Professional Documents
Culture Documents
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG QUAN ĐIỂM CỦA NGUYỄN VĂN HIỆP
VỀ BÌNH DIỆN NGHĨA CỦA CÂU TIẾNG VIỆT
1.1 Quan điểm về vai trò của nghĩa trong phân tích và miêu tả cú pháp
1.1.1. Cách tiếp cận hình thức ( formal approach )
Ngôn ngữ học thế giới đã chứng kiến những quan điểm khác nhau về vai trò của nghĩa
trong phân tích cú pháp. Ngôn ngữ học miêu tả Mĩ nửa đầu thế kỉ XX nổi lên như
một trong những xu hướng bài nghĩa mạnh nhất.Trong cảm hứng hướng về những kĩ
thuật miêu tả tư liệu một cách nghiêm ngặt, được xây dựng qua kinh nghiệm miêu tả
những ngôn ngữ của người bản địa châu Mĩ, Bloomfield cho rằng nghĩa không thể
được nghiên cứu một cách khoa học.
Những khuynh hướng không thừa nhận hoặc coi nhẹ vai trò của nghĩa trong phân tích
và miêu tả cú pháp có thể gọi chung là cách tiếp cận hình thức. Có lẽ đại diện nổi
tiếng nhất và dộc đáo nhất của cách tiếp cận hình thức là Chomsky, với lí thuyết ngữ
pháp tạo sinh (Generative Grammar, viết tắt là GG), mà khi ra đời đã được xem là một
cuộc cách mạng trong ngôn ngữ học.
1.1.2. Cách tiếp cận chức năng
Với cách tiếp cận này, ngôn ngữ trước hết được xem là một công cụ tương tác xã hội,
với mục đích tối hậu là thiết lập quan hệ giữa người và người để tổ chức xã hội.Những
người theo quan điểm chức năng đặt cho mình nhiệm vụ hàng đầu là khán phá tính
chất công cụ của ngôn ngữ như ở dạng nó được sử dụng trong giao tiếp. Họ ưu tiên
chức năng giao tiếp và cố gắng giải thích mọi biểu hiện của ngôn ngữ như là phương
tiện để biểu nghĩa, để thực hiện chức năng nào đó trong giao tiếp.
Theo Dik, tuong tác bằng lời, tức tương tác bằng lời, tức tương tác xã hội bằng
phương tiện ngôn ngữ, là một hình thức hoạt động hợp tác có cấu trúc, theo nghĩa nó
bị chi phối bởi các quy tắc, tiêu chuẩn hoặc quy ước mang tính xã hội. Những quy tắc
này cùng thiết lập nên hệ thống làm nền tảng cho tương tác bằng lời. Các công cụ
được dùng trong cái hoạt động hợp tác có cấu trúc này, tức các biểu thức ngôn ngữ
được hiển thị ở dạng phát ngôn, tự nó là cấu trúc, tức là bị chi phối bởi nhứng quy tắc
cùng thiết lập nên hệ thống ngôn ngữ. Lí thuyết hành động ngôn từ có ảnh hưởng sâu
nặng đến cách tiếp cận chức năng. Như vậy, theo quan điểm chức năng, ngôn ngữ học
phải xử lí hai loại hệ thống quy tắc, và cả hai, về bản chất, đều mang tính xã hội :
(i) Các quy tắc chi phối hoạt động tương tác bằng lời với tư cách là một hình thức hoạt
động hợp tác. Đây là các quy tắc dụng học.
(ii) Các quy tắc chi phối những biểu thức ngôn ngữ học có cấu trúc được sử dụng với
tư cách là công cụ trong hoạt động này. Đây là các quy tắc nghĩa học, cú pháp và ngữ
âm học.
Bởi những quy tắc loại (ii) được coi là công cụ xét theo các mục đích giao tiếp của
tương tác bằng lời cho nên luận điểm cơ bản của cách tiếp cận chức năng. Hay nói
cách khác, dụng học được ưu tiên so với nghĩa học và kết học, và đến lượt mình,
nghĩa học cũng được ưu tiên so với kết học. Và các mô hình của ngữ pháp chức năng
cần được đánh giá ở cả ba tiêu chí thỏa đáng sau đây :
a) Thỏa đáng dụng học :
Ngữ pháp chức năng có thể hiểu là bộ phận thuộc một lí thuyết dụng học rộng lớn
hơn, mà trọng tâm của ní là sự tương tác bằng lời. Cụ thể, ngữ pháp chức năng nhắm
đến phát hiện bản chất của những biểu thức ngôn ngữ học thích hợp với cách thức mà
chúng được dùng, và con đường thích hợp nhất là gần chings với các quy tắc chi phối
sự tương tác bằng lời.
Với thỏa đáng dụng học, có thể nói bất kì yếu tố nào hiện diện trong câu cũng đều
mang nghĩa, đều thực hiện một chức năng nào đó. Chẳng hạn, những chỗ cố tình nói
lắp cũng có nghĩa. Hay việc chêm thán từ vào câu là cách thể hiện rằng, đối với người
nói, phần thông tin sau thán từ là thông tin mới. Ví dụ :
Ah, it says in the paper that Kissinger is a vegetarian.
(Ôi, báo nói Kissinger là một người ăn chay đấy.)
b) Thỏa đáng tâm lí học :
Ngữ pháp chức năng nhắm đến thỏa đáng tâm lí học theo cái nghĩa nó phải tương
thích gần gũi ở mức cao nhất với các mô hình tâm lí về ngữ năng và cách hành xử
ngôn ngữ.
Có hai loại mô hình tâm lí : mô hình sản sinh và mô hình tiếp nhận. Mô hình sản sinh
chỉ ra cách thức mà người nói xây dựng, công thức hóa các biểu thức ngôn ngữ, còn
mô hình tiếp nhận cho biết cách thức mà người nghe xử lí và thuyết giải các biểu thức
ngôn ngữ. Ngữ pháp chức năng muốn đạt đến thỏa đáng dụng học và tâm lí học thì
phải phản ánh cho được sự lưỡng phân sản sinh/ tiếp nhận này.
c) Thỏa đáng loại hình học :
Ngữ pháp chức năng nhắm đến sự thỏa đáng loại hình học, theo cái nghĩa là “nó có
thể cung cấp ngữ pháo cho những ngôn ngữ khác xa nhau về mặt loại hình, đồng thời
cũng giải thích được một cách hệ thống những tương đồng và dị biệt giữa các ngôn
ngữ này” ( Dik 1989,14). Tiêu chí thỏa đáng loại hình học có thể xem là tiêu chí thỏa
đáng về một ngữ pháp “mạnh”, tuy nhiên, cần phải thừa nhận những nguy cơ tiềm ẩn
từ tiêu chí thỏa đáng này.
Trong cảm hứng của những nhà ngữ pháp chức năng hệ thống, những ngôn ngữ khác
nếu có được đề cập thì chẳng qua cũng chỉ là được sử dụng để minh họa cho đường
hướng ngữ pháp này mà thôi. Bảng tổng kết sau đây có thể cấp cho chúng ta một cái
nhìn tổng quát về sự khác biệt giữa cách tiếp cận hình thức và cách tiếp cận chức năng
:
Mô hình hình thức Mô hình chức năng
a) Cách Ngôn ngữ là một tập hợp các câu. Ngôn ngữ là công cụ tương tác xã
định nghĩa hội.
ngôn ngữ
b) Chức Chức năng chủ yếu của ngôn ngữ là Chức nắng chủ yếu của ngôn ngữ là
năng biểu hiện tư duy. giao tiếp.
c) Tương Tương quan tâm lí của ngôn ngữ là Tương quan tâm lí của ngôn ngữ là
quan tâm lí ngữ năng : khả năng sản sinh, hiểu năng lực giao tiếp :khả năng thực
và đánh giá câu. hiện tương tác xã hội bằng phương
tiện ngôn ngữ.
d) Hệ thống Nghiên cứu ngữ năng được ưu tiên Nghiên cứu hệ thống phải được
và sử dụng về mặt logic và phương pháp luận thực hiện trong khuôn khổ của hệ
hơn nghiên cứu ngũ thi. thống cách sử dụng ngôn ngữ.
e) Ngôn Các câu của một ngôn ngữ phải được Việc miêu tả các biểu thức ngôn
ngữ và bối miêu tả độc lập với bối cảnh (ngữ ngữ học phải cung cấp điểm kết nối
cảnh cảnh và tình huống) mà trong đó nó để miêu tả chức năng của nó trong
được sử dụng. bối cảnh đã cho.
f) Thụ dắc Trẻ em xây dựng, ngữ pháp của một Trẻ em phát hiện cái hệ thống làm
ngôn ngữ ngôn ngữ bằng cách sử dụng những nền tảng cho ngôn ngữ và cách sử
thuộc tính bẩm sinh của chúng trên dụng ngôn ngữ, được trợ giúp bởi
cơ sở dữ liệu ngôn ngữ học đầu vào một ngữ liệu ngôn ngữ học đầu vào
khá hạn chế và phí cấu trúc. rộng lớn và có cấu trúc cao, thể
hiện trong bối cảnh tự nhiên.
g) Những Phổ quát ngôn ngữ được xem là Phổ quát ngôn ngữ được giải thích
phổ quát những thuộc tính bẩm sinh của con ở những chế hạn vốn có trong : (i)
ngôn ngữ người. mục tiêu giao tiếp, (ii) cơ chế sinh lí
và tâm lí của người sử dụng ngôn
ngữ, (iii) bỗi cảnh mà trong đó ngôn
ngữ được sử dụng.
h) Quan hệ Cú pháp thì độc lập đối với nghĩa Dụng học là một khung rộng lớn
giữa cú học; cú pháp và nghĩa học thì độc lập bao gồm toàn bộ phạm vi nghĩa học
pháp, nghĩa với dụng học; tính ưu tiên đi từ cú và cú pháp được nghiên cứu; nghĩa
học và pháp qua nghĩa học rồi đến dụng học phụ thuộc vào dụng học, cú
dụng học học. pháp phụ thuộc vào nghĩa học; tính
ưu tiên đi từ dụng học qua nghĩa
học rồi đến cú pháp.
1.1.3. Cách tiếp cận của ngôn ngữ học tri nhận
Ngôn ngữ học tri nhận (CL) và ngữ pháp tạo sinh (GG) của Chomsky khác biệt nhau
trong quan niệm về vao tro của nghĩa trong lí thuyết : đối với GG thì cấu trúc của biểu
thức ngôn ngữ bị chi phối bởi những quy tắc hình thức, độc lập với nghĩa, còn đối với
CL thì cấu trúc ngôn ngữ là sự phản ánh trực tiếp cách tri nhận, theo nghĩa một biểu
thức ngôn ngữ đặc thù nào đó bao giờ cũng gắn liền với một cách phạm trù hóa đặc
thù, trong một tình huống nào đó.
Sự giới thiệu một vài khái niệm cơ bản nhất của CL sau đây sẽ cho thấy sự khác biệt
trong quan niệm của CL và GG về vai trò của nghĩa trong lí thuyết của mình :
a) Cách giải thích (Construal) :
Truyền thống cho rằng vai trò của ngôn ngữ là đồ chiếu thế giới bên ngoài vào các
dạng thức ngôn ngữ. Như vậy, việc mã hóa hiện thực vào ngôn ngữ là một sự mã hóa
1-1, bị quy định bởi các quy tắc ngữ pháp hình thức.CL cho rằng đổ chiếu là không
trực tiếp như vậy. Cùng một hiện thực có thể “giải thích” theo nhiều cách khác nhau,
và những cách khác nhau đó liên quan đến những ý niệm hóa khác nhau. Ví dụ :
(1) John gave the book to Mary.
(John đưa cuốn sách cho Mary.)
(2) John gave Mary the book.
(John đưa Mary cuốn sách).
Truyền thống cho rằng hai câu này giống nhau. GG cũng cho rằng hai câu này phát
sinh từ cùng một cấu trúc sau. Nhưng CL cho rằng hai câu này thể hiện hai cách giải
thích khác nhau, và liên quan đến hai cách ý niệm hóa “khác nhau”. Câu (1) miêu tả
sự dịch chuyển của cuốn sách, còn câu (2) miêu tả sự thay đổi sở hữu, từ sở hữu gắn
với John chuyển sáng sở hữu gắn với Mary.
b) Phối cảnh (Perspective) :
Xét cặp câu sau :
(1) The path falls steeply into the valley.
(Con đường đổ dốc vào thung lũng.)
(2) The path climbs steeply out of the valley.)
(Con đường leo ngược ra khỏi thung lũng.)
Hai câu này có thể được cho là cùng biểu thị một hiện thực, nhưng khó lòng được xem
là có cùng nghĩa, bởi chúng thể hiện hai phối cảnh khác nhau : một phối cảnh nhìn từ
bên ngoài vào thung lũng, một phối cảnh từ thung lũng nhìn ngược ra bên ngoài.
c) Đưa ra cận cảnh (Foregrounding) :
Cách giải thích có thể khác nhau do một yếu tố nào đó của tình huống được gán cho
một vai trò nổi trội hơn. Ví dụ :
(1) I’m standing on the street.
(Tôi đang đứng trên phố.)
(2) I’m standing in the street.
(Tôi đang đứng trong phố.)
Câu (1) và (2) có thể cùng chỉ một sự việc nhưng chúng vẫn có điểm khác nhau, theo
nghĩa câu (1) thì nghĩa là một con đường và được hiểu là một bề mặt có thể nâng đỡ,
còn trong câu (2) là bao gồm các tòa nhà ở hai bên và được xem là một thực thể bao
chứa.
d) Ẩn dụ (Metaphor) :
Truyền thống cho rằng ẩn dụ là một dạng thức diễn ngôn không bình thường.
Ẩn dụ thực chất là cách ý niệm hóa một kiểu kinh nghiệm này qua một kiểu kinh
nghiệm khác.
e) Khung (Frame) :
Khái niệm này dùng để chỉ những tri thức nền cần thiết cho việc hiểu nghĩa. Ví dụ, để
hiểu từ ‘cậu’ thì cần có kiến thức về quan hệ thân thuộc. Khung là một khái niệm đa
chiều kích (multidimensional). Ví dụ, từ mẹ liên quan đến nhiều khung khác nhau,
khung về di truyền và khung xã hội. Đối với người sử dụng ngôn ngữ, tuy “khung; có
một bộ phận lớn là trùng nhau, nhưng vẫn cónhững khác biệt mang tính cá nhân.
Cùng một đối tượng nhưng có thể gọi tên bằng những từ khác nếu nó được định vị
trong những khung khác nhau. Ví dụ : vùng ranh giới giữa đất và biển được gọi là
the coast nếu ta nhìn từ đất, nhưng sẽ gọi là the shore nếu nhìn từ biển. Và ngược lại,
cùng một tên gọi có thể liên hội với nhiều nghĩa khá là khác nhau trong những khung
khác nhau. Ví dụ : từ dao thường gợi lên hình ảnh dụng cụ để gọt, tháu,… nhưng nếu
nghe ai đó bị giết bởi dao đâm thì sẽ gợi lên hình ảnh khác. Xét theo khía cạnh này, từ
dao phụ thuộc vào khung mà nó được dùng.
Qua việc trình bày một cách vắn tắt một vài khái niệm cơ bản của ngôn ngữ học trí
nhận, có thể nhận thấy rằng cách tiếp cận này rất chú trọng về nghĩa. Và theo ngôn
ngữ học tri nhận, các dạng thức ngôn ngữ (các biểu thức, các kết cấu) thì mang tính
biểu trưng hay tính có lí do ở mức độ cao hơn rất nhiều so với quan niệm truyền
thống. Ngoài ý nghĩa của các từ ngữ tham gia vào cấu trúc thì bản thân cấu trúc cũng
đã có ý nghĩa. Đây là điểm khác biệt quan trọng giữa ngôn ngữ học trì nhận và ngữ
pháp tạo sinh.
1.1.4. Vai trò của nghĩa trong phân tích và miêu tả cú pháp :
1.1.4.1. Một vài so sánh về các cách tiếp cận
Cách tiếp cận chức năng và tri nhận rõ ràng là những cách tiếp cận có nhiều ưu điểm,
có thể bao quát một phạm vi rất nhiều vấn đề cua thực tiễn hành ngôn. Tuy nhiên, nói
như vậy không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn cách tiếp cận hình thức. Có thể nói
cách tiếp cận hình thức đã đóng góp rất nhiều cho ngôn ngữ học máy tính và khoa học
nghiên cứu về tính thông minh nhân tạo. Có một thực tế thú vị là đã có những cố gắng
để các khuynh hướng ngôn ngữ học, các cách tiếp cận khác nhau có thể đến được với
nhau, tận dụng được những ưu điểm của nhau.
1.1.4.2. Những khó khăn của cách tiếp cận dựa vào trong phân tích và miêu tả
cú pháp
Trong một bài viết nghiên cứu về các nguyên tắc phân xuất thành phần câu tiếng Hán,
một ngôn ngữ rất gần gũi với tiếng Việt, Jakhotov đã khẳng định nguyên tắc là các
thành phần câu (được phân xuất bằng những tiêu chí hình thức) cần phải có nghĩa
(Jakhontov 1971,244). Nguyên tắc này rất đúng, phản ánh mối quan hệ biện chứng
giữa hình thức và nội dung trong triết học nói chung và trong tín hiệu học nói riêng.
Tuy nhiên, việc vận dụng nguyên tắc này không phải dễ dàng, bởi lẽ về mặt triết học
ngôn ngữ, câu hỏi “Thế nào là nghĩa ?” hay “Nghĩa là gì ?” là câu hỏi rất khó trả lời.
Theo Lyons, trong lịch sử ngôn ngữ học đã có những lí thuyết cố gắng đi tìm câu trả
lời cho câu hỏi đó như sau :
(i) thuyết quy chiếu (referential) hay thuyết sở thị (denotational) (“nghĩa của một biểu
thức chính là đối tượng mà biểu thức đó chỉ ra (biểu thị) hoặc đại diện; tức Fido có
nghĩa là Fido, còn chó thì có nghĩa hoặc là một tập hợp khái quát các con chó, hoặc là
cái đặc trưng chung, có tính bản chất của chúng”).
(ii) thuyết ý niệm (ideational) hay tâm lí (mentalistic) (“nghĩa của một biểu thức là cái
ý niệm, hay quan niệm, gắn với nó và tồn tại trong tư duy của những ai biết và hiểu
được biểu thức đó”).
(iii) thuyết hành vi (behaviourist) (“nghĩa của một biểu thức hoặc là cái kích thích gợi
ra nó hay cái phản ứng mà nó gợi ra, hoặc là sự kết hợp của cả hai thứ này trong một
tình huống phát ngôn cụ thể).
(iv) thuyết nghĩa-là-cách dùng (meaning-is-use) (nghĩa của một biểu thức được xác
định, hay có thể nói là đồng nhất với cách dùng nó trong ngôn ngữ").
(v) thuyết thẩm định (verificationist) ("nếu một biểu thức có nghĩa thì cái nghĩa này
được xác định bởi chứng cứ lấy từ câu, hay mệnh để chứa biểu thức đó”) .
(vi) thuyết hàm chân nguy (truth-conditional) ("nghĩa của một biểu thức là sự đóng
góp của nó vào hàm chân trị của câu chứa nó").
Chỉ trong phạm vi câu, tình hình cũng rất phức tạp. Thật không dễ trả lời câu hỏi : Câu
nói của chúng ta chuyển tải những nghĩa gì ? Những nghiên cứu của khoảng hai chục
năm gần đây đã cho thấy có sự phân biệt, tuy không phải lúc nào cũng rõ ràng, giữa
nghĩa miêu tả (descriptive meaning) và nghĩa phi miêu tả (non-descriptive meaning)
của câu. Đến lượt mình, trong phạm vi nghĩa phi miêu tả, nghĩa biểu lộ (expressive
meaning) nhiều khi hoà nhập với cái được gọi là nghĩa liên nhân (interpersonal
meaning), nghĩa công cụ (instrumental meaning), nghĩa xã hội (social meaning) hay
nghĩa phát động (conative meaning). Trong các tài liệu ngữ học, tên gọi các loại nghĩa
và nội hàm của chúng biến đổi theo các tác giả khác nhau và những xu hướng ngôn
ngữ học khác nhau.
Tuy nhiên, ở chính cái nhiệm vụ tưởng như dễ dàng nhất là miêu tả cấu trúc của câu,
chúng ta chứng kiến nhiều sự khác biệt, thậm chí đối lập giữa các nhà ngữ pháp. Bởi
lẽ,câu nói – đơn vị giao tiếp hiển nhiên nhất, được cú pháp lấy làm đơn vị nghiên cứu
cơ bản – lại là một đơn vị rất phức tạp về bản chất : có rất nhiều loại nội dung, nhiều
loại nghĩa được truyền đạt trong một câu, dưới hình thức này hay hình thức khác. Và
chính điều này đã gây khó khăn cho việc miêu tả cú pháp bởi chừng nào ta chưa thấu
hiểu và bóc tách được những nội dung nào được truyền đạt trong câu thì những nhãn
hiệu cú pháp mà ta gán cho các thành tố cấu trúc câu sẽ khó lòng được thoả đáng.
1.1.4.3. Chọn lựa siêu ngôn ngữ trình bày và xác định các bước miêu tả nghĩa
của câu
Hiểu nghĩa của câu là một việc, nhưng miêu tả được nghĩa của cầu là một việc hoàn
toàn khác. Không phải ai cũng có thể miêu tả được nghĩa của câu. Mấu chốt của vấn
đề là dùng siêu ngôn ngữ nào để miêu tả nghĩa của câu.Nếu sử dụng ngôn ngữ
thường ngày để miêu tả nghĩa của câu, người ta sẽ dễ rơi vào tình trạng trùng lập, luẩn
quẩn.(Ví dụ, cho rằng nghĩa của câu "Con mèo ngồi trên tấm thảm" là "Con mèo nằm
trên tấm thảm"). Trước tình hình đó, có hai giải pháp về công cụ : hoặc xây dựng một
ngôn ngữ nhân tạo, thuần tuý hình thức để miêu tả nghĩa, đây là con đường của nghĩa
học hình thức (Formal Semantics) ; hoặc dựa vào tính phản thân (reflexivity) của ngôn
ngữ tự nhiên, dùng chính ngôn ngữ tự nhiên, với những điều chỉnh và quy định
(regimentation) nào đó, như là siêu ngôn ngữ để miêu tả nghĩa của câu.
Với cách tiếp cận ngữ nghĩa trong phân tích và miêu tả cú pháp, người nghiên cứu sẽ
không dừng lại ở những sơ đồ, mô hình cú pháp trừu tượng. Từ “tĩnh”, độc lập hoàn
toàn với ngữ cảnh (free- context), mà phải luôn luôn quan tâm các đơn vị ngôn ngữ
trong môi trường hành chức thật sự của chúng. Nói như vậy có nghĩa là tất cả những
đặc điểm về hình thức, về cấu trúc phải được giải thích trong mối liên hệ có tính chức
năng, cụ thể là người nghiên cứu phải thấy được cái nhiệm vụ giao tiếp, cái căn
nguyên ý nghĩa đứng đằng sau, làm lí do cho mọi biểu hiện sinh động và phong phú
về mặt hình thức của câu nói.
CHƯƠNG 2. ĐÁNH GIÁ QUAN ĐIỂM CỦA NGUYỄN VĂN HIỆP VỀ BÌNH
DIỆN NGHĨA CỦA CÂU TIẾNG VIỆT
2.1. Giá trị và đóng góp của công trình
2.1.1 Giá trị
2.1.1.1 Giai đoạn đầu tiên: Cú pháp học tiếng Việt chủ yếu chịu ảnh hưởng tinh thần
“ dĩ Âu vi trung”.
Có lẽ những trình bày đầu tiên về cú pháp tiếng Việt là những ghi chú sơ sài về từ
loại, vai trò của trật tự từ,…trong những từ điển đối chiếu mà các học giả phương Tây
biên soạn. Với con mắt nhìn của họ, tiếng Việt có mấy đặc trưng nổi bật : (i) từ không
biến đổi hình thái khi được sử dụng trong câu, không có cơ sở (hình thái học) để xác
định từ loại, và do đó có thể xem tiếng Việt là một ngôn ngữ không có từ loại (ii) trật
tự từ trong câu đóng một vai trò rất quan trọng, quyết định đến việc hiểu nghĩa của
câu. Chẳng hạn, trong chương 8 của Báo cáo vốn tốt về tiếng An Nam hay Đông kinh,
được in trong cuốn Từ điển An Nam – Lusitan –Latinh của Ade Rhodes xuất bản tại
Rome năm 1651, tác giả có những ghi chú, được trình bày dưới dạng các luật, về chức
năng của từ trong câu tiếng Việt như sau :
Luật thứ nhất chủ từ phải đi trước động từ ; bằng không nó không còn là chủ từ của
động từ ấy nữa
Luật thứ hai danh từ theo sau động từ là bổ sung của động từ ấy.
Luật thứ tư trong hai danh từ đợt liên nhau thì tiếng thứ hai chỉ gián tiếp, ví dụ : Chúa
nhà, Dominus downus (ông chủ của nhà); nếu tôi nói nhà Chúa, idest, damas Dominus
(tức là nhà của ông Chúa)" (dẫn theo Nguyễn Minh Thuyết 1998, 2 Hay trong cuốn
Dictionarium Anamitico Latinum do J.L Taberd chủ biên, xuất bản vào năm 1838, ta
bắt gặp những ghi chú về những từ công cụ (những hư từ) của tiếng Việt (miêu tả
nghĩa khái quát, vị trí trong câu, kèm theo ví dụ minh hoạ). Chẳng hạn, tác giả đã ghi
chú về những từ như chở cũng, dầu, đặng, hãy hằng, kéo, mà rất, sẽ, con cái, thì... Một
số tổ hợp có tính đặc ngũ cũng được chú thích công dụng và cách dùng, như thì thôi,
thì chở. (ví dụ Đi đánh người thì chớ, lại đốt nhà cùng cướp của người" (xxxV). Dẫu
tác già đã có nhiều nhận xét thú vị, nhưng có thể thấy rằng, đây chỉ là những ghi chú
rời rạc và tản mạn, tính hệ thống được thể hiện rất ít. Cho đến những năm 40 của thế
kỉ XX, các tài liệu có liên quan đến cú pháp tiếng Việt đều chủ yếu do các học giả
nước ngoài viết Vì vậy, chẳng có gì ngạc nhiên khi chúng thể hiện cái nhìn châu Âu
đối với cú pháp tiếng Việt nói riêng và ngữ pháp tiếng Việt nói chung.
2.1.1.2 Giai đoạn thứ hai:
Cú pháp tiếng Việt được giảng dạy và nghiên cứu sâu rộng.Trong những năm 60, 70
của thế kỉ XXX, khi tiếng Việt được giảng dạy một cách sâu rộng trong nhà trường ở
cả hai miền Nam Bắc, các nhà nghiên cứu đã có ý thức phân tích câu tiếng Việt thoát
khỏi khuôn mẫu của câu tiếng Pháp. Theo tinh thần này, một số đặc trong của cần
tiếng Việt đã được phát hiện, đặc biệt là sự thừa nhận một loại thành phần câu không
hề có trong các sách ngữ pháp tiếng Pháp, được gọi tên là chủ đề (nhóm Trương Văn
Chính, Nguyễn Hiến Lê), khởi ngữ (Nguyễn Kim Thản) hay từ-chủ đề (nhóm Nguyễn
Tài Cản. LX Buxurov, NV Sunkevich..). Tư cách của thành phần câu này đến hôm
nay vẫn là một trong những tiêu điểm gây tranh cãi trong nghiên cứu ngữ pháp tiếng
Việt
Truc Vu Chính và Nguyễn Hiến La cho rằng trong những câu năng "The / Clip ghi nổi
tiếng diễn từ thoại để cái", mục đích câu nổi) và chia từ không phải là một. Các tác giả
đã để xuất một thành phần cầu có “thúc vụ nh” coi là “chủ để và định nghĩa như sau :
“Chủ đề là tiếng dùng ở cầu câu, dùng để diễn tả thoại để mà không phải là chủ tà. Về
ý tử, chủ để có liên lạc hoặc với một tiếng khác trong câu, hoặc với cả câu.Nhum về
ngữ pháp thì chủ để đứng riêng biệt, không có quan hệ với một tiếng nào trong câu
cả. Chủ để đặt trước chủ từ (1963, 530). Nguyễn Kim Thần thì gọi thành phần câu này
là khỏi ngũ, một loại “hành phần thứ yếu của câu thường xuyên đứng ở vị trí 1 trong
câu song phần” (1964, 205), về mặt nghĩa khôi ngữ có thể trùng với chủ ngữ, vị ngữ,
bổ ngữ, định ngữ hoặc không trùng với một thành phần nào trong câu hay từ tổ,
Có thể nói, vấn đề phân biệt thành phần câu với thành phần từ tổ là một trong những
vấn đề sôi động nhất của cú pháp tiếng Việt những năm 60, 70, mà hệ quả là hình
thành những cách nhìn phủ truyền thống đối với một số thành phần cậu như đã dẫn
trên đây. Tuy nhiên, một số tác giả có quan điểm dung hoà hơn. Chẳng hạn, các tác
giả cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (1975) là Baxtrov, Nguyễn Tài Cẩn và Sankevich chấp
nhận tính cách nước đối của các thành phần câu này . Mỗi một thành phần chủ yếu
hay thứ yếu của câu đều có thể được biểu thị bằng đoàn ngữ. Các thành phần phụ của
đoản ngữ này có thuộc tỉnh nước đối t một mặt, chúng tham gia vào đoàn ngữ, vì sự
có mặt của chúng bị ước định bởi các thuộc tính từ vựng – ngữ pháp của hạt nhân
đoàn ngữ . mặt khác, bởi vì đoản ngữ đi vào thành phản cầu nên chúng lại là các thành
phần phụ thuộc mà điển hình là định ngữ" (1975, 134). Bên cạnh những nét mới đã
dẫn trên đây, cần ghi nhận thêm những nỗ lực áp dụng các lí thuyết ngôn ngữ học
khác để nghiên cứu cú pháp tiếng Việt, không chỉ ở trong nước mà còn ở nước
ngoài. không chỉ được thực hiện bởi các tác giả Việt Nam mà còn bởi các tác giả nước
ngoài. Có hai tác giả nước ngoài đáng được nêu ra ở đây do cái mới mà họ đem đến
trong việc phân tích và miêu tả câu tiếng Việt. Đó là Yu K Lekomtsev và L C
Thompson, cả hai đều vận dụng phương pháp phân tích thành tố trực tiếp (Immediate
Constituents, viết tắt là IC), phương pháp rất nổi tiếng của trường phái miêu tả thời
bấy giờ, để nghiên cứu câu tiếng Việt.
Xu hướng hình thức hoá trong nghiên cứu có pháp tiếng Việt đã duệ Nguyễn Minh
Thuyết thực hiện một cách trại đủ đối với châu ngữ của của. Tác giả cho rằng những
tiêu chí về trật tự và hư từ không đáng tin cậy để phân biệt các nhãn hiệu hình thức
trong cấu trúc cân, bởi vậy trong một giải pháp tổng thể, tác giả đã xây dựng một bộ
các thủ pháp hình thức, gồm có phép lược, phép thế, phép bỏ sung, phép cải biến,
phép nguyên nhân hoá nhằm làm bộc lộ những khác biệt hình thức của các thành phần
cấu trúc của câu. Trong luận án tiến sĩ “Chủ ngữ trong tiếng Việt” (1981), tác giả đã
đưa ra những tiêu chí hình thức để phân biệt chủ ngữ với các thành phần câu khác, đặc
biệt phân biệt chủ ngữ với bổ ngữ, là vấn đề ít được quan tâm trước đó trong Việt ngữ
học. Tiêu chí phân biệt chủ ngữ và bổ ngữ là thái độ cú pháp khác nhau của lại thành
phần câu này khi nòng cốt được đưa vào khuôn kiến trúc nguyên nhân (thủ pháp
nguyên nhân hoá), với vị từ trung tâm là các động từ khiến động như bắt, huộc, khiến
sai nhờ . hoặc các động từ đánh giá, nhận thức như cho (là) coi (là)... Chỉ có chủ ngữ
mới có thể làm bổ ngữ thể từ tính, hay nói cách khác, chỉ có chủ ngữ mới có thể đứng
sau vị từ trung tâm của khuôn kiến trúc nguyên nhân. Việc áp dụng một cách nhất
quán các tiêu chí hình thức như vậy đã đem lại những kết quả thú vị. Chẳng hạn, tác
giả thừa nhận tư cách chủ ngữ của các ngữ đoạn chỉ vị trí, nơi chốn trong các câu như
“Trên đồn im như tờ. “Trong nhà ra mở của", hoặc thừa nhận kiểu câu "Tôi còn tiền"
có hai loại chủ ngữ khác nhau là chủ ngữ chu đẻ và chủ ngữ ngữ pháp. Hướng đi của
Nguyễn Minh Thuyết rất đáng được ghi nhận, bởi lẽ hướng đi này mang tinh thần của
ngôn ngữ học hiện đại. Như ngu người đều biết, thực chất của cách phân chia loại
hình học cũ pháp đối lập các ngôn
2.1.1.3 Giai đoạn thú ba:
Cú pháp học tiếng Việt chuyển mình theo khuynh hướng ngữ pgaps chức năng và ngữ
pháp ngữ nghĩa
Bước sang những năm 90, lĩnh vực nghiên cứu cú pháp tiếng Việt sôi động hồn
với việc công bố cuốn Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng, Quyển I của Cho
Xuân Hạo. Sau khi cuốn tách ra đời, đã có nhiều cuộc thảo luận được tổ chức xoay
quanh chủ cả ngữ pháp chức năng và tiếng Việt Phải thần nhận rằng, cuốn sách của
Cao Xuân Hạo đã mang lại một luống gió mới cho cả nền ngôn ngữ học nước nhà và
hiện nay, những vấn đề mà cuốn sách địt ra vẫn đang còn là thời sự. Vì vậy, đánh giá
cho hết những đóng góp mà cuốn sách mang lại là một công việc rất khó khăn. Tuy
nhiên, khoảng cách hơn mười năm cũng có thể xem là tạm đủ để nêu lên những đóng
góp cũng như những gợi mở của cuốn sách. Cái mới mà Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ
pháp chức năng. Quyền l mang lại là một tinh thần chống chủ nghĩa “dĩ Âu vị trung”
trong nghiên cứu câu tiếng Việt.Cao Xuân Hạo cho rằng, gần như tất cả những miêu
tả ngữ pháp trong nhà trường lâu nay chỉ là một sự rập khuôn máy móc ngữ pháp của
tiếng châu Âu, mà điển hình nhất là việc gán cho cấu trúc chủ vị cái cương vị là cấu
trúc cú pháp cơ bản của câu tiếng Việt. Theo tác giả, cấu trúc chủ – vị, như vẫn
thường được hiểu, chỉ thích hợp cho việc miêu tả các thứ tiếng châu Âu. Còn đối với
một thứ tiếng như tiếng Việt, cái cấu trúc cú pháp cơ bản ấy là một cấu trúc khác - cấu
trúc để – thuyết. Hai thành tổ của cấu trúc này tương ứng với hai thành phần của một
hành động nhận định hay hành động mệnh để và thuyết được đánh dấu bằng khả năng
thêm các tác tử thì là mà Cấu trúc của câu trần thuật được “chia hết” cho hai thành
phần để, thuyết và câu có thể có một bạc để thuyết hoặc có từ hai bậc để thuyết trở
lên.
Trong một định hướng kho, vẫn tiếp thu II luận ngôn nga học hiện đại và Đông
phương học quốc tế văn không bài xích các khả niệm ngôn ngữ đã được dùng để miêu
tả tiếng Việt trước đó, Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp đã cố gắng nếu một
giải pháp nhất quán và địa chỉ về Thành phần cầu tiếng Việt (1992, in lại 2004). Theo
giải pháp này, các thành phần câu tiếng Việt được phân xuất và nhận diện trên cả hai
bình diện nội đang và hình thức. Giải pháp này cũng cho phép thấy được tính "lập
thể", đa chiều kích của cầu, phân biệt nòng cốt câu (lãi câu) với các thành phần phụ,
trong đó ngoài các thành phần có tính truyền thống như trạng ngữ, khởi ngữ, các tác
giả còn để xuất định ngữ câu với tư cách là thành phần phụ thể hiện thái độ hay lập
trường của người nói dối với điều được nói ra, còn tình thái ngữ là chỉ báo cho kiểu
mục đích phát ngôn điển hình của câu. Tuy không tuyên bố hiến ngôn, nhưng qua việc
miêu tả tính đa chiều kích của câu trong việc biểu đạt nghĩa, công trình của Nguyễn
Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp cũng thật sự mang tỉnh thần của ngữ pháp chức
năng hiện đại. Nếu Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp phân xuất và nhân diện
các thành phần cầu tiếng Việt trên cả hai bình diện nội dung và hình thức theo một
cách chung nhất, thì Đào Thanh Lan lại chủ trương vận dụng cùng một lúc năm tiêu
chỉ để xác lập bộ khung cấu trúc của câu đơn tiếng Việt. Đó là các tiêu chí về nghĩa
tạo lập phát ngôn, nghĩa biểu thị thực tại khách quan, vai trò quan hệ cú pháp, hình
thúc biểu hiện bằng vị trí và hình thúc. Kết quả là danh sách các thành tố cấu trúc câu
tiếng Việt theo tác giả sẽ gồm có 1 chủ ngữ, minh xác ngữ, để ngữ, định ngữ, thuyết
ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ 2002 253) Theo đúng tin vô dụng nhiều nên chỉ là một nh"
phép mang Tập khi nhà nghiên cứu góp phải những vấn đã phải trị, ở đó tính chín
trung gian cần một số đối tượng khiến cho việc áp dụng một hoặc hai Tên chỉ cần khó
tin. Có điều, tuổi nghiên cứu phải đảm bảo được rằng những tiên cái ấy chỉ bổ sung
chứ không loại trêu hoặc màu thích nhau. Kinh nghiệm đồng kết hợp các tiêu chỉ thêu
chỉ về nghìn từ vọng và tiêu chỉ và các điểm ngữ pháp) trong việc phân định từ loại là
một bài học : trong rất nhiều trường hợp, tiêu chí sau mâu thuẫn với tiêu chí tước.
Fnwley (1992) cho rằng quan niệm có thể dùng ý nghĩa từ vựng (đi là ý nghĩa và van
khí quốc, là học với đọc đến một pháp để làm tiêu chí phân định ra loại chỉ là một ảo
tưởng, chính các địa điểm nơi pháp mới có tiếng nói quyết định. Lê Hoàng cho rằng
“một từ tiếng Nga &otomeue có từ căn là boems mang ý nghĩa từ vựng chỉ hành động,
nhưng nhờ có hình thái giống những danh từ chỉ sự vật khác mà được gọi là danh từ.
Ngược lại, những từ trong tiếng Anh như (to) water, (to) lawn, tay có từ căn water,
lawn mang ý nghĩa từ vụng chỉ sự vật, nhưng có hệ hình giống như những động từ chỉ
hành động (hoặc trạng thái) khác nên được gọi là động từ (2005). Đó là chưa tính đến
trường hợp một đối tượng có thể chỉ đáp ứng một số tiêu chí mà thôi chứ không đáp
ứng toàn bộ các tiêu chí (chẳng hạn 2 trên tổng số 5 tiêu chí, 3 trên tổng số 5 tiêu
chí...), khi đó đối tượng sẽ được gọi tên như thế nào ? Sự phát triển của lí thuyết điển
mẫu (Prototype), bắt đầu trong nghiên cứu từ vựng. sau đó mở rộng cho cả ngũ pháp,
là sự phê phán đối với việc áp dụng các tiêu chí cần và đủ để gán định nhân hiệu cho
đối tượng. Càng ngày, người ta thấy cần khẳng định sự tồn tại của những trường hợp
không điển hình (không đến mẫu) bên cạnh những trường hợp điển hình (điển
mẫu). Trong cảm hứng phê phán các khuynh hướng hình thức cùng những nghi vấn về
tính phổ quát của những khái niệm lâu nay vẫn đuợc dùng để miêu tả ngữ pháp tiếng
Việt cũng như các ngôn ngữ. đơn lập khác, Lê Hoàng đã chủ trương xây dựng một thử
ngữ pháp
Trong một thử nghiệm gần đây nhất. Diệp Quang Ban đã áp dụng mô hình ngữ pháp
chức năng của Halliday (1985) để phân tích câu tiếng Việt theo ba siêu chức năng
(siêu chức năng kinh nghiệm, siêu chức năng liên nhân và siêu chức năng văn
bản). Trong công trình này.lần đầu tiên, tác giả đề cập đến vấn đề thúc của cái tiếng
Việt.
Từ chỗ bị coi thường, không đáng tin cậy trong các trào lưu ngữ pháp mang tính hình
thức, thì hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngữ pháp chức năng và ngữ
pháp tri nhận, nghĩa lại là nhân tố đặc biệt được nhấn mạnh. Trong nghiên cứu ngữ
pháp cần phải nói đến nghĩa, phải bàn đến ngữ pháp mang tính ngữ nghĩa. Tuy nhiên,
nghĩa lại là đối tượng hết sức trừu tượng, khó nắm bắt. Thật không dễ trả lời cho câu
hỏi: “Những loại nghĩa nào có thể được một câu nói chuyển tải?”
Sự phát triển vượt bậc của ngữ nghĩa học trong thời gian qua đã cho chúng ta những
cơ sở đáng tin cậy để bàn đến những lớp nghĩa đó. Với quan niệm rằng cú pháp không
mang tính tự trị, mà cú pháp là để tải nghĩa, chúng tôi cho rằng bóc tách được các lớp
nghĩa mà câu nói biểu thị sẽ đồng thời là xác lập cơ sở ngữ nghĩa cho việc phân tích
cú pháp. Các lớp nghĩa đó, theo chúng tôi, gồm có nghĩa miêu tả, nghĩa tình thái,
nghĩa chủ đề, nghĩa mục đích phát ngôn.
Từ việc xác lập những cơ sở ngữ nghĩa như trên, chúng tôi đề nghị một cách tiếp cận
mới cho việc miêu tả cấu trúc cú pháp của câu tiếng Việt. Đường hướng của chúng tôi
là xuất phát từ những kiểu nghĩa có thể được diễn đạt trong câu mà định dạng các
phạm trù hình thức tương ứng. Đây là cách tiếp cận triệt để đi từ chức năng đến hình
thức (a radical function-to-form), được nhà ngữ học người Bỉ Jan Nuyts diễn đạt một
cách ngắn gọn như sau: “lấy phạm trù ngữ nghĩa làm điểm xuất phát mà tìm xem
những biểu hiện ngôn ngữ học của nó” (taking the semantic category as its starting
point, it looks into the range of its liguistic manifestation) [Nuyts 2001]. Đường hướng
này vẫn còn khá mới mẻ đối với những người nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt. Tuy
nhiên, theo chúng tôi, đây là đường hướng hứa hẹn nhiều kết quả khả quan, bởi chúng
ta đã có quá nhiều kinh nghiệm về những tranh cãi bất tận suốt mấy chục năm qua
trong cố gắng dùng tiêu chí hình thức để xác định các thành phần cú pháp của câu
tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn lập, không biến đổi hình thái. Xuất phát từ những kiểu
nghĩa có thể biểu đạt trong câu nói, xem đó là những cơ sở ngữ nghĩa cho việc miêu tả
cấu trúc cú pháp của câu tiếng Việt, chúng tôi chủ trương một lối phân tích câu giản
dị, dựa trên những kinh nghiệm tri nhận của chúng ta về thế giới và cách tổ chức, trình
bày những kinh nghiệm đó. Cách làm này dẫn chúng tôi đi đến nhận định rằng câu nói
là một thực thể nhiều chiều kích, các thành tố cấu trúc tuyến tính của câu không đồng
chất trong chức năng phản ánh thông tin thuộc những chiều kích khác nhau đó. Và hệ
quả là, nếu chúng ta từ bỏ cách nhìn đơn tuyến để có một cách nhìn “lập thể” về câu
thì chúng ta phải đi đến một lối phân tích mang tính mô-đun về các thành tố cấu trúc
của nó.
2.2. Một số hạn chế của công trình
Trong bối cảnh đổi mới và hội nhập hiện nay, vấn đề phát triển và bảo vệ sự trong
sáng của tiếng Việt đang được đặt ra một cách cấp bách. Tiếng Việt phải phát triển để
đáp ứng nhu cầu diễn đạt nhận thức chung của xã hội đang phát triển, nhu cầu biểu đạt
tình cảm ngày càng phức tạp và tinh tế của người Việt trong bối cảnh cuộc cách mạng
thông tin và bối cảnh toàn cầu hóa. Một loạt hình thức giao tiếp mới ra đời: điện thư,
chát, mạng xã hội, v.v. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật cũng thúc đẩy sự
phát triển song hành của tiếng Việt với tư cách là công cụ được chuẩn hóa để làm
công cụ của tư duy và diễn đạt khoa học.
Trong ngữ pháp truyền thống, thuật ngữ “câu” được dùng để chỉ đơn vị ngữ pháp lớn
nhất là đối tượng nghiên cứu của ngữ pháp. Câu đơn được hiểu là đơn vị được làm
thành từ một mệnh đề, câu ghép thì được làm thành từ hơn một mệnh đề. Và trong
ngôn ngữ học, thuật ngữ “câu” vẫn được dùng với cơ sở vẫn là mệnh đề.
Xưa nay, khi quan tâm tới cấu trúc câu và thành phần câu, các tác giả đều có để ý đến
cái thành tố cú pháp đứng đầu câu hay là đứng trước nòng cốt câu. Tuy nhiên, xét cho
kĩ không phải cứ đứng đầu câu thì mọi ngữ đoạn đều giống nhau về “nghĩa” và
“pháp”. Do những dụng ý khác nhau nên giả thuyết về chúng cũng khác nhau.
Nhìn lại lịch sử nghiên cứu cú pháp tiếng Việt, có thể nói hầu như tất cả những lí
thuyết cú pháp quan trọng của thế giới đều đã có ảnh hưởng đến việc nghiên cứu ngữ
pháp tiếng Việt ở một mức độ nào đó và các nhà Việt ngữ học, mỗi người mỗi vẻ, đã
đóng góp phần công sức của mình vào công cuộc nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt nói
chung. Việc trình bày toàn bộ những đóng góp như vậy, thiết nghĩ, là một nhiệm vụ
quá khó đối với chúng tôi. Phần tổng quan này, vì vậy, chỉ là một sự trình bày hồi cố
hết sức giản lược, theo tinh thần “ôn cố tri tân” trước khi chúng tôi đi đến xác định
cách tiếp cận của riêng chúng tôi đối với cú pháp tiếng Việt.
KẾT LUẬN