tích rừng tự nhiên của Việt Nam đã rất ít (khoảng 9,3 ha) lại còn bị chia cắt thành
các vùng nhỏ. Có khoảng 56% diện tích rừng dễ bị cháy trong số diện tích rừng
còn lại của Việt Nam. Hàng năm, nước ta bị cháy khoảng - ha rừng (có năm
cháy tới ha). Sách đỏ Việt Nam phần động vật (1992) đã liệt kê 365 loài và Sách
đỏ Việt Nam phần thực vật (1996) đã liệt kê 356 loài đang bị đe doạ ở các mức
độ khác nhau. Diện tích rừng bị thu hẹp dần, xé lẻ và phân cách đến mức ở
nhiều vùng rừng không còn khả năng hỗ trợ duy trì tính phong phú về loài ở quy
mô ban đầu. Sự suy giảm diện tích rừng tạo ra một áp lực vô cùng lớn đối với đa
dạng sinh học. Cùng với sự mất đi của rừng, sự suy giảm nhiều hệ sinh thái, các
loài động thực vật hoang dã cũng dửng trước nguy cơ suy thoái về số lượng và
nhiêu loài đang trong tình trạng đe dọa bị tuyệt chủng. Các loài voi châu á, tê
giác một sừng hay sao la sẽ tuyệt chủng trong tương lai không xa. Cùng với
chúng, nguồn gen vô cùng quý giá, không thể tái tạo cũng sẽ biến mất vĩnh viễn.
Suy thoái đa dạng sinh học còn bắt nguồn từ sự huỷ hoại hệ sinh thái khác như
đất ngập nước. Việc phá các vùng rừng đước nguyên sinh để nuôi tôm, thiểu sự
bảo vệ cần thiết để xảy ra cháy các khu rừng ngập mặn đang làm cho hệ sinh
thái đất ngập nước thu hẹp dần. Hậu quả là các giống loài gắn liền với hệ sinh
thái này bị suy kiệt và có nguy cơ tuyệt chủng. Sách đỏ Việt Nam phần động,
thực vật (2004) 450 loài thực vật và 407 loài động vật. Lan hài - loài lan quý của
Việt Nam, đã bị tuyệt chủng.
Sự suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam bắt nguồn cả từ ở sự suy giảm
các hệ sinh thái biển. Các vùng nước lớn ven biển và cửa sông của Việt Nam là
nơi tụ hội rất nhiều nguồn cá cũng như các loại hệ sinh thái đa dạng. Nhưng do
việc khai thác quá mức ở các vùng biển gần bờ với những phương thức đánh
bắt lạc hậu, thậm chí huỷ diệt hàng loạt, quy hoạch sử dụng đất ven biển chưa
tốt đã làm suy giảm đáng kể đa dạng sinh học biển. Các hệ sinh thái rạn san hô
cũng đứng trước những nguy cơ bị tàn phá bởi con người. 
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, tốc độ suy giảm đa dạng sinh học
của nước ta là rất đáng báo động. Đánh giá sau đây trong Kế hoạch đa dạng
sinh học của Chính phủ cũng khẳng định điều này:
“Việc gia tăng quá nhanh dân số nước ta, việc diện tích rừng bị thu hẹp,
việc khai thác quá mức tài tài nguyên sinh vật biển, việc áp dụng quá rộng rãi
các giống mới trong sản xuất nông nghiệp... đã dẫn tới sự thu hẹp hoặc mất đi
các hệ sinh thái, dẫn tới nguy cơ tiêu diệt hơn 28% loài thú, 10% loài chim, 21%
loài bò sát và lưỡng cư. Sự mất đi cả loài là mất đi vĩnh viễn, đồng thời mất đi cả
nguồn tài nguyên di truyền. Trên thực tế, tốc độ suy giảm đa dạng sinh học của
ta nhanh hơn nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực".
 
2.2. Nguyên nhân
Sự suy giảm đa dạng sinh học là do:
*Nguyên nhân trực tiếp
- Khai thác, sử dụng không bền vững tài nguyên sinh vật:
+ Khai thác gỗ trong giai đoạn từ 1986-1991 các lâm trường quốc doanh đã
khai thác trung bình 3,5 triệu m3 gổ mổi năm, và 1-2 m3 khai thác ngoài kế hoạch.
+ Khai thác củi hàng năm lên đến khoảng 21 triệu tấn để phục vụ nhu cầu sử
dụng trong gia đình , lớn gấp 6 lần lượng gổ xuất khẩu hằng năm đây là nguyên
nhân cơ bản tác động đến đa dạng sinh học
+ Khai thác động vật hoang dã (gấu, chồn, hổ, tê giác,…)
+ Khai thác các thực vật khác trong số khoảng 3300 loài thực vật cho các sản
phẩm ngoài gổ như song mây tre nứa cây thuốc , cây tinh dầu đã được khai thác
dể dùng và bán ra thị trường,trong nước cũng như xuất khẩu.
+ Chuyển đổi phương thức sử dụng đất đất trong thời gian gần đây do nhu
cầu phát triển kinh tể xã hội các hệ sinh thái tự nhiên với tính ĐDSH cao bị thu
hẹp diện tích hoặc chuyển sang hệ sinh thái thứ sinh.
- Ô nhiểm môi trường
+ Nhiều thành phần môi trường bị suy thoái, tình trạng ô nhiễm do các nguồn
thải khác nhau (nước thải, khí thải, chất thải rắn) là nguyên nhân đe doạ tới
ĐDSH.
- Suy giảm hoặc mất sinh cảnh sống
+ Cháy rừng do điều kiện khí hậu, ở Việt Nam khả năng cháy rừng vào mua
khô là rất lớn, trung bình mổi năm có 25000-100000ha rừng bị cháy ở VN.
+ Thiên tai (lũ quét, xạc lỡ, biển xâm lấn…)
- Di nhập các loài ngoại lai

*Các nguyên nhân sâu xa về kinh tế xả hội và chính sách


- Tăng trưởng dân số năm 1999, VN có hơn 76,3tr người, mức tăng
trưởng dân số là 18%/năm
- Sự di dân từ vùng này sang vùng khác
- Việt Nam là một quốc gia còn nghèo, cuộc sống còn phụ thuộc nhiều
vào nông nghiệp và tài nguyên. Mức nghèo đói thể hiện rõ nhất ở các vùng núi
phía Bắc và cao nguyên Trung Bộ đồng thời cũng là nơi có mức ĐDSH cao nhất.
- Chính sách kinh tế vỉ mô
- Sự suy giảm đa dạng di truyền
Ngoài ra còn có các nguyên nhân khác:
-Cuộc chiến giữa các loài bản địa và nhập nội
Bên cạnh đó tìm hiểu về nguyên nhân mất đa dạng sinh học là gì trên thế
giới chính là việc phổ cập toàn cầu Châu Âu các giống vật nuôi hay cây trồng gia
tăng đã khiến cho các dịch bệnh gia tăng và đồng thời làm suy giảm thực vật
động vật trên các đảo và thêm mối đe dọa với các loài trên lục địa, bên cạnh đó
việc người Châu Âu đặt trên đến các hòn đảo vô hình chung lảm ảnh hưởng đến
tính nhạy cảm của các loài động thực vật với minh chứng là các loài chim hay
loài bò sát đã biến mất và sự hủy diệt của những loài chim hồng tước biết bay.
-Loài người cũng là nguyên nhân góp phần vào sự tuyệt chủng của các loài
Trên thực tế con người không hoàn toàn là nguyên nhân chính dẫn đến sự
tuyệt chủng của các loài nhưng với hàng nghìn năm qua đã gây ra những biến
đổi quan trọng sinh cảnh với nhiều động và thực vật bản địa. Hầu hết các
chuyên gia đều cho rằng với nguyên nhân từ con người là do sự phá hủy đất để
canh tác nông nghiệp cũng như gây xáo trộn trong việc nhập nội các loài đã tính
đa dạng đồng thời còn săn bắn và giết thịt, việc loài người định cư cũng là một
trong những nguyên nhân chính cho sự tuyệt chủng của những loài động vật và
chim đã tồn tại từ nhiều năm trước đây!
-Tốc độ tuyệt chủng hàng loạt giống nòi trong quá khứ
Sự suy giảm đa dạng sinh vật bao gồm thực vật và động vật cũng bao gồm
nguyên nhân chủ yếu từ nguồn cơn trong quá khứ với tốc độ tuyệt chủng nhanh
chóng và hàng loạt theo chu kỳ lịch sử sự sống trên trái đất.
Sự tuyệt chủng hàng loạt trầm trọng nhất được ước lượng trong khoảng 77
đến 96%  đối với số loài xảy ra vào thế kỷ cuối của 250 triệu năm trước đây, và
cũng tương tự như vậy, đa dạng sinh vật ở biển cũng đạt đỉnh so với vài triệu
năm trước đó.
*Nguyên nhân gây mất đa dạng sinh học Việt Nam
+ Hậu quả nặng nề mà chiến tranh để lại cho môi trường ở Việt Nam: Việc
thiêu hủy hàng triệu ha rừng bằng bom napan và chất độc màu da cam do các
nước xâm lược đã để lại di chứng nặng nề cho các hệ sinh thái ở nước ta.
+ Tình trạng ô nhiễm nhanh chóng do sự phát triển các ngành công nghiệp
chế biến mà không có những biện pháp hữu hiệu ngăn chặn từ đầu: Các ngành
công nghiệp giấy, rượu bia, thuộc da khai thác quặng đã làm cho hệ sinh thái tồn
tại ở các vùng phụ cận bị tổn hại nặng nề. Việc đổi lấy sự phát triển công nghiệp
bằng sự đi xuống của môi trường là một trong những điểm dễ nhận thấy ở Việt
Nam trong vài thập kỷ vừa qua. Đây cũng có thể coi là một trong những nguyên
nhân đặc thù của suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam.
+ Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc ít người, nhiều nhóm dân cư trong
số đó có tập quán du canh, du cư: Trong số 54 dân tộc sinh sống ở Việt Nam thì
có khoảng 50 dân tộc với khoảng 9 triệu người có tập quán du canh, du cư. Các
cộng đồng này thường sống ở vùng rừng núi. Việc di chuyển của họ từ nơi đang
sống sang nơi khác kéo theo sự mất đi của một diện tích rừng nhất định mà họ
chặt đốt để làm nương rẫy. Cứ vài ba năm, họ lại di chuyển một lần như vậy.
Chính tập quán này cũng gây tác động không nhỏ đến việc chặt phá rừng, tác
động xấu đến đa dạng sinh học ở nước ta.
+ Nhu cầu thưởng thức các món ăn, đồ uống chế biến từ động thực vật
hoang dã đã phát triển mạnh ở nước ta: Nhà hàng đặc sản thú rừng mọc lên
khắp nơi và trở thành nguồn tiêu thụ mạnh các loài động vật hoang dã. Nhiều
người dân đã tìm mọi cách săn thú rừng quý hiếm để bán cho các nhà hàng đặc
sản hoặc bán cho các tổ chức xuất khẩu bất hợp pháp sang Trung Quốc, Hồng
Kông, Đài Loan và các nước trong khu vực. Điều này dẫn tới nguy cơ là một số
loài thú quý hiếm của nước ta đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.
+ Sự thoái hoá nguồn gen do nhu cầu: Thực trạng vấn đề nguồn gen trong
sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam là một nguyên nhân của suy thoái đa dạng
sinh học. Đây cũng là nguyên nhân phổ biến toàn cầu song biểu hiện ở Việt Nam
với những đặc thù riêng. Việt Nam vào những năm 1970 - 1976, sản xuất 15
triệu tấn lương thực là mục tiêu xa vời. Để đảm bảo an ninh lương thực, đáp
ứng nhu cầu xuất khẩu, nền nông nghiệp nước ta đã sử dụng các giống mới có
biến đổi gen hay lai tạo khoa học, các giống nhập nội có năng suất cao, chất
lượng tốt. Hiện nay có tới 70% giống dùng trong nông nghiệp nước ta là những
giống có áp dụng tiến bộ khoa học và biến đổi gen. Tuy nhiên, thực tế này cũng
dẫn đến sự biến mất hoặc suy thoái các giống bản địa truyền thống. Những
giống bản địa này có nhiều thuộc tính quý giá như khả năng thích nghi với khí
hậu nhiệt đới, khả năng chống chịu sâu bệnh đặc thù của khí hậu và môi trường
nhiệt đới gió mùa.
+ Sự xâm nhập các loài lạ vào môi trường sinh thái Việt Nam. Sự xâm nhập
các loài lạ vào môi trường của Việt Nam có vẻ như tạo thêm sự đa dạng sinh
học vì có thêm những loài mới. Loài lạ được hiểu là loài tồn tại bên ngoài môi
trường của các loài bản địa. Tuy nhiên, sự xuất hiện của loài lạ nếu không được
kiểm soát sẽ gây hậu quả nghiêm trọng đến đa dạng sinh học. Sự phát triển quá
nhanh của loài lạ này trong môi trường mới tạo ra nguy cơ đối với các giống loài
khác vốn tồn tại trong khu vực bản địa của chúng. Ở Việt Nam, việc kiểm soát
loài lạ xâm nhập chưa được chú trọng đúng mức. Người ta có thể đem vào môi
trường bất kì động thực vật hay vi sinh vật nào, miễn là nó không phải là loài gây
bệnh dịch hoặc đang trong tình trạng bị bệnh. Song trên thực tế, ngay cả khi một
loài lạ không hề có khả năng gây bệnh dịch khi xâm nhập vào các hệ sinh thái ở
nước ta thì cũng không thể coi là an toàn. Tác động của các loài lạ không dễ
thấy trước. Trong những năm 1994 - 1995, nạn dịch ốc bươu vàng trên miền
Bắc Việt Nam là một minh chứng cho vấn đề này. Sự xâm nhập và tác hại của
ốc bươu vàng ở nước ta trong những năm đó là ví dụ điển hình. Nó được nhập
vào Việt Nam với mục đích kinh tế, được nhân giống và phổ biến khắp cả nước.
Do sự sinh sản nhanh và tạp ăn, ốc bươu vàng đã lan rộng với tốc độ vô cùng
nhanh, không thể kiểm soát. Thực tế, nó trở thành loài côn trùng gây hại vô cùng
nguy hiểm đối với cây lúa nước. Hàng chục ngàn ha lúa nước trên nhiều tỉnh có
nguy cơ mất trắng. Sự xuất hiện các loài lạ rõ ràng đang là một trong những
nguyên nhân đáng lo ngại cho tình trạng suy thoái môi trường ở nước ta.
2.3. Hậu quả
 
Sự suy thoái đa dạng sinh học dẫn đến các hậu quả chủ yếu xấu thể hiện
trong các mối tương tác sau đây:
Đa dạng sinh học và môi trường sống, các hệ sinh thái liên quan chặt chẽ với
nhau. Các hệ sinh thái, các môi trường sống không thể có được nếu không có
sự tồn tại của các giống loài vốn dựa vào nhau để tồn tại và phát triển. Sự suy
thoái của đa dạng sinh học đật môi trường sống và các hệ sinh thái vào nguy cơ
bị huỷ hoại.
Sự suy thoái hoặc triệt tiêu các loài sẽ làm mất đa dạng di truyền (hay sự xói
mòn di truyền). Cùng với sự mất đi của các loài, các khu vực phân bố loài, sự xói
mòn di truyền trong nội bộ các loài động thực vật, nguồn tài nguyên gen quý giá
cũng bị mất theo. Nguồn gen động vật rừng, nguồn gen động thực vật thuỷ sinh
trong các sông hồ hay biển cả cũng nằm trong nguy cơ này mà hiện chúng ta
chưa thể thống kê hay kiểm soát nổi. Quá trình chuyên canh và việc áp dụng các
tiến bộ khoa học kĩ thuật cũng như sự tuyệt chủng nhanh chóng của các loài
sinh vật đã làm cho nguồn gen quý giá của cả các động thực vật hoang dại và
những vật nuôi, cây trồng truyền thống, nguyên liệu chính cho lai tạo giống trong
sản xuất nông nghiệp đã mất đỉ vĩnh viễn. Thiếu sự đa dạng về nguồn gen, các
giống loài cũng sẽ bị thoái hoá dần.
 
Mặt khác sinh vật và hệ sinh thái là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm,
công cụ, nhiên liệu Do vậy khi hệ sinh thái bị suy thoái sẽ ảnh hưởng đến cuộc
sống sinh hoạt, nguồn lương thực hằng ngày làm cho con người phải đối mặt
với nguy cơ đói nghèo, thiếu thốn.
Suy giảm nguồn gen và đặc biệt là biến đổi khí hậu dẫn đến hàng loạt các
thảm họa thiên nhiên đe dọa cuộc sống của con người.

You might also like