Professional Documents
Culture Documents
Địa Chí Huyện Đô Lương - Phần 2
Địa Chí Huyện Đô Lương - Phần 2
đạo thông qua việc xây dựng cơ chế, chính sách, xây dựng quy
hoạch và cơ sở vật chất để phát triển và đã mang lại hiệu quả kinh
tế - xã hội đáng kể. Cụ thể:
Sau khi bến đò Lường không còn hoạt động nữa, chợ Lường
được di chuyển đến nhiều vị trí khác nhau, cuối cùng được chuyển
về xã Tràng Sơn và đến khoảng năm 1994 - 1995 thì không còn
hoạt động nừa.
Xác định Dịch vụ thương mại là một trong những ngành kinh tế
mũi nhọn trong thời kỳ đổi mới nên huyện đã quy hoạch và từng
bước xây dựng kết cấu hạ tầng các cụm Dịch vụ thương mại để
nâng cao chất lượng phục vụ và hiệu quả kinh tế.
Cuối những năm 1990, Trung tâm Thương mại Đô Lương được
xây dựng, có diện tích hơn 13.000 m2 với trên 800 ki-ốt, hơn 1.000
tiểu thương kinh doanh buôn bán, trở thành Trung tâm Thương mại
lớn nhất của huyện.
Khu Trung tâm Thương mại Vườn Xanh được quy hoạch với
diện tích trên 15 ha - là khu đô thị - thương mại kiểu mới với các
công trình thương mại, siêu thị, dịch vụ công cộng nhằm tập trung
dịch vụ cho các chung cư cao tầng hiện đại kết hợp với khu nhà ở
biệt thự liền kề đã được thiết kế và tổ chức thi công.
Hệ thống chợ được củng cố và phát triển. Bên cạnh các chợ vùng
như: chợ ú (Đại Sơn), chợ Vịnh (Thái Sơn) và chợ Năn (Giang
Sơn), mỗi xã đều có một chợ (30 chợ/33 xã)1, hoạt động vài giờ mỗi
ngày, là nơi trao đổi mua bán các mặt hàng thiết yểu hàng ngày, tạo
thành một hệ thống chợ thương mại hoàn chỉnh, phục vụ nhu cầu
giao thương, trao đổi hàng hoá, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Các loại hình dịch vụ thương mại ở Đô Lương phát triển đa
dạng, phong phú như dịch vụ hàng bách hoá, ăn uống, điện tử, điện
dân dụng... Các thành phần kinh tế tập thể, cá thể là lực lượng chủ
yếu tham gia vào loại hình dịch vụ thương mại.
mắt, không qua mọt công đoạn cân đo nào Cá người mua lân ké
bán đều biết ước lượng đúng khối lượng I^i^diuvên
Ngoài ra, người mua trâu, bò cày cũng p ái san soi c u
tuông ’ trau, bo: phai chọn con to. cao, ngoại hình cân1 đổi tốt nhát
là loại có xoay ờ bà vai. khi mua còn phái xem ‘i"h,nịt, bới cũng
co con dữ, con hiền, con tó nghe lời, con “phàn chú’, Th 0 các cụ
cao niên, trâu" bò không chi la đầu cợ nghệp màcòn_báo ‘rước gia
chủ gặp phúc hay họa Người nông dân nào đi chợ cũng đêu thuộc
lòng câu: “Đầu tang, xoáy tóc, hàm sà. Trong ba thứ ấy cửa nhà ra
đi”, đó là tiêu chí cần tránh hàng đầu.
Chợ trâu, bò còn là dịp để nhiều người đến tham khảo giá cả thị
trường và học hỏi kinh nghiệm mua bán, chọn giống. Những cuộc
gặp gỡ ngẫu nhiên, những cái bắt tay, tiếng kêu rống của trâu, bò,
tiếng mặc cả, cãi vã giữa dòng người bước vội... trong phiên chợ
trái ngược hẳn với sự yên bình vốn có của làng quê.
Ngoài ra, ở đây còn có các chợ lớn khác như Chợ Vịnh (Thái
Sơn), Chợ Năn (Giang Sơn)... Các chợ quê thường hoạt động
theo biểu thời gian như trước đây. Khu vực quanh chợ phần lớn
đã trở thành thị tứ, suốt ngày người mua kẻ bán tập nập. Riêng
ngày chợ phiên thì đông hơn rất nhiều. Chợ không những là nơi
mua bán trao đổi hàng hóa, nhất là nông sản, thực phẩm mà còn
là nơi sinh hoạt văn hóa, giao lưu tình cảm của nhiều lứa tuổi của
cả một vùng.
2. Các loại hình dịch vụ khác
Ngoài lĩnh vực dịch vụ thương mại là chủ yểu, các hoạt động
kinh doanh dịch vụ khác trên địa bàn phát triển khá đa dạng. Trong
đó có dịch vụ nông nghiệp, vận tải đường bộ, đường sông, dịch vụ
tài chính - ngân hàng.
2.1, Dịch vụ nông nghiệp: Hoạt động dịch vụ nông nghiệp chủ
yếu thông qua các hợp tác xã kiểu mới sau Khoán 10 gọi là hợp tác
xã dịch vụ nông nghiệp và hợp tác xã tín dụng. Giai đoạn 1996 -
2000, toàn huyện có 22 hợp tác xã dịch vụ nông nghiêp và 8 hợp
tác xã tín dụng hoạt động theo Luật Hợp tác xã, đảm bảo phát huy
vai trò của kinh tế hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Năm 2013, huyện có 39 hợp tác xã dịch
vụ nông nghiệp với nhiều loại hình dịch vụ: giống, thuỷ lợi, thuốc
bảo vệ thực vật, thú y, thụ tinh nhân tạo, điện dân dụng, làm đất,
thu hoạch, vật tư kỳ thuật... Nhìn chung, các hoạt động dịch vụ
phục vụ sản xuất nông nghiệp đã cơ bản đáp ứng được các nhu cầu
về sản xuất và sinh hoạt cho nhân dân. Bên cạnh đó còn có hàng
trăm tổ hợp sàn xuất và doanh nghiệp được.thành.lập theo Luật
Doanh ngMệp hoạt động có hiệu quá trong khuôn' ^chinh sách
pháp luật đĩtạò động lục thúc đầy quá trinhsán xuất nông nghiệp
Làng nghề
dâu tằm Xuân Như
(xã Đặng Sơn)
A. VĂN HỌC
J N?nh Viết Giao: Nghệ An toàn chí' kể dân gian xứ Nghệ’Nhà xuất
bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2013, tr 153 -156.
ĐỊA CHÍ HUYỆN ĐÔ LƯƠNG
đai. Vùng Vĩnh Hòa tức Khe Bố (nay thuộc huyện Tương Dương),
vùng Cự Đồn (nay thuộc huyện Con Cuông), vùng tổng Nam Kim
ở Nam Đàn, rồi một số vùng khác ở Nghi Xuân, Thạch Hà, Kỳ Anh
(Hà Tĩnh)... là do ông chiêu dân lập ấp và sử dụng tù binh để khai
thác. Tại nơi trấn trị (thuộc huyện Đô Lương ngày nay), ông đã lập
đạo quân Nghiêm Thắng, tăng cường lực lượng quân sự để giữ yên
bờ cõi. Ông cũng tiếp tục chủ trương đào và nạo vét các đoạn sông
Đa Cái ở Hưng Nguyên, kênh sắt ở Nghi Lộc; kênh Son, kênh Dâu
ở Quỳnh Lưu để nói với sông Bà Hòa ở Ninh Bình qua Thanh Hóa.
Ông còn khởi xướng việc đắp đê sông Lam để bảo vệ nhân dân và
sản xuất vùng trong đê, tạo thuận lợi trong việc giao thông - tiền
thân của đê 42 sau này. Mặt khác, ông còn cho tu sửa Thượng Đạo
Bắc Nam từ Nghệ An ra Thanh Hóa rồi ra Ninh Bình để đến Thăng
Long và cho mở thêm nhánh lên Kỳ Sơn, Trấn Ninh (chủ yếu nay
là đất Lào). Ông khuyến khích việc phát triển nông nghiệp, thường
xuyên khuyên răn nhân dân phải trồng dâu nuôi tằm, chăm lo cày
cấy làm ăn. Vì the, nhân dân Nghệ An, miền xuôi cũng như miền
ngược rất mến phục kính nể ông.
Vào một năm, các bộ lạc ở Chiêm Thành sai sứ sang cầu viện.
Ông được triều đình phái đi giúp đỡ. Đem thủy binh vào thẳng cửa
Thị Nại (Quy Nhơn bấy giờ), ông đóng quân dưới chân núi Tam
Tòa. Các bộ lạc Chiêm Thành nghe tin ông đến đem lời hòa dụ, đều
hàng phục và xin theo mệnh lệnh của chúa Chiêm Thành bởi trước
đó, ông đã có công lớn trong việc thắng chúa Chiêm Thành.
Mùa xuân năm Giáp Thân (1044), vua Lý Thái Tông kéo quân
thẳng tới cửa biển 0 Long đánh tan quân Chiêm, giết được vua
Chiêm là Sạ Đẩu. Tháng tám năm đó, kéo quân thắng trận về đến
hoành doanh Nghệ An, vua vời Lý Nhật Quang ra yên ủy và trao
quyền tiết việt (quyền được bổ nhiệm quan lại, phong thường, xử
các án lớn, điều khiển các tướng sĩ... mà không cần chiếu chì hoặc
phê duyệt của vua hoặc triều đình trong một địa phương) ở châu
Nghệ An, lại gia phong tước “vương”.
Được như thế là vì trong cuộc đánh Chiêm Thành, nhà vua giao
cho Lý Nhật Quang việc vận tải quân lương. Lý Nhật Quang đã lập
ra hoành doanh (trại) dọc kênh nhà Lê từ sông Bà Hòa (Ninh Bình
- Thanh Hóa) vào Nghệ An rồi cho dựng đồn bốt bằng đất, để thu
tô, thuế từ Thanh Hóa, Nghệ An cất giữ cho quân đội, bởi vậy, khi
quân sĩ của vua Lý Thái Tông hành quân đên đâu lương thực co san
ở đấy, nhà vua khen lắm, nên mới có việc gia phong từ tước hau
lên tước “vương”.
Ngoài ra, Lý Nhật Quang còn nhiều phen đánh lui quân các bộ
tộc ở biên thùy phía Nam và phía Tây môi khi sang gay răc roi,
quấy nhiễu bờ cõi Đại cồ Việt. Ạ
Năm 1060, quân Ai Lao làm phản, sang đánh phá miên Tây
Nghệ An. Lý Nhật Quang đem đạo quân Nghiêm Thăng đi dẹp.
Thắng trận rồi, khi kéo quân về đến khe Chè, phía dưới Thành
Nam, thuộc Yên Khê, Con Cuông bây giờ, bà con địa phương vui
mừng đón rước.
Trước tấm lòng kính mến, vồn vã của bà con, ông hê hả câm cái
điếu cày, hút một hơi dài, rồi đặt điếu xuống đât. Nào ngờ chịêc
điểu là một đoạn tre đằng ngà lộn ngược. Nên sau đó, từ chiêc đieu
mọc lên một cây tre cũng vít đầu xuông rôi mới trô thăng lên trời.
Từ một cây tre trở thành một bụi. Sau này, ở khe Chè có loại tre
mọc ngược là vì vậy.
Dần quân về núi Quả ở Đô Lương, ông qua đời. Vùng Bạch
Ngọc còn lưu truyền một bài vè bổn chữ nói vê Lý Nhật Quang,
đoạn đầu như sau:
ở đất Bạch Ngọc,
Có đất Hàm Rồng
Cây cao cội cả,
Lá tốt rà rà,
Trên có bảy tòa,
Đều xây mái ngói,
Bốn mùa hương khói,
Thờ Đức Thánh ta.
Nguyên trước ngài là
Con vua nhà Lý,
Ra trị tinh ta
Mười chín năm tròn.
Náo nức tiếng đồn,
Mưa nhân gió đức.
Sau ngài đánh giặc,
Trên Trân Ninh vê
Núi Quả gần kề,
Dừng chân nghỉ chút.
Gặp một Bà Bụt,
Có mười hai tay
Xin hiến đất này,
Huyết thực vạn đại.
Ngay chưng khi ấy,
Phút hóa thành thần.
Vậy trước xã dân,
Lập đền phụng tự.
Từ đó về sau, ngoài những kỳ tế lễ hàng năm vào các dịp
Nguyên đán, Nhị nguyệt, Đoan ngọ nhân dân tổ chức Lễ hội đền
Quả Sơn, trong đó Đại lễ được tổ chức 3 năm một lần cả trên bộ lẫn
dưới sông: “lệ nhất định rồi, ba năm một khóa, vui mừng hội cả,
trên bộ dưới sông...”1.
1 Nghệ An - Di tích danh thắng, Nhà xuất bàn Nghệ An, 2005, tr 175.
một cô gái sắc nước hương trời đang vừa hát, vừa thu dọn xếp đặt
các đồ vật trong ngôi nhà lá nhỏ bé của mình. Ngạc nhiên, chàng
tỷ tê hỏi mãi mới biết được nàng chính là hươu sao mà chàng đã
cứu chữa trong rừng. Nàng là Bạch Ngọc, con gái Ngọc Hoàng ở
Thiên cung, vì vô ý làm vỡ bình ngọc quý, nên bị Ngọc Hoàng đày
xuống trần gian ba năm. Thấy phong cảnh núi đá Yên Mỹ hùng vĩ,
nàng đã chọn làm nơi trú ngụ. Biết chàng hiền lành, trung hậu, quà
cảm, nàng hóa hươu sao để thử lòng chàng. Đinh Phụng vô cùng
cảm động, nguyện cùng nàng kểt duyên vợ chồng. Mối tình đơm
hoa kết trái, Bạch Ngọc đã sinh cho Đinh Phụng một bé trai khỏe
mạnh. Thấm thoắt, thời gian Bạch Ngọc bị đày xuống trần gian đã
hết. Một hôm từ khu rừng nơi chàng đang săn bắn, bỗng thấy sấm
chóp ầm ầm nổi lên ở phía ngôi nhà của mình. Đó là lúc Bạch
Ngọc từ biệt cha con Đinh Phụng trở về thiên cung như giao ước
của Ngọc Hoàng.
Đinh Phụng cảm thấy lòng dạ xốn xang, vội vàng đội mưa, vượt
gió trở về ngôi nhà của mình thì thấy mọi vật của tình vợ chồng đã
hóa đá. Đó là tảng đá giống hệt bầu vú của người phụ nữ đang nuôi
con, dòng sữa tí tách chảy ra không bao giờ cạn. Dòng sữa đó chính
là những giọt thạch nhũ từ trong tảng đá có hình vú sữa từ từ rơi
xuống. Nàng Bạch Ngọc trở về Thiên cung nhưng bên chiếc giường
trong buồng hạnh phúc vẫn để lại cho đứa con của Đinh Phụng một
bầu sữa căng. Đinh Phụng lập một ngôi miếu nhỏ hương khói ngày
đêm tỏ lòng thương nhớ Bạch Ngọc. Trong ngôi miếu bằng đá đó
có một phiến đá giống y hệt hình tượng người mỹ nữ, tóc buông
xõa ngang vai, khuôn mặt trái xoan với đôi mắt chan chứa tình cảm
sâu nặng với Đinh Phụng. Nén hương Đinh Phụng đốt để thương
nhớ vợ từ ngày ấy tới nay vẫn còn bốc khói.
Cảm động trước cảnh ngộ của cha con Đinh Phụng, con voi
chàng thường cười đi săn và muôn loài vật khác cũng đều hóa đá.
Đó là những phiến đá giống con voi có ngà, con sư tử có bờm, con
gấu, con lợn, con khỉ, con chim đại bàng, chim hoàng anh... cũng
chính là những loài vật đã mang hoa quả của núi rừng về nuôi con
trai Đinh Phụng
Lòng buồn bã khôn nguôi, Đinh Phụng làm một chiêc đàn đê tâu
lên nỗi đoạn trường đau đớn của mình. Ngày nay, vào hang cứ gõ nhẹ
vào tảng đá giống chiếc đàn ấy đều nghe được những âm thanh thánh
thót trữ tình kỳ lạ. Đinh Phụng cũng có lúc táo bạo nổi trống lên để
đòi Ngọc Hoàng cho nàng Bạch Ngọc trở vê trân gian với mình.
Đến nay, trong tâm trí các cụ già còn nhớ rõ một đoạn vè giàu
chất sử thi phản ánh thiên tình sử bi thương đó:
“Đây còn một cái ô
Của nàng tiên Bạch Ngọc Đây căn buông hạnh phúc Chan chứa
tình yêu mơ Vú đá mà ngây thơ
Hiện về trong huyền thoại...
...Chuyện ngàn năm xa quá
Ngỡ vẫn còn mới nguyên”.
Vào đời Lê, tri huyện Lương Sơn, phủ Anh Đô có ba vợ. Một
hôm trời mưa, quan gọi ba vợ lại, hỏi: “Các bà nhờ ai?’
Người vợ cả đáp: “Chúng tôi nhờ quan”. Người vợ thứ hai cũng
trả lời như vậy. Quan lấy làm hài lòng, bèn hỏi vợ ba, ngươi vợ ba
nói: “Tôi chi nhờ trời”. Quan huyện tím mặt mắm môi quát: “Mày
nhờ trời thì ra ngoài trời mà nhờ, tao không chứa may nưa. Cut
ngay lập tức”.
Bị đuổi khỏi nhà, người vợ ba cắp quần áo ra đi giữa lúc trời mưa
tầm tã. Đi về đâu bây giờ? Đang bơ vơ, chị gặp một anh nông dân
lam nghề đánh giậm, trạc ngoài ba mươi tuôi. Anh nay song mọt
mình trong một túp lều giữa đồng tại xã Bạch Đường. Trông thay
người đàn bà ăn mặc có vẻ người nhà quan, áo quân ươt như chuọt
lột, anh rụt rè nói: “Bà ơi, nếu bà không ngại, mời bà vao tạm tru
trong cái lều này cho qua cơn mưa”.
Chị ta vội đáp: “Xin đừng kêu tôi bằng bà, hoàn cảnh cùa tôi
chng bơ vơ như anh thôi. Cám ơn anh lăm!”.
1 Ninh Viết Giao: Văn hóa dân gian xứ Nghệ, tập 2, Nhà xuât bàn Chính tri Quôc gia,
Hà Nội, 2004, tr 356 - 357.
Ngồi trú một lúc, nghe anh nông dân kế lể sự tình, chị rất cảm
động và ngỏ lời xin ở cùng anh.
Hai người sống với nhau rất thuận hòa êm ấm, làm ăn ngảy càng
khấm khá. Một hôm, vợ nói với chồng: “Mình sống cả đời ở giữa
đồng, không có bạn bè thân thích, lỡ khi gặp hoạn nạn biết lấy ai
mà nhờ. Bây giờ, anh đi tìm người hiền kết bạn, còn công việc nhà
cửa đã có tôi lo”.
Biết vợ nói phải nhưng ở một mình giữa đồng đã lâu, lại làm
nghề đánh giậm nên anh không biết thế nào là người hiền, thế nào
là người ác. Anh bèn hỏi vợ: “Người hiền là người như thế nào?”
Vợ bày cho anh, người hiền là người không hay nói. Nghe lời vợ,
anh ra đi. Anh đi mấy ngày liền, tìm mãi thấy người nào cũng hay
nói. Có một hôm, anh đi qua cửa đền Quả, thấy một người đang
đứng ở cửa đền suốt ngày mà không nói một lời. Anh mừng quá,
xin kết bạn với người ấy. Người ấy, không xa lạ, chính là ông Phỗng
đá ở đền Quả, cách nhà anh không xa.
Anh hớn hở về khoe với vợ là đã tìm được người bạn rất hiền.
Người vợ liền đưa cho anh một số tiền để thinh thoảng mua rượu
thết bạn. Từ đó, cứ dăm hôm một lần, anh mua rượu đem ra đền
Quả ngồi uống và chuyện trò với bạn. Có một hôm, anh cho bạn
uống rượu nhiều quá, bạn say túy lúy, nằm kềnh ra cửa đền.
Dân làng đi qua, thấy ông Phỗng nằm dài ra giữa đất, sợ quá,
hàng chục người hò nhau dựng dậy nhưng không nâng nổi. Bỗng
họ thấy anh xách một be rượu đến và nói: “Bác, bác dậy uống rượu,
say gì mà nằm lâu thể!”. Quả nhiên, người bạn của anh lồm cồm
ngồi dậy. Mọi người rất lấy làm lạ. Từ đó, anh có thêm nhiều bạn
quen biết. Vợ anh rất mừng.
Một hôm nghe tin nhà vua có truyền lệnh tuyển lính để dẹp giặc
ngoại xâm. Anh suy nghĩ mãi, rằng có nên đăng lính hay không. Vợ
anh biết ý, nói với anh: “Anh hãy đăng lính đi và tìm ông bạn hiên
để nhờ ông ấy giúp cho mưu kế dẹp giặc.”
Đăng lính, xông pha trận mạc, anh lập được nhiều chiến công.
Chiến thắng ngoại xâm, ca khúc khải hoàn, anh được nhà vua
thưởng công lớn và ban cho một chức quan võ, đứng vào hàng tam
tứ phẩm triều đình.
Ngày thưởng công, nhà vua cho lính vê đón vợ anh ra kinh đô đê
cùng dự ban yến. Rồi nhà vua cho vợ chồng anh vê thăm quê. Ngày
ây, nhà vua bắt toàn dân phủ Anh Đô phải đón rước. Tri huyện sở
tại là chồng cũ của vợ anh cũng phải mũ áo chỉnh tê đi nghênh đón.
Lúc nhận ra người ngồi trên võng đòn cong là vợ cũ của mình và
người cưỡi ngựa oai phong đi trước là anh chàng đánh giậm khi
xưa, Tri huyện Lương Sơn thẹn quá, về nhà thăt cô tự tử.
Cuối đời Trần, ở tổng Bạch Hà, huyện Đô Lương có một người
học giỏi, trí cao, thông kinh sử, tính tình cương trực mà lại có lòng
nhân ái, không đi thi, không chen vào trường danh lợi, thường tìm
nơi vắng vẻ để dạy học. Nghe tiếng ông, học trò xa gân đên học
đông lắm. Trong số học trò cần cù, chuyên cân của ông có một anh,
không ai rõ quê quán ở đâu, con nhà ai, gia cảnh như thê nào. Anh
ta rất thông minh, học rất giỏi. Đã mấy lân, thây dò hỏi lý hch, song
anh ta đều tìm cách giấu quanh. Thầy liên cho mây học trò cùng lứa
tuôi theo dõi. số học trò liền đi theo, thây sau khi tan học, ra khỏi
trường, anh ta đi dọc theo con sông. Đen chỗ vắng người, anh giả
cách xuống sông rửa chân rồi biên mât. Họ vê báo lại VƠI thay.
Thây biết vậy, để bụng.
Vào một năm trời làm hạn hán, cây cỏ héo khô, hoa màu cháy
sạch, xóm làng tiêu điều, người ăn xin, chêt đói đây đương. Thay
đô buồn lắm. Có hôm cả buổi, thây chăng nói một câu nao. Học
trò nhìn thấy thầy đang để tâm trí vào những vât vả, khon kho cua
nhân dân.
Thấy thầy ỉu xìu, anh học trò kia lân la hỏi chuyện đê biêt duyên
cớ. Thay ôn tồn nói: “Con không biết hay sao, trời hạn đã lâu, ao
hô cạn sạch, bốn phương cơ khổ, đã nhiêu nơi câu đảo ma nao trơi
có mưa cho. Cảnh tao loạn sắp sửa tới nơi rôi . Anh học tro ây thưa:
1 Ninh Viết Giao, Kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ, tập 1, Nhà xuât bàn Nghệ
An> 1993, trĩ 10
“Thầy ơi! đức của thầy như núi cao, như biển cả. Con rất biết bụng
thầy. Con xin đền ơn thầy dạy dỗ. Ba ngày nữa trời sẽ mưa to. Mưa
xong, thầy đến khúc sông Lường sẽ gặp con”.
Quả thật, ba ngày sau, trời mưa như cầm trình mà trút. Đồng
điền nước trắng băng. Ếch nhái mừng reo kêu inh ỏi. Cây cối trở lại
xanh tươi khoe màu mát rượi.
Y lời hẹn, thầy đồ đến khúc sông Lường để gặp người học trò kia.
Thầy ra đi từ sáng, chờ mãi, trời đã về chiều mà anh học trò ấy vẫn
không thấy đến. Gần tối, bỗng mây kéo đen kịt, một trận gió lớn nổi
lên, khúc sông Lường cuộn sóng. Thầy nhìn xuống thì thấy một đầu
Rồng nổi lên, máu nhầy nhụa, mặt sông loáng đỏ, thì ra đó là con
Long Vương. Một hôm, Long Vương hóa thành con ếch xanh, nhảy
nhót dạo chơi qua nơi thầy đồ ngồi dạy học. Thấy thầy giảng bài hay
quá, nó dừng lại chăm chú lắng nghe, sau đó hóa thành một chàng
trai đến xin thụ giáo. Vì để lộ thiên cơ, Long Vương bị vua cha trùng
phạt. Đêm hôm ấy nằm mơ, thầy đồ thấy người học trò cũ hiện ra,
nói: “Thầy ơi, thầy đừng ân hận gì về con”.
về sau, thầy đồ đem câu chuyện ấy kể cho nhiều người nghe.
Vùng Đô Lương bây giờ ở hai bên động Tù Và nhờ trận mưa ấy mà
xóm làng lại yên vui nên lập đền thờ Long Vương. Đen làm mãi tận
đỉnh động Tù Và.
1 Ninh Viết Giao, Kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ, tập 1, Nhà xuất bàn Nghệ
An, 1993, tr 304.
trâu bò đi theo đó, cứ luẩn quẩn quanh bà. Cả lũ trẻ mục đồng trong
làng cũng vậy. Đàn trâu bò béo ra trông thây và sinh sôi nảy nở
thêm nhiều. Trong làng, ai cũng khen ông chú khéo nuôi được
người đàn bà chăn bò mát tay.
Nhưng đến ngày 12 tháng 6 âm lịch, bà leo lên ngọn núi cạnh
làng và đi đâu mất. Người ta cho bà là người nhà trời, có lôi gì đó
bị giáng xuống trần gian và gọi bà là bà Chúa Nhâm và lập đên đê
thờ. Đến ngày ấy, thường khi dân làng làm giỗ bà, trời cũng âm u.
Chuyên thứ 2: ở làng Yên Lại có câu chuyện cô tích vê bà Chúa
Nhâm, con gái họ Nguyễn Đức. Chuyện kê răng: trong làng có hai
ông bà họ Nguyễn Đức đã lớn tuổi mà chưa có con. Một hôm, bà
đi gánh nước thấy có một ngôi sao sa vào trong lu nước. Vê sau,
khi uổng nước đó, bà thụ thai và sinh ra một bé gái xinh đẹp khác
thường. Lớn lên, cô gái được vua Lê Thánh Tông (niên hiệu Hông
Đức 1460 - 1497) lấy làm thiếp. Một năm sau, bà qua đời khi đang
tnang thai, thi thể của bà được vua cho mang vê quê chôn cat, lãng
rnộ được xây tại Động Lăng (xóm Đông Xuân), tiên môn lăng tự có
lời đề tựa “Hồng Đức Cung Lăng”. Đồn thờ Thánh Mầu đặt tại xứ
Độ (làng Yên Lại cũ). Nhà vua cắt 68 mâu ruộng giao cho họ
Nguyễn Đức lo việc thờ cúng, tế tự. Hàng năm, họ Nguyên Đức
cùng nhân dân trong xã đều làm lễ tưởng niệm bà.
_1 Dựa theo truyện kể của cụ Hoàng Văn Oánh trong cuốn Bạch Ngọc bên dòng Lam,
lộp 4, Nhà xuất bản Văn hóa -Thông tin, Hà Nội 2013, tr 169.
tích của vị thần làm nhiệm vụ xây núi. Vị thần xây núi cao to, vạm
vỡ mà bây giờ có nói cũng không ai tin. Ông cha gọi vị thần ấy là
“Ông Đùng”.
Ông Đùng đào đất và vác đất trên vai để đi xây núi. ông đào đất
bằng tay, không cần cuốc, thuổng. Ông đã xếp những tảng đất, đá
thành một dải chạy từ Tây sang Bắc, đó chính là dãy núi phía Tây
Bắc như một bức tranh đồ sộ che qhở cho Bạch Đường.
Ông Đùng có bước đi dài vạn dặm. Có lần, ông bước bàn chân
phải xuống một vùng đất bằng phang, dấu bàn chân ông đã in sâu
xuống đó thành một vùng đầm lầy. Nơi có dấu tích bàn chân phải
của Ông Đùng nhân dân gọi theo tiếng địa phương là “Đồng Chân
Ngài”1 ở xã Giang Sơn, huyện Đô Lương. Nghe nói dấu bàn chân
trái ông Đùng để lại trên đất ở mãi huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
Khi vác đất xây núi, Ông Đùng có để vung vãi ra một ít cục đất
vụn, người ta bảo đó là cồn Rú cấm, cồn Lang (ở làng Phúc Yên),
Cồn Đót Nậy, cồn Đót Nhỏ (ở làng Trạc Thanh), cồn Rú Nghè,
Nhân Trung (ở làng Nhân Trung), cồn Kẻ Mẻn, cồn Rú Nghé (ở
làng Phúc Hậu), cồn Rú cấm (ở làng Nhân Bồi), cồn Chọ Môn (ở
làng Tập Phúc).
Đến mọt lam co một ông quan nôi tiấrẹ1 tài gmi mớ nhậm chức
ó phù-Một hôm, quan chèIgọi hào lý Tật
lên một chiếc thuyên neo ớ cồn Nội rồi
sòng Lam. Thuyền chở quan và hàọ lý hai làng' ngược ùng ê“
do chợ Lở (nay la ben đo Bắc Sơn qua Lam Sơn), quan cho g
T^Tlruyín kỉ cùa « Hoàng Vàn oách trong cuốn Bạch Ngọc M. đòng I™.
1 Ninh Viết Giao: Văn hóa dẩn gian xứ Nghệ, tập 3 (Truyện cười và giai thoại), Nha
xuất bàn Nghệ An, tr 772.
hội ăn mừng. Đặc biệt, làng quy định cho ông Tú được chọn1 bất: cứ
một thửa vườn, ngoi nhà nao trong làng mà ông ưng ý nhât thì dọn
đến ở. Làng sẽ bồi hoàn cho chủ cũ thật thỏa man. ,
Người ta khiêng ông Tú lên võng điều, rước đi khăp làng đê ông
chọn nhà nhưng ông không ưng ý đâu cả. Người bàn nên1 chọn vưjm
này, kẻ bàn chọn nhà nọ, ông vẫn lắc đầu. Mãi đên lúc vê qua ngõ,
ông Tú bèn chi vào túp lều tranh của mẹ con mình ở mà nói: Tôi
xin làm cái nhà này”. ' , Ẵ ,
Mọi người đều ngạc nhiên nhưng rồi hiểu ra ý ông Tú th rât cám
động. Dân làng liền góp nhaụ lại giúp ông Tú dựng nêp nhà gô ba
gian. Đó là ngôi nhà ông ở đên trọn đời.
Tương truyền vào đầu thế kỷ XVI (khoảng năm 1512), Mạc
Lăng Dung lộng quyền, sau đó lật đổ nhà Lê để tranh ngôi vua. Bà
Lùi Thị Ngọc Thuỵ - vợ của vua Lê Chiêu Tông đang mang thai
phải chạy loạn đến làng Vĩnh Long thuộc tông Bạch Hà (nay là xã
Thái Sơn) trú ẩn. Trước khi đến đây, bà đã ngồi yên thai ở một tảng
đá cách đình làng ngày nay khoảng 500 m về phía Tây. Sau đó bà
smh hạ một người con trai đặt tên là Lê Ninh.
Lê Ninh lớn lên trong sự cưu mang của những người dân địa
phương Khi trưởng thành, Lê Ninh được Nguyễn Kim - Lê CỊH1
thân Hưng Quốc Công đón sang Ai Lao (Lào) lập làm vua, lấy miếu
h’ệu là Trang Tông. Lê Trang Tông có công lập lại nhà Lê và tại vị
được 16 năm (1533 - 1548), đến ngày 19.01 năm Mậu Thân thì mất.
Trảng nhớ ông, dân làng lập miếu thờ ở phía Nam làng Vĩnh Long
Tị trí gần đình làng Long Thái hiện nay) với ba gian bằng gỗ lim
đè thờ tự. về sau, dân làng còn dùng miếu để thờ tự các vị Đe
Vương như trong bản Cựu Lê sự tích và các vị Đại Vương, Đại
Thần, Thượng Đẳng thần, Trung Đẳng thần, các vị Thần bản xứ,
tl , llleo tời kể của các cu cao tuổi và các ông thợ mộc trong lang Long Thai, xã
rilái Sorn.
bản cảnh có công phục quốc, các vị danh nhân văn võ, các vị Thần
tổ các dòng họ trong địa phương.
Điều kiện kinh tế xã hội phát triển, đời sống dân làng khá giả,
hòa cùng trào lưu xã hội trong việc xây dựng, chỉnh tu đình, chùa,
miếu mạo, khắc phục tình trạng không đủ chỗ trong các dịp tế lễ,
đến thời Thiệu Trị năm thứ 2 (1842), chức sắc và dân làng quyết
tâm xây dựng thêm ngôi đình mới năm gian bằng gỗ mít. Bởi thế,
dân gian ở đây có câu:
“Đình lim ta đã có rồi
Ta làm đình mít ta ngồi thong dong”
Với lòng nhiệt thành của mọi người, công việc được tổ chức
triển khai hết sức khẩn trương, chu đáo:
Chưa tới một tháng
Gỗ đã về đến nhà.
Mực thước làng ra
Lấy trào hai bốn.
Từ cội chí ngọn
Dứt khoát thước hai
Người lo việc mua gỗ, người lo tìm thợ giỏi để làm. Khi làng có
thông báo chiêu thợ, có rất nhiều phó mộc xin được làm đình.
Nhiều lần bàn định về kiểu cách, giá cả, làng loại những người
không thuận ý; 18 bác phó còn lại ai cũng có ý hay, có tay nghề
giỏi, ai cũng xin làm để làng toại nguyện. Không biết chọn ai, làng
đành tổ chức bắt thăm chọn người trúng thầu:
Mười tám bác phó
Nguyện giữa đình trung
Thấy ai mất lòng
Xin làng đừng lấy
Viết một tờ giấy
Đem ra bắt thăm
Bắt trửa nguyện đông
Bắt nhằm ông phó Hoạch
Ông phó Hoạch vô cùng mừng rỡ, cùng với ông có ông phó Lơn
người trước đó có giao kèo với ông phó Hoạch là nếu trúng thì làm
chung mỗi người làm một nửa. Trong nỗi vui mừng, ông thôt lên
lời câu nguyện:
Cầu nửa đình cho khéo. Khéo mực khéo meo. Khéo cả tâm oai
Ông phó Loan - một bác phó giỏi, có đội ngũ thợ khéo tay mặc
dù ra sức trình bày ý tưởng, rồi lại cầu khấn đê được làm nhưng khi
bắt thăm không trúng thầu nên rất buồn. Tuy vậy, ông rât tâm đăc
với việc làm đình Vĩnh Long. Như trời định, làng giao cho ông việc
giám sát kỹ thuật, ông thường xuyên theo dõi từng bước tiên triên.
Đến hôm dựng đình xong, biết ông phó Hoạch có sai sót vê kích
thước, cấu trúc của đình như: đình cao, bẩy ngắn. Không muôn góp
ý trực tiếp sợ mất lòng mà hỏng việc, ông giả dạng người đi câu cá
qua đình mà phán rằng: “Đình ni khi tế mà gặp mưa thì quan viên
uớt áo, quan lão ướt quần”, ông phó Hoạch nghe thây liên hiêu ra
sai sót của mình, ông hết sức khâm phục và bối rối trước tài năng
của người câu cá mà không nhận ra đó chính là ông phó Loan. Có
lẽ sau đó, ông có tham khảo ý kiến của người câu cá về việc xử lý,
ông phó Loan đã mách nước cho ông là phát cột và làm thêm bộ lá
ruái rui trái. Nghe lời khuyên, ông tính toán và tô chức triên khai
ngay công việc.
Lại một cuộc thi đua mới giữa các thợ mộc, thợ chạm trô, thợ
rèn. Thợ mộc đảm nhiệm việc cắt cột, làm bộ lá mái rui trái; thợ
chạm trổ chạm phần trang trí của rui trái; thợ rèn, rèn đinh và hoa
săt trang trí trên rui trái. Sợ làng phát hiện ra lỗi mà bị phạt nên
công việc phát cột phải tiến hành vào ban đêm, chỉ một đêm, toan
bộ 24 chân cột đã được phát táng xong, toàn bộ phân cột bỏ đi đêu
được phi tang dìm dưới ao Phe hoặc cầu Đồng Rao (sau này, một
su người nhặt được đem về làm đô kê trong nhà hoặc khoet lam thơt
côi giã gạo). Rui trái được chạm trổ tinh xảo có đủ Long, Ly, Quy,
Lhụng, bầu riệu (bầu rượu), túi thơ, chim, hoa tuyệt đẹp. Tai hơn ca
!à các bác thợ rèn với đục chạm sắt thô sơ mà tạo được những bông
h°a gắn đầu đinh rui trái sắc nét, đẹp như thật, chính họ là tôp thợ
doạt giải trong cuộc thi này.
Quả là linh thiêng, một công trình được hội tụ đầy đủ cả sức
mạnh kinh tế, sức mạnh trí tuệ, hội tụ đủ đầy các tài năng, sự đồng
thuận của mọi người dân, chức sắc trong làng: Nhờ đó, đã tạo dựng
ngôi đình làng đồ sộ, uy nghi, để cho thế hệ sau này được chiêm
ngưỡng nét văn hóa xưa qua bàn tay tài ba của những người thợ.
2 Sạch Ngọc nay là ba xã Bồi Sơn, Lam Sơn, Ngọc Sơn thuộc huyện Đo Lương
3 Tôt dà dà: xum xuê, rất tốt. .. . • 1 L-í. *•
Bày tòa: ý nói đền Quà Sơn có bảy tòa gồm 3 tòa chính điện, hai tòa hữu vu, ta vu,
°a ca vũ và tòa nghi môn.
Thờ đức Thánh ta1
Nguyên trước ngài là
Con vua nhà Lý...
Bài vè cũng mô tả chi tiết việc tế lễ trong các năm và đại tế ba
năm hai lần vào tháng giêng:
Hai mươi rước ngược
Hăm mốt rước xuôi2
Lệ nhật định rồi
Ba năm hai khóa.
Vui mừng hội Cả3
Trên bộ dưới sông
Bốn chiếc thuyền rồng
Mũi lê lái bải.
Chèo cạy hai mái
Trống giục hai hồi
Hai chiếc thuyền bơi
Mũi quỳ hợp lại...
Hát sẳc bùa trong đêm Ba Mươi hoặc rạng sáng Mồng Một là
nét văn hóa rất đặc trưng trước đây của người Đô Lương. Một
phường sắc bùa thường có 15 em (từ 10 đến 16 tuổi), sử dụng 4 đên
5 nhạc cụ gõ. Nội dung các bài hát sắc bùa thường chủ yếu chúc
tụng gia quyến làm ăn trong năm phát đạt, thịnh vượng. Bài ‘‘Xúc
xích là đêm ba mươi” phản ánh khá xúc động điều này:
Xúc xích là đêm ba mươi
Chúng tôi đình đám trửa (giữa) cươi (sân) nhà bà
Không tin bà thắp đèn ra,
Chúng tôi vào nhà hút thuốc nghỉ chân.
Đặt bộ chén rượu mùa xuân,
Rượu rót ba tuần mở thưởng quan hai.
Thình thình trống đánh quan sai,
Mợ sinh mợ đẻ con trai tốt lành.
1 Phụng hiến: dâng, đây có nghĩa là hối lộ. Sau khi mất bãi, dân phải chạy chọt lên quan.
1 Mùng Sáu tháng Giêng chưa rõ năm nào, theo người đọc cho ghi đó là năm Quý Tỵ.
2 Truông Lững: Đoạn truông đi từ Trụ Pháp (Mỹ Thành, Yên Thành) lên Hòa Sơn (ĐÔ
Lương). Như vậy, đây là người ở Công Thành, Liên Thành... đi đắp đường chợ Khuôn.
Bà đi trưa hắn không cho nhập
Sông thì đào cứ cấp
Một thước được có hào hai...
Tuy vậy, nông dân Đô Lương tinh thần lạc quan với công việc
đông áng, kẻ sĩ thì chăm chỉ việc sách đèn, người thuyền thợ vui
với cái đục, cái chày hay cái bai, cái búa... Những người làm nghề
buôn bán với đòn gánh trên vai vẫn ngược xuôi qua chợ này đến
chợ nọ, dù buôn chuyến hay buôn vặt. Bài “Chợ Lường họp lại vui
thay ” phản ánh rất rõ điều đó. Chợ Lường ở thị trấn Đô Lương, là
tụ điểm giao thông của cả bộ lẫn thủy, dưới lên, trên xuống, trong
ra> ngoài vào. Hơn nữa, chợ lại nằm giữa một vùng khá trù mật. Đời
Lý là tỉnh lỵ của xứ Nghệ. Bài vè ca ngợi chợ Lường phản ánh sự
phong phú của các sản vật, hàng hóa được bán ở chợ:
Chợ Lường họp lại vui thay,
Đàng Đông lúa gạo, đàng Tây tru bò.
Xã đã khéo lo,
Lập lều hai dãy.
Hàng sồi hàng vải,
Thì kéo lên đình.
Hàng xén xung quanh,
Hàng thịt hàng lòng ở giữa.
Ngong vô trửa (giữa) chợ,
Chộ (thấy) thị với hồng.
Dòm ngang xuống sông,
' Chộ thuyền với lái...
Bài vè kết luận:
Tôi xuống chợ Phuống
Tôi lên chợ Dừa
Chợ Dinh, chợ Kè
Không nơi mô vui bằng chợ
Lường ờ nơi tôi cả.
Ngoài ra cón có một số bài vè khác sưu tầm dược ở làng Đông
lch> xã Trung Sơn. “Nhân vật trung tâm” đều là người làng, làm
những “nghề” khác nhau, tính tình cũng rất khác nhau nhưng
dường như tất cả họ đều nghèo, đều phải vất vả lăn lộn kiếm sống,
phải đập quả sung, nhặt quả cà kiu mà ăn. Dù vậy, họ vẫn luôn lạc
quan, hát hò với cây nhị, cây đàn. Làng quê ấy cũng là hình ảnh thu
nhỏ của mảnh đất Đô Lương những năm đầu thế kỷ XX:
Kéo nhị hoe Sáu
Nói láu đồ Từ
Thả lừ hoe Hạp
Đập sung hoe Kiếng
Có duyên bà đồ
Hướng Sung sướng bà đồ
Cát Hay hát 0 Điu
Hay ăn cà kiu bà Ý
Lý sự bà Hoe Thoài
Lặn lội có tài o Đăng
Đểnh đoảng o Quyền
Sai chuyền ả Đỉu
Tiu nghỉu ả Bường
Lập lường bà cu
Kiếng To tiếng bà Nuôi
Đãi buôi ả Đề
Nhất tệ bà cố Hành
Hiền lành cố đồ Bạt
Cười lạt ả hoe Tư
Cừ nhừ bà xã Nợi
Ngồi đợi bà cu Ngàn...
Cũng như ca dao nói vê tình yêu trai gái, vè tình yêu trai gái ơ
Đô Lương là tiếng nói của con tim với những lời ướm hỏi tình tứ,
những câu trao duyên ý nhị, những lời xe kết diết da. Cách tỏ tình
của họ thường là qua miếng trầu: bài vè Cau vàng trù quê thật ỉữ
thể hiện sinh động điều này:
...Cau vàng trù quế thật là
Em têm em bửa đưa ra chào mừng
Thật kẻ ả Hằng cung Quế
Thật con người Lan - Huệ - Trúc - Mai
Thật là sắc thật là tài,
Thật con người ngọc sánh bài với nhau
Đôi ta ăn miếng trâu cau,
Thật trăm năm cũng nhớ... A 1X
ở đay'ta cung gặp lại nhưng mối tình dó-dang, côgái phái fây
chong xa, không hạnh phúc VỚI những nỗi lo lắng xót xa, â à
tình thế hết sức bi đát:
Con gái mà lấy chồng ngái (xa),
Cách núi cách non
Khi chưa có con,
Đi về đôi bận.
Qua năm qua tháng
Có con rồi thơ thẩn đât ngươi.
Đau đớn khúc nôi,
Cha già em cũng bỏ,
Mẹ già em cũng bỏ...,
(Bằi vè Con sai mà lấy chồng xa) ____
„ Trong ttah yêủ, không í “ “':lựxtcô âi
Sau đây là lời dặn bạn tình của một chàng tra1 đái với một cô. gii
yêu "uỉíĩ.^rhìnoTnhtttgđiêuphaileđêcôdâu
nhắc đến tinh xưa nghĩa cũ mà chỉ nói nl ư g 1 u nai 1 uu cu «
an à với nhà chông sao chõ “sau đẹp n*-™ " họ hàng ’
đừng suy hơn nghĩ thiệt, đừng so sánh VƠI ngươi
Dặn cội dò cây,
Anh dặn em một noi
Cũng như thầy mẹ dặn con.
Dặn trên búp trên non,
Dặn những lời giải tỏ
Giá như con tằm đang nhỏ,
Vây trong hộp trong cơi.
Sau thành sự ra rồi,
Tơ hoàn thành một nỗi1...
£.mài lù £"^X*****2
Mp trong cơi, nâng niu bảo vệ, chiều chuộng. Như g y g
đà thành tơ, phải dệt để dùng và đem ra chợ ban.
Kết thúc bài vè, chàng trai nhấn mạnh:
Em đừng làm đồ nhăng nhíu,
Trước không phải với chàng.
Sau đẹp mặt với anh em họ hàng,
Trước sau, sau trước.
(Bài vè Dặn cội dò cầy)
Một số bài vè phản ánh tình trạng éo le trong chuyện hôn nhân:
Đêm năm canh nằm không vò võ, gió lại lọt rèm mà xót xa cho thân
làm mọn “ai tham lắm thì thâm, ai lừa lắm thì lầm; sau ra rồi mới
biết cái kẻ làm mọn nó như thế nào”:
Hoa thơm chọn kén đất trồng,
Em là con gái nỡ bõ công dồi mài.
Tuổi mười tám đôi mươi,
Đang thì xuân hoa nở,
Xuân đang thì hoa nở
Nói cũng chưa đến nỗi,
Thua sắc với kém tài.
Duyên số bởi tại ai,
Bởi tại thầy với thầy
Bởi tại thầy với mẹ
Thầy tưởng đường đã được,
Mẹ tưởng đường đã được,
Được mẫu ruộng con bò,
Của người ta cấp cho
Thầy tưởng rằng đã khá,
Mẹ tưởng rằng đã khá...
(Bài vè Em trả của em về)
ở Đô Lương còn lưu truyền nhiều bài vè nói về quan hệ vợ
chồng, cha mẹ và con cái. Đặc biệt là những bài hát ru bằng vè. Hát
ru không chỉ ở thời điêm khi con đang khóc đòi ngủ mà con ngủ rôi
vẫn hát để đưa con vào giấc ngủ êm hơn, sâu hơn. Con bú dòng sữa
mẹ, nghe tiếng ru hời của mẹ là bắt đầu tiếp thu văn hóa loài người.
Từng phút từng giây mẹ truyền cho con những tình cảm, nhận thức,
ý nghĩa của cuộc sống. Lời vè, nhất là vè được hát với đi ệu
điệu hát ngâm, điệu hát nói đêu có sức truyen cam ™e'
biểu là nhưng bai ‘‘Thập ãn phụ mẫu ”, “Chữ thiên
kinh ”, “Phụ tử tinh tham ”... Dưới đâỵ xin trích một đoạn trong bài
“Phụ tử tình thăm ”l mà các bà mẹ vẫn thường hay hát:
.. .Thánh hiền là đạo
Đạo quá xá từ bi
Con lỗi đạo điều chi
Xin cha rày quá xá
Xin mẹ rày quá xá con ơi con
Đừng cậy thượng áp hạ
Con đừng đứa ghét đứa thương
Cũng nhất gia chi tử
Cũng giai bằng chi tử... . „Ao
Còn co nhựng bai vè noi ve cành cha.góa1 con côi, nhất là mẹ góa
con côi da diết, thê ìưOTg những day dứt trong tâm can ngườ
Vợ góa, nhất'là những người vợ góa đang ở độ xuân xanh Bao nô
đănỊcày nhung đắng cây nhất là nôi trơ họị, co.đơn, quạnh quẽ của
: To^^hêuS^n bg c
rtởí tình cmh"^\à bài vè hay nhài, được biết đến nhiều hơn cả:
12... , . . > Kĩ^iìớ Nhà xuất bàn Chính tri Quoc gia, tr 390
’ Ninh Viết Giao, về văn hóa dãn gian xư Ng . >
Sợ gió kép mưa đơn
Sợ rèm thưa gió thổi
Sợ thưa rèm gió thổi...
Ngoài ra, vè ở Đô Lương còn đề cập đen nhiều nội dung khác
như vè nói về triết lý sự đời, sự keo kiệt của kẻ giàu, thân phận
người đi ở, những người làm thuê hay châm biếm, chế giễu, lên án
thói hư tật xấu trong xã hội như lười nhác, cờ bạc, rượu chè...
Có thể nói, các bài vè mang tính lịch sử xuất hiện khá nhiều ở
Đô Lương, nhất là từ khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta.
Đáng chú ý là thời Tự Đức - thời kỳ triều đình phong kiến ươn hèn
với đối sách chủ hòa mà thực chất là đầu hàng đã dâng nước ta cho
Pháp. Hơn nữa còn cấu kết với thực dân Pháp đàn áp các cuộc khởi
nghĩa chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Các bài
vè thể hiện sự bức xúc trước hoàn cảnh nước mất, dân phải làm nô
lệ, phải chịu bao nỗi nhục nhã, khổ đau:
...Nỗi giừ khổ lắm ai ơi,
Âm dương nhiễu loạn khúc nôi nhiều bề
Loạn tiền kẻ chợ nhà quê,
Ham ăn tiền kẽm mà chê tiền đồng
Nơi ăn Minh Mệnh, Gia Long,
Thiệu Trị, Tự Đức đều không tiêu dùng.
Bán buôn đâu cũng cực lòng,
Lại thêm quỷ quái thần trùng sinh ra...
(Bài vè Sự tích đời Tự Đức)
Năm 1885, khi kinh thành Huế thất thủ, phong trào cần Vương
được khởi xướng. Khắp xứ Nghệ, làng xã nào cũng rộn rã trống mõ
Cần Vương.
Tại Đô Lương, tiến sĩ Nguyễn Nguyên Thành1 đã mộ quân khởi
nghĩa cùng thời gian với Nguyễn Xuân ôn. Nghĩa quân của ông
từng hoạt động ở Đô Lương, Tân kỳ, Nghĩa Đàn. Khi Nguyễn Xuân
1 Nguyễn Nguyên Thành người xã Đô Lương, huyện Lương Sơn (nay là xã Đông
Sơn, huyện Đô Lương), đỗ Tiến sỹ khoa Tân Hợi (1851), làm quan đến Hồng lô tự thiêu
khanh sung chức Tham biện nội các, nhân dân thường gọi ông là quan Hường.
ôn thất bại, ông kéo quân lên vùng Bãi sậy cây-Chanh.thuộc các
xã từ Kim Nhan lên đến ngã ba Tạm Sơn (Anh Sơn) đ|n phoi 1
vơi nghía quân Quản Bông đang hoạt động ờ vùngCon cnông đê
tính kế lâu dài. Nhùng không may ông bị đaunặng,có6 trong
1 Vi Phong: Dân ca Nghệ Tĩnh, Sở văn hóa thông tin Hà Tĩnh, 2000.
duyên của trai gái. Nguồn gốc của hát phường vải là tiêng hát xuât
phát từ lao động rồi trở lại phục vụ lao động ngay tại chô, là nhân
tô trọng yếu để tăng năng suất lao động. Hát phường vải ở Đô
Lương khác với các loại dân ca khác ở chô có sự tham gia của
những nhà nho và cũng theo một thủ tục gồm 3 chặng, 7 bước.
Chặng thứ nhất:
Hát dạo: Mở đầu cho một cuộc hát phường vải, bao giờ người ta
cũng phải hát dạo vài câu. Tối đến tại một gia đình làng nào đó, chị
em vác xa và đem con cún tập trung để kéo vải gọi là phường kéo
vải, gọi tắt là phường vải. Ban đầu các cô đàn hát với nhau cho vui
và động viên nhau kéo sợi. Một lúc sau, bên nam kéo đên. Đê cho
bên nữ biết mình đến hát, từ ngoài đường, ngoài ngõ, bên nam phải
hát lên vài câu. Hát dạo là của bên nam:
Nghe tin đây mới cưới phường
Anh là khách lạ trên Lường xuống chơi
Hoặc bên nam tỏ ra mình đã nghe tiếng tăm bên nữ, hôm nay đên hát:
Đồn đây có gái hát tài,
Để ta đối địch một vài trống canh...
Không chỉ bên nam hát dạo trước mà có khi bên nữ cũng hát
trước. Thấy các chàng trai bàn tán chộn rộn ngoài đường, cac co
không ngại ngùng e lệ, thánh thót cất lên tiếng hát:
Khoan khoan dóng trống mở cờ, Hình như nho sĩ tới bờ đào nguyên
Hát chào, hát mừng: Hát chào, hát mừng nhăm mục đích tăng tính
lịch sự của hát phường vải cho cả nam và nữ. Khi bên trai đen hat,
bên nữ thường chào mừng bằng những câu khá niêm nở, cung kính:
Mấy khi khách tới vườn đào,
Trăm hoa mủm mỉm ra chào đông quân.
Chào chàng quân tử một hai,
Song song nối gót xuân trai rỡ ràng.
Khi bên nữ đã hát chào, hát mừng rồi thì bên nam cũng hát chào,
hát mừng lại:
Đen đây mừng cảnh, mừng hoa
Trước mừng lân lý sau ra mừng nường,
Mừng nàng áo vải hồ tơ,
Cửi canh lão luyện, tay đưa mỏng mềm.
Hát hỏi: Khách đến nhà, chào mừng xong rồi thì phải hỏi quê
quán, tên tuổi của khách. Ở đây cũng vậy, bằng câu hát, bên nữ hỏi
bên nam quê quán ở đâu:
Hỏi chàng quê quán nơi nao,
Sao mà chàng biết vườn đào có huê?
Cha mẹ thế nào:
Chữ rằng hải hoác sơn cao,
Xuân thu nay đã bước vào tuần mô (bao nhiêu)?
Hỏi nghề nghiệp:
Hỏi chàng chơi chốn vườn hoa,
Chính chuyên nông, sĩ hay là công thương?
Ngoài ra, bên nữ còn hỏi về anh chị em, hỏi vì sao lại đến đây,
hỏi có vợ con chưa, nhà cửa thế nào...
Trong những câu hát hỏi đó của bên nữ, bên nam phải lựa để
đáp lại:
về quê quán:
Quê anh vốn ở Hoan Châu1
Họ Hoàng tên Giáp xuân thu đôi mười
Thấy em đã đẹp lại tươi,
Vậy nên đến gặp ngỏ lời tri âm.
về cha mẹ:
Thung huyên anh ngoại sáu mươi,
Cảm ơn đôi ả (cô) có lời hỏi thăm.
về nghề nghiệp:
Chữ rằng nhất sĩ nhì nông,
Đã hay kinh sử lại thông cày bừa.
Đối với những chàng trai đã tới hát nhiều lần, duyên tình đã bén,
các cô gái thường hỏi:
1 Hoan Châu: một trong những tên cũ của cà vùng Nghệ Tĩnh từ năm 1030 trở vê
trước. Hoàng Giáp: có lẽ không phải là tên thật, ý chàng trai khoe mình học hành đỗ đạt
cao là Trạng Nguyên, Bàng Nhãn, Thám Hoa và Hoàng Giáp.
VĂN HÓA
hỏi, hát than trách, hát ly tình. Phong phú nhất vẫn ỉà hát thương:
Anh thương em biết nói mần răng,
Lấy gió làm quạt lấy trăng làm đèn.
Có khi chàng trai thể hiện quyết tâm lấy được cô gái:
Anh mà không lấy được nường
Anh về tự vẫn sông Lường em ơi!
Họ ước mong:
Bây giờ trầu lại gặp cau,
Cũng mong ta ở với nhau một nhà.
Khi phải xa cách hoặc tạm biệt, nỗi nhớ nhung lại dâng trào:
Chàng về mai đã tới chưa
Đe em bưng bát cơm trưa đợi chờ
Hay
Anh xa em một tháng,
Nước mắt em lai láng hai mươi tám đêm ngày.
Khi nào gió đánh tan mây,
Sông Lam hết nước, em đây đỡ buồn.
Đích cuối cùng của hát xe kết là hát cưới. Khi hai bên đã thuận
tlnh, họ định cưới nhau. Bên nữ thách cưới bên nam:
Anh về liệu đủ trăm mâm,
Đe cho hai họ tri âm một nhà.
Anh về mua nứa làm giàn,
Để mời hai họ đưa hai ngàn nón sơn.
Từ chỗ thổ lộ nồi lòng với nhau đến chỗ xe kết rồi định lễ cưới,
Kh°ng phải lúc nào cũng trôi chảy mà có nhớ nhung khi xa nhau,
c° phân trần khi nghi ngờ nhau. Qua hát xe kết, ta cũng thấy nỗi
au xót oán hờn của bao trai gái trước cảnh tình duyên tan vỡ:
Tiếc thay cái đọi (bát) cơm vàng,
Đem xới cơm nguội lỡ làng duyên em.
Đau đớn thay cây quế gĩữa rừng,
Để quạ đen nó độ (đậu) đau lòng quế thay.
Ước gì con ác nó bay,
Phượng hoàng nó độ, quế nay bằng lòng.
Hát tiễn: Hát tiễn là hát lúc ra về. Nó là bước cuối cùng của một
cuộc hát phường vải. Dùng dằng lưu luyến là lúc này. Nói về nhưng
vẫn ở, ở rồi lại hát ra về, ra về nhưng đi không dứt. Thực ra đây là
sự thể hiện cao độ của bước hát xe kết, hai bên đã ý hợp tâm đầu,
tình nghĩa đã gắn bó, ra về sao được:
Ra về nhớ lắm em ơi,
Nhớ xa em kéo, nhớ lời em than.
Ra về nước mắt như mưa
Thấu thiên thấu địa mà chưa thấu lòng
Đôi bên chỉ muốn:
Ai lên nhắn với trăng già,
Nhủ trăng khoan lặn, nhủ gà khoan kêu.
Trên đây là thủ tục được trình bày một cách giản lược của một
cuộc hát phường vải. Rõ ràng, bước đi của nó rất tự nhiên, họp lý
mà cũng dồi dào ý tình thơ mộng. Qua đó, chúng ta càng thấy được
tại sao người dân Đô Lương nói riêng, người dân Nghệ Tĩnh nói
chung lại thích hát phường vải và bước đầu thấy được tính cách của
sinh hoạt hát phường vải. Những câu hát thể hiện được cái sâu thẳm
của lòng người, mang tính nhân văn cao cả mới có sức sống trường
tồn và mới được nhiều người hâm mộ.
Đã bao nhiêu năm, bên lũy tre xanh, tiếng hát phường vải đã làm
rung động bao trái tim, lôi cuốn bao tâm hồn với nỗi dam mê và
khát vọng. Tiếng hát đã quyện vào hơi thở, chạy theo các mạch
máu, nằm trong buồng tim khối óc của người dân. Những câu hát
khi não nùng đắm đuối, khi lưu luyến thiết tha, khi nhẹ nhàng tha
thiết, khi bát ngát mênh mông... đã kết lại một chùm hoa đây
hương sắc. Ở đây có đủ đau đớn, xót xa, yêu thương, mong nhớ,
xao xuyến băn khoăn, phấn khởi tin tưởng... với bản sắc riêng của
cư dân Đô Lương: mãnh liệt sâu sắc nhưng trầm lặng, kín đáo.
Tiếng hát đó mang nặng cõi lòng của bao đôi trai gái. Nhưng hát
phường vải không chỉ là tiếng hát yêu thương, tiếng hát hoa tình,
nó còn là tiếng hát căm thù uất ức với chế độ phong kiến hà khấc
bất công chà đạp lên quyền sống của con người. Nó còn là tiếng hát
ca ngợi lao động, ca ngợi những cảnh sắc của quê hương đất nước,
ca ngợi tinh thần dân tộc, lòng yêu nước thiết tha.
Vì vậy, sưu tầm nghiên cứu những câu hát phường vải cũng như
sinh hoạt văn hóa hát phường vải cùng các loại dân ca khác là góp
phần bảo vệ, phát huy những giá trị tinh thân của nhân dân, góp
phần xây dựng nền văn hóa mới của quê hương, dân tộc.
3.2. Ca dao:
Trong số những bài ca dao đã sưu tầm, bộ phận mang rõ săc thái
địa phương vẫn là những bài, những câu có gắn với địa danh, với
cành vật và con người Đô Lương. Nhân dân sáng tác những bài này
để bộc lộ cảm nghĩ, những nhận xét về quê hương, xứ sở của mình:
Đô Lương dệt gấm thêu hoa
Quỳnh Lưu tơ lụa dễ mà sánh đôi
1 Đặng Sơn, tên tổng trước đây, nay là các xã Đặng Sơn, Bắc Sơn, Nam Sơn thuộc
huyện Đô Lương. Vũng này xưa có nghề nuôi tằm, dệt lụa nên bên hữu ngạn sông Lan1
từ Thị trấn Đô Lương nhìn sang thấy toàn là dâu. Nay bà con đã khôi phục lại nghề này
2 Bãi Sậy tức vùng Cây Chanh. Bãi Sậy thuộc các xã Tam Sơn, Đình Sơn, cầm Sơn
thuộc huyện Đô Lương cũ, huyện Anh Sơn hiện tại. Trước nám 1945, đêu năm trong
phủ Anh Sơn. Đây là vùng đất rộng, phì nhiêu, trồng nhiều lúa và ngô.
3 Phú Văn: thuộc xã Thuận Sơn, nằm bên bờ sông Lam. ơ đây, dân có nghê trông daơ
nuôi tằm. Lạc ở Phú Văn có lẽ nhiều nhất ờ Đô Lương.
4 Phượng Kỷ thuộc xã Đà Sơn. Tràng Sơn là một xã ở mé trên thị trấn Đô Lương-
Yên Phúc tức xã Phúc Sơn, nay thuộc huyện Anh Sơn. Văn Tràng: tức hai xã Yên Sơn
và Văn Sơn thuộc Đô Lương. Trù ú: tức xã Trù Sơn, huyện Đô Lương. Bài này nói ve
các nghề thủ công truyền thống của các làng trên.
5 Thanh Lưu: nay thuộc xã Lưu Sơn, sát thị trấn Đô Lương, ờ đây có vải ngon nổi tiêng-
Muốn ăn khoai sọ chấm đường,
Em về giấu thầy, giâu mẹ ngược Lường VƠI anh.
'chợ Đón: loại chợ không chính thức, thường họp ở một địa điểm gần chợ lớn. Đây
là chợ Đón ở Yên Sơn mà cũng có thể là chợ Đón ờ Đà Sơn.
2 Lạng: tức vùng Dừa Lạng. Vực Cung, đò Gành: thuộc xã Trung Sơn (Đô Lương);
3 Rú Cấm, hồ Sen: đều ờ Đô Lương. Họ này: ờ đây là dòng họ Nguyễn Cảnh, nôi
tiếng với Nguyễn Cành Chân, Nguyễn Cảnh Dị đời Hậu Trần và Nguyễn Cảnh Hoan
đời Lê Mạc. Dòng họ này có tới 18 quận công. Bài này ý nói răng ngày xưa có những
dòng họ nhiều người làm nên, cha truyền con nối, tiếng tăm lừng lẫy khắp địa phương’
Thấy làm mà chửa thấy ăn
Thấy một đám cỏ dãi thân tối ngày.
1 Tổng tập Văn học Việt Nam - Hoan Châu kỷ, tập 8A, Nhà xuất bản Khoa học xã
hội, 1995.
Bang (sau đổi là Nùng Sơn, thuộc huyện Thanh Chương), sửa sang
hào lũy, đề phòng bất trắc. Nhân thể, ông cho mời các trưởng xã,
thôn, trang trong tổng cùng về họp, bàn răng: “Nay phúc nhà Lê đã
dời đổi, triều Mạc tiếm quyền, lòng ngựời dao động dân đên loạn
lạc. Bọn ta là đầu mục của một vùng, nên tập hợp và dân dãt mọi
người, phòng chống gian phi, để bảo vệ nhân dân, kiêu như Binh
Nguyên đời Hán, như vậy trước mắt há chăng khoái sao?’. NÓI vừa
dứt lời, mọi người đều tôn Huy lên làm trưởng đê chi huy, tât cả
đêu hứa sẽ nhất nhất phục tùng. Huy liên sai chuân bị trâu, rượu đe
tê cáo quỷ thần, rồi cùng nhau sáp huyêt (thời xưa, đê tỏ rõ quyet
tâm thực hiện một điều cam kết nào đó, trong hội thê người ta boi
huyết bên cạnh mồm, gọi là sáp huyêt) ăn thê. Ngay ngày hom ay
tô chức tuyển đinh tráng được hơn vài trăm người, có đay đu khi
giới, lập đồn sở để phòng chống giặc. Lúc ây bọn1 Mỹ Tích tự cho
mình là hùng mạnh, ngầm sai thù hạ hơn ba mươi tên tra trọn vao
dám người ứng tuyển để gây rối. Lại liên kêt VỚI nhom giạc khac
dê ứng cửu cho nhau, hình thành thê nội công ngoại kích, thưa sơ
hở đột nhập vào đồn trại...
Lại nói chuyện Nguyễn Huy giêt trâu khao quân. Trong khi an
uông thoải mái, không ai để ý đề phòng. Mọi người VUI say cho đen
lúc trời xế bóng. Bỗng thấy trong phòng bôc lửa, ngoài đương bụi
hay... Hoàng Hưu tử vội vàng gọi thuộc hạ mang vũ khi đen tạp hợp
trước cửa quận. Chợt nghe ngoài đường có tiêng hô to: “Đanh tơi
di”. Bao nhiêu gươm giáo hiện ra sáng quắc. Huy vây tay ra hiệu cho
thuộc hạ xông vào đánh địch và thét lên “Ai bãt được ten giạc kia se
trọng thưởng”. Bỗng ở cánh bên trái có một người nhảy ra, vưa nhạn
ra Mỹ Tích, một tên bợm lợi hại, liền đâm y chét ngay tại cho. Tat
cà đồng bọn đêu bỏ chạy tán loạn. Người giết được tên giặc kiaI là
ai? Mọi người đưa mắt nhìn, hóa ra là Nguyên Phúc Kỳ, tưc Phu Hẹ
bá> ở xứ Nùng Bang. Hoàng Hưu tử vẫy tay gọi lại, rót rượu khao
thưởng hết sức ân cần. Nguyễn Phúc Kỳ thưa răng: “Nay giặc cướp
đã tràn lan, chưa thể bắt het được, ta nên trở về bản trại đê nuôi
h°a lợi thu về rất nhiều, có cái ăn cái để, đời sống ôn định. Nào ngờ:
• *uv umvUj vv V/M.1 un VUI
Ơiươn J vr*1^ Lâm nay c,hia thành hai xà là Thanh An và Thanh Chi, thuộc huyện Thanh
ghi nk J ^ơl đày còn đền thờ Hoàng Hưu tử Nguyễn Huy. ở núi Phủ cũng có đền thờ
'hơ cônơ ’ 4».,------
;----- o----------
khai 1.1.*..
ơn l,L„:
°ng ưn khẩn đất Ihoang t ông.
cùa Ạ _
nơi ăn chốn nghỉ được hơn mười hôm. Không dè ở Đồng Luân sau
khi Nha Bạc bị đánh bại, có một tên giặc khác gọi là Hạc Lâm tập
hợp bè đảng chiếm giữ vùng này. Nghe tin Hoang Hưu tử trở lại
quê cũ, Hạc Lâm bèn kéo quân tới bao vây ngoài trại. Hoang Hưu
tử ra lệnh cho quân lính mang vũ khí xông ra đánh. Nhác thấy Hạc
Lâm, Hoang Hưu tử liền hỏi: “Mày là tên giặc chi mà dám đến trại
ta để chuốc lấy cái chết?”. Hạc Lâm nói: “Ta vỗ yên dân chúng, cả
miền này yên tĩnh gần được năm rồi. Thằng giặc già kia! Ngươi đã
phải bỏ sào huyệt chạy ra tận ven sông, cớ sao lại trở về quấy nhiễu
dân chúng?”. Hoằng Hưu tử nói: “Ta lấy điều nhân nghĩa để xử sự,
không dè lũ hung bạo chúng bay dùng lời lẽ dối trá để bắt bẻ ta!”.
Nói xong bèn thúc quân xông tới đánh vài hiệp đã bao vây bọn giặc,
chém chết Hạc Lâm, đem đầu bêu ở xứ Thạch Trúc. Hồi bấy giờ,
Hoang Hưu tử cùng các con tên Hoan và Hân khởi binh ở thôn
Chiêu Quả, tiêu trừ lũ hung bạo, cả vùng do đó được yên tĩnh, nhân
dân trở về nghề cũ cày cấy làm ăn.
Lại nói đến Nguyễn Kim, người xã Gia Miêu, huyện Tống Sơn
(nay là huyện Hà Trung, Thanh Hóa) dò tìm được người con của
Quang Thiệu đế tên là Lê Ninh lập lên làm vua lưu vong trên đất Ai
Lao, đổi niên hiệu là Nguyên Hòa, tức Trang Dụ Tông Hoàng đế.
Các hào kiệt miền Tây (chỉ vùng Thanh Hóa - Nghệ An) nghe tin,
phần nhiều đều theo về, được Thái sư Nguyễn Kim thu dụng cả.
Năm Bính Thân (1536), cha con Nguyễn Huy đến sầm Châu là nơi
vua ở để yết kiến Thái sư, nhờ Thái sư tâu lên triều đình, được vua
vời vào yết kiến, phong cho Huy tước Bình Dương hầu, con của
Huy là Hoan tước Dương Đường hầu. Cả hai cha con đều nắm binh
quyền để phòng khi có việc sai phái, ở đây, kí giả xin miễn nhắc tới.
Sau đó Huy mất, không nhớ là vào năm nào, hưởng thọ 64 tuôi,
chôn ở xã Nùng Bang (nay tránh tên húy của vua Anh Tông là Duy
Bang nên đổi xã Nùng Sơn), gần xứ chùa thôn Nùng, đặt tên
thụy là Huệ Nhật Phủ Quân (năm 2007, họ Nguyễn Cảnh đã xây
dựng mộ Phúc Khánh Quận công ở Thanh Ngọc, Thanh Chương,
cách khu lăng mộ cồn Vệ khoảng 1 km). Ngày 26 tháng Giêng năm
1549 (niên hiệu Thuận Bình thứ nhất), nhân khi lên ngôi, Trung
Tông Vũ Hoàng đế truy phong các vị cựu công thần, có gia phong
cho Nguyễn Huy là Dương vũ Dực vận Tán trị Công thần, hành hạ
TTghệ An đạo Đô tổng binh sứ ty Tổng binh sứ thiêm sự, Quản tri
hinh dân sự Bình Dương hầu, tặng Phúc Khánh Quận công), ông
S1nh hạ được năm người con trai, một người con gái.
Người con trai lớn tên là Noãn (do bà vợ người ở Hiến Lãng
Sinh). Người con thứ hai tên là Hoan, được phong Tấn Quận công
(đo bà họ Thái ở Đô Lương sinh). Người con trai thứ ba tên Hân,
được phong Trung Quận công (do bà ở thôn Mộ Cơ, huyện Thanh
Chương sinh). Người con trai thứ tư tên là Vãn, được phong Cường
Quận công (do bà ở giáp Tùy Cứ, xã Đại Đồng sinh). Người con
trai thứ năm tên là Chiêu, được phong Lập Quận công (do bà ở xã
Cao Điền, huyện Thanh Chương sinh). Người con gái tên là Ngọc
Hoành (lấy Đường Quận công, cùng mẹ với Lập Quận công).
Riêng người con trai thứ hai là Nguyễn Hoan lúc mới sinh có
đang mạo khôi ngô, lớn lên cương minh trí dũng, chuyên tâm thao
Uợc, xem rộng binh thư, tinh thông thiên văn, địa lý, sùng chuộng
bua phép, kỳ tài bí thuật vốn sẵn thiên bẩm, mong gặp thánh chúa
đê thỏa chí giúp đời. Hồi còn nhỏ theo cha là Huy khởi binh ở thôn
Ẹhiêu Quả, tiêu diệt được bọn gian ác. Lớn lên theo giúp vua Trang
T°ng ỏ hành tại sầm Châu, được phong Dương Đường hầu, dưới
AỊUyên điều khiển của Hưng Quốc công Nguyễn Kim (Dương
uờng hầu là hiệu cũ của Dương Quận công Nguyễn Hữu Liêu).
Hưng Quốc công bị đầu độc chết (Theo Đại Việt sử ký toàn thư,
'Ịam 1545, hàng tướng nhà Mạc là Trung Hậu hầu mời Nguyễn Kim
en dinh của y, ngầm bỏ thuốc độc vào quả dưa dâng lên mời Kim
do đó Kim bị ngộ độc mà chết), hai người con trai là Ưông và
oàng còn nhỏ tuổi. Người anh rể là Trịnh Kiểm, tước Dực Quận
c°ng, tức Minh Khang Thái vương, trước thường được Nguyên
ủy quyền đi đánh giặc, rất có tín nhiệm trong quân, nay vua
rang Tông cũng giao cho trọng quyền tiết chế, đôi làm Lượng
Quận công.
Sang năm sau, Thái vương thấy sách Vạn Lại (nay là xã Vạn Lại,
Uyện Thọ Xuân, Thanh Hóa) là nơi có thể lập hành tại, bèn sai thợ
xây cung điện, sửa sang hào lũy, trong thì nhà cửa cơ ngơi, ngoài
thì mấy lần cổng canh gác, tất cả đều cốt được kiên cố. Đen năm
Đinh Mùi 1547 (Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: việc này xảy ra
sớm hơn một năm, tức 1546), cung điện ở Vạn Lại hoàn thành. Thái
Vương cùng văn võ bách quan đem xa giá sang Ai Lao rước vua vê.
Thật là:
Tây nghênh bản thị quy An Áp,
Bắc hiệp phỉ tha hạnh Hứa Đô.
Nghĩa là: Lên miền Tây, chính là để rước vua về An Ấp (nơi Hạ
Vũ lập kinh đô), Ra phía Bắc, chẳng qua định ép vua tới Hứa Đô
(tức Hứa Xương, nơi Tào ép Hán Hiến đế tới để dễ bề khống chế).
Muốn biết xa giá nhà vua lên đường như thế nào, xem tiết sau sẽ rõ”.
HỒI HAI - TIẾT HAI
Nguyễn Quyện phục binh tòng Mạo Lạp
Tiết chế hoàng kim thục Tấn công
Nghĩa là:
Nguyễn Quyện phục binh noi Mạo Lạp
Tiết chế đem vàng chuộc Tấn công
(.. .tiết này nói việc Tấn Quận công bị sa vào tay Nguyễn Quyện.
Sau đây là đoạn viết về khí phách Tấn Quận công khi bị bắt, gôm
có 2 bài thơ tuyệt mệnh và đoạn đối thoại giữa Tấn Quận công và
Nguyễn Quyện):
...Mặc dù bị uy hiếp, chí ông vẫn bền, muốn để tiếng thơm cho
đời sau. Ông cầm bút viết bài thơ tuyệt mệnh rằng:
Nhân trung bẩm cương nghị,
Thế thương đốc trung trinh,
Thiên địa giang chính khí
Nhật nguyệt chiến chân tình
Lăng lăng thanh bất hủ,
Lầm lẫm tự do sinh
Sát phạt chư man quỷ
Tróc nhược chúng tà tinh
Chúng hữu chân tâm đào
Lai lâm tự luật linh
Nghĩa là:
Vốn tính người cương nghị
Trên đời tỏ trung trinh,
Chính khí rạng trời đất
Nhật nguyệt chứng nhân tình
Thanh danh truyền bất hủ
Lẩm liệt thác như sinh
Diệt hết loài gian dối
Trói bắt lũ tà tinh
Ai thật lòng cầu khấn
Ta sẽ đến rất nhanh
Lại viết thêm một bài thơ nữa, rằng:
Thế trụ thao kiềm,
Dàn đăng tướng súy,
Kiên trì kình tiết thanh,
Lưu thử đan tâm tử.
Thân thượng tri Lê Trịnh triều,
Diện khẳng tâm trung, nghĩa quỷ
Nhan Đường, Văn Tống liên tiền hiên,
Liệt nhật, thu sương thùy hậu thế.
(Hoàng triều Gia Thái tứ niên bát nguyệt Trung thu nhật, Tấn
Quận công đề thơ)
Nghĩa la:
Đời trao thao ấn
Tướng dũng trọng quyền
Giữ vẹn tròn tiết tháo
Chết để tấm lòng son
Thân còn biết triều Lê Trịnh
Mặt không thẹn ma trung nghĩa
Dương Châu khanh, Thiên Tường
Nắng hạ, sương thu truyền hậu thê.
(Ngày tết Trung thu tháng Tám năm Gia Thái thứ tư (1576) triều
e’ Tân Quận công đề thơ).
Làm xong thơ tuyệt mệnh, ông đem kèm với cuốn Dược tính
bằng chữ Nôm và văn thơ, điền bạ trao cho bọn Bố Lâm, Cha Bút,
Thăng Sủng mang về quê quán. Nhân đó, ông bảo 3 người rằng
“Tấn lão một dạ trung thành với vua, lấy việc diệt hết bọn tiếm
ngụy để khôi phục Hoàng gia làm điều tâm niệm. Ngỡ đâu măc
phải kế gian đến nông nỗi này, chỉ có chết mà thôi. Các anh về báo
giúp cho lũ con ta ở nhà phải hết lòng hết sức phò giúp Lê - Trịnh,
đưa sự nghiệp tới thành công đế nối chí. Chớ vì ta bị bắt mà nao
núng đạo thờ vua”1.
Lại nói Tấn Quận công bị giam giữ lâu ngày, sầu đau day dứt.
Một hôm, thấy Thanh Quận công Quyện từ ngoài bước vào thăm
hỏi. Quyện sai bày tiệc rượu để khoản đãi Tấn Quận công, nhân đó
hỏi Tấn Quận công có cần nói thêm gì nữa không. Tấn Quận công
đáp: “Số phận của Mô đã được định đoạt, chỉ mong có chết thôi”.
Thanh Quận công nói: “Hoàng triều không hám giết người, hà tât
phải cầu chết”. Tấn Quận công đáp rằng: “Ta thờ vua Lê chúa
Trịnh, chỉ nghĩ tới trung hiếu, muốn để tiếng thơm lại muôn đời.
Không may đến nước này, sống phải thác về, có gì mà phải sợ!”-
Quyện vờ cười nói: “Ta nghe ở thôn quê có câu sấm truyền rằng:
“Mô là cây của Mạc, nếu không được Mạc dùng, ắt sẽ thành tro
dưới mồ thôi”. Ý giả sấm truyền cũng muốn nhắc nhở Tấn công
đấy, thế mà Tấn công lại một mực không tỉnh ngộ. Tấn công cũng
câu sấm ngữ, ta há chẳng suy nghĩ sao, song thuở bình minh khi qua
chơi nhà ông ta thấy thân sinh của ông bảo ông tuy thông minh
nhung lười học nên mới đặt tên cho ông là Quyện, nhốt ông trong
thư phòng, có câu răn rằng: “Quyện là người của sách, vì quay lưng
lại sách quả nhiên bị cái nhục cầm tù”. Sao ông không nghĩ suy vê
điều đó?. Người đọc sách không thể làm trái sách. Trong sách co
nói: “Tôi ngay không thờ hai chúa, ông sao làm trái lời đó vậy? •
Họ Mạc kia giết vua làm nhục nước, tiếm xưng đế vị, lẽ ra ông
không nên phục vụ cho chúng mới phải. Đằng này Thanh Quận
công lại phản bội chúa của mình, đi phụng thờ kẻ phản nghịch tức
chê cười. Còn Tân Quận côngnàỵ dù một ngài, ki. có b đèn
chết khô thì vẫn được Hoàng ân phong tặng '0’11 ca u
lho>đenmieucuataơNghẹAnseđượccúngté,phúcaưiđeỉạỉcho
con châu mãi mã, là cônTttan
*ật to dày vậy s việc gì taphải tỆeo' ô"8
công noi-Đạĩ traSg phù không thờ tai vua thếụ1™^“
này nếu về với chủ cũ sẽ thát trang” Nói xong liên đứng phát đậy,
phủi áo bước ra1. ioo-n
4 Nguyễn Nguyên Thành,(1825- 1887 hôn cẩm
Nguyễn Nguyên Thành sinh năm At Dậu (1820) quẹou. .
Ngọc xă ĐÔ Lương huyên Lượng Sơn, nay làxãĐôngSơnu^n
ĐôSrơnịScte>008 làNguyĩn.£ ĨtỐ,
đậuCứ nhânỊtítoa KỳMão
1819. ông có hai anh trai đêu thẹo nghiệp văn chương, ộ g
đậu Tú tài, một người đậu Cử nhân. __ Đườne.
ông ta la uẩn Phu, hiệu Hương Phong bi u hiệtas<m
Nguyên Nguyên Thanh la danh sị.ĩà lãnh tụ cần Vương vàcũ g la
1 Ngọc thực: nguyên văn “ngọc nhự” (rau quý), chì thức ăn nuôi sống con người
2 Nơi điều hành: nguyên văn “khiển trường”, ý chì nơi làm việc quan.
Mắt xanh: theo điển Nguyễn Tịch đời Tấn, gặp nhiều bất bình, không vừa ý thì măt
trắng (vỉ trợn ngược), vừa ý thì mắt xanh trở lại. Cà câu ý nói tác già bất bình khi làm
việc quan.
À
Việc quan tầm mắt nhìn chưa thấu
Đường hiểm trên đầu tóc ngả râm
Lẩn khuất tháng ngày khuây tấc dạ
Chim ngàn, hoa nội thủ sơn lăm
ỉ Oãy so sánh với bài "Le vase brise " của Sully Prudehomme - là người đau tiên trên
ĩe giới đạt giãi Nobel văn học (1901): cùng một đề tài nhưng ý nhị hơn (chú thích của
nhân Việt Nam).
Đã vội mải trông bao cảnh đẹp,
vết thương mang nặng vẫn còn đây.
B. ÀN TẾT - LẺ HỘI
I. ĂN TẾT
Cũng như các làng xã khác của xứ Nghệ, người Đô Lương
thường có các ngày lễ tết sau: Tết Nguyên Đán (từ ngày Mông Mọt
đên ngày Mồng Ba tháng Giêng); Têt Nguyên Tiêu (Răm thang
Giêng); Tết Đoan Ngọ (Mồng Năm tháng Năm); Tết Trung Nguyên
(Rằm tháng Bảy); Tết Trung Thu (Rằm tháng Tám).
1. Tết Nguyên Đán
Trong các ngày tết trong năm, têt Nguyên Đán được chu y hơn
cả. Bởi đây là ngày tết chuyển giao năm cũ sang năm mơi, la tet
đại, tết cả, mở đầu từ 23 tháng Chạp (ngày ông Táo vê trời), đỉnh
cao là đêm Giao thừa - thời khắc chuyên giao năm cũ sang nam
*uới - một thời điểm quan trọng, trời đât giao hòa, âm dương hoa
quyện để vạn vật bừng lên sức sống mới. Đêm Ba Mươi còn được
gọi là đêm trừ tịch (diệt ma), thời gian trước nửa đem, thơi khac
ỗ*ao thừa giữa năm cũ và năm mới. Đêm trừ tích la khoang thơi
8ian thiêng liêng nhất của năm khi các gia đình xum họp, chuan
ty đón năm mới với mong muốn những điêu tôt lành sẽ đen va tien
tru năm cũ. Những năm Đại lễ rước Thánh đen Qua thi Tet
Nguyên Đán ở Đô Lương kéo dài cho đến ngày 20 tháng Giêng
arn lịch, tức là khi rước Thánh đên Quả Sơn xong mơi gọi la het
không khí tết.
Sau một năm làm ăn mệt nhọc, năm hết tết đến, gia đình nào
cũug lo sửa soạn nhà cửa, iau chùi bàn thờ, đồ thờ, quét dọn nhà
cùa sạch sẽ, sắp xếp đồ đạc ngăn nắp rồi trang hoàng câu đôi, tianh
Veỉ trên bàn thờ phải có mâm ngũ quả và hương hoa.
Để chuẩn bị ăn tết, người phụ nữ Đô Lương phải rất vất vả, khi
vụ cấy chiêm bắt đầu xuống đồng (khoảng 10.11 âm lịch cho tới
chậm nhất 14.12 âm lịch) phải hoàn thành để lo sắm sửa mọi thứ
cho tết Nguyên Đán. Rạng ngày mọi người đi cấy chiêm, đêm vê
xay thóc giã gạo. Lúa chưa khén (khô) thì phải rang qua để xay cho
dễ. Đêm nào cũng xay, sàng, sảy cho mãi tới khuya. Gạo tẻ, gạo
nếp chuẩn bị đủ rồi thì đâm bột, rang nổ để chuẩn bị làm các loại
bánh tết. Cấy, cày xong, các bác, các anh vào rừng bửa củi, lấy lá
dong, lá chuối, lấy giang, mây về chuẩn bị gói bánh. Đen khoảng
26, 27 tháng Chạp, ở các làng, các gia đình chung nhau làm thịt
bò, thịt lợn. Trước đây, khi đời sống còn nghèo nàn, lạc hậu, nguôn
thịt chủ yếu là tự cung tự cấp, tự sản, tự tiêu hoặc trao đổi cho
nhau. Từ tháng Hai (âm lịch), gia đình đã góp tiền mua bò gầy, bò
già để nuôi vỗ béo, Hai Bảy tháng Chạp đòi bò về mổ thịt chia
phần ăn tết.
Tục đi chợ cuối năm quen gọi là chợ tết ở Đô Lương luôn ra
nhộn nhịp. Là phiên chợ cuối cùng của một năm, diễn ra từ ngày 26
đến ngày 30 tháng Chạp. Chợ tết là chợ đông nhất trong năm.
Những hàng hóa cần cho ngày tết đều được chuẩn bị chu đáo vê
chất lượng và hình thức. Hàng bán ở chợ có đủ thượng vàng, hạ
cám: từ vải vóc, tơ lụa, dụng cụ, nông cụ đến trâu, bò, lợn, gà, cũng
như các đặc sản của địa phương. Chợ tết không chỉ để buồn bán,
mua sắm mà còn là một nét sinh hoạt văn hóa của nhân dân. Đi chợ
tết là một thú vui nên thanh niên nam nữ và trẻ con làng nào cũng
hớn hở tham gia. Các cô gái thì mua cái gương, cái lược, trè con thì
mua tờ tranh, pháo đùng, vài thứ đồ chơi...
Ngày 23 tháng Chạp hay còn gọi là ngày ông Táo lên chầu trời
để “báo cáo” công việc của từng nhà. ông Táo đồng thời là thần đất
bảo vệ vườn cho gia chủ nên cũng gọi là Thổ Công. Nơi ông trị vì
là bếp núc nên cũng gọi là ông Bốp. Ngày ấy, người dân cúng ông
một lễ gọi là lễ đưa ông Táo. Lễ phẩm ngoài mâm cỗ như các cô
cúng khác, phải có thêm một con cá gáy (cá chép) cả con với ý
nghĩa cá gáy có thể hóa rồng và như thế là đóng góp phương tiện
cho ông Táo về trời1. Cũng vào ngày này, người ta trông một cây
nêu2*45ở trước sân ngoài để đuổi quỷ và cho chúng biêt là đât đã có
chủ, cây nêu còn để cho ông Táo nhận ra nhà của mình khi trở vê.
Thông thường, cây nêu chỉ là một cây tre nhỏ phạt hêt cành trừ
ngọn. Vào khoảng lưng chừng, có nơi buộc cành đa lá dứa, có nơi
treo ít tờ giấy tiền, vài thoi vàng giấy có màu săc khác nhau, có nơi
1 Theo truyền thuyết Việt Nam, có hai vợ chồng nhà nọ vì nghèo túng phải phiêu bạt
kjếm ăn, lạc nhau mỗi người một nơi. Sau đó, vợ lấy được chồng giàu Chông cũ bị mù
phải đi ăn xin. Tình cờ đến nhà vợ cũ, chị nọ nhận ra chồng mình, trong lúc chông mới
đi vắng liền làm cơm thiết đãi. Sợ chồng sau biết được, chị giấu chông cũ vào một đông
r? ngoài đồng. Nào ngờ chồng mới đi vẳng về liền sai thằng ở ra đông đôt động rạ đè
■ấy tro làm phân bón ruộng. Thấy chồng cũ chẹt, chị vợ cũns "báỵ và°'ửa
Chồng mới và thằng ở xong vào cứu đều chết nốt. Đó là ngày 23 tháng Chạp. Lin ôn
4 ngươi đến trước Ngọc Hoàng Thượng đế. Ngọc Hoàng cho ba người làm Táo Quân
còn thằng ở cho làm ông Nen hay còn gọi là “Thằng Lốc”. Ca dao có câu “Thê g an
*pột vợ rnột chồng/Nào như vua bếp hai ông một bà” và thơ cô cũng cỏ câu “Táo Quận
tháng Chạp, Hăm Ba chầu trời”. Cau chuyện cũng thể hiện nguôn gôc phát hiện ra lựa,
một tàn dư của tín ngưỡng dân gian. Nhờ có lửa, con người mới được ăn chín, uông SÔI,
được sưởi ấm. Trước đây, vào ngày 23 tháng Chạp, mỗi gia đình thường săm một cô
‘‘ÔngĐầu Rau mơi”đe thay thể “OngĐầu Rau cũ”. Đồ lễ gồm hai bộ mũ áclông một
bộ mũ áo bà và 3 con cá chép, ông Tao cười cá lên chầu trời, tâu với Ngọc Hoàng mọi
^■ộc trong năm, cầu cho gia đình gặp nhiều may măn. Tâu cao xong, đem Giao t ưa ao
Quân trờ về với gia đinh. ,
Cây nêu cồ sự tích như sau: Xưa kia, Quỷ chiêm đoạt tạt ca đat đai, Ngươi phai cay
*yộng rẽ của Quỷ, nọp theo thể lệ “ăn ngọn cho gốc”. Người chặng còn gì, cành tượng
ỉa bọc xương the tham. Thấy vạy, Phật từ phương Tây đã bày cho Ngườ trông khoai.
Quỳ bị thua, đoi “ăm góc clìo ngọn”, Phật bạy cho Người ựồn^ lúa. Lạ bị tbna.Quy đòi
cả góc Ỉẫn ngọn”, Phạt mách Người trồng ngô. Quỷ ức lắni liền thu hêt ruộnj vê
pbật bảo Ngươi điều đình vơi Quy cho tậu mọt miếng đất vừa bằng bóng một chiêẹ áo
sa. Ban đầu, Quy không thuận, sau thấy bóng một chiếc áo cà.sa chăng ntật bao nh1Cu
Jất, liền ưng thuạií. Phật bao Người trồng cây ưe rồi tung chiếc áo cà1 saỊ lên1 ngọn1 và
b°a phép cho cây tre cao lơn mãi, bong cà sa trải rộng che cả mặt trờiI làm1 rợpI hê .ruộng
đất của Quỷ. Quỷ phải chạy ra biên Đông. Tiếc đất đai hoa màu vê tay Người, bị thua
Quỷ cho quân dò xem Phật sợ gì. Phật cho chúng biệt chi sợ loa qua, oan1 c UO1
cơm năm, trưng luọc Phật cung biết Quy chi sợ máu chó, lá dứa tòi và vôi bộ - Mây
■ần giáp chiên sâu, Quy đều bị thua đau vì Phật bào Người nhặt hoa quả, oản chuô và
luộc làm lương ăn để đuổi Quỷ, còn Quỷ thấy máu chó’ tỏi và
vôi bột thỉ hoàng sợ, chạy biẹt tích rã biển Đông, nên người ta gọi là Quỷ Đông.
5Ua Phật thê thảm quá, Quy rập đâu xin Phật thương tinh cho PbdP hàng năm lên đát
Lền dể mồ mả cha ông ngày trước- Phật thương tình hứa cho. Nhưng Phậ cũng
Jào N.gườ* pbai canh giác, trong cây nêu bằng tre đề Quỳ không dám bén màng vào c 0
gười đang ờ.
không buộc gì cả. Cây nêu thường để vậy cho đến mồng bảy tháng
giêng năm sau là thời điểm ông Táo trở về. Cây nêu biểu tượng cây
vũ trụ, mỗi khuôn viên gia đình là một tiểu vũ trụ. Trồng cây nêu
để đón khí dương trong những ngày “Tam dương khang thái, ngũ
phúc lâm môn”.
Sau ngày cúng Táo Quân cho đến ngày 30, bà con nhiều làng đi
viếng mộ, quét dọn đắp lại mộ của tổ tiên, rồi thắp hương mời
những người đã khuất về ăn tết.
Trưa 30 tháng Chạp, sau khi cúng cơm xôi ở nhà thờ về, mọi
người cùng ngồi gói bánh để kịp nấu bánh vào buổi tối. Chiều 30
tháng Chạp coi như đã tết, cây nêu đã được trồng lên, nhà nào cũng
làm cỗ, làm mâm ngũ quả và đặt bánh trái lên bàn thờ, thắp nén
hương thơm làm lễ chính thức mời gia tiên về ăn tết với gia đình.
Lễ cúng vào thời điểm hết năm cũ và bắt đầu năm mới âm lịch gọi
là lễ trừ tịch. Đối tượng thờ cúng vào lúc này là 1 trong 12 vị thân
hành khiển, mỗi vị phụ trách một năm can chi mà giờ phút đó gọi là
giờ phút bàn giao. Cùng với hành khiển là một vị phán quan giúp
việc ghi chép công tội của nhân gian để hành khiển báo về cho Ngọc
Hoàng khi mãn nhiệm. Các vị này được gọi là đương niên chi thân.
Trước đây, trong giờ phút này, đốt một vài mồi pháo được coi là tôt.
Đốt pháo có ý nghĩa đuổi quỷ, đồng thời “tống cựu nghênh tân” (đón
vị hành khiển mới, tiễn vị cũ) và chủ yếu là để mừng Xuân.
Sau lễ trừ tịch: tại thời điểm này, mọi người lặng lẽ, hồi hộp chờ
trời đất sang Xuân. Thời gian này, cả làng thường im ắng ai ở nhà
nấy, quây quần bên nồi bánh chưng, hàn huyên trao đổi những
chuyện làm ăn, vui buồn quanh năm để chờ giờ phút linh thiêng của
năm mới. Án tượng sâu đậm nhất của người dân Đô Lương là thời
khắc giao thừa này. Các cụ xưa có kinh nghiệm xem cành khế, khí
hai lá khế úp lại làm một là giờ chính Tý, năm mới bắt đầu. ở nhiêu
làng, ông Tiên Chỉ trong bộ quần áo thụng cáo thần rồi khoan thai
cầm dùi đánh vào cái trống to nhất ba hồi chín tiếng, báo cho dân
làng biết Chúa Xuân đã đến. Giao thừa đến ngoài tiếng pháo còn có
tiếng trống to, trống nhỏ, chiêng, nào, bạt đánh liên hồi vang khăp
làng trên xóm dưới. Ngoài trời đen kịt, thinh thoảng có chiếc pháo
thăng thiên vút lên vạch một đường sáng vòng cung ngang qua góc
xóm, rơi xuống bờ sông. Trên bàn thờ của môi gia đình, hương tram
được đốt thêm, mâm cỗ cúng giao thừa thường là con ga, co XOI,
cháo chè hoặc vài đĩa bánh ngào, chè lam, bánh rán, banh troi. Sau
giờ khắc thiêng liêng, nhà thì bỏ vài đâu lúa vào coi, xay vai vong;
nhà thì bỏ mẻ gạo vào cối đạp, đạp một lúc; nhà thì đem nong, ma,
mẹt ra đập; nhà thì đem nồi đồng, mâm đông, chậu thau đong ra
gõ... Cả làng ồn ào nhưng là cái ồn ào rộn rã mừng VUI va ro rang
mang sắc thai của một dân tộc nông nghiệp ở thời khắc vũ trụ băt
đâu một vòng quay mới, một chu kỳ mới như tnêt lý Trung Hoa
‘‘Thiên địa tuân hoàn, chung nhi phục thủy” (Trời đất xoay vần đến
hết rồi lại quay về cái mở đầu). Bà con gọi thời khắc này là “động
thổ”. Đây là lúc đàn ông trong nhà lấy vôi trắng vẽ những hình như
cày, bừa, cào, cuốc, cung nỏ... trừ ma quỷ cầu mong một năm làm
ăn phát đạt, mùa mang bọi thu. Trong các hình vẽ, người Đô Lương
không quên vẽ ba hình vuông, bảy hình tròn ở giữa sân. Xong.đâu
đấy, cả nhà tề tựu trước bàn thờ gia tiên ăn cỗ cúng giao thừa. Thời
điểm này đến sáng người lớn hầu như chẳng ai ngủ, đàn ông ra đèn
hoặc đình tế Nguyên Đán, đàn bà lo đồ xôi, căt bánh chuân bị mâm
cô cho tới sáng, bảy tám giờ gánh cỗ lên nhà thờ. Mâm cô mặn gom
các loại chả, mọc, dưa hành và cỗ chè gồm chè đậu xanh, che nép,
các loại bánh bột như: bánh thuẫn (hình quả bòng), bánh xoài, bánh
chè lam, bánh in (co7 chữ “phúc”, “lộc”, “thọ”) bánh rán tâm mật,
kánh cà (thắng bằng đường sau khi rán bằng mỡ), bánh ong, các
Ị°ại bánh lá như: banh lọc? bánh trong, bánh gai... Giữa bàn thờ
thường có mâm ngũ quả “cây nhà lá vườn” như: cam bưởi chuôi,
òi, hồng xiêm. Bên cạnh bàn thờ thường có câỵ mía dựng dựa vào
tường quen gọi là gậy ông vải. Đó là truyền thống xa xưa mà theo
nhà nghiên cứu nó có nguồn gốc hải đảo được tôn thờ trước cả
ỵy lúa. Nói chung, mâm cô ngày tết được bày biện tươm tât nhát
^hnh hồn tổ tiên chứng giám cho lòng hiếu thào của con cháu,
leu hiện luân lý trong xã hội nông nghiệp. ,
Chiều mồng Một và sáng mồng Hai, các gia đình mới đi tháp
^ơng các nhà thờ và chúc tet trong họ nội cũng như họ ngoạ . Lúc
này> trẻ con han hoãn xúng xính trong bộ quần áo mới, các chị em
gái cũng gương lược trang điểm, khoác bộ cánh mới rủ nhau đi chơi
xuân. Những cuộc thăm viếng lẫn nhau đã thành tục lệ, không ai
bảo ai, mọi người nói với nhau những lời từ tốn, nhỏ nhẹ đầy tính
văn hóa. Họ quên đi những thắc mắc, xích mích, thậm chí cãi cọ,
gây gổ nhau trong thời gian qua. Gió Xuân về mở cánh cửa nhân
ái, gõ tấm lòng bao dung trong tâm can họ. Đây là lúc người ta đi
đến nhà thờ họ thắp hương cho tổ tiên, đi xông nhà xông đất, đi
mừng tuổi, đi chúc mừng năm mới ông bà, cha mẹ, chú bác, cô gì-
Ở Đô Lương không thực hiện việc chơi tết theo câu thành ngữ
“mồng Một tết cha, mồng Hai tết mẹ, mồng Ba tết thầy” mà tùy vào
điều kiện, hoàn cảnh của từng gia đình, tưng bừng, rậm rịch nhât
vẫn là ngày mồng Một. Ngày này, người ta kiêng không quét nhà,
đổ rác vì tin rằng Thần Tài có khi oái oăm chui vào trong đó. Người
ta không xin, không cho nhau lửa vì cho rằng cái đỏ, cái may man
của mình sẽ nhân đó chạy sang kẻ khác. Cũng thế, người ta không
đòi nợ hay vay mượn, không để nhỡ tay đánh vỡ, đánh đổ một cái
gì; không đánh đập, chửi mắng ai. Đối với người có đại tang cũng
vậy, có thương nhớ người đã khuất thì khóc vào trước giờ trừ tịch.
Khi xuất hành đã đi thì không nửa chừng quay lại, nhưng dù bận
việc gì thì đến tối cũng phải trở về. Khi khai bút cố nắn nót viết chữ
cho đẹp, không để mực nhòe ra giấy, không viết và nói những câu
mang ý nghĩa xấu. May vá (gọi là khai kim) cũng phải liệu đường
kim mũi chỉ và chớ để mũi kim đâm phải ngón tay. Đục đẽo (gọi là
khai mộc) cũng tránh những nhát vụng về. Đóng con dấu (gọi lù
khai ấn) phải đóng cho đẹp, cho rõ ràng. Nói chung, ngày đầu năm
tất cả mọi việc phải tốt đẹp nghiêm túc.
Ngày mồng Ba tết là ngày hóa vàng để tiễn ông Vải, bà Vải la1
quy phần mộ. Sau khi làm lễ cúng, hương đã cháy hết hai phần ba,
bà con đem vàng ra đốt trước sân. Khi hóa vàng xong, bà con đô
vào đống tro một chén rượu cúng, có như vậy cõi âm mới nhận
được vàng, tiền giấy đem về nơi âm phủ. Trong khi hóa vàng, bà
con lấy hai cây mía ở hai bên bàn thờ hơ lên ngọn lửa để các cụ làm
gậy quảy vàng về cõi âm và là vũ khí chóng bọn quỷ dữ trên đường-
Ngày mồng Bốn, người nông dân Đô Lương tổ chức lễ Tết Trâu-
chưng (có nơi còn chuẩn bị thêm1 một ít a bb là ia súc quý)
Zn (chuồng) nom về bò gn (chùyêu la g^ục
cốt để thần bảo hộ cho chúng eo 0 , on tron nhà bóc bánh
cúng xong, gia chủ chọn một người “ 3*** vào lá mít hoặc
chưng, cắt từng lát nhỏ, một vài va an n ao c chung vni với
Vao cỏ non đút cho trâu bò ăn mohưlà nhẪg em bé chăn
gia đình. SỐ còn lại trong mâm cô hương cno n 2 ăn được
trâu Người dân quan niệm: con trâu, 00 “ g“ àạì nhà nào trâu
nhiều chứng tòĩrong năm đó gia đình lam ậnpn”^
bò không chịu ăn thì gia chù rát b"’ngày têt cùng với việc
, ............ A
lcng Hán: nguyên là thứ nhất, tiêu là đêm.
Nam có nhiều điểm khác biệt với ngày lễ của người Trung Quốc (từ
phong tục, thói quen đến cách suy nghĩ, quan niệm) nên dù ảnh
hưởng bởi vãn hóa Trung Hoa nhưng ngày tết Rằm tháng Giêng đã
trở thành một nét văn hóa thuần Việt. Phải nói răng, Răm tháng
Giêng được coi là “ngày lễ hội đặc biệt nhất trong mùa lễ hội đâu
Xuân hàng năm”.
Người Đô Lương nói riêng, người Việt Nam nói chung coi Răm
tháng Giêng linh thiêng không kém tết Nguyên Đán. Ông cha
thường nhắc con cháu “cúng cả năm không bằng Rằm tháng
Giêng”. Bởi tháng Giêng, tháng mở đầu 12 tháng trong năm. Tháng
Giêng cũng có nghĩa là mùa Xuân, mùa đẹp nhất trong 4 mùa:
Xuân, Hạ, Thu, Đông, mùa của vạn vật xanh tươi cây cối đâm chôi
nảy lộc, sinh sôi và phát triển. Điều quan trọng hơn cả Rằm tháng
Giêng là ngày để con cháu, anh em họ hàng xa gần tập trung vê nhà
thờ để tế họ. Nét sinh hoạt dòng họ ngày Rằm tháng Giêng đối VỚI
người dân Đô Lương đã trở thành nét văn hóa ngàn đời không bao
giờ phai nhạt.
Đô Lương là vùng đất có nhiều dòng họ, có dòng họ ra đời từ rât
sớm như dòng họ Nguyễn Công, Nguyễn Cảnh, Thái Bá, Nguyên
Đình, Nguyễn Nguyên, Hoàng Văn, Hoàng Trần, Nguyễn Tất... Vì
vậy, vào ngày Rằm nào cũng biện lễ vật để tế tổ tiên1. Trước kia,
các họ tế tổ vào ngày 16 tháng Giêng âm lịch nên có câu “Răm
làng, Mười Sáu họ”. Nay, có làng không tế nữa vì đền miếu đã bỊ
phá, chỉ còn lại phế tích nên các họ tế tổ vào ngày Rằm tháng Giêng
(âm lịch). Ngày tết Nguyên Tiêu ở Đô Lương khá rậm rịch. Họ nào
cũng rung trống tế. Những người đi xa (nhất là đàn ông) thường vê
quê tế tổ họ vào ngày này. Đây là dịp để bàn việc họ như làm mới
hoặc tu sửa nhà thờ, lập mới hay bổ sung gia phả, xây mả tổ... Dù
cuộc sống người dân còn nhiều khó khăn, vất vả hay đủ ăn đủ mặc
thì ai cũng nghĩ tới cốt nhục sinh thành và dòng họ của mình. Đặc
biệt, đối với những người ở độ tuổi tứ tuần trở lên lại càng trăn trở
hoài niệm nhiều hơn... Chăm sóc, xây dựng dòng họ ngày càng
phát triển ở Đô Lương là một nét đẹp riêng không phải vùng đât
nào cũng có.
1 Lễ vật gồm cỏ cỗ xôi, gà với trầu rượu và các loại bánh trái
Rằm tháng Giêng về họ, tộc trưởng hướng dẫn con cháu những
công việc tế lễ tại nhà thờ, từ việc lau chùi bàn thờ sạch sẽ, săp xêp
chỗ để lư hương, đến chuyện rót chén rượu đặt lên bàn thờ. Nhưng
người con xa quê mải theo đuổi chuyện đèn sách, chuyẹn Ịam an
giữa thương trường, chuyện “vác kiếm binh đao miên biên ải”
nhưng khi về thắp hương cúng Rằm nhà thờ họ cũng ngay thơ như
con trẻ, vụng về lúng túng không hiêu cách vái, lạy trươc ban. thơ.
Những lúc ấy, họ lại được hướng dẫn tỉ mỉ từng động tác, từ cách
đôt lửa cắm hương, cách chụm tay, cúi đâu xuông vai lạy---
ở Đô Lương, việc cúng Rằm thường được bắt đâu từ giờ Ngọ.
Tộc trưởng soạn sẵn bài văn cúng bằng chữ Hán, bài cúng được đặt
lên khung giá gỗ hình chữ nhật sơn đỏ. Khi tộc trưởng hành lê, mây
người giúp việc trải chiếu hoa, rồi đặt lễ (gồm xôi gà, trâu cau
rượu, nước...), đứng túc trực bên bàn thờ họ. Tiêng chuông nhà thơ
ngân lên ba hoi lanh lảnh mà khoan thai đĩnh đạc tham sâu vào linh
hồn người đã khuất và tâm hồn người đang sông, lay thức những
hồn của “người muôn năm cũ” về chung vui cùng con cháu bảo
h(an cháu con những điều hay lẽ phải. Trong nghi ngút khói hương,
tat cả mọi người im lặng nghe tộc trưởng thay mặt con cháu thành
tâjn xin tạ lỗi những cái gì đã qua, xin linh hồn tô tiên phù hộ độ trì
trên bước đường sắp tới. . M.
Hường như sau mỗi độ Rằm tháng Giêng, mọi người đên họ đê
‘‘cầu phúc”, “cầu tài”, “cấu lộc”, không khí gia đình họ hàng thêm
đâm ấm. Từ già tới trẻ được nhâm nhi chén rượu quê, được ngôi
trên chiểu ăn cồ xôi gà vừa thơm vừa dẻo. Những người con đi xa
đựợc nghe chuyện làng, chuyện xóm, chuyện họ nhà minh ai'còn
ai mất, ai làm ăn phát đạt, gia đình nào có con học hành xuât săc.
Người Việt quan niệm “Tháng Giêng là tháng ăn chơi’ - Người
"0 Lương cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Khăp làng xã
Lương, các lễ hội được tổ chức tưng bừng trước và sau ngày
^àm tháng Giêng như: Le hội đình Long Thái xã Thái Sơn (diên ra
ngày 10 đến 11 tháng Giêng âm lịch); Lễ hội đền Đức Hoàng xã
èu Sơn (diễn ra từ 13 đến 14 tháng Giêng âm lịch); Lê hội đên
Nưả Sơn xã Bồi Sơn (đây là lễ hợi mùa Xuân lớn nhât ở Đô
Lương). Trước đây, lễ hội kéo dài một tuần lễ, mở đầu từ ngày Rằm
tháng Giêng âm lịch cho đén hết ngày 21 tháng Giêng âm lịch. Nay
chính lễ chỉ còn ba ngày 19, 20 và 21 tháng Giêng âm lịch.
Nét mới của tết Nguyên Tiêu ở xứ Nghệ nói chung và Đô Lương
nói riêng là việc hình thành nhiều câu lạc bộ thơ Đường và các câu
lạc bộ thơ nói chung. Các thành viên trong câu lạc bộ đọc thơ, ngâm
thơ cho nhau nghe rồi bình thơ, thẩm thơ, nhất là từ khi lấy bài thơ
“Nguyên Tiêu” của Bác Hồ ra đời ngày Rằm tháng Giêng làm Ngày
thơ Việt Nam.
3. Tết Đoan Ngọ
Tet mồng Năm tháng Năm còn gọi là tết Đoan Ngọ hay là têt
Trùng Ngũ (hai con 5). Nhiều người nhận lầm rằng tết này có
nguồn gốc từ Trung Hoa. Thực ra, đây là tết của người Bách Việt
phương Nam - xứ nóng, kỷ niệm thời điểm nóng nhất giữa năm. Vì
theo lịch nguyên thủy, năm được tính từ tháng Tý1, đầu năm là Tý,
giữa năm là Ngọ. Tháng Tý là tháng lạnh nhất, tháng Ngọ là tháng
nóng nhất. Đoan là “nhất”, Đoan Ngọ là ngày nóng nhất giữa năm.
Không phải ngẫu nhiên mà ngày mồng 5 tháng 5 (Al) năm nào cũng
gần trùng với ngày Hạ chí. Nóng là Dương, cho nên tết này còn gọi
là tết Đoan Dương. Sách “Lễ tết Trung Hoa ” viết: “Đoan Ngọ là
tết của Phương Nam, tết cầu may, tết của sự sống”.
Đối với người xứ Nghệ nói chung, người Đô Lương nói riêng,
đầu tháng 5 là thời gian thu hoạch vụ chiêm đã xong hoặc gần xong
buổi giao mùa, tiết Xuân mát mẻ đã qua, tiết Hạ oi bức đã tới, côn
trùng nảy nở và phát triển. Dịch bệnh thường xảy ra không chỉ đôi
với con người mà với cả gia súc, gia cầm. Vì vậy, tết mồng Năm
tháng Năm (Âl) là tết giết sâu bọ. Với ý nghĩa này, sáng ngày mông
Năm bà con thường giết sâu bọ bằng cách ăn rượu nếp đã ủ trước
đó (để cho “sâu bọ trong người say”), có nhà ăn kê với bánh đa, có
nhà ăn mít, ăn dưa hấu, ăn quả chua, chát (để sâu bọ chết).
Ngày mồng Năm tháng Năm còn là ngày quy ước biếu xén
(không biêt đặt ra từ bao giờ). Thường là rê biêu nhạc gia, học trơ
biếu thầy, rồi kéo theo tá điền biếu địa chủ, con bệnh biêu thây
1 Vưng là hạt cây vừng, cỏ nhiều chất béo, thơm đặc trưng.
Bên cạnh đó, trong ngày lễ Vu Lan, các gia đình còn làm lê cúng
chúng sinh. Lễ vật gom bánh đa, bỏng ngô, khoai. langjuộc, trứng
luộc, kẹo bánh, XÔI chè, cháo hoa, vàng mã, tiên giây, quan ao
chúng sinh. Tất cả đều được đặt lên bàn ở giữa sân đùng đê làm le
cúng các vong hồn cả năm không ai đoái hoài. Nhiêu n a am cai
đài bằng lá đa hoặc lá mít múc cháo đổ vào rồi gămlở hàng rào bụi
cây trong vườn để các vong hồn yêu đuôi, già cả, nho be... ong
đủ sức vào tranh cướp các lễ vật cũng được hưởng. Ẳ
Hang nam, cư đẹn ngày Rằm, tại đình Long Thái tổ chứclê chuân
thí với mục đích cấp phó chuân thí cho những vong 11 ong 00
người thờ tự, những người có tội được xá, những kẻ chêt đương c et
chợ không biết que quán nơi đâu. Trước lễ một ngày tại các phiên
chợ (chợ họp ngay tại sân đình làng, gọi là chợ Vịnh), các nha c ưc
sự cung như dân làng vận động thu gom vàng mã, huỏh chuôi, th..^.
tập trung tại đình làng. Khi thiết lễ, bày hoa quả, sap xêpthành hnh
khối lớn kểm theo hương vàng, cháo, nổ. Sau khi lê xong, thay -cung
(thầy phù thủy) hô lên một tiếng “lễ tất”, mọi người đên dự lê đã chơ
sẵn để giành lấy một vài loại hoa quả làm may. '
Tại các chùa như chùa Bà Bụt (Lam Sơn), chùa Bụt Đà (Đà
Sơn), chùa Lộ Thiên (Bài Sơn), chùa Phúc Mỹ (Yên Sơn), chùa
Làng Vành (Lạc Sơn)... các ông sư trụ trì hoặc thầy chùa thường
làm đàn chay để tế le. Trên đàn có tượng Phật Bà kết băng nứa,
đán giấy, ngồi trên tòa sen, trước mặt cỏ cái vu lan trong đê hoa
quả, bánh trai. Các gia đình hảo tâm trong vùng cũng bày mâm đên
chùa làm lễ. Đúng tối 15/7 âm lịch, các vị sư tăng làm lê đê cúng
Phật, cúng cô hồn thập loại chúng sinh. Cúng xong, mọi người,
nhát là tre con vào “cướp” (gọi la cướp lộc) rồi'đốt tượng Phật
hằng nứa.
Trong lễ tết này, các làng ở ven sông Lam thuộc các xã như:
Ngọc Sơn, Lam Sơn, Bồi Sơn, Đặng Sơn, Lưu Sơn... ngoài lê vật
nhà nào cũng làm con thuyền giấy với hình nhân đặt lên be chuôi
yôi đem thuyền ra sông cúng: Đức ông sông nước, Long Vương, a
há thủy quan và các vong hồn, chủ yêu là các vong hon hị song
nước sông Lam nhấn chìm. Cúng xong, vàng mã thì đôt, lê vật đặt
lên bè chuối rồi thả xuống sông.
Ngày nay, tết Trung Nguyên còn là dịp để con cháu thể hiện lòng
biết ơn sinh thành, dưỡng dục của ông bà, cha mẹ.
5. Tết Trung Thu
Tet Trung Thu nguyên là ngày Lễ hội Nông nghiệp mùa Thu.
Theo các nhà khảo cổ thì Tết Trung Thu ở Việt Nam đã có từ cả
ngàn năm trước, minh chứng là những họa tiết xuất hiện trên mặt
trống đồng Ngọc Lũ. Đối với người Việt Nam nói chung, người Đô
Lương nói riêng, đây là thời gian cày cấy vụ mùa đã xong, người
dân rồi rãi. Ban ngày, các gia đình làm cỗ to nhỏ tùy khả năng, cúng
thần linh và gia tiên, mong các vị phù hộ cho cây lúa trổ bông trĩu
hạt, mùa màng bội thu. Tối bày cỗ trông trăng, cỗ Trung Thu có thể
là cỗ mặn và bánh kẹo, hoa quả như: ổi, na, khế, bưởi, chuối tiêu
hoặc chuối ngự... Đặc biệt, không thể thiếu bánh dẻo, bánh nướng
hình tròn (tượng trưng cho mặt trăng). Nguyên liệu làm bánh cũng
toàn là những sản phẩm nông nghiệp thân quen, dễ kiếm, dễ làm
nên được coi là thứ bánh dân dã của dân gian. Trong ngày này, mọi
người thường biểu ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè, họ hàng và các
ân nhân khác bánh Trung Thu, hoa quả, trà và rượu... Đây cũng là
dịp tốt để con cháu tỏ lòng biết ơn ông bà cha mẹ và để người đời
tỏ lòng săn sóc lẫn nhau.
Khi trăng lên tới đỉnh đầu chính là giây phút phá cỗ. Phá cỗ tức
là hình thức ăn cồ một cách thoải mái vui vẻ, không lệ thuộc lãm
vào nghi thức ăn uống thường tình. Phá cỗ xong, người lớn tiếp tục
uống rượu, uống trà, ăn hoa quả và ngắm trăng. Ngoài ý nghĩa vui
chơi cho trẻ em và người lớn, Tet Trung Thu còn là dịp để người ta
ngắm trăng tiên đoán mùa màng. Nhân dân ta có câu:
Muốn ăn lúa tháng Năm trông trăng Rằm tháng Tám
Muốn ăn lúa tháng Mười trông trăng mồng Tám tháng Tư
Hay như:
Tỏ trăng Mười Bốn được tằm.
Đục trăng hôm Rằm thì được lúa chiêm.
Nếu trời trong trăng tỏ, trông rõ chú cuội ngồi gốc cây đa; hình
trăng tròn trặn thì vụ Đông Xuân nhất là vụ chiêm năm sau thường
ưiưa thuận gió hòa, cây lúa, cây màu bội thu. Nếu trăng mờ, mây
kéo ngang trời, mang hình răng bừa hay vây trút có thê đoán được
“vẩy trút thì mưa, răng bừa thì nắng” thời tiết sẽ không thuận lợi
cho lúa và hoa màu phát triển. Ngoài ra, người dân Đô Lương cũng
như người Việt Nam quan niệm nếu trăng Thu màu vàng thì năm
đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng Thu màu xanh hay lục thì năm
đó sẽ có thiên tai.
Tục ăn tết Trung Thu của người xứ Nghệ nói chung, người Đô
Lương nói riêng diễn ra với ý nghĩa như vậy.
Do xuất phát từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước nên không
chỉ người Việt Nam ăn tết Trung Thu mà Trung Quốc cũng có têt
Trung Thu. Nhưng Tết Trung Thu của người Việt Nam nói chung ít
bị ảnh hưởng bởi cội nguồn và ý nghĩa của tết Trung Thu ở Trung
Hoa: thường gắn liền với mùa màng, với hình ảnh chú Cuội, chị
Hăng và ước nguyện được mùa; cầu khấn, tri ân các vị thân linh và
tò tiên cho đời sống được ấm no, thanh bình... trở thành một trong
những nét đặc trưng của bản sắc vãn hóa dân tộc.
Những năm gần đây, từ ngày tết của nông dân, dần dà Trung Thu
được coi là tết của trẻ em. Các đoàn thể, gia đình xem đây là dịp
bày tỏ tình cảm, sự quan tâm tới trẻ nhỏ theo một cách riêng. Sau
ngày nước ta giành độc lập, dù rất bận công việc nhưng têt Trung
Thu năm nào Bác Hồ cũng gửi thư, thơ thăm hỏi các cháu: “Ngày
nay, các cháu là nhi đồng. Ngày sau, các cháu là người chủ của
nước nhà, cùa thế giới” {Thư Trung Thu năm 195T). Mở đâu bức
thư này, Bác Hồ có hai câu thơ thật hay gửi các cháu nhi đông, cho
rnãi đen hôm nay, rất nhiều người vẫn nhớ:
Trung thu trăng sáng như gương
Bác Hồ ngắm cành nhớ thương nhi đông
Thực ra, không chỉ đến Tết Trung Thu nhìn trăng sáng và tròn
Hác mới nhớ tới các cháu. Sinh thời, Bác luôn quan tâm theo dõi,
nhắc nhở người lớn, động viên tuổi nhỏ, ghi nhận và đánh giá cao
thành tích của các cháu thiếu nhi trong cả nước. Rõ ràng, ngoai tam
lòng của một vị Chủ tịch nước, trong Bác Hồ còn có tâm lòng của
^ột người ông đối với các cháu nhỏ thân thương của mình.
Trước đây, ở Đô Lương, Tết Trung Thu là dịp để cha mẹ thể
hiện tình thương yêu con cái một cách cụ thể. Hàng năm, cứ đến
ngày này, cha mẹ thường mua quần áo mới, đồ chơi, hoa quả,
bánh trái... Đặc biệt là các loại đèn hình tròn, hình quả trám, hình
ông sao và các con giống nặn bằng bột nếp pha màu mang hình
các con vật như: voi, ngựa, trâu, bò, chó, mèo, ngỗng, ngan, vịt,
gà... hoặc hình ông lão tóc bạc mặc áo hồng, cô tiên tóc bay bay,
dũng sỳ cầm trượng... rồi chú hề, thằng bờm... Các gia đình cũng
sấm đèn kéo quân hình vuông hay hình sáu cạnh, tám cạnh. Các
làng thường diễn các tích: Hai Bà Trưng đánh thắng Tô Định, Bà
Triệu đánh quân Ngô, cuộc chiến Bạch Đằng... để cùng vui và
thưởng thức.
Những năm gần đây, Tốt này trở nên rầm rộ hơn. Trước ngày
Rằm tháng Tám, các xóm đã họp lại, bàn bạc cách tổ chức Trung
Thu, mỗi xóm đều tổ chức được một điểm vui chơi, trang trí đèn
ông sao, thậm chí còn có cả sân khấu rực rỡ. Đoàn múa sư tử các
thôn sẽ đi dọc đường làng, khua trống, kéo nhạc; đến đâu, trẻ con
ở đó nhập vào đoàn kéo thành hàng dài, đoàn dừng lại múa ở các
điểm trung tâm rồi trở về đình làng biểu diễn. Trẻ nhỏ, người lớn đi
theo đứng vòng trong vòng ngoài háo hức thưởng ngoạn dưới ánh
trăng. Ngoài múa lân, sư tử, các điểm này còn tổ chức ca nhạc, tạo
không khí ấm áp, rộn ràng. Trẻ em được vui chơi trong ánh sáng
mát dịu của đêm trăng rằm, bé trai đeo mặt nạ, bé gái đeo bờm công
chúa, hình con vật ngộ nghĩnh đáng yêu... Sự hân hoan, phấn chân
thể hiện rõ trên từng khuôn mặt trẻ thơ.
Tết Trung Thu là một phong tục rất có ý nghĩa, cần được bảo tồn,
duy trì và phát triển.
II. LỄ HỘI
Việc tổ chức lễ hội, hội làng hay còn gọi là đại tế diễn ra ở nhiêu
làng xã Đô Lương với hai phần chính là phần lễ và phần hội. Lê lù
nghi lễ liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, còn hội bao gồm các tro
chơi mang tính giải trí. Lễ hội ở Đô Lương gần như tháng nào cũng
có lễ cúng ở đình, đền, chùa nhưng chủ yếu diễn ra vào mùa Xuân
(tháng Giêng âm lịch). Nôi bật là các lê hội: Lê hộ đền Quà Sơ
(20 - 21/1 àm lịch); Lê hội đền Đức Hoàng ( 5 - 16/1 âm lỊch);
ư hội đình Long Thái (12 13/1 âm 1«; Le hộii <đề «
Nguyên Cảnh Hoan 15/3 âm lịch); Lê hộ đềnHộiTh^n (2 - 3/3
am lịch); Le hôi đèn Linh Kiếm ( 1I -12/6 âm ịch) Le hội đôn
Phú Thọ (14 15/9 am lịch). Sau đây là một số lễ hội tiêu biêu:
Đền Quả Sơn là một trong bộn ngôi đẹn thrêng nhát xứ: Nghệ
(Nhất Cơn, nhì Quá, tám Bạch Mã tó
dựng trên một khu đát rộng dưới chân núi Quà, làng; iêu
xỉ Bạch Đường, huyện Nam Đường (nay là xã Bôi Sơn, huyện Đô
LTSỊt,inh.iNglìệỉn}„n T .ú Nhât Ouang đã được đề cập đến
Sự tích đền và uy danh của Lý Nhạ ụ ang Uduuvv -
trong phần Dấu ấn Lịch sử, Văn hóa, Kiên trúc. r gp a
đê cập đến phần lễ và phân hội.
,;T^Xíịhội đền Quà Sem tô chức hàng ndm. v^sau
để ang thêm phânTọng thê, lặị đ ?ctóc vàoTX
lan vơi hai ky le chinh: Le giỗ Đức Thánh 2"ả ^ThavTn gọi
'7/12 (âm lịch) gọi là ngày Chạp đèn; Lê Ị?-ơn a ụ .. |j À
LềhọiniungXuanđượctochựcvậohaingày 20và21/l (âmj^h)
vói quy mô 1Ẳ. Trướcđây,đay Ịà•.địp "tó” “ dTh wơng^
Chạp, các cự thủ từ đã cho kén chọn thợ may' (bằng tay gnư, tam
ộạ 3 ch sẽ vào đèn đê may áo mới bằng lụa vàng tót: cho
JỊjị lập (coi như quân cấm vệ) tiến hàn e rai ao . tư’ g
“mộc dục” (lễ tắm tượng), sau đó khoác áo mơi vao • ■
1JhamkhảoK/chòảnLễ/iộiĐềnỔ“á5ơ"doPhÒnsVãnhÓaThOnSt' yẹ
Lương cung cấp. , , .
2 Hoàng Hữu Yên, Đen Quả Sơn - Sự tích - Đen miêu - Le ỌI.
Sáng ngày 16, quan viên chức sắc làm lễ Cáo yết tại chính điện. Tối
16 làm lễ Tiên thường (lễ trước ngày giỗ). Ngày 17 là ngày lễ chính
được áp dụng nghi thức trọng thể và đầy đủ nhất. Trước đây, khi có
khâm sai do triều đình phái về thì viên khâm sai làm chủ tế nhưng
thường thỉ người có danh vọng nhất xã đứng ngôi chủ tể. Bên cạnh
chủ te, có hai bồi tể. Các chức danh khác như: hiến tửu, hiến trà,
độc chúc, phần hương, gióng trống, đánh chuông, đánh trống nhỏ
(tiểu cổ), chơi nao bạt... đều được trao cho các quan viên trong xã.
Tất cả bận lễ phục như: áo thũng, đội mũ có giải. Riêng chủ tế và
bồi tế thì đội mũ phốc đầu, bận áo rộng có đai, thêu hoa, tay cầm
hốt, chân đi hia. Phụ te còn có phường hát chầu văn đông đến hàng
chục người trang bị nhạc khí và nhiều bài tế du dương.
Lễ vật cúng tể trong ngày lễ Chạp đền được chuẩn bị rất công
phu. Vào vụ mười hàng năm, nhiều hộ gia đình khá giả cho người
ra ruộng cấy lúa nếp rồng, chọn lấy những bông mẩy, hạt vàng óng
đem về vò lấy hạt phơi khô, quạt sạch dành đến ngày 16 tháng Chạp
làm gạo đồ xôi. Tối 16 cho hông xôi, khi chín vợi ra đem giã
nhuyễn làm bánh dày - bánh hình tròn, mịn màng, thơm phức. Các
mâm bánh được bày trong chính điện, hai tòa tả hữu, lầu ca vũ và
cả trên sàn gạch trước chính điện. Ban điển lễ của xã thì sắm lễ tam
sinh như trâu (bò), lợn, gà... Cũng trong ngày giồ Đức Thánh Quả
Sơn, nhiều gia đình cũng trần thiết bàn thờ tổ tiên với ý nghĩa:
người đã khuất và người đang sống về dự Chạp đền để nhớ ơn Uy
Minh Đại Vương.
Le tạ ơn Bà Bụt (còn gọi là Lễ hội mừng Xuân): Với tính chất là
lễ tạ ơn Bà Bụt nên lễ hội diễn ra gắn với hai di tích: Đền Quả Sơn
và chùa Bà Bụt (chùa Bà Bụt cách đền Quả Sơn 3 km) với các hình
thức sinh hoạt phong phú. Tương truyền, Phật Bà Quan Âm ở chùa
đã linh phù giúp Lý Nhật Quang thời gian làm Tri châu Nghệ An
trong việc kinh bang tế thế. Hàng năm, nhân ngày mất của Lý Nhật
Quang, nhân dân tổ chức lễ tạ tại chùa, tổ chức rước di tượng Lý
Nhật Quang từ đền Quả Sơn về chùa để làm lễ tạ ơn Bà Bụt. Đúng
theo quy định gần ngàn năm nay là “Hai mươi rước ngược, hăm
mốt rước xuôi”. Vào năm mở lễ hội thì sau khi khai Hạ (hạ cây nêu
ngày tết vào ngày mồng 7 tháng Giêng âm lịch), cả xã bãt tay vao
công việc chuẩn bị. Trước ngày chính lễ, ban phụng sự tiên hành
các nghi lễ: ,
Lễ mộc dục: sáng ngày 19 tháng Giêng (âm lịch) tiên hanh tam
rửa cho thần bằng nước vừa được rước từ sông Lam; tiêp đên thân
được lau bằng nước ngũ vị hương. Lễ nghi này diên ra trang
nghiêm, kín đáo. Sau khi tắm, tượng được đưa vê vị trí cũ làm lê
an vị. Ban tế lễ chia nhau nhúng tay vào nước tăm tượng, dùng taỵ
x°a lên mặt. Họ tin rằng làm như thế sẽ gặp điêu lành, tránh mọi
bệnh tật. Tất cả mọi người tham dự lễ mộc dục phải trai giới tư
niấy hôm trước.
Lễ gia quan: Sau khi lau rửa, họ tiến hành làm lê khoác áo mũ
cho tượng thần, tế trước long kiệu gọi là tê gia quan. Lê nay chi co
han chủ tế và các đô tùy tham dự. Mọi người phải dùng tay bịt
niiệng để tránh hơi trần tục ám vào thần linh.
Cùng với lễ mộc dục, lễ gia quan, ban phụng sự còn làm lê khai
quang, tẩy uế, tức là dọn dẹp vệ sinh trong, ngoài khu di tích và lau
chùi đồ tế khí sạch sẽ để chuẩn bị vào đám. Nước dùng trong lê
khai quang tẩy uế xưa và nay đều dùng nước ngũ vị hương.
Lễ yết cáo: ban tế do ban phụng sự tiến hành làm lê yêt cáo, xin
thân cho mở hội và mời các chư vị thần linh vê dự hội. Lê vật trong
tê yết cáo thường có thủ lợn. Thành phần dự lễ yêt cáo là những
người trong ban tổ chức. Kể từ sau lễ yết cáo thì trên bàn thờ đèn,
hương luôn được thắp sáng trong suốt lễ hội. Trong lê yêt cáo, chủ
te đọc bài văn tế thành tâm mời thần Uy Minh Đại Vương và các
chư vị thần linh về thụ hưởng. ,
, Lê tể thần: Lễ này có ý nghĩa là thỉnh mời và đón rước thân linh
dự hội để dân làng chúc tụng tỏ lòng biêt ơn dâng thân linh. Đay
nghi lễ quan trọng, lễ vật gồm có cỗ mặn và cô chay. Co mặn
thường có xôi gà, cỗ chay gồm bánh trái, xôi, chè, oản. Trên bàn
thơ có bày hương, đèn, nến và trong đền có trải chiêu đê ban phụng
sh lê quỳ khi tế. , ,
Sau lễ dâng hương là nghi lễ đại tế. Thành phân tham gia gôm:
h^ột đội bát âm (gồm tám loại âm thanh khác nhau, chia lam bon
bộ: bộ hơi có kèn, sáo; bộ gõ có chiêng, trống, mõ; bộ dây có đàn
nguyệt, đàn tam, đàn tứ, đàn thập lục và nhị hồ). Bộ phận này mặc
áo đen, áo xanh, đội mũ xếp
Một chủ tế (là người đức độ được dân làng tín nhiệm) mặc áo gấm
đỏ, hia đỏ, mũ đỏ; bốn vị bồi te mặc áo gấm xanh, mũ xanh, hia xanh.
Ban Chấp sự (gồm 4 đến 6 người) làm nhiệm vụ kiểm tra lễ vật,
dâng hương, dâng trà, dâng quả, dâng rượu, chuyển chúc, đọc chúc.
Những người được chọn vào ban tế phải trai giới 1 tuần đến 10
ngày trước đó và hôm vào te phải mặc lễ phục thống nhất của nhà
đền: đội mũ phốc đầu, bận áo rộng có đai, chân đi hia. Ngày nay,
trang phục tế lễ cũng không khác xưa về hình thức, màu sắc, chi
khác về chất liệu.
Nghi lễ tế Thánh được diễn ra theo đúng quy định, gồm: Hành
Tế Thánh đại lễ, chấp sự giả các tư kỳ sự (bắt đầu tế Thánh, các vị
chấp sự phải liệu việc của mình); Khơi chung cổ (đánh chuông
trống thường là ba hồi); Nhạc công tấu nhạc (phường bát âm cừ
nhạc); Thuế cân, nghệ quán tẩy sơ (các vị dự tế rửa tẩy, lau tay);
Chánh tế viên tựu vị (vị chánh tế vào đứng ở chiếù thứ ba); Bồi tê
viên tựu vị (các vị bồi tế vào đứng ở chiếu thư tư); Cử soát tế vật
(hai người chấp sự cầm đèn đưa cho vị chánh tế đi kiểm soát các lê
vật coi như có sơ suất không); Tham thần cúc cung bái (chủ tế và
bồi tế cùng lạy bốn lạy nhịp xướng theo nhịp xướng của người
xướng tế: hưng là đứng dậy, bái là lạy theo lối phủ phục toàn thân);
Hành sơ hiển lễ; Chánh tế viên nghệ hương án tiền (làm lề sơ hiến,
vị chánh tế bước ra ngoài, vòng lên chiểu thứ nhất trước hương án);
Quỵ (vị chánh tế quỳ xuống); Tiến tước (hai vị chấp sự đem rượu
đến quỳ cạnh chủ tế cho chủ tế rót. Chủ tể vái rồi đưa cho chấp sự
để lên bàn thờ); Phủ phục, hưng bái (chủ tế khấu đầu, lạy hai lạy)’
Bình thân, phục vị (chủ te đi ra, vòng xuống đứng lại ở chiếu thứ
ba); Nghệ độc chúc sở tại hương án tiền (chủ tể bước lên chiếu thứ
nhất); Quỵ (chủ tể quỳ xuống); Chuyển chúc (hai chấp sự lên bàn
thờ đem chúc xuống quỳ bên cạnh chánh tế); Tuyên đọc (người đọc
chúc quỳ bên cạnh tuyên đọc); Phủ phục, hưng bái (chù tế khấu đâu
lạy hai lạy); Bình thân, phục vị (chú tế vê chỗ cũ); Hành A hiên le
nghệ hương án tiền (dâng rượu lần thứ hai như lần sơ hiến); Phú
phục, hưng bai (khau đau lạỵ hai lạy); Bình thân, phục vị (chó tê vê
cíìocũ); Hành Chung hiên iế nghệ hương án tiền (dâng rượu ân thứ
báx Bình thân, phục vị (chu tê về chỗ cũ); Nghệtộ tó (0hú tê lên
chiêu lân thứ hai chờ lễ tộ sớ); Quỵ (chú tế quỳ ttnống); Tứ phúc
tộ (chấp sự lên ban thơ lay khay rượu thịt được thainhay gia tiiện
ban cho chú tê); Thụ tộ (chấp sự đưa khay rượu thh 1che1 chù1 tê
mang về sau khi tế xong. Chũ tế đón nhận, uõng mọ ọp
tượng trưng); Phủ phục, hưng bái (khâu đâu lạy hai ạỵ); in an,
phục1 vị (chủ tê về chõ cũ); Bình thân điểntn^^^ngtrà lên
ban thơ); Hanh tạ le cúc cúng bái (chù tế và bồi tếỊ tạ bôn lê); Bình
than phần chúc (chủ tế và bôi tế đỏng lui ra để người chập sự đòi
ÌỈO; Lễ tất (xong lẽ, moi người vái bạ vái) với tất c 34'bước Ngày
nay, nhiêu bước đã được lược bớt để gjị”‘
Sim chò phần hộiViệc đốt pháo được cắt bò theo Chi thị 406 g
để chuẩn bị sáng hôm sau xuất phát. Đẻtn 19, phường hát chầu vãn
AS^StótâmkhácteynhaụtàctỊỊtct^lâucavũ^
ca tiêng hát, cung đan nhịp phách xen tiếng tiểu cổ, tiếng ô g â
vas Tv <12 giờ đêm), ba hồi chín tiêng trống và
chiêng đại vọng lẽn hòa Ao tiếng pháo nồ râm m báo tó*uám
tỵóc sắp bắt đầu. Mọi người ai vào việc náy. Hai độ thúy .ộ tập két
AẠ quy đ nh để chân chinh ụ n£ l/^Xu^vàTạc
phách và giọng hát điêu luyện. Ngoài sân, các phu Kính*Tị ịhức
tuồng cổ biểu diễn những vở che : Qua
gặp tiên hay vở tuồng Trưng Trăc, Trưng V • bị cho dợt
Rạng sáng ra quân Chiêụg
ui quàn cũng khấn trương. dô cập nh na ra ““ qũân
sông nước. Hàng nam, cứ đen mùa lễ hội. các đội đua *nyê tham
? . ' . ■” . 11 '___ .,,vẴn Chỉ trừ những lúc bận rộn, còn
gia thi đấu liên tục, thường xuyên Chi trư nnưi gi'uv uạutyt> —
lại thời gian nông nhàn họ tập luyện để đến mùa lễ 1^»8 "to
thi tà. tẵ các độfb"n Họ cho răng thuyền cùa mình nếu thắng
quý đựợc làm bằng ngà voi. Bàn cờ có tát ca 32 on,cu a 011^
cưa bang nhau Mỗi be“n có 16 con Quân “ "ớ";^’c";on
Xe, phao, mã, tồt. Trên mặt lọng bàn cơ CÓ hè đường; i cùa các con
*. Mạtcon cờ được me băng chữ Hán và có tô màu để phân biệt
hai nửa bàn cờ khác nhau. trên nền
“ Cờ bàn có thê đánh trên bàn độc trên g; ưimg.chõng, trtonên
•thà, ngoài thềm, ngoài sân, dưới góc c?y b‘iy rẽ". ;■ ờ
M đó có thể đật được bàn và có chỗ cho ngtrời đ^h ờ ngôh
Khách chơi cờ bàn thường là hai "^■^“^SxSchÔ
5 ưea Bta cờ va con cà z to và
coi là lễ chinh- trớ thanh le hội liên quan đến cácdtích như: đen
ĐốcHoang, đền Đá Yên, nen Nghinh thần. Lề hội xuất phát từ đi
Long Thái và kết thúc cũng tại đình. ,
Những năm gần đây, Lễ hội đình Long víHlu khách thâp
mô vùng, thu hút đông đảo nhân dân địa p.ỵyngí va ac
phướng tham dự. ự hộichMt1 w
Giêng (âm lịch) nhăm tưởng nhớ công đức của các vị phúc thân mà
tiêu biểu là vua Lê Trang Tông.
2.1. Phần le: ~ , ià 1Ẫ tíi
Phẩn le gồm: lễ khai quang, lễ yết cáo ? hác
Lễkhai quang: Trước lê hội cácvị chức ắc trong làng,
cao niên, các thỉnh niên trại trang ăn mặc đẹp đẽ chinh'‘ê
lang đe ìàm công việc chuân bị. Đô tế khí bao gồm: long đình, tó
vi, kiệu bạt cống, cờ ngũ hành, tàn tứ linh, long ao, a ao, cu,
ngựa, hạc được lau chùi sạch sẽ bằng nước thơm ngu b đlồ^bằỉ
0 tế khí đ“ỏ bày biện uy nghiêm lộng lẫy, ngh
bản, hành lê thẹo thứ tự quy định. Ngày hội,tra* đình thưò g
đựợc treo cờ thần (cờ hội)1, cờ ngộ hành, cơ p non, ■ •
gôm xôi thịt, hoa quà, trâu rượu là những sạn ^1 c"aJ“
nghiệp Ngoại rạ, mỗi Ỉần tế tự làng g^> tìòntnuaniột oontóukhôc
m?nhỊbeotót để làm thịt phục vụ tê tự Mâm nỗ tẽ tụkhông
chi thề hiện lòng thanh ma con lá mọt cuộc sá.hạc rèn tay nghê
nữ Công gia chánh cùa phụ nữ. Soạn lễ và soạn cỗ tế thần không chi
' h’““làn(cờhội)treoIrẽncâyưe
’ên trời (thọng linh). Tre lại mọc thành từng khóm khăng k Ít nnau °
đ°àn kết để chống lại thiên nhiên khắc nghiệt và tạo sự gắn bó tình làng nghĩa
là sự phân công theo nghĩa vụ mà thực sự là cuộc thi tài âm thầm
của chị em phụ nữ. Việc dâng tiến cho thần tức là muốn thần phù
hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu để năm sau lại có lê
vật dâng thần, đó là ý thức cầu phồn sinh.
Lễ yết cáo: Được tổ chức tại đình vào tối ngày 12.01 âm lịch
nhằm mục đích báo cho các thần và xin phép các thần được tổ chức
tể lễ và lễ rước vào sáng hôm sau.
Le rước kiệu: Lễ rước là sự gắn kết các di tích có cùng truyên
thuyết về vua Lê Trang Tông ở tổng Bạch Hà. Lễ rước được tiến
hành vào sáng sớm ngày chính tế, thành phần gồm chức sắc và
nhân dân trong làng. Đi đầu đám rước là hai lá cờ mao tiết, tức cờ
chỉ huy của các vị tướng cầm quân tượng trưng cho uy thế của thân.
Sau cờ mao tiết là cờ ngũ hành năm màu đỏ, vàng, xanh, trắng, đen.
Kế đó là cờ tứ linh, thêu hình 4 con vật long, ly, quy, phượng. Sau
lớp cờ là chiếc trống sơn hai người khiêng. Người đánh trông
thường là người chỉ huy đám rước gọi là thủ hiệu. Sau trống đên
chiêng, chiêng trống làm nhịp cho đám rước. Hai con ngựa gỗ sơn
màu đỏ và màu trắng được đẩy trên bánh xe. Kế đến là người vác
bát bửu, long đao, mã đao, chùy và hai báng gỗ đề chữ “tĩnh túc
(giữ yên lặng, nghiêm trang) và “hồi ty” (tránh đi), tiếp đến là
phường bát âm với đàn, sáo, nhị. Sau đó là người khênh kiệu Long
đình. Kiệu Long Đình là chiếc kiệu có mái, bên trong có đỉnh trâm
hay bình hương, ngũ quả. Kiệu Long Đình có 4 người khiêng (gọ1
là chân kiệu) và 4 người đi cạnh để thay thế. Long Đình có tàn, lọng
che. Sau đó là một kiệu bát cống và bài vị thần. Các bô lão và các
viên chức của làng mặc áo thụng đi sau kiệu.
Đoàn rước đi đến đền Đức Hoàng, khi lễ tế xong rước kiệu và bai
vị của Lê Trang Tông về đền Đá Yên, qua nền Nghinh Thần và vc
đình Long Thái làm lễ đại tế. Sau đó rước ngược lại và về đình làm
lễ tạ. Lễ rước kiệu là nét đặc sắc thể hiện sự trang nghiêm long trọng
của lễ hội đình Long Thái, thu hút đông đảo quần chúng tham gia-
Lễ đại tế: Sau khi thần được rước về đình thì làng tổ chức lê đại
tế với đầy đủ chủ tế, bồi tế, đọc chúc, Đông xướng, Tây xướng, quan
viên, đội nhạc. Chủ tế còn gọi là mạnh bái là một vị cao niên c0
phẩm hàm hoặc đỗ cao nhất làng, thường là ông tiên chỉ hoặc ong
đám nhất của làng. Khi các vị thông xướng hô khâu lẹnh, chiêng
trông, nhã nhạc nổi lên, buổi đại tê lân lượt theo đúng bai ban quy
định. Nghi thức buổi tế có nghênh thân, hiên lê (dâng le than linh),
âm phúc và thụ tộ (được ăn uống), lễ tạ. Sau buôi đại tê, ngươi ta COI
thần luôn có mặt ở đình, các chức sắc, bô lão phải chia nhau túc trực.
Trước đây, khi đại tế xong, làng tô chức hát ca trù (hát ả đao) đe
chúc các vị thần, các quan viên chức săc, chúc cả dan lang được
rnọi điều bình yên, no đủ. Tiếp đến, làng tô chức ăn uông linh đinh
Vui vẻ ngay tại đình. Trong khi đó, tại môi gia đình đêu chuân bi co
hàn để mời người thân, mời bà con và nhân dân ở các làng khác ve
nhà mình ăn uống. Bà con quan niệm răng, ngày hội lang la ngay
vui nên trong không gian nơi diễn ra lê hội đêu đây ăp không khi
tâm linh không chỉ dân làng xa gần về dự lễ hội mà có cả các VỊ
thánh thần, các vị tiên tổ. Do đó, lòng ai cũng CỞI mở, han hoan.
2.2. Phần hội: , x
Bên cạnh phần lễ, làng Long Thái tô chức phân họi rat long
trọng. Trước ngày đại tế có phần khai mạc lê hội ở sân ngoai đinh
và được tổ chưc trang trọng với sân khấụ ngoài trời, ở đ(5 được
trang trí phông, cờ sặc sỡ. Đong đảo đại biểu, quần chúng nhân dân
tụ hội làm lễ chào cờ, nghe đọc diễn văn khai mạc, khai trong, xem
Cac tiết mục hội trống và văn nghệ chào mừng hâp dân. Các trò chơi
dân gian, các hoạt đọng văn hóa, văn nghệ được diễn ra liên tục và
sôi nổi như hát ả đào (tại nhà ca vũ), chơi vật cù (tại thửa ruộng
tfước đình) và hội tống thuyền (rước thuyền quanh làng) ve tới đình
Va làm lễ tống thuyền (giấy) xuống cầu Đồng Rao (một nhánh cua
sòng Lam).
T Hội Vật cù gắn với tuổi thơ của cậu bé Lê Ninh (sau này là vua
Lê Trang Tông) khi còn nhỏ đã cùng chơi với trẻ chăn trâu Theo tập
hàng năm, đầu Xuân đến ngày khai Hạ (7.01 âm lịch), khiL làng
làlìl lễ hạ nêu, dân làng tổ chưc hội vật cù nhằm biêu dương sức
mạnh trong dân thôn đe bước sang năm mới làm ăn gặp nhiêu may
rán, cuộc sống âm no. Hội vật cu được chia làm hai phe Đông và
^arn' Lực lượng mỗi phe được làng chia trước theo các dòng họ.
Dụng cụ gồm một gốc chuối to đẽo tròn, sân chơi ngay trước đình
làng, hai đầu sân có hai lỗ cù. Khi chơi, lực lượng hai phe đứng chờ
sẵn hai bên. Làng cử một người có địa vị, uy tín đại diện cho làng
đứng giữa sân nâng cù lên cao và tuyên bố cuộc chơi bắt đầu. Cù
được thả xuống, theo đó hai phe hò reo tranh nhau cướp cù. Khôi
người vòng quanh quả cù mỗi lúc một đông, di chuyển lúc sang
Đông, lúc sang Nam. Đội nào đưa được cù vào hố là chiến thắng.
Sau một thời gian nhất định, hội vật cù kết thúc, mọi người vui vẻ
ra về và bắt tay vào vụ sản xuất mới.
Hội tống thuyền được tổ chức vào ngày 29.01 âm lịch hàng năm.
Mục đích chính của hội tống thuyền là các gia đình, dòng họ làm lê
tạ, cầu yên tại đình để xua đuổi những tà ma, nghịch đạo, dịch lễ ôn
hoàng nhằm cầu mong một năm làm ăn yên ổn, dân tình khỏe
mạnh, không có dịch bệnh.
Cách thức tổ chức: làng làm một chiếc thuyền giấy tương đối lớn
rước chạy xung quanh làng, đi theo thuyền có đám trẻ nhỏ hò reo
(hề hề hề), thầy phù thủy tay cầm mác, đuốc sáng vừa đi vừa gọ1
“ôn hoàng dịch lệ, ngụ quỷ tam phương, nghe trống nghe chiêng,
ra đình mà trẩy”. Thuyền đi đến đâu mọi người trong các gia đình
cầm roi dâu (chỉ dùng roi bằng thân, cành cây dâu) đánh mạnh vào
khắp nhà và hô “chuột chuột, bọ bọ trôn ở nơi mô, ra đình ăn cô’ ■
Sau đó, thuyền chạy vòng quanh làng vê tới đình (mỗi trẻ nhỏ đi
reo hò được thưởng một đồng tiền). Khi lễ xong, thầy phù thủy tông
thuyền xuống cầu Đồng Rao.
Tục đánh đu: tục này có hai hình thức gọi là đu ta và đu tiên. ĐU
ta xuất phát từ đồng bằng Bắc Bộ. Trò chơi gồm hai người (một
nam và một nữ) cùng đu rất vui nhộn và sinh động: “Trai co gối hạc
khom khom cật, gái uốn lưng cong ngả ngả lòng” (Hồ Xuân
Hương). Đây là trò chơi thuần túy, vui vẻ, ít khi chấm giải nhưng
lại khá hấp dẫn với mọi người, nhất là đám thanh niên. Đu thường
làm trên bãi đất trống trước đình bằng 4-6 cây tre tươi chôn thành
hai hàng, chụm ngọn vào nhau, cách nhau một khoảng để khi đu
được an toàn. Trên đỉnh của hai hàng tre được gắn vào một ròng
rọc. Từ ròng rọc gắn hai cây tre dì (không già cũng không non) 1ÙU1
thành hai tay đu; ngọn tre ớ trên
đụcKlìpbàn đập cho:người choi giẫm; Nf2 a Sn đu Sau
dạ, một nam mọt nữ quay mặt vào nhau và cùngs ‘“1 “■
mỗi Tuộc chơi, mọt so cạp đã nên vợ nện1 chồng. Ngoài đu.1ta xưa
kia tại đình Lỏng Thái X " đut^^o ngày^g ^0
một gióng gô to cạo 1 ,8 mét phía‘rên ® ”1 ca0 0,6^ ét chí hại
mét, giữa cóngười
ngườ?ngồi, đất đâu
dưới hai
trục quay, ì^ng đcọt
xoayđục ^ngTrẲn
u qugo ™ơc thanhđiệu,
cácXh 20.
người xưa cũng chạm những hình hoa la, ong nuv VOVH .
Thanh niên nám nữ an mạc đẹp, hát những câu chúc mừng g
tiếng vồ tay hân hoan của dân làng. đ
, Chơi cơ ngươi: trò chơi này trong ũ hội < nhLong Thái đưọc
tồ chức rất vui nhộn, thường diễn ™ '^s trai' co gái tư
Các làng Sẽ chọn quân cờ của mình băngcác chàng tn“3*8«*
12 đen 20 tuTmẵi bên gồm 16 nam tay > 6 ”“ «* 5"'
đữ^.?"?.? t™s
“.. ứ,c ờ bâi. đấ!.í"tumh tóc là sát hạch, hễ nước cơ cao
Cũng nhu thổ công trong một nhà, Thành Hoàng; trong; mộtlàng
là vị thần cai quản, che chở, định đoạt phúc ọa c 0 an an .
Thành Hoàng còn biếu hiện ưho lịch sử, phong tụỌ’ đạo đức, pW
luật
moi zcùng hy vọng
8hXô hỉnh,cùa
tó cà làng, lại là thứ
cho lỊXã thành mộtưy
qưycn yc >có .0
s*eưđông
cộng
chức và hệ thông chătchẽ. Hâu hết Thành.Hoàng 0Đò Lưcmgđêu
Múc thân Phúc thân chia íàmba hạng: ỊỊttr^ẳng^mTrưng
đằng thân Hạ đăng thân Song ThànhHoàng0 ĐÔILuông.cũng đa
dạng, co the chia lam hài loại: nhiên thần (bao gồm cá thiên ã )
và nhân thần. . , là
Nhân thần là những vị thần có tên tuôi, tươc VỊỊ ro’
những người có công lập rà lang xă> "^Í^Cu thỉ ờ Đô
Ị sông hoặc mất đi ó làng, là tô sư các ngành nghề. Cụ thê, ớ Đô
Lương có những đền thờ nhân thân sau: < Thái nhó
Đền “g Yen Tứ (nay là 1 Yên Son thừ phụng Tha ptó
Chân Quận công Thái Bá Du. vốn tinh.thông binh pháp đời
Nguyên Hòa (1533-1548), ông theo vinh Quận công nhonXang
Ai đánh nhà Mạc, lập nhiều chiến cộng,> nh.»!*»««
nhiều lần. Khi mát, được tỊg là Tư Mà Thái Phó có sắc phong cho
lập đền thờ Thần rất linh thiêng, thường hiên hn .
Đền Đức Hoàng ờ xa Ỵên Sơn thờ vua ư Trạng Tông.
-Bền z z và các đền; định ố “0 làng thuộc xiã Bạclh Ngọc
ựa (nay là ba xã BồiSot,
Lam Sơn, Ngpư Sơn1 thòUy/linh g
Lý Nhật Quang - anh hùng dân tộc, ngựời có công lao to g
Việc khai phá, phát triển vùng đât Nghẹ An t ƠI Ỵ-
' lưnTrạcThanhơìmẸạchNgỌCCUÍnay thuộcxãLamSmiKhờ
1 Lượng đẳng thân: thân bình đẳng của Phật, vốn có trong tất cả mọi pháp.
2 Tam giới: Dục giới, sắc giới, vô sắc giới.
3 Lịch sử Nghệ Tĩnh, sđd, tr 94.
Trải bao năm tháng, chùa Bụt Đà đã trở thành ông Phỗng, chỉ còn
trơ lại một cái nền thôi, ai trông thấy cũng không khỏi ngậm ngùi... ”
Sau khi Quảng Phúc hầu Nguyễn Cảnh Hà cùng vợ là công chúa
Trịnh Thị Ngọc Thái “Đã chọn ngày lành, tìm gỗ tốt gần đấy, gọi
thợ tới trùng tu chùa trên núi Bụt Đà, tiêu tốn không biết bao nhiêu
mà kể, sửa chữa Cam lộ thượng điện 3 gian, thiên hương 3 gian,
tiền đường 7 gian, tả vu 3 gian, am bên phải 3 gian và tam quan có
gác 3 gian. Chùa tu sửa xong lại tạc tượng phật để thờ”1.
Sách “Lịch triều hiến chương loại chi” của Phan Huy Chú viêt
Ve chùa Bụt Đà như sau:
“Núi Viện Sơn (tức Đà Sơn) ở thôn Bụt Đà, xã Phật Kệ, huyện
Nam Đường, trên núi có chùa cổ. Ngoài rừng có chợ, người ở đông
đúc. Đổi ngạn có núi Thiên Nhẫn thuộc huyện Thanh Chương, xa
trông một màu xanh biếc”2.
Mồi khi đến ngày lễ chùa, phật tử và nhân dân vê chùa rât đông.
Nọ là những người buôn bán trên sông nước thường xuyên đi vê
chùa niệm phật hoặc là những phật tử ở các nơi khác đên rôi dựng
nhà ở gần chùa. Việc tụng kinh niệm phật diên ra hàng ngày trong
các gia đình, một phần tâm linh của họ hướng vê cõi phật. Họ là
những tín đồ chân chính của nhà chùa. Thê hiện một cách sinh động
trong việc đặt tên cho xóm của mình là xóm Đô Kệ. Từ trong tam
hnh họ lấy việc đức phật ngự trên núi Đà Sơn mà đặt tên cho lang
roới của mình là Bụt Đà.
Cùng với chùa Bụt Đà, qua điền dã, chúng tôi còn ghi được trên
10 làng có chùa nhưng nhiều hơn cả vẫn là những làng ở vùng Bạch
Đường xưa. Thời Lý - Trần, nhân dân nơi đây đã xây dựng được
nhiều ngôi chùa như: chùa Bà Bụt, chùa Phúc Yên, chùa Bình Vôi,
chùa Cầu Cơi, chùa Nhân Trung, chùa Côn Hội, chùa Phuc Hạu,
chùa Nhân Bồi, chùa Tập Phúc.
Trong đó, chùa Bà Bụt là một trong những ngôi chùa thờ Phật
t’eu biêu nhất của cả vùng. Chùa Bà Bụt thờ Phật theo phai Đại
* Hoafi Châu ký, Sđd, tr 139
Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chi, NXB Khoa học xã hội, H, tập 1, tr 74.
thừa. Người theo Đại thừa quan niệm rằng: trong vũ trụ có chư Phật
và chư Bồ Tát ở cả ba thời: quá khứ, hiện tại và tương lai. Người
tu hành Đại thừa thành tâm có thể thành Phật, được Bồ tát hoặc các
vị Bồ tát đón về miền cực lạc. Phật điện Đại thừa có khá nhiều vị
phật và bồ tát khác nhau. Bởi vậy, chùa Bà Bụt cũng được bài trí
khá nhiều tượng phật, bao gồm: Tượng Tam thế, Phật Bà quan âm,
Adiđà phật, Thích ca, Kim cương...
Các vị đức phật chiếm một vị trí quan trọng trong đức tin của
người Đô Lương nói riêng, người xứ Nghệ nói chung. Họ chính là
hình ảnh của lòng tha thứ mênh mông, một đức nhẫn nhục không
bờ bến, một tình thương bao la lúc nào cũng sẵn sàng ban phát cho
chúng sinh. Đặc biệt, tượng Phật bà Quan âm cổ nhất tại chùa đã
in đậm dấu ấn lịch sử được nhân dân coi như linh hồn sống. Phật
bà Quan âm đã linh phù giúp Lý Nhật Quang (con trai thứ 8 của
vua Lý Thái Tổ) trong việc khai mở đất đai, lập dân trên vùng đât
này, đồng thời phù giúp Lý Nhật Quang đánh thắng quân Chiêm
Thành. Ngoài việc nhân dân thờ Phật, chùa Bà Bụt còn là nơi sinh
hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân trong vùng. Hàng năm, tại
chùa Bà Bụt vào dịp tháng Giêng, nhân dân trong vùng tổ chức lê
tạ tại chùa trong dịp lễ hội đền Quả Sơn - một trong những phân
lễ có quy mô to lớn mang đậm bản sắc địa phương, thể hiện ý
nghĩa nhân bản sâu sắc.
Người Đô Lương, ngay cả một số đệ tử đi chùa cúng Phật có lẽ
cũng chẳng rõ mình theo tông phái nào. Họ càng không biêt học
thuyết lớn của nhà Phật như “Tứ diệu đế” và “Thập nhị nhân
duyên”; khi hương khói vái Phật hay cầu kinh niệm Phật, họ ch1
biết các đức Phật lòng bác ái, bao la, có đức từ - bi - hỉ - xả, c°
lượng cả vô biên, cứu khổ cứu nạn, phù hộ cho con người thoat
khỏi tai ương. Trong tín ngưỡng Phật giáo của nhân dân Đô Lương,
trước đây cũng có người ăn chay, giữ giới, tụng kinh, phóng sinh
và chuẩn tế nhưng đó là những người muốn tu nhân tích đức, đem
lại sự thanh thản cho bản thân và gia đình. Dù vậy, họ không sùng
bái quá mức thông qua các lễ nghi tốn kém mà họ coi trọng vlỹ
sống phúc đức, trung thực hơn là đi chùa: “Thứ nhẩt là tu tại gia’
thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa/Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng
làm phúc cứu cho một người”. Vì vậy, chỉ ngày Phật sinh, ngày lê
Vu Lan (15.7ÂL) người dân mới làm gạo nêp đô xôi, đóng oản
cùng nải chuối đem lên chùa cúng Phật. Điều đó găn với đạo lý cô
truyền của người dân Đô Lương là hướng thiện, thương người như
thể thương thân, sẵn sàng chịu đựng và tha thứ.
3. Thiên Chúa giáo
Thiên Chúa giáo được truyền vào Đô Lương khá sớm. Từ đó cho
đến khi giáo phận Vinh hình thành do Giám mục Ngô Gia Hậu
đứng đầu (1846), Đô Lương đã có các nhà thờ giáo xứ, giáo họ như
Bụt Đà - được xây dựng năm 1912 do giáo sỹ phương Tây cai quản;
Nhà thờ họ giáo Phúc Đồng được xây dựng từ cuối thê kỷ XIX...
Hiện tại (2014), Huyện Đô Lương có 14 xã thị có đông bào theo
đạo Thiên Chúa với 1.764 hộ, trên 8.000 nhân khẩu. Có một giáo
hạt với 4 xứ là Bột Đà, Sơn La, Thanh Tân và Lưu Mĩ, một dòng tu
Mến Thánh giá và 25 giáo họ, 4 linh mục.
Học thuyết lòng tin của đạo Thiên Chúa có khác biệt vê nguyên
tăc so với giáo lý của Phật giáo trong việc giải quyêt vân đê sô phận
con người và vị trí con người trong thế giới. Tuy nhiên, khi du nhập
vào Việt Nam, một phần trong tư tưởng của giáo lý được ‘ Việt hóa”
gân hơn với tư tưởng, triết lý của con người phương Đông. Trong
học thuyết lòng tin của đạo Thiên Chúa, người có tội được đoi xư
theo một cách khác, họ có thể tránh được sự trừng phạt vê những
tội lỗi của mình nhờ lòng thương của Chúa, nhờ sự thành tâm câu
X1n Chúa tha thứ và che chở. Đây là quan diêm hoàn toan mơi ve
chât so với học thuyết của Phật giáo. Nó liên quan đên nhân tô lựa
chọn, nhân tố tự do và suy cho cùng, liên quan đên khả năng bọc lọ
những phẩm chất cá nhân. Con người được tự do quyết định sô
phận của mình bằng hành vi thú tội hay không thú tội. Nêu thú nhận
tội lồi và được tha thứ, người đó sẽ trở nên trong sạch, mọi cái sẽ
được bẳt đầu lại từ đầu. Nếu không thú nhận, kẻ phạm tội sẽ luôn
hi ám ảnh bởi tội lỗi mà mình đã gay ra và do vậy sẽ bị mất tự do.
Cải gốc của giáo lý đạo Thiên Chúa là đức từ - bi - hỉ - xả, cứu khô
cứu nạn, tu nhân tích đức để lên cõi niết bàn như đạo Phật; là chữ
“nhân” và thuyết “thiên nhân thương cảm” như đạo Nho. Tóm lại,
đạo nào cái gốc ban đầu cũng là tình yêu thương con người và
muốn cứu nhân độ thế.
Hầu hết, đồng bào giáo dân ở Đô Lương đều đi theo dòng Chúa
cứu thế. Tín đồ ban đầu là những người nghèo khó, không tìm thấy sự
giải thoát được bình đẳng, no đủ, bác ái trong đời sống thực tại, họ
mong ở một kiếp sống khác. Đó là, sau khi chết được quây quần dưới
chân Chúa, lên Thiên đường. Nguyên tắc cao nhất của đạo Thiên
Chúa là kính Chúa trên tất cả, trên cả gia đình mình, tổ tiên mình, đất
nước mình. Tuy nhiên, lòng kính Chúa phải biểu hiện bằng tình
thương yêu đồng loại, thương yêu mọi người. Mỗi một con chiên luôn
phải khắc ghi 10 điều răn của Chúa: Hãy kính trọng cha mẹ ngươi đê
được sống lâu trên trái đất như Chúa cho phép; chớ giết người, chớ
dâm ô, chớ trộm cắp, chớ vu cáo ai, chớ giành vợ, giành nhà cửa,
giành trâu bò và bất cứ việc gì khác không phải là của ngươi...
Với tinh thần “sống phúc âm trong lòng dân tộc”, “sống tốt đời
đẹp đạo”... những người theo đạo Thiên Chúa ở Đô Lương luôn
thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”,
họ đã cùng toàn thể nhân dân tham gia hai cuộc kháng chiến trường
kỳ và anh dũng, đem sức lao động của mình để xây dựng đất nước,
xây dựng xóm làng, thực hiện đầy đủ các chủ trương, chính sách
của Đảng và Chính phủ, tôn trọng luật pháp cùa Nhà nước.
của cải quý nhất.- “Một mặt người là mười mặt của; g
dông vàng” (tục ngữ).
Năng lực duy trì nòi giống của người phụ nữ được nhìn nhận qua
dòng dõi. “Mua heo chọn nái, lấy gái chọn dòng”.
Không chỉ duy trì nòi gióng, người con tương lai còn có trách
nhiệm làm lợi cho gia đình. Là con gái phải đảm đang tháo vát, đem
lại nguồn lợi vật chất cho gia đình nhà chồng; là con trai phải giỏi
giang, đem lại vẻ vang cho gia đình nhà vợ:
Chồng sang vợ được đi giày
Vợ ngoan chồng được tối ngày cậy trông (ca dao)
Trước đây, hôn nhân còn phải đáp ứng các quyền lợi của làng xã.
Tục nộp “cheo” đóng vai trò là phương tiện kinh tế phục vụ cho nhu
cầu ổn định làng xã. Khi lấy nhau, đôi trai gái phải nộp cho làng
một khoản “lệ phí” gọi là “cheo” thì đám cưới mới được xem là hợp
pháp. Người cùng làng lấy nhau thì nộp ít (có tính chất tượng trưng)
gọi là cheo nội; lấy vợ, lấy chồng ngoài làng thì cheo rất nặng, gấp
đôi, gấp ba cheo nội, gọi là cheo ngoại.
“Hương ước làng Phương Liên ” đã ghi rõ quy định này tại Tiêt
thứ 11, khoản thử 31: “Trong làng có việc hôn thú, tuân chiêu
hướng hành, người trong làng phải nộp cheo 1,2 quan, trong xã 2
quan, trong tổng 3 quan, người biệt tổng 6 quan. Tiền cheo ấy giao
cho hương bản ghi vào sổ thu nhập. Còn việc khai trước giá thú
theo lệ Nhà nước ai muốn lấy trích lục thời phải nộp hai tiền cho
hương bộ”1.
Nộp cheo chính là biện pháp kinh tế, khoản tiền này thường được
dùng vào những việc công ích như tu bổ đình chùa, đào giếng, xây
giếng, xây cổng làng, đắp đường, lát gạch đường làng... Tục ngữ có
câu “Nuôi lợn thì phải vớt bèo, lấy vợ thi phải nộp cheo cho làng”-
Hôn lễ ngày xưa được quy định thành “lục lễ”. Người Đô Lương
thời cận đại theo thông tục, chỉ có mấy lễ như sau:
Lễ vấn danh: là tìm hiều về lý lịch của cả gia đình, dòng họ, nhât
là tuổi, xem có hợp tuổi con trai mình hay không.
Lễ coi mặt: là tạo điều kiện để đôi trai gái gặp gỡ nhau khi cha
mẹ đã định đoạt duyên phận cho con cái.
1 Ninh Viết Giao (chủ biên): Hương ước Nghệ An, NXB Chính trị Quốc g>a’
Hà Nội, 1998.
Lễ dạm ngõ: do người làm mối dẫn mấy đại diện nhà trai tới nhà
gái với lễ vật là trầu cau, chè rượu để hai bên đi lại dân kêt thành
thông gia và công khai với bà con, xóm làng vê đôi trẻ đã đẹp
duyên với nhau.
Lễ ăn hỏi: gồm trầu cau, rượu chè và bánh trái. Bình thường là
bánh tét và bánh dày, tượng trưng cho âm dương. Sau này chuyên
sang mâm xôi, cái thủ lợn với bánh gai. Người Đô Lương gọi đây
là “lễ nhởi bánh”. Bánh gai được làm công phu, cho vào thúng, đại
diện nhà trai mang đến nhà gái. Nếu nhà gái nhận lê vật, kê từ ngày
ăn hỏi, đôi trai gái nghiễm nhiên thành vợ chông chưa cưới.
Từ ăn hỏi đến lễ cưới phải trên hai năm. Đây là khoảng thời gian
hai gia đình đi lại với nhau. Bên nhà trai phải sêu têt. Sêu là mùa
ưào, thức ấy, chàng rể phải mang đồ lễ biêu cha mẹ vợ chưa cươi.
Đặc biệt là các dịp tét như tết Đoan Ngọ, Thường Tân, Nguyên
Đán, nhà trai phải mang đồ lễ tết đến nhà gái.
Lễ xin cưới: đại diện nhà trai mang trâu rượu và XÔI thịt đen nha
8ái xin cưới. Đây là lúc nhà gái thách cưới và hai bên đinh ngay
lành tháng tốt để làm lễ cưới.
Lễ cưới: thường cử hành trong một ngày; bữa cô chủ yêu ăn tại
nhà trai.
Trên đường về nhà chồng, cô dâu thường câm mọt cay roi dau,
ơ đâu ngọn còn để một vài lá với tâm niệm là đê đuoi ta ma dọc
đường bám theo quấy nhiễu. Lúc về đến công nhà trai, cô dâu phai
bước qua một chậu nước lã, trên có một cái chày đặt ngang gọi la
bàc câu. Bước chân của cô dâu phải khéo léo đá cho cai chay lan
Xưống đất. Trong chậu, nhà trai thường để một ít đông bạc trăng,
dường như để thưởng cho cô dâu trong việc đá chày này. Đám cưới
yè đến nhà, đôi trai gái phải lễ gia tiên và lễ tơ hồng, sau đóhai họ
àn tiệc mừng. Cũng tục ngày trước, khi cô dâu vê tới nhà chông, bà
chồng phải xách bình vôi sang nhà hàng xóm, ý nói sau này sẽ
ưhường quyền quán xuyến gia đình cho nàng dâu, nhât là nang dau
ca bởi vì bình vôi tượng trưng cho nên móng cua gia đinh.
Lễ lại mặt: vợ chồng mới cưới nhau và cả đại diện nhà trai đưa
nhau trở lại nhà bố mẹ vợ ngay sau ngày vu quy. Lễ vật thường là
cỗ xôi, cái thủ lợn. Đây là lời cảm ơn bố mẹ của con rể. Trong ngày
nhị hỷ, cô dâu nhận thêm những lời căn dặn của bố mẹ.
2.2. Tang ma:
Phong tục tang ma của người xứ Nghệ nói chung, Đô Lương nói
riêng thể hiện hai tâm lý giằng kéo nhau: nuối tiếc người thân và
đưa tiễn người thân qua bên kia thế giới, về tục này, hương ước
làng Phương Liên ghi rõ tại khoản thứ 21. Trên cơ sở đó, khi trong
gia đình có người thân qua đời, tục làm đám ma thường theo sách
“Thọ Mai gỉa lễ”\
Khi còn hấp hối, việc quan trọng đầu tiên là đặt tên hèm (tên
thụy) cho người sắp chết. Đó là một tên mới, tên cuối cùng (do
người sắp chết tư đặt hoặc con cháu đặt cho) mà chỉ có người chêt,
con cháu và thần thổ công nhà đó mới biết mà thôi. Làm như vậy
là để phòng ngừa những cô hồn lang thang vào ăn tranh cỗ cúng sau
này. Khi cúng giỗ, con trưởng sẽ khấn bằng tên hèm, Thổ công có
trách nhiệm kiểm soát, chỉ cho phép linh hồn nào có “mật danh”
đúng như thế vào nhà.
Trước khi khâm liệm, phải làm lễ mộc dục (tắm gội cho người
chết) và lễ phạm hàm (bỏ một nhúm gạo nếp và 3 đồng tiền vào
miệng - gạo để dùng thay bữa, tiền để đi đò - quan niệm của người
vùng sông nước).
Khi khâm liệm phải có miếng vải đắp mặt người chết để khỏi
trông thấy con cháu mà sinh buồn. Trong quan tài, người Đô Lương
vẫn để kèm một số đồ vật tùy thân của người chết như quân áo,
gương lược...và hàng năm khi cúng giỗ thì “gửi thêm” tiền, vàng,
quần áo (tất cả đều làm bằng giấy).
1 Hồ Sỹ Tân (người Quỳnh Lưu) - hiệu Thọ Mai (1690 - 1760): “Thọ Mai gia lễ 1®
gia lễ nước ta có dựa theo Chu Công gia lễ thời xưa của Trung Quốc nhưng không r?p
khuôn và Hồ Thượng thư gia lễ (tức Hồ Sỹ Dương (1961 - 1968) cũng người Quỳnh
Lưu). Mặc dầu đến nay, gia lễ từ triệu Hậu Lê có nhiều chỗ đã lỗi thời nhưng trong Nam
ngoài Bắc vẫn còn phổ biến áp dụng, nhất là tang lễ.
Sau lễ thiết linh sàng (để thờ người qua đời và cúng cơm), lễ
triệu tổ (báo cáo với tổ tiên để tổ tiên biết) là lễ thành phục nhằm
ban khăn áo cho thứ bậc con cháu, về màu sắc tang phục thì dùng
màu trắng và màu đen (những màu xấu nhất trong ngũ hành); ve
chât liệu thì dùng các loại vải thô, xấu như xô, gai. Khi áo, mũ, đô
tang đặt trước án thờ đã có nến hương nghi ngút, có bát cơm căm
đôi đũa vót tua và cái đĩa đặt quả trứng luộc, con cháu vào làm lễ
rôi mặc tang phục. Lúc này, kèn trống mới nôi lên và có người đên
phúng viếng.
Lễ cúng cơm: con cái tề tựu bên linh sàng ăn cơm trong cái sàng
hay cái mẹt, ăn xong không được xỉa răng.
Lễ tập đòn: để đôi tùy đi cho đều.
Lễ dẫn: tức là lễ đưa ma, có cờ tang, minh kinh, linh sa, nhà táng,
trông kèn. Nhà giàu thì có bát âm phường tướng sau khi đã quàn
hai ba ngày trong nhà để tế lễ. Bài vè “Đám dẫn ông Bang Thành 1
đã thể hiện rất rõ đám tang diễn ra ở Đô Lương:
Đồn rằng đám mở làng Đông,
Tám tư cờ gậy trắng đồng Trung Quang
...Kiệu thời sơn đỏ
Đầu rồng đuôi ly
Bốn chục cờ xi
Mở ra ngao ngán
Trống làng trống khoán
Trống nhặt bát âm,
Trống đánh tùm lum
Tận tâm liệt lực
Trời tối như mực
Đình liệu đỏ hai hàng
Phường tướng dẫn đàng
Trừ ma tước quỷ
Cuối cùng là lễ hạ huyẹt, lễ sơ ngu, tái ngu và tam ngu; lễ ba
^ỗay còn gọi là lễ mở cửa mả, vì trong 3 ngày đâu, con chau thương
ntàng, chuyện làng xã Roi những đêm trăng thanh gió mát, những
câu hát ví tại một phường vải nọ hay một bài vè mới được sáng
tác... cũng được đem ra bình phẩm bên bát chè xanh.
Cứ thế, không phân công, không cắt lượt, rất tự giác, nay nhà này,
mai nhà khác, khi sáng, khi trưa, khi chiều những câu chuyện trong
làng xã, trong đất nước, trong bốn bể năm châu cứ quy về râm ran
dưới mái nhà tranh, bên nồi nước chè chát mới nấu thom ngon. Đây
là hình thức mòi nhau, đãi nhau dễ nhất, hợp với sinh hoạt nông thôn.
Qua đó, tình làng nghĩa xóm từng bước được thắt chặt, bao xích mích
được hòa giải, con người sống chan hòa cởi mở trong sự đùm bọc tin
yêu, sẵn sàng giúp đỡ, hết lòng vì nhau khi tối lửa tắt đèn.
Bên cạnh đó, nước chè xanh đối với người xứ Nghệ nói chung,
người Đô Lương nói riêng được coi như com, như rau, thậm chí
uống thay com1. Người nông dân thường uống nước “chè chát” chè
cốt đặc quánh trước khi đi cày. Họ cho rằng nước chè xanh làm
khỏe người, cày cả buổi cũng được. Nhiều người trưa về cũng vậy,
chỉ uống vài bát nước chè chát và ăn ít củ khoai luộc là đủ no rôi.
Như vậy, tục uống nước chè xanh ở Đô Lương thể hiện rõ nét
văn hóa truyền thống của người xứ Nghệ nói chung. Bài ve
“Phường buôn chè xanh ” đã thê hiện rõ tục uông nước chè chát ơ
Đô Lương:
Chợ Đồn ba mươi tết2
Thậm thật vui thay
Bó chè cầm trên tay
Hỏi bó chè năng nấy? (bao nhiêu tiền)
Bó chè tôi cũng nậy (lớn)
Chị phải trả quan hai
Chính thực là chè Gay
Nấu nước ra vàng rộm
Sáng mai làm một ấm
Uống dạ khát cả ngày
Cầm bát chè trên tay
I. TRANG PHỤC
Đối với đời sống của một con người, sau ăn thì đên mặc. Mặc la
cái quan trọng giúp con người đối phó với cái nóng, cái rét của thời
tiêt, khí hậu. Nhân dân ta nói một cách đơn giản: “được bụng no,
còn lo ấm cật” (tục ngữ). Vì vậy, cũng như trong chuyện ăn, quan
niệm về mặc của người xứ Nghệ trước hêt là một quan niệm rat
Ihiêt thực: “ăn lấy chắc, mặc lấy bền” (tục ngữ).
Từ mục đích ban đầu là đối phó với thời tiêt, mặc dân dan trơ
thành một nhu cầu không thể thiêu được trong mục đích trang
điêm, làm đẹp cho con người: Người đẹp vì lụa, lúa tôt vì phan;
chân tốt vì hài, tai tốt vì hoa (tục ngữ). Biết cách ăn mặc, giúp
c°n người khắc phục được những nhược điểm của cơ thê và tuôi
tác: “cau già kheo bổ thì non; nạ dòng trang điểm lại còn hơn
xya” (ca dao)). Không chỉ đối phó với thời tiết và làm đẹp, mặc
c°n mang một ý nghĩa xã hội biểu hiện cho địa VỊ, nghe nghiẹp
của người đó. Và: “Hơn nhau tẩm áo manh quần; cởi ra mình trân
ai cũng như ai”.
, Trang phục của người xứ Nghệ qua các thời đại chịu sự chi phôi
cùa điều kiện tự nhiên. Đó là khí hậu vừa nóng bức, vừa giá rét ở
^ng nhiệt đới và công việc lao động nông nghiệp trồng lúa nước.
Thco đó, cũng như các địa phương khác ở xứ Nghệ, trước đây ở Đô
Lương có kiểu áo 5 thân của đàn ông và tứ thân của đàn bà. Hai
kiểu này là trang phục cổ truyền, phổ biến và kéo dài qua quá trình
lịch sử.
1. Trang phục đàn ông
Trang phục của đàn ông có phần đơn giản hơn của phụ nữ. Kiểu
áo năm thân của đàn ông hầu hết đều nhuộm nâu, có khuy bằng vải
tết lại hoặc có dải để buộc các tà lại với nhau. Đây là kiểu áo cổ nhất
nước ta, mặc vào trông gọn gàng và khiêm tốn. Ngoài ra còn có áo
cánh ngắn may bằng vải chuông, nhuộm nâu hay để màu cháo lòng.
Ông tay, cửa tay rộng, có thể dài hay ngắn, vạt áo không gặp nhau
ở trước bụng mà thường gài về phía bên phải, có các khuy bằng vải
têt hoặc bằng giải để buộc với nhau. Không có áo nào may cổ cao,
cổ đứng hay cổ gấp như áo sơ mi bây giờ. Do được may bằng vải
nâu bâm nên áo rât bên, mặc được khá lâu, có người gọi là áo chung
thân, còn dùng cho cả mặc cả đắp. Mùa hè có áo lương hoặc the
thâm, mùa đông có áo kép thường là áo dài may hai lần vải.
Quần của đàn ông thường bằng vải hoặc lụa màu trắng. Quân
đũng rộng, màu nâu chỉ mặc ở nhà hay khi lao động. Các cụ già vào
tiệc thọ, tiệc yên mới mặc quần lụa điều. Cái quần đặc biệt ở cho
không may lối giải rút mà là may cạp (gọi là lài) rộng độ nửa khô
vải. Chỉ với cạp không thôi cũng có thể vận quần buộc ra trước
bụng một cách đơn giản. Ngoài ra các cụ thường mặc theo kiên
buông lá tọa mỗi khi cần xắn ống lên cao. Nối bật nhất là chiếc thất
lưng (cũng gọi là khố bằng vải hay sồi vì khi cần có thể tạm dùng
nó đóng khố được), khi đi đâu thường buộc ngoài cạp quần, bỏ mui
xòe ra phía trước nhưng không thả xuống sát gấu như của nữ.
Khăn chít đầu thường bằng vải thâm, xanh thẫm hoặc nhiều màu
tam giang sẫm. Khăn thường xếp nếp cẩn thận, chít kiểu chữ nhát
hoặc chữ nhân, quấn bốn năm vòng, trong đó có một vòng bọc lây
búi tó phía sau. Các cụ già thường quấn rói. Kiểu khăn thủ rừu cũng
ít thây nếu có thì đám phường buôn và thợ thủ công hay dùng hơn
là nông dân. Nón đội đầu là kiểu nón chóp.
Đối với người nghèo, trang phục đơn giản hơn nhiều. Mùa nam
nóng dù ở nhà hay ra đường, đàn ông thường đóng khố bằng va’
hẹp khổ gọi là khố chạc (dây) hay khố chạc kẹo. Nhiều khi còn vá
hai ba đoạn lại vơi nhau gọi là khố nối. Nếu mạc quân thì hai ông
chỉ dài quá đâu gối mọt tý, quần gọi là quành. Áo quẩn chỉ 00 một
bộ, rách mới thay cái khác. Những đêm đông rét mướt họ thường
ngôi bên bếp lửa và nằm trong ổ rơm Những người giàu có ngay
xưa cung mạc khố cho phù hợp với khí hậu gay găt là năng nóng
cộng với gió nam. __ ., . ,,
Nhìn chung, trang phục của đàn ông ở Đô Lương giản d, phu
hợp với khí hậu cũng như mọi hoạt động của dơi song xa Ọ1 eo
tính cách của người Nghệ, giản dị cộng với thoi can lẹm co
trong ăn mặc:
Áo ba manh không ấm, không rét
Cơm ba tréc (nồi nhỏ) không đói không no
Cơm tẻ ăn no, vải to mặc bên.
2. Trang phục phụ nữ .,,
Nói về trang phục của người phụ nữ Đô Lương, ai ve ưi
chúa Nhâm” thể hiện rất rõ:
...Quần áo là lượt,
Bẻ trật gấu lên.
Giải yếm bên trên
Nhuộm màu hoa thiên lý.
Giải yếm bên dưới
Buộc quế ăn trầu
Khăn cô chít đầu
Dầu trơn như mỡ.
Cải nón cô đội
Là nón Kẻ Chợ
Cũng đáng năm tiền
Cả rua liền chiên
Cho liền quai móc
Trông lên đụn tóc
Vừa rậm vừa dài
Trông xuống mép tai
Vàng em đeo sáng chói.
2.1 Yếm:
Yếm vốn dĩ là mảnh vải vuông bằng sồi hay lụa, đặt chéo che
ngực phụ nữ, góc trên khoét hình bán nguyệt, đính hai sợi dây vải
buộc ra sau cổ, màu nâu sồi hay nhuộm màu nâu non, màu vỏ trứng
gà. Ở hai góc đối diện nhau vắt sang hai bên sườn đính thêm hai sợi
dây nữa buộc ra sau lưng. Bốn sợi dây này gọi là dải yểm. Có hai
kiểu cổ là cổ đuôi én, cổ tròn có dải kiểu bơi chèo bằng chiếc đũa,
đồng màu với yếm dính vào dùng để cột yếm vào cổ. Kiểu cổ tròn
mới ra đời vào thời cận đại, may nó đòi hỏi phải khéo tay, gọi là
xây cổ ướm. Ca dao có khá nhiều câu nói về cái yếm:
Ai xây cổ ướm không tròn,
Để anh xây lại cả giòn liền xinh
Ai xây cổ ướm em tròn
Cho em càng đẹp càng giòn thêm ra
(Bài Gửi bà chúa Nhâm)
Ở hai bên góc dưới của yếm có hai dải to dài dùng để buộc yếm
theo cách: kéo yếm ra phía sau lưng rồi quanh ra trước bụng và
buộc lại, sau đó thả cho hai múi dài buông xuống đến gần gấu váy
2.2. Thắt lưng:
Kết hợp với dải yếm còn có một dải thắt lưng rời với tác dụng là
trang sức. Thắt lưng thường là sồi hay lụa mỏng (đôi khi nhuộm
màu điều hay màu ngải để dùng trong ngày tết, ngày hội...). Thất
lưng buộc vào ngang lưng cùng với dải yếm làm thành một cặp giải
màu sắc tương phản, nhún nhảy theo từng bước đi, tôn thêm vẻ đẹp
uyển chuyển của người phụ nữ. Có nhiều câu ca dao, chuyện ví nói
về thắt lưng:
Đôi o mặc ướm thắt dải lưng vàng
Lấy chồng biệt xã, trai trửa (giữa) làng ngẩn ngơ
2.3. Ao:
Áo cánh của phụ nữ ở Nghệ Tĩnh nói chung, Đô Lương nói riênể
có đặc diêm là ngăn, thường chỉ đên mấp mé eo lưng và bó sat
người. Hai ống tay rất nhỏ. cổ áo hoặc may cổ viền, cổ đứng nhưnể
ngày xưa khá phổ biến kiểu cổ thừa, trông tựa như cổ áo gi-lê
âu phục. Dù cổ nào thì hai vạt đằng trước chỉ có vài khuy hay một
vài cặp giải. Hàng khuy, trước là khuy xương chai, sau các cô gái
thay bằng khuy bấm song không bao giờ cài, có cài thì chỉ vài cái
ở trước bụng, chiếc khuy bấm là một nét cách tân trong trang phục
của phụ nữ.
Đối với con nhà lao động, các bà, các chị thường mặc áo cánh
nâu có hàng khuy chai hoặc khuy xương, ít khi xăn tay áo nên tay
áo của phụ nữ lao động Đô Lương trước đây thường bi rách từ
khuỷu tay trở xuống nên thường phải thay tay. Vì vậy, nói áo thay
tay” là chỉ hạng người nghèo:
Nhà em mấy con tru (trâu) cày?
Mấy sào ruộng cạn, mà áo thay tay cả đời
giữ. công dụng chính là che năng, c e n'™’ ' ° i(í dưdng
côngNgoài
d™g z Nón là ặTgặi gưe^để khi đang đig»a đutag,
đnSỉCIcì-E Ếơ^gôcX8 nonho thành Ịrz phê
non trơ
non ơơ thanh
thanh chiec gau múc
chiec gau niuu nước
u uống
-o và rửa rim
củamặt, lị tay
Đô chan cho
Lương còn
mát mè. Ngoài ra trang phục myên thong cua gom, «
găn với đôi guốc (guốc mộc, guôc tr , gu -
da dâu), khi Tây sang có giày Tây, giày đâ iá trỊ của cái
LSS ả 5Í£xs nhấtcùa
đẹp là ở chỗ biêt cách chưng diẹn, k g
vật trang sức. Ca dao có câu:
Con quan đeo bạc, đeo vàng
"tgkM ncàitóẪ,Xngón tay ít đeo nhẫn
đô hoa (càng tó nơỉgọt là bông) hay
là đôi hoàn (g" là khuyên) hay là đ6 kt xs
ịtì bàng bạc X (gpi Ftó ) nếu “ ‘ chTthl ớ 1^
ấy chi dành cho tré nho. Hoa111ột ’vòng xuyê g diện. Trường
thườ£đeo vào thXg
hợp trang trọng người nữ đi đâu1 thương aeo w
xà tích bạc (hoặc mạ bạc), về phía ông en a, còn tràu cau
tà áo, phía trong thường; đựng thuốc ùng* dêantrau, con
?’'£5™° hi đ£i ỉkhă^rù (hây khăn đùm) roi vào
à một vuông vải gói lại, gọilàAhă t (hay KB<H * tà nhưng
thăt lưng bên cạnh xà tích, thường gia
đôi khi cũng cho chìa ra phía ngoai cho ẹp- nói riêng
Như vạy, người xứ Nghẹ noặsi ttac vTđê chê tậ!
đã biết tận dụng thế mạnh của nên1 van m r , trình
bâng phục đôi phó với khí hậu nhiệt đới nóng bức. Trong qua
ỳX7đế„ehấtliêUmaymíe.WytàSInP^^^tó"e''’,nh“,<,Ch'1Ối’
này, họ đã tạo ra những trang phục rất linh hoạt. Bên cạnh chức
năng đối phó với môi trường tự nhiên, trang phục còn luôn hướng
tới mục đích làm đẹp cho con người, đặc biệt là trang phục phụ nữ.
Họ không để phô trương những bộ phận đẹp, hấp dẫn trong cơ thê
mà tất cả đều được phủ kín bởi trang phục. Đó chính là nét đặc
trưng trong trang phục truyền thống của người phụ nữ Đô Lương,
người xứ Nghệ nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.
II. ẨM THỰC
1. Quan niệm về ẩm thực
Đối với vấn đề ăn uống, trong nhân dân xứ Nghệ còn lưu truyền
câu: “chặt to kho mặn, ăn lấy chắc mặc lấy bền”. Điều đó có thể coi
là quan niệm về nếp sống thường xuyên và phổ biến của người dân
Đô Lương nói riêng, xứ Nghệ nói chung không chỉ trong bữa ãn
hàng ngày mà cả khi giỗ tết, cưới hỏi, ma chay... Nhưng nhìn chung
đối với vấn đề ăn, quan niệm của người xứ Nghệ lại tỏ ra hết sức tiêt
kiệm, giản dị. Đất xấu, sản xuất kém phát triển, thiên tai thường
trực, thu hoạch bếp bênh, tất cả những điều đó khiến nhân dân phải
lo tằn tiện chắt bóp, cố gắng sao cho trong một mùa, một năm,
miếng ăn của cá nhân, gia đình không bị gián đoạn. Chính vì vậy,
đối với người nông dân, câu: “thịt cá là hương hoa, tương cà là gia
bản” gần như là một câu châm ngôn phổ biển của nhiều gia đình.
2. Ctf cấu bữa ăn
Nguồn vè xứ Nghệ có câu:
Nhà giàu ăn cơm ba bữa; Nhà khó cũng đỏ lửa ba lần.
Như vậy, người xứ Nghệ nói chung, người Đô Lương nói riêng,
ăn ba bữa hai chính một phụ. Bữa sáng và chiều là bữa chính, bữa
trưa là phụ. Vôn là vùng đất bán sơn địa, người dân thường phải
vào đồi núi làm trại. Họ thường ăn cơm vào lúc gà gáy hồi ba, rôi
dùng cái mo cau nắm một nắm cơm gọi là “cơm vắt mo” để ấn
phụ vào buổi trưa, chiều tiếp tục làm việc cho đến gần tối mới vê-
Bữa chính thường cả nhà cùng ăn, dù ngô khoai hay cơm đều ãn
no và thức ăn ngoài cà, mắm, nhút, muối vừng còn có vài món
khác như: rau, canh, cá đồng... Bữa phụ thường chỉ có ngô, khoai,
sắn, cháo đậu...
3. Cách thức ăn L ăn the0 kiề cộng
Cũng nhu' toàn xứ Nghệ, người Đo Lương™ •
đồng nghĩa là ăn cùng; “ánh cùng 01 khô g chia than"^“ho
thức ăn thức uống trong mâm cơm ã ọn a a u vụ
cả thành viên nghi chưng mâm Ùt ễ™ mọỉ
canh
ngươi Xmọcongười
thể véo, 00 thể
đều xè. khi ặn Đừ
gắp,chan.
Trong .xôi bát
a muối gâp 1môn.. •gì đừ
’
z, muôn ăn món gì ỉhì ăn, cô nhiên là phái nhìn va nhường nhm
to xxlẶ
Một nét văn hỏa nữa là khi có bữa ăn ngon n cu "hừc
xú Nghệ không bao giờ chỉ nghĩĩ đen11in , n m
vu- ỉn,nê
người
thôa
đám gig, đám
thích mà bao giờ họ cũng nghĩ đèn con chàm ’ món
đàm an khao... ngồi tại mâmTó Zg dr«g
đt* vi T Ai^ứiỉt cỉì^c^tíiàS^viên ư<mg mâm,
dèn. Xong bữa cỗ, chia đêu XÔI, th.
họ ra vườn xé mảnh lá chuối gói phần xôi thịt đó lại đem về cho
con hoặc cháu. Phong tục này cũng là nét văn hóa trong ăn uống
của người lao động Đô Lương.
4. Những món ăn hàng ngày
Cũng như toàn cõi Việt Nam, bữa ăn của người xứ Nghệ gồm có
cơm và thức ăn.
4.1. Cơm: Cơm là gạo tẻ nấu chín, dùng làm món ăn chính trong
bữa ăn hàng ngày. Nhưng trong dân gian, nghĩa của từ cơm rộng
hơn nhiều. Cơm độn khoai hoặc ngô, sắn đã là cơm rồi. Nhiều khi
ăn khoai, ăn ngô trong bữa chính, bữa phụ họ vẫn nói là ăn cơm.
Ăn cháo, ăn rau, ăn củ chuối trừ bữa cũng nói là ăn cơm. Từ cơm
không phải chỉ nói về một loại lương thực là lúa gạo, gồm gạo tẻ
và gạo nếp mà cả khoai, ngô, sắn, củ mài, củ chuối và rau...
Bởi thế, cơm có nhiều dạng:
Dạng đặc, gồm: Cơm không (chỉ có gạo nấu chín), cơm độn: gạo
độn ngô, khoai, sắn, củ (củ dong, củ từ, củ chuối, củ khoai...), cơm
toàn khoai hoặc sắn, ngô, rau...
Dạng lỏng: chủ yếu là cháo với nhiều loại như cháo gạo, cháo
ngô, cháo khoai, cháo sắn...cũng có cháo gà, cháo vịt...
Dạng khô: com, ngô rang, khoai gieo
4.2. Các món ăn từ khoai:
Khoai lang là món ăn phổ biển nhất, thường được người dân
dùng thay gạo. Ở Đô Lương, trên vùng đất bán sơn địa hay bãi bôi
ven sông Lam đều có thể trồng khoai. Sau 3 đến 4 tháng thì thu
hoạch. Song khi giáp hạt, bà con phải ăn khoai non. Câu ca dao sau
thể hiện rõ:
Ai về Tràng Cát (thay địa danh khác) mà coi; Khoai hai tháng
rưỡi đã moi hết rồi
Khoai luộc là món ăn phổ biến nhất. Ngoài ra còn có khoai xéo.
Người ta thường đem khoai khô đã cắt lát (gọi là khoai thanh) nâu
với một ít đỗ, hoặc thêm một ít nếp. Luộc chín bắc xuống, trước khi
ăn, người ta dùng hai chiếc đũa cả xới rất nhiều lần cho kỳ khoai
tơi nát và trộn đều. Cách làm này gọi là xéo. Thường ăn mặn thì
chẩm vừng hoặc vừng lạc, hoặc cà, còn ăn ngọt thi cham đưomg
hoặc mật. Những nhà có phơi loại khoai dẻo thì đem khoai nâu cách
này không cần bỏ đường mà ngon ngọt đặc biệt.
4.3. Các món ăn từ ngô: . À
Ngô cũng là món ỉn quen thuộc cùa vùng đất tó bãi bôi
ven Sng Lam nhu ở Đô Lương. Ngô cũng được luộc như luộc
khoai, chỉ can be ngó, bóc bẹ rồi bó vào nồi luộc. Ngoài ra còn có
ngô bung và ngô xéo. ................ r
Ngô bung con gọi là ngô hầm, ngô đã già, hạt phơi khô* Trước
khi1 bung bo ngó vào chậu ngâm và nấu cho ngô mềm rarồi đai mày
va bỏ vào nồi bung. Khi ngâm hòa vào một ít nước vôi loãngịđêngô
mau mèm. Nói ngô bung tức là nói ngô đã ngâm, đã sạch mày hỉ
vào nôi nước rồi nâu cho lâu tức ninh kỹ, khi ngô thật mềm mới bỏ
thêm ít đỗ vào để ăn cho ngon. 1Ằ
Ngô xéo làm được bữa ngô xéo vât vả hơn n ìeu.un
đã gC vạy hạt phơi khô bò chum Đến bữa nấu bạo 1nhiêu lây bây
nhiêu, cho vào noi'đo nước đùn sôi. Đun độ mười phụt vớttra cho
rao nước, bó vào côi đạp già nhó rồidầm rây. Khi rmụ mẳn ngô nta
tíưóc, nau chín mới bô bột ngô vào xéo tức 1Ịxong «
dạy kín vung, vân lên than bép. khi nào chín nục th 1
■ấy môi múc hay lấy đũa cà xới từng bát đầy rồi úp xuồng m
?> nguôi Bà con thương xéo ngó an vào bữa A ăn ttông hét
đe sáng mai ăn bữa sáng. Nhũng người vào rừng đi củi đi lây
măng, đi chăn bò... thường đùm vài bát ngô xeo ma g
À
4.7. Canh:
Món canh chua được người Đô Lương dùng rất phổ biển, gọi
chung là dấm hay canh dấm. Đó là thức ăn gần như chủ yếu của bữa
Cơm mùa hè và cả mùa đông. Nguyên liệu nấu canh dấm rất dễ
kiếm, chỉ cần xách giỏ ra đồng bắt vài chục cua hoặc nhúm cá vụn
đem về với vài quả khế là có canh ngay. Ngoài cây khế, ở Đô
Lương còn có cây cà chua quả chỉ bằng viên bi, gọi là cà kĩu, nấu
canh dấm rất ngon, có câu: “Nồi dấm mà nấu cà kĩu, anh ăn mát
ruột chín chiu thương em”.
Ngoài ra, các thứ canh rau như canh rau muống, rau dên (gọi là
rau dênh), cả thứ canh lá lốt (tất bát) thường nấu với tép đồng khá
Ugon nếu ăn quen. Lại có canh tập tàng là món dã vị của nông dân
ãn vào mùa hè vừa ngon, vừa rẻ. Nguyên liệu gôm rau muông,
mồng tơi, lá khoai, lá rau dền.. .mỗi thứ một ít rất dễ kiêm, vì ở đâu
cũng sẵn và một nhúm tép hay cua đồng, nếu không thì nâu với
măm ruốc cũng ngon.
Mùa nào canh nấy, riêng canh đỗ thường nâu vào mùa hè. Chỉ
cân kháp “đỗ xanh” bỏ vào nồi, bắc ra bỏ ít muôi, cho lá tía tô căt
nhỏ là có món canh thơm và mát. Cơm chan canh ăn với cà muôi
khó mà quên được.
4.8. Rau ĩ
Rau trong bữa ăn thường xuyên của người Đô Lương là rau
khoai luộc, rau đậu luộc, rau bầu, rau bí... nói chung tât cả các loại
rau gì có thể luộc được. Ở Đô Lương, rau khoai, rau muống được
hông nhiều nơi. Ngoài ra còn có thể kê thêm món măng luộc và
nión hoa chuối làm rau.
5. Các món ăn cụ thể1
5.7. Ruốc muối:
“Ruốc muối” là một loại thức ãn hỗn hợp trước đây của nhân dan
hhiều vùng quê xứ Nghệ, nhất là ở Đô Lương.
Nguyên liệu dùng để làm gồm cộ thịt ba chỉ (hoặc xương sươn)
vùng, ruốc tôm, muối, ớt và hồ tiêu. Cách thức chê biên như sau:
1 Ninh Viết Giao: "Văn hóa ẩm thực dãn gian xử Nghệ", Hội văn nghệ dân gian
Nshệ An, Vinh, 2001.
Thịt (xương) rửa sạch, để ráo, thái thật mỏng rồi băm thật kỹ.
Đổ muối vào chảo, hoặc sanh rang cho nổ đều. Sau đó cho vừng
vào. Khi nào vừng nổ có mùi thơm thì cho ruốc và thịt (xương) vào.
Dùng đũa đảo đều và mạnh để cho thịt trộn với muối, vừng, ruốc...
Khi nào thịt săn, khô chín thì bỏ ớt hoặc hồ tiêu vào, đảo đều... Sau
đó cho tất cả vào cối, đâm mịn cho thịt, muối, vừng, ruốc, hồ tiêu
trộn đều vào nhau rồi lấy ra bỏ vào lọ hoặc ống nứa, hoặc vào nồi...
ta có món ruốc muối.
Ruốc muối dùng để ăn trực tiếp với cơm, hoặc có thể dùng ruốc
muối làm đồ nêm khi nấu canh.
Trước đây, trong kháng chiến chống Pháp, ruốc muối được đựng
vào ống tre (thường gọi là ống luồng), đậy kín, là thức ăn dự trữ dài
ngày cho dân công hỏa tuyến trên những tuyến đường, góp phần
làm nên chiến thắng vang dội của quân và dân ta.
5.2. Chuối luộc:
Tục ngữ ta có câu “Trẻ trồng na, già trồng chuối”. Vì trồng chuôi
thì mau được ăn. Và đối với người già, dù không còn răng nữa,
chuối mềm cũng dễ nuốt. Tuy thể, không phải chỉ có người già mới
thích ăn chuối. Tất cả mọi người thuộc mọi lứa tuổi đều thích ăn
chuối. Chuối còn dùng để cúng, làm quà thăm viếng.
Đô Lương là vùng đất trồng nhiều chuối, ven sông Lam từ Gay
trở xuống đến Rạng, nhà nào cũng trồng chuối.
Thông thường, người dân để cho chuối chín trên cây rồi mới ăn.
Hoặc dú chuối ương vào chum vại cho chín. Ngoài ra còn có một
cách ăn chuối nữa, đó là luộc: Cách làm là cho quả chuối xanh
ương vào nồi, đổ ngập nước, đun sôi độ 15 - 20 phút là được (không
luộc quả chuối khi đang còn non, chuối đã chín).
Ngon nhất là món chuối luộc khi sắp chín. Hương vị của nó có
khi còn đậm đà hơn cả chuối chín.
Ăn chuối luộc là một cách ăn cho “lạ miệng”. Tuy nhiên, trước
đây, lúc đói khổ, không có lương thực, nhiều người đã ăn chuôi
luộc trừ bữa.
5.3. Gà xáo:
Người Đô Lương hay ăn gà xáo. Gà xáo hay còn gọi là canh gà.
Cách chế biến rất đơn giản. Chặt thịt gà thành miêng to, nhỏ tùy
sở thích từng gia đình, ướp gia vị (hành tăm, nghệ), bỏ vào nôi đảo
đều trong ít phút để làm săn thịt gà. Sau đó đổ nước vào đun sôi tiêp
từ 15 - 20 phút (lượng nước nhiều ít tùy từng nhà). Bộ lòng gà có
thể nấu chung với thịt hoặc thái ra xào với mướp hay dứa .
Khi canh chín, bắc ra cho thêm gia vị lá hành tươi và lá chanh.
Món canh gà không thể thiểu được lá chanh - “con gà cục tác lá
chanh” - cắt càng mỏng càng ngon. Trước đây, thường phải khi có
khách hay có công việc (giỗ, chạp), gia đình mới có món ăn này.
5.4. Lươn nấu chuối:
Lươn nấu chuối là món ăn khá phổ biến của người Đô Lương.
Cách làm: Dùng lá ngải hoặc cám tuốt cho lươn sạch nhớt, rửa
sạch, rạch bụng, bỏ ruột. Sau đó chặt đầu, chặt đuôi, úp sâp bụng
lươn xuống thớt, lấy sổng dao dần nhẹ lên xương sông lươn rôi căt
thành từng đoạn nhỏ, dài khoảng 1,5 cm. Ướp thịt lươn với gia vị
như tỏi, ớt, nước mắm, bã hèm, bột nghệ, ruôc.
Chọn những quả chuối xanh, không non quá cũng không già qua,
lược bớt vỏ ngoài cùng, tùy quả to nhỏ mà chẻ tư hoặc che đoi roi
căt thành từng miếng dài khoảng 2-3 em. Ngâm chuôi khoảng nửa
tiêng vào nước lã có pha một ít muối đê bớt chát, vớt ra đê ráo, chan
qua nước sồi trước khi xào lươn.
Tao hành - mỡ (hoặc dầu) cho già (thơm), sau đó cho thịt lươn
đà ướp kỹ vào, đảo nhẹ. Khi nào thấy miếng thịt lươn cong lên, có
mùi thơm thì đổ chuối vào. Dùng đũa hoặc môi đảo nhẹ cho lươn
và chuối trộn đều. Khi nào chuối và lươn chín thì cho lộc thơin vào
(thường có lá lốt, mùi tàu, rau răm). Lúc đó, thịt lươn nâu chuôi sẽ
có mùi thơm tổng hợp.
Trước đây, thịt lươn nấu chuối thường được dùng trong giô
chạp, đám đinh, đón bè bạn và cả trong bữa ăn hàng ngày. Ngày
nay, món thịt lươn nấu quả chuối xanh được chọn dung trong cac
quán ăn cao cấp. ,
Một số gia đình còn dùng gốc chuối thay quả chuôi cũng cho
Uìỏn gốc chuối hầm lươn ngon lành.
5.5. Nộm hoa chuối:
Là vùng đất phù hợp để cây chuối phát triển nên ở Đô Lương
có nhiều món ăn được chế biến từ cây chuối, trong đó có món nộm
hoa chuối. Ngon nhất là nộm hoa chuối ngự (chuối mật mốc). Đây
là món ăn dân giã có từ lâu, thậm chí từ thời xa xưa. Vì cách làm
món ăn này rất đơn giản và cũng thích hợp với tất cả mọi người,
mọi lứa tuổi.
Hoa chuối mới trổ và hoa chuối cuối buồng sau khi đã làm quả
đều có thể dùng làm nộm. Thái hoa chuối thật mỏng, ngâm vào
nước muối cho đỡ chát, sau đó vớt ra, để ráo. Có hai cách làm: hoặc
là dùng hoa chuối sống, hoặc luộc hoa chuối chín lên. Dù bằng cách
nào thì tất cả được trộn đều cùng với các loại gia vị như nước
chanh, đường, ớt cay, lá chanh và lá húng quế thái nhỏ, tỏi giã nhỏ,
lạc rang (hoặc vừng đen), bột canh, mì chính. Khi ăn món nộm có
vị bùi bùi, chua chua, cay cay, mằn mặn, ngòn ngọt khá hấp dân.
Nó còn hấp dẫn bởi nó có đủ màu sắc: màu đỏ cùa ớt, màu xanh
của lá chanh, lá húng quế, màu vàng của hoa chuối... Người ta có
thể dùng nộm hoa chuối để uống rượu, ăn với cơm. Nhiều đám cưới
dùng món nộm này để mời khách.
Ngoài ra, Đô Lương còn nổi tiếng với món nộm Nham. Nguyên
liệu bao gồm quả Quáo nướng thật mỏng, giá đỗ, có thể thêm chút hoa
chuối thái mỏng, thịt thủ lợn luộc chín thái chỉ; vừng, lạc rang giã nhỏ.
Tất cả nguyên liệu trộn đều. Thêm gia vị như ớt, chanh, lá húng quê.. •
Trước đây, món này thường được bày trong mâm cỗ ngày giỗ, têt.
5.6. Bánh khô kẹp kê chợ Lường:
Phần đất Đô Lương nằm hai bên triền sông Lam cấy lúa thì khó
nhưng làm kê thì cho thu hoạch cao. Trước đây, trên các bãi cát
thuộc các xã Đặng Sơn, Nam Sơri, Lưu Sơn... về tiết tháng 5 tháng
6, kê chín vàng bãi.
Hạt kê được thu hoạch đem về, xay giã, đâm kỹ, ngâm cho sạch
hết cám, trấu, đãi kỹ, sau đó đổ nước vào nấu như nấu cơm. Nêu
không nấu thì ngâm kê khoảng một đêm, vớt ra để ráo, cho vào
hông, hông như hông xôi.
Khi kê chưa chín có mùi hăng nhưng khi kê đã chín rồi thỉ tỏa
mùi hương của ngũ cốc rất hấp dẫn. Muốn cho kê thơm, khi nau
hoặc hông có thể bỏ thêm một vài lá dứa thom. Tại chợ Lường, kê
được bán kèm với bánh khô và đậu tằm chín, đâm bột. Cứ một cái
bánh khô (bánh đa), lại được đổ lên một chén kê đã nấu chín rồi rắc
lên vài thìa bột đậu. Xong đâu đó thì gập đôi chiếc bánh khô lại,
cho kê và đậu nằm lọt vào phía trong.
Người ăn rất đỗi hứng thú với món bánh kẹp kê chợ Lường. Bởi
vừa có vị thom giòn của bánh khô, của hạt vừng vừa có vị ngọt bùi
của kê, của đậu... Ăn vài cái bánh khô kẹp kê ở chợ Lường coi như
đã ăn ngang một bữa cơm ngon ở nhà. Người lớn, trẻ con, người
già nói chung ai cũng thích món ăn đặc sản này.
5.7. Bánh dì:
Đây cũng là món quà chợ ngon nổi tiếng thuộc phủ Anh Sơn
cũ. Cách chế biến món ăn này khá đơn giản. Sau khi hông xôi
Xong, bốc từng nắm một vừa tầm nắm rồi bóp cho xôi thật
nhuyễn, cả nắm xôi dính quyện vào nhau. Sau đó dùng một
chiếc đũa xuyên vào giữa cục xôi (đừng để chiếc đũa lồi ra phía
đầu cục xôi). Dùng tay ấn cho cục xôi dẹp mỏng ra, càng mỏng
càng tốt. Cầm phần đũa còn lại hơ miếng xôi đã dát mỏng trên
than hồng (hơ chứ không phải nướng - đê cách than hông
khoảng lOcm). Xôi nhuyễn được hơ nóng sẽ dần dần phồng dộp
lên. Xôi càng nhuyễn phồng càng to, có thể to đến mức gần như
tròn lại, bánh nổi màu sém vàng, ăn giòn và thơm ngon. Người
Đô Lương gọi bánh ấy là bánh dì. Thông thường, người ta chỉ
làm bánh dì bằng xôi trắng. Vì xôi trắng dẻo, dễ làm, nhuyên và
đề phồng to. Còn xôi đỗ, tuy cũng có thể làm được nhưng đô
khó nhuyễn và không phồng to bằng xôi trắng. Đô lại hay bị
khét nên ăn không ngon.
Ngày nay, do kẹo bánh quá nhiều nên bánh dì đã bị lép vê. Vả
chăng, bếp củi và lò than cũng ít nhà có nên biết hơ bánh vào đâu?
Cái thú vui nho nhỏ ấy, trẻ em giờ đây ít được hưởng.
5'8. Bảnh mướt:
Trước đây, ở Đô Lương có thứ gạo tẻ đặc trưng của vùng đât thịt
rriàu mỡ. Cũng nhờ hạt gạo quý này mà người dân Đô Lương tư lau
đã làm ra thứ bánh mướt ngon nổi tiếng.
Để làm được món bánh mướt này, người làm bánh phải rất vất
vả từ khâu chọn gạo đến khâu tráng bánh. Gạo làm bánh phải là gạo
của vùng đất thịt và giống cổ truyền của Đô Lương được giã trắng,
tuyệt đối không lẫn trấu hay cám, nếu không sẽ làm cho bánh bị
cợn, vẩn đục gây mất ngon. Gạo được ngâm nhiều giờ, vo thật trắng
rồi xay nhuyễn với nước bằng cối đá. Bí quyết làm bánh mướt ngon
nằm ở cách người xay, ngâm và ủ bột. Người làm bánh mướt
thường phải thức dậy từ 2 - 3 giờ sáng. Sau khi gạo được xay
nhuyễn thành bột mới đến công đoạn tráng bánh. Trước đây, người
dân thường dùng nồi đồng, trên miệng bọc một lớp vải mỏng và
một chiếc vung bằng gốm, thậm chí bằng mẹt. Khi nước sôi, cho
bột bánh tráng trên lớp vải, đậy nắp lại khoảng vài phút, bánh chín
thì dùng một chiếc que tre mỏng để cuộn bánh lại và gắp ra. Đây là
công đoạn đòi hỏi sự khéo léo của người tráng bánh để đảm bảo
bánh không quá dày, không nhão, không cuộn lại được, lửa phải
lớn, đều. Vì vậy, người làm bánh thường dùng bếp củi vừa tiết kiệm
vừa làm chủ ngọn lửa. Với người dân, bánh mướt có thể làm bữa
sáng hoặc cả bữa chính. Ngày nay, bánh mướt không chỉ là thứ
hàng hóa được bán ở các chợ mà còn là nguồn cung cấp cho các
quán ăn, nhà hàng hay các dịp giỗ tết, liên hoan, đám cưới.
Bánh ấp: Trong ẩm thực, người Đô Lương còn sáng tạo ra món
bánh ấp. Nguyên liệu làm bánh ấp gồm bánh đa (bánh khô) và bánh
mướt. Bánh mướt được tráng dày hom một chút, nướng trên bếp than
hồng. Người làm bánh vỗ đều bánh đa, bánh mướt vào với nhau
(bánh đa ở giữa, bánh mướt ốp hai bên). Càng vỗ nhanh, vỗ nhiều
bao nhiêu thì bánh ấp càng mềm, càng ngon bấy nhiêu. Hai thứ bánh
này khi ấp lại sẽ quyện với nhau, trở thành món ăn ngon đến lạ.
Muôn ăn bánh mướt, bánh ấp ngon phải có nước chấm ngon.
Bánh mướt phải chấm nước mắm pha loãng, thêm vài giọt chanh
và ớt tươi cắt lát. Nước chấm bánh ấp đậm đặc hơn, có pha thêm
tỏi tươi.
Cách trình bày và thưởng thức món ăn cũng là một nghệ thuật-
Bánh mướt lúc tráng xong được cuộn lại hoặc để nguyên, cho một
ít củ hành ống đã phi thơm với dầu ăn, xếp ra đĩa. Bánh mướt được
dùng nhiều với món ăn kèm như chả nem, chả giò, xáo thịt vịt, sôt
vang bò kèm với rau thơm hay đơn giản chỉ cần châm nước măm
chanh, ớt. Với món bánh ấp, khi ăn thường dùng tay cuộn bánh với
rau thơm, chấm nước mắm tỏi. Vị thơm của rau, vị ngậy của vừng
đen kèm với vị đậm đà của nước mắm tỏi khiến món ăn trở nên
hấp dẫn.
5.9. Bánh đa kẹo lạc làng Vĩnh Đức:
Người Đô Lương mỗi khi đi xa thường mang theo đặc sản quê
hương mình là bánh đa (bánh khô, bánh tráng), kẹo lạc đê làm quà.
Tuy đơn sơ, mộc mạc nhưng qua bàn tay chế biên tài hoa của
những người thợ đã trở thành món quà đầy ý nghĩa, mang hương
vị của quê hương.
Bánh đa được làm từ bột gạo, tiêu, tỏi và các gia vị khác. Những
nguyên liệu này tuy dễ kiếm nhưng phải đảm bảo nhiêu yêu câu
khắt khe để có được chiếc bánh ngon. Cũng giống như bánh mướt,
Bạo để làm bánh phải là thứ gạo trắng, tuyệt đối không lân trâu hay
nám, nếu không sẽ làm cho bánh bị cợn, vẩn đục gây mât ngon. Gạo
được xay nhuyễn với nước rồi trộn với thứ vừng (mè) đen hảo
hạng, không có hạt vỡ cùng với tỏi giã nhỏ, tiêu đâm mịn và những
Bia vị vừa đủ rồi tráng bằng nồi hấp. Khi bánh chín thì vớt ra, cho
lên các giá để phơi cho đến khi bánh khô giòn. Công đoạn tráng
hánh khá công phu, đòi hỏi sự khéo léo của người thợ. Nêu người
thợtráng hơi non tay thì bánh không có được độ đều và dày cân
thiết để khi bánh đã khô có thể nướng hoặc rán sẽ phông đêu mà
không bị vẹo bánh.
ở Đô Lương có nhiều làng làm bánh nhưng nôi tiêng và ngon
nhât là bánh của làng Vĩnh Đức ở thị trân. Các cụ cho biet, sơ di
hành làng Vĩnh Đức ngon nhất do mạch nước ở đây làm cho cây
lúa làng có hương vị đặc trưng riêng. Do đó, khi lây nguyên liẹu ơ
khác về làm bánh sẽ không ngon như bánh làm băng nguyên
liệu tại chỗ. Còn các nguyên liệu phụ như vừng làm cho bánh thêm
hùi, tiêu và tỏi làm cho bánh thơm, khi ăn có vị caỵ nông de chiu,
^luốn ăn bánh thì người ta nướng lên bằng than củi.
Bánh đa là thứ bánh dân dã, dễ ăn kèm với các món khác hoặc
ăn riêng cũng được. Thông thường, bánh được ăn kèm với bánh
mướt (một thứ bánh cũng tráng bằng bột gạo nhưng ăn ngay khi
còn ướt, nóng). Cái dẻo của bánh mướt quấn vào một miếng bánh
đa, chấm vào bát nước mắm cay khi cắn trong miệng nghe tiếng
“rồm rộp” thật thú vị! Bây giờ, đời sống được nâng cao, người ta
thường ăn bánh mướt kèm với giò, chả nhưng nhiều người vẫn nhớ
và thích ăn cái kiểu “nửa khô nửa ướt” ấy. Ngoài ra, món “bún - giá
- cá - ruốc” sẽ ngon nhờ một cách làm đơn giản: miếng bánh đa, bỏ
lên ít bún, thêm ít giá sống và một mẩu nhỏ cá hấp, rồi chấm vào
bát ruốc đã đâm ớt vắt chanh. Vị cay nồng hòa cùng vị ngọt bùi
thêm tí chua khiến khi ăn mồ hôi túa ra thật sảng khoái. Bao nhiêu
người xa quê cứ nhớ cái món ăn thuở nhỏ trong một phiên chợ sáng
đó đe rồi day dứt, mong ngóng ngày về...
Không chỉ làm bánh đa, người dân làng Vĩnh Đức còn chế biên
thêm món bánh đa - kẹo lạc ngon nổi tiếng.
Trước đây, nguyên liệu chính để nấu kẹo lạc là lạc và mật mía.
Mật mía được cho thêm ít nước gừng, bỏ vào nồi (chảo) chuyên
dùng để đun đển một độ nhất định (tùy kinh nghiệm từng nhà) với
lạc, rồi thử bằng nước lạnh: khi đển độ sẽ bắt đầu chế biến thành
bánh đa - kẹo lạc. Ngày nay, khi nấu kẹo lạc đã có thêm một số phụ
gia như bột mạch nha, vừng để bánh được mềm, thơm hơn.
Sau khi mọi thứ đã vừa độ, người làm kẹo sẽ dùng những miêng
bánh đa nướng (bánh tráng) đã chế thành hình tròn, đổ hỗn hợp kẹo
lạc lên và ốp hai mẩu bánh tráng lại với nhau. Thế là xong công
việc chế biến. Sau đó, người ta xếp chồng lên nhau khoảng 5 đên
10 cặp một gói để vận chuyển.
Ngày nay, cũng từ cái nghề dân dã này mà làng nghề Vĩnh Đức đã
thay da đổi thịt, khang trang và sôi động hơn. Để hỗ trợ sản xuât,
chấm dứt tình trạng làm ăn nhỏ lẻ, chính quyền huyện Đô Lương đang
khẩn trương xây dựng Đề án “Phát triển nghề bánh đa, kẹo lạc Vĩnh
Đức”. Đây là hướng đi phù hợp với chủ trương phát triển công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng làng nghề của tỉnh. Hy vọnể
thương hiệu “bánh đa, kẹo lạc Đô Lương” sẽ ngày càng vươn xa.
E. VĂN HÓA LÀNG XÃ
1 Tọng là cấp trung gian giữa huyện và xã, gôm sô làng hay xa, co rnọt caitong
phó tọng do Họi đong ky mục cua cac lang cử ra quản lý thuế khóa, đê đicu và i
an ttong tổng.
Năm 1921, chúng đã ra lệnh bỏ Hội đồng kỳ dịch và lập Hội
đồng tộc biểu (hay Hội đồng hương chính) với tối đa là 20 đại biêu
nhằm mục đích nâng cao hơn việc quản lý làng xã từ các họ tộc đê
vừa dễ quản lý vừa gây chia rẽ cộng đồng dân cư. Hội đồng tộc biêu
sẽ chọn chánh và phó hương thay the cho các chức danh quản lý
của Hội đồng kỳ dịch trước đó. Ngoài ra chúng còn cho bầu những
hương chức khác như phó lý, thư ký và thủ quỹ.
Đen năm 1927, trước sự phản đối cách điều hành không tôn
trọng lệ làng cổ truyền của dân chúng, thực dân Pháp cho lập thêm
Hội đồng kỳ mục để cùng điều hành việc làng với Hội đồng tộc
biểu. Số lượng kỳ mục không hạn chế và nhiệm kỳ cũng không hạn
định. Bằng cách này, chúng đã hạn chế được những bất bình của đội
ngũ những người có hiểu biết trong làng xã.
Từ năm 1942, theo Dụ sổ 89, ngoài tổ chức Hội đồng kỳ mục
còn có ủy ban thường trực do một chánh trưởng ban Hội đồng kỳ
mục đứng đầu. Cơ quan này giống như Hội đồng kỳ dịch cũ nhưng
việc quản lý thì giao cho bảy thành viên. Ngoài ra còn có “ngũ
hương” là năm chức vụ thừa hành giúp lý trưởng, đó là: hương bộ
chuyên lo sổ sách hộ tịch; hương kiểm giúp việc tuần phòng trị an;
hương bản coi giữ ngân sách, tiền quỹ; hương mục lo việc huy động
dân phu, kiều lương, đạo lộ; hương dịch lo việc sắp xếp hội họp’
cúng tế, lễ nghi. Từ năm 1942, Hội đồng kỳ mục toàn quyền quyêt
định nên tính dân chủ truyền thong đã mất đi.
Nhìn chung, cơ cẩu hành chính của các tổng, xã được tô chức
khá chặt chẽ để chính quyền phong kiến thực dân dễ dàng quản ly
và phản ứng mau lẹ khi có sự biến xảy ra.
Trong chế độ phong kiến và phong kiến thực dân, mặc dầu từ cap
tổng trở xuống được tự chủ để bầu ra bộ máy quản lý nhưng những
người được bầu cũng phải đủ tiêu chuẩn. Theo đó, lý trưởng (đứng
đầu làng) thường phải là người biết chữ (cá biệt cũng có ngươi
không biết chừ) và nhất là những người có “máu mặt”: “coi vươn
tược mà ước hương hoa, coi cửa nhà mà trù (bầu) lý trưởng”-
Cũng như các địa phương khác, ở Đô Lương hầu hết các xã,
làng đều có ba con dấu đồng: một dấu lý trưởng hình chữ nhật; mọt
dấu chánh trưởng ban hào mục hình vuông và một dấu hương bộ
hình bầu dục. Mỗi làng có ba bộ sổ: một bộ sổ đinh, một bộ sô điên
và một sổ hương ẩm. Mỗi xã có một bản hương ước, thúc ước hoặc
điều lệ làng và một ngôi đình
Ngoài ra, ở làng xã còn có các dịch mục gôm những người
không nằm trong bộ máy thừa hành công vụ của làng xã mà được
Nhà nước thừa nhận. Họ là những người do làng xã cử ra đê giúp
việc cho lý dịch đương chức, thường có các tri giáp, tri xóm, ở
những xã có thôn (không đồng triện) thì gọi là tri thôn, trùm thôn;
trùm dịch; hương tuần.
Trong làng xã ở Đô Lương còn có các chức chạy (bỏ tiên ra mua
tùy theo thứ tự và vị trí của các chức). Các “chức chạy” này đêu có
tờ văn khế, để hợp pháp hóa. Văn khế này ở câp tông phải có văn
thân hàng tổng ký tên vào, chánh tổng ký tên, đóng dâu; ở câp làng
xà cũng phải có văn thân trong xã, cùng một sô bô lão ký tên vào,
xã trưởng hay lý trưởng ký tên đóng dấu. Thôn cũng thê. Người có
chức chạy” được miễn phu phen tạp dịch. Khi có việc làng, họ
được ngồi vào các bàn ba, bàn tư trên bạch đinh... nhưng không
được tham dự bàn bạc những việc có tính chât chính trị hoặc việc
lớn trong làng xã.
Tỏm lại, bộ máy quản lý xã thôn như trên trong một thơi gian dai
dưới chế độ cũ là yếu tố tích cực. Nhưng trong qua trinh ton tại, yeu
1° tiêu cực cũng không ít. Nó góp phân duy trì tính chát khep kin
Cùa làng xã, duy trì tính chất tự quản trong một trạng thái phân tán,
rời rạc, lẻ tẻ và cục bộ.
ba hoi chín tiêng thì phải ra đi hội họp liền Trong khi hội họp,
người nào say rượu nói to tiếng hoặc nói hôn hao thi lang p ạt mọ
mâm cau trù rượu... , ,
2. Những điêu nói về an ninh như canh Phòng’l’ T*
tuần phòng người lạ, đi đêm, bảo vệ thuân phong my tục...
cấm cờ bạc, rượu chè, cấm cãi lộn nhau, ăn trộm... được quy Ị
0 'Khoản thứ 10: hễ có người lạ mặt tới làng hoặc gặp "8°kl dqòng
làng, hoặc trú ngụ tại nhà ai, xét ra là người trung t ực ti 01"
không co bai chi, thẻ thân, người ngoài xứ Trung Kỳ và ông
căn cước thì lập tức giải trình quan __
Khoan thư 14: trong lang co những tên nào ăn trộm1 vặt như gà
vịt, hoa quà. . tuần phòng bắt được, có tang chứng rõ ràng thì phải
bồi nguyên và phải phạt dịch 5 ngày
Zinthứ 15: ...cấm không được ‘rong mọi t^, anh em, dù
đông hay phạt đích 3 ngày, người khác trong nhà phạt bạc 0,2 đò g
bay phạt dịch 2 ngày... , X 13
3. Nhưng điêu nói về tế tự, khánh điếu, hôn thú., yén lã ,
khao vọng . hương ước làng nào ở Đô Lương; cũng; đề cập đêm
ủtthứ 15 - Tế tựHương ước làng Phương Thư ĩ
“Ỉm, đến 15 tháng 6 làm lệ Kỳ PhúcTSch trong số tòi té điên 1 50
1“an giao cho 4 người tư lễ mãi biện lễ vật,lại . h“2”
gòbi mỗi ngươi Ịhii góp 2 quạo,‘leo nếpđể1 "u còn
ịX lễ Khai Hạ, le Kỷ Niệm 1 Thường ™ lẹ Trứ
Tích các lỉ ấy mỗi lễ đềuỌA Ị2‘Ị®, giao»lý.«ch
lế, Phàm các lê sau khi tê rồi, đêu theo nhân số hi " diện phụ thước,
eòn kính biếu thời chi dùng trầu, rượu .Trong áng ạ1 co 0 cai
<cếruộng Tam bão 1 mẫu 6 sào, đất tam báo 2 sào giao
ĐỊA CHÍ HUYỆN Đố LƯƠNG________________________________
người giữ chùa cày cấy hoa lợi, chỉ làm các lễ cúng Phật, Thượng
Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên, Đảm Sinh, Kỷ Niệm, Nguyên
Đán thì tùy theo số tiền hoa lợi mà biện lễ.
4. Những điều tổng họp: nói về vệ sinh công cộng, vệ nông,
công ích, công lợi, cứu tai gặp nạn, tài chính chi tiêu, phân bô sưu
thuế, thi hành cách phạt... cũng được thể hiện rõ trong Hương ước
làng Phương Liên:
Khoản thứ 22: Nhà nào ở gần đường quan, đường tổng lộ, hương
lộ đều phải quét dọn sạch sẽ, không được để rác hay những đô uê
tạp trên đường. Các mương nước trâu, bò, ngựa, heo, chó, mèo chêt
phải đem cách xa người ở phỏng một cây số mà chôn cho sâu, không
được đem các đồ vật, xác chết ấy và chiểu manh giẻ rách... Nêu
người nào không tuân thì phạt bạc 0,4 đồng hay phạt dịch 4 ngày.
Khoản thử 24: Đồng điền cấm không được thả gà, vịt, trâu, bò,
lợn, heo phá hủy hoa màu. Neu ai không tuân hương ước tuần phu
bắt được sẽ phạt bạc 0,3 đồng hay phạt dịch 3 ngày và phải chịu bôi
hoa lợi cho sự chủ.
Khoản thứ 27: Trong làng có các sở công thổ bên đình, chùa,
văn chỉ, thần miếu, xung quanh có trồng cây cối hai bên. Câm
không được thả trâu bò, hủy phá và vào lẩy trộm, chặt trộm. A1
không tuân làng bắt được phạt bạc 0,3 đồng hay 3 ngày dịch.
Khoản thử 28: Trong làng có những cầu cống và các con đường
đi lại, mỗi năm tháng giêng thì hương mục trích sổ lưu hương tư
ích dọn dẹp các đường đi cho sạch sẽ kiên cố, khai thác cầu công
cho lưu thông... người nào đào mương trên đường cũng bị phạt 0,2
đồng hay phạt dịch hai ngày và phải sức đắp lại.
Khoản thứ 29: Các nhà trong làng phải dự bị những đồ cứu hoa
như ống thùng, mo gàu, ống nứa chứa nước, gặp khi nào bị hỏa ta’
thời người trong làng phải lập tức phó cứu. Nếu người nào tới cưu
hỏa, không có đồ cứu hỏa mà chạy tay không hoặc hiện ở nhà ma
không phó cứu đều phải phạt bạc 0,2 đồng hay phạt dịch hai ngày-
Khoản thứ 32 ' u'
Tiết thứ 12 - Phân bổ sưu thuế: Mỗi năm đến kỳ sưu thuế sau khi
lịch bài chỉ lý trưởng phải cho phu mời làng hội họp và đông đủ cac
điền chú dân hộ chiếu theo bài chi phân bổ thuế đi^ *ồ chiếu theo
đang hạng để thu cho đù số ttaí
lý” phụ thu nhũng lãm có lôi và thôi thu bất lực hoặc tiêu thất
“ ss ,>«
Sô ây cũng làm hai bản, một sô giao >ý hướng, một “6"
bản kê nập tiên phạt hạn tròng 6 ngày phái đem bạc đến nạp cho
đồng ph«
luật” mà mọi thanh viên mọi lập hợp trong cọng ạong p IU »«.
thủnhưng‘điều K ghiươngbuông ướ
tục không thành văn. (Ịa đó chúng * h en thêm vê làng xã ó‘Đô
Lươọg, Ặát là nhũng vết tích ẽô^òn n đbm ỏ m \dán chú,
0 thề che làng xa được tự quân phần nào về n iê mặt bong dơi
5;^-!^lỉúlhâfèỒ"lgxã.ĐotóWV^cư“ng
kịến tham mưu cùa các vị cao tuôi hay phữỊtg "8“"" 0 • , 1
sắc trong họ. Tập hợp theo dòng họ thể hiện tính t iéng; te ỉ,.en
Xg. Những ngửờHrong tập hợp này phải gúP ®'^"hau_quan
1 Thời phong kiên, việc tổ chức các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình chủ yếu là để
chọn nhân tài nên nói chung không phân biệt trường công hay tư.
Trước đây, cứ ba năm mới có một kỳ thi Hương. Nhiêu tinh mơi’co mọt L, 'em
‘hi Hương. Vinh là nơi được chộn tồ chức thi Hương Người đỗ cặ 4 lan thi (tứ• trươụg)
êọi là Cừ nhân (hay Hương cống), cứ mỗi Hương cống lấy thêm khoảng 10 Tu tai -13
"hững thí sinh chi trúng được 3 lân thi (tam trường). Người đậụ Cừ nhân được bo am
quan và được đi thi Hội (tổ chức tại Kinh đô). Còn Tú tài thì không được Nhà nươc
Thi Hội (do Bộ Lễ hay Bộ Học tổ chức) 3 năm một lần ờ 4^ Hoĩvao
Thánh Tong, thi Hương được to chưc vào các năm Tý Ngọ, Mão, DJu và hi vào
"ằt" sau Sim, Mùi, Thin, Tuất (dựa theo quy định thi cử của Trang Qu°jh * iay
được gọi là “HỘI thi Cư nhân” hoặc “Hột thi cống sT’: các Cử nhân Công sĩ ở cac đỊa
phựơng tụ hội về Kinh đo đe thi. Trước năm 1442, thí sinh đỗ cà 4 lần t i ợc cong
"hận là đã trúng cách thi Hội, nhưng không có học vị gì. Nếu không t'êp ti jn^
‘hì vẫn chỉ có học vị Hương cống hoặc Cử nhân. Chị sau khi t 1 >n nãìn 1442, thí
1 * Hội mới được xếp loại đỗ và mới được công nhận học VỊ len SI- Nghè).
jh đỗ thi Hội mới có học vị Tiên sĩ (tức học sinhJện dân g^l ^gheh
guời đỗ đầu gọi là Hội nguyên. Vào thời nhà Nguyên, "ăm ’" 1 TjX « Khoa
đ° Tiên sĩ co thể được cứu xét và chõ h^vị Phó mng (Iny Át T^^ K^a
thi Hội đầu tiên nam 1397 dơi Trần Thuận Tông; khoa thi Hộ* c"ôi cù t°ộhư na™
191£thbi vua Khải Định, đánh dấu sự Sm^ủaKhoa Wng g ong kiến ViệtNam.
Thi Đinh: nhưng Tiên sĩ gioi nhất các kì thi Hộịđược vào t Đỉnh. c thi co t e 00
s^chẩm thi để chọn S n^ Bậng nhãn Th m hoa, Ho£g
>yìn, năm 1828, vua Minh Mạng chinh đốn lại thi cừ đã không còn lay ạ g
"êuyên nữa.
phủ thành. Phủ lỵ Phủ Anh vốn cũng được dời từ Hưng Nguyên lên
từ năm Gia Long thứ 11 (1812) đặt tại thôn Bụt Đà, tổng Thuần
Trung (nay thuộc xã Đà Sơn, trong xã còn có vùng đất được gọi là
xóm Phủ). Như vậy, trường công ở Đô Lương thời Nguyễn có thê
được đặt ở gần trường Tiểu học xã Đà Sơn hiện nay, tuy chậm
nhưng cũng vào loại hiếm hoi của tỉnh lúc đó.
về trường công ở Đô Lương, sách “Đại Nam Nhất thong chí” chép:
“Trường phủ Anh Sơn ở thôn Phương Liên thuộc phía Tây phủ.
Nguyên trước ở về phía Tây phủ trị huyện Nam Đàn. Năm Tự Đức
thứ 4, dời sang phía Tây huyện trị Thanh Chương. Năm thứ 8 lại
dời sang phía Nam phủ trị (mới) tại huyện Lương Sơn. Đen năm
Thành Thái 15, lại dời về đây”1.
Trường phủ Anh Sơn đã góp phần đào tạo được trên 20 cử nhân
và nhiều hơn nữa là các tú tài và sĩ tử.
2.2. Trường tư: ở các triều đại phong kiến, việc mở trường tư rât
được nhà nước khuyến khích và không bị ràng buộc bất cứ điêu
kiện nào.
Trường tư được mở ở từng gia đình hay thôn, xã. Những gia đình
khá giả, hiếu học đã mời ông Khóa (người có bằng Khóa sinh), ông
Đồ (người đỗ Sinh đồ, Tú tài), ông Cử (người đỗ Cử nhân) đến dạy
con cháu trong nhà, trong họ và người làng muốn học. Trường lớp
thường dựa vào đình, chùa hoặc những nhà tư rộng rãi trong thôn-
Loại trường này được gọi là “trường hương học”, có vai trò rat
lớn dưới chế độ phong kiến, giúp cho con em thường dân học tập tạ1
quê. Việc nhập học dễ dàng, không phụ thuộc như trường công ơ
phủ, huyện hay trấn sở. Thông thường, thầy giáo không chỉ dạy ù1?*
người mà nhiều người trong một gia đình, một dòng tộc hoặc trong
làng xóm. Sinh hoạt phí của thầy giáo trường tư do dân đóng góP;
Thời kỳ phong kiến, trong huyện, làng nào cũng có ít nhât 5 đen
7 trường tư. Gọi là trường nhưng chỉ có một thầy giáo và 5 đên lu
học sinh theo học. Thầy đến dạy ăn ở với chủ nhà, tiền sinh hoạt va
tiền công do chủ nhà chi trả hoặc do những gia đình có con thc°
' Đợi Nam Nhất thống chí, qỵyen 1 Nxb Nghệ An, 2012, tr
ĩ TỈm s /ịch Sừ họ Nguyên‘ịhại ^Zhò N^ênSy^
2 . ^y®n ẵ Can: Vai nét về Văn Nxb Nghệ An, 1997, tr 1 .
yểu Hội thào ảoa học " Văn hóa các dòng họ ở Ng
Trường học của cụ Nguyễn Sỹ Cường đã có nhiều học trò
thành đạt.
Trường học của Cử nhân Nguyễn Hữu Tố ờ cẩm Ngọc
(nay thuộc xã Đông Sơn)
Gia phả họ Nguyễn Nguyên chép,- “Nhà cụ Cử Trực học sĩ họ
Nguyên Nguyên (xã Đông Sơn, huyện Đô Lương ngày nay) cha đỗ Cừ
nhân, con đô Tiên sĩ, đã cúng 300 quan tiền để làm Văn chỉ huyện”.
Sách “Nhà giáo danh tiếng đất Lam Hồng” (trang 13) có ghi:
“Trướng mừng thọ thầy học là Cử nhân Trực học sĩ Nguyễn Hữu Tố,
thân sinh Tiên sĩ Nguyễn Nguyên Thành ở Đô Lương viết năm Bính
Ngọ - Thiệu Trị thứ 7 (1846) của 3 người đứng đầu hàng môn sinh
là 3 vị Tiên sĩ: Đinh Nhật Thận, Nguyễn Bá Huệ, Phạm Phú Thứ”.
Nét chung giữa trường công và trường tư là có nhiều điểm giống
nhau. Đó là chương trình học và giáo khoa, phương pháp dạy học,
giảng tập đều không có sự khác biệt. Ngày sát hạch ở huyện, phủ,
tỉnh cho đên ngày đi thi, các thí sinh không có lệ phân biệt giữa
trường công và tư, giữa trường này với trương khảc; tất cả các thí
sinh đêu thi chung một trường với một học trình và đề thi như nhau.
Nêu có diêm khác chỉ là thầy đồ trường tư sống bằng sự nuôi dưỡng
của gia chủ hoặc sự đóng góp của học trò còn các vị Huấn đạo,
Giáo thụ, Đốc học ở phủ, huyện thì hưởng lương bổng của triều
đình. Môi quan hệ giữa các thây ở trường công và trường tư cũng
rât thâm tình, nê nhau vì kiến thức và tâm đức.
(sairaut) đ^nhi^iwền
kỉi . ăT 7 chưXg VỚI 558 điều va
bạn hành bộ “Học chính tổng quy gôm 7 chư g Ị
đến tháng 3.1918, lại gửi Thông tri cho các tỉnh, giải thích một
nội dung càn thiết. . N cỊlủ yêu
là xá f^hJ8nẰÔìênCCác M^ghọc dưa làm haUoỉị:
í^inhnèróĩ Pháp theo chương trinh
1 Việc này do toàn quyền Đông Dương quyết định; làm kéo dài thời gian học của học
sinh, không vi lý do cụ thể.
dạy các môn đó. về chương trình, thi tiểu1 học gồm các môn như
sau: tiếng Pháp, Toan, Tập đọc, Luân lý, Vệ sinh, Thủ công, ẽ...
2. Hệ trung học x
Hệ trung học cũng được chia làm hai câp:
2.1. Cao đăng tiêu học-. Thường phải học 4 năm (tùy và°J0^
quyền Đông Dương quyết định), gồm các lớp: ệ n a1, ẹ: n Ị, ẹ
tam và đệ tư. Học hết lớp đẹ tam (hoặc đệ tứ), h
đe lấy Bang Cao đang tiểu học (còn gọi là bằng Thành chung lay
họe: Sau tốt nghiệp Cao đăng, tiều h^ bọt= sinh học
thêm hái năm, kết thúc bằng kỳ thi lấy Bằng Tú tài (đậy chi là “‘Tú
tài bán xú” hay còn gọi là tú tài bán phân, hay y ai a.
giá trị nhu tu tài Tây hay tú tài toàn phần) Muốn1 có tú tài Tây hay
Tu tai toàn phân thì phải học thêm một đến hai năm nữa (chủ yêu
biến động phức tạp, nhà câm quyền Pháp đặ buộc phảilèn hành
thêm mộuố cải Xh mà thực chát là hoàn chinh bộ máy giáo dục
1 £)ịa chí Văn hóa huyện Hưng Nguyên, Ninh Viết Giao (Chủ bien), chương
tư thục Chung Anh. Trường Pháp - Việt đóng ở thị trấn Anh Đô (thị
trân Đô Lương ngày nay), trường tư thục Chung Anh đóng tại xóm
Giếng xã Yên Sơn.
Trường Pháp - Việt và trường Chung Anh mỗi trường có 6 lớp
(đồng ấu, dự bị, sơ đẳng, lớp nhì đệ nhất, lớp nhì đệ nhị, lớp nhất).
Sau khi học xong lớp nhất, học sinh đi thi lấy Bằng Tiểu học.
Toàn tỉnh chỉ có một địa điểm thi ở Vinh. Bằng tốt nghiệp được
cấp gọi là Bằng Tiểu học bị thể Đông Dương.
Trường tư thục Chung Anh nhà cấp 4, có 6 phòng học ở cạnh
Quôc lộ 7. Sau khi chiêu sinh, không khí dạy - học và các hoạt động
xã hội ở đây rất sôi nổi. Chất lượng học sinh tốt nghiệp hàng năm
không kém gì trường Pháp - Việt. Hàng tháng, nhà trường tổ chức
cắm trại, vui chơi văn nghệ thể thao - thể dục. Những ai co chuyện
chăng lành đêu được mọi người chia sẻ. Do vậy, tình cảm thầy trò
vô cùng gắn bó.
Trong suốt thời gian đô hộ của thực dân Pháp, ở huyện Đô Lương
có 10 trường sơ học, 2 trường tiểu học là: trường Pháp - Việt và trường
tư thục Chung Anh. Phân lớn học sinh các trường là con em các gia
đình khá giả, công chức, địa chủ, còn đại đa số con em nhân dân lao
động không được đến trường. Vì thế, số học sinh cũng rất hạn chế,
bình quân mỗi tổng ở Đô Lương có khoáng 9-10 người tốt nghiệp
tiêu học (đậu Prime) và 2 người có bằng tú tài bán phần. Có thể kể tên
những người có bằng Thành chung Tây học frở lên ở Đô Lương trước
Cách mạng tháng Tám: Vương Đình Chỉnh (Đốc học Thanh Chương,
sau Cách mạng tháng Tám làm Hiệu trường Trường Trung học Anh
Sơn - Trường Trung học Hồ Tùng Mậu), Nguyễn Sĩ Xán (Giáo viên),
Nguyễn Thái Tuấn (Hiệu trường Trường Tiểu iíọc Vĩnh Tường 1, Giáo
viên Trường cấp 3 Đô Lương 1), Nguyễn Văn Huy (Hiệu trưởng
Trường cấp 2 Duy Tân), Trần Đức Bích (Giáo viên), Hoàng Diệm
(Giáo viên), Nguyễn Công Trạm (Tú tài, có thời gian làm Thư ký cho
đồng chí Hồ Tùng Mậu), Nguyễn Cảnh Trạch (Tú tài, Hiệu phó
Trường cấp 3), Nguyễn Cảnh Toàn (Tú tài, sau này là Giáo sư, Tiên
sĩ khoa học, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo), Nguyễn Sĩ cẩn (sau
này là Giảng viên chính trường Đại học sư phạm)..?
Các trường học đã góp phần cung cấp tri thức khoa học, hiêu
biết về chính trị - xã hội trong nước và trên thế giới cho thây và
trò người Việt, giúp họ sớm giác ngộ cách mạng.
Nhiều thầy giáo, học sinh của các trường ở Đô Lương đã tham
gia thành lập các tổ chức cách mạng. Sau này, nhiêu người đã trở
thành những cán bộ cách mạng xuất sắc, giữ những chức vụ quan
trọng trong các cơ quan Đảng và Nhà nước như: thây Nguyên
Trung Lục (1913 - 1996 ): tham gia lãnh đạo cướp chính quyên tại
Phủ Anh Sơn ngày 23.8.1945 và trở thành vị Chủ tịch ủy ban Cách
mạng đầu tiên của huyện Anh Sơn, Trưởng ty Công An Thừa Thiên
trong Kháng chiến chống Pháp, sau thầy chuyên vê công tác tại Bộ
Giáo dục. Thầy Trần Cung - nguyên là Bí thư Chi bộ Đảng Cộng
sản Đông Dương đầu tiên được thành lập tại sô 3 Hàm Long, Ha
Nội; sau Cách mạng tháng Tám là ủy viên ủy ban Thường vụ
Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (1946). Thây Phan
Hoàng Tiêm - Bí thư Phủ ủy lâm thời Anh Sơn (1945), Pho Chu
tịch huyện, sau là Hiệu trưởng Trường Câp 3 Anh Sơn (cu)- Thay
Hà Huy Lư - Phó Giam đốc Ty Vãn hóa Nghệ TTnh; thây Nguyên
Trương Bồn - Sư đoàn trưởng trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Thầy Lê Văn Phiên, thầy Tăng Văn Trứ... đều là những đảng viên,
cán bộ hoạt động cách mạng ở địa phương. » */
Nhiều trí thức tân học người Đô Lương đã đóng góp xứng đáng
vào sự nghiệp giáo dục, van hóa, khoa học..., tiêu biêu như Giáo
stt> Tiên sĩ khoa học Toán học Nguyên Cảnh Toan .
* ----------------- o
•784 người theo học.
Do có thành tích xuất sắc trong lĩnh vực xóa nạn mù chữ nên
trong dịp kỷ niệm lần thứ 59 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí
Minh (19.5.1949), tỉnh Nghệ An đã làm lễ công nhận thanh toán
nạn mù chữ cho 6 địa phương trong đó có Anh Sơn.
1.2. Hệ thống giảo dục pho thông cách mạng:
Cùng với phong trào xóa nạn mù chữ sôi nổi trong toàn dân,
chính quyền cách mạng bắt đầu quan tâm đến ngành học phổ thông,
khẩn trương chuẩn bị khai giảng năm học mới. Tất cả các trường
kiêm bị, hương học được mở lại. Toàn bộ công chức, giáo viên cũ
được mời ra dạy học, phục vụ nhà trường của chế độ mới.
Giữa tháng 9.1945, các trường học trong huyện đã khai giảng
năm học mới dưới chế độ Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Thầy giáo
và học sinh phấn khởi, xúc động đón nhận thư Bác Hồ gửi học sinh
cả nước (9.1945).
Từ năm học đầu tiên (1945 - 1946), nhiều trường tiểu học được
mở ở các xã và liên thôn. Quy mô tiếp nối hệ thống giáo dục cũ
nhưng không cầu toàn: nhiều trường chỉ có các lớp ngũ, tư, tam, nơi
có điều kiện mới có lóp nhì, lóp nhất. Như hai xã Hạp Hòa và Yên
Lãng (tổng Yên Lăng). Hạp Hòa chỉ có lớp ngũ (thầy Phan Sĩ An
đứng lớp) và lớp tư (thầy Trần Văn Minh đứng lớp). Trường Yên
Lăng có điêu kiện hơn mở được lóp nhì, lóp nhất, thu hút học sinh
cả tổng về học. Thầy Nguyễn Văn Hạp và thầy Võ Văn Triển có băng
Đip-lôm cũng đứng lớp. Trong không khí hào hùng của những ngày
đầu cách mạng, mặc dầu lớp học lúc này là đình, chùa, đền, nhà thơ
và nhà ở tư nhân, bàn ghê là những tấm ván dài mượn trong dân ke
cao lên nhưng không khí dạy và học của thầy và trò sôi nổi lạ thường-
Trước độc lập, học sinh học xong Tiểu học phải về Vinh dự thi lậy
bằng Ri-me. Năm học 1945 - 1946 kết thúc, kỳ thi tốt nghiệp Tiêu
học đầu tiên của nước Việt Nam mới được tổ chức tại huyện.
Sang năm học 1946 - 1947, các phủ, huyện trong tỉnh Nghệ An
bắt đầu mở trường bậc trung học. Theo đó, Trường trung học Anh
Sơn được thành lập. Lúc mới thành lập, trường có hai lóp với 120
học sinh. Trường học tại nhà Văn chỉ huyện1. Đây là trường trung
học đâu tiên trong lịch sử giáo dục huyện nhà.
về chương trình học: nhà trường dạy theo chương trình Hoaug
_____________ GIÁO DỤC
Xuân Hãn có sửa đổi và bổ sung theo tinh thần mới. Ngoài các môn
khoa học tự nhiên và khoa học xã hội còn có môn Hán tự do một
vị cử nhân Hán học dạy và môn thể dục do một học viên Trường
thể dục Phan Thiết cũ phụ trách.
Thời kỳ này, nhà trường chưa có sách giáo khoa và tài liệu tham
khảo cho học sinh. Thầy giáo tự biên soạn lây bài giảng (giáo án),
học sinh tự nguyện học tập một cách chuyên cân, chăm chỉ, môi
ngày học hai buổi.
Những năm sau, học sinh của trường tiêp tục phát tnên đêu đặn.
Đến năm học 1949 - 1950, năm học thứ 4, trường đã có lớp cuôi
cấp. Năm học này, toàn trường có 9 lớp (3 lóp đệ nhát, 3 lớp đệ nhi,
2 lớp đệ tam, 1 lơp đệ tứ). Cuối năm học, trường có khóa học sinh
đâu tiên đi thi tốt nghiệp trung học phô thông, tô chức chung ơ tinh.
Tháng 02.1951, Đại hội Đảng lần thứ II họp ở Việt Băc khăng
định và hoàn chỉnh thêm một bước đường lối kháng chiên kiên
quốc. Đảng ra công khai hoạt động với tên là Đảng Lao động Việt
Nam. Sự kiện lớn này thúc đẩy sự nghiệp kháng chiến tiên triên
mạnh mẽ về mọi mặt, trong đó có Chương trình cải cách giao dục
lân thứ nhất.
1'3. Cải cách giáo dục lần thủ'nhàt:
, Tháng 7.1950, Đồ án Cải cách Giáo dục lân thứ nhát được Họi
đồng Chỉnh phu thông qua và đầu năm 1951, được triền khai thực
hiện. Phương hương và nguyên tắc cải cách giáo dục là: Dân chủ
hóa nền giáo dục; Đào tạo con người mới, gột rửa những tàn tích
cù; Chương trinh học phải thiết thực theo nhu cẩu cùa xã hội hiện
tại- Mục tiêu cua cai cách giáo dục là xây dựng một. nên giáo dục
cùa dân, do dân, VI dân, dựa trên ba nguyên tắc: dân tộc - khoa học
' đại chúng, phục vụ ỉợi ích của nhân dân Việt Nam dâu tranh
chống đe quốc và phong kiến, giành độc lập cho dân tộc và ruộng
^hcho người cày.
đ * Nhà Vàn chi huyện tại làng Thanh Lưu' (nay thuộc xã Lưu Sơn) gần chợ Sòi^Sau
? lên Thanh Lâm (nay Sc xã Tràng Sơn?Sau nãm 195 trường đôi t «11 Tnmg
** Hồ Tùng Mâu ?ó thời gian dời về Uc Sơn, ĐôngS^ Vinh năm 1^6
-nờitụ Vương Đình Chinh, một giáo viên tốt nghiệp Quốc học Vinh năm
ầrn Hiệu trường
Hệ thống giáo dục tiểu học và trung học 12 năm trước đây được
chuyển đổi thành hệ thống giáo dục phổ thông 9 năm, trong đó:
- Bậc tiểu học được gọi là phổ thông cấp I, gồm 4 lớp, từ lớp 1
đến lớp 4. Trước khi vào lớp 1, học sinh được học vỡ lòng một năm
và phải qua kỳ kiểm tra tuyển sinh vào lớp 1. Những học sinh vào
lớp 1 phải biết đọc, biết viết và biết chữ số. Học hết lớp 4, học sinh
được dự kỳ thi tốt nghiệp phổ thông cấp I. Học sinh tốt nghiệp phô
thông cấp I được thi tuyển vào cấp II (lớp 5).
Bậc trung học được chia làm hai cấp: cấp II và cấp III. Phổ thông
cấp II gồm 3 lớp: lớp 5, lớp 6 và lóp 7. Học sinh tốt nghiệp cấp II
(học hết lớp 7) được dự kỳ thi chuyển cấp lên cấp III (vào lóp 8)
hoặc có thể thi vào các trường sơ cấp, trung cấp chuyên nghiệp, phô
thông cấp III gồm 2 lóp: lớp 8 và lớp 9. Học sinh học hết lớp 9 thi
tốt nghiệp phố thông và được xét tuyến vào các trường chuyên
nghiệp từ sơ cấp đến đại học. Giai đoạn này, ở Đô Lương chưa có
trường phổ thông cấp III. Trên đất Đô Lương có Trường cấp II - III
Huỳnh Thúc Kháng sơ tán về.
Hệ thống trường phổ thông mới lấy tư tưởng Mác - Lênin làm cơ
sở khoa học cho hệ thống tư tưởng của giáo viên và học sinh; nội
dung giáo dục gắn với nhiệm vụ chính trị và thực tiễn Việt Nam,
xác định rõ giáo dục phải phục vụ nhân dân, phục vụ kháng chiên,
giáo dục cải tạo tư tưởng cho nhân dân và đào tạo cán bộ mới, phát
huy sáng tạo, chong tư tưởng giáo dục giáo điều.
Trường cấp II Anh Sơn mở tại xã Thịnh Sơn (ngày nay) do thây
Nguyễn Công Bàng làm Hiệu trưởng, có 15 lớp (5 lớp Năm, 5 lớp
Sáu và 5 lớp Bảy) thu hút gần 1.000 học sinh của ba huyện ĐÔ
Lương, Anh Sơn, Thanh Chương ngày nay.
Vào khoảng giữa năm 1951, Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyên
Văn Huyên đi công tác bằng xe đạp từ Việt Bắc vào Khu IV. Bọ
trưởng đã thăm một số cơ sở trường học và đã đến Ty Giáo dục
Nghệ An đóng ở Hồi Tâm (nay thuộc xã Thịnh Sơn - Đô Lương)-
Trường Sư phạm Liên khu IV: từ năm học 1948 - 1949, trong
Trường Trung học chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng đã có hệ sư
phạm. Đến năm học 1950 - 1951, Trường Sư phạm Liên khu rV
được chính thức thành lập và cũng được đặt ở xã Bạch Ngọc (cac
làng thuộc xã Bồi Sơn ngày nay). Trường có hai hệ: trưng, câp va
sơ cấp. Hệ trung cấp đào tạo giáo viên câp II, hệ sơ cap đac) tạo giao
viên cấp i. Đến giai đoạn này, do giặc Pháp tăng cường đánh p á
hậu phương nên trường phải di chuyển, có thời gianỊ dời vê5 xã Tan
Sơn. SỐ học sinh tốt nghiệp được phân công ve công tác ở 6 t n
Liên khu IV (Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình - Trị - Thiên) và khóa cuôi
phần lớn được phân về các tỉnh phía Băc (sau ngay hoa in ạp ại,
trường dời về Vinh và mở thêm hai khóa, đào tạo được 1.200 giao
viên cung cấp cho các tỉnh miên Băc mới giai phong). '
1.4. Các trường tư thục trong kháng chiên chông™aPj
Đe đáp ứng nhu càu học tập cua nhân dân, ngay từ khi vừatl ánh
lập? Chinh phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã có1 chủ đa
dạng hoa các loại hình trường lớp. Bên cạnh' các trường lớp công
lạp còn có trường tư thục (kê cả bậc Tiêu học) “G1^ y êu học
ờ Nghê An có một so trường Tư thục hoạt động, có hiệu quả 1như
trương Bụt Đà Đô Lương?1 Năm 1946, ở huyện A1Ù Sơn có
trương tư thục cáp 11 do thây Nguyên Xuân Tịnh làm trưởng
Năm học 1947 - 1948, thÌ^Ng^ .
Trường tư thục trưng học cơ sở Trí Đức tại Nhân Trung (xã Lam
« Bạch Ngọc, gồm các lớp 5,6,7 8,9 Ngoài học sinh ở Nghệ An
còn có 200 em thuộc vùng bị chiếm đóng Bình1 ■ pi'
luyến ra học Trong kỳ thi myêpyào các lẶcủa Huỳnh Th_úc Kháng
nỉm đâu, đại đa số con em của xã Bạch Ngọc khhng đ»u. Tmóc tinh
hình đó, lỉnh đạo xã Bạch Ngọc thây đây là thời cơ có một 11tông
hai đe đẩy mạnh phong trao học tập và nâng cao trinh ộ cho con
cật cùa xã đì giao nhiệm w ■cho cụ Bình (tức cụ Lê Văn Đoan) liên
H Vôi Sà Giáo dục Liên khu IV và_Ty Giáo dục N£ệ An xin mớ
diộni trương học cho còn em trong xã. Được sự g úp đỡ cùa lãnh đạo
ĩ]8anh Giao dục Liên khu IV, Ty Giáo dục Nghệ An, sự cho phép cùa
1 Lịch Sừ Nghệ An, Tập 2, NXB Nghệ An, trang 144
ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu IV và tỉnh Nghệ An, bên
cạnh trường Quốc lập cấp II, III Huỳnh Thúc Kháng, Trường phô
thông Tư thục cấp II, III Phan Chu Trinh được ra đời.
Từ năm 1950 - 1951, kỳ tuyển sinh của hai trường phổ thông cấp
II, III Huỳnh Thúc Kháng và trường Tư thục Phan Chu Trinh tấp
nập lạ thường: không chỉ lôi cuốn con em trong xã Bạch Ngọc,
huyện Anh Sơn mà con em trong tỉnh Nghệ An và Liên khu IV thi
vào cả hai trường, thí sinh nào trúng tuyển ở đâu thì học ở đấy.
Từ sau năm 1950, cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn quyêt liệt,
đòi hỏi nhiều lực lượng, đặc biệt là tầng lóp thanh niên, nhiều học
sinh của hai trường đã xếp bút nghiên lên đường nhập ngũ. Vào năm
1952 - 1953, số học sinh cấp III của Trường Huỳnh Thúc Kháng và
Phan Chu Trinh chỉ còn không đầy một nửa. Vì thế, Ty Giáo dục
Nghệ An quyết định sáp nhập số học sinh cấp III của cả hai trường
giao cho Trường Huỳnh Thúc Kháng quản lý. Với quyết định này,
phần cấp III của trường Tư thục Phan Chu Trinh bị giải thể.
Hè năm 1956, sau hòa bình lập lại trên miền Bắc, phần cấp III
Trường Quốc lập Huỳnh Thúc Kháng chuyển về Vinh, số học sinh
cấp II của Trường Huỳnh Thúc Kháng sáp nhập vào Trường Tư
thục Phan Chu Trinh, trường đổi tên thành Trường Phổ thông câp
II xã Lam Sơn.
2. Từ 1954 1965
2.1. Cải cách giảo dục lần thứ hai:
Sau thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ và Hiệp định
Giơ-ne-vơ, đất nước bị chia làm hai miền. Miền Bắc tồn tại hai hẹ
thống giáo dục: các tỉnh trong vùng tự do đang thực hiện chương
trình giáo dục hệ phô thông 9 năm (theo chương trình cải cách gia°
dục lần thứ nhất), nhưng ở các tỉnh mới giải phóng lại đang thực
hiện chương trình giáo dục hệ Tây học 11 năm. Bởi thế, để nhanh
chóng thống nhất hai chương trình giáo dục trên toàn miền Bac,
tháng 3.1956, Chính phủ thông qua Đề án cải cách Giáo dục và đen
tháng 8.1956 thì ban hành Chính sách Giảo dục của nước Việt Nam
Dân chú cộng hòa.
Việc cải cách lần này nhằm đẩy mạnh giáo dục toàn diệ^trong
đó lây tri dục và đức dục làm cơ sở. Phương châm giáo dục là Liên
hẹ lý luận với thực tiễn, gắn nhà trường với đời sông xãi hội’ ’
Phươngphướng chính trị của giáo dục là “Giáo dục1 phải phục: tùng
đường lối chính trị của Đảng Lao động Việt Nam va cua in
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”.' , ,
Cãi cách giao dục lan này cũng nhằm tạo cơ sởthyc tê đê
giáo dục giữa nhà tmờng, gia đình, xã hội; phôi dp “"8 “
trường và công tác địa phương, tạo ra những nhân tố mới.đê hực
hiẹn sự iLh đạo của Dạng đôi vơi ‘5“™® h^: Đào tạo*oi dường
thê hệ thanh niên vĩ thiêu niên trở thành những người phát nên ve
tnọi mặt, những
láo động tót, cancông dân
bọ tốt tốt,Nha
của trung
nước để VỚÍTÔ
thừnh guoc;
phát triền n chù
chêịđộ ân
nhàn dân, tiền lên xây dựng chế độ xă hội chú nghĩa ờ mie
góp phin chi viện sức người cho chiến trường rmta Nam.
Công tác giáo dục nhậ trường trong giai đoạn này cụ ê
2.2. về Giáo dục phổ thông: ,n n5m „Àm 3
rá„Th^nS.nh.ất .‘"' ế5 0 năm).Trươc 1*1 vào
ịp ỉ học ịinh phải học qua láp vồ lòng để biết đọc, biết viết, biêt
Cuốivà
ụgìĩiẹp cấp II họccáp;
thi I,chuyên sinh phái
cuôi thi
cáp"niphải .. “
tốt n8^p
sâu đó được tuyên thang vào các trương chuyên nghiệp ệ
cá, xây lò nấu gạch ngói, nấu ôl’ động xa hội chủ nghĩa,
công tác thúy lợi, công tácýao thông, lao động
lao động giúp đỡ hợp tác xã. Iên án vụ thảm sát Phú
Nhiều cuộc mịt tinhI chongy - cộng hòa tay sai
Lợi, phán đối Luật 10/59 cùa c in p w ■ s các trường
do Ngô Đình Diệm làm Tông thống đã được to cn