You are on page 1of 6

NGUYÊN NHÂN GÂY SUY GIẢM ĐA DẠNG SINH HỌC

1. Chặt phá rừng, cháy rừng làm diện tích rừng giảm

 Rừng đóng vai trò vô cùng quan trọng và không thể thiếu đối với cuộc sống, sự phát triển bền
vững của con người và hệ sinh thái: cân bằng lượng khí O2 và CO2, phòng chống thiên tai, tăng
độ phì nhiêu cho đất,... đặc biệt là bảo vệ và bảo tồn sự đa dạng sinh học.

+ Hiện nay, nạn chặt phá rừng bừa bãi với


mục đích chăn thả gia súc, khai thác gỗ và
các sản phẩm rừng, phá rừng để trồng cây
công nghiệp và cây đặc sản,...

+ Các vụ cháy rừng xảy ra nhiều

→ Suy giảm diện tích rừng, làm mất nơi cư


trú, nguồn thức ăn của nhiều loài sinh vật, một số loài sinh vật có nguy cơ bị tuyệt chủng, gây ra suy
giảm đa dạng sinh học.

2. Khai thác và sử dụng không bền vững tài nguyên sinh học

 Săn bắt và buôn bán các loài động vật quí hiếm quá mức dẫn đến cạn
kiệt tài nguyên động vật rừng. Các loài động vật quí hiếm như Hổ, Voi,
Gấu, Tê tê, Công, Gà lôi... có số lượng ngày càng ít dần, nhiều loài có
nguy cơ tuyệt chủng.
 Khai thác gỗ và các sản phẩm ngoài gỗ thiếu kế hoạch, thiếu kiểm soát
làm cạn kiệt nguồn tài nguyên.
 Khai thác thuỷ sản quá mức, sử dụng các
phương tiện đánh bắt không được chọn lọc
như thả lưới có mắt nhỏ, dùng chất nổ đã
huỷ diệt hệ sinh thái sinh vật dưới nước,
suy giảm đa dạng sinh học.

3. Sự xâm nhập của các loài sinh vật ngoại lai

- Sinh vật ngoại lai là loài sinh vật được mang đến từ một vùng nằm ngoài vùng phân bố tự nhiên
của chúng. Sinh vật ngoại lai là một phần của thế giới sinh vật.
- Đối với hệ sinh thái dưới nước, các loài cá ngoại lai có nhiều đóng góp cho thủy vực như:

Làm hơn đa dạng về thành phần loài cá

Kiểm soát sự phát triển quá mức của các loài địa phương

Là thành phần không thể thiếu của các hoạt động giải trí như câu cá và hệ thống bể cá, thủy cung.

- Nhóm sinh vật ngoại lai xâm lấn mang tới ảnh hưởng phá hủy nặng nề môi trường sống. Đây là
loài sau khi xâm nhập vào môi trường mới sẽ mở rộng phạm vi phân bố vào vùng địa lý mới và
trở thành loài xâm lấn.
Các tác động của loài sinh vật ngoại lai xâm hại gây ra đối với môi trường sống rất đa dạng nhưng có
thể gộp chung thành 4 nhóm:

+ Cạnh tranh với các loài bản địa về thức ăn, nơi sinh sống

+ Ăn thịt các loài bản địa

+ Phá hủy hoặc làm thoái hóa môi trường sống bản địa

+ Truyền bệnh và ký sinh trên các loài bản địa

Một số sinh vật ngoại lai xâm hại đến thành phần loài cá ở Việt Nam

Ốc Bươu Vàng (Pomacea canaliculata)


Ốc bươu vàng là một trong 100 loài sinh vật ngoại lai xâm hại gây tổn thất lớn nhất trên thế giới.

Bèo Lục Bình (Eichhornia crassipes)


Hoa lục bình, hình ảnh quen thuộc của mọi miền
sông nước ở Việt Nam (nguồn Hóa Tươi Văn
Nam)

Sinh sôi nhanh làm lượng bèo xuất hiện trên mặt
nước ngày càng nhiều làm cho các mức độ hòa
tan Oxy trong nước giảm dẫn đến làm cá và các
loài sinh vật khác trong nước chết đi.

Cá lau kiếng/ Cá lau kính/ Cá dọn bể (Hypostomus punctatus)

Loài cá không còn xa lạ với người dân


Việt Nam (ảnh: Đỗ Thanh Trọng)

Là nguyên nhân chính dẫn đến làm giảm


lượng thức ăn tự nhiên trong ao (tảo, thực
vật phù du và vật chất lơ lửng trong
nước), đe dọa làm tuyệt chủng các giống
loài bản địa bởi ăn luôn trứng của cá loài
này do khả năng thích ứng với môi
trường tự nhiên tốt và là loài ăn tạp.
Ngoài ra còn làm hư hỏng ngư cụ của
người dân đánh bắt gây thiệt hại về kinh tế.

Rùa tai đỏ (Trachemys scripta elegans)

Là loài động vật ăn tạp, hung dữ, chúng ăn tất cả các


loài cá bé hơn chúng và tấn công các loài động vật
thủy sinh. Chúng được xếp hạng gần cuối trong số
206 động vật xâm hại môi trường. Khi thoát ra môi
trường chúng sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
cân bằng sinh thái bản địa do khả năng tàn phá của
mình.

Tôm hùm đất (Procambarus clarkii)


Tôm hùm đất bị cấm nuôi, kinh doanh tại Việt Nam.
Ảnh: Trung Dũng

Là vật chủ lây truyền, phát tán nhiều loại bệnh dịch
ra môi trường, cạnh tranh thức ăn, tiêu diệt loài tôm,
cá bản địa.

Tuy nhiên không phải loài sinh vật ngoại lai nào cũng gây hại, có rất nhiều sinh vật ngoại lai mang lại
giá trị kinh tế rất cao. Nổi bật nhất ở Việt Nam là tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) có
nguồn gốc từ Nam Mỹ, sau khi được du nhập đến Việt Nam vào khoảng những năm 2000 thì giống
tôm này đã nhanh chóng thay thế vị trí số một về sản lượng nuôi của loài tôm sú có nguồn gốc bản
địa (Penaeus monodon). Ưu thế của tôm thẻ chân trắng là sức tăng trưởng vượt trội, thích nghi tốt với
nhiều nồng độ muối khác nhau, khả năng chống chịu với một số bệnh tật như bệnh do virus đốm
trắng, virus đầu vàng, cũng như sự thành công trong việc nuôi gia hóa, khép kín vòng đời để tạo được
nguồn tôm bố mẹ và tôm giống sạch bệnh. Theo thống kê của Hiệp hội Chế Biến và Xuất Khẩu Thủy
Sản Việt Nam, ngành công nghiệp tôm thẻ chân trắng luôn chiếm vai trò chủ chốt, không ngừng gia
tăng về tỉ trọng trong cơ cấu xuất khẩu tôm từ năm 2013 cho đến nay.

4. Ô nhiễm môi trường

- Lạm dụng sử dụng thuốc trừ sâu, hóa chất trong sản xuất
nông nghiệp
- Ô nhiễm do các chất thải của nhà máy, chất thải sinh hoạt
thải ra môi trường
- Ô nhiễm gây ra bởi các nhà máy, ô tô,....
- Trầm tích lắng đọng

→ Mất cân bằng hệ sinh thái, làm giảm số lượng cá thể sinh
vật, hủy hoại nơi cư trú của nhiều loài sinh vật

5. Thiên tai và biến đổi khí hậu

- Khi các thảm họa thiên tai xảy ra, đặc biệt là
hiện tượng sa mạc hóa, ngập mặn và nước
trên các đại dương ngày càng ấm hơn →
nhiều loài không thể thích ứng kịp thời với
những biến đổi đó →đẩy nhiều loài sinh vật tới tình trạng bị đe dọa,
suy giảm số lượng hoặc tuyệt chủng. Chẳng hạn, tại các khu vực ven
biển, khi nước biển dâng cao, cây sẽ chết vì ngập mặn, diện tích hệ
thống rừng ngập mặn đóng vai trò là lá chắn của vùng sẽ giảm. Do đó, các loài sinh vật khác
trong hệ sinh thái rừng ngập mặn sẽ bị đe dọa.
- Thiên tai và BĐKH làm thay đổi vùng phân bố và cấu trúc quần xã sinh vật của nhiều hệ sinh
thái, nhất là trong các hệ sinh thái ven biển →các loài nhiệt đới sẽ giảm đi và có xu hướng
chuyển dịch lên các đới và vĩ độ cao hơn.
- Nhiệt độ tăng làm gia tăng khả năng cháy rừng, nhất là các khu rừng
trên đất than bùn → vừa gây thiệt hại tài nguyên sinh vật, vừa tăng
lượng phát thải khí nhà kính và làm gia tăng BĐKH →dẫn tới sự
nhiễu loạn của nhiều hệ sinh thái, sự xâm lấn của các sinh vật lạ và
sinh vật biến đổi gen và vấn đề an ninh môi trường, an ninh sinh thái
càng trở nên cấp bách hơn.

You might also like