Professional Documents
Culture Documents
Trong những
thập kỷ qua, sự suy thoái đa dạng sinh học đã xảy ra với một tốc độ khủng khiếp
trên toàn thế giới, ở cả các nước phát triển như Mỹ, Nhật,... đến các nước chậm
phát triển ở châu Phi, châu á và Mỹ Latinh. Điều này có thể lí giải bằng tốc độ
tăng dân số và tốc độ khai thác. Dân số tăng dẫn đến nhu cầu cung cấp thực
phẩm tăng, do đó gây áp lực lên quá trình khai thác các giống, loài cấu thành
nên đa dạng sinh học. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là tốc độ khai thác đã và
đang làm biến mất một số cánh rừng đại ngàn. Trong lúc đó, chỉ mất khoảng vài
ngày, một công ty khai thác gỗ đã có thể làm biến mất cả hàng chục héc ta rừng.
Chỉ với những chiếc thuyền câu và những mảnh lưới nhỏ, cũng không khó có
thể làm suy kiệt được nguồn hải sản. Thêm vào đó, việc khai thác thuỷ sản bằng
điện và chất nổ đang tận diệt tất cả các loài thuỷ sản, kể cả những thuỷ sản
không nằm trong mục tiêu khai thác. Các loài động vật, nhất là những động vật
có giá trị về y học như hổ, tê giác, về trang sức như chồn, gấu trắng đang bị tiêu
diệt đến mức báo động tuyệt chủng. Theo tính toán của các nhà khoa học thì có
khoảng 10 đến 30 triệu loài sống trên trái đất và có khoảng 50 đến 90% trong số
đó tồn tại trong các cánh rừng nhiệt đới. Tuy nhiên, theo ước tính của các nhà
khoa học, khoảng 60 trong số hơn 240.000 loài thực vật của thế giới có thể sẽ bị
tuyệt chủng. Theo số liệu được công bố tại Hội nghị bảo tồn thế giới, Liên minh
bảo tồn thế giới (IUCN) dù số loài trong sách đỏ ngày càng tăng vọt. Sách đỏ
năm 2004 cho thấy có khoảng 12.259 loài bị đe doạ.
Hiện trạng đa dạng sinh học ở Việt Nam.
Đa dạng hệ sinh thái và sự suy thoái của các hệ sinh thái tự nhiên.
Các kiểu hệ sinh thái ở Việt Nam rất đa dạng, ở những vùng địa lý không
lớn cũng có nhiều kiểu hệ sinh thái. Kết quả nghiên cứu cho thấy đã có khoảng
95 kiểu hệ sinh thái thuộc 7 dạng hệ sinh thái chính ở trên cạn; khoảng 39 kiểu
hệ sinh thái đất ngập nước, gồm 28 kiểu đất ngập nước tự nhiên và 11 kiểu đất
ngập nước nhân tạo; 20 kiểu hệ sinh thái biển khác nhau. Có thể kể đến một số
hệ sinh thái tiêu biểu sau đây:
+ Hệ sinh thái rừng: Hệ sinh thái rừng ở Việt Nam khá phong phú với các
kiểu rừng kín vùng cao, rừng kín vùng thấp, rừng thưa với hệ thực vật vô cùng
phong phú.
+ Hệ sinh thái rừng ngập mặn: Đây là loại hình hệ sinh thái đặc thù ở vùng
triều cửa sông, ven biển nước ta. Chúng góp phần quan trọng vào việc bảo vệ
đất đai, điều hoà khí hậu đồng thời là môi trường sinh sống của nhiều động thực
vật vùng triều có tính đa dạng lớn và còn là nơi nuôi dưỡng ấu trùng của nhiều
thuỷ sản có giá trị.
+ Hệ sinh thái rạn san hô: Khu vực và thành phần các loài san hô biển
nước ta rất phong phú. Rạn san hô cũng như rừng trên mặt đất, không chỉ cho
nguồn lợi sinh vật thuỷ sản lớn mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì
trạng thái cân bằng của cả vùng nước.
+ Hệ sinh thái đầm phá, vũng, vịnh: Loại hình hệ sinh thái này chủ yếu tập
trung ven biển miền Trung nước ta. Chúng là nơi sinh sống của nhiều sinh vật
cửa sông, các loài rong tảo nước lợ, nơi phân bố của nhiều nhuyễn thể hai
mảnh quý như trai ngọc, sò, vẹm và một số vùng là nơi cư trú của các loài chim
nước có giá trị thuộc đối tượng bảo tồn của Công ước Ramsar.
Thành phần các quần xã trong các hệ sinh thái nêu trên cũng rất đa dạng,
cấu trúc quần xã trong các hệ sinh thái phức tạp, nhiều tầng bậc, nhiều nhánh.
Đặc điểm này làm cho đa dạng hệ sinh thái ở Việt Nam có nhiều điểm khác biệt
so với các nước trên thế giới.
Các hệ sinh thái ở Việt Nam phần lớn là những hệ sinh thái có tính mềm
dẻo về sinh thái, có khả năng thích ứng và phục hồi nhanh trước những biến
động môi trường. Do đó, chúng có tính ổn định không cao, thế cân bằng sinh
thái dễ bị phá vỡ khi có tác động từ bên ngoài hay nội tại.
Đa dạng loài và sự suy giảm các loài tự nhiên
Việt Nam là một trong những nước có đa dạng sinh học cao thứ 16 trên
thế giới, về các loài động vật, thực vật và vi sinh vật, do sự phong phú về các
dạng địa hình, khí hậu. Sau đây là các con số thống kê:
Về thực vật, các kết quả điều tra cho thấy nước ta có khoảng 13.894 loài
thực vật, trong đó có 2.400 loài thực vật bậc thấp, 11.494 lài thực vật bậc cao,
14 loài cỏ biển, 151 loài rong biển.
Về động vật trên cạn: Cho đến nay đã thống kê xác định được 312 loài và
phân loài thú trên cạn, 840 loài chim, 260 loài bò sát, 200 loài giun đất, 162 loài
ếch. Tính độc đáo của đa dạng sinh học ở Việt Nam khá cao: gần 10% số loài
động thực vật (chim, thú và cá) của thế giới tìm thấy ở Việt Nam, gần 40% loài
thực vật thuộc loài đặc hữu.
Về vi sinh vật: Đã ghi nhận hơn 7500 loài, trong đó có hơn 2800 loài gây
bệnh cho thực vật, 1500 loài gây bệnh cho người và gia súc và hơn 700 loài vi
sinh vật có lợi.
Các hệ sinh thái của Việt Nam còn là nơi cư trú của một số động vật quý
hiếm trên thế giới. Trong mỗi hệ sinh thái đặc trưng của Việt Nam, tính đa dạng
loài cũng rất lớn. Ví dụ, hệ sinh thái rạn san hô có trên 400 loài san hô khác
nhau, gồm 80 giống, 17 họ.
Bên cạnh tính đa dạng cao của các loài sinh vật trong các hệ sinh thái thì
sự giảm sút ngày càng nhiều các cá thể, các loài trong tự nhiên là vấn đề đáng
báo động ở Việt Nam. về mức độ suy thoái, Việt Nam được xếp vào nhóm 15
nước hàng đầu thế giới về số loài thú, nhóm 20 nước về số loài chim, nhóm 30
nước về số loài thực vật lưỡng cư.
Suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam:
Suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam bắt nguồn trước hết từ sự giảm sút diện
tích rừng. Rừng, đặc biệt là rừng già là hệ sinh thái cổ độ da dạng sinh học
phong phú nhất. Đó là nơi cư trú, phát triển của nhiều giống loài thực vật, động
vật và vi sinh vật. Tốc độ giảm sút diện tích rừng ở nước ta là khá cao. Khai thác
tự phát, khai thác gỗ trộm là những mối lo nhất ở các địa phương. Nạn chặt phá rừng
làm nương rẫy hàng năm vẫn lớn. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 1999, lực
lượng kiểm lâm đã phát hiện và xử lý vụ chặt cây phá rừng làm nương rẫy. Diện
tích rừng tự nhiên của Việt Nam đã rất ít (khoảng 9,3 ha) lại còn bị chia cắt thành
các vùng nhỏ. Có khoảng 56% diện tích rừng dễ bị cháy trong số diện tích rừng
còn lại của Việt Nam. Hàng năm, nước ta bị cháy khoảng - ha rừng (có năm
cháy tới ha). Sách đỏ Việt Nam phần động vật (1992) đã liệt kê 365 loài và Sách
đỏ Việt Nam phần thực vật (1996) đã liệt kê 356 loài đang bị đe doạ ở các mức
độ khác nhau. Diện tích rừng bị thu hẹp dần, xé lẻ và phân cách đến mức ở
nhiều vùng rừng không còn khả năng hỗ trợ duy trì tính phong phú về loài ở quy
mô ban đầu. Sự suy giảm diện tích rừng tạo ra một áp lực vô cùng lớn đối với đa
dạng sinh học. Cùng với sự mất đi của rừng, sự suy giảm nhiều hệ sinh thái, các
loài động thực vật hoang dã cũng dửng trước nguy cơ suy thoái về số lượng và
nhiêu loài đang trong tình trạng đe dọa bị tuyệt chủng. Các loài voi châu á, tê
giác một sừng hay sao la sẽ tuyệt chủng trong tương lai không xa. Cùng với
chúng, nguồn gen vô cùng quý giá, không thể tái tạo cũng sẽ biến mất vĩnh viễn.
Suy thoái đa dạng sinh học còn bắt nguồn từ sự huỷ hoại hệ sinh thái khác như
đất ngập nước. Việc phá các vùng rừng đước nguyên sinh để nuôi tôm, thiểu sự
bảo vệ cần thiết để xảy ra cháy các khu rừng ngập mặn đang làm cho hệ sinh
thái đất ngập nước thu hẹp dần. Hậu quả là các giống loài gắn liền với hệ sinh
thái này bị suy kiệt và có nguy cơ tuyệt chủng. Sách đỏ Việt Nam phần động,
thực vật (2004) 450 loài thực vật và 407 loài động vật. Lan hài - loài lan quý của
Việt Nam, đã bị tuyệt chủng.
Sự suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam bắt nguồn cả từ ở sự suy giảm
các hệ sinh thái biển. Các vùng nước lớn ven biển và cửa sông của Việt Nam là
nơi tụ hội rất nhiều nguồn cá cũng như các loại hệ sinh thái đa dạng. Nhưng do
việc khai thác quá mức ở các vùng biển gần bờ với những phương thức đánh
bắt lạc hậu, thậm chí huỷ diệt hàng loạt, quy hoạch sử dụng đất ven biển chưa
tốt đã làm suy giảm đáng kể đa dạng sinh học biển. Các hệ sinh thái rạn san hô
cũng đứng trước những nguy cơ bị tàn phá bởi con người.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, tốc độ suy giảm đa dạng sinh học
của nước ta là rất đáng báo động. Đánh giá sau đây trong Kế hoạch đa dạng
sinh học của Chính phủ cũng khẳng định điều này:
“Việc gia tăng quá nhanh dân số nước ta, việc diện tích rừng bị thu hẹp,
việc khai thác quá mức tài tài nguyên sinh vật biển, việc áp dụng quá rộng rãi
các giống mới trong sản xuất nông nghiệp... đã dẫn tới sự thu hẹp hoặc mất đi
các hệ sinh thái, dẫn tới nguy cơ tiêu diệt hơn 28% loài thú, 10% loài chim, 21%
loài bò sát và lưỡng cư. Sự mất đi cả loài là mất đi vĩnh viễn, đồng thời mất đi cả
nguồn tài nguyên di truyền. Trên thực tế, tốc độ suy giảm đa dạng sinh học của
ta nhanh hơn nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực".
2.2. Nguyên nhân
Sự suy giảm đa dạng sinh học là do:
*Nguyên nhân trực tiếp
- Khai thác, sử dụng không bền vững tài nguyên sinh vật:
+ Khai thác gỗ trong giai đoạn từ 1986-1991 các lâm trường quốc doanh đã
khai thác trung bình 3,5 triệu m3 gổ mổi năm, và 1-2 m3 khai thác ngoài kế hoạch.
+ Khai thác củi hàng năm lên đến khoảng 21 triệu tấn để phục vụ nhu cầu sử
dụng trong gia đình , lớn gấp 6 lần lượng gổ xuất khẩu hằng năm đây là nguyên
nhân cơ bản tác động đến đa dạng sinh học
+ Khai thác động vật hoang dã (gấu, chồn, hổ, tê giác,…)
+ Khai thác các thực vật khác trong số khoảng 3300 loài thực vật cho các sản
phẩm ngoài gổ như song mây tre nứa cây thuốc , cây tinh dầu đã được khai thác
dể dùng và bán ra thị trường,trong nước cũng như xuất khẩu.
+ Chuyển đổi phương thức sử dụng đất đất trong thời gian gần đây do nhu
cầu phát triển kinh tể xã hội các hệ sinh thái tự nhiên với tính ĐDSH cao bị thu
hẹp diện tích hoặc chuyển sang hệ sinh thái thứ sinh.
- Ô nhiểm môi trường
+ Nhiều thành phần môi trường bị suy thoái, tình trạng ô nhiễm do các nguồn
thải khác nhau (nước thải, khí thải, chất thải rắn) là nguyên nhân đe doạ tới
ĐDSH.
- Suy giảm hoặc mất sinh cảnh sống
+ Cháy rừng do điều kiện khí hậu, ở Việt Nam khả năng cháy rừng vào mua
khô là rất lớn, trung bình mổi năm có 25000-100000ha rừng bị cháy ở VN.
+ Thiên tai (lũ quét, xạc lỡ, biển xâm lấn…)
- Di nhập các loài ngoại lai