You are on page 1of 13

Đề tài 4.

Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay.
A. MỞ ĐẦU
Nhà nước pháp quyền là một hiện tượng chính trị – pháp lý phức tạp.
Được hiểu và nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau. Hiểu đơn giản nhà
nước pháp quyền là một nhà nước quản lý kinh tế – xã hội bằng pháp
luật. Nhà nước hoạt động tuân theo pháp luật.

Ở Việt Nam, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa là sự thống nhất giữa tính phổ quát và tính đặc thù, là Nhà
nước dân chủ và bảo đảm thực thi dân chủ; quyền con người và quyền
công dân được tôn trọng, quyền lợi gắn với kỷ cương, trách nhiệm.
Đối với Việt Nam ,vấn đề xây dựng nhà nước pháo quyền đang được đặt
ra như một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan. Tính tất yếu khách
quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền của Việt Nam xuất phát từ
định hướng xã hội chủ nghĩa và mục tiêu cơ bản là xây dựng một chế độ
xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng ,dân chủ, văn minh.

Làm rõ quan điểm mà Đảng ta đã đưa ra tại đại hội X của đảng về xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam với
tư cách một nhiệm vụ, chiến lược quan trọng trong thời kì đổi mới toàn
diện đất nước.
Nhận thấy rõ độ quan trọng của đề nên em chọn đề tài “Xây dựng và
hoàn thiện NHà nước pháp quyền xhcnvn” làm bài tiểu luận của mình.
Để có thể nhận thức một cách rõ nét hơn về nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở VN.
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Quan niệm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 155
Quan điểm, tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (qdnd.vn)
Theo quan niệm chung, nhà nước pháp quyền là nhà nước thượng tôn pháp
luật, nhà nước hướng tới những vấn đề về phúc lợi cho mọi người tạo điều
kiện cho cá nhân được tự do bình đẳng phát huy hết năng lực của chính mình.
Trong hoạt động của nhà nước pháp quyền các cơ quan của nhà nước được
phân quyền rõ ràng và được mọi người chấp nhận trên nguyên tắc bình đẳng
của các thế lực giai cấp và tầng lớp trong xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, cách tiếp cận và những đặc trưng về nhà nước pháp
quyền vẫn có những cách hiểu khác nhau. Song từ những cách tiếp cận đó nhà
nước pháp quyền được hiểu là một kiểu nhà nước mà ở đó tất cả mọi công
dân đều được giáo dục pháp luật và phải hiểu biết pháp luật tuân thủ pháp
luật pháp luật phải đảm bảo tính nghiêm minh trong hoạt động của các cơ
quan nhà nước phải có sự phân công phối hợp, kiểm soát lẫn nhau tất cả vì
mục tiêu phục vụ nhân dân.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
Đảng cộng sản Việt Nam đã đưa ra những nội dung khái quát về xây dựng nhà
nước pháp quyền đề cao vai trò tối thượng của hiến pháp và pháp luật đề cao
quyền lợi và nghĩa vụ của công dân đảm bảo quyền con người tổ chức bộ máy
vừa đảm bảo tập trung thống nhất vừa có sự phân công giữa các nhánh quyền
lực phân cấp quyền hạn và trách nhiệm giữa các cấp chính quyền nhằm đảm
bảo quyền dân chủ của nhân dân tránh lạm quyền.
Nhà nước có mối quan hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân tôn trọng và
lắng nghe ý kiến của nhân dân chịu sự giám sát của nhân dân. Có cơ chế và
biện pháp kiểm soát ngăn ngừa và trừng trị quan liêu tham nhũng lộng quyền
vô trách nhiệm xâm phạm quyền dân chủ của công dân. Tổ chức và hoạt động
của bộ máy quản lý nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ thống nhất
quyền lực có phân công phân cấp đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất
của Trung ương.

Theo tiến trình của công cuộc đổi mới đất nước, nhận thức của Đảng ta về Nhà
nước pháp quyền ngay cùng sáng tỏ. Với chủ trương: “Xây dựng Nhà nước
pháp Việt Nam của dân, do dân, vì dân”, Đảng ta đã xác định Nhà nước quản lý
xã hội bằng pháp luật, mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân
có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Nhận thức đó là tiền đề để Đại
hội XII của Đảng làm rõ hơn về Nhà nước phán quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp”. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm
soát quyền lực nhà nước” là tạo điều kiện nhằm phát huy vai trò, chức năng
của mỗi cơ quan để thực hiện quyền lực thuộc về nhân dân chứ không phải
phân chia quyền lực.
Tinh thần về: Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân…; quyền lực nhà nước là
thống nhất... là những đặc trưng cơ bản thuộc bản chất Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam. Quan điểm này được hiến định trong Hiến pháp năm
2013. Với sự hiến định trong Hiến pháp, cho thấy quan điểm về bản chất Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam vừa thể hiện được sự bổ sung, phát triển
mới, vừa nâng tầm cao về tính pháp lý của quan điểm này.

2) Đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Tư tưởng pháp quyền này đã xuyên suốt tổ chức và hoạt động của Nhà nước
Việt Nam độc lập, tự do, dân chủ. Thực tiễn đổi mới trong những năm qua đã
khẳng định yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng như một xu thế tất yếu, khách quan, mang tính quy
luật của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả
các nước trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Nhìn chung lí
luận về nhà nước pháp quyền là hệ thống các quan điểm tư tưởng rất phức
tạp, phong phú và có cách tiếp cận khác nhau .Từ thực tiễn nhận thức và xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới,
có thể thấy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có một số đặc
điểm cơ bản như sau:

Thứ nhất, xây dựng nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, đó là Nhà nước
của dân, do dân, vì dân.
Thứ hai, Nhà nước được tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở của Hiến pháp và
pháp luật. Trong tất cả các hoạt động của xã hội, pháp luật được đặt ở vị trí tối
thượng để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đây không phải là một yêu cầu chủ
quan, duy ý chí mà xuất phát từ chính bản thân các đạo luật, là sự phản ánh ý
chí, nguyện vọng của Nhân dân nên nó cần được khẳng định và ghi nhận là
nguồn cơ bản và hàng đầu của các văn bản quy phạm pháp luật. Yêu cầu này
đặt ra một số vấn đề như sau:
+ Tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tổ chức và hoạt động theo quy định
của các đạo luật;
+ Việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật phải trên cơ sở văn bản
luật; nội dung của văn bản hướng dẫn không được trái với văn bản luật;
+ Xác lập và tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát đối với hoạt động tuân thủ
pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân;
+ Có biện pháp hữu hiệu bảo đảm việc thực thi các văn bản luật.
Thượng tôn Hiến pháp, pháp luật cũng là thượng tôn các quyền con người,
quyền công dân.

Thứ ba, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rõ ràng, có cơ chế
phối hợp nhịp nhàng và kiểm soát giữa các cơ quan: lập pháp, hành pháp và tư
pháp tương ứng trong mối quan hệ cân bằng, đối trọng, chế ước, kiểm soát lẫn
nhau, tạo thành cơ chế đồng bộ bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà
nước, thực hiện quyền lực nhân dân.

Thứ tư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo, phù hợp với Điều 4 Hiến pháp năm 2013. Hoạt động
của Nhà nước được giám sát bởi nhân dân với phương châm: “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” thông qua các tổ chức, các cá nhân được nhân dân
ủy nhiệm.

Thứ năm, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tôn trọng quyền
con người, coi con người là chủ thể, là trung tâm của sự phát triển. Nhà nước
có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người,
quyền công dân cùng sự tự do, các lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người.
Quyền dân chủ của nhân dân được thực hành một cách rộng rãi; “nhân dân có
quyền bầu và bãi miễn những đại biểu không xứng đáng”; đồng thời tăng
cường thực hiện sự nghiêm minh của pháp luật.
Thứ sáu, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, có sự phân công, phân cấp, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau, nhưng
bảo đảm quyền lực là thống nhất và sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
Tính chất và cách thức phân công, kiểm soát quyền lực nhà nước rất đa dạng,
tuỳ thuộc vào chính thể nhà nước ở các nước khác nhau, nhưng đều có điểm
chung là quyền lực nhà nước không thể tập trung vào một người, vào một cơ
quan, mà phải được phân công (phân chia) giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Đồng thời,
việc tổ chức và thực thi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ với các cơ chế
kiểm soát quyền lực cụ thể kể cả bên trong bộ máy nhà nước và bên ngoài bộ
máy nhà nước.

Như vậy, những đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Việt
Nam đang xây dựng đã thể hiện được các tinh thần cơ bản của một nhà nước
pháp quyền nói chung. Bên cạnh đó, nó còn thể hiện sự khác biệt so với các
nhà nước pháp quyền khác. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
mang bản chất giai cấp công nhân, phục vụ lợi ích cho nhân dân; nhà nước là
công cụ là chủ yếu để Đảng Cộng sản Việt nam định hướng đi lên chủ nghĩa xã
hội.

II. Vận dụng


1. Tình hình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong thời gian qua
Sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta được tiến hành trong
những điều kiện thuận lợi. Song vẫn có những khó khăn và hạn chế rất
lớn.
- Thành tựu và nguyên nhân Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt
Nam, HAY (slideshare.net)
Sau hơn 25 năm VN đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp phần
quan trọng vào việc thực hiện các chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN dưới sự lãnh đạo của nhà nước pháp quyền, chúng ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng.
Sau bao nhiêu năm đổi mới pháp luật trở thành công cụ quản lý chủ yếu của
nhà nước. Chính vì vậy XHCN ngày càng được phát triển và được mở rộng tạo
điều kiện cho nhân dân dễ tiếp xúc với nó. Phương châm “Dân biết, dân bàn,
dân làm,dân kiểm tra” từng bước đã được xác định trong thực tế. Đó là các
nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với các cơ chế bảo đảm cho
quyền lực nhà nước luôn luôn nằm trong quỹ đạo phục vụ nhân dân
Thành tựu nổi bật nhất được kể đến là hoạt động lập pháp của Quốc hội và Ủy
ban Thường vụ Quốc hội. Người dân được tiếp cận qua nhiều kênh thông tin
khác nhau tạo cơ hội lựa chọn các dịch vụ pháp lý tốt hơn so với trước.
Các văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng được phần nào các tiêu chí, tố chất :
thể hiện đúng đắn ý chí và tham vọng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động => tư duy lập pháp mới đảm bảo được sự phát triển cân đối đồng bộ giữa
thể chế về kinh tế chính trị xã hội, phù hợp với yêu cầu phát triển của nhà
nước.
Dưới góc độ chính trị - pháp lý những thành tựu cơ bản của Đảng ta trong xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN :
Nguyên tắc bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực
hiện quyền lực nhà nước từ phía nhân dân; Nguyên tắc Đảng lãnh đạo xây
dựng Nhà nước pháp quyền… Những nguyên tắc này không chỉ dừng ở những
chủ trương chính trị mà đã được thể chế trong Hiến pháp năm 2013- Đạo luật
gốc, đạo luật cơ bản nhất của Nhà nước. Điều này, đòi hỏi trong quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN phải không ngừng quán triệt, vận dụng và
hiện thực hóa những nguyên tắc hiến định.
Hai là,  xác định rõ hơn vị trí, vai trò và chức năng của Nhà nước. Nhà nước
pháp quyền là Nhà nước đề cao vai trò của pháp luật, tính độc lập của cơ quan
xét xử, hoạt động của Nhà nước vì con người và bảo vệ quyền con người,
quyền công dân. Nhận thức rõ những giá trị này, trong lãnh đạo xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ vị trí, vai trò
của Nhà nước là trụ cột, trung tâm của hệ thống chính trị, chuyển mạnh chức
năng của Nhà nước theo hướng phục vụ nhân dân.
Theo đó, một mặt, Đảng ta đã lãnh đạo phát huy tối đa vai trò trung tâm của
Nhà nước trong quản lý kinh tế - xã hội, đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt
động của các bộ phận quyền lực nhà nước - từ lập pháp, hành pháp, tư pháp,
phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế. Nhà nước từ chỗ là người trực tiếp
điều hành sản xuất kinh doanh, phân phối, sang là người có vai trò định hướng,
điều tiết, phối hợp, hướng dẫn một cách có kế hoạch nền kinh tế thị trường.
Nhà nước đang trở thành người bảo trợ, xúc tác, tạo lập môi trường, huy động
các nguồn lực và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế, ngăn chặn, hạn chế
những mặt tiêu cực và khuyết tật của kinh tế thị trường, bảo đảm công bằng xã
hội, bảo vệ lợi ích của nhân dân.
Mặt khác, quá trình xã hội hóa đang được đẩy nhanh, từng bước loại bỏ dần
sự can thiệp của Nhà nước vào những lĩnh vực quan hệ xã hội mà tính chất của
chúng không đòi hỏi sự can thiệp ấy, tăng cường vai trò và khả năng độc lập
của các thiết chế chính trị - xã hội theo hướng tạo ra những chủ thể bình đẳng
và có tư cách kiểm soát hoạt động của Nhà nước.
Ba là,  công tác phòng ngừa và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng đạt
được nhiều kết quả đáng mong đợi . Với chế độ chính trị nhất nguyên thì quan
liêu, tham nhũng là một nguy cơ hiện thực, đe dọa nền dân chủ. Vì vậy, phòng
ngừa và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, làm trong sạch bộ máy của
Đảng và Nhà nước là một nhiệm vụ tất yếu được đặt ra. Trong thực tế, nhiệm
vụ nói trên đã được triển khai thường xuyên và đạt được những kết quả nhất
định. Các văn kiện của Đảng từ Đại hội IX đến nay đều đánh giá ” trong nhiều
năm qua, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được coi trọng. Những biểu
hiện suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã giảm
khá nhiều và đang tiếp tục được cảnh tỉnh, răn đe; một số nơi tham nhũng,
quan liêu, lãng phí, trong đó có không ít vụ việc tồn đọng kéo dài nhiều năm,
đã được tiếp tục giải quyết…”
Bốn là,  Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vững được vai trò lãnh đạo Nhà nước và
xã hội, từng bước tìm tòi và dẫn dắt quá trình nhận thức cũng như quá trình
thể chế hóa các quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền XHCN trên cả
phương diện chính trị và pháp lý.

- Hạn chế và nguyên nhân


Những khó khăn trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền - [Cập nhật
09/2022] (luatquanghuy.edu.vn)
Trong Hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã hun đúc nên nhiều
truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, như truyền thống đoàn kết dân
tộc, truyền thống yêu nước thương nòi, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau.. Việt
Nam là đất nước đã trải qua hàng ngàn năm chế độ phong kiến, gần 100 năm
dưới chế độ thuộc địa, lại tập trung vào cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và
đang trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
 Vì vậy, tư tưởng phong kiến còn ảnh hưởng rất sâu đậm trong xã hội
cũng như nhận thức, kinh nghiệm xây dựng hệ thống pháp luật và quản
lý xã hội theo pháp luật của nước ta còn nhiều yếu kém. Một đặc điểm
quan trọng trong điều hành xã hội ở nước ta là sự tồn tại song hành trên
thực tế một dạng thức kép giữa những nguyên tắc quản lý xã hội được
ghi thành văn bản với những nguyên tắc được quy ước và công nhận
không thành văn bản.
Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Mội số
vấn đề xã hội gay gắt nhưng chậm được giải quyết. CÁc cơ chế chính sách còn
chưa đồng bộ. Còn tồn tại tình trạng suy thoái của 1 số cán bộ, tình trạng tham
nhũng ở một bộ phận không nhỏ ở các cán bộ và đảng viên. Đây là một trong
số những vấn đề nghiêm trọng cần giải quyết nhanh chóng.
Bộ máy nhà nước còn cồng kềnh chất lượng hoạt động hiệu quả thấp . Các
nguyên tắc tổ chức, hoạt động của nhà nước pháp quyền chưa nhận thức được
sâu sắc dẫn đến sự lúng túng trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước
Các chức năng nhiệm vụ của các cơ quan ,những người đứng đầu chưa được
phân công rõ ràng, còn chồng chéo nhau, bất hợp lí. Không những vậy đội ngũ
cán bộ còn hạn chế về mặt năng lực chuyên môn và tinh thần trách
nhiệm.không biết tận dụng nhân tài, làm chảy máu chất xám Dẫn tới nguy cơ bị
tụt hậu

2. Các yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
giai đoạn mới
Những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đối với việc đổi mới
mô hình bộ máy nhà nước (luatminhkhue.vn)

 Trong đó có các yêu cầu: Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
Nhà nước; xác định rõ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp dựa trên cơ sở nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực Nhà nước là
thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm
soát quyền lực. Yêu cầu tiếp theo là xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp
thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định với quyền và
lợi ích hợp pháp chính đáng của người dân và doanh nghiệp làm trọng tâm,
thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh và bền vững.

Trong quá trình đổi mới mô hình tổ chức bộ máy nhà nước phải xuất phát từ
các yêu cầu sau:
Một là, bộ máy nhà nước phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật.
để đổi mới bộ máy nhà nước phải xem xét đến khả năng sửa đổi Hiến pháp và
các đạo luật về tổ chức bộ máy theo đúng các giá trị và tiêu chuẩn của chế độ
pháp quyền dân chủ. luật pháp phải là khách quan đối với Nhà nước, là yếu tố
cơ bản quy định tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
quy định chặt chẽ và rành mạch mối quan hệ quyền lực giữa các cơ quan  lập
pháp, hành pháp và tư pháp trong quá trình thực hiện quyền lực được nhân
dân uỷ quyền. Các mối quan hệ này được nảy sinh trên cơ sở Hiến pháp và các
đạo luật và chỉ có thể điều chỉnh bởi Hiến pháp và các đạo luật. 
Hai là, bộ máy nhà nước phải được tổ chức và hoạt động đúng với quan điểm:
“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp và kiểm soát lẫn
nhau giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền
tư pháp”.
Sở dĩ quyền lực nhà nước có được hiệu lực vì nó luôn là một hệ thống. Dù ở
trong bất cứ mô hình tổ chức nhà nước nào, tự bản thân nó luôn bao hàm sự
thống nhất. Nếu thiếu tính thống nhất quyền lực là mất hiệu lực. Chính sự
phân công, phối hợp giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là sự phân
công giữa ba bộ phận của một hệ thống tồn tại dưới dạng một chính thể các
quan hệ quyền lực. Do vậy, khi xác định tính thống nhất của quyền lực nhà
nước và sự phân công, phối hợp giữa ba quyền, cần phải đặt ba quyền này
trong một thể thống nhất của hệ thống với việc xác định rõ địa vị pháp lý của
từng thiết chế quyền lực thực hiện các quyền. 
Sự “phân công rành mạch ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ” phải là yếu
tố nền tảng quy định rõ thẩm quyền và tổ chức của cơ quan lập pháp, hành
pháp và tư pháp, đồng thời là cơ sở để xác lập tính độc lập tương đối của mỗi
một nhánh quyền lực trong mối quan hệ tương tác với nhau.
Tuy nhiên, chỉ sự “phân công, phối hợp” giữa các cơ quan thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp cũng không thể đưa lại một bộ máy nhà nước
hoạt động hiệu quả và hiệu lực, nếu không tạo lập được một cơ chế kiểm soát
quyền lực một cách thực tế ngay từ các quan hệ quyền lực bên trong của bộ
máy nhà nước khi thực hiện “quyền lực nhà nước thống nhất”.

3. Những phương hướng cơ bản xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Phương thức xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt nam hiện nay ?
(luatminhkhue.vn)
Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay được tiến hành
theo phương hướng: “Tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, xây dựng bộ mảy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh; hoàn thiện
hệ thống pháp luật, đẩy mạnh cải cách hành chỉnh, cải cách tư pháp, xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ”)
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: 5
yêu cầu cơ bản để xây dựng nền hành chính phục vụ (moha.gov.vn)
Để nâng cao tính phục vụ, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa  Việt Nam cần tập trung vào những nội dung cơ
bản sau:
- Phải tăng cường tinh giản, gọn nhẹ bộ máy hành chính nhà nước. Để bảo
đảm nhà nước nhất thiết phải thiết kế lại theo hướng tinh giản, gọn nhẹ
nhằm giảm chi tiêu công, năng động, linh hoạt đáp ứng quản trị rủi ro trong
bối cảnh kinh tế - xã hội luôn biến đổi.
Nhà nước cần xác định được việc cần làm, xác định rõ nhiệm vụ của người
đứng đàu cơ quan nhà nước. đảm bảo cho công tác tổ chức, cán bộ được tập
trung, một đầu mối, dễ kiểm soát, khắc phục những sai phạm, tiêu cực.
-Thứ hai, đảm bảo tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong
hoạt động công vụ của cơ quan hành chính nhà nước. Đây là một trong những
yêu cầu vô cùng quan trọng.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức hành chính nhà nước
chuyên nghiệp, có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát
triển đất nước. “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công tác cán bộ là then
chốt của then chốt”, vì thế, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
hành chính nhà nước “vừa hồng, vừa chuyên” là nhiệm vụ thường trực hiện
nay. Đại hộiĐảng lần thứ XIII đã xác định: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát
triển đất nước”; “có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài,
khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phát, dám chịu trách
nhiệm vì lợi ích chung”, từ đó tạo động lực cho đội ngũ cán bộ, công chức thực
sự sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, vì dân, vì nước, vì sự phồn vinh của dân tộc.
Để xây dựng nền hành chính phục vụ cần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức phải chuyên nghiệp, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ và phải có đạo
đức cách mạng, nghĩa là mỗi cán bộ, công chức, viên chức phải thật sự cần
kiệm, liêm chính, chí công vô tư; công khai, minh bạch và thực hiện tốt trách
nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ. Cho nên, Chính phủ cần nghiên cứu
triển khai: đổi mới cơ chế tuyển dụng, sử dụng công chức, viên chức, đảm bảo
tính cạnh tranh công bằng, khách quan trong tuyển dụng, sử dụng; nghiên cứu
triển khai thí điểm chế độ hợp đồng hành chính. Hoàn thiện quy định về xác
định vị trí việc làm của công chức, viên chức làm cơ sở cho việc tuyển dụng, sử
dụng và bổ nhiệm công chức, viên chức; từng bước chuyển dần từ mô hình
hiện hành (mô hình đường chức nghiệp) sang mô hình vị trí việc làm, trước
tiên áp dụng đối với đơn vị sự nghiệp công lập.
Cùng với đó, nghiên cứu, đổi mới phương pháp, quy trình đánh giá phân loại
cán bộ, công chức, viên chức theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch, lượng
hóa các tiêu chí đánh giá theo kết quả đầu ra của công việc và cá biệt hoá trách
nhiệm rõ ràng đối với người đứng đầu trong quá trình đánh giá phân loại cán
bộ, công chức, viên chức và tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm công chức, viên
chức; lấy mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp làm thước đo quan
trọng để đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức. Hoàn thiện các quy
định về quản lý, sử dụng và thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ, công
chức, viên chức; đối với viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động
theo cơ chế tự chủ, nghiên cứu thí điểm áp dụng mô hình 3P (mô hình trả
lương theo vị trí, năng lực và hiệu quả công việc của nhân viên) trong trả lương
cho viên chức. Ngoài ra, cần sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
có cơ cấu về độ tuổi, giới tính, dân tộc, trình độ phù hợp với thực tiễn hoạt
động công vụ. Mỗi ngành, lĩnh vực và địa phương sẽ có những đặc thù trong
hoạt động công vụ, do đó trong quá trình tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm cán
bộ, công chức, viên chức phải có kế hoạch, quy hoạch nguồn cán bộ, công
chức, viên chức, đảm bảo chất lượng tốt, cơ cấu phù hợp, đặc biệt về cơ cấu về
trình độ; ưu tiên trình độ chuyên môn sâu cho bộ phận tác nghiệp, ưu tiên
trình độ rộng, bao quát cho bộ phận quản lý, lãnh đạo chung; cơ cấu về giới
tính, ưu tiên cán bộ nữ, đảm bảo tỷ lệ cán bộ nữ trong cơ quan; cơ cấu về độ
tuổi, đảm bảo sự kế cập giữa các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức theo
nhóm tuổi.
Thứ tư, tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải thiện chế độ, chính sách,
đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục
vụ phát triển. Thực hiện hài hoà giữa khen thưởng, đãi ngộ hấp dẫn, cạnh
tranh và kỷ luật nghiêm minh, kịp thời nhằm thu hút những người có tài, đức
vào làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước, đồng thời sàng lọc, thay
thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, kỷ
luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, không còn uy tín với nhân dân.
Thứ năm, quyết liệt đẩy mạnh xây dựng Chính phủ điện tử, từng bước chuyển
sang Chính phủ số đáp ứng kịp thời quá trình chuyển đổi số quốc gia. Chính
phủ chỉ đạo quyết liệt các bộ ngành, các địa phương triển khai các biện pháp
nhằm xây dựng hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông đồng bộ; hệ
thống cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu ngành, cơ sở dữ liệu địa phương
đồng bộ liên thông; thực hiện phổ biến các dịch công trực tuyến cấp độ 3, 4 và
dịch vụ công quốc gia; giảm tối đa việc giải quyết thủ tục hành chính theo hình
thức thủ công (trừ vùng sâu, vùng xa không đảm bảo về hạ tầng công nghệ
thông tin, viễn thông hoặc những thủ tục hành chính đòi hỏi tính bảo mật cao).
Tóm lại, trong xã hội đương đại, xu hướng chuyển đổi từ mô hình “quản lý”,
“cai trị” sang mô hình “quản trị”, “phục vụ” ngày càng phổ biến trong khu vực
công, phù hợp với yêu cầu dân chủ hoá đời sống kinh tế - xã hội. Vì thế, xây
dựng nền hành chính phục vụ hoàn toàn phù hợp với xu hướng của thời đại để
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân
B. KẾT LUẬN
Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một
quá trình lâu dài. Đây là tư tưởng rất quan trọng, khẳng định bản chất
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là đỉnh cao của nền dân chủ, vì nó thừa
nhận quyền tự do bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là chủ
thể quyền lực

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân của VN là một nhà nước vừa phải thể hiện các giá trị phổ biến
của nhà nước pháp quyền đã được xác định trong lý luận và thực tiễn
của một chế độ dân chủ hiện đại, vừa khẳng định được bản sắc, đặc
điểm của riêng mình

tưởng về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam luôn được Đảng ta quan
tâm, chú trọng hoàn thiện, bổ sung về mặt lý luận và từng bước được
hiện thực hóa trong thực tiễn xây dựng đất nước.
Xuyên suốt thời kỳ đổi mới, tư tưởng của Đảng về Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam là nhất quán và tuân thủ như một nguyên tắc, tính quy luật của quá
trình phát triển đất nước. Khi tiếp cận quan điểm về Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng là hướng tới làm
rõ bản chất cách mạng, khoa học và những bổ sung, phát triển mới, đồng thời
phải cụ thể hóa vào giáo dục, tuyên truyền để nó thâm nhập sâu rộng vào đời
sống tinh thần, hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân. 
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

You might also like