You are on page 1of 60

 : Khóa luận tốt nghiệp

MỞ ĐẦU
Nếu thế kỷ XX được coi là thế kỷ của cuộc cách mạng công nghệ thông tin
thì thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ của công nghệ nano. Công nghệ nano đang phát triển với
một tốc độ bùng nổ và hứa hẹn đem lại nhiều thành tựu cho loài người.
Đối tượng của ngành công nghệ nano là những vật liệu có kích cỡ nanomet
(10-9m). Với kích thước nhỏ như vậy, vật liệu nano có những tính chất vô cùng độc
đáo mà những vật liệu có kích thước lớn hơn không thể có được như hoạt tính xúc
tác cao, các tính chất điện - quang nổi trội,… Chính những tính chất ưu việt này đã
mở ra cho vật liệu nano những ứng dụng vô cùng to lớn trong nhiều lĩnh vực khác
nhau như: công nghệ điện tử - viễn thông, sức khoẻ - y tế, năng lượng và môi
trường [1]. Tuy là một ngành còn non trẻ, song với tốc độ phát triển và những thành
tựu nghiên cứu nổi bật gần đây, công nghệ nano có thể làm thay đổi một cách toàn
diện và sâu sắc mọi mặt trong đời sống.
Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của công nghệ nano và để không bị
tụt hậu so với các nước phát triển, từ năm 2004, nhà nước ta đã coi sự phát triển
công nghệ nano như một mũi nhọn về khoa học công nghệ để phục vụ cho các
ngành khoa học khác. Trong những năm gần đây, công nghệ nano nước ta đã thu
được một số thành tựu bước đầu đáng khích lệ như đã điều chế được các vật liệu
nano TiO2, Cu2O, Ag, các oxit phức hợp,… và đang nghiên cứu để đưa các sản
phẩm này vào ứng dụng trên quy mô công nghiệp [1]. Trong số những vật liệu nano
đó, Ag nano đã và đang thu hút nhiều sự quan tâm nghiên cứu do những ứng dụng
tuyệt vời của nó trong các lĩnh vực như: diệt khuẩn và khử trùng, chất khử mùi, mỹ
phẩm, dệt, chất xúc tác, cảm biến, vật liệu phức hợp nano,... [2 - 4].
Từ lâu, con người đã biết đến tác dụng sát khuẩn mạnh của bạc. Những chén,
bát, thìa nĩa, nồi niêu của người La Mã cổ, của các vua chúa phong kiến và ngay cả
chiếc bi đông nhôm tráng bạc của anh chiến sĩ giải phóng đã chứng minh điều đó.
Tuy nhiên tác dụng này không được ứng dụng rộng rãi vì nếu dùng bạc khối hay
phủ bạc khối cũng là quá đắt. Từ khi công nghệ nano ra đời, việc ứng dụng bạc
trong cuộc sống đã tìm được chỗ đứng của mình. Với cấu trúc nano, các hạt bạc
siêu nhỏ này tương tác dễ dàng với nhau làm tăng hiệu quả kháng khuẩn. Hiệu quả
này lớn tới mức 1 gam hạt nano Ag có thể tạo tính chất kháng khuẩn tới hàng trăm
mét vuông chất nền [5]. Điều này khiến lượng bạc sử dụng trong các ứng dụng
không đáng kể nên giá thành trở nên giảm đi rất nhiều. Thí dụ như để diệt khuẩn
hoàn toàn cho một mét khối nước chỉ cần 10 đến 20 miligam bạc, hay nhựa plastic
làm đồ dùng kháng khuẩn chỉ chứa 100 miligam bạc trong một kilogam vật liệu [6].

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 1


 : Khóa luận tốt nghiệp

Ở nước ta, tỷ lệ tử vong và tỷ lệ mắc các bệnh truyền nhiễm của trẻ em
những năm gần đây đã được giảm hẳn, song các bệnh liên quan tới nước và vệ sinh
môi trường vẫn là vấn đề lớn về sức khỏe. Bệnh tiêu chảy là một trong những
nguyên nhân chính gây ra tình trạng ốm đau trên phạm vi toàn quốc, làm cho
khoảng 250.000 người phải nhập viện mỗi năm. Theo ước tính mới đây, có tới 44%
trẻ em Việt Nam bị nhiễm giun tóc, giun móc và giun đũa. Đó cũng là một phần lý
do tại sao Việt Nam vẫn là một trong những nước có tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em
cao nhất Đông Nam Á. Vấn đề này càng trầm trọng hơn đối với vùng sâu, vùng xa,
vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận định có thể ứng dụng khả năng diệt khuẩn của
nano Ag để giải quyết vấn đề nêu trên. Theo nhiều tài liệu công bố, nano Ag có thể
hạn chế sự phát triển của vi khuẩn, tấn công và phá vỡ màng tế bào của gần 650 loại
vi khuẩn đơn bào gây hại, đặc biệt là 2 chủng Staphylococcus (gây ung thư) và
E.coli (gây tiêu chảy). Trong khi đó, việc nghiên cứu trong nước về vật liệu nano
Ag vẫn chưa mang tính hệ thống. Vì vậy, hướng nghiên cứu chế tạo bạc có kích
thước nano để ứng dụng diệt khuẩn và thăm dò các ứng dụng khác vẫn đang rất cần
thiết.
Với những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu tổng hợp và ứng
dụng của vật liệu nano Ag” với mục tiêu:
 Tổng hợp keo bạc có cấu trúc nano xuất phát từ nguồn nguyên liệu ban đầu
là AgNO3
 Khảo sát đặc trưng, hình dạng và kích thước của nano Ag tổng hợp được
 Đánh giá hiệu quả diệt khuẩn của vật liệu nano Ag và một số ứng dụng
khác

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 2


 : Khóa luận tốt nghiệp

Chương 1. TỔNG QUAN


1.1. Tổng quan về hóa học nano
1.1.1. Khoa học nano và công nghệ nano
Theo Viện Hàn lâm Hoàng gia Anh quốc: “Khoa học nano là ngành khoa
học nghiên cứu về các hiện tượng và sự can thiệp vào vật liệu tại các quy mô
nguyên tử, phân tử và đại phân tử. Tại các quy mô đó, tính chất của vật liệu khác
hẳn với tính chất của chúng tại các quy mô lớn hơn” [7].
Thuật ngữ “công nghệ nano” được biết đến từ những năm 70 của thế kỉ XX.
Có rất nhiều cách để định nghĩa công nghệ nano.
Theo giáo sư Norio Taniguchi của Đại học Khoa học Tokyo: “Công nghệ
nano bao gồm các quá trình của phân tách, làm bền và biến dạng của vật liệu bằng
một nguyên tử hoặc phân tử” [1].
Theo Viện Hàn lâm Hoàng gia Anh quốc: “Công nghệ nano là ngành công
nghệ liên quan đến việc chế tạo, thiết kế, phân tích cấu trúc và ứng dụng các cấu
trúc, thiết bị, hệ thống bằng việc điều khiển hình dáng, kích thước trên cấp độ
nanomet” [7].
Công nghệ nano là một khoa học liên ngành, là sự kết tinh của nhiều thành
tựu khoa học trên nhiều lĩnh vực khác nhau (bao gồm toán học, vật lí, hoá học, y-
sinh học,…) và là một ngành công nghệ có nhiều tiềm năng [1, 8].

Toán học Vật lý

Y- sinh học Công nghệ nano Hoá học

Công nghệ
thông tin

Hình 1.1. Mối liên quan của công nghệ nano với các ngành khoa học khác.
1.1.2. Vật liệu nano
Vật liệu nano là vật liệu mà thành phần cấu trúc của nó ít nhất có một chiều
với kích thước dưới 100 nm.
Vật liệu nano là đối tượng của hai lĩnh vực: khoa học nano và công nghệ
nano, nó liên kết hai lĩnh vực trên với nhau. Tính chất của vật liệu nano bắt nguồn

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 3


 : Khóa luận tốt nghiệp

từ kích thước của chúng, vào cỡ nanomet, đạt tới kích thước tới hạn của nhiều tính
chất hóa lý của vật liệu thông thường. Đây là lý do mang lại tên gọi cho vật liệu.
Kích thước vật liệu nano trải một khoảng từ vài nm đến vài trăm nm phụ
thuộc vào bản chất vật liệu và tính chất cần nghiên cứu.
Về trạng thái của vật liệu, người ta phân chia thành ba trạng thái: rắn, lỏng và
khí. Vật liệu nano được tập trung nghiên cứu hiện nay chủ yếu là vật liệu rắn, sau
đó mới đến chất lỏng và khí. Về hình dáng vật liệu, người ta phân ra thành các loại
sau:
 Vật liệu nano không chiều: là vật liệu trong đó cả ba chiều đều có kích
thước nano, không còn chiều tự do nào cho điện tử, ví dụ: đám nano, hạt nano,...
 Vật liệu nano một chiều: là vật liệu trong đó hai chiều có kích thước nano,
điện tử được tự do trên một chiều (hai chiều cầm tù), ví dụ: dây nano, ống nano,...
 Vật liệu nano hai chiều: là vật liệu trong đó một chiều có kích thước nano,
hai chiều tự do, ví dụ: màng mỏng, các lớp phủ bề mặt,...
 Ngoài ra còn có vật liệu có cấu trúc nano hay nanocomposite trong đó chỉ
có một phần của vật liệu có kích thước nanomet, hoặc cấu trúc của nó có nano
không chiều, một chiều, hai chiều đan xen lẫn nhau.
1.1.3. Cơ sở khoa học của công nghệ nano [1]
Có ba cơ sở khoa học để nghiên cứu công nghệ nano:
1.1.3.1. Chuyển tiếp từ tính chất cổ điển đến tính chất lượng tử
Đối với vật liệu vĩ mô gồm rất nhiều nguyên tử, các hiệu ứng lượng tử được
trung bình hóa với rất nhiều nguyên tử (1 µm3 có khoảng 1012 nguyên tử) và có thể
bỏ qua các thăng giáng ngẫu nhiên. Nhưng các cấu trúc nano có ít nguyên tử hơn thì
các tính chất lượng tử thể hiện rõ ràng hơn. Ví dụ: một chấm lượng tử có thể được
coi như một đại nguyên tử, nó có các mức năng lượng giống như một nguyên tử.
1.1.3.2. Hiệu ứng bề mặt
Khi vật liệu có kích thước nanomet, các số nguyên tử nằm trên bề mặt sẽ
chiếm tỉ lệ đáng kể so với tổng số nguyên tử. Chính vì vậy các hiệu ứng có liên
quan đến bề mặt, gọi tắt là hiệu ứng bề mặt sẽ trở nên quan trọng làm cho tính chất
của vật liệu có kích thước nanomet khác biệt so với vật liệu ở dạng khối.
1.1.3.3. Kích thước tới hạn
Các tính chất vật lý, hóa học của các vật liệu đều có một giới hạn về kích
thước. Nếu vật liệu mà nhỏ hơn kích thước này thì tính chất của nó hoàn toàn bị
thay đổi. Người ta gọi đó là kích thước tới hạn. Vật liệu nano có tính chất đặc biệt là

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 4


 : Khóa luận tốt nghiệp

do kích thước của nó có thể so sánh được với kích thước tới hạn của các tính chất
của vật liệu. Ví dụ điện trở của một kim loại tuân theo định luật Ohm ở kích thước
vĩ mô mà ta thấy hàng ngày. Nếu ta giảm kích thước của vật liệu xuống nhỏ hơn
quãng đường tự do trung bình của điện tử trong kim loại, mà thường có giá trị từ vài
đến vài trăm nm, thì định luật Ohm không còn đúng nữa. Lúc đó điện trở của vật có
kích thước nano sẽ tuân theo các quy tắc lượng tử. Không phải bất cứ vật liệu nào
có kích thước nano cũng đều có tính chất khác biệt, vì nó còn phụ thuộc vào tính
chất mà vật liệu đó được nghiên cứu.
Các tính chất khác như tính chất điện, tính chất từ, tính chất quang và các
tính chất hóa học khác đều có độ dài tới hạn trong khoảng nanomet. Chính vì thế
mà người ta gọi ngành khoa học và công nghệ liên quan là khoa học nano và công
nghệ nano.
1.2. Giới thiệu về nano Ag
Bạc kim loại từ lâu đã được sử dụng làm chất diệt khuẩn, nhưng khi ở trạng
thái phân tán với kích thước nanomet thì khả năng diệt khuẩn của bạc được tăng lên
gấp bội.
Mối hạt nano bạc có kích thước từ 1-100 nm, chúng bao gồm một tập hợp
nhất định các nguyên tử Ag, số lượng tùy thuộc vào kích thước của hạt nano. Mỗi
hạt nano bạc có kích thước 9 nm có chứa khoảng 2400 nguyên tử Ag. Các hạt nano
bạc có thể được hoặc không được tích điện trên bề mặt của nó và có thể giải phóng
ra các ion bạc. Một số tài liệu đã chứng minh rằng khả năng diệt khuẩn của bạc có
liên quan trực tiếp đến số lượng ion bạc được giải phóng.
Theo GS.TS Phan Đình Khôi, Chủ Tịch Hội Vật lý học Việt Nam - Viện
Khoa học Vật liệu; nano Ag là một ứng dụng hoàn thiện của khoa học. Công nghệ
nano giúp bạc tăng tính năng diệt khuẩn, sát trùng, tiêu độc và khử mùi; được ứng
dụng trong một số sản phẩm như các dụng cụ bảo quản thực phẩm, sơn, các vật liệu
may mặc, mỹ phẩm,…
Chắc chắn rằng với sự phát triển ngày càng cao của khoa học công nghệ,
chúng ta còn khám phá ra nhiều tính chất hữu dụng hơn nữa của bạc nano cũng như
các vật liệu nano khác để nâng cao chất lượng cuộc sống và đẩy nhanh sự tiến bộ
của loài người [9].

1.2.1. Các phương pháp điều chế nano Ag


Người ta có thể sử dụng các quy trình khác nhau cũng như các điều kiện
khác nhau: chất đầu, phương pháp, điều kiện lọc, rửa, sấy, nung,… để điều chế

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 5


 : Khóa luận tốt nghiệp

nano Ag kích cỡ khác nhau phục vụ cho những mục đích khác nhau. Nói chung,
cũng giống như các vật liệu nano khác, nano Ag chủ yếu được tổng hợp bằng hai
phương pháp chính là phương pháp vật lý và phương pháp hóa học. Ở đây chúng tôi
chỉ đề cập đến một số phương pháp điển hình đã được biết khá rộng rãi trên thế
giới.
1.2.1.1. Phương pháp vật lý
Đây là phương pháp tạo vật liệu nano từ nguyên tử hoặc chuyển pha.
a) Phương pháp chuyển pha
b) Phương pháp bốc bay nhiệt
Các phương pháp vật lý để điều chế vật liệu nano như trên thường yêu cầu
những thiết bị phức tạp, trong những điều kiện khá khắt khe và khó điều chỉnh được
kích thước hạt.
1.2.1.2. Các phương pháp hóa học
Có nhiều phương pháp khác nhau để tổng hợp vật liệu nano bạc, trong đó
phương pháp hóa học là một phương pháp có nhiều ưu điểm. Ưu điểm nổi trội nhất
phải kể đến là mức độ đồng nhất hóa học rất tốt. Do đó có thể trộn lẫn các chất khác
nhau ở cấp độ phân tử. Không những thiết bị đơn giản, mà với phương pháp hóa
học người ta có thể kiểm soát được các điều kiện phản ứng, các điều kiện ảnh
hưởng đến kích thước hạt và hơn nữa còn điều khiển được kích thước hạt như mong
muốn.
Dưới đây là một số phương pháp hóa học thường được sử dụng để điều chế
vật liệu nano, đặc biệt là vật liệu nano Ag.
a) Phương pháp phân hủy nhiệt
Phương pháp này người ta thường sử dụng muối của bạc và axit hữu cơ
(thường là các axit béo mạch dài vì những axit này có tác dụng bảo vệ bề mặt hạt).
Muối đó đem nung ở nhiệt độ dưới 300 oC trong vòng 2 giờ thu được tinh thể nano
Ag kích cỡ nhỏ và có đường phân bố kích thước hẹp.
b) Phương pháp polyol [10 - 12]
Có thể dùng ethylene glycol và các diol làm chất khử, ở nhiệt độ cao với sự
có mặt của chất làm bền để tạo ra các hạt nano Ag. Nhưng qua nghiên cứu người ta
thấy rằng khả năng của poly(ethylene glycol) (PEG) nhạy hơn, nó lại có mạch
cacbon dài nên PEG vừa là chất khử, vừa là chất bảo vệ trong quá trình phản ứng.
Trong công trình [11] đã tiến hành như sau: Đun PEG đến 80 oC, cho dung
dịch AgNO3 vào, giữ nhiệt độ ở 80 oC và khuấy đều trong một giờ. Khi màu đỏ của

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 6


 : Khóa luận tốt nghiệp

dung dịch chuyển từ hồng sang màu xanh đen, chứng tỏ các hạt bạc nano đã được
tạo thành. Các hạt này bền trong nhiều tháng, chứng tỏ PEG là một chất bảo vệ tốt.
Đây là một phương pháp mới và đơn giản để điều chế các hạt Ag nano. Khi
sử dụng PEG không cần phải thêm dung môi, chất hoạt động bề mặt hay chất khử.
Hình dạng và kích thước của nano Ag phụ thuộc vào nhiệt độ và nồng độ của chất
phản ứng. Các kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng: Khi độ dài của mạch polymer
tăng lên thì khả năng khử của PEG cũng tăng. Các hạt Ag nano thu được bằng
phương pháp này có kích thước khá nhỏ và đồng đều, khoảng 8 - 10 nm.
c) Phương pháp khử hóa học [1, 13, 14]
Vật liệu nano Ag chủ yếu được điều chế bằng phản ứng khử ion Ag + trong
dung dịch bởi các tác nhân khử êm dịu với sự có mặt của các chất làm bền.
 Tác nhân khử
Tác nhân khử là yếu tố có tính chất quyết định kích thước, hình dáng hạt tạo
thành. Nếu chất khử quá mạnh, quá trình khử diễn ra quá nhanh, số lượng Ag sinh
ra quá nhiều sẽ kết tụ lại với nhau tạo ra các hạt có kích thước lớn hơn. Ngược lại,
nếu chất khử quá yếu, quá trình tổng hợp sẽ đạt hiệu suất thấp, thời gian phản ứng
quá dài làm làm phát sinh nhiều sản phẩm phụ không mong muốn.
Các tác nhân khử rất đa dạng, thường là: formaldehyde, hydzazine, muối
tactrate, muối citrate, NaBH4, các polyol (ethylene glycol, glycerol, sorbitol,…),…
 Tác nhân bảo vệ
Bằng cách khống chế sự lớn lên của các hạt Ag và ngăn cản sự keo tụ của
chúng, các chất bảo vệ này có vai trò chủ chốt trong việc điều chỉnh kích thước hạt
bạc. Các chất bảo vệ thường là các polymer và các chất hoạt động bề mặt như:
poly(vinyl pyrrolidone) (PVP), poly(vinyl ancol) (PVA), poly(ethylene glycol)
(PEG), cellulose acetate,…
 Cơ chế làm bền có thể được giải thích như sau:
Phân tử các chất làm bền thường có các nhóm phân cực có ái lực mạnh với
ion Ag+ và các nguyên tử Ag kim loại. Đó là nhóm -OH ở PVA, PEG, cellulose
acetate,…; nhóm chứa nguyên tử O, N trong PVP. Trong quá trình phản ứng, do các
ion Ag+ đã được gắn lên trên các polymer nên không thể lớn lên một cách tự do.
Hơn nữa các hạt Ag nano khi vừa hình thành đã được ngăn cách với nhau bởi lớp
vỏ polymer lớn và không thể kết tụ được với nhau. Điều này đã khống chế cả quá
trình lớn lên và tập hợp của các hạt, do đó dễ tạo kích thước hạt nhỏ và đồng đều.
Ngoài ra các hạt Ag nano còn được làm bền theo cơ chế làm bền của các hạt
keo. Khi ion Ag+ chưa bị khử hoàn toàn, chúng được hấp phụ trên bề mặt hạt và tạo

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 7


 : Khóa luận tốt nghiệp

thành các micelles gồm nhân bạc, một lớp chất bảo vệ và lớp điện kép của Ag + và
NO-3. Nhờ lớp điện kép này mà các hạt Ag nano mang điện tích trái dấu và đẩy
nhau, tránh hiện tượng keo tụ.
Bên cạnh đó các yếu tố khác như: pH, nồng độ chất tham gia phản ứng, nhiệt
độ của phản ứng, tốc độ, thời gian phản ứng,… cũng ảnh hưởng tới chất lượng sản
phẩm tạo thành. Ví dụ khi pH quá lớn sẽ xảy ra quá trình tạo thành Ag 2O nên khó
khống chế phản ứng, đặc biệt khi pH cao, ion OH- làm mỏng lớp điện kép bao ngoài
hạt nano làm các hạt nano dễ tập hợp. Khi nồng độ thấp, tốc độ cung cấp chất phản
ứng nhỏ, các hạt nano thường tạo thành nhỏ và đồng đều hơn.
Phương pháp này thường được sử dụng nhiều trong phòng thí nghiệm vì quy
trình sản xuất ra nano Ag khá đơn giản, không đòi hỏi thiết bị quá hiện đại, dễ
khống chế các điều kiện phản ứng để thu được kích thước hạt theo mong muốn
đồng thời có thể tổng hợp với lượng lớn. Vì vậy phương pháp khử hóa học với
những ưu điểm nổi bật sẽ là sự lựa chọn tối ưu để tổng hợp các loại vật liệu này.
Hình 1.2 cho biết quá trình chế tạo hạt nano Ag bằng phương pháp này.

Hình 1.2. Quá trình chế tạo hạt nano Ag bằng phương pháp hóa khử.
1.2.1.3. Phương pháp vi sóng
Nhiệt độ cao và áp suất lớn là hai thông số vật lí quan trọng trong bất kì một
quá trình nào liên quan đến việc chế tạo vật liệu. Các lò nung nhiệt độ cao (trên
1400oC) có chương trình với thanh nung thông thường, giá cũng xấp xỉ hàng trăm
triệu đồng và đó cũng là điều mơ ước của rất nhiều phòng thí nghiệm tại Việt Nam.
Mặc dù vậy, nguồn nhiệt từ các lò nung này cũng chỉ được xếp vào hàng các nguồn
nhiệt cổ điển.
Bắt đầu từ năm 1950, việc sử dụng năng lượng vi sóng để nung nóng vật liệu
mới được phát hiện. Giờ đây, lò vi sóng đã trở thành thông dụng cho việc nung
nóng các sản phẩm thức ăn trong gia đình. Những thuận lợi tiềm tàng của nung
nóng vi sóng đã thôi thúc các nhà nghiên cứu thiết kế các loại lò vi sóng chuyên

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 8


 : Khóa luận tốt nghiệp

dụng cho nhiều lĩnh vực khác nhau như luyện kim, gốm điện tử,… Đặc trưng nổi
bật nhất của sự nung nóng vi sóng là nung nóng thể tích, nó khác với nung nóng
thông thường mà ở đó nhiệt phải khuếch tán từ bề mặt của vật liệu. Với cơ chế nung
nóng thể tích, vật liệu có thể hấp thụ năng lượng vi sóng trực tiếp từ bên trong và
biến đổi nó thành nhiệt. Đặc trưng đó dẫn đến những thuận lợi khi sử dụng vi sóng
để gia công vật liệu.
Trong quá khứ, sự nung nóng vi sóng đã được sử dụng một cách thành công
ở một số lĩnh vực như: nung sơ bộ cao su, lưu hóa cao su, thịt lợn muối xông khói
trước khi nấu, sấy khô bột,… Tuy nhiên, những ứng dụng công nghiệp như vậy vẫn
còn nằm trong dải nhiệt độ thấp.
Từ sau năm 1980, xử lý vi sóng vật liệu ở nhiệt độ cao mới bắt đầu được
quan tâm nghiên cứu. Vi sóng được sử dụng như một cơ chế nung nóng có tiềm
năng để thay thế cho một vài phương pháp nung nóng thông thường. Chính những
ứng dụng tiềm năng đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn những nghiên cứu trong lĩnh
vực này. Có thể điểm lại một số kết quả mới, nổi bật trong lĩnh vực xử lý vi sóng
nhiệt độ cao từ năm 1999 đến nay:
 Năm 1999, nhóm tác giả A. Fini và A. Breccia, thuộc Trường Đại học
Bologna – Ý, đã trình bày một báo cáo tổng quan về kết quả sử dụng lò vi sóng
trong lĩnh vực hóa vật liệu. Bằng cách sử dụng lò vi sóng tần số 2.45 GHz, công
suất từ 600 đến 700 W, hầu hết các phản ứng hóa học khó thực hiện đều diễn ra một
cách triệt để, nhanh chóng sau khi xử lý vi sóng trong thời gian 5 phút. Koos Jansen
đã đánh giá tính hiệu quả của việc sử dụng lò vi sóng trong việc chế tạo vật liệu rây
phân tử (zeolite). Để chế tạo được zeolite, thường phải sử dụng các lò nung chuyên
dụng với giá rất đắt cỡ khoảng 30.000$, thời gian nung ở nhiệt độ cao phải mất
hàng chục giờ [15].
 Năm 2000, một báo cáo đáng chú ý nhất của nhóm nghiên cứu thuộc
Trường Đại học Birmingham và Đại học Oxford về chế tạo vật liệu từ trở khổng lồ
La1-xAxMnO3 (A = Ca, Sr, Ba; x ≥ 0) sử dụng lò vi sóng. Để chế tạo được nhóm vật
liệu này, phương pháp truyền thống phải tiến hành nung tại 1500 oC trong thời gian
7 ngày. Trong khi đó, sử dụng lò vi sóng tần số 2.45 GHz, công việc này chỉ mất 5
phút [16].
 Năm 2002, nhóm O.P. Thakur, Ch. Prakash và D.K. Agrawal thuộc
Trường Đại học Pensylvania báo cáo kết quả nghiên cứu chế tạo gốm BaTiO 3 bằng
vi sóng. Nếu tiến hành theo phương pháp gốm truyền thống, phải tiến hành thiêu kết
tại 1450oC trong thời gian 4 giờ và cả chu trình mất 700 phút. Trong khi đó, nung vi

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 9


 : Khóa luận tốt nghiệp

sóng tại 1400oC chỉ mất 25 phút và cả chu trình hết 90 phút. Điều đáng quan tâm là
vật liệu chế tạo được lại có các tính chất tốt hơn phương pháp nung truyền thống
[17].
 Năm 2004, đáng quan tâm nhất là giải thưởng công nghệ của nhóm tác giả
J. Hwang và X. Huang tại Trường Đại học công nghệ Michigan về việc sử dụng vi
sóng kết hợp với phương pháp phóng điện để chế tạo thép. Các tác giả này cho thấy,
nhiệt độ trên 1000oC đạt được chỉ sau 1 phút. Trong khi đó, các lò cao luyện thép
đang sử dụng phổ biến hiện nay phải mất 1 giờ. Kết quả này cho phép giảm giá
thành sản xuất thép, giảm ô nhiễm môi trường. Người ta đánh giá rằng, kết quả này
thật sự đã thổi một luồng sinh khí mới mang lại sự hồi sinh cho ngành luyện thép
của Hoa Kỳ và thế giới [18].
 Năm 2005, ông E. Kubel – Giám đốc Trung tâm nhiệt kỹ thuật Hoa Kỳ đã
có một báo cáo khá đầy đủ về những về những tiến bộ trong công nghệ xử lý nhiệt
bằng vi sóng trên thế giới. Báo cáo này cho thấy một bức tranh toàn cảnh về cuộc
chạy đua cải tiến, thiết kế các loại lò vi sóng với dung tích lớn hơn, tần số vi sóng
cao hơn,… cho các mục đích ứng dụng khác nhau trong công nghiệp trên thế giới
[19].
Như vậy, việc đưa vi sóng vào trong hệ phản ứng giúp tạo động học cho sự
tổng hợp cực nhanh. Phương pháp này đơn giản và dễ lặp lại. Trong thiết bị vi sóng
nhiệt được sinh ra là do sự tương tác giữa các momen lưỡng cực của phân tử với
bức xạ điện từ ở tần số cao. So với nung nóng thông thường, nung nóng vi sóng có
thể rút ngắn thời gian phản ứng nhiều lần. Sử dụng vi sóng, nhiệt không những
được cung cấp nhanh mà còn đồng đều [35, 36].
Trên cơ sở phân tích tình hình nghiên cứu trên thế giới và điều kiện hiện tại
của phòng thí nghiệm, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu cải tiến lò vi sóng dân
dụng thành lò nung vi sóng nhiệt độ cao phục vụ cho công nghệ chế tạo vật liệu.
Hình 1.3 là mô hình lò vi sóng mà chúng tôi sử dụng để tổng hợp keo bạc nano.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 10


 : Khóa luận tốt nghiệp

1. Bình phản ứng

Hình 1.3. Mô hình tổng hợp nano Ag theo phương pháp vi sóng.
Với mô Hình 1.3 thì cơ chế hình thành nano Ag được đề nghị như sau:

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 11


 : Khóa luận tốt nghiệp

1.2.2. Ứng dụng của nano Ag


Với sự phát triển của công nghệ nano, nano Ag là một đối tượng nhận được
nhiều chú ý của các nhà khoa học cũng như các doanh nghiệp. Vì bạc nano không
những mang lại những đặc tính đáng quý của vật liệu nano mà còn có những tính
chất riêng khác biệt ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
1.2.2.1. Ứng dụng của nano Ag đối với sức khoẻ và y học
Do con người luôn phải chịu sự tấn công của các loại vi khuẩn độc hại có
trong môi trường, chính vì vậy mà khoa học luôn phải tìm kiếm, tổng hợp nên các
vật liệu có khả năng diệt trừ vi khuẩn.
Dù không quá lâu khi thế giới phát hiện ra công nghệ nano Ag có những tính
năng tuyệt vời với khả năng bảo vệ sức khoẻ con người, nhưng chỉ hơn một năm trở
lại đây Việt Nam mới xuất hiện dòng sản phẩm ứng dụng công nghệ được coi là
cuộc cách mạng của thế kỉ XXI này.
Công nghệ nano Ag được biết phù hợp với điều kiện khí hậu, môi trường và
văn hoá tiêu dùng của nước ta. Với những ưu thế vượt trội, công nghệ nano – công
nghệ siêu nhỏ đang ngày càng được ứng dụng nhiều hơn trong lĩnh vực sử dụng sản
phẩm thiết yếu phục vụ đời sống con người và được coi là tiêu chí cạnh tranh hàng
đầu giữa các nhà sản xuất trên thị trường [2].
Với diện tích bề mặt lớn, chỉ cần dùng một lượng nhỏ nano Ag mà tác dụng
diệt khuẩn đã tăng lên rất nhiều. Bởi vậy mà rất nhiều vật dụng được tráng một lớp
nano Ag để diệt khuẩn như máy điều hoà nhiệt độ, tủ lạnh, bình lọc nước,… nhằm
kháng khuẩn và tiêu độc. Bên cạnh đó không thể không nhắc tới một nhãn hiệu
được tin dùng trong suốt thời gian qua đó là bình sữa tiệt khuẩn và các dụng cụ
đựng thức ăn cho trẻ nhỏ của Mummybear. Loại bình sữa tráng nano Ag này đang
được thu hút bởi tính năng ưu việt của nó như kháng khuẩn, tiêu độc, khử mùi, diệt
được 99.9% vi khuẩn E.coli và Staphylococcus gây bệnh tiêu chảy ở trẻ, ngoài ra
khăn ướt, hộp đựng thức ăn, quần áo trẻ em cũng đều được tráng một lớp bạc nano
để kháng khuẩn và tiêu độc.
Trong y học, người ta dùng hạt nano Ag để làm các loại bông gạc y tế, các
dụng cụ phẫu thuật, dung dịch tẩy trùng và thành phần của một số dược phẩm,…
1.2.2.2. Ứng dụng của nano Ag trong công nghiệp điện tử
Không có một lĩnh vực nào mà công nghệ nano lại có ảnh hưởng nhiều như
điện tử, công nghệ thông tin và truyền thông; nano Ag là một trong những vật liệu
được ứng dụng nhiều nhất trong lĩnh vực này. Chúng không chỉ mang trong mình
những tính chất ưu việt của vật liệu nano mà còn có hoạt tính xúc tác, tính điện, tính

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 12


 : Khóa luận tốt nghiệp

quang, tính từ,… rất cao so với các vật liệu khác. Do vậy nano Ag được ứng dụng
trong lĩnh vực điện tử để sản xuất những linh kiện, những vi mạch có thể truyền tải,
ghi nhận, lưu trữ thông tin nhanh hơn và nhiều hơn. Nhờ thế mà kích thước của các
thiết bị giảm xuống đáng kể mà chất lượng còn tăng thêm nhiều so với trước đây
[20].
1.2.2.3. Ứng dụng của nano bạc trong lĩnh vực may mặc
Các nhà nghiên cứu đại học Clemson (Mỹ) vừa chế tạo một loại chất phủ
mới, giúp con người có những bộ quần áo sạch mà không cần giặt bằng cách sử
dụng các hạt nano Ag có độ dày bằng 1/1000 sợi tóc người. Hạt nano tạo ra các
bướu tí hon trên mặt vải và lớp phủ polymer làm bướu vĩnh viễn bám vào vải. Khi
vải tiếp xúc với nước, chẳng hạn dưới trời mưa, chất bẩn sẽ tự cuốn trôi dễ dàng.
Có thể gắn lớp phủ vào mọi loại vải như: polyester, bông, lụa,… Chất phủ
mới cũng có tiềm năng được phủ lên quần áo trẻ em, quần áo bệnh viện, đồ thể
thao, quân phục và áo mưa…
Với sự phát triển cao của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ nano,
trong thời gian tới người ta còn khám phá ra nhiều đặc tính ưu việt hơn nữa của bạc
nano để tạo ra các loại vật dụng tiện ích, nâng cao chất lượng cuộc sống và đẩy
nhanh tiến bộ xã hội.
1.2.3. Tình hình nghiên cứu nano Ag
Với những ứng dụng thực tiễn của nano Ag, con người đã tiến hành rất nhiều
nghiên cứu với nhiều phương pháp khác nhau nhằm tìm kiếm phương pháp thích
hợp nhất cho những ứng dụng thực tiễn nhất. Với điều kiện của một bài khóa luận,
chúng tôi trình bày một vài công trình nghiên cứu với các phương pháp và cách
thức nghiên cứu về nano Ag như sau:
1.2.3.1. Tình hình nghiên cứu nano Ag trên thế giới
a) Phương pháp khử vật lý
 B.E. Ershov và E.A. Abkhalimov dùng phương pháp chiếu xạ (sử dụng tia
chiếu xạ gamma Co-60) để tổng hợp nano bạc, tạo môi trường khử từ Ag + về Ag0.
Nguyên liệu ban đầu là AgClO 4, tác nhân khử là HCOONa, chất ổn định là
polyphosphat trong môi trường alcohol. Hệ dung dịch được đuổi khí bằng hệ thống
chân không và sau đó được đem vào chiếu xạ. Dùng AFM để xác định kích thước
hạt. Sử dụng phương pháp chiếu xạ có lợi thế là có thể điều khiển được tốc độ khử
như mong muốn bằng cách thay đổi cường độ chiếu xạ [21].
 Phương pháp nhiệt phân được S. Navaladian và các cộng sự sử dụng để tạo
nano bạc từ nguồn nguyên liệu ban đầu là Ag 2C2O4, với sự có mặt của chất ổn định

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 13


 : Khóa luận tốt nghiệp

PVA. Ag2C2O4 bị phân hủy trong môi trường nước hay môi trường ethylen glycol ở
nhiệt độ 140oC. Khi hỗn hợp phản ứng được gia nhiệt sau một khoảng thời gian, sự
khử hóa học cũng được diễn ra song song. Tuy nhiên, lượng keo nano Ag được tạo
thành bởi sự phân hủy nhiệt cao hơn lượng tạo thành bởi sự khử hóa học. PVA đóng
vai trò chính trong phương pháp phân hủy bằng nhiệt này và nồng độ của nó là một
thông số quan trọng để xác định kích thước hạt. Sự phân hủy nhiệt của Ag 2C2O4
trong môi trường ethylen glycol nhanh hơn trong môi trường nước [22].
b) Phương pháp khử hóa học
Đây là phương pháp cổ điển, dùng chất khử mạnh để khử Ag + về Ag0.
Phương pháp này sẽ thu được hệ sol - gel nano. Dùng các chất khử khác nhau và
các chất polymer khác nhau sẽ cho các hệ hạt khác nhau. Tùy vào mục đích sử dụng
mà ta dùng các loại chất khử và polymer tương ứng. Như khi dùng nano bạc cho
ngành dược, là ngành đòi hỏi nhiều tiêu chuẩn về sức khỏe rất cao, từ đó có thể sử
dụng các chất khử như natricitrate, hydroquinone hay đường glucose, fructose và
dùng chất ổn định như PVP, PVA, chitosan, gelatin,... để làm chất ổn định. Tất cả
các chất này là tương hợp sinh học, hoàn toàn không gây ảnh hưởng đến sức khỏe
con người [23 - 27]. Hoặc khi dùng hệ nano trong lĩnh vực môi trường hay xúc tác,
có thể sử dụng các chất khử như NaBH4, HCHO [23 - 25, 28]... Ngoài các chất ổn
định có thể sử dụng như trên còn có thể dùng các loại như: SDS, CTAB, NP-9,
Tween 20... [29].
 Để tổng hợp nano Ag, Sudipa Panigrahi và các cộng sự đã sử dụng
sacarose, glucose và fructose để vừa làm tác nhân khử, vừa làm chất ổn định.
Nguyên liệu ban đầu là AgNO 3. Hệ này cho phổ hấp thụ cực đại ở 390 – 420 nm
[21, 24, 25, 30, 31]. Sau khi xem xét và so sánh 3 tác nhân trên, các tác giả đã rút ra
kết luận:
- Sacarose không thể dùng để khử bạc ngay cả khi pH thấp.
- Glucose thể hiện tính khử mạnh hơn fructose, vì vậy mà sự khử diễn ra
nhanh hơn và thu được hệ hạt có kích thước nhỏ, nhưng sự kết tụ diễn ra khá nhanh,
nên với glucose, nhìn chung tạo thành hệ hạt có kích thước không đồng đều.
- Khi dùng fructose, mặc dù đường kính hạt ban đầu được tạo ra lớn hơn
đường kính hạt đạt được bằng phương pháp glucose, nhưng các hạt tạo thành đều
nhau.
Ưu điểm của phương pháp này là sử dụng đường (glucose, fructose) làm tác
nhân khử đồng thời làm chất ổn định chúng luôn có sẵn, giá thành thấp và thân
thiện với môi trường; không cần phải dùng tác nhân ổn định hệ [25].

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 14


 : Khóa luận tốt nghiệp

 Cũng xuất phát từ nguồn nguyên liệu ban đầu là AgNO 3, nhưng A.V.
Vegera và A.D. Zimon đã dùng NaBH4 làm chất khử, gelatin làm chất ổn định, để
điều chế nano Ag. Các tác giả nhận định: cỡ hạt phụ thuộc vào nồng độ ban đầu của
AgNO3 và độ ổn định của hệ phụ thuộc vào gelatin. NaBH 4 là chất khử mạnh nên
phản ứng tạo nano bạc rất dễ xảy ra. Tuy nhiên do NaBH 4 là chất khử rất mạnh,
mạnh hơn cả glucose nên hệ hạt tạo ra ban đầu sẽ rất nhỏ nhưng vì vậy mà không
tạo ra đủ lực đẩy để tạo hệ keo ổn định, hệ rất dễ bị kết tụ [28].
 Với tác nhân khử là natricitrate và hydroquynone, cùng với chất ổn định là
PVP và PVA, nhóm tác giả ở công trình [24] và [32] đã tổng hợp thành công nano
Ag. Từ kết quả thu được, Rita Patakfalvi và các cộng sự nhận định: sự khử bạc của
hệ diễn ra trong 40 phút. Nồng độ polymer càng cao thì hệ hạt thu được có kích
thước càng nhỏ [24]. Và PVP đem lại sự ổn định nhiều hơn PVA do những hiệu
ứng trung gian và giảm tốc độ phát triển hạt nano [32].
c) Phương pháp vi sóng
 Nano Ag đã được tổng hợp thành công bằng phương pháp vi sóng bởi
Hongjin Jiang và các cộng sự. Các tác giả dùng dung môi là rượu polyhydric và sử
dụng tần số vi sóng (VFM) làm nguồn nhiệt. So với phương pháp nhiệt, phản ứng
bằng tia phát xạ VFM xảy ra nhanh hơn nhiều. Kết quả là khi nồng độ AgNO 3 cao
hơn, thời gian phản ứng dài hơn và nhiệt độ phản ứng cao hơn làm gia tăng cỡ hạt;
trong khi đó nồng độ PVP càng cao cỡ hạt càng giảm [33].
 Theo Kirti Patel và các cộng sự, các hạt nano Ag có kích thước trung bình
từ 15 đến 30 nm, có dạng đa diện với cấu trúc lập phương tâm mặt được tổng hợp từ
nguồn nguyên liệu ban đầu là AgNO 3, sử dụng dung môi là ethylene glycol và
glycerol bằng phương pháp vi sóng. Các tác giả Ấn Độ này đã thực hiện phản ứng
với thời gian rất ngắn, chỉ trong 45 giây chiếu xạ vi sóng [34].
 Cũng bằng phương pháp vi sóng, nhưng Ying Jie Zhu và Xian Luo Hu lại
xuất phát từ Ag2O trong dung môi ethylene glycol với thời gian thực hiện phản ứng
là 10 phút. Hai tác giả Trung Quốc này đã thu được sản phẩm Ag nano có cấu trúc
dây dài khoảng vài micromet, có đường kính 40 – 120 nm, có tỉ số mặt 20 – 140 và
cấu trúc thanh với chiều dài ngắn hơn, có tỉ số mặt nhỏ hơn 20 [35].
 Theo các tác giả Nhật Bản, Masaharu Tsuji và các cộng sự cũng đi từ
AgNO3 với dung môi ethylene glycol, với sự có mặt của các hạt Pt và chất ổn định
PVP bằng phương pháp vi sóng trong thời gian vài phút. Tùy theo nồng độ của Pt,
PVP, AgNO3 hay thời gian chiếu vi sóng mà sản phẩm nano Ag thu được có hình
dạng và kích thước khác nhau: từ các sản phẩm nano một chiều (thanh nano và dây

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 15


 : Khóa luận tốt nghiệp

nano), hay các sản phẩm nano hai chiều (tấm nano và đĩa nano) cho đến các sản
phẩm nano ba chiều (các hạt nano hình cầu hay tinh thể nano lập phương) [36].
1.2.3.2. Tình hình nghiên cứu nano Ag trong nước
 Ts Nguyễn Quốc Hiến và các cộng sự nghiên cứu tổng hợp nano bạc bằng
phương pháp chiếu xạ. Các tác giả cũng dùng chiếu xạ gamma Co-60 và lần lượt
chọn PVA, PVP, chitosan (CTS) làm chất ổn định. Kích thước trung bình của hạt
nano khi sử dụng phương pháp này là 15,96 ± 0,51 nm (PVP); 5,5 ± 0,25 nm
(chitosan); 2,92 ± 0,05 nm (PVP/CTS) và 11,44 ± 2,07 nm (PVP/etanol) [37 - 41].
 Với việc sử dụng bức xạ tia X, tác giả khóa luận [42] đã chế tạo hạt nano
bạc đi từ nguyên liệu ban đầu là AgNO 3, chất ổn định là ethyl phenol ethoxylate
(TX-100). Các dung dịch AgNO 3 và TX-100 với tỉ lệ mol xác định được khuấy đều
bằng máy rung siêu âm trong 10 phút. Các hạt nano Ag được hình thành và phát
triển khi hỗn hợp Ag+/TX-100 được khuấy đều và chiếu bằng tia X trong vòng 60
phút. Hạt nano Ag tạo ra có kích thước tương đối nhỏ, phân bố khá đồng đều, đa
phần các hạt tạo ra có kích thước tập trung trong khoảng từ 8 đến 9 nm, các hạt có
độ tròn tương đối lớn (hạt có hình dạng tựa cầu).
 Theo [43], các tác giả điều chế nano bạc đi từ nguồn nguyên liệu ban đầu
là AgNO3, chất ổn định là PVA, chất khử là hydrazine hydrate. Tác giả khảo sát
theo nồng độ AgNO3 trong thời gian 20 phút. Kết quả thu được là: khi hàm lượng
AgNO3 tăng thì kích thước hạt nano Ag cũng tăng theo. Cụ thể, khi hàm lượng
AgNO3 nhỏ (1%) thì độ phân bố của hạt nano Ag đều, nhưng khi hàm lượng AgNO3
tăng (4%) thì có hiện tượng kết dính lại với nhau, và khi hàm lượng AgNO3 tăng lên
6% thì các hạt nano Ag kết dính lại với nhau.
 Nguyễn Cửu Khoa và các cộng sự tổng hợp nano bạc cũng đi từ nguồn
nguyên liệu ban đầu là AgNO3, chất ổn định là PVA, chất khử là hydrazin hydrat
nhưng có thêm natricitrate. Các tác giả nhận thấy:
- Kích thước các hạt nano Ag tạo thành khi có mặt natricitrate sẽ nhỏ hơn so
với khi không có natricitrate, và kích thước này không thay đổi theo hàm lượng
natricitrate.
- Khi có mặt natricitrate, các hạt nano Ag sinh ra có kích thước ổn định với
hàm lượng AgNO3 thay đổi từ 1 đến 14%. Khi hàm lượng AgNO 3 lên tới 15%, có
dấu hiệu gia tăng kích thước của nano Ag [44].
 Để tìm ra loại chất khử phù hợp nhất cho quá trình điều chế nano bạc,
nhóm tác giả trong [45] tiến hành khảo sát một số loại chất khử như: natricitrate,
vitamin C (acid ascolic), natri borohydric. Kết quả là với chất khử NaBH 4 khi có

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 16


 : Khóa luận tốt nghiệp

chất ổn định là chitosan thì việc điều chế nano bạc sẽ cho kích thước nhỏ nhất.
Nhóm tác giả còn khảo sát điều chế nano bạc theo hai phương pháp là: phương
pháp hóa siêu âm và phương pháp khuấy từ. Từ kết quả thu được, nhóm tác giả
nhận định: màu nano bạc điều chế theo phương pháp khuấy từ có màu vàng đậm
hơn màu của nano bạc được điều chế theo phương pháp hóa siêu âm. Kết quả TEM
cho thấy hạt nano bạc siêu âm có kích thước trung bình nhỏ hơn 15 nm, so với
khuấy từ có kích thước trung bình là 35 nm. Và nhóm tác giả đi đến kết luận: với
cùng một nồng độ, cùng một chất khử và cùng một điều kiện phản ứng, điều chế
nano bạc bằng phương pháp hóa siêu âm cho kích thước hạt nano nhỏ hơn phương
pháp khuấy từ thông thường.
 Sử dụng chất ổn định SiO 2 được chiết tách từ vỏ trấu, Nguyễn Ngọc Khoa
Trường đã tổng hợp keo bạc nano xuất phát từ nguồn nguyên liệu ban đầu là
AgNO3 bằng phương pháp vi sóng, chất khử là dung môi ethylene glycol (EG).
Luận văn đã khảo sát theo thời gian chiếu xạ vi sóng và theo tỉ số mol của
SiO2/AgNO3. Ưu điểm của phương pháp này là đi từ chất ổn định giá thành thấp,
phổ biến trên thị trường [46].
 Ts Nguyễn Thị Phương Phong và các cộng sự cũng nghiên cứu tổng hợp
nano bạc bằng phương pháp vi sóng, nguyên liệu ban đầu là AgNO 3, chất khử là
dung môi ethylene glycol (EG) và glycerol (GL), nhưng chất ổn định là PVP. Kết
quả cho thấy hạt nano bạc có dạng hình cầu, kích thước hạt nano bạc vào khoảng từ
8-11 nm và có sự phân bố đồng đều hạt nano bạc trong dung dịch [47 - 49].
1.3. Các phương pháp nghiên cứu tính chất vật liệu
1.3.1. Phương pháp phổ kích thích electron
Phương pháp phổ kích thích electron hay còn gọi là phương pháp phổ hấp
thụ. Sự hấp thụ của phân tử trong vùng quang phổ tử ngoại và khả kiến (UV – Vis)
phụ thuộc vào cấu trúc electron của phân tử. Sự hấp thụ năng lượng được lượng tử
hóa và do đó các electron bị kích thích nhảy từ obitan có mức năng lượng thấp lên
các obitan có mức năng lượng cao gây ra. Bước chuyển năng lượng này tương ứng
với sự hấp thụ các tia sáng có bước sóng λ khác nhau theo phương trình:
∆E = hc/λ
Trong đó: h là hằng số Planck và c là vận tốc ánh sáng.
Khi phân tử bị kích thích, các electron của các nguyên tử trong phân tử thực
hiện các bước nhảy như trong hình 1.4.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 17


 : Khóa luận tốt nghiệp

σ
Hình 1.4. Các bước nhảy của electron trong nguyên tử.
Trong đó:
+ n : obitan không liên kết.
+ л : obitan liên kết л.
+ л* : obitan л phản liên kết.
+ б : obitan liên kết б.
+ б* : obitan б phản liên kết.
Khi bị kích thích bởi các bức xạ điện từ, các điện tử sẽ nhảy lên các obitan có
mức năng lượng cao hơn. Các bước nhảy có thể là: n → л*, n → б*, б → б*, л →
л*.
Các bước nhảy б → б* cần năng lượng lớn nhất, tức là ánh sáng kích thích
có bước sóng ngắn nhất. Các bước nhảy л → л* cần năng lượng nhỏ hơn, do đó
ánh sáng kích thích có bước sóng lớn hơn. Các electron tự do n có thể nhảy sang л*
hay б*, nhưng rõ ràng bước nhảy n → л* cần năng lượng nhỏ nhất và do đó ánh
sáng kích thích có bước sóng lớn nhất.
Phương pháp phổ hấp thụ UV – Vis được sử dụng rất thuận lợi và phổ biến
để phân tích các hợp chất và hỗn hợp. Phương pháp này được gọi là phương pháp
phân tích trắc quang. Cơ sở của phương pháp này là dựa vào định luật Bouguer -
Lambert - Beer có phương trình hấp thụ bức xạ như sau:
I0
A = lg = ε.l.C
I
Trong đó:
+ A là độ hấp thụ ánh sáng
+ Io, I lần lượt là cường độ bức xạ điện từ trước và sau khi qua chất phân tích
+ ε là hệ số hấp thụ
+ l là độ dày cuvet
+ C là nồng độ chất phân tích (mol/l)

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 18


 : Khóa luận tốt nghiệp

1.3.2. Kính hiển vi điện tử truyền qua (Transmisson Electron Microscope –


TEM)[6]
Phương pháp hiển vi điện tử truyền qua (TEM) là phương pháp cho phép sử
dụng chùm tia electron năng lượng cao để quan sát các vật thể rất nhỏ. Độ phóng
đại của TEM là 400.000 lần đối với nhiều vật liệu và thậm chí lên đến 15 triệu lần
đối với các nguyên tử. Với ưu thế về độ phóng đại rất lớn, TEM là công cụ đặc biệt
quan trọng trong việc nghiên cứu các vật liệu nano. Hình 1.5 cho ta sơ đồ nguyên lý
hoạt động của kính hiển vi điện tử truyền qua TEM.

Màn hình
Nguồn cấp
hiển thị
electron

Ảnh

Mẫu
Thấu kính
hội tụ

Phóng ảnh
to

Hình 1.5. Sơ đồ nguyên lý hoạt động của kính hiển vi điện tử truyền qua TEM.
Nguyên lý làm việc của máy TEM được mô tả như sau: Chùm electron được
tạo ra từ nguồn sau khi đi qua các thấu kính hội tụ sẽ tập trung lại tạo thành một
dòng electron hẹp. Dòng electron này tương tác với mẫu và một phần xuyên qua
mẫu. Phần truyền qua đó được hội tụ bằng một thấu kính và tạo ảnh. Ảnh sau đó sẽ
được truyền đến bộ phận phóng đại. Cuối cùng tín hiệu tương tác với màn huỳnh
quang và sinh ra ánh sáng cho phép người dùng quan sát được ảnh. Phần tối của ảnh
đại diện cho vùng mẫu đã cản trở, chỉ cho một số ít electron xuyên qua (vùng mẫu
dày hoặc có mật độ cao). Phần sáng của ảnh đại diện cho những vùng mẫu không
cản trở, cho nhiều electron truyền qua (vùng này mỏng hoặc có mật độ thấp). Ảnh
TEM thu được sẽ là hình ảnh mặt cắt ngang của vật thể. Ảnh TEM có thể cung cấp
thông tin về hình dạng, cấu trúc kích thước của vật liệu nano.
1.3.4. Phương pháp định lượng vi sinh vật

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 19


 : Khóa luận tốt nghiệp

Sự hiện diện của vi sinh vật có thể định lượng bằng nhiều phương pháp khác
nhau như:
- Phương pháp đếm trực tiếp
- Phương pháp đếm khuẩn lạc
- Phương pháp màng lọc
- Phương pháp MPN (Most Probable Number)
- Phương pháp đo độ đục
Trong khuôn khổ bài khóa luận này chúng tôi sử dụng phương pháp đếm
khuẩn lạc.
Phương pháp đếm khuẩn lạc là phương pháp cho phép xác định số lượng tế
bào vi sinh vật còn sống hiện diện trong mẫu. Tế bào sống là tế bào có khả năng
phân chia thành khuẩn lạc trên môi trường chọn lọc. Do vậy phương pháp này có
tên gọi là phương pháp đếm khuẩn lạc (colony count). Phương pháp này có đặc
điểm là cho phép định lượng chọn lọc vi sinh vật tùy môi trường và điều kiện nuôi
cấy. Phương pháp này có thể được thực hiện bằng kỹ thuật hộp trải hoặc hộp đổ với
các thiết bị hỗ trợ để đếm kết quả. Trong phương pháp này cần thực hiện pha loãng
mẫu bậc 10 liên tiếp sao cho có độ pha loãng với mật độ tế bào thích hợp để xuất
hiện các khuẩn lạc riêng lẻ trên bề mặt thạch với số lượng đủ lớn để hạn chế sai số
khi đếm và tính toán. Mật độ tế bào quá lớn làm các khuẩn lạc chồng chéo lên nhau
hoặc tạo thành màng sinh khối. Ngược lại số lượng lạc khuẩn trên một đĩa quá nhỏ
sẽ không có giá trị thống kê. Số lượng lạc khuẩn tối ưu được đề nghị bởi các cơ
quan có uy tín như FDA, AOAC là từ 25 – 250 khuẩn lạc/đĩa.
Số lượng khuẩn lạc xuất hiện trên đĩa phụ thuộc vào lượng mẫu sử dụng, môi
trường và điều kiện ủ. Thông thường, điều kiện nuôi cấy (môi trường, nhiệt độ, thời
gian) cần đảm bảo sao cho số khuẩn lạc xuất hiện tối đa. Phương pháp đếm khuẩn
lạc dễ cho sai số nên cần thực hiện lặp lại ít nhất 2 đĩa cho 1 mẫu. Kết quả đếm
thường được trình bày bằng số đơn vị hình thành khuẩn lạc CFU/ml (colony –
forming unit) theo công thức sau:
N
A (CFU/ml) = n1Vf1 + ... + nVf
i i

Trong đó: A là số đơn vị hình thành khuẩn lạc trong 1 ml mẫu.


N là tổng số khuẩn lạc đếm được trên các đĩa đã chọn.
ni là số lượng đĩa cấy tại độ pha loãng thứ i.
V là thể tích dịch mẫu (ml) cấy vào mỗi đĩa.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 20


 : Khóa luận tốt nghiệp

f là độ pha loãng tương ứng.


Mặc dù có nhược điểm như trên nhưng phương pháp đếm khuẩn lạc vẫn là
phương pháp tốt nhất để xác định mật độ tế bào sống. Ngoài ra, phương pháp này
còn có ưu điểm là độ nhạy cao, cho phép định lượng vi sinh vật ở mật độ thấp trong
mẫu. Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong kiểm nghiệm vi sinh vật trong
nước, thực phẩm, bệnh phẩm.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 21


 : Khóa luận tốt nghiệp

Chương 2. THỰC NGHIỆM


2.1. Tổng hợp keo nano Ag
2.1.1. Hóa chất và thiết bị thí nghiệm
2.1.1.1. Hóa chất
- Nước cất 1 lần
- Bạc nitrate tinh thể (AgNO3) được dùng làm nguồn nguyên liệu ban đầu.
- Ethylene glycol C2H4(OH)2, viết tắt là EG (Shantou Xilong – Trung Quốc,
96%), được dùng làm dung môi khử.
- Glycerol C3H5(OH)3, viết tắt là GL (Shantou Xilong – Trung Quốc, 96%),
được dùng làm dung môi khử.
- Poly(vinyl pyrrolidone) 360K, viết tắt là PVP (Sigma Aldrich – Anh,
99,9%), có công thức hóa học là (C 6H9NO)n, được dùng làm chất ổn định. Công
thức cấu tạo của PVP như sau:

2.1.1.2. Thiết bị thí nghiệm


- Lò vi sóng (Sanyo, Nhật Bản).
- Máy khuấy từ (ARE, Mỹ)
- Cân điện tử (HR 200, Thụy Sỹ)
- Các dụng cụ thủy tinh: cốc, bình định mức, pipet, đũa thủy tinh, ống đong.
2.1.2. Cải tiến thiết bị lò vi sóng
Để thực hiện quá trình tổng hợp keo nano Ag theo phương pháp vi sóng, lò
vi sóng gia dụng (hiệu Sanyo, công suất 800W, tần số làm việc là 2,45GHz) được
cải tiến như sau: Mặt trên của lò có một lỗ khoan tròn đường kính 40 mm để lắp hệ
thống hồi lưu, nhằm mục đích duy trì thể tích của dung dịch trong quá trình phản
ứng. Hình 2.1 là lò vi sóng mà chúng tôi đã cải tiến để tổng hợp keo nano Ag.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 22


 : Khóa luận tốt nghiệp

Hình 2.1. Lò vi sóng sau khi đã cải tiến


2.1.3. Tổng hợp keo nano Ag trong dung môi ethylene glycol
2.1.3.1. Khảo sát theo thời gian chiếu vi sóng
Hòa tan 0,0085 g muối AgNO3 vào 50 ml nước cất thu được 50 ml dung dịch
AgNO3 nồng độ 1 mM.
Khuấy đều 0,0139 g PVP trong 50 ml dung môi EG bằng máy khuấy từ
trong thời gian 1 phút thu được 50 ml dung dịch PVP/EG nồng độ 2,5 mM.
Hòa trộn 50 ml dung dịch PVP/EG 2,5 mM vào 50 ml dung dịch AgNO 3 1
mM theo tỉ lệ 1:1. Khuấy đều bằng máy khuấy từ trong khoảng vài phút thu được
hỗn hợp 100 ml dung dịch AgNO3/PVP/EG.
Cho từng mẫu 20 ml dung dịch AgNO 3/PVP/EG vào lò vi sóng. Chiếu vi
sóng ở thời gian lần lượt là 1,5 phút; 2 phút; 2,5 phút; 5 phút và 10 phút. Sản phẩm
keo nano Ag thu được có màu vàng tươi đặc trưng.
2.1.3.2. Khảo sát theo tỉ số mol của PVP/AgNO3
n PVP
Gọi tỉ số mol của PVP/AgNO3 là r = .
n AgNO
3

Hòa tan 0,0068 g muối AgNO3 vào 40 ml nước cất thu được 40 ml dung dịch
AgNO3 nồng độ 1 mM.
Khuấy đều 0,0444 g PVP trong 20 ml dung môi EG bằng máy khuấy từ
trong thời gian 1 phút thu được 20 ml dung dịch PVP/EG nồng độ 20 mM. Chia đôi

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 23


 : Khóa luận tốt nghiệp

20 ml dung dịch này, được mỗi dung dịch 10 ml. Thêm 10 ml dung môi EG vào 10
ml dung dịch PVP/EG 20 mM, được 20 ml dung dịch PVP/EG nồng độ 10 mM. Cứ
như thế chia đôi 20 ml dung dịch này, rồi lại thêm 10 ml dung môi EG vào sẽ thu
được 4 mẫu, mỗi mẫu chứa 10 ml dung dịch PVP/EG có nồng độ lần lượt là 20
mM;10 mM; 5 mM; 2,5 mM.
Hòa trộn từng 10 ml dung dịch AgNO 3 1 mM vào 4 mẫu chứa dung dịch
PVP/EG có nồng độ như trên theo tỉ lệ 1:1 và khuấy đều bằng máy khuấy từ trong
khoảng vài phút, được 4 mẫu chứa hỗn hợp 20 ml AgNO 3/PVP/EG có tỉ số mol
PVP/AgNO3 lần lựợt là r = 20; r = 10; r = 5; r = 2,5.
Lần lượt cho từng mẫu vào lò vi sóng (lò vi sóng được đặt ở chế độ cấp nhiệt
công suất 400 W) rồi chiếu xạ vi sóng ở thời gian như nhau là 5 phút, thu được keo
nano Ag có màu vàng tươi đặc trưng.
2.1.4. Tổng hợp keo nano Ag trong dung môi glycerol
2.1.4.1. Khảo sát theo thời gian chiếu vi sóng
Hòa tan 0,0085 g muối AgNO3 vào 50 ml nước cất thu được 50 ml dung dịch
AgNO3 nồng độ 1 mM.
Khuấy đều 0,0139 g PVP trong 50 ml dung môi GL bằng máy khuấy từ
trong thời gian 1 phút thu được 50 ml dung dịch PVP/GL nồng độ 2,5 mM.
Hòa trộn 50 ml dung dịch PVP/GL 2,5 mM vào 50 ml dung dịch AgNO 3 1
mM theo tỉ lệ 1:1. Khuấy đều bằng máy khuấy từ trong khoảng vài phút thu được
hỗn hợp 100 ml AgNO3/PVP/GL. Sau đó chia làm 5 mẫu, mỗi mẫu chứa hỗn hợp
20 ml AgNO3/PVP/GL.
Lần lượt cho từng mẫu vào lò vi sóng (lò vi sóng được đặt ở chế độ cấp nhiệt
công suất 400 W) rồi chiếu xạ vi sóng ở thời gian lần lượt là 1,5 phút; 2 phút; 2,5
phút; 5 phút và 10 phút. Sản phẩm keo nano Ag thu được có màu vàng tươi đặc
trưng.
2.1.4.2. Khảo sát theo tỉ số mol của PVP/AgNO3
n PVP
Gọi tỉ số mol của PVP/AgNO3 là r = .
n AgNO3

Hòa tan 0,0068 g muối AgNO3 vào 40 ml nước cất thu được 40 ml dung dịch
AgNO3 nồng độ 1 mM.
Khuấy đều 0,0444 g PVP trong 20 ml dung môi GL bằng máy khuấy từ
trong thời gian 1 phút thu được 20 ml dung dịch PVP/GL nồng độ 20 mM. Chia đôi
20 ml dung dịch này, được mỗi dung dịch 10 ml. Thêm 10 ml dung môi GL vào 10

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 24


 : Khóa luận tốt nghiệp

ml dung dịch PVP/GL 20 mM, được 20 ml dung dịch PVP/GL nồng độ 10 mM. Cứ
như thế chia đôi 20 ml dung dịch này, rồi lại thêm 10 ml dung môi GL vào sẽ thu
được 4 mẫu, mỗi mẫu chứa 10 ml dung dịch PVP/GL có nồng độ lần lượt là 20
mM;10 mM; 5 mM; 2,5 mM.
Hòa trộn từng 10 ml dung dịch AgNO 3 1 mM vào 4 mẫu chứa dung dịch
PVP/GL có nồng độ như trên theo tỉ lệ 1:1 và khuấy đều bằng máy khuấy từ trong
khoảng vài phút, được 4 mẫu chứa hỗn hợp 20 ml AgNO 3/PVP/GL có tỉ số mol
PVP/AgNO3 lần lựợt là r = 20; r = 10; r = 5; r = 2,5.
Lần lượt cho từng mẫu vào lò vi sóng (lò vi sóng được đặt ở chế độ cấp nhiệt
công suất 400 W) rồi chiếu xạ vi sóng ở thời gian như nhau là 5 phút, thu được keo
nano Ag có màu vàng tươi đặc trưng.
2.2. Khảo sát đặc trưng, hình dạng và kích thước của nano Ag tổng hợp được
Đặc trưng của Ag nano được xác định dựa vào phổ hấp thụ UV - Vis. Vì
điều kiện phòng thí nghiệm, chúng tôi gửi mẫu thực hiện phép đo phổ hấp thụ UV -
Vis của keo Ag nano trên máy đo phổ hấp thụ T 80 Spectrometer tại khoa Hóa,
trường Đại học Khoa học Huế.
Để xác định hình dạng và kích thước Ag nano, mẫu tổng hợp được gửi đo
TEM trên máy JEOL JEM 100 tại Viện vệ sinh dịch tễ Trung ương.
2.3. Đánh giá hiệu quả diệt khuẩn của vật liệu nano Ag
2.3.1. Hóa chất và thiết bị thí nghiệm
2.3.1.1. Hóa chất
- Keo Ag nano
- Dung dịch AgNO3 0,5 mM
- Dung dịch NH3 đậm đặc
- Dung dịch NaOH
- Glucose
- Silicagel
- Bánh mì
2.3.1.2. Thiết bị thí nghiệm
- Bình gốm
- Cốc thủy tinh
- Tủ sấy, lò nung
- Đĩa petri
2.3.2. Phủ nano Ag lên bề mặt một số loại vật liệu

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 25


 : Khóa luận tốt nghiệp

2.3.2.1. Phủ nano Ag lên vật liệu gốm


Chuẩn bị bình gốm làm từ đất sét và vỏ trấu (có tỉ lệ 70 % đất sét – 30 % vỏ
trấu). Tráng đều keo nano Ag lên thành bên trong bình. Để yên 1 giờ cho các hạt
nano Ag bám lên các hốc nhỏ của bình. Sau đó sấy khô và nung vật liệu ở 200 oC
trong khoảng 2 giờ.
Trước khi được phủ keo Ag nano, trong bình gốm đã xuất hiện các hốc nhỏ
do các thành phần hữu cơ có trong vỏ trấu đã bị cháy trong quá trình nung. Sau khi
được phủ keo Ag, do các thành phần hữu cơ có trong keo Ag đã bị bay hơi bởi quá
trình nung nên chỉ còn lại các hạt Ag nano nằm lại ở các hốc nhỏ này. Chính vì vậy
mà các bình gốm phủ keo Ag nano có thể được dùng làm các bộ lọc xử lý nước dựa
vào tính năng diệt khuẩn của Ag nano.
2.3.2.2. Phủ nano Ag lên bề mặt silicagel
Silicagel được để ngoài không khí sạch cho no nước, sau đó cân 0,5 g cho
vào cốc chịu nhiệt. Rót 20 ml dung dịch nano Ag vào khối hạt silicagel, đảo nhẹ và
để yên 1 giờ để các hạt nano Ag khuếch tán bám hầu hết vào bề mặt silicagel. Sấy
khô khối vật liệu, sau đó nung ở nhiệt độ 200oC trong khoảng 2 giờ. Lấy khối vật
liệu ra, để nguội tới nhiệt độ phòng.
Để so sánh khả năng diệt khuẩn của Ag ở kích thước nano với Ag ở dạng
khối, chúng tôi tiến hành phản ứng tráng bạc lên 2 loại vật liệu trên.
- Tráng bạc lên thành bình gốm: cho 20 ml dung dịch AgNO 3 0,5 mM vào
bình gốm sạch. Cho tiếp dung dịch NH 3 đậm đặc đến khi kết tủa sinh ra tan hoàn
toàn. Thêm vào hỗn hợp vài ml dung dịch NaOH, rồi tiếp tục cho vào hỗn hợp
khoảng 20 ml dung dịch glucose. Sau đó, sấy hỗn hợp ở 100 oC trong 30 phút cho
phản ứng tráng bạc xảy ra hoàn toàn và đảm bảo bình không còn nước.
- Tráng bạc lên silicagel: Silicagel được để ngoài không khí sạch cho no
nước, sau đó cân 0,5 g cho vào cốc chịu nhiệt. Cho 20 ml dung dịch AgNO 3 0,5
mM vào cốc trên. Cho tiếp dung dịch NH3 đậm đặc đến khi kết tủa sinh ra tan hoàn
toàn. Thêm vào hỗn hợp vài ml dung dịch NaOH, rồi tiếp tục cho vào hỗn hợp
khoảng 20 ml dung dịch glucose. Sau đó, sấy hỗn hợp ở 100 oC trong 30 phút cho
phản ứng tráng bạc xảy ra hoàn toàn và đảm bảo cốc không còn nước.
2.3.3. Hiệu quả diệt khuẩn của vật liệu nano Ag
2.3.3.1. Chuẩn bị mẫu
Lấy mẫu bằng chai sạch, mẫu được lấy ở hồ Bàu Sen (Thành phố Quy
Nhơn) (hình 2.2). Sau khi lấy mẫu, tiến hành lọc để loại bỏ cặn, váng có màu để
không ảnh hưởng tới màu khi hiện trên môi trường nuôi cấy.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 26


 : Khóa luận tốt nghiệp

Hình 2.2. Hồ Bàu Sen (Thành Phố Quy Nhơn)


2.3.3.2. Xử lý mẫu
a) Với vật liệu gốm: chuẩn bị 3 bình gốm
+ Một bình gốm thường.
+ Một bình gốm được tráng bạc khối.
+ Một bình gốm được tráng keo nano Ag.
- Cho vào mỗi bình 50 ml mẫu nước bẩn đã chuẩn bị ở trên.
- Sau 1 giờ, tiến hành xác định tổng vi khuẩn hiếu khí và Coliforms có trong
3 mẫu nước trên.
b) Với vật liệu silicagel: chuẩn bị 3 cốc thủy tinh
+ Cốc 1 chứa 0,5 g silicagel thường.
+ Cốc 2 chứa 0,5 g silicagel đã hấp phụ bạc khối.
+ Cốc 3 chứa 0,5 g silicagel đã hấp phụ keo nano Ag.
- Cho vào mỗi cốc 50 ml mẫu nước bẩn đã chuẩn bị ở trên.
- Sau 1 giờ, tiến hành xác định tổng vi khuẩn hiếu khí và Coliforms có trong
3 mẫu nước trên.
2.3.3.3. Thực nghiệm xác định tổng vi khuẩn hiếu khí
a) Nguyên tắc
Tổng số vi khuẩn hiếu khí được đếm bằng cách cấy mẫu và nuôi ủ trong
điều kiện hiếu khí ở 30oC trong 72 giờ.
b) Hóa chất - dụng cụ
- Hóa chất: cồn 70o, môi trường nuôi cấy PCA (Plate Count Agar) với thành
phần gồm: Pepton 5 g/l, D (+) glucose 1 g/l, Meat extract 2,5 g/l và Agar 14 g/l.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 27


 : Khóa luận tốt nghiệp

Môi trường PCA có pH 7,0 ± 0,2. Môi trường được phân phối vào trong các
bình thủy tinh và hấp khử trùng ở 121 oC trong 15 phút. Các bình chứa môi trường
chưa sử dụng được bảo quản trong tủ lạnh ở 2 – 8 oC. Trước khi sử dụng, môi
trường được đun chảy và làm nguội ở 45oC trong bể điều nhiệt.
- Dụng cụ
+ Pipet 1ml, đĩa petri
+ Tủ sấy, tủ ấm, tủ lạnh, bể điều nhiệt, tủ cấy vô trùng, nồi hấp
+ Đèn cồn, đèn tử ngoại (UV)
+ Bút đếm khuẩn lạc
Các dụng cụ thí nghiệm thủy tinh sau khi rửa sạch được đem đi khử trùng
bằng cách sấy ở nhiệt độ 160 – 170oC trong 1,5 - 2 giờ. Các dụng cụ để đựng môi
trường nuôi cấy vi sinh vật cũng được khử trùng bằng sức nóng khô ở nhiệt độ dưới
180oC.
c) Quy trình
- Cấy mẫu: dùng pipet vô trùng chuyển 1 ml dung dịch mẫu vào giữa đĩa
petri vô trùng. Tương ứng với mỗi mẫu, cấy ít nhất 2 đĩa (tức là thực hiện 2 lần lặp
lại). Sau khi cấy, đổ vào mỗi đĩa 10 - 15 ml môi trường nuôi cấy (PCA) đã được
đun chảy và ổn định ở 45 oC. Trộn điều dịch mẫu với môi trường bằng cách xoay
tròn đĩa petri xuôi và ngược chiều kim đồng hồ, mỗi chiều 3 - 5 lần ngay sau khi đổ
môi trường. Đặt các đĩa trên mặt phẳng ngang cho thạch đông đặc.
- Nuôi ủ: các đĩa được lật ngược và ủ trong 72 giờ ở 30oC.
d) Kết quả
Có thể dùng mắt thường để đếm tất cả số khuẩn lạc xuất hiện trên các đĩa
sau khi ủ (chỉ chọn các đĩa có số khuẩn lạc dưới 250 để đếm). Hiệu suất diệt khuẩn
được tính theo công thức sau:
N1 − N 2
η= N1
× 100%

Trong đó: η là phần trăm số vi khuẩn bị khử


N1 là số vi khuẩn sống sót từ mẫu đối chứng
N2 là số vi khuẩn sống sót từ mẫu kiểm tra
2.3.3.4. Thực nghiệm xác định Coliforms
a) Nguyên tắc
Nuôi cấy một lượng nhất định mẫu lên môi trường Endo. Môi trường Endo
có chứa sodium sulphite và fuchsin có khả năng ức chế vi khuẩn gram dương.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 28


 : Khóa luận tốt nghiệp

Trong quá trình phát triển trên môi trường này, Coliforms lên men đường lactose
tạo thành aldehyde và acid, aldehyde tác động đến phức chất fuchsin-sulphite và
giải phóng fuchsin, sau đó fuchsin nhuộm các khuẩn lạc từ màu hồng đến đỏ cánh
sen, tròn, bờ đều, có ánh kim hoặc không.
b) Hóa chất - dụng cụ
- Hóa chất: cồn 70o, môi trường nuôi cấy Endo với thành phần: Pepton 10
g/l, Sodium sulphite 3,3 g/l, Lactose 10 g/l, Fuchsin kiềm 0,3 g/l, K 2HPO4 2,5
g/l và Agar 15 g/l.
Môi trường Endo có pH = 7,5. Đây là môi trường dinh dưỡng thích hợp để
định lượng Coliforms trong nước và trong thực phẩm. Môi trường được phân phối
vào trong các bình thủy tinh và hấp khử trùng ở 121oC trong 20 phút.
- Dụng cụ
+ Pipet 1ml, đĩa petri
+ Tủ sấy, tủ ấm, tủ lạnh, bể điều nhiệt, tủ cấy vô trùng, nồi hấp
+ Đèn cồn, đèn tử ngoại (UV)
+ Bút đếm khuẩn lạc
Các dụng cụ thí nghiệm thủy tinh sau khi rửa sạch được đem đi khử trùng
bằng cách sấy ở nhiệt độ 160 – 170oC trong 1,5 - 2 giờ. Các dụng cụ để đựng môi
trường nuôi cấy vi sinh vật cũng được khử trùng bằng sức nóng khô ở nhiệt độ dưới
180oC.
c) Quy trình
- Cấy mẫu: dùng pipet vô trùng chuyển 1 ml dung dịch mẫu vào giữa đĩa
petri vô trùng. Tương ứng với mỗi mẫu, cấy ít nhất 2 đĩa (tức là thực hiện 2 lần lặp
lại). Sau khi cấy, đổ vào mỗi đĩa 10 - 15 ml môi trường nuôi cấy (môi trường Endo)
đã được đun chảy và ổn định ở 45oC. Trộn điều dịch mẫu với môi trường bằng cách
xoay tròn đĩa petri xuôi và ngược chiều kim đồng hồ, mỗi chiều 3 - 5 lần ngay sau
khi đổ môi trường. Đặt các đĩa trên mặt phẳng ngang cho thạch đông đặc.
- Nuôi ủ: các đĩa được lật ngược và ủ trong 24 - 48 giờ ở 37oC.
d) Kết quả
Có thể dùng mắt thường để đếm tất cả số khuẩn lạc xuất hiện trên các đĩa
sau khi ủ (chỉ chọn các đĩa có số khuẩn lạc dưới 150 để đếm). Hiệu suất diệt khuẩn
được tính theo công thức sau:
N1 − N 2
η= N1
× 100%

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 29


 : Khóa luận tốt nghiệp

Trong đó: η là phần trăm số vi khuẩn bị khử


N1 là số vi khuẩn sống sót từ mẫu đối chứng
N2 là số vi khuẩn sống sót từ mẫu kiểm tra
2.4. Đánh giá khả năng chống nấm mốc của keo Ag nano
Để khảo sát khả năng chống nấm mốc của keo nano Ag, chuẩn bị 3 mẫu
bánh mì:
- Một mẫu bánh mì thường.
- Một mẫu bánh mì được tẩm dung dịch AgNO3 0,5 mM.
- Một mẫu bánh mì được tẩm keo nano Ag.
Bảo quản 3 mẫu bánh mì này trong cùng điều kiện và theo dõi sự lên mốc
sau 6 ngày (hạn sử dụng của sản phẩm được ghi trên bao bì là 6 ngày).

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 30


 : Khóa luận tốt nghiệp

Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN


3.1. Sự hình thành keo nano Ag
3.1.1. Khảo sát theo thời gian chiếu vi sóng
3.1.1.1. Trong dung môi ethylene glycol
Các phản ứng xảy ra trong quá trình hình thành keo Ag nano trong ethylene
glycol có thể được mô tả như sau [34]:
Ở nhiệt độ cao xảy ra quá trình tách nước:
CH2OH-CH2OH → CH3CHO + H2O
Sau đó các ion Ag+ đang liên kết phối trí với nhóm NCO của PVP [52] bị khử:
2CH3CHO + 2Ag+ → 2Ag + 2H+ + CH3COCOCH3
Polymer PVP có vai trò khống chế sự phát triển kích thước hạt Ag, hình thành
sản phẩm Ag có kích thước cỡ nanomet.
a) Phép đo phổ hấp thụ (UV-Vis)
Hình 3.1 trình bày phổ hấp thụ UV-Vis của sản phẩm keo nano Ag tổng hợp
trong dung môi ethylene glycol với thời gian chiếu vi sóng từ 1,5 đến 10 phút; nồng
độ chất ổn định PVP là 2,5 mM; nồng độ dung dịch AgNO 3 1 mM.

Hình 3.1. Phổ hấp thụ UV-Vis của keo nano Ag tổng hợp
trong ethylene glycol theo thời gian chiếu vi sóng.
Phổ UV-Vis cho thấy các mẫu đều hấp thụ trong vùng bước sóng 350-500
nm với peak ở khoảng 420 cm -1, tương ứng với màu vàng đặc trưng của keo nano
Ag (hình 3.2).

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 31


 : Khóa luận tốt nghiệp

Đỉnh phổ hấp thụ bắt đầu xuất hiện ở thời gian chiếu vi sóng 1,5 phút chứng
tỏ quá trình hình thành Ag nano bắt đầu xảy ra. Ở thời gian chiếu vi sóng dưới 1,5
phút, thực nghiệm đã không thu được tín hiệu hấp thụ đáng kể trong phổ. Cường độ
phổ hấp thụ tăng nhanh khi tăng thời gian chiếu vi sóng từ 1,5 đến 5 phút. Ở thời
gian chiếu vi sóng 10 phút, cường độ phổ hấp thụ hầu như không tăng. Điều đó
chứng tỏ rằng với thời gian chiếu vi sóng khoảng 10 phút, quá trình khử của các ion
Ag+ đã xảy ra hoàn toàn. Tuy nhiên, với mẫu được chiếu vi sóng ở thời gian 5 phút
có tính ổn định cao hơn so với mẫu được chiếu vi sóng ở thời gian 10 phút. Chính
vì vậy, chúng tôi cố định thời gian chiếu vi sóng là 5 phút để tiến hành các nghiên
cứu tiếp theo.
Các đỉnh của phổ hấp thụ dịch chuyển không đáng kể theo thời gian chiếu vi
sóng. Đồ thị phổ cũng cho thấy, độ rộng của phổ hấp thụ có xu hướng mở rộng hơn
khi thời gian chiếu vi sóng tăng lên. Kết quả này phù hợp với một số công bố khác
[34, 53]. Theo các tác giả này, phổ hấp thụ UV-Vis của keo Ag nano phụ thuộc
mạnh vào hình dạng và kích thước của cấu trúc Ag nano. Khi các hạt có kích thước
tăng, độ rộng của phổ hấp thụ có xu hướng mở rộng hơn. Trên đồ thị, độ hấp thụ
cũng tăng theo thời gian chiếu vi sóng thể hiện lượng hạt nano Ag hình thành tăng.
Hình 3.2 là dung dịch keo nano Ag tổng hợp trong dung môi ethylene glycol
với thời gian chiếu vi sóng từ 1,5 đến 10 phút; nồng độ chất ổn định PVP là 2,5
mM; nồng độ dung dịch AgNO3 1 mM.

Hình 3.2. Keo nano Ag tổng hợp trong ethylene glycol


theo thời gian chiếu vi sóng.
b) Ảnh hiển vi điện tử truyền qua (TEM)
Hình 3.3 là ảnh TEM của keo nano Ag tổng hợp trong dung môi ethylene
glycol với các thời gian chiếu vi sóng 2,5 phút, 5 phút và 10 phút.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 32


 : Khóa luận tốt nghiệp

Hình 3.3. Ảnh TEM của nano Ag tổng hợp trong ethylene glycol
theo thời gian chiếu vi sóng 2,5 phút (a); 5 phút (b) và 10 phút (c).
Từ kết quả ảnh TEM thu được cho thấy phần lớn các hạt bạc nano có cấu trúc
hình cầu. Khi tăng thời gian chiếu vi sóng, kích thước hạt tăng dần. Kích thước
trung bình của hạt từ khoảng 12,1 ÷ 21,2 nm ở thời gian 2,5 phút, tăng dần và đạt

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 33


 : Khóa luận tốt nghiệp

khoảng 24,2 ÷ 36,4 nm sau thời gian 10 phút. Tại khoảng thời gian này, các hạt có
kích thước tăng chậm và khá đồng đều, chứng tỏ quá trình hình thành bạc nano đã
xảy ra ổn định. Điều này cũng phù hợp với kết quả nhận định từ phổ UV-Vis.
3.1.1.2. Trong dung môi glycerol
Cơ chế của quá trình khử ion Ag + trong glycerol được chấp nhận phổ biến
cũng tương tự như trong dung môi ethylene glycol ở trên [34]:
CH2OH-CH(OH)-CH2OH → CH2OH-CH(OH)-CHO + H2
CH2OH-CH(OH)-CH2OH → CH2OH-CO-CH2OH + H2
CH2OH-CH(OH)-CHO + 2AgOH → 2Ag + H2O + CH2OH-CH(OH)-COOH
CH2OH-CO-CH2OH + 2AgOH → 2Ag + CH2OH-CO-COOH + H2O + H2
Polymer PVP cũng có vai trò khống chế sự phát triển kích thước hạt Ag, hình
thành sản phẩm Ag nano.
a) Phép đo phổ hấp thụ (UV-Vis)
Hình 3.4 trình bày phổ hấp thụ UV-Vis của sản phẩm keo Ag nano tổng hợp
trong dung môi glycerol với thời gian chiếu vi sóng từ 1,5 đến 10 phút; nồng độ
chất ổn định PVP là 2,5 mM; nồng độ dung dịch AgNO 3 1 mM.

Hình 3.4. Phổ hấp thụ UV-Vis của keo nano Ag tổng hợp trong
glycerol theo thời gian chiếu vi sóng.
Đỉnh phổ hấp thụ bắt đầu xuất hiện ở thời gian chiếu vi sóng 1,5 phút, chứng
tỏ quá trình hình thành Ag nano bắt đầu xảy ra. Cường độ phổ hấp thụ tăng nhanh
khi tăng thời gian chiếu vi sóng từ 1,5 đến 5 phút. Phổ hấp thụ của keo Ag nano với
thời gian chiếu vi sóng từ 5 đến 10 phút không có sự thay đổi đáng kể về tín hiệu

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 34


 : Khóa luận tốt nghiệp

phổ. Ở thời gian chiếu vi sóng trên 10 phút, cường độ phổ hấp thụ hầu như không
tăng. Như vậy, với khoảng thời gian chiếu vi sóng từ 5 đến 10 phút, quá trình khử
của các ion Ag+ đã xảy ra hoàn toàn. Tuy nhiên, với mẫu được chiếu vi sóng ở thời
gian 5 phút có tính ổn định cao hơn so với mẫu được chiếu vi sóng ở thời gian 10
phút. Chính vì vậy, chúng tôi cố định thời gian chiếu vi sóng là 5 phút để tiến hành
các nghiên cứu tiếp theo.
Khác với trường hợp sử dụng dung môi ethylene glycol, các đỉnh phổ hấp thụ
của các mẫu tổng hợp trong dung môi glycerol có xu hướng dịch chuyển nhẹ về
phía bước sóng dài khi tăng thời gian chiếu vi sóng, có thể là do ảnh hưởng của bản
chất dung môi trong hệ.
Đồ thị phổ cũng cho thấy, độ rộng của phổ hấp thụ có xu hướng mở rộng hơn
khi thời gian chiếu vi sóng tăng lên. Như vậy, khi tăng thời gian chiếu vi sóng, kích
thước hạt sẽ tăng. Tuy nhiên kích thước hạt sẽ tăng không đáng kể như trường hợp
sử dụng dung môi ethylene glycol, bởi vì dải đuôi dài ở vùng bước sóng trên 600
nm không có sự mở rộng đáng kể so với trường hợp của dung môi ethylene glycol.
b) Ảnh hiển vi điện tử truyền qua (TEM)
Hình 3.5 là ảnh TEM của keo Ag nano tổng hợp trong dung môi glycerol ở các
thời gian chiếu vi sóng 2,5 phút, 5 phút và 10 phút.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 35


 : Khóa luận tốt nghiệp

Hình 3.5. Ảnh TEM của nano Ag tổng hợp trong glycerol
theo thời gian chiếu vi sóng 2,5 phút (a); 5 phút (b) và 10 phút (c).
Từ ảnh TEM ta thấy, sau thời gian chiếu vi sóng 10 phút, hạt nano Ag tổng
hợp được trong dung môi glycerol có kích thước trung bình khoảng 15 ÷ 26 nm.
Trong khi đó, với dung môi ethylene glycol, hạt nano Ag thu được có kích thước 24
÷ 36 nm. Như vậy, so với cùng một thời gian chiếu vi sóng, kích thước sản phẩm
Ag nano tổng hợp trong dung môi glycerol nhỏ hơn đáng kể so với trường hợp dung
môi ethylene glycol.
Hình 3.6 là dung dịch keo nano Ag tổng hợp trong dung môi glycerol với thời
gian chiếu vi sóng từ 1,5 đến 10 phút; nồng độ chất ổn định PVP là 2,5 mM; nồng
độ dung dịch AgNO3 1 mM.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 36


 : Khóa luận tốt nghiệp

Hình 3.6. Keo nano Ag tổng hợp trong glycerol


theo thời gian chiếu vi sóng.
3.1.2. Khảo sát theo tỉ số mol của PVP/AgNO3
3.1.2.1. Trong dung môi ethylene glycol
a) Phép đo phổ hấp thụ (UV-Vis)
Hình 3.7 là phổ hấp thụ UV-Vis của keo nano Ag với tỉ số mol r của
PVP/AgNO3 từ 2,5 đến 20; nồng độ dung dịch AgNO 3 1 mM; thời gian chiếu vi
sóng 5 phút.

Hình 3.7. Phổ hấp thụ UV – Vis của keo nano Ag trong ethylene glycol
theo tỉ số mol của PVP/AgNO3.
Từ kết quả phép đo phổ hấp thụ, giá trị bước sóng và cường độ của các đỉnh
thu được như sau:
- Vị trí đỉnh của phổ hấp thụ khi r = 2,5: 421 nm – 0,237
- Vị trí đỉnh của phổ hấp thụ khi r = 5 : 419 nm – 0,244

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 37


 : Khóa luận tốt nghiệp

- Vị trí đỉnh của phổ hấp thụ khi r = 10 : 422 nm – 0,495


- Vị trí đỉnh của phổ hấp thụ khi r = 20 : 422 nm – 0,521
Vị trí các đỉnh của phổ hấp thụ có bước sóng nằm trong khoảng từ 419 nm đến
422 nm tương ứng với màu vàng đặc trưng của keo nano Ag. Như vậy, việc tăng tỉ
lệ PVP/AgNO3 ít làm thay đổi bước sóng của các đỉnh phổ hấp thụ khi thời gian
chiếu vi sóng không đổi.
Khi tăng tỉ số mol của PVP/AgNO 3, độ rộng của phổ hấp thụ hẹp hơn. Kết quả
này phù hợp với một số công bố khác [24, 33]. Theo các tác giả này, phổ hấp thụ
UV-Vis của keo Ag nano phụ thuộc mạnh vào hình dạng và kích thước của cấu trúc
Ag nano. Khi các hạt có kích thước giảm, độ rộng của phổ hấp thụ có xu hướng thu
hẹp dần.
Đồ thị cũng cho thấy, khi tăng nồng độ chất ổn định, cường độ phổ hấp thụ
tăng lên, thể hiện lượng hạt nano Ag hình thành tăng. Phổ thu được có tính đối xứng
cao chứng tỏ hệ nano Ag tạo thành có độ ổn định cao [57].
b) Ảnh hiển vi điện tử truyền qua (TEM)
Hình 3.8 là ảnh TEM của nano Ag tổng hợp trong dung môi ethylene glycol
với tỷ số mol PVP/AgNO3 lần lượt là: r = 2,5; r = 10 và r = 20; thời gian chiếu vi
sóng 5 phút.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 38


 : Khóa luận tốt nghiệp

Hình 3.8. Ảnh TEM của nano Ag tổng hợp trong ethylene glycol
theo tỉ số mol PVP/AgNO3 r = 2,5 (a); r = 10 (b) và r = 20 (c).
Kết quả ảnh TEM thu được cho thấy phần lớn các hạt nano Ag có cấu trúc
hình cầu. Khi tăng nồng độ chất ổn định PVP, kích thước hạt giảm dần. Kích thước
hạt có giá trị trong khoảng từ 22,7 ÷ 29,9 nm (r = 2,5); giảm dần đến khoảng 10,1 ÷
15,8 nm (r = 20). Ứng với tỷ lệ này, các hạt có kích thước khá đồng đều, chứng tỏ
quá trình hình thành bạc nano đã xảy ra ổn định. Điều này cũng phù hợp với kết quả
nhận định từ phổ UV-Vis.
3.1.2.2. Trong dung môi glycerol
a) Phép đo phổ hấp thụ (UV-Vis)
Hình 3.9 là phổ hấp thụ UV-Vis của keo nano Ag với tỉ số mol r của
PVP/AgNO3 từ 2,5 đến 20; nồng độ dung dịch AgNO 3 1 mM, thời gian chiếu vi
sóng 5 phút.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 39


 : Khóa luận tốt nghiệp

Hình 3.9. Phổ hấp thụ UV – vis của keo nano Ag


theo các tỉ số mol của PVP/AgNO3.
Từ kết quả phép đo phổ hấp thụ, giá trị bước sóng và cường độ của các đỉnh
thu được như sau:
- Vị trí đỉnh của phổ hấp thụ khi r = 2,5: 416 nm – 0,230
- Vị trí đỉnh của phổ hấp thụ khi r = 5 : 415 nm – 0,263
- Vị trí đỉnh của phổ hấp thụ khi r = 10 : 414 nm – 0,370
- Vị trí đỉnh của phổ hấp thụ khi r = 20 : 414 nm – 0,520
Vị trí các đỉnh của phổ hấp thụ có bước sóng nằm trong khoảng từ 416 nm đến
414 nm tương ứng với màu vàng đặc trưng của keo nano Ag. Như vậy, việc tăng tỉ
lệ PVP/AgNO3 ít làm thay đổi bước sóng của các đỉnh phổ hấp thụ khi thời gian
chiếu vi sóng không đổi.
Khác với trường hợp sử dụng dung môi ethylene glycol, các đỉnh phổ hấp thụ
của các mẫu tổng hợp trong dung môi glycerol có xu hướng dịch chuyển nhẹ về
phía bước sóng ngắn hơn khi tăng nồng độ chất ổn định, có thể là do ảnh hưởng của
bản chất dung môi trong hệ. Điều này cho phép ta dự đoán kích thước hạt nano Ag
tổng hợp trong dung môi glycerol sẽ có sự sai khác so với trong dung môi ethylene
glycol ở cùng điều kiện.
Khi tăng tỉ số mol của PVP/AgNO 3, độ rộng của phổ hấp thụ hẹp hơn. Kết quả
này phù hợp với một số công bố khác [24, 33]. Theo các tác giả này, phổ hấp thụ
UV-Vis của keo Ag nano phụ thuộc mạnh vào hình dạng và kích thước của cấu trúc
Ag nano. Khi các hạt có kích thước giảm, độ rộng của phổ hấp thụ có xu hướng thu
hẹp dần.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 40


 : Khóa luận tốt nghiệp

Đồ thị cũng cho thấy, khi tăng nồng độ chất ổn định, cường độ phổ hấp thụ
tăng lên, thể hiện lượng hạt nano Ag hình thành tăng. Phổ thu được có tính đối xứng
cao chứng tỏ hệ nano Ag tạo thành có độ ổn định cao [57].
b) Ảnh hiển vi điện tử truyền qua (TEM)
Hình 3.10 là ảnh TEM của nano Ag trong dung môi glycerol với tỷ số mol
PVP/AgNO3 lần lượt là: r = 2,5; r = 10 và r = 20.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 41


 : Khóa luận tốt nghiệp

Hình 3.10. Ảnh TEM của nano Ag tổng hợp trong glycerol
theo tỉ số mol PVP/AgNO3 r = 2,5 (a); r = 10 (b) và r = 20 (c).
Từ kết quả ảnh TEM thu được cho thấy phần lớn các hạt nano Ag có cấu trúc
hình cầu. Khi tăng nồng độ chất ổn định PVP, kích thước hạt giảm dần. Kích thước
hạt có giá trị nằm trong khoảng từ 14,1 ÷ 21,1 nm (với tỷ số mol PVP/AgNO 3 là r =
2,5); giảm dần đến khoảng 9,76 ÷ 14,7 nm (với tỷ số mol PVP/AgNO 3 là r = 20).
Ứng với tỷ lệ này, các hạt có kích thước khá đồng đều, chứng tỏ quá trình hình
thành bạc nano đã xảy ra ổn định. Điều này cũng phù hợp với kết quả nhận định từ
phổ UV-Vis.
Như vậy, từ các kết quả thu được chúng tôi nhận thấy: so với cùng điều kiện
tổng hợp, kích thước sản phẩm Ag nano tổng hợp trong dung môi glycerol nhỏ hơn
đáng kể so với trường hợp dung môi ethylene glycol, chứng tỏ khả năng chống kết
khối đối với các hạt Ag của glycerol tốt hơn so với ethylene glycol. Điều này là do
sự khác biệt về bản chất dung môi (điểm sôi, độ phân cực, độ nhớt,...). Các thông số
vật lý của ethylene glycol: điểm sôi 197,30C, hằng số điện môi 37,0; độ nhớt động
lực 1,61.10-2 N.s/m2; trong khi các thông số của glycerol tương ứng là 290 0C; 42,5;
1,2 N.s/m2 [51]. Độ nhớt của glycerol cao hơn nhiều so với ethylene glycol, vì vậy
glycerol cản trở sự khuếch tán của các hạt Ag, ngăn ngừa sự kết khối của Ag thành
hạt lớn hơn. Vì thế, trong quá trình tổng hợp Ag nano, glycerol ngoài vai trò là chất
khử, còn có tác dụng là chất ổn định ngay cả khi không dùng PVP [34].
Thực nghiệm cũng cho thấy, các sản phẩm Ag nano tổng hợp theo phương
pháp này có độ ổn định rất cao theo thời gian, đặc biệt đối với mẫu tổng hợp dùng
dung môi GL. Sau một thời gian dài (khoảng 2 tháng), mẫu vẫn không có hiện
tượng kết khối và suy giảm chất lượng.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 42


 : Khóa luận tốt nghiệp

Các kết quả trên cho thấy, bằng phương pháp cấp nhiệt bởi vi sóng rất đơn
giản, tiết kiệm thời gian và dễ lặp lại, keo Ag có cấu trúc nano đã được hình thành
từ các hóa chất khá phổ biến là AgNO 3, PVP trong các dung môi hữu cơ ethylene
glycol hoặc glycerol. Kết quả này góp phần làm phong phú thêm các phương pháp
chế tạo và khả năng ứng dụng của Ag nano.
3.2. Hiệu quả diệt khuẩn của vật liệu nano Ag
3.2.1. Cơ chế diệt khuẩn của vật liệu nano Ag
Hiệu quả diệt khuẩn của vật liệu nano Ag đạt được là do 2 tác dụng: Tác
dụng ngay trên bề mặt của các hạt nano Ag được gắn trên bề mặt của vật liệu. Tác
dụng thứ 2 có được do các ion bạc được giải phóng trong môi trường có nước.
3.2.1.1. Cơ chế diệt khuẩn của hạt nano bạc
Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu giải thích hoạt tính diệt khuẩn
của bạc. Tuy nhiên cơ chế chính xác của bạc nano tấn công vào vi sinh vật như thế
nào thì không thực sự rõ ràng. Một khả năng có thể xảy ra đó là sự ức chế sinh
trưởng của vi khuẩn có liên quan đến sự hình thành các điện tử tự do trên bề mặt
của bạc. Các điện tử tự do được sinh ra một cách không kiểm soát có thể tấn công
các phân tử lipid màng và dẫn tới sự phá hủy các chức năng của màng tế bào.
Tổng điện tích tế bào vi khuẩn là âm do sự thừa các nhóm carboxylic, chúng
phân ly tạo ra bề mặt tích điện âm của tế bào. Sự trái ngược về điện tích làm cho vi
khuẩn và các hạt nano Ag dính chặt vào nhau và có tác dụng sinh học do lực hút
tĩnh điện. Sự gắn chặt của các hạt nano với tế bào vi khuẩn phụ thuộc vào diện tích
bề mặt hạt. Hạt nano bạc có diện tích bề mặt lớn nên nó tăng hiệu quả kháng khuẩn
so với các hạt có kích cỡ lớn hơn, vì vậy mà chúng tác dụng độc với các vi sinh vật.
Cơ chế diệt khuẩn do sự xâm nhập của các hạt nano vào bên trong tế bào vẫn
chưa được hiểu hoàn toàn, nhưng các nghiên cứu chỉ ra rằng: Khi vi khuẩn được xử
lý với bạc, sẽ có sự thay đổi cấu trúc hình thái học trên màng tế bào và nó gây ra sự
tăng tính thấm qua màng một cách đáng kể, điều này ảnh hưởng đến sự vận chuyển
chính xác các chất qua màng tương bào, các tế bào mất khả năng tự điều chỉnh sự
vận chuyển các chất qua màng, kết quả dẫn đến sự chết của tế bào. Nghiên cứu này
còn nhận xét rằng các hạt nano đã xâm nhập vào bên trong tế bào và người ta cho
rằng nó phá hủy tế bào bằng việc kết hợp với các hợp chất chứa phosphor và sulfur
chẳng hạn như DNA. Bạc có khuynh hướng có ái lực cao để phản ứng với những
hợp chất như vậy. Và như thế, người ta cho rằng khi hạt nano tác dụng vơi DNA nó
làm mất khả năng tự nhân lên của DNA và các protein tế bào sẽ trở nên vô hoạt.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 43


 : Khóa luận tốt nghiệp

3.2.1.2. Cơ chế diệt khuẩn của ion bạc


Trong môi trường nước, một lượng ion bạc (Ag +) nhất định luôn được giải
phóng ra từ bề mặt vật liệu bạc nano. Hàm lượng các ion được giải phóng phụ thuộc
vào nguồn chứa ion đó và môi trường nó giải phóng. Các ion này góp phần làm
tăng hiệu quả kháng khuẩn của vật liệu nano bạc.
Cơ chế diệt khuẩn của ion Ag+ rất phức tạp và cần được tiếp tục nghiên cứu.
Với điều kiện của một bài khóa luận, chúng tôi đưa ra một vài cơ chế sau:
Các ion Ag+ khi tiếp xúc với các vi sinh vật, chúng kết hợp mạnh với các
gốc: –SH, –COOH, –OH của các vi sinh vật, làm phá hủy màng vi sinh vật và làm
rối loạn các chức năng của chúng (hình 3.11).

Màng vi sinh vật bị phá hủy

Các ion Ag+


Hình 3.11. Cơ chế phá hủy màng tế bào vi sinh vật của ion Ag+.

Mặt khác, các ion Ag+ còn kết hợp với oxi tạo thành các trạng thái không
bền. Vì vậy, để đạt trạng thái bền vững, chúng kết hợp với oxi trong các vi sinh vật,
do đó làm ngừng quá trình hình thành protein của các vi sinh vật. Như vậy, ion Ag +
đóng vai trò là chất xúc tác để biến đổi oxi thành oxi hoạt động (O 2-, O2+, O), làm
phá vỡ cơ chế chuyển hóa oxi và làm ngăn chặn quá trình sinh trưởng của vi sinh
vật [55].
Cơ chế diệt khuẩn của Ag nano có liên quan mật thiết đến quá trình tương
tác giữa các ion Ag+ với các nhóm thiol (sulphydryl: –SH) của vi sinh vật như các
axít amin và các thành phần chứa nhóm thiol khác như Natri thioglycolate. Các
nhóm thiol (-SH) trong thành tế bào của các vi sinh vật, virus đóng vai trò quan
trọng trong quá trình trao đổi chất và năng lượng của chúng. Ion Ag + có khả năng
liên kết tạo các chất không tan với các nhóm thiol này và do vậy vô hiệu hoá khả
năng hoạt động của chúng (hình 3.12).

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 44


 : Khóa luận tốt nghiệp

Hình 3.12. Tương tác giữa các ion Ag+ với các nhóm thiol
Như vậy, tương tác của các ion bạc với nhóm thiol trong enzyme và protein
đóng vai trò vô cùng quan trọng trong tác dụng kháng khuẩn của nó.
Các ion bạc còn có xu hướng tác dụng thông qua sự liên kết với các nhóm
chức chức năng của các enzyme. Các ion Ag+ làm tách các ion K+ của vi khuẩn và
gắn vào màng tế bào chất, huyết tương và nhiều enzyme quan trọng khác và tạo
thành Ag, AgNO3, bạc acetate, bạc protein, bạc sulphadiazine. Ngoài ra các liên kết
hydro có trong thành phần tế bào vi sinh cũng có liên quan đến quá trình này [56].
Như vậy, các ion bạc rõ ràng là không chỉ có một cơ chế tác động. Chúng
tương tác với một lượng lớn các quá trình ở mức độ phân tử bên trong tế bào vi sinh
vật và do đó gây ra rất nhiều hậu quả như từ giảm sinh trưởng phát triển, mất hiệu
quả hoạt động cho tới gây chết tế bào. Các cơ chế này phụ thuộc vào cả nồng độ ion
bạc hiện diện và tính mẫn cảm của loài vi sinh vật đối với bạc. Thời gian tiếp xúc,
nhiệt độ, pH và cả sự hiện diện của nước tự do đều ảnh hưởng đến cả tốc độ và mức
độ của tác dụng kháng khuẩn.
3.2.2. Kết quả diệt tổng vi khuẩn hiếu khí của vật liệu nano Ag
3.2.2.1. Vật liệu gốm
Để khảo sát hoạt tính diệt tổng vi khuẩn hiếu khí của vật liệu Ag nano/gốm,
chuẩn bị 3 bình gốm:
- Một bình gốm thường.
- Một bình gốm được tráng bạc khối.
- Một bình gốm được tráng keo nano Ag.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 45


 : Khóa luận tốt nghiệp

Hình 3.13 là ảnh chụp bình gốm đã được tráng keo nano Ag bên trong thành
bình.

Hình 3.13. Bình gốm đã tráng keo nano Ag

Kết quả thử hoạt tính diệt tổng vi khuẩn hiếu khí của vật liệu Ag nano/gốm
được thể hiện trong bảng 3.1.
Bảng 3.1. Kết quả thử hoạt tính diệt tổng vi khuẩn hiếu khí của vật liệu gốm.
Mẫu Số vi khuẩn Số vi khuẩn Hiệu suất
xuất hiện (CFU/ml) bị tiêu diệt (CFU/ml) diệt khuẩn
Vi khuẩn 190 0 0%
Bình gốm thường 182 8 4,2%
Ag khối/gốm 6 184 96,8%
Ag nano/gốm 0 190 100%
Mẫu vi khuẩn cơ sở ban đầu dùng để thử hoạt tính diệt khuẩn có nồng độ
tổng vi khuẩn hiếu khí là 190 CFU/ml (hình 3.14).

Hình 3.14. Mẫu vi khuẩn

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 46


 : Khóa luận tốt nghiệp

Hình 3.15 trình bày nồng độ tổng vi khuẩn hiếu khí trong các mẫu thử với
vật liệu gốm.

a) b) c)
Hình 3.15. Nồng độ tổng vi khuẩn hiếu khí trong các mẫu thử với vật liệu gốm.
Mẫu thử ở bình gốm thường, sau 1 giờ xử lý có nồng độ tổng vi khuẩn hiếu
khí là 182 CFU/ml (hình 3.15 a), ở bình gốm tráng Ag khối sau 1 giờ xử lý có nồng
độ tổng vi khuẩn hiếu khí là 6 CFU/ml (hình 3.15 b) và ở bình gốm tráng Ag nano
sau 1 giờ xử lý có nồng độ tổng vi khuẩn hiếu khí là 0 CFU/ml (hình 3.15 c).
3.2.2.2. Vật liệu silicagel
Sau khi được phủ Ag khối và Ag nano, các mẫu silicagel thu được như trên
hình 3.16.

a) b) c)
Hình 3.16. Mẫu silicagel thường (a); Mẫu silicagel phủ Ag khối (b) và Mẫu
silicagel phủ Ag nano (c).
Kết quả thử hoạt tính diệt tổng vi khuẩn hiếu khí của vật liệu Ag
nano/silicagel được thể hiện trong bảng 3.2.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 47


 : Khóa luận tốt nghiệp

Bảng 3.2. Kết quả thử hoạt tính diệt tổng vi khuẩn hiếu khí của vật liệu
siliscagel.
Mẫu Số vi khuẩn Số vi khuẩn Hiệu suất
xuất hiện (CFU/ml) bị tiêu diệt (CFU/ml) diệt khuẩn
Vi khuẩn 190 0 0%
Silicagel 180 10 5,3%
Ag khối/Silicagel 2 188 98,9%
Ag nano/Silicagel 0 190 100%

Mẫu vi khuẩn cơ sở ban đầu dùng để thử hoạt tính diệt khuẩn có nồng độ
tổng vi khuẩn hiếu khí là 190 CFU/ml (hình 3.14).
Nồng độ tổng vi khuẩn hiếu khí trong các mẫu thử với vật liệu silicagel được
trình bày ở hình 3.17.

a) b) c)
Hình 3.17. Nồng độ tổng vi khuẩn hiếu khí trong các mẫu thử với vật liệu silicagel.
Mẫu thử sau 1 giờ xử lý với silicagel, nồng độ tổng vi khuẩn hiếu khí là 180
CFU/ml (hình 3.17 a), mẫu thử sau 1 giờ xử lý với silicagel phủ Ag khối có nồng độ
tổng vi khuẩn hiếu khí là 2 CFU/ml (hình 3.17 b) và mẫu thử sau 1 giờ xử lý với
silicagel phủ Ag nano có nồng độ tổng vi khuẩn hiếu khí là 2 CFU/ml (hình 3.17 c).
3.2.3. Kết quả diệt khuẩn Coliforms của vật liệu nano Ag
3.2.3.1. Vật liệu gốm
Để khảo sát hoạt tính diệt khuẩn Coliforms của vật liệu Ag nano/gốm, chuẩn
bị 3 bình gốm:
- Một bình gốm thường.
- Một bình gốm được tráng bạc khối.
- Một bình gốm được tráng keo nano Ag.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 48


 : Khóa luận tốt nghiệp

Kết quả thử hoạt tính diệt khuẩn Coliforms của vật liệu Ag nano/gốm được
thể hiện trong bảng 3.3.
Bảng 3.3. Kết quả thử hoạt tính diệt khuẩn Coliforms của vật liệu gốm.
Mẫu Số vi khuẩn Số vi khuẩn Hiệu suất
xuất hiện (CFU/ml) bị tiêu diệt (CFU/ml) diệt khuẩn
Vi khuẩn 171 0 0
Bình gốm thường 165 6 3,5%
Ag khối/gốm 4 167 97,7%
Ag nano/gốm 0 171 100%
Mẫu vi khuẩn cơ sở ban đầu dùng để thử hoạt tính diệt khuẩn có nồng độ
Coliforms là 171 CFU/ml (hình 3.18).

Hình 3.18. Mẫu vi khuẩn


Hình 3.19 trình bày nồng độ Coliforms trong các mẫu thử với vật liệu gốm.

a) b) c)
Hình 3.19. Nồng độ Coliforms trong các mẫu thử với vật liệu gốm.
Mẫu thử ở bình gốm thường sau 1 giờ xử lý có nồng độ Coliforms là 165
CFU/ml (hình 3.19 a); mẫu thử ở bình gốm tráng Ag khối sau 1 giờ xử lý có nồng
độ Coliforms là 4 CFU/ml (hình 3.19 b) và mẫu thử ở bình gốm tráng Ag nano sau
1 giờ xử lý có nồng độ Coliforms là 0 CFU/ml (hình 3.19 c).

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 49


 : Khóa luận tốt nghiệp

3.2.3.2. Với vật liệu silicagel


Để khảo sát hoạt tính diệt khuẩn Coliforms của vật liệu Ag nano/silicagel,
chuẩn bị 3 mẫu silicagel:
- Một mẫu silicagel thường.
- Một mẫu silicagel được phủ bạc khối.
- Một mẫu silicagel được phủ keo nano Ag.
Kết quả thử hoạt tính diệt khuẩn Coliforms của vật liệu Ag nano/silicagel
được thể hiện trong bảng 3.4.
Bảng 3.4. Kết quả thử hoạt tính diệt khuẩn Coliforms của vật liệu
Silicagel.
Mẫu Số vi khuẩn Số vi khuẩn Hiệu suất
xuất hiện (CFU/ml) bị tiêu diệt (CFU/ml) diệt khuẩn
Vi khuẩn 171 0 0
Silicagel thường 162 9 5,3%
Ag khối/Silicagel 2 169 98,8%
Ag nano/Silicagel 0 171 100%
Mẫu vi khuẩn cơ sở ban đầu dùng để thử hoạt tính diệt khuẩn có nồng độ
Coliforms là 171 CFU/ml (hình 3.18).
Nồng độ Coliforms trong các mẫu thử với vật liệu silicagel được trình bày ở
hình 3.20.

a) b) c)
Hình 3.20. Nồng độ Coliforms trong các mẫu thử với vật liệu silicagel.
Mẫu thử sau 1 giờ xử lý với silicagel, nồng độ Coliforms là 162 CFU/ml
(hình 3.20 a), mẫu thử sau 1 giờ xử lý với bạc khối/silicagel, nồng độ Coliforms là 2
CFU/ml (hình 3.20 b) và mẫu thử sau 1 giờ xử lý với Ag nano/silicagel, nồng độ
Coliforms là 0 CFU/ml (hình 3.20 c).

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 50


 : Khóa luận tốt nghiệp

Như vậy trong cả hai trường hợp thử hoạt tính diệt khuẩn của vật liệu nano Ag
(đối với tổng vi khuẩn hiếu khí và Coliforms), chúng tôi nhận thấy:
Với bình gốm thường (chỉ có bình gốm tác dụng với vi khuẩn) và với mẫu
silicagel thường (mẫu chỉ có silicagel tác dụng với vi khuẩn), kết quả cho thấy số vi
khuẩn bị tiêu diệt hầu như không đáng kể. Điều này cho phép khẳng định bình gốm
và silicagel không có hoạt tính diệt khuẩn. Một phần rất ít vi khuẩn mất đi ở đây là
do đã bị hấp phụ vào bình gốm và silicagel.
Kết quả thử với mẫu Ag khối/gốm, Ag nano/gốm, Ag khối/silicagel và mẫu
Ag nano/silicagel cho thấy, lượng vi khuẩn bị tiêu diệt bởi các mẫu phủ Ag nano là
rất lớn (hiệu suất đến 100%), trong khi đó, dùng Ag khối chỉ cho hiệu suất khoảng
98%. Như vậy có thể kết luận các hạt Ag ở kích thước nanomet có khả năng kháng
khuẩn tốt hơn so với các hạt Ag ở dạng khối. Điều này cho thấy các hạt Ag nano có
kích thước rất nhỏ, diện tích bề mặt rất lớn nên khả năng tiếp xúc để tiêu diệt vi
khuẩn lớn hơn nhiều so với các hạt Ag kim loại ở dạng khối.
Kết quả thu được có ý nghĩa rất quan trọng trong cuộc sống. Trên cơ sở này,
có thể ứng dụng vật liệu nano Ag trong việc chế tạo bộ lọc nước có khả năng diệt
100% vi khuẩn gây hại, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và thúc đẩy sự
tiến bộ xã hội.
Dưới đây là một số hình ảnh chúng tôi sưu tầm từ các công trình khoa học trên
thế giới về quy trình chế tạo bộ lọc nước bằng gốm và ứng dụng thực tiễn của nó.
Hình 3.21 mô tả quy trình chế tạo bộ lọc nước bằng gốm [58].

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 51


 : Khóa luận tốt nghiệp

Hình 3.21. Quy trình chế tạo bộ lọc nước bằng gốm.
Hình 3.22 mô tả mô hình bộ lọc nước bằng gốm [59, 60].

Hình 3.22. Mô hình bộ lọc nước bằng gốm


Hình 3.23 là những hình ảnh về ứng dụng của bộ lọc nước bằng gốm [61].

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 52


 : Khóa luận tốt nghiệp

Hình 3.23. Bộ lọc nước bằng gốm đi vào cuộc sống


3.2.4. Khả năng chống nấm mốc của keo nano Ag
Để khảo sát khả năng chống nấm mốc của keo nano Ag, chuẩn bị 3 mẫu
bánh mì:
- Một mẫu bánh mì thường.
- Một mẫu bánh mì được tẩm dung dịch AgNO3 0,5 mM.
- Một mẫu bánh mì được tẩm keo nano Ag.
Bảo quản 3 mẫu bánh mì này trong cùng điều kiện và theo dõi sự lên mốc
sau 6 ngày (hạn sử dụng của sản phẩm được ghi trên bao bì là 6 ngày). Kết quả
được thể hiện ở hình 3.24.

a) b) c)
Hình 3.24. Mẫu bánh mì thường (a); mẫu bánh mì tẩm AgNO3 (b) và mẫu bánh mì
tẩm keo nano Ag (c).
Như vậy, trong cùng điều kiện thí nghiệm, mẫu bánh mì thường có nấm mốc
mọc xanh đen, mẫu bánh mì tẩm dung dịch AgNO 3 0,5 mM bị mốc ít hơn, trong khi
đó, mẫu bánh mì tẩm keo nano Ag thì không có hiện tượng gì. Kết quả trên chứng
tỏ keo nano Ag có khả năng chống nấm mốc rất tốt, tốt hơn nhiều so với dung dịch
AgNO3. Đây là một kết quả rất thú vị, trên cơ sở này hy vọng có thể mở rộng ứng
dụng của nano Ag trong bảo quản thực phẩm chống nấm mốc.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 53


 : Khóa luận tốt nghiệp

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ


I. KẾT LUẬN
1. Keo bạc có cấu trúc nano đã được tổng hợp thành công trong các dung
môi hữu cơ khác nhau là ethylene glycol hoặc glycerol, sử dụng chất ổn định PVP
bằng phương pháp vi sóng với thời gian chế tạo nhanh, đơn giản và dễ lặp lại. Sản
phẩm keo Ag có độ bền cao theo thời gian. Phổ hấp thụ UV-Vis của sản phẩm keo
bạc nano có đỉnh phổ hấp thụ nằm lân cận bước sóng 420 nm đối với cả hai loại

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 54


 : Khóa luận tốt nghiệp

dung môi hữu cơ. Đây là vùng bước sóng đặc trưng có màu vàng tươi của keo Ag
có kích thước nano mét. Ảnh TEM của keo bạc nano phần lớn đều có dạng hình
cầu, có kích thước khoảng 10 ÷ 36 nm khi tổng hợp trong dung môi ethylene glycol
và khoảng 9 ÷ 26 nm khi tổng hợp trong dung môi glycerol.
2. Vật liệu Ag nano tổng hợp được có khả năng xử lý rất tốt đối với vi sinh
trong nước nhiễm bẩn, tốt hơn đáng kể so với vật liệu Ag dạng khối.
3. Keo nano Ag tổng hợp được không chỉ có hoạt tính diệt khuẩn, mà còn có
khả năng chống nấm mốc, có khả năng ứng dụng trong bảo quản thực phẩm.
II. KIẾN NGHỊ
Để có thể tiếp tục phát triển các kết quả nghiên cứu đã đạt được trong khóa
luận này, chúng tôi đề xuất các hướng nghiên cứu tiếp theo như sau:
1. Tổng hợp nano Ag trong một số dung môi polyol khác như glucose,
sorbitol,... để tìm ra dung môi tối ưu nhất cho phương pháp này.
2. Khảo sát với một số chất ổn định khác như PVA, chitosan,... để tìm chất
ổn định tốt nhất.
3. Khảo sát sự ảnh hưởng của nồng độ ion Cl - có trong dung dịch ban đầu, độ
dài chuỗi poly(vinyl pyrrolidone) đến kết quả sản phẩm thu được.
4. Nghiên cứu động học của quá trình hình thành hạt nano Ag.
5. Nghiên cứu phương pháp phủ bạc nano lên bề mặt vật liệu sao cho sự thất
thoát qua việc chùi rửa, chà sát là ít nhất. Chẳng hạn, có thể đưa nano bạc vào sản
phẩm qua quá trình nóng chảy của vật liệu. Ngoài vật liệu gốm, silicagel, có thể tiến
hành mang bạc nano lên nhiều vật liệu khác như: vải, giấy,... để mở rộng phạm vi
ứng dụng của vật liệu nano Ag.
6. Kiểm tra nguồn nước hoặc thực phẩm sau khi xử lý vi sinh bằng vật liệu
nano Ag có thể dùng trực tiếp được hay không?
7. Đưa ứng dụng của vật liệu nano Ag vào thực tiễn chứ không chỉ dừng lại ở
phạm vi phòng thí nghiệm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Vũ Đình Cự, Nguyễn Xuân Chánh (2004), Công nghệ nano điều khiển đến
từng phân tử, NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
2. P. Jain, T. Pradeep (2005), “Potential of silver nanoparticle - coated
polyurethane foam as an antibacterial water filter”, Biotechnologies and
bioengineering 90, 59 - 63.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 55


 : Khóa luận tốt nghiệp

3. Bui Huy Du, Dang Van Phu, Nguyen Ngoc Duy, Nguyen Tri Quoc, Nguyen
Thi Kim Lan, Vo Thi Kim Lang, Ngo Vo Ke Thanh, Nguyen Thi Phuong
Phong, Nguyen Quoc Hien (2007), “Preparation of colloidal silver
nanoparticles in poly (N-vinylpyrrolidone) by γ-irradiation”, Proceedings of
IWNA, pp. 226 - 231.
4. K. McGrath (2006), “Nanosilver kills germs and promotes healing”, Quantum
Sphere.
5. Thu Uyên (2007), “Ứng dụng nano bạc trong sản xuất hàng tiêu dùng”, Tạp
chí công nghiệp hóa chất 04, pp. 32.
6. www.nanoine.com
7. The Royal Society and the Royal Academy of entineering (2004),
Nanoscience and nanotechnologies: opportunities and uncertainties, London.
8. Vũ Đăng Độ (2003), Hóa học nano và định hướng nghiên cứu ở khoa hóa
trường ĐHKHTN, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
9. http:// www.nanosilver.com.vn
10. Yiwei Tan, Xinhua Dai, Yong jang Li and Daoben Zhu (2003), “Preparation of
Gold, Platium and Silver nano particles by the reduction of their salts with a
weak reductal Potassium bitartrate”, Journal of Materials Chemistry 13, pp.
1069 - 1075.
11. S. Ayyappan, R. Srinivasa Gopalan, G.N. Subbanna, C.N.R. Rao (1997),
“Nanoparticles of Ag, Au, Pt and Cu produced by alcohol of salfs”, Journal of
Materials Research, Vol 12, No.2.
12. Chien - Liang Lee, Chi - Chaowan, Yung - Yun wang (1999), “Syntheis of
Metal NanoParticles Via Self – Regulated reduction by an Alcohol surfactal”,
Advance Functional Materials 11, No.5.
13. Nguyễn Đức Nghĩa ( 2007), Hóa học nano, NXB Khoa học tự nhiên và Công
nghệ, Hà Nội.
14. Pingli, Juan Li, Changzhu Wu, Qing sheng Wu and Jian Li (2005), “Synergistic
antibacterial effects of β – Lactam antibiotic combined with solver
nanoparticles”, Nano technology 16, pp. 1912 - 1917.
15. A. Fini and A. Breccia (1999), “Chemistry by microwaves”, Pure Appl. Chem
71, pp. 573 – 579.
16. Kay E. Gibbons, Martin O. Jones, Stephen J. Blundell, Amalia I. Mihut, Ian
Gameson, Peter P. Edwards, Yuzuru Miyazaki, Neil C. Hyatt and Adrian Porch

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 56


 : Khóa luận tốt nghiệp

(2000), “Rapid synthesis of colossal magnetoresistance manganites by


microwave dielectric heating”, Chem. Commun., pp. 159 - 160.
17. O.P. Thakur, Chandra Prakash and Dinesh Agrawal (2002), "Structural and
Electrical Properties of Microwave Processed Barium Titanate ceramics", Int.
J. Ceram. Process. Research 2, pp. 75 - 79.
18. J.Y. Hwang and X. Huang (2004), “Microwave Heating Method and
Apparatus for Iron Oxide Reduction”, W.O 5, pp. 356 - 360.
19. E. Kubel (2005), Industrial Heating 43.
20. Shengtai He, Jianian Yao, Peng Jiang, Dongxia Shi, Haoxu Zhang, Sishen Xie,
Shijin Pang and Hong Jun Gao (2001), “Formation of silver Nano Particles
and Self – Assembled Two – Dimensional and Catalytic effect of CS 2 –
Stabilizer silver Nano particle in Aqueous Solution”, Langmuir 17, pp. 3795 -
3799.
21. B.G. Ershov and E.A. Abkhalimov (2006), “Mechanism of silver nucleation
upon the radiation – induced reduction of its ions polyphosphate – containing
aqueous solutions”, Colloid Journal, vol. 68, No. 4, pp. 417 – 424.
22. S. Navaladian, et al (2007), “Thermal decomposition as route for silver
nanoparticles”, Nanoscale Res Lett 2, pp. 44 – 48.
23. S. Anil Kumar, et al (2007), “Nitrate reductase – mediated synthesis of silver
nanoparticles from AgNO3”, Biotechnol Lett 29, pp. 439 – 445.
24. Rita Patakfalvi, Zsanett Viresnyi, Imre Dékány (2004), “Kinetics of silver
nanoparticle growth in aqueous polymer solutions”, Colloid Polym Sci 283, pp.
299 – 305.
25. Sudipa Panigrahi, et al (2004), “General method of synthesis metal
nanopaticles”, Journal of Nanoparticle Research 06, pp. 411 – 414.
26. H.H. Huang, X.P. Ni, G.L. Loy, C.H. Chew, K.L. Tan, F.C. Loh, J.F. Deng, and
G.Q. Xu (1996), “Photochemical Formation of Silver nanoparticles in Poly (N –
Vinylpyrrolidone)”, Langmuir 12, pp. 909 – 912.
27. X. Chen, H.J. Schluesener (2008), “Nanosilver: A nanoproduct in medical
application”, Toxycology Letters 176, pp. 1 – 12.
28. A.V. Vegera and A.D. Zimon (2006), “Synthesic and Physicochemical
Properties of Silver Nanoparticles Stabilized by acid Gelatin”, Russian Journal
of Applied Chemistry, Vol. 79, No. 9, pp. 1403 – 1406.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 57


 : Khóa luận tốt nghiệp

29. K.L. Mittal, Dinesh O. Shah (2002), Adsorption and aggregation of surfactants
in solution, Vol. 109, pp. 255 – 270.
30. Ulrica Backman, et al (2002), “The effect of boundary conditions on gas –
phase synthesized silver nanoparticles”, Journal of Nanoparticle Reseach 08,
pp. 117 – 124.
31. M. Quinten (2001), “The color of finely disperse nanoparticles”, Appl. Phys. B
73, pp. 317 – 326.
32. Rita Patakfalvi, Szilvia Papp and Imre Dékány (2007), “The knetics of
homogeneous nucleation of silver nanoparticles stabilized by Polimers”,
Journal of Nanoparticles Reseach 09, pp. 353 – 364.
33. Hongjin Jiang, et al (2006), “Variable frequency microware sythesis of Silver
nanoparticles”, Journal of Nanoparticles Reseach 08, pp. 117 – 124.
34. K. Patel, S. Kapoor, Dave D.P, T. Mukherjee (2005), “Synthesis of nanosized
silver colloids by microwave dielectric heating”, J. Chem. Sci 117, pp. 53 - 56.
35. Zhu Y.J, Hu X.L (2004), “Microwave-assisted polythiol reduction method: a
new solid-liquid route to fast preparation of silver nanowires”, Materials
Letters 58, pp. 1517 - 1519.
36. M. Tsuji, K. Matsumoto, P. Jang, R. Matsuo, Tang X.L, Kamarudin K.S.N
(2007), “Roles of Pt seeds and Chloride anions in the preparation of silver
nanorods and nanowires by microwave-polyol method”, Colloids and Surfaces
A: Physicochem. Eng. Aspects.
37. Đặng Văn Phú, Bùi Duy Du, Nguyễn Triệu, Võ Thị Kim Lang, Nguyễn Quốc
Hiến (2008), “Chế tạo keo bạc nano bằng phương pháp chiếu xạ sử dụng Poly
vinypyrolidone/Chitosan làm chất ổn định”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ.
38. Nguyễn Quốc Hiến và cộng sự (1993), Tạp chí Hóa học, T. 31, số 01, pp. 12 -
13.
39. Nguyễn Quốc Hiến và cộng sự (2001), Tạp chí Khoa học và Công nghệ, T. 39,
số 02, pp. 57 – 64.
40. Nguyễn Quốc Hiến và cộng sự (2007), “Nghiên cứu chế tạo nano bạc bằng
phương pháp chiếu xạ”, Tạp chí Hóa học và Ứng dụng, số 03, pp. 63 – 70.
41. Vũ Thị Thanh, Nguyễn Quốc Hiến, Trần Thị Tâm (1992), Tạp chí Hóa học, T.
30, số 02, pp. 31 – 33.
42. Đỗ Thị Lý (2007), Chế tạo và khảo sát tính chất hạt nano bạc, Khóa luận tốt
nghiệp, Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 58


 : Khóa luận tốt nghiệp

43. Nguyễn Cửu Khoa, Cao Văn Dư, Trịnh Thị Thanh Huyền (2009), Tạp chí hóa
học, Vol. 47, No. 4A, pp. 596 – 600.
44. Nguyễn Cửu Khoa, Cao Văn Dư, Phạm Hoài Tín (2009), “Nghiên cứu tổng
hợp nanocomposite bạc/poly vinylancol”, Hội nghị Vật lý chất rắn và Khoa
học vật liệu toàn quốc lần thứ 6 (SPMS – 2009), Đà Nẵng.
45. Phạm Trung Sản, Trương Anh Khoa, Nguyễn Hoàng, Vũ Thị Chính Tâm,
Huỳnh Hoàng Như Khánh, Thái Thị Hòa (2008 ), Điều chế nano bạc bằng
phương pháp hóa siêu âm (sonochemical) dùng để tẩm các vật liệu vải chống
khuẩn hiệu năng cao, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Viện Nghiên cứu
và Ứng dụng công nghệ Nha Trang, Khánh Hòa.
46. Nguyễn Ngọc Khoa Trường (2008), Chế tạo và nghiên cứu các tính chất vật lý
của kim loại bạc có cấu trúc nano, Luận văn Thạc sĩ, trường Đại học Khoa học
Huế - Đại Học Huế, Thừa Thiên – Huế.
47. Ngô Võ Kế Thành, Nguyễn Thị Phương Phong, Đặng Mậu Chiến (2009),
“Nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn của tấm vải cotton ngâm trong dung dịch
keo nano bạc”, Tạp chí phát triển Khoa học và Công nghệ, T. 12, Số 03, pp. 69
– 76.
48. Nguyễn Thị Phương Phong, Ngô Võ Kế Thanh, Phan Huệ Phương (2009),
“Chế tạo vật liệu nano bạc mang trên mút xốp polyurethan ứng dụng lọc nước
uống nhiễm khuẩn”, Tạp chí phát triển Khoa học và Công nghệ, T. 12, Số 07,
pp. 48 – 57.
49. Nguyễn Thị Phương Phong, Hàn Khởi Quang (2010), Nghiên cứu chế tạo khẩu
trang diệt khuẩn theo công nghệ nano, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bình
Dương.
50. Trần Linh Thước (2006), Phương pháp phân tích vi sinh vật trong nước, thực
phẩm và mĩ phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội.
51. D.R. Lide (1994), Handbook of Data on Organic Compounds, CRC Press.
52. P. Jiang, S.Y. Li, S.S. Xie, Y. Gao, L. Song (2004), Chem. Eur. J. 10, pp. 4817
– 4823.
53. M. Tsuji, Y. Nishizawa, K. Matsumoto, N. Miyamae, T. Tsuji, M. Kubokawa
(2006), Materials Letters, 60, pp. 834 – 838.
54. http://vietsciences.free.fr/khaocuu/nguyenlandung/cautructebaovk.htm
55. ME – Plas (2006), AB – 3P Anti – Bacteria Nano – Silver.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 59


 : Khóa luận tốt nghiệp

56. Jung W.K, Koo H.C, Kim K.W, S. Shin, Kim S.H, Park Y.H (2008),
“Antibacterial activity and mechanism of action of silver ion in Staphylocccus
aureus and E. Coli”, Applied and enviromental microbiology 74, pp. 2171 -
2178.
57. Lê Thị Loan Chi (2008), Nghiên cứu quá trình điều chế nano bạc bằng phương
pháp hóa học, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chi Minh, Thành phố Hồ Chi Minh.
58. Brown, J., M. Sobsey (2004), Ceramic filter augmentation for improved
reduction of viruses in drinking water, University of North Carolina,
Presentation at WHO conference. (Bộ lọc hạn chế sự ptrien của vi rut trong
nước)
59. Doris van Halem (2006), Ceramic silver impregnated pot filters for household
drinking water treatment in developing countries, Master of Science Thesis in
Civil Engineering. (Bộ lọc nước bằng gốm tẩm nano bạc trong hộ gia đình ở
các nước đang ptrien)
60. Nardo, R. (2005), Factory Startup Manual: For the Production of Ceramic
Water Filters. (nhà máy khởi động bằng tay đối với sản xuất gạch lọc nước)
61. Hagan, J.M., Harley, N., Pointing, D., Sampson, M., Smith, K., and Soam, V.
(2009), Resource Development International – Cambodia Ceramic Water
Filter Handbook – Version 1.1, Phnom Penh, Cambodia.

: Nguyễn Thị Trúc Ly – Sư phạm Hóa A K30 Trang 60

You might also like