You are on page 1of 6

TÀI NGUYÊN RỪNG VIỆT NAM

Tài nguyên rừng ở Việt Nam      


Theo tài liệu của Maurand thì trước năm 1945, Việt Nam có 14 triệu ha rừng chiếm hơn 42% diện tích tự nhiên của
cả nước, năm 1975 diện tích rừng chỉ còn 9,5 triệu ha (chiếm 29% diện tích tự nhiên), năm 1985 còn 7,8 triệu ha
(23,6%) đến năm 1989 chỉ còn 6, 5 triệu ha (19,7%) (Viện điều tra qui hoạch rừng Việt Nam, 1989).
Do đất nước ta trải dài từ bắc xuống nam và điạ hình với nhiều cao độ khác nhau so với mực nước biển nên rừng
phân bố trên khắp các dạng địa hình, với nét độc đáo của vùng nhiệt đới và rất đa dạng: có nhiều rừng xanh quanh
năm, rừng già nguyên thủy, rừng cây lá rộng, rừng cây lá kim, rừng thứ cấp, truông cây bụi và đặc biệt là rừng ngập
mặn...
Bảng: Tài nguyên rừng ở Việt Nam (Maurand, 1945)
Diện tích tự nhiên Diện tích rừng Tỉ lệ %
Khu vực
( 1.000 ha ) ( 1.000 ha ) diện tích rừng
Bắc bộ 11.570 6.955 60,8
Trung bộ (gồm cả Lâm đồng và Thuận hải) 14.574 6.580 44,0
Nam bộ 6.470 817 13,0
Tính chung cả nước 32.804 14.325 48,3
Rừng Việt Nam có nguồn tài nguyên sinh vật đa dạng. Có thể nói nước ta là trung tâm thu nhập các luồng thực vật
và động vật từ phía bắc xuống, phía tây qua, phía nam lên và từ đây phân bố đến các nơi khác trong vùng. Ðồng
thời, nước ta có độ cao ngang từ mực nước biển đến trên 3.000 m nên có nhiều loại rừng với nhiều loại thực vật và
động vật quý hiếm và độc đáo mà các nước ôn đới khó có thể tìm thấy được:
- Về thực vật, theo số liệu thống kê gần đây thì có khoảng 12.000 loài thực vật, nhưng chỉ có khoảng 10.500 loài đã
được mô tả (Hộ, 1991- 1993), trong đó có khoảng 10% là loài đặc hữu; 800 loài rêu; 600 loài nấm... Khoảng 2.300
loài cây có mạch đã được dùng làm lương thực, thực phẩm, làm thức ăn cho gia súc. Về cây lấy gỗ gồm có 41 loài
cho gỗ quí (nhóm 1), 20 loài cho gỗ bền chắc (nhóm 2), 24 loài cho gỗ đồ mộc và xây dựng (nhóm 3)..., loại rừng
cho gỗ này chiếm khoảng 6 triệu ha. Ngoài ra rừng VN còn có loại rừng tre, trúc chiếm khoảng 1,5 triệu ha gồm
khoảng 25 loài đã được gây trồng có giá trị kinh tế cao.

Ngoài những cây làm lương thực, thực phẩm và những cây lấy gỗ ra, rừng Việt Nam còn có những cây được sử
dụng làm dược liệu gồm khoảng 1500 loài trong đó có khoảng 75% là cây hoang dại. Những cây có chứa hóa chất
quý hiếm như cây Tô hạp (Altingia sp.) có nhựa thơm có ở vùng núi Tây Bắc và Trung bộ; cây Gió bầu (Aquilaria
agalocha) sinh ra trầm hương, phân bố từ Nghệ tỉnh đến Thuận Hải; cây Dầu rái (Dipterocarpus) cho gỗ và cho dầu
nhựa...
- Về động vật cũng rất đa dạng, ngoài các loài động vật đặc hữu Việt Nam còn có những loài mang tính chất tổng
hợp của khu hệ động vật miền nam Trung Hoa, Ấn Ðộ, Mã Lai, Miến Ðiện. Hiện tại đã thống kê được khoảng 774
loài chim, 273 loài thú, 180 loài bò sát, 80 loài lưỡng cư, 475 loài cá nước ngọt và 1.650 loài cá ở rừng ngập mặn và
cá biển; chúng phân bố trên những sinh cảnh khác nhau, trong đó có nhiều loài có giá trị kinh tế cao, có ý nghĩa
khoa học. Nhiều loài quý hiếm có tên trong Sách đỏ của thế giới.  
Sự tàn phá rừng ở Việt Nam
Năm 1945 diện tích rừng ở Việt Nam là 14 triệu ha, đến hiện nay chỉ còn lại khoảng 6, 5 triệu ha. Như vậy trung
bình mỗi năm rừng Việt Nam bị thu hẹp từ 160 - 200 ngàn ha. Nguyên nhân dẫn đến sự giảm sút nghiêm trọng về
diện tích là do khai hoang trong chiến tranh, do tập quán sống du canh của số dân tộc ở vùng cao, do cháy rừng, do
sự khai phá rừng bừa bãi lấy gỗ lấy đất canh tác...

Nguồn tài nguyên động vật đa dạng của rừng Việt Nam cũng bị giảm sút nghiêm trọng là do sự săn bắt thú bừa bãi
để lấy da, lông, thịt, sừng và các sản phẩm khác để làm thuốc, còn do việc buôn lậu thú quý hiếm ra nước ngoài.
Trong 4 thập kỷ qua, theo ước tính sơ bộ đã có 200 loài chim bị tuyệt chủng và 120 loài thú bị diệt vong.
Trong những năm gần đây, do lợi ích trước mắt của nguồn lợi thủy hải sản, dẫn đến sự tàn phá các rừng ngập mặn
để lấy chất đốt và làm vuông nuôi các loài thủy hải sản có giá trị kinh tế; điều này xảy ra nghiêm trọng ở vùng đồng
bằng sông Cửu long, sông Hồng và một số các tỉnh ven biển và hậu quả của nó là phá vỡ sự cân bằng hệ sinh thái
rừng ngập mặn, làm mất đi nơi sinh sản của một số loài tôm cá nước ngọt và biển, đồng thời gây nên hiện tượng xói
mòn bờ biển do sóng và do gió.  
Bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng
Tình hình hiện nay cho hấy việc bảo vệ và khôi phục nguồn tài nguyên rừng để đảm bảo sự cân bằng sinh thái, đồng
thời bảo tồn tính đa dạng sinh học, ngăn chặn sự diệt vong của các loài, nhất là các loài quý hiếm là một việc làm hết
sức cấp bách.
Chiến lược chung của thế giới về khôi phục và bảo vệ rừng hiện nay tập trung vào các vấn đề chính yếu là:
Sử dụng phương pháp Nông – Lâm kết hợp và Lâm – Nông kết hợp
Đẩy mạnh công tác giao dục cho mọi người dân về vai trò của rừng cũng như hậu quả của việc khai thác rừng bừa
bãi.
Ngăn chặn càng sớm càng tốt nạn phá rừng, nhất là rừng nhiệt đới.
Xây  dựng và bảo vệ các khu rừng quốc gia.
Cùng thực hiện chiến lược đó, hiện nay ở nước ta có 10 vườn quốc gia (khoảng 254.807ha), 52 khu dự trữ (khoảng
1.401.658 ha), 18 khu bảo tồn loài/sinh cảnh, 22 khu bảo vệ cảnh quan và dự kiến có 16 khu bảo tồn biển Việt Nam.
Các vườn quốc gia đã và đang được bảo vệ có hiệu quả như vườn Quốc gia Ba Vì (7.337 ha), Ba Bể (23.340 ha),
Bạch Mã (22.030 ha), Bến En (16.634 ha), Cúc Phương (22.200 ha), Cát Bà (15.200 ha), Côn Đảo (15.043 ha), Nam
Cát tiên (37.900 ha), Tam Đảo (36.883 ha), Yokdon (58.200 ha) (Bộ Khoa học- Công nghệ và môi trường, 1998).  

Tài nguyên rừng và nguyên nhân suy thoái rừng ở Việt Nam
Năm 1943, diện tích rừng Việt Nam ước tính có khoảng 14,3 triệu ha (Maurand, 1943), vớI tỷ lệ
che phủ là 43,8%; trên mức an toàn sinh thái là 33%. Năm 1976 giảm xuống còn 11 triệu ha vớI
tỷ lệ che phủ còn 34%. Năm 1985 còn 9,3 triệu ha và tỷ lệ che phủ là 30%. Năm 1995 còn 8 triệu
ha và tỷ lệ che phủ là 28%. Năm 1999 cả nước có 10,88 triệu ha rừng và độ che phủ là 33%
(Jyrki và cộng sự, 1999). Diện tích rừng bình quân cho 1  người  là  0,13  ha  (1995),  thấp  hơn
mức  trung  bình  ở  Đông  Nam  Á (0,42%).
Trong thời kỳ  1945 – 1975 cả nước mất khoảng 3 triệu ha rừng, bình quân 100.000 ha năm. Quá
trình mất rừng diễn ra nhanh hơn ở giai đoạn 1975 – 1990: Mất 2,8 triệu ha, bình quân 140.000
ha/ năm. Nguyên nhân chính làm mất rừng trong giai đoạn này là do dân số tăng nhanh,  nạn đốt
nương  làm  rẫy  tràn  lan,  quá  trình  khai  hoang  lấy  đất  trồng  các  cây công nghiệp như cà
phê, chè, cao su và khai thác gỗ xuất khẩu. Tuy nhiên từ  những  năm  1990  –  1995,  do  công
tác  trồng  rừng  được  đẩy  mạnh  đã phần nào làm cho diện tích rừng tăng lên. 
Về chất lượng, trước năm 1945 rừng nước ta có trữ lượng gỗ vào khoảng 200 – 300m 3/ha, trong
đó các loài gỗ quí như đinh, lim, sến, táu, nghiến, trai, gụ là rất phổ biến. Những cây gỗ có
đường kính 40 – 50cm chiếm tới 40 – 50% trữ lượng của rừng. Rừng tre nứa với những cây tre
có đường kính 18 – 20cm, nứa 4 – 6cm và vầu 8 – 12cm rất phổ biến (Hoàng Hòe, 1998). Hiện
nay chất lượng rừng đã giảm sút đáng kể, chỉ còn chủ yếu là rừng nghèo có giá trị kinh tế không
cao. Trữ lượng gỗ rừng năm 1993  ước  tính  khoảng  525  triệu  m3  (trung  bình  76  m3/ha).
Tốc  độ  tăng trưởng trung bình của rừng Việt Nam hiện nay là 1 – 3m 3/ha/năm, đối với rừng
trồng có thể đạt 5 – 10 m3/ha/năm (Castren, 1999).
Ngoài tài nguyên gỗ, rừng Việt Nam cũng rất giàu có về các loài tre  nứa  (khoảng  40  loài  có  ý
nghĩa  thương  mại  và  khoảng  4  tỷ  cây  tre nứa); Song mây có khoảng 400 loài ; hàng năm
khai thác khoảng 50.000 tấn..
Trong rừng Việt Nam cũng phong phú về các loài dược liệu, hiện đã biết được 3800 loài (Viện
Dược liệu, 2002), trong đó có nhiều loài đã được biết và khai thác phục vụ cho việc chế biến
thuốc. Nhiều loài cây cho chất thơm, tanin, tinh dầu và dầu béo. Ngoài ra, rừng còn cung cấp
nhiều loại sản phẩm quý khác như cánh kiến, nấm, mật ong, hoa lan, thịt thú rừng.
Hiện nay, có rất nhiều loài thực vật quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng cần được bảo vệ như:
cẩm lai (Dalbergia bariaensis), trầm hương (Aquilaria   crassna)   sam   bông   (Amentotaya   
argotenia),   thông   tre (Podocarpus   neriifolius),   gõ   đỏ   (Afzelia   xylocarpa),   trắc   
(Dalbergia cochinchinensis),  giao  xẻ  tua  (Sterospermum  ferebriatum),  gạo  bông  len
(Bombax insigne).
Các loài động vật quý hiếm như: báo gấm (Neophelis nebulosa), voọc quần đùi trắng
(Trachipythecus francoisi delaconri), gà lôi hồng tía (Lophura  diardi),  trĩ  sao  (Rheinartia
ocellata),  chồn  bạc  má  (Megogale personata  geeoffrory),  cu  li  lớn  (Nycticebus  coucang
boddaert),  bò  tót (Bos gaurus), cà tong (Cervus eldi), hổ  (Panthera tigris).
Những nguyên nhân chính làm suy thoái rừng ở Việt Nam
Có thể nêu ra các nguyên nhân chính gây nên sự mất rừng và làm suy thoái rừng ở nước ta là:
- Đốt nương làm rẫy : sống du canh du cư; trong tổng số diện tích rừng bị mất hàng năm thì
khoảng 40 – 50% là do đốt nương làm rẫy. Ở Đắc Lắc trong thời gian từ 1991 – 1996 mất trung
bình 3.000 – 3.500 ha rừng/ năm, trong đó trên 1/2 diện tích rừng bị mất do làm nương rẫy. 
- Chuyển đất có rừng sang đất sản xuất các cây kinh doanh, đặc biệt là phá rừng để trồng các cây
công nghiệp như cà phê ở Tây Nguyên chiếm 40 – 50% diện tích rừng bị mất trong khu vực.
- Khai thác quá mức vượt khả năng phục hồi tự nhiên của rừng.
- Do ảnh hưởng của bom đạn và các chất độc hóa học trong chiến tranh, riêng ở miền Nam đã
phá hủy khoảng 2 triệu ha rừng tự nhiên.
- Do khai thác không có kế hoạch, kỹ thuật khai thác lạc hậu làm lãng phí tài nguyên rừng.
- Do cháy rừng, nhất là các rừng tràm, rừng thông, rừng khộp rụng lá.

 
- Từ năm 2011 - 2015, tỉnh Thừa Thiên - Huế sẽ dành
hơn 452 tỷ đồng để bảo vệ, nuôi tái sinh và trồng mới
hơn 350.000 ha rừng.
 
UBND tỉnh vừa ban hành Quyết định 744/QĐ-UBND ngày 4/4/2011 phê duyệt kế hoạch Bảo vệ
và Phát triển rừng tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2011 - 2015, với tổng vốn đầu tư là 452,8 tỷ
đồng nhằm bảo vệ, nuôi tái sinh và trồng mới hơn 350.000 ha.
 
 
Trong đó: ngân sách nhà nước: 117 tỷ đồng, vốn doanh nghiệp: 3,7 tỷ đồng, vốn vay tín dụng:
116,8 tỷ và vốn tự có: 215,2 tỷ đồng.
Theo đó chỉ tiêu chung về quản lý bảo vệ và phát  triển  rừng giai đoạn 2011- 2015 sẽ có 305.588
ha rừng (gồm: rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng sản xuất) hiện có được bảo vệ, 29.987 ha
rừng được khoanh nuôi tái sinh, 22.500  ha rừng được trồng mới và trồng lại.
 

Một góc rừng ở huyện Phú Lộc (chụp giữa năm 2010)


 
Kế hoạch cũng đã đưa ra các chỉ tiêu về khai thác rừng, chế biến lâm sản, đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng lâm nghiệp như: xây dựng vườn ươm, làm đường lâm nghiệp, xây dựng đường ranh cản
lửa, xây dựng trạm quản lý bảo vệ rừng...
Để đạt được các chỉ tiêu nói trên kế hoạch cũng quy định rõ các giải pháp thực hiện như: tổ chức
quản lý và tổ chức sản xuất; Giao rừng, giao đất lâm nghiệp; Giải pháp về khoa học và công
nghệ, đào tạo và khuyến lâm...
Tác giả bài viết: Đại Dương

Dự án trồng mới 5tr hecta rừng


Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng là một chương trình kinh tế - xã hội - sinh thái trọng điểm của
Nhà nước Việt Nam theo đó sẽ trồng mới 5 triệu hecta rừng và bảo vệ diện tích rừng hiện có
trong thời kỳ từ năm 1998 đến năm 2010 nhằm nâng cao độ che phủ của rừng Việt Nam lên mức
43% vào năm 2010. Dự án được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn bằng Nghị quyết số
08/1997/QH10 và được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam chỉ đạo thực hiện bằng Quyết định số
661/QĐ - TT ngày 29/7/1998. Dự án, vì thế, hay được gọi tắt là Dự án 661.
Khái quát
Dự án được Chính phủ Việt Nam giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Việt Nam)
làm chủ dự án.
Dự án bao gồm 2 hợp phần chính:
 Bảo vệ rừng hiện có và trồng mới 2 triệu hecta rừng đặc dụng, phòng hộ.
 Sử dụng hợp lý rừng hiện có và trồng mới 3 triệu hecta rừng sản xuất.
Dự án được xây dựng và triển khai nhằm:
 Góp phần đảm bảo an ninh môi trường, giảm nhẹ thiên tai, tăng khả năng sinh thủy, bảo
tồn nguồn gen và tính đa dạng sinh học.
 Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, góp phần xóa đói, giảm nghèo, định canh,
định cư, tăng thu nhập cho dân cư sống ở nông thôn miền núi, ổn định chính trị, xã hội,
quốc phòng, an ninh, nhất là ở vùng biên giới.
 Đưa lâm nghiệp trở thành một ngành kinh tế quan trọng, góp phần phát triển kinh tế - xã
hội miền núi.
Dự án được triển khai qua ba giai đoạn:
 Giai đoạn 1998-2000: trồng mới 70 vạn hecta;
 Giai đoạn 2001-2005: trồng mới 1,3 triệu hecta, khoanh nuôi tái sinh kết hợp trồng bổ
sung 65 vạn hecta;
 Giai đoạn 2006-2010: trồng mới 2 triệu hecta.
Tổng vốn đầu tư dự kiến là 31.650 tỷ đồng.
Thành quả
So với Chương trình 327 vốn được coi là tiền thân của Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng thì dự án
này tuy có nhiều tồn tại, khuyết điểm nhưng được đánh giá là có những thành tích đáng ghi nhận.
Theo báo cáo tổng kết giai đoạn 1 (1998-2005), sau 8 năm thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha
rừng, cả nước đã trồng được 1.424.135 ha rừng [cần  dẫn  nguồn], tuy chỉ đạt 28,5% so với mục tiêu đề
ra nhưng dự án đã góp phần nâng độ che phủ của rừng ở Việt Nam lên 36,7%( tăng 3,5 % so với
năm 1999). Việt Nam cũng được đánh giá là rất cố gắng trong công tác trồng rừng và là một
trong 10 nước có diện tích rừng trồng lớn nhất thế giới. Đây là một bước tiến quan trọng vì
những năm trước khi có dự án thì diễn biến độ che phủ của rừng ở Việt Nam luôn là mũi tên đi
xuống.
Những tồn tại
Sau khi hoàn thành giai đoạn thứ hai, có ý kiến cho rằng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn đã không có sự bố trí hợp lý, kết hợp với các biện pháp lâm sinh phù hợp từng loại rừng
trồng. Dự án được tiến hành ở vùng trung du là chính, trong khi vùng núi cao là nơi dân cư có
điều kiện kinh tế xã hội khó khăn hơn thì dự án ít được tiến hành hơn. Diện tích rừng trồng mới
tuy có tăng, nhưng không bằng kế hoạch và chất lượng lại thấp.[1] Thêm vào đó, việc phân bổ
kinh phí dự án có nhiều sai phạm, đặc biệt là chi sau nội dung đầu tư. Bản thân các định mức chi
tiêu áp dụng cho dự án do Chính phủ đặt ra cũng có những điểm không hợp lý. Số tiền vốn được
Kiểm toán Nhà nước kết luận là sử dụng lãng phí, thất thoát lên tới 31 tỷ đồng.[2]
Theo báo cáo của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trình bày trước Quốc hội
ngày 23/11/2006 thì sau gần 9 năm thực hiện (1998-2005) , cả nước mới chỉ trồng thêm hơn 1,4
triệu ha rừng, so với mục tiêu đề ra chỉ đạt khoảng 28,5% trong khi đó đã mất hết ¾ thời gian vì
vậy có nhiều ý kiến cho rằng dự án sẽ không thể hoàn thành chỉ tiêu đề ra như Quốc hội đã thông
qua và có nhiều vấn đề đặt ra trong đó nặng nề nhất là một số địa phương đã chỉ còn cái tên trên
giấy[3]. Có đại biểu Quốc hội khi chất vấn đã đánh giá dự án là Vứt tiền vào vũ trụ[4]

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng: Nâng cao
nhận thức bảo vệ và phát triển rừng trong toàn dân là
nhiệm vụ quan trọng để phát triển đất nước
Ngày 27/4, tại Trụ sở Chính phủ, Phó Thủ tướng Thường trực Chính
phủ Nguyễn Sinh Hùng đã chủ trì Hội nghị trực tuyến tổng kết Dự án
trồng mới 5 triệu ha rừng với các địa phương trong cả nước.  Phó Thủ
tướng đánh giá: Mặc dù chưa đạt mục tiêu đề ra nhưng Dự án trồng
mới 5 triệu ha rừng đã góp phần làm tăng tỷ lệ che phủ rừng, môi
trường sinh thái được cải thiện, tạo việc làm cho hàng triệu lao động,
nâng cao đời sống cho nhân dân tại những địa phương có rừng, tạo
vùng nguyên liệu, xây dựng được nhiều mô hình sản xuất, bảo vệ và
phát triển rừng. Song vẫn còn những bất cập, tồn tại như tỷ lệ che phủ
rừng thấp, chất lượng các loại rừng chưa cao, diện tích đất trống đồi
núi trọc còn nhiều nên chưa đảm bảo việc bảo vệ môi trường, chất lượng nguồn nước, phòng hộ đầu nguồn, ven biển
cũng như phòng tránh thiên tai. Công tác quản lý nhà nước về rừng như quy hoạch, giao đất rừng, tổ chức mô hình
sản xuất và bảo vệ rừng, công tác thanh tra kiểm tra và ban hành những chính sách cần thiết để khuyến khích trồng
rừng, bảo vệ rừng.... còn nhiều hạn chế. Việc huy động nguồn lực và đảm bảo nguồn lực để quản lý Nhà nước về
rừng chưa đảm bảo...      

You might also like