You are on page 1of 126

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THANH TRANG

VĂN HÓA ỨNG XỬ VỀ TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN


TRONG CA DAO NGƢỜI VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SĨ


Chuyên ngành: Văn học Dân gian

Hà Nội - 2014

1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THANH TRANG

VĂN HÓA ỨNG XỬ VỀ TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN


TRONG CA DAO NGƢỜI VIỆT

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Dân gian


Mã số: 60 22 01 25

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : GS.TS Vũ Anh Tuấn

Hà Nội, 11/ 2014

2
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và
chƣa đƣợc sử dụng để bảo vệ học hàm, học vị nào. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực
hiện luận văn này đã đƣợc cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn này đã
đều đƣợc chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, tháng 11 năm 2014
Người thực hiện

Nguyễn Thanh Trang

3
LỜI CẢM ƠN

Trƣớc hết, tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS.TS.Vũ Anh Tuấn,
trƣởng bộ môn Văn học dân gian và Văn học trung đại Việt Nam – Khoa Ngữ
văn Đại học Sƣ phạm Hà Nội, ngƣời thầy đã tận tình hƣớng dẫn, chỉ bảo tôi
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu hoàn thành luận văn.
Đồng thời, tôi cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong hội đồng bảo vệ
đề cƣơng tháng 3/2014 đã cho tôi những nhận xét quý báu để tôi hoàn thành luận
văn “Văn hóa ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong ca dao người Việt”.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và những ngƣời thân luôn sát
cánh ủng hộ, động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện đề tài này.
Hà Nội, tháng 11 năm 2014
Người thực hiện

Nguyễn Thanh Trang

4
DANH MỤC VIẾT TẮT

KTCD : Kho tàng ca dao ngƣời Việt


VHDG : Văn học dân gian
THCS : Trung học cơ sở
H : Hà Nội
NXB : Nhà xuất bản
TS : Tiến sĩ
PGS : Phó giáo sƣ
GS : Giáo sƣ
Tr : Trang

5
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 8
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ....................................................... 17
1.1. Tổng quan về văn hóa và ứng xử ............................................................... 17
1.2. Ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong văn hóa Việt Nam ...................... 20
1.2.1. Ứng xử về tình yêu trong văn hóa Việt Nam ........................................... 20
1.2.2. Ứng xử về hôn nhân trong văn hóa Việt Nam ........................................ 21
1.3. Văn hóa ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong ca dao từ góc nhìn thể
loại ........................................................................................................................ 24
Tiểu kết chương 1................................................................................................ 30
CHƢƠNG 2: VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG TÌNH YÊU ............................. 32
2.1. Tình yêu hạnh phúc .................................................................................... 33
2.1.1. Những lời tỏ tình ....................................................................................... 33
2.1.2. Nỗi niềm tương tư, nhớ nhung, sầu muộn .............................................. 38
2.1.3. Lời thề nguyền, hẹn ước ........................................................................... 41
2.2. Tình yêu đau khổ......................................................................................... 44
2.2.1. Nguyên nhân ............................................................................................. 44
2.2.2. Thái độ trách móc, hờn giận .................................................................... 45
2.2.2.1. Khi trái duyên, bị ép duyên .................................................................... 45
2.2.2.2. Khi bị phụ tình ....................................................................................... 47
2.2.2.3. Khi ghen tuông ....................................................................................... 49
2.2.2.4. Khi bị lỡ duyên – nuối tiếc ..................................................................... 50
2.2.3. Thái độ cao thượng – không cao thượng................................................. 55
2.3. Tình yêu đơn phƣơng.................................................................................. 59
2.4. Những ƣớc mong trong tình yêu ................................................................ 60

6
Tiểu kết chƣơng 2 ............................................................................................... 62
CHƢƠNG 3: VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG HÔN NHÂN ........................... 64
3.1. Ứng xử trong quan hệ vợ chồng ................................................................ 64
3.1.1. Đạo nghĩa chung trong quan hệ vợ chồng .............................................. 64
3.1.2. Ứng xử của người vợ ................................................................................ 67
3.1.2.1. Ứng xử tích cực ( sự gắn bó, hòa hợp) ................................................. 67
3.1.2.2. Ứng xử tiêu cực ...................................................................................... 77
3.1.3. Ứng xử của người chồng .......................................................................... 92
3.1.4. Ứng xử của người tình của chồng ........................................................... 94
3.2. Ứng xử trong mối quan hệ khác ................................................................ 97
3.2.1. Ứng xử trong quan hệ nàng dâu với mẹ chồng ....................................... 97
3.2.2. Ứng xử trong quan hệ bố mẹ vợ - con rể ............................................... 102
3.2.3. Ứng xử trong quan hệ mẹ ghẻ - con chồng, cha dượng - con của vợ .. 103
3.2.4. Ứng xử giữa anh chị em dâu rể ............................................................. 104
Tiểu kết chương 3.............................................................................................. 104
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 106
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Ket-noi.com forum công nghệ, giáo dục

7
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lý do thực tiễn
Văn hóa ứng xử của ngƣời Việt đƣợc hình thành trong quá trình giao tiếp
qua 4000 năm lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc. Cái đẹp của văn hóa ứng xử đƣợc
cha ông lƣu giữ và truyền lại từ đời này sang đời khác. Nghiên cứu văn hóa ứng
xử giúp ta hiểu sâu hơn, đầy đủ hơn về giao tiếp, về văn hóa, lịch sử của một
quốc gia, dân tộc, xã hội, thời đại, đồng thời để điều chỉnh hành vi của chính
mình.
Văn hóa thể hiện qua nhiều cách thức, phƣơng tiện, trong đó ngôn ngữ là
phƣơng tiện quan trọng. Bản sắc riêng của mỗi dân tộc thể hiện qua tiếng mẹ đẻ.
Vì thế, ngôn ngữ là hiện thân của văn hóa, là phƣơng tiện để truyền đạt văn hóa.
Ngôn ngữ chính là chất liệu làm nên tác phẩm văn học, trong đó có văn học dân
gian. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, ca dao là một trong những
sáng tác phổ biến rộng rãi có sức sống bền lâu vào loại bậc nhất. Đó là tiếng nói
của cảm xúc tình cảm, bộc lộ tâm hồn dân tộc.
Tình yêu vốn là bản chất thiêng liêng và tự nhiên của con ngƣời. Vì thế,
dù ở thời đại nào, tình yêu cũng là đề tài bất tận cho văn chƣơng, và ca dao
không nằm ngoài số đó. Thế nhƣng trong cuộc sống hiện đại ngày nay, nhiều
ngƣời trẻ coi tình yêu nhƣ một cuộc chơi, một trò đùa, không hiểu thế nào là tình
yêu chân chính. Vậy nên mới nảy sinh những tình yêu chớp nhoáng, chia tay
chớp nhoáng, hay hôn nhân vội vàng, dẫn đến những kết cục đáng buồn cho
ngƣời trong cuộc. Đặc biệt, cách ứng xử của những ngƣời trong cuộc cũng để lại
cho chúng ta nhiều suy ngẫm. Mặc dù trong thời đại ngày nay đã có những quan
niệm mới, tƣ duy mới không còn giống với quan niệm của ngày xƣa, nhƣng cái

8
Ket-noi.com forum công nghệ, giáo dục

mới ấy vẫn không thể thoát ly khỏi bản sắc của dân tộc. Dẫu rằng trong thế giới
phẳng này chẳng có ai “ngây thơ” quan niệm về tình yêu và hôn nhân nhƣ văn
hóa truyền thống, nhƣng quan niệm mới ấy vẫn phải có sự chế định của bản sắc
dân tộc. Nói tới văn hóa là nói tới nhân dạng và tính cách; tính cách lại làm nên
phẩm giá con ngƣời. Mỗi dân tộc lại có quan niệm về phẩm giá khác nhau và
phẩm giá ấy làm nên chuẩn mực có tính lịch sử. Do có tính lịch sử nên ngoài cái
đổi mới, phẩm giá còn có sự tiếp nối. Thế nhƣng có đổi mới tới đâu cũng phải
phát triển dựa trên dân trí và đạo đức. Không thể phủ nhận ngày nay là thời đại
khoa học công nghệ, thời đại của công nghệ thông tin, thời đại dân trí phát triển
mạnh. nhƣng dân trí đƣợc nâng cao không có nghĩa phá vỡ những nền tảng đạo
đức. Hai khía cạnh ấy phải luôn có sự song hành, diễn tiến hài hòa.
Do đó, việc tìm hiểu văn hóa ứng xử về tình yêu và hôn nhân qua ca dao
giúp chúng ta hiểu hơn đời sống của cha ông và việc soi bóng vào quá khứ sẽ
giúp ta thấy đƣợc một tƣơng lai, soi bóng vào dân tộc để thấy đƣợc chính mình.
Có đƣợc gốc rễ ấy để ta có cái nhìn đúng đắn về tình yêu, hôn nhân trong cuộc
sống hiện đại và đây là điều thực sự cần thiết cho giới trẻ ngày nay.
1.2. Lý do học thuật
Ca dao cũng là một lĩnh vực cần nghiên cứu chuyên sâu, vì kho tàng ca
dao cũng là một kho tàng tri thức về lịch sử, xã hội, địa lý, đặc biệt là lĩnh vực
văn hóa. Nghiên cứu ca dao chính là việc làm mang tính chất học thuật nhằm
khám phá kho tàng tri thức của cha ông.
Tình yêu, hôn nhân đặc biệt là tình yêu, hôn nhân trong ca dao của ngƣời
Việt luôn là tâm điểm nghiên cứu từ xƣa đến nay. Bởi đó là vấn đề mang tính
chất hiện sinh, đặt ra nhiều mối quan tâm trong cuộc sống thực tại. Những bài ca
dao về tình yêu tự do, về quyền sống của con ngƣời, đặc biệt là ngƣời phụ nữ,

9
những bài ca dao đòi hỏi sự công bằng, chống áp bức bất công đều là những cách
ứng xử rất khéo léo của ngƣời xƣa để đòi quyền đƣợc cất lên tiếng nói của mình.
Việc khảo sát những bài ca dao về tình yêu, hôn nhân sẽ giúp con ngƣời hiện tại
khám phá đƣợc kho tàng ứng xử của ngƣời xƣa trƣớc những vấn đề của muôn
đời. Đó cũng là một cách làm mang tính chất học thuật và vì học thuật.
Quá trình khám phá những bài ca dao cũng là một quá trình đòi hỏi tính
học thuật rất cao. Giống nhƣ ngôn ngữ thông thƣờng, từ cái vỏ bề ngoài ( cái
phản ánh) cần phải khám phá ra cái đƣợc phản ánh bên trong. Ca dao rất hay
dùng cách nói ẩn dụ, so sánh, hoán dụ, chơi chữ…, đặc biệt là ca dao về tình
yêu. Đó là bởi thời xƣa dƣới ảnh hƣởng của nho giáo, tình yêu không đƣợc biểu
lộ một cách trực tiếp mà bao giờ cũng đƣợc nói một cách ý nhị, khéo léo. Vì thế,
đi sâu vào những bài ca dao về tình yêu con ngƣời đƣơng thời cũng học hỏi đƣợc
những cách dùng từ, những cách đặt câu và những cách biểu đạt rất học thuật mà
vẫn rất giản dị. Thêm nữa, ca dao tình yêu hôn nhân của ngƣời Việt ở miền Nam
và miền Bắc cũng không hoàn toàn giống nhau. Ở những lứa tuổi khác nhau,
ngƣời ta cũng bày tỏ tình cảm theo những cách khác nhau. Vì thế, đọc ca dao
chúng ta thêm hiểu những cách thức ứng xử và những nét đẹp văn hóa của từng
vùng miền trong cả nƣớc. Nhƣng tựu trung lại, ca dao tình yêu hôn nhân dù ở
vùng miền nào, lứa tuổi nào cũng là một kho tàng ứng xử của ngƣời thời xƣa cần
đƣợc nghiên cứu. Tất cả sẽ tái hiện lại đƣợc đời sống tinh thần của con ngƣời
thời xƣa.
1.3. Lý do nghiệp vụ
Học sinh phổ thông, đặc biệt là học sinh THCS đang là lứa tuổi hình thành
nhân cách. Việc nghiên cứu và tìm hiểu ứng xử trong ca dao, đặc biệt là ca dao
về tình yêu và hôn nhân sẽ giúp cho các em có đƣợc hiểu biết về cách ứng xử

Ket-noi.com forum công nghệ, giáo dục


10
của ngƣời xƣa. Từ đó, điều chỉnh đƣợc thái độ, hành vi cũng nhƣ cách ứng xử về
tình yêu trong cuộc sống hiện đại.
Công việc giảng dạy của giáo viên ở trƣờng phổ thông vì thế cũng đòi hỏi
phải nắm vững kiến thức về ca dao, đặc biệt là kiến thức về tình yêu hôn nhân,
để từ đó có cách cảm, cách nghĩ đúng đắn và định hƣớng đƣợc cho học sinh của
mình. Mảng kiến thức về ca dao trong trƣờng phổ thông cũng chiếm một khối
lƣợng khá lớn. Do đó, tìm hiểu về ca dao cũng sẽ giúp nâng cao nghiệp vụ và
tầm bao quát kiến thức cho giáo viên.
2. Lịch sử vấn đề
Đề tài tình yêu, hôn nhân trong ca dao, tục ngữ là đề tài muôn thuở đƣợc
nhiều ngƣời quan tâm và nghiên cứu. Các giáo trình văn học dân gian của Đinh
Gia Khánh, Hoàng Tiến Tựu, Vũ Anh Tuấn, Đỗ Bình Trị… cũng đề cập tới vấn
đề này, tuy không nhiều lắm, nhƣng cũng là nguồn tham khảo quý giá cho chúng
tôi. Bên cạnh đó, qua các cuốn chuyên luận, các luận án, các bài báo mà chúng
tôi khảo sát đƣợc, chúng tôi nhận thấy các nhà nghiên cứu trƣớc đây mới chỉ tập
trung nghiên cứu những vấn đề sau:
Về vấn đề văn hóa ứng xử trong ca dao, các nhà nghiên cứu mới tập trung
nghiên cứu mảng ứng xử xã hội (Chuyên luận của Trần Thúy Anh: Ứng xử cổ
truyền với tự nhiên và xã hội của người Việt châu thổ Bắc Bộ qua ca dao, tục
ngữ; bài viết của Hà Đan: Từ chữ “nghĩa” trong ca dao, tìm về một nét ứng xử
trong truyền thống văn hóa người Việt; bài viết của Trần Thị Ngân Giang: Nghĩa
của từ “nhịn” trong tiếng Việt và chữ nhịn trong văn hóa ứng xử người Việt),
mảng ứng xử trong gia đình, đạo đức (Đỗ Thị Bảy: Sự phản ánh quan hệ gia
đình, xã hội trong tục ngữ, ca dao; Nguyễn Nghĩa Dân: Tục ngữ ca dao về giáo
dục đạo đức…); về thi pháp biểu hiện trong ca dao ( bài viết của Cao Huy Đỉnh:

11
Ket-noi.com forum công nghệ, giáo dục

Lối đối đáp trong ca dao trữ tình; Đỗ Thị Hòa - Luận văn Thạc sĩ Văn học dân
gian Trƣờng ĐHSP Hà Nội: Đặc điểm nghệ thuật so sánh trực tiếp trong ca dao
tình yêu người Việt; Nguyễn Xuân Kính: Thi pháp ca dao; Đặng Diệu Trang:
Thiên nhiên với thế giới nghệ thuật ẩn dụ và biểu tượng trong ca dao dân ca;
Hoàng Kim Ngọc: So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình: Dưới góc nhìn ngôn
ngữ văn hóa học…).
Về mảng ca dao tình yêu và hôn nhân, các luận văn, các chuyên luận, các
bài nghiên cứu mới đề cập tới các vấn đề chung của tình yêu đôi lứa, thân phận
ngƣời phụ nữ chứ chƣa đi sâu vào nghệ thuật ứng xử. Tiêu biểu có các bài viết:
bài viết của Lê Thị Thắm: Ý niệm về đôi - cặp trong ca dao người Việt về hôn
nhân và gia đình; Nguyễn Xuân Đức: Nghệ thuật biểu hiện trong bài ca dao
“Trèo lên cây bưởi hái hoa”; Phạm Danh Môn (st, chỉnh lý): Tình yêu đôi lứa
trong ca dao Việt Nam: Từ điển Bách Khoa; Phạm Thu Yến: Cảm hứng về thân
phận người phụ nữ trong văn hóa xưa – nay. Ngoài ra, các tác giả cũng nghiên
cứu ca dao tình yêu, hôn nhân của các vùng miền: Quán Vi Miên: “ Ca dao, dân
ca Thái về tình yêu và sự chia ly”; Trần Phỏng Diều: Phương ngữ Nam Bộ trong
ca dao về tình yêu; Luận văn Thạc sĩ Văn học dân gian của Dƣơng Thị Bích
Liên: Dân ca Xoan Ghẹo vùng văn hóa dân gian Phú Thọ; Luận văn Thạc sĩ Văn
học dân gian của Bùi Thị Lê Vân: Dân ca giao duyên trong truyền thống văn
hóa tinh thần của dân tộc Dao… Bên cạnh đó, cũng có một số tác giả đi sâu
phân tích một số bài ca dao cụ thể: Nguyễn Xuân Đức với bài “Trèo lên cây
bưởi hái hoa”, Đỗ Thị Kim Liên với bài ca dao “Tát nước đầu đình”, hay
Nguyễn Quốc Dũng với bài phân tích một câu ca dao “Một thương tóc bỏ đuôi
gà”…

12
Ket-noi.com forum công nghệ, giáo dục

Nhƣ vậy, vấn đề văn hóa ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong ca dao
ngƣời Việt mới chỉ đƣợc đề cập một cách sơ lƣợc, chứ chƣa đƣợc nghiên cứu
thành hệ thống bài bản. Vì vậy, chọn tên đề tài “Văn hóa ứng xử về tình yêu và
hôn nhân trong ca dao người Việt” là việc làm cần thiết, khoa học, không bị
trùng lặp. Việc làm của chúng tôi sẽ làm nổi rõ văn hóa ứng xử về tình yêu và
hôn nhân trong ca dao Việt, qua việc hệ thống hóa một cách chi tiết và đầy đủ
mảng ca dao tình yêu, hôn nhân trong kho tàng ca dao ngƣời Việt.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài luận văn của chúng tôi có tên là : "Văn hóa ứng xử về tình
yêu và hôn nhân trong ca dao người Việt". Vì vậy đối tƣợng nghiên cứu của
chúng tôi là thái độ ứng xử của nam, nữ trong tình yêu và thái độ ứng xử trong
mối quan hệ hôn nhân. Chúng tôi tập trung làm rõ văn hóa ứng xử của các nhân
vật trữ tình trong ca dao đƣợc biểu đạt. Đó là cách ứng xử nhìn từ quan điểm
giới đẳng cấp xã hội, tầng lớp xã hội, áp lực của dƣ luận, lề thói…, đặc biệt là
cách nhìn của ca dao đối với ngƣời phụ nữ. Trên cơ sở đó, chúng tôi có sự so
sánh cách dân gian đối xử với ngƣời phụ nữ trong chèo cổ, truyện nôm bình dân
cũng nhƣ cách những ngƣời phụ nữ đó ứng xử trong tình yêu, hôn nhân. Từ đó
có thể thấy hôn nhân và tình yêu thể hiện chuẩn mực của xã hội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tƣ liệu về ca dao rất dồi dào, phong phú, đa dạng biểu hiện ở nhiều công
trình. Nhƣng với đề tài “Văn hóa ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong ca dao
người Việt”, đối tƣợng khảo sát chính của chúng tôi là “Kho tàng ca dao người
Việt” (1995),

13
4 tập, do Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên, Nxb Văn hóa thông tin,
H. Ngoài ra chúng tôi có tham khảo thêm“Tổng tập Văn học dân gian người
Việt” (2002), Nxb khoa học xã hội, H. Đây là một công trình tập thể đƣợc biên
soạn công phu gồm 19 tập về tất cả các thể loại của văn học dân gian ngƣời Việt.
Chúng tôi sử dụng tập 15,16 (quyển thƣợng, quyển hạ) là tập nói về ca dao
ngƣời Việt. Trong quá trình tiến hành thống kê và phân tích, đối chiếu, so sánh,
chúng tôi cũng có thể sử dụng thêm một số tƣ liệu có sẵn, đƣợc trích dẫn lại
trong các công trình có liên quan. Các tƣ liệu này đều đƣợc chú thích rõ nguồn
gốc, xuất xứ.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm góp phần vào việc tìm hiểu văn hóa ứng xử của ngƣời Việt
về tình yêu và hôn nhân đƣợc phản ánh trong ca dao. Đề tài cũng khẳng định
những giá trị đã tạo nên vẻ đẹp trong văn hóa ứng xử của ngƣời Việt nói riêng
và con ngƣời Việt Nam nói chung. Từ đó phát huy những nét đẹp đó để
giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc.
4.2. Nhiệm vụ
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định nhiệm vụ
nghiên cứu của luận văn này là:
4.2.1. Tìm hiểu những tiền đề lý luận chung có liên quan đến vấn đề nghiên cứu
của luận văn.
4.2.2. Từ “Kho tàng văn học dân gian người Việt” (4 tập), chúng tôi đã tiến
hành khảo sát, phân loại, tổng hợp để lựa chọn ra những lời ca dao nói tới văn
hóa ứng xử về tình yêu và hôn nhân.

14
4.2..3. Sử dụng các phƣơng pháp thích hợp để bình giá, phân tích theo những
mục đích đã xác định.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nhằm đạt đƣợc những mục đích đặt ra để triển khai đề tài này chúng tôi
chú ý đến các phƣơng pháp chủ yếu sau :
Phương pháp thống kê phân loại : Trƣớc hết chúng tôi tiến hành thống kê
toàn bộ số lƣợng những lời ca nói về cách ứng xử trong tình yêu và hôn nhân.
Đó là cơ sở khoa học cho những nhận định, kết luận của luận văn. Qua kết quả
thống kê phân loại chúng tôi có thể rút ra những nhận xét một cách chính xác,
khách quan và khoa học.
Phương pháp phân tích, tổng hợp - bình: Trên cơ sở của việc thống kê,
phân loại, chúng tôi tiến hành phân tích, hệ thống hóa. Dựa vào kết quả của sự
phân tích, chúng tôi sẽ tổng hợp để rút ra những kết luận khái quát. Trong quá
trình đó chúng tôi có sử dụng phƣơng pháp bình. Đây không phải là phƣơng
pháp chủ yếu mà đây chỉ là cách tiếp cận sâu hơn khi cần khái quát tƣ duy của
các tác giả dân gian.
Ngoài những phƣơng pháp cơ bản trên đây, trong quá trình nghiên cứu
chúng tôi còn vận dụng một số phương pháp liên ngành.
6. Dự kiến đóng góp
Việc làm của chúng tôi sẽ làm nổi rõ văn hóa ứng xử về tình yêu và hôn
nhân trong ca dao Việt, qua việc hệ thống hóa một cách chi tiết và đầy đủ mảng
ca dao tình yêu, hôn nhân trong kho tàng ca dao ngƣời Việt. Bên cạnh đó, góp
phần gìn giữ và phát huy những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc để
khẳng định sự bền vững của bản sắc văn hóa dân tộc trong văn hóa ứng xử. Từ

15
đó để ta có cái nhìn đúng đắn về tình yêu, hôn nhân trong cuộc sống hiện đại và
đây là điều thực sự cần thiết cho giới trẻ ngày nay.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các chữ viết tắt, Tài liệu tham
khảo, Phụ lục, Luận văn này gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề chung
1.1. Tổng quan về văn hóa ứng xử
1.2. Ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong văn hóa Việt Nam
1.3. Văn hóa ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong ca dao từ góc nhìn thể
loại
Chương 2: Văn hóa ứng xử trong tình yêu
2.1. Tình yêu hạnh phúc
2.2. Tình yêu đau khổ
2.3. Tình yêu đơn phương
2.4. Những ước mong trong tình yêu
Chương 3: Văn hóa ứng xử trong hôn nhân
3.1. Ứng xử trong quan hệ vợ chồng
3.2. Ứng xử trong mối quan hệ khác

16
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Tổng quan về văn hóa và ứng xử
“Văn hóa ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong ca dao người Việt” tự
giới hạn trong một phạm vi nhỏ của văn hóa, quan hệ về tình yêu nam nữ, về
quan hệ hôn nhân ( trong đó có quan hệ vợ chồng, mẹ chồng nàng dâu, anh em
họ hàng …). Từ “văn hóa” có rất nhiều nghĩa:
Văn hóa “là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử (kho tàng văn hóa dân tộc, văn hóa
phương Tây); những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống
tinh thần nói chung (sinh hoạt văn hóa văn nghệ); tri thức, kiến thức khoa học
(học văn hóa, trình độ văn hóa); trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện
của văn minh (người thiếu văn hóa, cư xử rất có văn hóa, gia đình văn hóa);
tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần của một thời kì lịch sử cổ
xưa, được xác định trên một tổng thể những di vật tìm thấy được có những đặc
điểm giống nhau (văn hóa Đông Sơn, văn hóa Sa Huỳnh)”. [54, tr 1705]
Tác giả Đoàn Văn Chúc cho rằng: “Văn hóa – vô sở bất tại: Văn hóa -
không nơi nào không có!”[7]. Điều này cho thấy tất cả những sáng tạo của con
ngƣời trên nền của thế giới tự nhiên là văn hóa, nơi nào có con ngƣời nơi đó có
văn hóa.
Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu
cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá
trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên và xã hội của mình”[60].
Theo nhà nghiên cứu Trần Quốc Vƣợng, định nghĩa về văn hóa có thể tạm
quy ƣớc về hai loại. “Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng như lối sống, lối suy nghĩ,

17
lối ứng xử… Văn hóa hiểu theo nghĩa hẹp như văn học, văn nghệ, học vấn… và
tùy theo từng trường hợp cụ thể mà có những định nghĩa khác nhau” [71, tr.22].
Theo tổ chức giáo dục và khoa học của Liên Hiệp Quốc UNESCO: “Văn
hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí
tuệ và xúc cảm, quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người
trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống,
những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và
những tín ngưỡng: Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân.
Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có
lí tính, có óc phê phán và dấn thân mọt cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con
người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa
hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết
mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản
thân” [71, tr.23] . Điều đó cũng có nghĩa là “văn hóa bao gồm tất cả những gì
làm cho dân tộc này khác với dân tộc kia”.
Nhƣ vậy, có thể thấy rằng: văn hóa là tất cả những giá trị vật thể do con
ngƣời sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên. Văn hóa là sản phẩm của loài
ngƣời, đƣợc tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con ngƣời và xã hội,
đƣợc truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa, đƣợc
tái tạo, phát triển trong quá trình hành động và tƣơng tác xã hội của con ngƣời.
Nói cách khác, văn hóa là trình độ phát triển của con ngƣời và của xã hội đƣợc
biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con
ngƣời cũng nhƣ trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con ngƣời tạo ra.
Ứng xử là một biểu hiện của giao tiếp, là sự phản ứng của con ngƣời trƣớc
sự tác động của ngƣời khác với mình trong một tình huống nhất định đƣợc thể

18
hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng của con ngƣời nhằm đạt kết quả
tốt trong mối quan hệ giữa con ngƣời với nhau. Xét trên bình diện nhân cách thì
bản chất của ứng xử chính là những đặc điểm tính cách của cá nhân đƣợc thể
hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ và cách nói năng của cá nhân với những ngƣời
chung quanh.
Theo GS Hoàng Phê, ứng xử là “thể hiện thái độ, hành động thích hợp
trước những việc có quan hệ giữa mình với người khác” [54, tr 1691]. Hành vi
ứng xử văn hóa là những biểu hiện hoạt động bên ngoài của con ngƣời, đƣợc thể
hiện ở lối sống, nếp sống, suy nghĩ và cách ứng xử của con ngƣời đối với bản
thân, với những ngƣời chung quanh, trong công việc và môi trƣờng hoạt động
hằng ngày. Tuy nhiên hành vi ứng xử văn hóa của mỗi cá nhân là khác nhau, nó
đƣợc hình thành qua quá trình học tập, rèn luyện và trƣởng thành của mỗi cá
nhân trong xã hội. Hành vi ứng xử văn hóa đƣợc coi là các giá trị văn hóa, đạo
đức, thẩm mỹ của mỗi cá nhân đƣợc thể hiện thông qua thái độ, hành vi, cử chỉ,
lời nói của mỗi cá nhân đó. Nó đƣợc biểu hiện trong mối quan hệ với những
ngƣời chung quanh, trong học tập, công tác, với bạn bè cùng trang lứa và thậm
chí ngay cả với chính bản thân họ.
Theo lời phát biểu của ông De Cuella, nguyên Tổng giám đốc UNESCO
nhân buổi tổng kết thập kỉ văn hóa (1987 – 1997) của Liên Hợp Quốc: “Văn hóa
là cách sống (cách ứng xử) cùng nhau”. Nhƣ vậy nghĩa là nghiên cứu ứng xử
cũng là nghiên cứu văn hóa, cách sống. Ứng xử là hệ thống các quan hệ tƣơng
tác, các phản ứng đƣợc thực hiện bởi các vật thể sống, kể cả con ngƣời để thích
nghi với môi trƣờng.
Có thể nói, văn hóa là toàn bộ những truyền thống hƣớng dẫn hành xử mà
các cá nhân trong một xã hội đƣợc xã hội đó trao truyền bằng những hình thức

19
học tập khác, đa dạng. Điều này cần bắt đầu ngay từ nhỏ, đƣợc nhập thân văn
hóa từ khi còn trong bụng mẹ. Ra đời, đƣợc 12 bà mụ dạy ăn, nói, gói, mở và tự
rèn luyện bằng cách học tập suốt đời. Ứng xử của con ngƣời ở các nƣớc, các
vùng khác nhau thì không giống nhau do nền văn hóa khác nhau. Còn ứng xử
của loài vật thì khắp nơi hầu nhƣ giống nhau vì loai vật không có văn hóa. Điều
này có nghĩa là trong những thời đại khác nhau thì văn hóa ứng xử của con
ngƣời cũng có sự thay đổi.
1.2. Ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong văn hóa Việt Nam
1.2.1. Ứng xử về tình yêu trong văn hóa Việt Nam
Tình yêu và hôn nhân là hai vấn đề hầu nhƣ luôn đi đôi với nhau, gắn bó
và tƣơng quan chặt chẽ với nhau nhƣ một. Tình yêu là một tình cảm thiêng liêng,
cao đẹp của con ngƣời nên tình yêu đòi hỏi cung cách ứng xử cũng phải cao đẹp
để tƣơng ứng với nó. Từ cách xƣng hô đến hò hẹn, cả khi trách cứ giận hờn cũng
phải mang màu sắc đặc thù của tình yêu. Nếu chúng ta xử sự một cách suồng sã
thì dù có yêu nhau đến đâu chăng nữa cũng chỉ là một thứ tình yêu thiếu văn hóa.
Do tình yêu là bản chất thiêng liêng và tự nhiên của con ngƣời cho nên dù
ở thời đại nào, tình yêu bao giờ cũng là đề tài bất tận cho những áng văn chƣơng.
Việt Nam chúng ta từ ngàn xƣa là một quốc gia nông nghiệp. Với hình thể chữ S
mềm mại uốn cong ven bờ Thái Bình Dƣơng, với cảnh vật thiên nhiên kỳ thú
nhƣ cỏ cây hoa lá, nhƣ núi cả sông sâu, nhƣ lũy tre xanh, nhƣ đồng ruộng óng ả
lúa vàng,... hòa với tâm tình và lịch sử của dân tộc, quê hƣơng Việt Nam có một
nền văn chƣơng bình dân hay bác học hết sức phong phú đầy nét vẽ chân thành
pha lẫn những điểm tế nhị và sâu sắc. Trong cái tình cảm đa dạng đó của dân tộc,
tình yêu nam nữ đã vƣơn lên nhƣ cánh hoa nở trong vƣờn đời, tạo nên biết bao
câu ca dao tình tứ , bao vần thơ truyền khẩu lãng mạn.

20
1.2.2. Ứng xử về hôn nhân trong văn hóa Việt Nam
Hôn nhân là một trong những việc quan trọng của cuộc đời mỗi con
ngƣời. Hôn nhân tốt đẹp sẽ đem lại hạnh phúc bền vững, cuộc sống gia đình hòa
thuận, êm ấm. Hôn nhân là phƣơng thức để xây dựng, duy trì, củng cố và phát triển
gia đình, nó vừa liên quan chặt chẽ tới toàn bộ hệ thống xã hội, ảnh hƣởng trực tiếp
thƣờng xuyên đến cuộc sống của mỗi cá nhân, vừa là biểu hiện sinh động sắc thái
của văn hóa tộc ngƣời. Vì vậy, hôn nhân không chỉ là sự thừa nhận tính hợp pháp
của quan hệ giới tính mà còn mang nhiều ý nghĩa văn hóa - xã hội khác.
Trong xã hội truyền thống của ngƣời Việt, hôn nhân là việc của hai bên cha
mẹ, hai họ dựng vợ gả chồng cho con cái. Có thể lý giải rằng tục lệ này xuất phát từ
quyền lợi tập thể, mà trƣớc hết là quyền lợi của gia tộc, rồi tới đáp ứng các quyền
lợi làng xã. “Nhìn chung, lịch sử truyền thống hôn nhân của Việt Nam luôn là lịch
sử hôn nhân vì lợi ích của tập thể, của cộng đồng: Từ những cuộc hôn nhân nổi
danh như Mỵ Châu với Trọng thủy, công chúa Huyền Trân với vua Chăm Chế
Mân, công chúa Ngọc hân với Nguyễn Huệ…, rồi vô số những cuộc hôn nhân của
các con vua cháu chúa qua các triều đại được triều đình gả bán cho tù trưởng các
miền biên ải nhằm củng cố đường biên giới quốc gia; cho đến tuyệt đại bộ phận
các cuộc hôn nhân vô danh của thường dân – tất cả đều là làm theo ý nguyện của
các tập thể cộng đồng lớn nhỏ, lớn là quốc gia, nhỏ là gia tộc” [60, tr. 256 – 259].
Đối với tộc ngƣời Việt việc duy trì dòng dõi là hết sức quan trong, nên khi xem xét
đến con ngƣời trong hôn nhân, trƣớc hết ngƣời ta quan tâm đến khả năng sinh sản
của ngƣời con gái. Vì vậy, kén dâu, lấy vợ thì phải chọn:
“Đàn bà đáy thắt lưng ong
Vừa khéo chiều chồng, vừa khéo nuôi con”.

21
Ngƣời vợ còn phải đảm đang tháo vát, đem lại nguồn lợi vật chất cho nhà chồng, còn
ngƣời chồng phải là ngƣời tài ba để đem lại vinh quang (nguồn lợi tinh thần) cho gia
đình vợ , nên:
“Trai khôn kén vợ chợ đông
Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân”.
Đôi khi do sự chi phối của chế độ gia trƣởng phụ quyền, bố mẹ chọn vợ, chọn
chồng cho con lại quan tâm nhiều đến lợi ích kinh tế và địa vị xã hội (môn đăng, hộ
đối).
Trong xã hội ngƣời Việt cổ truyền khá phổ biến hiện tƣợng ép duyên, xuất
phát từ quan điểm hôn nhân vị mƣu sinh. Mặt khác, cũng có quan điểm hôn nhân vị
tình cảm. Có lẽ đây mới là quan điểm chủ đạo, phù hợp với truyền thống trọng tình
của ngƣời Việt. Vì vậy, ép duyên là cách ứng xử có tồn tại trong xã hội song không
đƣợc coi nhƣ một giá trị văn hóa, mà là một hiện tƣợng cần phê phán. Từ những
nhận xét trên ta thấy cách ứng xử bị ảnh hƣởng tƣ tƣởng Nho giáo với những quan
điểm "môn đăng hộ đối", "lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống" tuy có tồn tại
trong xã hội Việt Nam, song nó không bắt rễ sâu chắc nhƣ quan niệm bản địa vốn
trọng tình. Còn trong cuộc sống gia đình, ứng xử trong gia đình ngƣời Việt đƣợc
dựa trên nền tảng tình cảm hết sức vững chắc, tốt đẹp: vợ chồng đầu gối tay ấp. Mối
quan hệ đó thật bền chặt, gắn bó, thiêng liêng và sâu sắc.
Quan hệ vợ chồng là quan hệ gắn bó từ hai phía, phụ thuộc từ hai phía, vì
nhau và luôn cậy nhờ lẫn nhau. “Đạo vợ chồng cư xử với nhau, trọng nhất là hai
chữ hòa thuận […] có hòa thuận với nhau thì việc khó đến đâu cũng làm nên được.
Người chồng trọng nhất là phải giữ nghĩa với vợ, mà vợ thì phải giữ tiết với
chồng”. [4, tr.84]. Xuất phát từ quan điểm gắn bó và bình đẳng này, ngƣời phụ nữ
trong gia đình truyền thống ngƣời Việt có vai trò rất đặc biệt. Của cải trong gia đình

22
là của chung: của chồng, công vợ; mọi việc trong gia đình phải: thuận vợ, thuận
chồng. Ngƣời đàn bà là tay hòm chìa khóa và còn đóng vai trò quan trọng trong sự
nghiệp của chồng: “Người vợ trên phải phụng dưỡng cha mẹ chồng, có khi phải
nuôi cả chồng; giữa thì giúp chồng lo lắng công kia việc khác, gánh vác giang sơn
nhà cho chồng; dưới thì săn sóc nuôi con, thế mới là nội trợ”. [4, tr.85].
Nhƣ vậy, ngƣời vợ trong gia đình có vị trí đƣợc tôn trọng, bình đẳng với
ngƣời chồng. Mặt khác, trong cuộc sống gia đình, phƣơng châm ứng xử của ngƣời
vợ cũng lại rất khéo léo theo kiểu “lạt mềm buộc chặt”. Đây thực sự là một phƣơng
châm ứng xử tuyệt vời của những ngƣời vợ Việt Nam, xuất phát từ đặc trƣng trọng
hòa hiếu, trọng cuộc sống cộng đồng. Theo truyền thống này, con ngƣời luôn muốn
hòa hợp, thích nghi với nhau để cùng chung sống. Nếu không có cách ứng xử mềm
mại, hợp lý thì làm sao có đƣợc gia đình êm ấm và hạnh phúc đƣợc? Sự nhún
nhƣờng trong ứng xử của ngƣời vợ không phải là sự hạ thấp phẩm giá của ngƣời
phụ nữ, mà là một nét đẹp trong văn hóa ứng xử của ngƣời Việt.
- Có con phải lụy vì con,
Có chồng phải gánh giang san nhà chồng.
- Chồng tôi áo rách tôi thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người.
Những phân tích trên đây cho thấy một điều khá thú vị, mặc dù đã từng là tƣ
tƣởng của ngƣời Việt trong nhiều thế kỷ, song Nho giáo dƣờng nhƣ không bắt rễ
sâu vào tầng lớp bình dân, ít nhất cũng trong quan hệ hôn nhân. Mối quan hệ bình
đẳng dựa trên cơ sở tình cảm gắn bó, quan tâm lẫn nhau nhƣ ta thấy ở trên thật khác
xa với gia đình gia trƣởng của Nho giáo, trong đó vai trò của ngƣời vợ hoàn toàn là
phụ thuộc và thụ động. Hiện tƣợng này có thể lý giải đƣợc nếu nhƣ xem xét hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam.

23
- Thứ nhất, Nho giáo thâm nhập vào Việt Nam trong điều kiện xã hội Việt
Nam có nhiều nét khác biệt với xã hội Trung Quốc.
- Thứ hai, với nền sản xuất tiểu nông: Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa , vai
trò của ngƣời vợ bình đẳng với ngƣời chồng là hoàn toàn dễ hiểu. Mặt khác, ngƣời
vợ còn là ngƣời quản lý gia đình, chăm sóc con cái, gia súc, trong khi ngƣời chồng
làm các công việc đồng áng khác. Đây là cách phân công lao động phù hợp và hiệu
quả đối với nền sản xuất tiểu nông, là cơ sở để phát sinh truyền thống trọng phụ nữ
của ngƣời Việt. Truyền thống này lại đƣợc bảo lƣu trong môi trƣờng khép kín của
làng quê với lối ứng xử theo kiểu: Phép vua thua lệ làng. Do đó, Nho giáo có thể
thâm nhập vào bề nổi của cuộc sống thông qua các cấp quản lý hành chính, chứ
không bắt rễ sâu vào tâm thức dân gian.
Tóm lại, ứng xử trong hôn nhân của ngƣời Việt có những nét bản sắc trong
văn hóa. Đó là cách lựa chọn đối tƣợng hôn nhân tƣơng hợp dựa trên nhân cách và
tình cảm, là mối quan hệ gia đình bình đẳng, gắn bó giữa chồng và vợ, là vai trò của
ngƣời phụ nữ đƣợc tôn trọng với những cách ứng xử nhằm bảo đảm sự hòa thuận
êm ấm trong gia đình... Đó chính là tinh hoa trong đạo lý sống của ngƣời Việt đƣợc
bảo lƣu qua nhiều thế hệ nhƣ những giá trị trƣờng tồn và mang đậm bản sắc của dân
tộc Việt.
1.3. Văn hóa ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong ca dao từ góc nhìn thể
loại
Ca dao là một thể loại trữ tình của văn học dân gian, là cả một thế giới
muôn màu muôn vẻ, đem đến cho ngƣời dân xƣa và cho chúng ta ngày nay biết
bao tri thức, biết bao bài học trong lao động sản xuất, trong ứng xử, củng cố cho
con ngƣời niềm tin vào điểu thiện, khơi dậy niềm tự hào về quê hƣơng đất nƣớc.

24
Ca dao về tình yêu và hôn nhân trƣớc hết là những sáng tác của những
ngƣời lao động. Tất nhiên đây không phải thơ ca lao động vì nhịp điệu, tiết tấu
của nó không phụ thuộc vào động tác lao động, song nó lại ra đời trên cơ sở lao
động, gắn liền với môi trƣờng sinh hoạt lao động của nhân dân. Điều này cũng
tƣơng đồng với các sáng tác dân gian khác nhƣ truyện nôm bình dân, chèo cổ…
Tuy nhiên, cách ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong ca dao khác với cách ứng
xử trong chèo cổ và truyện nôm cũng về lĩnh vực này.
Trƣớc hết là cách ứng xử trong chèo cổ. Với khuôn khổ luận văn, chúng
tôi chỉ khảo sát cách ứng xử của các nhân vật nữ để đƣa ra sự so sánh. Các nhà
nghiên cứu ta đã chia nhân vật nữ trong chèo cổ ra làm hai nhóm cơ bản: nhóm
nữ thuận (nữ chín) và nhóm nữ nghịch (nữ lệch).
Nhóm nữ thuận – là những ngƣời phụ nữ tuân theo mọi quy định của lễ
giáo phong kiến : tứ đức, tam tòng, đảm đang, nết na, chung thủy... Họ là tấm
gƣơng trong sáng cho mọi ngƣời soi vào học tập, noi theo. Đó là Trinh Nguyên
trong vở Tôn Mạnh – Tôn Trọng, một ngƣời phụ nữ trẻ đẹp, nết na, đã tình
nguyện chọn đứa con trai mình dứt ruột đẻ ra để chết thay con chồng, góp phần
phủ định quan niệm sai về ngƣời phụ nữ Việt Nam dƣới thời phong kiến về mối
quan hệ mẹ ghẻ con chồng. Đó là Thị Phƣơng trong vở Trương Viên, 18 năm vất
vả, vẫn một lòng thủy chung với chồng nơi xa, vẫn thành tâm nuôi mẹ chồng hết
mực, góp phần phủ định quan niệm sai về quan hệ mẹ chồng nàng dâu dƣới thời
phong kiến. Đó là Châu Long trong vở Lưu Bình – Dương Lễ đi nuôi bạn thay
chồng nhƣng vẫn giữ đƣợc đạo vợ chồng thủy chung, nghĩa bạn bè trong sáng, là
hình mẫu cao đẹp để phủ định quan niệm sai lầm dƣới thời phong kiến là: “Lửa
gần rơm lâu ngày cũng bén”. Đó là Thị Kính trong vở Quan Âm Thị Kính chịu
oan khuất giết chồng, tằng tịu với ả Thị Màu để có con.

25
Có thể thấy hành động của những nhân vật thuộc nhóm nữ thuận trên đã
thể hiện thái độ ứng xử của ngƣời phụ nữ xƣa trong mối quan hệ tình yêu và gia
đình rõ nét: Đối với chồng thì thủy chung son sắt, với mẹ chồng thì yêu kính
hiếu thảo, với con riêng của chồng cũng chăm sóc yêu thƣơng… Phẩm chất của
ngƣời phụ nữ xƣa đã đƣợc chèo cổ đề cao và khẳng định trong việc gìn giữ hạnh
phúc gia đình, trong đạo lí làm ngƣời, trong văn hóa xã hội theo truyền thống
Việt. Thái độ ứng xử đó cũng giống với cách ứng xử của ngƣời phụ nữ truyền
thống trong ca dao.
Tuy nhiên, cách ứng xử của nhân vật thuộc nhóm nữ nghịch (bao gồm
những ngƣời phụ nữ có tƣ duy, tình cảm, hành động trái với lễ giáo phong kiến,
không tuân theo phép tắc của Thánh hiền) lại có phần mạnh mẽ, rõ ràng hơn so
với một số nhân vật nữ “cá tính” và “nổi loạn” của ca dao. Trong ca dao, ngƣời
phụ nữ đôi khi bày tỏ thái độ bất cần, phủ nhận về chữ “trinh”, lẳng lơ, đàng
điếm. Điều này dẫn tới hệ quả là trong ca dao, khuyết điểm bị nhắc tới nhiều
nhất của ngƣời phụ nữ là thói lẳng lơ, không chính chuyên. Thói xấu ấy đƣợc
nhắc đến với những cảnh huống khác nhau nhƣ: khi ở với chồng thì dành “quả
ngọt” cho “trai”, đang sống với chồng cũng “nom chồng người”, khi xa chồng
thì “Nhớ chồng thì ít nhớ trai thì nhiều”. Thậm chí tới mức “Loạn trôn từ thuở
vắng chồng tới nay”, hay bị chồng đánh vì “ve ông lái mành”, hoặc ngông
cuồng tới mức:
- “Chữ trinh đáng giá nghìn vàng
Từ anh chồng cũ đến chàng là năm
Còn như yêu vụng dấu thầm
Họp chợ trên bụng đến trăm con người”.

26
Những biểu hiện trên trong ca dao cho thấy dƣới xã hội phong kiến, ngƣời phụ
nữ dám bung phá để đƣợc sống theo sở thích riêng, mặt khác còn cho thấy dƣ
luận hết sức quan tâm và khắt khe đối với ngƣời phụ nữ. Điều này vừa biểu hiện
sự áp chế của lễ giáo phong kiến đối với ngƣời phụ nữ, vừa thể hiện sự chống
đối của ngƣời phụ nữ với chính lễ giáo ấy.
Trong khi đó, những ngƣời phụ nữ ở chèo cổ lại có cách ứng xử quyết liệt
hơn. Đó là nàng Xúy Vân trong vở Kim Nham đã giả điên để ruồng rẫy chồng và
đi theo gã sở khanh Trần Phƣơng; là Thị Màu trong vở Quan Âm Thị Kính đã lên
chùa ghẹo tiểu Kính, về nhà ngủ với ngƣời ở là anh Nô rồi có con, không sợ cha,
sợ mẹ, sợ làng xóm, sợ phạt vạ của xã; là Thiệt Thê trong vở Chu Mãi Thần bỏ
chồng làm thiếp của Tuần Ty. Việc làm của những nhân vật nữ ấy đều đi ngƣợc
lại đạo lí cƣơng thƣờng “tam tòng tứ đức”, nhƣng thể hiện thái độ muốn phá tan
mọi ràng buộc của phong kiến đƣơng thời để đi tìm quyền tự do yêu đƣơng.
Tuy nhiên, cũng thông qua hành động, nhân cách của nhóm nữ
nghịch này, chúng ta thấy dân gian không hề ghét bỏ, căm giận họ nhƣ loại nhân
vật phản diện ở Tuồng hoặc Kịch nói, mà ngƣợc lại, có phần hào hứng, ủng hộ,
hùa theo và yêu thích nữa. Nguyên nhân của hiện tƣợng này bởi nhóm nữ
nghịch đã trở thành phƣơng tiện phản phong trực diện của các tác giả dân gian
đối với lễ giáo phong kiến. Nếu nhóm thứ nhất – là những phụ nữ thuận theo lễ
giáo phong kiến mà không đƣợc hạnh phúc, thì nhóm thứ hai là hành động mang
tinh thần nổi loạn, đập phá, phủ định để tự giải thoát mình theo “lễ giáo” của
mình. Đây cũng là một phần nguyên nhân để lý giải tại sao cách ứng xử của
ngƣời phụ nữ trong chèo cổ lại mạnh mẽ, quyết liệt hơn cách ứng xử của ngƣời
phụ nữ trong ca dao.

27
Tiếp đó là cách ứng xử trong truyện nôm bình dân. Nhân vật nữ trong
truyện nôm bình dân thƣờng là những nàng công chúa hoặc tiểu thƣ con nhà
khuê các. Đặc điểm chung của họ là xinh đẹp về ngoại hình, tốt đẹp về bản chất,
đặc biệt là lòng thủy chung tuyệt đối. Cách thức ứng xử của họ về vấn đề tình
yêu và hôn nhân, theo chúng tôi đƣợc thể hiện nhƣ sau:
Đầu tiên là thái độ chủ động trong tình yêu và hôn nhân. Có lẽ đúng là
phái đẹp nhạy cảm hơn nên họ phát hiện ra trƣớc nhịp đập trái tim mình hoà điệu
với chàng trai ngay từ những giây phút đầu tiên. Dù biết ngƣời ấy nghèo khổ, đi
ăn mày, các cô không chỉ giúp đỡ về vật chất mà trong lòng còn cảm nhận ngay
đƣợc mối duyên tiền định. Công chúa Bạch Hoa (Truyện Lý Công) dù chƣa một
lần gặp mặt nhƣng khi nghe Thị Hƣơng kể về Lý Công, nàng liền “động lòng
thương” rồi đích thân may áo gấm thêu hoa cho chàng. Nàng đã lấy lí do “giảng
kinh sách” để cho chàng vào cung “sớm vào thì tối lại ra”. Tuy nhiên, giữa hai
ngƣời vẫn là một mối tình trong sáng. Chúng ta thấy, hành động của công chúa
thật táo bạo, nàng dám vƣợt qua rào cản Nho giáo đến với tình yêu. Hay nàng
Ngọc Hoa (Phạm Tải Ngọc Hoa) chƣa nghe Phạm Tải kể hết gia cảnh đã “tự
nhiên chuyển động bời bời lòng hoa” rồi chủ động nói lời ƣớc hẹn.
Có thể thấy, dù ít nhiều bị ngoại cảnh chi phối, các cô gái trong truyện
nôm bình dân vẫn là ngƣời mạnh dạn đến trƣớc với ngƣời mình yêu. Sự chủ
động này cũng thấy được ở các cô gái trong ca dao, tuy nhiên, cách thức biểu
hiện lại có nét khác biệt lớn. Ở ca dao, các cô gái bày tỏ tình cảm với ngƣời
mình yêu cũng chỉ dừng lại ở cách nói vòng vo, xa xôi. Khi muốn tỏ tình với
chàng trai, cô gái thƣờng mƣợn những vật hay việc khác để đƣa đẩy, bóng gió,
nhƣ: mƣợn việc lao động để thăm dò ý tứ, lấy cớ chăm sóc mẹ già để nói việc
gắn bó trăm năm, mƣợn những sự vật xung quanh nhƣ khăn, áo, yếm để kín đáo

28
bày tỏ lòng mình… Cũng có khi, vƣợt ra khuôn khổ lễ giáo phong kiến, bất chấp
quan niệm “cọc đi tìm trâu”, các cô mạnh dạn bày tỏ:
“Anh về anh cho em theo
Tiền cưới mặc họ, tiền cheo mặc làng”
Tuy nhiên, những câu ca thuộc loại này cũng không nhiều.
Nhân vật nam trong truyện nôm bình dân thƣờng là những ngƣời mồ côi,
con nhà nghèo khổ, hoặc con nhà quyền quý trong quá khứ nhƣng gia đình lâm
vào cảnh đại nạn, cuộc sống hiện tại vô cùng khó khăn. So với sự mạnh dạn chủ
động của các cô gái thì các chàng có vẻ rụt rè, nhút nhát. Xét đến cuộc đấu tranh
bảo vệ hạnh phúc gia đình, phái mạnh cũng tỏ ra không “mạnh” bằng phái yếu.
Trong khi đó, cách ứng xử của chàng trai trong ca dao lại mạnh mẽ, chủ động
và nam tính hơn nhiều. Trong tình yêu, ngƣời con trai thƣờng là ngƣời chủ động
nói lời yêu và lời tỏ tình của họ cũng thẳng thắn, quyết liệt hơn so với cách tỏ
tình của nữ giới:
- “Thoạt vào anh nắm cổ tay
Anh hỏi câu này có lấy anh không?”
- “Cô kia cắt cỏ một mình
Cho tôi cắt với chung tình làm đôi
Cô còn cắt nữa hay thôi
Cho tôi cắt với làm đôi vợ chồng”.
Cách tỏ tình của các chàng có thể trực tiếp, có khi xa xôi vòng vo đƣa đẩy,
nhƣng tất cả đều thể hiện chất lãng mạn, yêu đời và đặc biệt thể hiện rõ vai trò
của “phái mạnh”.

29
Cách tỏ tình của các chàng có thể trực tiếp, có khi xa xôi vòng vo đƣa đẩy,
nhƣng tất cả đều thể hiện chất lãng mạn, yêu đời và đặc biệt thể hiện rõ vai trò
của “phái mạnh”.
Tóm lại, ở chèo cổ, truyện nôm bình dân hay ca dao, văn hóa ứng xử về
tình yêu và hôn nhân của các nhân vật đều gặp gỡ nhau ở nhiều điểm: thái độ
chủ động trong tình yêu, lòng thủy chung son sắt trong mối quan hệ vợ chồng, sự
hiếu kính đối với cha mẹ…, nhƣng mức độ thể hiện khác nhau. Cụ thể, biểu hiện
của các nhân vật trong ca dao có phần ý nhị, kín đáo hơn so với chèo cổ và đặc
biệt là so với truyện nôm bình dân. Điểm khác biệt này có đƣợc xuất phát từ đặc
trƣng của thể loại, bởi ca dao là thể trữ tình dân gian, nên cách thức biểu hiện
cũng ý nhị hơn.
Tiểu kết chương 1
Trên đây chúng tôi vừa trình bày những vấn đề mang tính khái quán nhất
làm cơ sở cho những nghiên cứu về đối tƣợng trong luận văn của mình. Có thể
thấy, văn hóa ứng xử về tình yêu và hôn nhân trong ca dao ngƣời Việt có nét đặc
trƣng cơ bản là sự gắn bó, thuỷ chung nồng thắm. Ngƣời Việt xây dựng quan hệ
tình yêu và vợ chồng trên cơ sở yêu thƣơng nhau ở tính nết. Tình yêu ấy đƣợc
thử thách qua việc họ cùng nhau chịu cảnh nghèo, cùng lao động, sống chung
thủy với nhau. Đặc biệt, sự gắn bó trong quan hệ vợ chồng ngƣời Việt còn thể
hiện ở đặc điểm: càng xa cách càng gắn bó, gắn bó trong lao động.
Bên cạnh đó, có một số các câu ca có nội dung biểu hiện thái độ chống lại
triết thuyết Khổng Mạnh, tiêu biểu nhƣ:
- Ngƣời phụ nữ chống lại chế độ phụ quyền: họ mỉa mai, nổi loạn, đạp đổ
oai quyền của đàn ông, đem thói hƣ tật xấu của đàn ông ra châm biếm nhƣ: đàng

30
điếm, không đứng đắn, cờ bạc hoang tàn, tham ăn, ham sắc dục… Đây cũng là
một cách tấn công vào chế độ phong kiến.
- Tình thƣơng của ngƣời phụ nữ đặt lên trên quyền điều khiển của cha mẹ,
tuy vậy sự chống đối ý thức “tại gia tòng phụ” này chƣa quyết liệt.

31
CHƢƠNG 2: VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG TÌNH YÊU
Tình yêu nam nữ là chủ đề chiếm số lƣợng lớn và có nội dung phản ánh
hết sức phong phú trong ca dao. Có thể nói, tâm hồn tình cảm của con ngƣời là
thế giới vô số những cảm nghĩ dung hợp, đan xen, hòa quyện với nhau. Tình yêu
với những rung động ngọt ngào là dạng cảm xúc mà con ngƣời khó có thể giãi
bày bằng ngôn ngữ giao tiếp thông thƣờng. Ca dao đã cho ta thấy trai gái gặp gỡ,
tìm hiểu nhau, thổ lộ tình cảm với nhau trong khi lao động, hội hè đình đám, vui
xuân. Trong cuốn: “Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam”, tác giả Vũ Ngọc Phan
nói rằng: “Có thể nói muốn hiểu biết tình cảm của nhân dân Việt Nam xem dồi
dào, thắm thiết, sâu sắc đến mức độ nào, rung động nhiều hơn cả ở những khía
cạnh nào của cuộc đời thì không thể không nghiên cứu ca daoViệt Nam”. Mà
“Trong ca dao Việt Nam, những bài ca về tình yêu nam nữ nhiều hơn cả, những
nỗi lo lắng trong khi muốn bảo vệ mối tình chung thủy, những đau thương khi
xảy ra những cản trở cho ước nguyện không thành...”[52]. Tất cả đã tạo nên
những cung bậc của tình yêu. Đó là những tình cảm thắm thiết trong hoàn cảnh
may mắn, hạnh phúc với những niềm ƣớc mơ, những nỗi nhớ nhung da diết;
hoặc đó là cảm xúc nảy sinh trƣớc những tình huống rủi ro, ngang trái, thất bại,
khổ đau với những lời than thở, oán trách. Qua ca dao, giá trị truyền thống và
tâm hồn ngƣời Việt Nam đƣợc thể hiện và lƣu giữ một cách rõ nét nhất. Bằng
những tình yêu lành mạnh, tình cảm tự nhiên đƣợc miêu tả một cách sinh động
trong ca dao Việt Nam. Cũng qua đó đã cho ta thấy sự hà khắc của lễ giáo phong
kiến trƣớc đây. Không những thế, một số bài ca dao đã phản ánh tinh thần đấu
tranh để bảo vệ tình yêu chân chính của các bạn thanh niên thời bấy giờ.
Để làm rõ cách ứng xử của nam nữ thanh niên trong ca dao về tình yêu đôi
lứa, chúng tôi sẽ lần lƣợt khảo sát thông qua các góc độ cũng nhƣ giai đoạn trong

32
tình yêu. Theo nhà nghiên cứu Hoàng Tiến Tựu thì tình yêu đôi lứa trong ca dao
đƣợc trình bày qua bốn thể loại nhỏ biểu trƣng cho các giai đoạn trong tình yêu:
ca dao tỏ tình, ca dao tƣơng tƣ, ca dao thề nguyền, ca dao hận tình. Theo Đinh
Gia Khánh: “ca dao, dân ca trữ tình về tình yêu nam nữ có nội dung phản ánh
được mọi biểu hiện của tình yêu trong tất cả những chặng đường của nó: giai
đoạn gặp gỡ ướm hỏi nhau, giai đoạn gắn bó trao đổi những lời thề nguyền,
những tặng vật cho nhau, giai đoạn hạnh phúc với những niềm ước mơ, những
nỗi nhớ nhung hoặc sự thất bại đau khổ với những lời than thở, oán trách…”
[20, tr.447]. Dựa trên thống kê của các tác giả Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng
Nhật chủ biên trong “Kho tàng ca dao người Việt” [32], chúng tôi tạm chia ra
các loại tình huống xảy ra trong tình yêu là tình yêu hạnh phúc, tình yêu đau khổ,
tình yêu đơn phƣơng và những ƣớc mong trong tình yêu. Trên cơ sở đó, mỗi tình
huống sẽ có những cách ứng xử khác nhau.
2.1. Tình yêu hạnh phúc
Tình yêu hạnh phúc là tình yêu mà đôi lứa yêu nhau tự nguyện, yêu và
đƣợc yêu, yêu hết mình, yêu thắm thiết.
2.1.1. Những lời tỏ tình
Trong ca dao tỏ tình có muôn vàn cách nói để chạm tới trái tim ngƣời cần
bày tỏ. Nếu tình yêu là một quá trình thì tỏ tình là giai đoạn đầu tiên. Đây là giai
đoạn cực kì khó khăn vì vạn sự khởi đầu lúc nào cũng nan giải. Nói làm sao cho
ngƣời mình thƣơng hiểu đƣợc tình cảm bấy lâu ẩn chứa trong lòng? Đời sống
đƣợc gắn liền với những hoạt động nông nghiệp thì điều kiện để tình yêu nảy nở
và gắn liền với những hình ảnh đồng ruộng, cái cày, con trâu, cây đa, giếng
nƣớc, lũy tre, sân đình. Trong hoàn cảnh khác nhau, con ngƣời sẽ chọn những
cách bày tỏ với sắc thái khác nhau, có lúc gặp trên đƣờng cất lên câu hát trêu

33
ghẹo nhau, cũng có thể gặp lần đầu muốn ƣớm hỏi thăm dò ý tứ, hoặc cũng có
khi đã quen biết nhau từ lâu. Có nhiều cách tỏ tình: có thể trực tiếp, có khi là xa
xôi, vòng vo, đƣa đẩy, nhƣng tất cả đều thể hiện đƣợc tính chất lãng mạn, yêu
đời. Đặc biệt, trong lời ca tỏ tình, có thể thấy đƣợc sự chủ động bày tỏ của cả
nam và nữ. Dựa trên chủ thể trữ tình, chúng tôi sắp xếp, phân loại những lời tỏ
tình trong ca dao lứa đôi bao gồm:

Nội dung Câu


Lời của nam và nữ 757
Lời của nữ 563
Lời của nam 938
Lời nam nữ đối đáp 285
Tổng số 2543
Theo thống kê có thể thấy lời tỏ tình của nam giới có số lƣợng nhiều nhất,
trong khi lời tỏ tình của nam nữ đối đáp chiếm số lƣợng ít nhất. Điều đó chứng
tỏ trong xã hội cổ truyền thì nam giới vẫn là ngƣời đi chinh phục, là ngƣởi chủ
động nói lời yêu. Nam giới đƣợc coi là “phái mạnh”, vì vậy lời tỏ tình của nam
giới thƣờng thẳng thắn và quyết liệt hơn so với nữ, cách tỏ tình của nữ giới thâm
trầm, kín đáo hơn. Nguyên nhân do ảnh hƣởng của lễ giáo phong kiến và khuôn
phép làng xã, với quan niệm “trâu đi tìm cọc” chứ không phải “cọc đi tìm trâu”.
Nam chủ động
Chàng trai trong ca dao thƣờng hiện lên nhƣ một anh chàng nghịch ngợm
và lém lỉnh:
- “Gặp em anh nắm cổ tay
Nhờ vá cái áo, nhờ may cái quần”.

34
- “Cô kia đứng ở bên sông
Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang”.
Cũng có khi, đó là một anh chàng rất bộc trực, hồn nhiên:
“ Thoạt vào anh nắm cổ tay
Anh hỏi câu này có lấy anh không”
Có ngƣời con trai lại kín đáo và tế nhị. Khi chƣa hiểu lòng bạn, anh vừa muốn
tìm cách làm quen, vừa muốn giãi bày tình cảm. Có thể thấy rõ lối ứng xử này
qua các bài ca dao đã đƣợc đặt tên nhƣ “Bài ca xin áo”, “Bài ca chàng thợ
mộc”... Ở “Bài ca xin áo”, chàng trai mở đầu, hỏi ngƣời thôn nữ bằng một câu
hỏi ỡm ờ, gợi ý xa xôi:
“Hôm qua tát nước đầu đình
Để quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà”.
Ngƣời con trai thật sự chƣa chắc đã để quên cái áo, nhƣng chàng cố ý gài ngƣời
thôn nữ vào thế phải trả lời khi tỏ ý ngờ rằng nàng đã giữ cái áo của mình để làm
tin. Cũng có khi chỉ là một câu hỏi bâng quơ nhƣng diễn đạt bằng những câu thơ
thật trữ tình của một đêm trăng sáng, chàng trai có nhiều hi vọng để đƣợc cô gái
trả lời:
“Hỡi cô tát nước đầu làng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”
Nhiều khi chàng mạnh dạn hơn:
“Cô kia cắt cỏ một mình
Cho tôi cắt với chung tình làm đôi
Cô còn cắt nữa hay thôi

35
Cho tôi cắt với làm đôi vợ chồng”.
Nhƣng thƣờng thì các chàng trai làng hỏi dò ý một cách nhẹ nhàng, không dùng
hai chữ “vợ chồng” nghe có vẻ suồng sã, mà dùng hai chữ “kết duyên”, có vẻ thơ
mộng hơn:
“Hỏi xa anh lại hỏi gần
Hỏi em phỏng độ đương xuân thế nào
Thấy em là gái má đào
Lòng anh chỉ muốn ra vào kết duyên”.
Cũng có khi do còn chịu ảnh hƣởng và sự ràng buộc của lễ giáo, các chàng trai
còn e ngại chƣa thƣa chuyện, chƣa đƣợc phép mẹ cha, nhƣng vẫn buông lời tỏ
tình:
“Bây giờ ướm hỏi người ngoan
Em về thưa với thầy mẹ anh muốn dan díu tình...”
Nữ chủ động
Ngƣời con gái nhỏ nhẹ, hiền lành, dù ít hay nhiều cũng chịu ảnh hƣởng
của lễ giáo phong kiến và khuôn phép làng xã. Vì thế, để bày tỏ tình cảm, họ
chọn cách nói vòng vo, xa xôi. Dù có tiếng lẳng lơ nhƣ Thị Mầu thì lời tỏ tình
vẫn kín đáo, tình tứ:
“Anh như táo rụng sân đình
Em như gái rở đi rình của chua”.
Khi muốn tỏ tình với chàng trai, cô gái thƣờng mƣợn những vật, việc khác để
đƣa đẩy, bóng gió. Khảo sát 6230 lời ca dao về tình yêu lứa đôi trong “Kho tàng
ca dao người Việt”, chúng tôi nhận thấy có 43 lời nhắc đến hình ảnh mẹ già và
việc chăm sóc mẹ già. Lấy cớ chăm sóc mẹ già, cô gái nói đến việc gắn bó trăm
năm:

36
“Anh đã có vợ con chưa
Mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào
Mẹ già anh ở nơi nao?
Để em tìm vào hầu hạ thay anh”.
Hoặc với đức tính cần cù, chịu thƣơng chịu khó, cô gái mƣợn việc lao động để
thăm dò ý tứ:
“Anh kia đi ô cánh dơi
Để em làm cỏ mồ hôi ướt đầm
Có phải đạo nghĩa vợ chồng
Thì mang ô xuống cánh đồng mà che”.
Chăm chỉ, giỏi vun vén gia đình, các cô gái sẽ là hậu phƣơng vững chắc cho các
chàng trai đua chen với đời, dùi mài kinh sử. Mô hình “gái thì giữ việc cửa nhà,
trai thì thi đỗ cả ba khoa liền” là ƣớc mơ của biết bao cô gái:
“Anh về đi học cho ngoan
Để em cửi vải kiếm quan tiền dài”
Cũng có khi, vƣợt ra khuôn khổ của lễ giáo phong kiến, bất chấp quan niệm “cọc
đi tìm trâu”, cô gái mạnh dạn bày tỏ với ngƣời yêu:
“Anh về anh cho em theo
Bác mẹ có đánh ta leo lên giàn”.
Thậm chí còn bất chấp lề thói, chấp nhận theo không:
“Anh về anh cho em theo
Tiền cưới mặc họ, tiền cheo mặc làng”.
Có thể nhận thấy trong mỗi hoàn cảnh khác nhau, lời tỏ tình lại có cách
thể hiện khác nhau, từ đó dẫn đến lối ứng xử khác nhau của các nhân vật trữ tình.
Các chàng trai, cô gái thƣờng mƣợn việc lao động, việc chăm sóc mẹ già, mƣợn

37
những sự vật xung quanh nhƣ khăn, áo, yếm... để nói về tình yêu. Nơi giếng
nƣớc, gốc đa, sân đình, bờ tre, khóm trúc... cùng với những đêm hội hát giao
duyên, đối đáp là nơi hẹn hò, nảy nở bao mối tình đẹp của trai gái. Ca dao đã ghi
lại những cung bậc tình cảm trong những tình huống, hoàn cảnh nảy sinh tình
cảm lứa đôi. Những buổi cày cấy, gặt hái, tát nƣớc, làm cỏ, nhổ mạ, trên bến
dƣới thuyền, giữa mênh mông sông nƣớc... Đó không chỉ là môi trƣờng lao đông
mà còn là nơi nảy sinh biết bao mối tình.
2.1.2. Nỗi niềm tương tư, nhớ nhung, sầu muộn
Tình yêu đến ngay cả những buổi đầu gặp gỡ hay trong những ngày tháng
đằng đẵng nhớ nhung, với những nỗi niềm riêng tƣ đƣợc phản ảnh đa dạng, sinh
động và tinh tế. Có thể thấy rõ điều này trong ca dao với số lời phong phú. Nhớ
da diết, nhớ quặn lòng, nhớ thầm nhớ vụng, nhớ bâng quơ, nhớ từ tiếng nói đến
nụ cƣời, nhớ mái tóc đến cả nơi hò hẹn, ngọn cỏ cành cây đã từng chứng kiến
mối tình của đôi bạn tình. Nỗi nhớ ngƣời yêu khi thì man mác buồn “Đêm qua
ra đứng bờ ao, Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ”, khi lại bồi hồi chờ mong
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi, Như đứng đống lửa như ngồi đống than”, khi lại là một
tâm trạng da diết “Nhớ ai em những khóc thầm, Hai hàng nước mắt đầm đìa như
mưa”.
Trạng thái tƣơng tƣ của đôi lứa yêu nhau nhƣ đƣợc trút hết vào những lời
nhớ thƣơng, khắc khoải, trông đợi, trông ngày, trông đêm. Biết bao tình huống
biểu hiện sự nồng nàn, đằm thắm, khát khao khi yêu. Đó là tâm trạng khắc khoải
bồi hồi của ngƣời con trai khi trái tim rung lên nhịp điệu yêu thƣơng:
“Đêm qua rót đĩa dầu hao
Chờ trăng mặt bể, chờ sao giữa trời
Chờ em chẳng thấy em ơi

38
Hết lên trên ghế lại ngồi xuống sân
Chờ em cơm chẳng buồn ăn
Dạ những khắc khoải thêm phần nhớ thương”.
Thi tứ dạt dào, lời thơ tràn ngập tình ý, thời gian nhƣ lắng đọng cùng nỗi nhớ và
tình yêu của chàng. Trong tình yêu, các chàng trai cũng có những nỗi lo, nỗi
niềm trăn trở:
- “Anh là con giai học trò
Mẹ cha thách thế anh lo thế nào”
- “Một bên đèn sách văn chương
Một bên làm ruộng em thương bên nào”
Nỗi lo của ngƣời con trai thật cụ thể, có phần nặng nề bởi họ là đàn ông, vẫn
luôn đƣợc coi là “phái mạnh”, là trụ cột của gia đình.
Còn các cô gái, khi tình yêu dâng lên ngập lòng thì các cô cũng:
“Ngày ngày ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn trông sao sao mờ
Trông chàng chàng cứ ngẩn ngơ
Trông mây mây cuốn cột cờ mây xuôi”.
Yêu và nhớ đến ngẩn ngơ cả ngƣời, nhƣng ngƣời con gái còn e ngại nhiều
bề, trong đó băn khoăn nhất là không biết chàng trai có thƣơng mình thật hay
không, có một lòng một dạ với mình hay không. Cô không muốn nghĩ đến điều
đó, song nhìn sông, núi, trăng, gió, cô lại sợ:
“Trăng lên đỉnh núi trăng tà
Chàng yêu em thật hay là yêu chơi
Ta thương mình thắm thiết thật thà
Biết rằng mình có thương ta hột nào

39
Ta vin cành mận hái nắm hoa đào
Biết rằng mình có lòng nào với ta”.
Yêu là vậy, nhƣng ngƣời con gái vẫn lo sợ xem ý tứ chàng trai nhƣ thế nào
“Anh đã thương thật em chưa
Hay là thương lửng thương lơ đỡ buồn”.
Và cô cũng còn lo lắng khi nghĩ đến mẹ cha mình và mẹ cha của chàng trai nữa:
“Cây khô bóc vỏ khó trèo
Hỏi thầy hỏi mẹ thương rể nghèo hay không?”
Cô gái còn sợ cả trời đất, lo đến cả chòm mây cũng nhanh chóng tan đi, và mối
tình của cô cũng nhanh chóng tan theo. Đúng là tâm trạng của một ngƣời đang
say đắm vì tình yêu, nhìn vạn vật đều liên tƣởng đến tình yêu để lo buồn vu vơ:
“Đá có rêu bởi vì nước đứng
Núi bạc đầu là tại sương sa
Thấy anh em muốn nói ra
Sợ mẹ bằng đất sợ cha bằng trời
Thấy anh em muốn trao lời
Sợ chòm mây bạc giữa trời mau tan”.
Trái tim đôi trai gái luôn hƣớng đến nhau, bởi nỗi nhớ cứ đầy vơi, vơi đầy
trong mắt, hình ảnh của ngƣời yêu cứ ẩn hiện đâu đây hòa vào đất trời cỏ cây
hoa lá, nên các chàng trai cô gái còn hát lên những lời ca ca ngợi ngƣời yêu, ca
ngợi tình yêu của mình.
“Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng lánh hạt huyền kém thua

40
Năm thương cổ yếm đeo bùa
Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng
Bảy thương nết ở khôn ngoan
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh
Chín thương cô ở một mình
Mười thương con mắt có tình với ta”.
Điều đó thể hiện một tình yêu mãnh liệt. Bởi mãnh liệt yêu, nên chỉ có việc “ra
về” thôi cũng có không biết bao nhiêu tâm trạng:
“Chàng về em vẫn trông theo
Như dao cắt ruột như treo trên cành”
“ Chàng về em chẳng cho về
Em nắm vạt áo em đề bài thơ”.
Ta thấy đƣợc rõ sự chủ động bày tỏ tình cảm của ngƣời con gái trong tình huống
này. Điều đó cho thấy thái độ phản kháng, vƣợt lên trên khuôn khổ của xã hội
phong kiến.
2.1.3. Lời thề nguyền, hẹn ước
Lời thề đã có từ lâu trong ngôn ngữ của ngƣời Việt. Mục đích của lời thề
là để ngƣời khác tin vào lời nói của mình là đúng, là chính xác, khi họ không còn
cách nào khác để chứng minh. Đôi khi họ dùng cả cái chết để thề độc. Trong tình
yêu, thề nguyền để nói lên sự gắn bó, chung thủy mà hai bên sẽ tự nguyện thực
hiện đúng điều đó. Sắp xếp lời thề nguyền theo chủ thể trữ tình, chúng tôi có số
liệu nhƣ sau:
STT Nội dung Số bài
1 Lời của nam và nữ 252
2 Lời của nữ 179

41
3 Lời của nam 92
4 Nam nữ đối đáp 16
5 Tổng 539
Qua bảng số liệu trên, ta có thể thấy lời thề nguyền của nữ chiếm số lƣợng
lớn nhất, nhiều gấp đôi lời của nam; lời thể nguyền của nam nữ đối đáp chiếm số
lƣợng rất nhỏ. Điều này phản ánh một quy luật của tình yêu: nếu nam giới
thƣờng tỏ tình trƣớc thì phụ nữ nói chung đều có xu hƣớng muốn gắn bó, thủy
chung ( thề nguyền).
Khi đã gắn bó, yêu thƣơng nhau, trai gái đều thề nguyền thủy chung. Đề
cao, ca ngợi sự thủy chung là đặc trƣng nổi bật của tình yêu ngƣời Việt. Thủy
chung gắn liền với nhân nghĩa nhƣ một đạo lý sống làm nên hƣơng sắc, hạnh
phúc ngọt ngào, tạo niềm tin, sức mạnh cho con ngƣời. Khi yêu thƣơng, trai gái
thề nguyền đều viện đến đất trời:
- “Một lời quyết đã tương giao
Dưới thì có đất, trên cao có trời
Dầu rằng nguyệt đổi sao dời
Tử sinh cứ giữ lấy lời tử sinh”.
- “Trăng tròn chỉ có đêm rằm
Tình ta tháng tháng năm năm vẫn tròn”.
Những lời thề nguyền có thể coi nhƣ một sự đảm bảo trong tình yêu, quan trọng
hơn, chúng thể hiện đƣợc sự coi trọng chữ tín và lòng mong muốn đƣợc gắn bó
lâu dài của con ngƣời với nhau:
- “Bậu nói với qua có nhật có nguyệt
Có đèn thủy kiệt có núi sơn lâm
Ai mà lỗi đạo tình thâm

42
Hồn về chín suối, xác cầm dương gian”.
- “Anh nói với em sơn cùng thủy tận
Em nói với anh nguyệt khuyết sao băng
Đôi ta như rồng lượn trông trăng
Dầu mà xa nhau đi nữa cũng khăng khăng đợi chờ”.
Sóng gió trong tình yêu có rất nhiều, nhƣng không sóng gió nào ngăn trở đƣợc
đôi trái tim đã đồng cảm hƣớng về nhau cùng tha thiết với tình yêu, một lòng
một dạ với ngƣời yêu:
- “ Đôi ta như gạo tháng mười
Như thóc tháng tám như người tháng ba
Đôi ta như con một nhà
Như áo một vạt như hoa một chùm”.
- “Yêu nhau vạn sự chẳng nề
Vạn điều chênh lệch cũng kê cho bằng”.
Những lời vàng đá sắt son ấy cứ sóng sánh tràn ra từ tấm lòng, từ tình yêu say
đắm của những chàng trai cô gái “xứng đôi vừa lứa” tìm đến nhau cùng thổ lộ
tình cảm ấp ủ bấy lâu của mình. Những câu ca dao thành chân lý tình yêu không
thể nào thay đổi. Và tìh yêu đó đã đƣợc đôi bên thuận tình, đã “kết nguyền” thì
nó trở nên mạnh mẽ vô cùng. Đôi bạn tình lúc này không còn sợ bất kì một thế
lực nào, hữu hình cũng nhƣ vô hình. Dẫu cho trăm lời dèm pha của thiên hạ cũng
không làm cho họ sờn lòng:
“Bây giờ sum họp trúc mai
Xin anh đừng ở ra hai tấm lòng
Đừng nghe miệng thế xa xôi
Đừng thấy vắng mặt mà nguôi tấm lòng

43
Mặc người ngắt lá thả sông
Đôi ta cứ giữ tấm lòng chớ sai
Xin đừng phấn nhạt vàng phai
Mà e miệng thế mủa mai chê cười”.
Dẫu cho cha mẹ có can ngăn, do dự thì họ vẫn tìm ra cách giải quyết dứt khoát:
- “Biết nhau lấy quách nhau đi
Chờ chi bác mẹ chờ chi tơ hồng”
- “Yêu nhau thì lấy nhau đi
Công cha nghĩa mẹ sau thì hãy hay”.
Bên tình bên hiếu đã đƣợc họ sắp xếp, còn ông Tơ bà Nguyệt nếu không xe
duyên cho thì họ cũng không cần. Khi tình yêu đã lên tiếng gọi thì uy lực của
ông Tơ bà Nguyệt không còn mạnh mẽ nữa:
“Yêu nhau thì lấy anh đi
Ông Tơ bà Nguyệt sá chi bận lòng”
2.2. Tình yêu đau khổ
Tình yêu đau khổ là tình yêu mà đôi lứa không đến đƣợc với nhau. Trai
gái xƣa yêu nhau trong sự kiềm tỏa của lễ giáo phong kiến, họ không đƣợc tự do
yêu đƣơng, không đƣợc tự do chọn lựa. Chính những cản trở của xã hội làm cho
tình yêu trong ca dao trở nên tình tứ, say đắm và mãnh liệt hơn. Ca dao tình yêu
chính là tiếng hót của những con chim muốn đến với bạn tình mà bị nhốt trong
lồng, trong cũi, bởi thế nó da diết lắm, sâu lắng lắm và rất nồng đƣợm - đó chính
là tiếng lòng của những kẻ yêu nhau.
2.2.1. Nguyên nhân
Mấy ai yêu mà không gặp trắc trở. Nhiều mối tình dang dở, những lọc lừa
toan tính ích kỉ đã làm tan nát bao trái tim đang yêu. “Dưới chế độ cũ, giai cấp

44
thống trị cấm đoán sự tự do giao tiếp giữa nam nữ, và lễ giáo phong kiến muốn
bóp chết những tình cảm tự nhiên của con người. Những quan điểm “nam nữ thụ
thụ bất thân”, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” đã khiến cho những quan hệ hôn
nhân ở các tầng lớp trên trở thành những mối quan hệ có tính chất giả tạo.
Những quan điểm ấy cũng xâm nhập cả vào trong các tầng lớp nhân dân lao
động, và là một nguyên nhân của những mối tình đau khổ được phản ánh khá
sâu sắc trong ca dao, dân ca trữ tình” [20, tr.448]. Tình huống dẫn tới những
cảm xúc đau khổ, bất hạnh trong tình yêu đƣợc phản ánh rõ nét trong ca dao
ngƣời Việt. Nguyên nhân có thể do bị ép duyên, phụ bạc, bị áp bức đè nén bởi
luật lệ, hủ tục và khuôn khổ đạo đức của xã hội phong kiến. Đứng trƣớc những
tình huống đó, ngƣời trong cuộc lại có những cách ứng xử khác nhau. Có thể đó
là những lời than trách số phận bạc bẽo, có thể là lời trách móc hờn giận kẻ phụ
tình, có khi bày tỏ thái độ ghen tuông, hoăc cũng có khi là lời nhớ mong khắc
khoải chờ đợi. Đặc biệt, có một bộ phận các câu ca dao bày tỏ cách ứng xử cao
thƣợng trong tình yêu.
2.2.2. Thái độ trách móc, hờn giận
2.2.2.1. Khi trái duyên, bị ép duyên:
Giáo lý phong kiến khắc nghiệt xƣa kia đã khiến không ít những số phận
bị đẩy vào hoàn cảnh cuộc sống đau khổ, bất hạnh vì sự ép buộc, cƣỡng hôn của
gia đình hoặc so sự phân cách giàu nghèo. Những quan niệm “môn đăng hộ đối”,
“cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” đã chi phối mạnh mẽ tới cuộc sống của đôi lứa
yêu nhau, trong đó phụ nữ là nhân vật phải chịu nhiều đắng cay nhất:
“Rau sam ngắt ngọn còn tươi
Những nơi em định thì trời không xe”
“Những nơi chết rấp bụi tre

45
Nhân duyên chẳng định giời xe tôi vào”.
Trai gái yêu nhau, nhƣng không phải lúc nào cũng dứt khoát đƣợc giữa
bên tình, bên hiếu, nhất là trong xã hội phong kiến con ngƣời bị ràng buộc bởi
nhiều lễ giáo lạc hậu, những thế lực xã hội, thế lực đồng tiền, thế lực quan
quyền…, ngăn trở trai gái đến với tình yêu. Vì thế, có những lời ca dao là tiếng
lòng của họ khát khao có đƣợc một tình yêu hạnh phúc không bị ngăn trở. Cái
khát vọng ấy vì trong thực tế ít khi thực hiện đƣợc nên nó da diết khôn nguôi. Đó
là những lời than ảo não, những day dứt dằn vặt, những lời trách móc của ngƣời
con trai, ngƣời con gái với bạn tình, hoặc với gia đình. Cũng có khi đó chỉ là lời
trách cứ vu vơ, nhƣng tất cả đều thẻ hiện nỗi lòng đau xót tiếc thƣơng khi
“duyên không trọn”, không đƣợc sống cùng ngƣời mình yêu thƣơng:
Rau sam ngắt ngọn còn tươi
Những nơi em định thì trời không xe
Những nơi chết rấp bụi tre
Nhân duyên chẳng định giời xe tôi vào
Tiếc thay cái sợi chỉ đào
Vóc nhiễu chẳng vá, vá vào áo tơi”.
Phải lựa chọn giữa chữ “tình” và chữ “hiếu”, các chàng trai, cô gái có hai thái độ
ứng xử trái ngƣợc nhau: thái độ cam chịu tuân theo sự áp đặt và thái độ phản
kháng. Theo thống kê của chúng tôi, có 76 câu ca dao thể hiện thái độ cam chịu,
53 câu ca dao thể hiện thái độ phản kháng, chống đối của nam nữ, quyết bảo vệ
tình yêu của mình. Một số câu ca tiêu biểu của hai thái độ ứng xử này nhƣ sau:
- Thái độ cam chịu:
“Ai bưng bầu rượu đến đó
Chịu khó bưng về

46
Em thương anh thảm thiết trăm bề
Heo vay cau tạm áo mượn võng thuê
Thầy mẹ em nay nhún mai trề
Dạ không nỡ dạ, em không dám chê anh nghèo”.
- “Anh đi về đi kẻo thầy em dứt, mẹ em la
Trận đòn oan em chịu, anh ở xa biết gì”.
- “Em thương anh cha mẹ không cho
Tìm nơi khuất tịch, khóc no rồi về”.
- Thái độ phản kháng:
- “Em thương anh cha mẹ phải theo
Chiếc tàu buồm kia đang chạy quăng neo cũng ngừng”
- “Đôi ta như chỉ xe ba
Thầy mẹ xe ít thì ta xe nhiều
Đôi ta như chỉ xe năm
Thầy mẹ xe ít ta cầm ta xe
Đôi ta như chỉ xe mười
Thầy mẹ xe ít, mượn người ta xe”.
2.2.2.2. Khi bị phụ tình:
Tình yêu đẹp diệu kì nhƣng không phải tất cả đều ƣơm hoa kết trái. Những
khổ đau hận tình cũng muôn vẻ cay đắng, đều in dấu trong ca dao. Thái độ phê
phán, lên án thói bạc tình bạc nghĩa là nét đặc trƣng tâm lí chung của mọi ngƣời:
- “Chàng đà phụ thiếp thì thôi
Dù chàng xuống ngựa lên voi mặc chàng”
- “Không ai tệ bạc như chàng
Đang cơn gió cả chia vàng giữa song”.

47
- “Không thương nỏ nói lúc đầu
Làm chi dan díu nửa chầu lại thôi”.
- “Không thương nhau nữa thì thôi
Gieo chi tiếng dữ cho rồi bậu ra”.
Đó còn là lời trách móc, nhắn nhủ chua xót cho mối duyên tơ lỡ dở, phụ bạc:
- “Ðêm năm canh nghe con dế thốt
Ngày sáu khắc lần đốt ngón tay.
Hỡi ai, duyên cớ ai bày?
Duyên trăm năm lại bỏ, nghĩa một ngày lại theo?”
- “Em tưởng nước giếng sâu
Em nối sợi gầu dài
Nào ngờ nước giếng cạn
Em tiếc hoài sợi dây”.
- “ Mỗi ngày dăm bận gặp nhau
Gặp chi cho héo cho sầu trúc mai
Bây giờ em đã theo ai
Để anh ở góa bạn trai chê cười”.
- “Người như huê nở trên cành
Em như con bướm lượn vành trên hoa.
Bây giờ anh lấy người ta
Như dao cắt ruột em ra làm mười!”
Tình yêu lỡ dở, họ tìm về quá khứ những ngày mặn nồng nên nhau để đối lập với
hiện tạ mà thở than:
- “ Ngày đi bóng hãy còn dài
Ngày về bóng đã nghe ai bóng tròn”

48
- “Khi xưa một hẹn thì nên
Bây giờ chín hẹn anh quên cả mười”.
2.2.2.3. Khi ghen tuông:
Ghen tuông là nhân tố không thể thiếu cho một tình yêu. Ghen chứng tỏ
yêu, bởi khi yêu con ngƣời sẽ nảy sinh tâm lý muốn đƣợc sở hữu, không muốn
san sẻ ngƣời mình yêu với kẻ khác. Khi đã thành vợ thành chồng, chuyện ghen
tuông là điều dễ hiểu, bởi:
“Ớt nào mà ớt chẳng cay
Gái nào gái lại chẳng hay ghen chồng
Vôi nào mà vôi chẳng nồng
Gái nào là gái có chồng không ghen”.
Ghen đôi khi còn là một chất xúc tác hay gia vị cần có trong tình cảm lứa đôi. Sự
ghen tuông xuất hiện ở cả nam và nữ. Cô gái biết ngƣời yêu có tính hay ghen,
nên đã lựa lời giãi bày:
- “Ðường lên xứ Lạng bao xa
Cách ba quả núi với ba quãng đồng.
Ai ơi đứng lại mà trông
Kìa núi Thành Lạng kìa sông Tam Cờ.
Anh chớ thấy em lắm bạn mà ngờ
Bụng em vẫn thẳng như tờ giấy phong”.
Sự ghen tuông còn đƣợc biểu hiện một cách bột phát, khi cô gái nghe tin ngƣời
mình yêu lấy vợ:
“Em đang dệt chiếu hồi văn
Nghe anh có vợ, em quăng con chuồi.
Em đang bắc nước xôi xôi

49
Nghe anh có vợ, quăng nồi đá vung
Em đang vút nếp xôi xôi
Nghe anh có vợ, thúng trôi nếp chìm”.
2.2.2.4. Khi bị lỡ duyên – nuối tiếc:
Tuổi xuân của ngƣời con gái thật ngắn ngủi, thời gian thì cứ vùn vụt trôi.
Qua tuổi còn duyên, số phận của họ thật bẽ bàng:
- “Còn duyên nón cụ quai tơ
Hết duyên nón xoáy quai dừa cũng xong
Còn duyên đóng cửa kén chồng
Hết duyên bán quán ngồi trông bộ hành”.
- “Còn duyên như tượng tô vàng
Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa mặc lòng
Còn duyên đóng cửa kén chồng
Hết duyên ngồi gốc cây hồng lượm hoa”.
Yêu nhau không lấy đƣợc nhau, những tình cảm nảy nở muộn màng khi số
phận đã an bài nhƣ “chim trong lồng”, “cá cắn câu”. Tất cả chỉ còn lại trong nỗi
niềm nuối tiếc. Nội dung của những lời ca này thật da diết:
- “Công anh gánh đất trồng đào
Bây giờ em để lọt vào tay ai”.
- “Công anh đào ao thả cá
Năm bảy tháng trời, người lạ đến câu”
- “Công anh chăn nghé đã lâu
Bây giờ nghé đã thành trâu ai cày”

50
-“Trách chàng cầm lỏng dây cương
Cho nên ngựa tía vượt sang nước người”.
- “Trời mưa trời gió
Vác đó đi đơm
Trở về ăn cơm
Trở ra mất đó!
Kể từ ngày thương đó, đó ơi
Ðó chưa thưa được một lời cho đây nghe!”
Cũng có trƣờng hợp chàng trai gặp cô gái trong tình cảnh cô đã có chồng.
Khi đó, chắc chắn chàng trai đau khổ, nhƣng tâm trạng của cô gái cũng thật xót
xa:
“Thương anh thì có thương anh
Bát cơm đã trót chan canh mất rồi
Nuốt đi đắng lắm anh ơi
Nhả thì để tội ở trời ai mang”.
Thƣơng đấy, tiếc đấy, nhƣng biết làm sao đƣợc nữa. Chàng trai cũng đành ngậm
ngùi:
“ Gặp đây ăn miếng trầu xanh
Chả ăn cầm lấy cho anh bằng lòng”
Khi tình yêu không đến đƣợc bến bờ đã định, trào dâng trong lòng đôi trai
gái là nỗi tiếc nuối ngậm ngùi. Và họ đã cất lên những lời trách móc:
Khi thì là lời trách móc nhau: Có khi ngƣời con trai vì một lí do nào đó đã
phải xa ngƣời yêu ôm theo lời thề nguyền thủy chung son sắt, rồi chàng đi, đi
mãi, đến khi trở về thì ngƣời yêu đã đi lấy chồng. Biết làm sao đƣợc? Chàng trai

51
chỉ biết day dứt, tiếc nuối tình yêu và cất lời than trách, nghe sao nặng nề đau
xót:
“Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em đã có chồng anh tiếc lắm thay…”
Những lời than thở, ngẩn ngơ vì bỏ lỡ cơ hội có đƣợc tình yêu hạnh phúc đó
không ít. Có những chàng trai vì lừng khừng hay thiếu chủ động nên:
“Anh đến tìm hoa thì hoa đã nở
Anh đến tìm đò thì đò đã sang sông
Anh đến tìm em thì em đã lấy chồng
Em yêu anh như rứa đó hỏi mặn nồng thấy chi”.
Và cô gái cũng đáp lời:
- “Ba đồng một lá trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng, như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra”
và:
- “Hoa đến mùa thì hoa phải nở
Đò đã đầy thì đò phải chở qua sông
Đến duyên em thì em phải lấy chồng
Em yêu anh như rứa đó còn mặn nồng thì tùy anh”.

52
Cô gái đã nói quá hợp lý, đó không phải là lỗi của cô. Cô đã chờ mãi rồi, và giờ
đây, trƣớc lời than của anh, cô cũng có ân hận, tiếc nhớ, nhƣng biết làm sao
đƣợc, bởi “ván đã đóng thuyền”, chàng trai còn trách cứ làm chi cho đau lòng cả
hai ngƣời. Biết vậy, nhƣng tâm trạng của đôi trai gái vẫn tê tái xót xa.
Một tình huống khác đƣa đến cách ứng xử khác trong trƣờng hợp này. Có
khi chàng trai không phải vì xa ngƣời yêu để rồi mất ngƣời yêu nhƣng lại lo ngại
nhiều bề không dám quyết một lời với mẹ cha nhà nàng. Dù yêu lắm, nhƣng trót
“chậm miệng khoan chân”, thế là ngƣời yêu cũng phải đi lấy chồng. Lời than
trách của cô gái nhƣ một lời từ biệt chất chứa nỗi lòng:
“Trách chàng chậm miệng khoan chân
Cho nên em phải ái ân nhà người
Ví dù chàng có quyết nhời
Thì đây Tần Tấn xe rồi còn đâu
Tại chàng không tại em đâu
Chàng xe chỉ mảnh em khâu không thành”
Chàng trai còn biết nói gì nữa trƣớc lời than trách rất đúng hoàn cảnh ấy, đành
“ôm mối sầu riêng” mà thôi.
Trong cuộc tình duyên, cũng có khi cô con gái đã sẵn sàng chờ ngƣời con
trai đến cƣới hỏi nhƣng rồi anh chàng cứ hẹn lần, hẹn lửa với hết lý do này tới lý
do khác, để rồi cuối cùng cô nàng bỏ đi lấy chồng khác. Khi ấy, có hối tiếc cũng
đã quá muộn màng.
“Mình rằng mình quyết lấy ta
Ðể ta hẹn cưới hăm ba tháng này
Hăm ba nay đã đến ngày
Ta hẹn mình rày cho đến tháng giêng

53
Tháng giêng năm mới chưa nên
Ta hẹn mình liền cho đến tháng hai
Tháng hai có đỗ có khoai
Ta lại vật nài cho đến tháng tư
Tháng tư ngày chẳn tháng dư
Ta lại chần chừ cho đến tháng năm
Tháng năm là tháng trâu đầm
Ta hẹn mình rằng tháng sáu mình lên
Tháng sáu lo chửa kịp tiền
Bước sang tháng bảy lại liền mưa ngâu
Tháng bảy là tháng mưa ngâu
Bước sang tháng tám lại đầu trăng thu
Tháng tám là tháng trăng thu
Bước sang tháng chín mù mù mưa rươi
Tháng chín là tháng mưa rươi
Bước sang tháng mười đã đãi mưa đông
Quanh đi quẩn lại em đã có chồng
Như chim trong lồng, như cá cắn câu”.
Hôn nhân mà hẹn chờ từ tháng chạp cho đến tháng mƣời nhƣ vậy, mất vợ tƣởng
cũng không có gì đáng ngạc nhiên cho lắm!
Cũng có khi tình yêu của đôi trai gái bền chặt, song vì lẽ mẹ cha chia
đường rẽ lối nên họ cũng trách móc:
“ Mẹ em tham bạc tham vàng
Ép em vào chốn cơm rang gạo rồi
Ra đường em chẳng được tươi

54
Nghĩ thân phận nước mắt rơi hàng hàng”.
Lại có khi đôi trai gái tự trách mình, trách vu vơ, trách mối tơ duyên lỡ
làng như số phận của mình thế nên đôi lứa chẳng đến đƣợc với nhau:
- “Trách mình nỏ trách ai đâu
Trách dài kia ngắn chạc, trách giếng sâu nỗi gì”
- “Trách thân chẳng dám trách trời
Trách thân mình lắm giận trời là bao”.
Những lời trách móc ấy khi thì nặng chịch, khi thì nhẹ nhàng, lúc thì xót xa,
lúc lại vu vơ, song tất cả đều đầy ắp những nỗi niềm, nồng đƣợm một tình yêu.
2.2.3. Thái độ cao thượng – không cao thượng
Tính cao thƣợng trong tình yêu cũng là một đặc tính nổi trội trong ứng xử
của ngƣời Việt. Tình yêu trọn vẹn là đủ đầy cả hai yếu tố vật chất lẫn tinh thần
nhƣng đôi khi điều đáng quý trọng lại nằm trong cách hành xử của con ngƣời
chứ không phải ở xác thân vật chất. Dân gian ta từng nói:
“Mình nói với ta rằng mình còn son
Ta đi qua cửa thấy con mình bò
Con mình những trấu cùng tro
Ta đi lấy nước tắm cho con mình”.
Chàng trai trong câu ca dao mới đáng yêu làm sao khi có hành động mà chắc gì
chàng quân tử thấm nhuần đạo đức phong kiến nào dám làm. Khi biết đƣợc mình
đã bị lừa dối, chàng có buồn, có đau khổ, nhƣng chàng không hề oán hận gì
ngƣời yêu. Ngƣợc lại, chàng có hành động và nghĩa cử thật cao đẹp. Và cũng
trong dân gian, có một quan niệm rất lạ và rất mới có lẽ xuất phát từ cái tâm bao
la:
“Giữa đường nhặt cánh hoa rơi

55
Hai tay nâng lấy cũ người mới ta”.
Bên cạnh đó, có bài ca dao còn gây ra những cách hiểu và đánh giá khác
nhau về sự cao thƣợng hay chƣa cao thƣợng trong tình yêu:
“ Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím
Em đã có chồng anh trả yếm cho anh
Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh
Yếm em em mặc, yếm gì anh anh đòi”.
- Giả thiết thứ nhất: Nếu như hiểu hai câu đầu của bài ca dao là lời của
chàng trai đó có thể là một cuộc đòi yếm/ trả yếm và sự chối từ, một cuộc đòi -
trả không thành công. Có thể hiểu chiếc yếm đƣợc nhắc đến ở đây nhƣ là kỉ vật
làm tin, là tín vật tình yêu của đôi bạn trẻ. Đến nay khi hai ngƣời không còn tình
duyên với nhau nữa, thì ngƣời tặng yếm muốn lấy lại tặng phầm mà mình đã
trao. Nếu quả thực nhƣ vậy thì chàng trai thật nhỏ nhen, không đáng mặt đàn
ông. Đọc tiếp hai lời sau của bài ca dao, nếu đƣợc cho đó là lời của cô gái, thì
đây là lời đáp trả không kém phần đáo để, “ghê gớm”: không yêu nữa, nhƣng thứ
gì đã trao thì không trả lại. Xét về phƣơng diện tâm lý, đã có can đảm đòi lại cái
yếm mà mình đã tặng cho ngƣời mình yêu, dù rằng ngƣời yêu của mình đã ôm
cầm sang thuyền khác, thì đó là một hành vi không còn tình nghĩa. Đã không còn
tình nghĩa thì giọng điệu phải gay gắt. Vả lại, anh con trai nào lại chẳng nhớ nằm
lòng câu ca dao này:
“Bắc thang lên hỏi ông Trời
Của chàng cho thiếp liệu đòi được chăng?
Bắc thang lên hỏi ông Trăng
Của chàng cho thiếp nói năng thế nào?”

56
Nếu nhƣ vậy, quả thực, đó là một tình yêu đầy vật chất tầm thƣờng, không phải
là tình yêu cao thƣợng.
- Giả thiết hai: Nếu cô gái hát trước thì đây là trường hợp xin trả yếm.
Với cách hiểu nhƣ vậy, thì cô gái này vừa tình nghĩa, vừa khôn ngoan, vừa đáng
nể. Vì một lý do nào đó mà hai ngƣời chẳng thể nên duyên, cô thông báo sẽ trả
lại cái yếm mà ngƣời yêu đã tặng, để khỏi bị chồng hiểu lầm, ghen tuông sau này
và cũng để ngƣời yêu đi tìm hạnh phúc mới. Đáp lại lời của cô gái, chàng trai
cũng dịu dàng: rằng chiếc yếm đã trao tặng giờ đã là của cô gái, nó dâu còn là
của anh nữa mà bảo anh đòi. Với cách xử sự nhƣ thế, cả chàng trai và cô gái ở
đây đều là những con ngƣời nghĩa tình.
Tuy nhiên, chúng tôi không đồng tình với hai cách hiểu và lý giải đó, bởi
chúng tôi cho rằng bài ca dao thể hiện sự nuối tiếc về một tình yêu đẹp trong quá
khứ. 2 câu đầu theo tôi là lời nói của chàng trai, chàng cất lên lời đòi yếm, nhƣng
mục đích chính là để hờn trách ngƣời con gái đã lấy chồng. “Hoa cúc vàng” lại
“nở ra hoa cúc tím”, ngoài ý nghĩa là cách nói đƣa đẩy trong ca dao, còn nhƣ
ngầm nói về sự đổi thay, không thống nhất trƣớc sau. Ngƣời con trai chắc hẳn
không muốn đòi lại chiếc yếm – tín vật tình yêu của hai ngƣời - thật sự. Có thể
anh đòi lại vì sợ nếu giữ nó, cô gái sẽ không dứt khoát với hoàn cảnh mới, cô sẽ
vấn vƣơng và sẽ khổ. Cũng có thể, anh muốn ƣớm lời để xem tình cảm của
ngƣời con gái hiện giờ ra sao. Còn 2 câu sau là lời cô gái, dù đã có chồng nhƣng
thái độ của cô rất cƣơng quyết không trả lại kỷ vật của ngƣời yêu - dải yếm đã
trao cho mình trƣớc đây. Hành động ấy thể hiện nỗi đau hiện tại trong lòng cô
gái và sự nhớ thƣơng một mối tình mà cô không nỡ lìa bỏ. Vì thế, cô từ chối trả
yếm, từ chối một cách yếu ớt bằng lời nói: "Yếm em em mặc, yếm gì anh anh
đòi !". Câu thơ phá cách của một câu thơ 8 chữ, đay đi đay lại ngôn ngữ xƣng hô

57
mà hẳn trƣớc đây, hai ngƣời hay nói với nhau "em" - "anh". Giữ yếm lại nhƣ
hành động giữ một kỷ vật, tình yêu của chúng ta tuy không thành nhƣng cũng
không đáng phải "sòng phẳng" đến thế, không cần phải xoá mọi dấu vết về nhau.
Sự không trả lại chiếc yếm chứng tỏ tình yêu của cô đối với chàng trai. Tình yêu
ấy quan trọng hơn tất cả những đòi hỏi khác. Em giữ tình yêu ấy thì đấy là một
niềm an ủi cho anh, và cho cả em rồi còn gì ! Hiểu nhƣ thế, chúng ta sẽ thấy cả
hai con ngƣời này đều rất đẹp, diễn biến tâm lý của họ rất logic với lời ca dao trữ
tình tha thiết này. Do vậy, về hình thức, bài ca dao là 2 lời có quan hệ đối lập
nhau nhƣng thực chất, có sự thống nhất về tình ý. Và rõ ràng, lời nói đó biểu
hiện thái độ cao thƣợng trong tình yêu.
Xét về thái độ ứng xử chƣa cao thƣợng trong tình yêu, ca dao Việt cũng có
một số câu ca, nhƣng đều biểu thị sự phê phán, châm biếm về thứ tình yêu đầy
vật chất, tầm thƣờng. Ta có thể dẫn ra một số câu nhƣ:
- “Bắc thang lên hỏi ông Trời
Của chàng cho thiếp liệu đòi được chăng?
Bắc thang lên hỏi ông Trăng
Của chàng cho thiếp nói năng thế nào?”
- “Bắc thang lên hỏi ông Trời
Những tiền cho gái có đòi được không.”
- “Bắc thang lên hỏi ông Trời
Tiền trao cho gái có đòi được chăng
Bắc thang lên hỏi ông Trăng
Tiền trao cho gái liệu rằng được không?”
Nhƣ vậy, tình yêu có thể buồn, có thể không hạnh phúc nhƣng tình yêu
dẫn con ngƣời đến hạnh phúc, đến cách sống cao đẹp ở đời. Có lẽ đó cũng là nét

58
đẹp ngàn đời của truyền thống văn hóa Việt mà thế giới ngày nay dù có hiện đại
đến đâu cũng không thể xóa nổi.
2.3. Tình yêu đơn phƣơng
Tình yêu sẽ ngọt ngào nếu đƣợc vun đắp từ hai phía còn nếu “chẳng may”
chỉ một phía thì sao? Đó là tình yêu đơn phƣơng, là thứ tình cảm chỉ đến từ một
phía, nó vừa ngọt ngào nhƣng cũng vừa đau khổ, đắng cay.
Ngƣời phụ nữ thời nào cũng vậy, dân gian cho rằng họ là phái yếu, yêu là
thế nhƣng còn rụt rè không dám thổ lộ cùng ai, thƣờng là tình yêu đơn phƣơng
(trừ một số cô gái có sắc, có nhan hoặc con nhà gia giáo, quan lại ...). Từ đó ca
dao dân gian phản ánh sự trách móc, đúng hơn là lời tự tình, lời tự sự nhằm nhắn
gởi đến đối tƣợng là những chàng trai mình yêu quí với một giọng điệu rất dân
gian:
“Chàng đến mời chàng vào đây,
Trầu têm cánh phượng, ghế mây chàng ngồi.
Chàng đi đâu cho nhọc thân chàng
Ở đây hái rau thia khe cạn, hơn tìm vàng non cao.
Chàng đi thiếp vẫn trông theo,
Trông nước, nước chảy, trông bèo, bèo trôi.
Chàng đi thiếp đứng trông chừng,
Trông sông lai láng, trông rừng, rừng xanh”.
Đến lƣợt mình, những đấng nam nhi đôi khi cũng ngậm đắng nuốt cay
trƣớc sự từ chối hoặc tan vỡ khi tình duyên trắc trở:
“Ngày nào em nói em thương,
Như trầm mà để trong rương chắc rồi.
Bây giờ khóa rớt chìa rơi,

59
Rương long nắp vỡ, bay hơi mùi trầm”.
Rõ ràng, tình yêu đơn phƣơng, thứ tình cảm chỉ đến từ một phía, vừa ngọt ngào,
vừa đau khổ đắng cay nhƣng cũng rất đẹp.
2.4. Những ƣớc mong trong tình yêu
Tình yêu là tình cảm hết sức tự nhiên, trong sáng, không hề vụ lợi tính
toán, xuất phát từ cả hai phía nam và nữ. Nhƣng trong tình yêu, con ngƣời cũng
có những mong ƣớc, khát khao trong tình yêu, có những tiêu chí, chuẩn mực
nhất định. Những chàng trai, cô gái trong xã hội cũ không có cơ hội, hoặc có rất
ít cơ hội đƣợc lựa chọn bạn đời vì hình thức hôn nhân áp đặt. Do vậy, họ tìm đến
lời ca tiếng hát nhƣ một sự giãi bày những tâm tƣ, tình cảm, suy nghĩ của mình
trong cuộc sống. Qua đó, những quan niệm về tình yêu, những ƣớc mong khát
vọng trong tình yêu cũng đƣợc bày tỏ một cách rõ nét.
Ta dễ dàng thấy đƣợc những ƣớc mong thể hiện quan niệm tình yêu mang
tính chất phổ biến của con ngƣời trong ca dao Việt là mong ƣớc tìm dƣợc ngƣời
bạn đời có vẻ đẹp tâm hồn, có đức hạnh, chăm chỉ, nhân hậu:
“Bông nhài bông lý bông ngâu
Chẳng bằng bông bưởi thơm lâu dịu dàng”
Các cô gái rất trọng ngƣời biết chữ nghĩa và đều ƣớc mong ngƣời yêu, ngƣời
chồng của mình có học vấn, có hiểu biết:
“Lấy chồng cho đáng tấm chồng
Bõ công trang điểm má hồng răng đen
Chẳng ham ruộng cả ao liền
Ham vì cái bút cái nghiên ông đồ”.

60
Cô gái mơ ƣớc lấy đƣợc ngƣời chồng thông minh, giỏi giang, đỗ đạt “kiệu anh
đi trước võng nàng theo sau”. Đó cũng chính là ƣớc mơ về một cuộc sống ấm
no, hạnh phúc.
Cũng có nhiều cô gái chỉ ƣớc mơ bình dị là lấy đƣợc ngƣời hiền lành,
chăm chỉ, cần cù, hoặc cha mẹ chồng là ngƣời hiền:
- “Chẳng tham nhà ngói rung rinh
Tham vì một nỗi anh xinh miệng cười
Miệng cười anh đáng mấy mươi
Chân đi đáng nén, miệng cười đáng trăm”
- “Chim khôn lót ổ lựa nhành
Gái khôn lựa chốn trai lành gửi thân”.
Bên cạnh đó, cũng có một số cô gái đƣợc lấy chồng là nơi cao sang quyền quý
để đƣợc thay đổi phận nghèo hèn:
“Một ngày tựa mạn thuyền rồng
Còn hơn muôn kiếp ở trong thuyền chài”
Tình yêu lứa đôi còn làm cho con ngƣời thăng hoa trong cuộc sống, tình
yêu là hạnh phúc, là ƣớc mơ của mọi ngƣời khi đến tuổi trƣởng thành, cho dù có
lúc “ƣớc mơ chỉ là ƣớc mơ”, bởi trong tình yêu lứa đôi không phải lúc nào cũng
dẫn đến con đƣờng hạnh phúc nhƣ mọi ngƣời mong muốn, thƣờng thì nó có
nhiều trắc trở phải vƣợt qua, nhƣng cũng có nhiều trƣờng hợp tình yêu lứa đôi
không đi vào đâu. Dẫu vậy, những chàng trai, cô gái vẫn luôn mơ ƣớc về một
tƣơng lai tƣơi đẹp, hạnh phúc:
“Ước sao ăn ở một nhà,
Ra đụng vào chạm kẻo mà nhớ thương.
Ước gì anh hóa ra hoa,

61
Để em nâng lấy rồi mà cài khăn.
Ước gì anh hóa ra chăn,
Để cho em đắp, em lăn, em nằm”.
Rõ ràng, họ không yêu vì tiền bạc, không coi trọng sự hào nhoáng bóng
bẩy. Các chàng trai, cô gái đều ƣớc mong chọn đƣợc ngƣời bạn đời chung thủy,
chịu khó, sống nhân hậu, vui vẻ để cùng nhau vƣợt qua mọi khó khăn, xây dựng
hạnh phúc bền chặt. Muốn có hạnh phúc bền chặt, tình yêu trọn vẹn thì phải
đƣợc sự tin yêu, ủng hộ của cha mẹ đôi bên. Vì vậy, khi chọn lựa bạn đời cũng là
ƣớc mong chọn đƣợc cha mẹ thảo hiền để gửi thân.
Ƣớc mong đƣợc tự do yêu đƣơng, có đƣợc hạnh phúc thủy chung trọn vẹn
là mơ ƣớc của trai gái ở mọi thời kì, và mơ ƣớc ấy cũng đƣợc phản ánh trong ca
dao ngƣời Việt. Điều này thể hiện một quan niệm tiến bộ về tình yêu: Tình yêu
phải đi đến hôn nhân, và hôn nhân phải là kết quả của tình yêu chân thành mãnh
liệt.
Tiểu kết chương 2
Ca dao dân gian Việt Nam phản ánh các mặt đời sống xã hội với nhiều nội
dung phong phú, đa dạng thể hiện bằng thủ pháp đặc trƣng của ca dao. Một trong
các nội dung đƣợc ca dao miêu tả nhiều nhất là tình yêu lứa đôi đã đƣợc dân gian
truyền miệng từ đời này sang đời khác trên các cung bậc, cách tiếp biến khác
nhau làm ngƣời đời khắc sâu. Trong tình yêu lứa đôi, con ngƣời luôn có nhu cầu
bày tỏ tình cảm và có thái độ ứng xử với những cung bậc sắc thái khác nhau.
Tìm hiểu cách ứng xử về tình yêu trong ca dao giúp chúng ta hiểu sâu hơn
về tâm hồn ngƣời Việt để sống cho xứng đáng. Chắt lọc trong nội dung đó ta
thấy rằng: trong tình yêu bao giờ họ cũng rất thủy chung, trƣớc sau nhƣ một; tình
yêu trong ca dao cũng không chấp nhận sự ích kỷ, giả dối, là tình cảm tƣơi sáng

62
thuần khiết. Dù là tiếng yêu trong đau khổ, trong bất hạnh họ vẫn luôn đấu tranh
để đến cái đích: đƣợc tự do chọn lựa, đƣợc yêu bằng trái tim. Thủy chung - đó là
chân lý của tình yêu trong ca dao và trong bất kỳ thời đại nào, bởi bản chất của
tình yêu là không thể chia sẻ. Những tình cảm trong ca dao sẽ giúp chúng ta nhìn
nhận về chính mình, về tình yêu về cuộc sống để hạnh phúc chín trong tay.

63
CHƢƠNG 3: VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG HÔN NHÂN
3.1. Ứng xử trong quan hệ vợ chồng
Nhƣ đã thống kê ở trên, trong Kho tàng ca dao người Việt, chủ đề gia
đình có 1179 câu ca dao, trong đó quan hệ vợ chồng chiếm 690 câu, những câu
về ứng xử trong quan hệ vợ chồng là 439 câu. Nhƣ vậy, mảng ca dao phản ánh
quan hệ vợ chồng chiếm một số lƣợng lớn trong toàn bộ ca dao ngƣời Việt. Có
thể thấy những bài ca dao trữ tình về quan hệ vợ chồng nổi bật hai chủ đề quan
trọng: tiếng hát nghĩa tình và tiếng hát than thân của ngƣời vợ. Bên cạnh đó có
một số bài ca là tiếng hát của ngƣời chồng trong tình yêu với vợ con, với cha mẹ
già và có cả tiếng hát của những ngƣời nhân tình – ngƣời thứ 3 trong mối quan
hệ chồng vợ.
3.1.1. Đạo nghĩa chung trong quan hệ vợ chồng
Qua khảo cứu, chúng tôi nhận thấy khái niệm đạo nghĩa thƣờng đƣợc
các tác giả dân gian dùng để nói về quan hệ vợ chồng. Trong học thuyết Nho
giáo, chữ đạo cũng hay đƣợc sử dụng để nói về quan hệ gia đình, đó là đạo tam
tòng. Khảo cứu những câu ca dao có dùng đạo nghĩa, hoặc đạo, hoặc nghĩa, gồm
39 câu, chúng tôi thấy rằng khi dùng vỏ ngôn ngữ đạo nghĩa của Nho giáo, các
tác giả dân gian đã chuyển tải những nội dung gần gũi với nhận thức, tình cảm
và lối sống của dân tộc.
Theo các tác giả dân gian, đạo nghĩa vợ chồng rất nặng, rất sâu, rất khó,
với các nội dung là: ăn mày cũng theo nhau, ngàn dặm khôn quên, giận rồi lại
thƣơng, thƣơng, chịu khó chịu khổ, xa nhau vẫn nhớ, nhớ hoài không quên,
chăm nom chồng, hòa hợp, thuận hòa, không ngại xa gần, bền chặt, không rời
nhau, đợi chờ chồng, chung thủy, không tham giàu sang, không cần biết đói no,
sinh tử có nhau, cậy nhờ nhau. Một số câu ca dao tiêu biểu nhƣ:

64
- “Cầu mô cao bằng cầu danh vọng
Nghĩa mô nặng bằng nghĩa chồng con
Ví dù nước chảy đá mòn
Xa nhau nghìn dặm lòng còn nhớ thương”.
- “Ở sao như lụa đừng phai
Tình chồng nghĩa vợ nhớ hoài không quên”.
- “Đạo cương thường khó lắm bạn ơi
Chẳng dễ như ong bướm đậu rồi lại bay
Đạo cương thường khá dễ đổi thay
Dầu làm nên võng giá, rủi ăn mày cũng theo nhau”.
- “Chữ rằng: quân tử tạo đoan
Vợ chồng là nghĩa đá vàng trăm năm”.
- “Xét ra trong đạo vợ chồng
Cùng nhau tương cậy đề phòng nắng mưa”.
Các từ thể hiện đạo nghĩa ở đây thƣờng đƣợc dùng là: đạo vợ chồng, đạo nghĩa
vợ chồng, tình chồng nghĩa vợ.
Qua ca dao về đạo nghĩa vợ chồng, có thể thấy các tác giả dân gian cũng
nêu lên một quy luật bao quát thể hiện nguyên tắc sống của vợ chồng là chung
thủy trọn đời. Điều này thƣờng đƣợc biểu hiện qua các câu có từ trăm năm nhƣ:
Vợ chồng là nghĩa đá vàng trăm năm, Đạo vợ chồng trăm năm không phải một
ngày… Quy luật này là phổ biến, từ trong cuộc sống đời thƣờng mà ra, bởi từ khi
chƣa có Nho giáo, con ngƣời đã có khái niệm vợ chồng và thực tế cuộc sống lao
động cũng nhƣ tình cảm đã khiến cho sự chung thủy trọn đời là yêu cầu cần tất
yếu của quan hệ vợ chồng.

65
Trong ca dao về đạo nghĩa vợ chồng thì nội dung chính là những cách
thức ứng xử thắm thiết, tình cảm giữa hai vợ chồng trong hoàn cảnh sống gắn
với thiên nhiên, lao động. Đạo nghĩa vợ chồng thắm thiết, giản dị mà thuần phác,
thể hiện qua cách ngƣời vợ chăm sóc chồng chân thành bằng cả tấm lòng mình:
- “Thương chồng nấu cháo le le
Nấu canh bông bí nấu chè hạt sen”.
- “Em nghe anh đau đầu chưa khá
Em băng rừng bể lá anh xông
Ở làm sao cho trọn nghĩa vợ chồng
Đổ mồ hôi em chặm, ngọn gió lồng em che”.
Quan niệm về chữ nghĩa nhƣ trên cho thấy lối sống chất phác tình cảm chân thật
và thực tế của ngƣời nông dân thuộc xã hội nông nghiệp, một xã hội mà ở đó,
con ngƣời sống gắn bó, hòa hợp với thiên nhiên.
Nhƣ vậy, vấn đề đạo nghĩa vợ chồng đƣợc các tác giả dân gian đề cập
trong ca dao bao hàm cả ý nghĩa vật chất và tinh thần. Về phƣơng diện vật chất,
các tác giả dân gian nhắn nhủ rằng muốn làm tròn đạo nghĩa, vợ chồng cần thể
hiện sự âu yếm nhau, chịu đựng thiếu thốn, không phụ thuộc vào của cải. Về
phƣơng diện tinh thần, đạo nghĩa bao hàm cả tình cảm và ý chí: vợ chồng phải
thƣơng yêu, tƣơng trợ nhau, hòa thuận, chung thủy, không bị chi phối bởi không
gian và thời gian. Quan niệm và ứng xử nhƣ vậy, theo chúng tôi là hoàn toàn phù
hợp với cuộc sống bình dị của ngƣời Việt, không phải những triết lý quá cao
siêu.
Bên cạnh đó, có một bộ phận các câu ca dao là lời than thở về nỗi bất
hạnh trong quan hệ vợ chồng mà nguyên nhân là hậu quả của quan niệm và cách
thức ứng xử theo chế độ phong kiến, chịu sự áp chế của chế độ phụ quyền. Vì

66
thế, trong quan hệ vợ chồng, ngƣời phụ nữ luôn bị thiệt thòi, cay đắng. Những
trƣờng hợp này, chúng tôi gọi là thái độ ứng xử tiêu cực trong quan hệ vợ chồng.
Chúng tôi thống kê đƣợc 135 tình huống, trong đó loại tiêu cực đƣợc nhắc đến
nhiều nhất là: đa thê (39 câu), nghiện hút, cờ bạc (13 câu), phụ bạc (12 câu),
lẳng lơ không chung thủy (12 câu), đánh vợ (7 câu). Phản ánh những hiện tƣợng
này trong quan hệ vợ chồng, dân gian thể hiện những thái độ khác nhau, tuy
nhiên không gay gắt.. Các biểu hiện nhƣ nghiện hút, cờ bạc, đánh vợ.... đều
không đƣợc phê phán một cách trực tiếp.
3.1.2. Ứng xử của người vợ
3.1.2.1. Ứng xử tích cực ( sự gắn bó, hòa hợp)
Một trong những phẩm chất cao đẹp của ngƣời phụ nữ Việt chính là sự
hi sinh vì chồng. Ngƣời vợ bình dân có quan niệm rất gần với quan niệm Nho
giáo: chấp nhận theo chồng trong bất kì hoàn cảnh nào, nhƣng xuất phát từ tình
yêu thƣơng chứ không phải sự áp đặt:
“Có chồng thì phải theo chồng
Chồng đi hang rắn hang rồng cũng theo
Lấy chồng thì phải theo chồng
Đắng cay cũng chịu, mặn nồng cũng vui”.
Theo quan niệm phong kiến, ngƣời phụ nữ phải “tam tòng, tứ đức”, phải luôn
sống thật tốt, đạt tiêu chuẩn về công, dung, ngôn, hạnh mà gia đình, họ hàng và
xã hội yêu cầu. Những ngƣời vợ luôn sẵn sàng chấp nhận khó khăn, vất vả,
không quản ngại đắng cay, vất vả để phục vụ, chăm sóc chồng con chu đáo. Với
họ, đó chính là hạnh phúc lớn nhất của cuộc đời. Khi ở nhà mẹ đẻ, ngƣời phụ nữ
vâng theo lời dạy của cha “tại gia tòng phụ”, và khi đã lấy chồng, tình cảm sâu

67
nặng của họ lại dành cho chồng, luôn thƣơng yêu chăm sóc chồng bằng tất cả
tấm lòng:
- “Cha mẹ bú mớm nâng niu
Tội trời thì chịu, không yêu bằng chồng”.
- “Thương chồng nấu cháo le le
Nấu canh bông bí nấu chè hạt sen”.
Nếu các nhà Nho chú ý nhiều về vai trò của ngƣời đàn ông trong gia
đình, ngoài xã hội thì các tác giả dân gian luôn đề cao vai trò của ngƣời vợ.
Trong cuộc sống thƣờng nhật, ngƣời vợ dù có phải “thổi cơm nấu nƣớc một
mình” nhƣng khi có khách đến chơi thì vẫn “cơm ăn nƣớc uống cho vui lòng
chồng”. Đó chẳng phải cũng là biểu hiện của lòng yêu thƣơng, đức hy sinh vì
chồng hay sao?
Sự yêu thƣơng, hi sinh vì chồng đã đƣợc thể hiện qua những hình thức
cụ thể, trong đó có việc chăm chỉ lao động để nuôi chồng ăn học. Ngƣời vợ
trong gia đình bình dân thời xƣa luôn nêu tấm gƣơng hiền thục, biết hy sinh, chịu
đựng vất vả, nhọc nhằn để chồng có thể thỏa chí tang bồng “đua chen với đời”:
“Anh đi em ở lại nhà
Hai vai gánh vác mẹ già con thơ
Lầm than bao quản nắng mưa
Anh đi, anh liệu đua chen với đời”.
Vì sự thành đạt của chồng, ngƣời vợ sẵn sàng chiều chuộng, phục vụ chồng. Có
nhiều bài ca thể hiện tâm sự của ngƣời vợ có chồng đang dùi mài kinh sử để chờ
thời cơ thành đạt:
“Em thời canh cửi trong nhà
Nuôi anh ăn học đăng khoa bảng vàng

68
Trước là vinh hiển tổ đường
Bõ công đèn sách lưu phương đời đời”.
Tình yêu dành cho chồng cũng nhƣ ƣớc mơ mong chồng vinh hiển đã tiếp thêm
cho ngƣời vợ tảo tần sức mạnh tinh thần để sẵn sàng đối phó với bao thử thách
của cuộc đời, để vững tin vào tƣơng lai. Từ hành động, việc làm đến suy nghĩ,
niềm tin của họ đều giản dị, chân thành:
- “Em là con gái Phụng Thiên
Bán rau mua bút mua nghiên cho chồng
Nữa mai chồng chiếm bảng vàng
Bõ công tưới tắm vun trồng cho rau”.
- “Khuyên chàng đọc sách ngâm thơ
Dầu hao thiếp rót đèn mờ thiếp khêu”.
- “Xin chàng giữ lấy bút nghiên
Đừng tham nhan sắc chớ quên học hành
Nữa mai chiếm được khoa danh
Trước là vinh thiếp sau mình vinh thân”.
Các câu ca dao nói về việc đi học, đi thi của ngƣời đàn ông phần lớn
thông qua lời nói của ngƣời vợ, qua đó bộc lộ rõ rệt mục đích của việc học là đỗ
đạt, làm quan, vinh hiển cho gia đình, vợ con, nhƣ: “Bảng vàng chói rói bia đề
tên anh”, “ Chàng đi ngựa thắm, thiếp nay võng đào”... Có thể nói, việc vợ
chồng cùng nhau chăm bẵm vào con đƣờng khoa cử nhằm vinh hiển, trong đó
ngƣời chồng dấn bƣớc vào khoa trƣờng, ngƣời vợ thì tảo tần nuôi chồng ăn học
chính là biểu hiện của ảnh hƣởng Nho giáo vào gia đình ngƣời Việt, đồng thời
thể hiện tình yêu và sự hi sinh lớn lao của ngƣời vợ dành cho chồng. Câu ca dao:
“Sáng trăng trải chiếu hai hàng

69
Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ”.
đã vẽ nên bức tranh đặc trƣng sinh hoạt của một gia đình nhà nho, trong đó
ngƣời đàn ông – ngƣời chồng chăm lo đọc sách, học hành, còn ngƣời đàn bà –
ngƣời vợ chăm chỉ lao động. Cả hai vợ chồng đều tự giác chăm lo cho công việc
của mình, nhƣng ta vẫn nhận thấy đƣợc ngƣời vợ vừa làm vừa hƣớng tâm tƣởng
của mình về phía ngƣời chồng, chăm lo cho chồng chu đáo. Và do đó, quan hệ
vợ chồng càng thêm gắn bó, cũng nhƣ càng thấy đƣợc lòng yêu thƣơng, đức hi
sinh của vợ dành cho chồng.
Sự hi sinh vì chồng của ngƣời vợ còn đƣợc biểu hiện một cách rõ nét khi
chồng đi xa. Trong ca dao, chúng ta có thể nhận thấy càng xa cách chồng, ngƣời
vợ càng thể hiện sự gắn bó với chồng, vợ chồng càng xa cách lại càng thƣơng
yêu và gắn bó với nhau hơn. Trong 118 câu ca dao thể hiện sự xa cách vợ chồng,
hầu hết đều nói lên sự nhớ thƣơng day dứt của ngƣời vợ. Nguyên nhân của sự xa
cách này có thể do đi lính hay do chiến tranh (21 trƣờng hợp), do chồng đi học
xa (2 trƣờng hợp), chồng đi làm ăn (3 trƣờng hợp), vì các công việc khác (55
trƣờng hợp), hoặc cũng có khi chồng đi mà không nói lý do ( 9 trƣờng hợp).
Trong các tình huống khiến vợ chồng phải xa cách, đáng chú ý là các
tình huống thuộc về chiến tranh: ngƣời chồng phải đi lính. Thời phong kiến,
ngƣời chồng thƣờng phải đi lính để thực hiện nghĩa vụ với triều đình. Mọi công
việc trong gia đình đều đổ dồn lên đôi vai của ngƣời vợ. Ca dao cho thấy sự đảm
đang trong công việc gia đình, đồng áng của ngƣời vợ để ngƣời chồng yên tâm
lo việc quốc gia:
“Anh ơi ! Phải lính thì đi
Cửa nhà đơn chiếc đã thì có tôi
Tháng chạp là tiết trồng khoai

70
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà
Tháng ba cày vỡ ruộng ra
Tháng tư gieo mạ thuận hòa mọi nơi
Tháng năm gặt hái vừa rồi
Trời đổ mưa xuống, nước trôi đầy đồng
Anh ơi giữ lấy việc công
Để em cày cấy mặc lòng em đây”.
Cũng có khi, ca dao diễn tả thái độ khác của ngƣời vợ trƣớc cảnh chồng đi lính
nhƣ:
- Ngăn không cho đi:
“Anh đòi đi lính Tây bang
Em e anh bỏ mạng bãi hoang đất người”
- Đành phải cho đi “Phải lính thì đi”
- Lo lắng xót thƣơng cho chồng ngoài trận mạc “Hòn tên mũi đạn dạ em
càng không yên”.
- Oán trách sự bất công của xã hội “lấy chồng lính thiệt thua trăm
đường”.
- Lên án chiến tranh:
“Trời ơi sinh giặc làm chi
Bỏ nhà bỏ cửa mà đi chiến trường”
- Lo lắng cho cuộc sống gia đình:
“Lấy chi nuôi thầy với mẹ quanh năm
Đêm năm canh nằm nghĩ lại ruột tằm héo hon”.
Cũng có khi đó là lời trách móc chồng:
“Tây bang anh đi lính

71
Sao không tính việc nhà”
hay sẵn sàng gánh vác việc nƣớc thay chồng “Thiếp đi lính thế cho chàng ít
năm”.
Một tình huống đáng chú ý nữa về sự đi xa của ngƣời chồng là do gia
đình nghèo khó, phải đi làm ăn ở nơi khác. Khi đó mọi công việc cũng dồn lên
đôi vai của ngƣời vợ. Ngƣời vợ tảo tần gắng hoàn thành công việc nhà chồng,
vừa mong ngóng chồng về và nguyện thề chung thủy chờ chồng:
“Chim xa bầy thương cây nhớ cội
Vợ xa chồng đạo nghĩa nào sai
Vàng ròng cả lửa chẳng phai
Ở cho chung thủy có ngày gặp nhau”.
Dù ngƣời chồng đi đâu, vì lý do gì, ngƣời vợ vẫn luôn chờ đợi. Có 62
câu với 3 loại từ thể hiện trạng thái đợi chờ của ngƣời phụ nữ trong 102 trƣờng
hợp xa cách chồng, gồm: đợi (16 câu: Sáng chiều đăm đắm trông chừng đợi
anh), chờ (30 câu: Con thơ vợ dại trông chờ từ đây), trông (16 câu: Vợ trông
chồng lên núi đứng vọng phu).
Qua sự thể hiện tình cảm của ngƣời vợ trƣớc cảnh xa chồng chúng tôi
nhận thấy rất rõ ngƣời phụ nữ Việt luôn lo lắng cho chồng, sẵn sàng gánh vác
công việc cho chồng, kể cả việc đi lính, sẵn sàng chăm lo công việc nhà, dù chất
chồng lên bản thân là những khó khăn, hẫng hụt trong khi nhà mất đi trụ cột là
ngƣời đàn ông. Nhƣng việc làm này của ngƣời vợ là hoàn toàn tự giác, và chính
là biểu hiện của sự gắn bó vợ chồng. Do đó, phản ảnh tình cảnh xa cách của vợ
chồng, ca dao đã chứng minh một cách đầy thuyết phục sự gắn bó của vợ chồng
dựa trên tình thƣơng yêu và trách nhiệm với nhau.

72
Bên cạnh đó, thái độ ứng xử tích cực của ngƣời vợ còn đƣợc biểu hiện ở
sự hòa hợp vợ chồng, trƣớc hết là trong cảnh vợ chồng cùng lao động. Có 23
câu ca dao trực tiếp mô tả khung cảnh lao động, trong đó cho thấy vợ chồng
đồng tâm hiệp lực tạo dựng một cuộc sống no đủ, hạnh phúc. Về mặt lao động,
vợ chồng đều có sự phân công hợp lý và bình đẳng, việc mà chồng làm thì vợ
cũng làm ( ngoại trừ việc đi học). Công việc cũng đƣợc mô tả theo cặp tƣơng
xứng: chồng việc này thì vợ việc kia. Bên cạnh đó, ngoài làm việc tại nhà, ngƣời
phụ nữ cũng có dịp lao động ngoài xã hội, nhƣ đi buôn, đi làm mƣớn, đi bè... chứ
không chỉ loanh quanh việc trong nhà. Tuy nhiên, có điểm khác biệt là chồng có
thể làm việc nặng hơn, vợ có thể đƣợc làm việc nhẹ, yêu cầu sự khéo léo. Có thể
dẫn ra nhiều câu ca phản ánh khung cảnh gia đình êm ấm, chồng vợ thuận hòa
trong lao động và tình yêu thƣơng thắm thiết nhƣ:
- “Đôi ta vợ cấy chồng cày
Chồng nay sương sớm vợ nay sương chiều
Ta nghèo vui phận ta nghèo
Quản chi sương sớm, sương chiều hỡi anh !”
- “Bao giờ lúa trỗ vàng vàng
Cho anh đi gặt cho nàng quảy cơm”.
- “Kể chi trời rét đồng sâu
Có chồng có vợ rủ nhau cày bừa
Bây giờ trưa đã hồ trưa
Chồng vác lấy bừa, vợ dăt con trâu
Một đoàn chồng trước vợ sau
Trời rét mặc rét, đồng sâu mặc đồng”.

73
Cuộc sống gia đình có hạnh phúc, êm ấm thì phải do cả hai vợ chồng
cùng quyết định. Nếu chỉ có sự cố gắng của một phía thì không thể nào có đƣợc
hạnh phúc. Ca dao cho thấy hình ảnh ngƣời phụ nữ hết mực yêu thƣơng, kính
trọng chồng nhƣng luôn chủ động trong mọi việc chứ không hoàn toàn phụ thuộc
vào chồng. Có những câu ca khắc họa hình ảnh ngƣời phụ nữ đảm đang, tháo
vát, biết lo liệu, sắp xếp, gánh vác công việc gia đình:
“Anh về hái đậu trảy cà
Để em đi chợ kẻo mà lỡ phiên
Chợ lỡ phiên tốn công thiệt của
Miệng tiếng người cười rủa sao nên
Lấy chồng phải gánh giang sơn
Chợ phiên còn lỡ giang sơn còn gì !”
Chính sự hòa thuận, yêu thƣơng gắn bó của hai vợ chồng, đặc biệt là tình cảm
yêu thƣơng, sự đảm đang của ngƣời vợ đã tạo nên sức mạnh để vợ chồng vƣợt
qua mọi gian lao thử thách, thực hiện mơ ƣớc chia ngọt sẻ bùi:
- “Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”.
- “Đèn lồng khi xách khi treo
Vợ chồng khi thảm, khi nghèo có nhau”.
Một trong những điểm nổi bật của những bài ca dao về quan hệ vợ
chồng là ca ngợi lòng chung thủy của những ngƣời bình dân, nhất là của ngƣời
vợ. Đó cũng là cách ứng xử thể hiện sự hòa hợp vợ chồng. Lòng chung thủy là
yếu tố quan trọng giúp cho gia đình yên ấm hạnh phúc, quan hệ vợ chồng thắm

74
thiết, vững bền. Lòng chung thủy ấy đƣợc bộc lộ cả khi chồng còn hay khi chồng
đã mất. Ca dao cho thấy ngƣời vợ bình dân biết giữ ý tứ, giữ mình để không xảy
ra điều tiếng:
- “Có chồng bớt áo thay vai
Bớt màu trang điểm kẻo trai nó lầm”.
- “Có chồng thủ phận thủ duyên
Trăm con bướm đậu cửa quyền cũng lui”.
Ngƣời vợ đảm đang, tháo vát những không thoát khỏi cảnh nghèo túng.
Điều đáng quý, đáng trân trọng ở họ là tình cảm mộc mạc trong sáng, nghĩa tình
sâu nặng với chồng. Có những bài ca dao sống mãi với thời gian bởi tình yêu
thƣơng chân chất của ngƣời bình dân đã thấm đƣợm và tỏa sáng trong đó:
“Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người”.
Tình yêu thiết tha của vợ dành cho chồng còn thƣờng trực ngay cả trong lao
động:
- “Đạp xe nước chảy lên đồng
Bao nhiêu nước chảy thương chồng bấy nhiêu”.
- “Qua đồng ngả nón thăm đồng
Đồng bao nhiêu lúa thương chồng bấy nhiêu”.
Ngay cả khi chồng không còn nữa, phải sống trong cảnh góa bụa, những ngƣời
vợ dịu hiền ấy vẫn một lòng một dạ thờ chồng, thủy chung với chồng.
Thủy chung son sắt với chồng là thế, nhƣng ngƣời phụ nữ xƣa cũng
không chấp nhận cảnh chung chồng, “một chĩnh đôi gáo”. Họ bày tỏ quan điểm
một cách rõ ràng:
- “Đói lòng ăn nắm lá sung

75
Chồng một thì lấy chồng chung thì đừng”.
- “Vợ đôi chồng một ra gì
Mỗi người một bụng ở thì sao nên”.
- “Khó thì đòn gánh đè vai
Tội chi làm mọn cho ai giày vò”.
Ngƣời vợ chấp nhận khó khăn thiếu thốn chứ không an phận cuộc sống lẽ mọn
“nhƣ giành thủng trôn”, “khác nào nhƣ cái bung xung chịu đòn”. Câu ca dao:
“Nhất là làm lẽ thứ mười
Còn hơn làm cả những người đần ngu”.
chỉ là một cách nói của ngƣời vợ khi họ thấy cần lựa chọn một ngƣời chồng cho
đáng tấm chồng mà thôi.
Ngƣời xƣa có câu “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”. Câu nói nhằm
thể hiện vai trò của ngƣời phụ nữ, ngƣời vợ trong việc giữ lửa hạnh phúc cho gia
đình. Và để có đƣợc hạnh phúc ấy, thì sự nhịn nhƣờng, nhẫn nại tôn trọng lẫn
nhau là điều cực kì quan trọng. Sự kiên nhẫn, nhịn nhường của người vợ giúp
mọi ngƣời, đặc biệt là ngƣời chồng hiểu và tin tƣởng họ hơn. Nhẫn là một quan
điểm triết học, đồng thời là điều trong phạm vi luân lý giáo dục của Nho học. Nó
giúp ngƣời vợ có thể cùng chồng dung hòa những bất đồng để giữ hòa khí, tạo
sự nhịn nhƣờng, đƣa gia đình đến bến thuận hòa:
- “Chồng giận thì vợ bớt lời
Cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê”.
- “Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cười chúm chím: Thưa anh giận gì?
Thưa anh, anh giận em chi
Có lấy vợ bé em thì lấy cho!”

76
Ý rằng “lấy vợ bé” cho chồng theo chúng tôi chỉ là cách nói của ngƣời vợ để
chồng nguôi giận, chứ chƣa hẳn là cổ vũ cho việc đa thê. Nhƣng đó lại là một
cách ứng xử vô cùng uyển chuyển, khéo léo và không kém phần duyên dáng của
ngƣời vợ. Chắc chắn rằng ngƣời chồng chẳng nỡ giận đƣợc lâu.
Cũng có trƣờng hợp ngƣời vợ biết mình có lỗi đã kiên nhẫn nói với
chồng những lời dịu dàng, thiết tha để mong chồng khoan dung tha thứ:
“Chàng ơi thiếp có lỗi lầm
Xin chàng đóng cửa âm thầm dạy nhau”.
Thậm chí, có khi ngƣời vợ bị đòn roi của chồng mà vẫn nhẫn nhịn, giữ đƣợc sự
dịu dàng, đôn hậu:
“Dang tay đánh thiếp sao đành
Tay rách ai vá, tấm lành ai may?”
Có thể nói, trong mối quan hệ với chồng, ngƣời phụ nữ luôn nhẫn nại,
cam chịu, thuỷ chung và son sắt. Dù phải gánh chịu biết bao khổ đau, bất hạnh,
vẻ đẹp của những đức tính đó của họ vấn tỏa sáng và trƣờng tồn. Vẻ đẹp ấy nhƣ
những viên ngọc thô mà thời gian, những bất hạnh khổ đau là chất xúc tác mài
giũa, càng ngày càng toả sáng lấp lánh.
3.1.2.2. Ứng xử tiêu cực
Trƣớc hết, đó là thái độ ứng xử trước nạn tảo hôn, lấy chồng già, hôn
nhân sắp đặt. Khi hôn nhân không khởi nguồn từ tình yêu thì dù cho cuộc hôn
nhân ấy có đƣợc những luật lệ khắt khe của chế độ phong kiến bảo vệ thì cũng
không tránh khỏi bi kịch, đổ vỡ. Có thể những cuộc hôn nhân sắp đặt ấy không
hoàn toàn do lỗi của ngƣời chồng, mà do xã hội phong kiến tạo ra, thế nhƣng
cảnh ngang trái: chồng già, vợ trẻ, chồng bé, vợ lớn đã để lại cho ngƣời vợ nhiều
nỗi khổ tâm. Đó là lời than trách của những ngƣời vợ chịu cảnh lấy chồng già:

77
- “Bữa cơm múc nước rửa râu
Hầu cơm, hầu rượu, hầu trầu, hầu tăm
Đêm đêm dắt cụ đi nằm
Than thân phận gái ôm lưng lão già
Ông ơi, ông buông tôi ra !
Kẻo ai trông thấy người ta chê cười”.
- “Gà tơ xào với mướp già
Vợ hai mươi mốt chồng đà sáu mươi
Ra đường chị giễu em cười
Rằng hai ông cháu kết đôi vợ chồng
Đêm nằm tưởng cái gối bông
Giật mình gối phải râu chồng nằm bên
Sụt sùi tủi phận hờn duyên
Oán cha, trách mẹ tham tiền bán con”.
Có ngƣời vợ lấy chồng già, còn phải chịu nỗi tủi nhục khổ tâm vì khát khao có
con, khát khao đƣợc làm mẹ mà khó thành hiện thực:
“Vô duyên lấy phải chồng già
Ra đường bạn hỏi rằng “cha” hay “chồng”
Nói ra đau đớn trong lòng
Chính thức là chồng có phải cha đâu
Ngày ngày vác cối giã trầu
Tay thời rót nước, tay hầu cái tăm
Đến đêm đưa lão đi nằm
Thiếp đặt lão xuống, lão nằm trơ trơ
Hỡi ông lão ơi! Ông trở dậy cho thiếp tôi nhờ

78
Để thiếp tôi kiếm chút con thơ bế bồng
Nữa mai người có, thiếp không
Xấu hổ với chúng bạn, cực lòng mẹ cha”.
Đau khổ khi phải lấy ngƣời chồng già, ngƣời vợ oán thán và thậm chí coi đó nhƣ
“cái nợ truyền kiếp” của đời mình:
“Vô duyên vô phúc
Múc phải anh chồng già
Ra đường người hỏi rằng: Cha hay chồng?
Nói ra đau đớn trong lòng
Ấy là cái nợ truyền kiếp có phải chồng em đâu”.
Lại có những ngƣời vợ phải chịu nỗi xót xa khi lấy phải một người chồng
trẻ con:
- “Cái bống cõng chồng đi chơi
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng
Chú lái ơi, tôi mượn chú cái cỗ gàu sòng
Tôi tát tôi múc cho chồng tôi lên”.
- “Dưng dưng như cá vào lờ
Khi vào thì dễ bây giờ khôn ra
Tiếc thay hoa hỡi là hoa!
Mùa xuân chẳng nở, nở ra mùa hè
Tiếc thay hoa nở làm chi?
Hoa nở lỡ thì lại phải mùa đông
Chồng lớn vợ bé đã xong
Chồng bé vợ lớn trong lòng đắng cay”.

79
Hôn nhân là chuyện đại sự, là việc lớn của cả đời ngƣời. Vậy mà ngay
chính ngƣời trong cuộc cũng không biết ngƣời bạn đời của mình là ai:
“Lấy chồng chẳng biết mặt chồng
Đêm nằm tơ tưởng nghĩ ông láng giềng”.
Cũng có khi ngƣời vợ tự chuốc lấy bất hạnh. Đến khi tỉnh ngộ thì đã quá
muộn, họ chỉ còn biết than vắn thở dài:
“Tham giàu em lấy thằng chồng bé tí tì ti
Làng trên xóm dưới thiếu gì trai tơ
Em đem thân cho thằng bé nó giày vò
Mùa đông tháng giá nó nằm co trong lòng
Cũng đa mang là gái có chồng
Chín đêm trực tiết nằm không cả mười
Nói ra sợ chị em cười
Má hồng thiệt quá bỏ đời xuân xanh”.
Có thể thấy trong những cuộc hôn nhân do nạn tảo hôn thì sự thiệt thòi và
đau khổ luôn là những ngƣời phụ nữ phải gánh chịu. Đối mặt với chuyện này, họ
chỉ biết than thở, trách phận chứ chƣa thực sự có đƣợc giải pháp tối ƣu để tháo
gỡ cho bản thân. Cũng có những câu ca khuyên ngƣời phụ nữ nên có sự tỉnh táo,
sáng suốt để xây đắp hạnh phúc cho bản thân:
“Tội chi mà lấy chồng non
Sớm chồng mà lại muộn con bạn cười”.
Táo bạo hơn, có những câu ca lớn tiếng phản đối hôn nhân sắp đặt, xui những
ngƣời vợ nổi loạn, đi ngƣợc lại quy chuẩn của lễ giáo phong kiến. Đó là bỏ
chồng để đi theo tiếng gọi của tình yêu, để đƣợc lấy ngƣời mình yêu:
“Trăm khúc sông khúc lở khúc bồi

80
Miệng chàng nói thế, chàng ngồi chàng trông
Gió bên đông xin chàng gỡ giúp
Ngón tay tháp bút mà chấm chậu lan
Dù ai nói ngang, chàng đừng ngao ngán
Trước thì là bạn, sau nên vợ chồng
Em còn trong tròng xin chàng thong thả
Em quyết trận này trả của lấy anh
Em hai mươi tuổi xuân xanh
Thầy mẹ ép uổng dỗ dành vào cửa người ta
Cho nên duyên chẳng thuận hòa
Vợ chồng xung khắc, xót xa nhiều bề”.
Tuy nhiên, số lƣợng những câu ca có nội dung nhƣ vậy còn rất hạn chế.
Cũng có khi ngƣời phụ nữ lấy phải người chồng bất tài, tệ nạn, phụ tình,
ngoại tình, lấy chồng nhà giàu, hay phải đối mặt với nạn đa thê. Đứng trƣớc
những tình cảnh đó, ngƣời phụ nữ - ngƣời vợ có những thái độ ứng xử khác
nhau.
Trƣớc hết là cách ứng xử của ngƣời phụ nữ - ngƣời vợ trƣớc cảnh chồng
ngoại tình. Ở bất cứ một xã hội nào thì sự thủy chung gắn kết chồng vợ vẫn luôn
đƣợc đề cao. Nhƣng đôi khi, mối quan hệ vợ chồng bị rạn vỡ do sự thay lòng đổi
dạ của ngƣời trong cuộc. Ca dao đã có nhiều câu ca nói lên sự rạn nứt trong quan
hệ vợ chồng mà nguyên nhân là do chồng ngoại tình.
“Đi thời nhớ vợ nhớ con
Về thời nhớ củ khoai môn trên rừng”
Trƣớc việc làm này của ngƣời chồng, ngƣời vợ trong ca dao đã cất lời than trách:
- “Hồi nào lấy em, anh nói với em một rằng thương hai rằng thương

81
Đến nay anh ở ra dạ điếm đàng
Trời cao có mắt, anh có trốn lên ngàn cũng chẳng yên”.
- “Khi xưa anh ở cùng ai
Bây giờ đặng chiếc thuyền hai, phụ đò
Khi xưa anh ở cùng đò
Bây giờ đò lủng anh mò thuyền quyên”.
Có trƣờng hợp, chẳng dừng lại ở mức độ than thân trách phận, những
ngƣời vợ đã cất lời nhƣ một sự cảnh cáo:
“Vợ anh xấu máu hay ghen
Anh đừng lấp lửng chơi đèn hai tim”
Có những cuộc hôn nhân mà ngƣời vợ không tìm thấy đƣợc hạnh phúc do
lấy phải người chồng tệ nạn, có những thói hƣ tật xấu nhƣ cờ bạc, rƣợu chè, vũ
phu... Tất cả những điều đó cũng khiến cho quan hệ vợ chồng trở nên rạn nứt,
không đƣợc gắn kết. Những ngƣời vợ ấy phải sống triền miên trong nỗi buồn và
họ đã thể hiện nỗi bất hạnh của bản thân bằng lời ca tƣởng nhƣ bông đùa:
“Thằng chồng em là đứa vô nghì
Tổ tôm xóc đĩa việc gì cũng ngoan”.
Cũng có khi, nỗi buồn, nỗi bất hạnh của ngƣời vợ lấy phải ngƣời chồng mắc phải
thói hƣ tật xấu lại đƣợc thể hiện trực tiếp qua lời than vãn:
- “Anh ham xóc đĩa cò quay
Lại hay cờ bạc, máu mê rượu chè
Eo sèo công nợ tứ bề
Kẻ lôi người kéo ê chề lắm thay.
Nợ nần em trả, chàng vay
Kiếp em là kiếp kéo cày đứt hơi”.

82
- “Anh thua chi thua dại thua khờ
Nhà cửa anh thua hết, đồ thờ anh cũng thua
Nay chừ em còn cái quần lãnh mới mua
Anh năn năn, nỉ nỉ anh lại thua cho rồi
Con anh đứa đặt, đứa ngồi
Em than, em khóc chồng ơi là chồng!”
Ca dao xƣa đã ví đàn bà nhƣ hạt mƣa sa quả không sai chút nào. Ngƣời
phụ nữ khi lấy chồng thì luôn ƣớc mong, khát khao có đƣợc một cuộc sống hạnh
phúc, có đƣợc chỗ dựa là chồng. Thế nhƣng thật bất hạnh cho những ai lấy phải
ngƣời chồng bất tài, tệ bạc. Đối mặt với tình cảnh ấy, những ngƣời vợ tội nghiệp
chỉ biết than thở, trách phận:
“Lấy chồng gặp phải kẻ tồi
Cho nên lòng những bồi hồi đắng cay
Cả ngày chỉ rượu với say
Khi nay thuốc phiện, khi nay tài bàn
Nói ra mang tiếng phũ phàng
Nín đi thì não can tràng xiết bao !
Cũng thì phận gái má đào
Người thì gặp được anh hào đảm đang
Mình thì cũng dự phấn hương
Gặp nơi lêu lổng chẳng thương chút nào!”
Trƣớc thói cờ bạc đã ăn vào máu xƣơng của ngƣời chồng, ngƣời vợ đã lựa
lời khuyên nhủ:
“Thương ai cho bằng thương chồng
Bởi chồng cờ bạc nên lòng chẳng thương

83
Khuyên chàng cờ bạc thì chừa
Rượu chè trai gái say sưa mặc lòng”.
Tội nghiệp biết mấy cho những ngƣời vợ tự thấy mình là vật gán nợ, thế chấp
cho chồng. Và khi đã không thể khuyên nhủ, can ngăn, họ chỉ biết than thở, van
nài chồng. Lời than thở, van nài ấy của họ thật xót xa:
“Nước nguồn chảy xuống soi dâu
Thấy anh đánh bạc dắt trâu đi cầm
Cầm trâu, cầm áo, cầm khăn
Cầm dây lưng lụa, xin đừng cầm em”.
Nỗi bất hạnh của ngƣời vợ có khi còn xuất phát từ việc lấy phải anh chồng
bất tài, vô tích sự:
- “Chồng người thổi sáo thổi tiêu
Chồng em ngồi bếp húp riêu bỏng mồm”.
- “Chồng người năng văn năng vũ
Chồng tôi chỉ chủ miếng ăn”.
- “Rượu chè cờ bạc lu bù
Hết tiền đã có mẹ cu bán hàng”
Có thể nói, cuộc sống với biết bao gian truân, cơ cực. Ngƣời chồng đáng
lẽ là chỗ dựa vững chắc cho vợ, thế nhƣng có những ngƣời chồng lại trở thành
gánh nặng, niềm đau, là tai ƣơng của những ngƣời vợ. Ca dao đã thẳng thắn phê
phán những ngƣời chồng cờ bạc, vô tích sự, phụ tình, bỏ bê con thơ, để vợ phải
đắng cay, tủi nhục.
Không những thế, thái độ ứng xử của ngƣời vợ Việt còn đƣợc biểu hiện
rõ qua cách nhìn nhận về nạn đa thê. Ngƣời Việt chịu ảnh hƣởng của Nho giáo,
của chế độ phụ quyền, trong đó cho phép ngƣời đàn ông có quyền năm thê bảy

84
thiếp. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng rạn
nứt ở mối quan hệ chồng vợ. Thái độ ứng xử của những ngƣời vợ trƣớc tình
trạng này cũng đa chiều:
Có những ngƣời vợ chấp nhận:
“Có ai lấy lẽ chú tôi thì vào
Thím tôi chả bảo làm sao
Nói lên vài tiếng lào nhào mấy câu”.
Nhƣng cũng có ngƣời bày tỏ sự phản đối:
- “Đói lòng ăn nắm lá sung
Chồng một thì lấy chồng chung thì đừng”.
- “Khó chi đòn gánh đè vai
Tội chi làm mọn cho ai giày vò”.
- “Mật ngọt rót xuống thau đồng
Những lời anh nói cho lòng em say
Một trâu anh sắm đôi cày
Một chàng đôi thiếp có ngày oan gia
Chàng ơi! Chàng cho em ra
Lẽ đâu một ổ đôi gà ấp chung”.
Nhƣng cũng có khi là thái độ trách móc trƣớc nạn đa thê. Tuy nhiên,
cách ứng xử của người vợ cả và người vợ lẽ dẫu có điểm tương đồng là sự phản
đối, trách móc, nhưng sự phản đối và trách móc của hai đối tượng này cũng có
nhiều điểm khác biệt.
Thái độ ứng xử của người vợ cả với việc chồng có vợ bé, hay thấy
chồng tỏ ý muốn lấy vợ bé, lắm khi là sự phản ứng mạnh mẽ, quyết liệt:
- “Năm ngoái anh mới sang Tây

85
Đồn anh buôn bán năm nay phát tài
Lòng anh muốn lấy vợ hai
- Rằng: Nhà có thuận nay mai nó về?
Rồi ra một quán đôi quê
Tôi muốn nó về làm bạn sớm hôm
Trước là sinh tử sinh tôn
Sau nữa thờ phụng tông môn ông bà
Trước con nhà, sau ra con nó
Xin nhà rồi chớ có ghen tuông
Chợ rộng thì lắm gái buôn
Sông rộng lắm nước trong nguồn chảy ra
Lòng anh ăn ở thật thà
Coi nó mười tám coi nhà hai mươi
Lòng anh chẳng có như người
Có mới nới cũ tội Trời ai mang
Lòng anh ăn ở bằng ngang
Nó giàu bằng mấy cũng nàng thứ hai
- Thôi thôi, tôi biết anh rồi
Bụng anh nông nổi giếng khơi không bằng
Bây giờ anh khéo khôn ngoan
Sao anh tư túi tôi làm chi anh
Anh mà bắt chước Thúc Sinh
Thì anh đừng trách vợ mình Hoạn Thư.
Cũng có trƣờng hợp ngƣời vợ cả chấp nhận lấy vợ bé cho chồng:
“Trong làng bà tú bà cai

86
Có khôn thì lấy vợ hai cho chồng”.
Nhƣng nhìn chung, không ngƣời phụ nữ nào mong muốn phải chịu cảnh chung
chồng, phải chia sẻ chồng với ngƣời khác. Đứng trƣớc cảnh chồng có vợ bé mà
không thể làm gì, ngƣời vợ cả chỉ biết cất lời than trách:
- “Được bóng ông trăng chớ phụ bóng đèn
Phòng này, phòng nọ chớ quên phòng nào
Mới yêu mà cũ cũng yêu
Mới có mĩ miều, cũ có công lênh
Trách anh chàng ăn ở ra dạ làm thinh
Chơi hoa không thẹn với cành hoa ru”.
- “Gió đưa bụi chuối sau hè
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ”.
- “Khi anh mặt bủng da chì
Tay bưng bát thuốc, tay thì bát canh
Bây giờ anh đẹp anh xinh
Anh lấy vợ bé phụ tình thiếp chăng?”.
Cũng có khi ngƣời vợ nhẹ nhàng thủ thỉ, nhƣng lời thủ thỉ ấy lại chứa đựng quan
điểm rõ ràng của bản thân:
“Không thương để thiếp lui ra
Tội gì một ổ để đôi gà ấp chung”.
Xã hội phong kiến cho phép “trai quân tử năm thê bảy thiếp, gái chính
chuyên chỉ có một chồng” đã gây ra bao cảnh đau lòng. Trƣớc cảnh ngộ ấy,
những người vợ lẽ - những người chịu nhiều thua thiệt hơn cất tiếng giãi bày xót
xa, cay đắng:
- “ Thân em đi lấy chồng chung

87
Khác nào như cái bung xung chịu đòn”.
- “ Thân em làm tốt làm lành
Lấy chồng làm lẽ như giành thủng trôn”.
Phản đối nạn chồng chung là thế, nhƣng đôi khi ngƣời phụ nữ chấp nhận làm lẽ.
Đó có thể vì thỏa mãn khát khao đƣợc sống cùng một đấng quân tử trƣợng phu,
ƣớc vọng có một tấm chồng tài giỏi:
- “Thà rằng làm lẽ thứ mười
Còn hơn chánh thất những người đần ngu”.
- “Thà rằng làm tiểu tinh chàng
Còn hơn chính thất những đoàn vũ phu”.
Cũng có khi vì một lý do nào đó, có thể vì nghèo túng, vì quá lứa lỡ thì mà ngƣời
phụ nữ phải chấp nhận lấy lẽ, làm lẽ. Dù chấp nhận nhƣng từ tận đáy lòng, họ
vẫn luôn khát khao có đƣợc hạnh phúc chính đáng nhất của một con ngƣời.
- “Thân em làm lẽ chẳng hề
Có như chính thất mà lê giữa giường
Tối tối chị giữ mất buồng
Còn em manh chiếu nằm suông chuồng bò
Mong chồng, chồng chẳng xuống cho
Đến cơn chồng xuống gà o o gáy dồn
Cha mẹ con gà kia ! Sao mày vội gáy dồn
Mày làm cho ta mất vía kinh hồn về nỗi chồng con”.
- “Thân em làm lẽ chẳng hề
Có như chính thất mà lê giữa giường
Tối tối chị giữ mất buồng
Cho em manh chiếu đắp suông nhà ngoài

88
Sáng sáng chị gọi: Ớ Hai !
Bấy giờ trở dậy thái khoai đâm bèo
Vì chưng bác mẹ tôi nghèo
Cho nên tôi phải đâm bèo thái khoai”.
Có thể nói, thái độ của ngƣời vợ về tình trạng đa thê trong ca dao, phần
nhiều là sự than thở, trách móc. Điều này cho thấy ngƣời Việt chịu ảnh hƣởng
của Nho giáo, của chế độ phụ quyền, trong đó cho phép ngƣời đàn ông có quyền
năm thê bảy thiếp. Mặt khác, nó còn cho thấy lối ứng xử cam chịu của ngƣời phụ
nữ xƣa, đồng thời cũng là vấn đề nhức nhối hằn sâu trong tâm tƣ của ngƣời phụ
nữ.
Mặt khác ca dao cũng ghi lại những cách ứng xử, những biểu hiện đƣợc
coi là những thói hƣ tật xấu của ngƣời phụ nữ. Đó chính là hành vi ngoại tình,
chồng vừa chết đã theo trai, muốn tái giá, muốn bỏ chồng, bắt nạt chồng, thói
đỏng đảnh, sự vụng về. Có những nguyên nhân khiến quan hệ vợ chồng trở nên
không gắn bó, đó là do vợ hƣ, hay do những thói xấu của ngƣời vợ nhƣ tính tình
đỏng đảnh hay sự vụng về:
- “Bây giờ tiền hết, gạo không
Anh ơi trở lại mà trông lấy hòm.
Bao giờ tiền có, gạo còn
Bấy giờ tôi lại giữ hòm cho anh.
Anh đánh thì tôi chịu đòn
Tính tôi hoa nguyệt mười con chẳng chừa.
Chồng đi thì có chồng nhà
Hơi đâu mà đợi chồng xa trở về”.
- “Gái sao chồng đánh chẳng chừa

89
Đi chợ vẫn giữ cùi dừa, bánh đa”.
- “Xưa nay ăn những của chồng
Mới có một đồng đỏng đảnh ăn riêng”.
Ca dao cũng lên tiếng chỉ trích mạnh mẽ những người vợ ngoại tình,
không chính chuyên. Với thói xấu ấy, những ngƣời vợ này phải gánh chịu đòn
roi của chồng cũng nhƣ sự chê cƣời của thiên hạ:
- “Lạ cho cái gái lộn chồng
Lộn thời chẳng được chạy dông chạy dài
Chạy ra đến ngõ ông cai
Ông cai vớ được đánh hai mươi vồ”.
- “Rừng xanh con cọp nó gầm
Hỡi cô chồng đánh la rầm xóm kia
Đầu đuôi bởi tại duyên chi
Hay là bởi tại cô mi ve ông lái mành”.
Cũng có những câu ca thể hiện thái độ ngạo mạn, bất chấp của ngƣời vợ:
- “Có chồng thì mặc có chồng
Còn đi chơi trộm kiếm đồng mua rau”.
- “Có chồng thời mặc có chồng
Ở đây vắng vẻ tơ hồng cứ xe”.
- “Tội gì mà ở chính chuyên
Một đêm là tám quan tiền ai cho”.
- “Xống thâm vất ngọn cành hồng
Loạn trôn từ thủa vắng chồng đến nay”.
Từ góc độ đạo đức truyền thống, thái độ trên của ngƣời vợ khó có thể
chấp nhận. Song nguyên nhân của tình trạng này, có lẽ một phần do xã hội trọng

90
nam khinh nữ, ngƣời phụ nữ - ngƣời vợ không chỉ khổ sở vì phải lao động quá
sức mà còn bị khinh rẻ, bị trói buộc, bị phụ tình. “Con giun xéo lắm cũng quằn”,
ngƣời phụ nữ - ngƣời vợ không phải lúc nào cũng cúi đầu cam chịu. Ca dao phần
nào cũng bày tỏ thái độ đồng tình với ngƣời phụ nữ khi họ dám chứng tỏ bản
lĩnh, chống lại sự bất công của xã hội, dù rằng số lƣợng những câu ca có nội
dung nhƣ vậy là rất ít. Đó là những câu ca dao phản ánh thái độ bất cần của
ngƣời phụ nữ, nhƣ sự phủ nhận về chữ “trinh”, nhƣ một thói xấu để trêu ngƣơi
đấng nam nhi, đó là tính lẳng lơ. Tình trạng này lại dẫn đến hệ quả là trong ca
dao, khuyết điểm bị nhắc đến nhiều nhất của ngƣời phụ nữ là tính lẳng lơ, đàng
điếm với thái độ dè bỉu, khinh khi. Dân gian đã theo dõi từng trạng thái của
ngƣời phụ nữ để có những cảnh huống khác nhau, lột tả những thói xấu của
ngƣời phụ nữ: khi ở với chồng thì dành “quả ngọt” cho “trai”, đang sống với
chồng cũng “nom chồng người”, khi xa chồng thì “Nhớ chồng thì ít nhớ trai thì
nhiều”. Thậm chí tới mức “Loạn trôn từ thuở vắng chồng tới nay”, hay bị chồng
đánh vì “ve ông lái mành”, hoặc ngông cuồng tới mức:
“Chữ trinh đáng giá nghìn vàng
Từ anh chồng cũ đến chàng là năm
Còn như yêu vụng dấu thầm
Họp chợ trên bụng đến trăm con người”.
và rồi:
“Có chồng càng dễ chơi ngang
Đẻ ra con thiếp, con chàng, con ai”.
Đến khi chồng chết cũng chẳng thờ chồng đƣợc ở mức tối thiểu:
“Chồng tôi mới được ba ngày
Ai ơi có đợi tôi rày hay không?”

91
Những biểu hiện trên cho thấy trong xã hội phong kiến, ngƣời phụ nữ
dám bung phá để đƣợc sống theo sở thích riêng, mặt khác còn cho thấy dƣ luận
hết sức quan tâm và khắt khe đối với ngƣời phụ nữ. Điều này vừa biểu hiện sự
áp chế của lễ giáo phong kiến đối với ngƣời phụ nữ, vừa thể hiện sự chống đối
của ngƣời phụ nữ với chính lễ giáo ấy.. Xã hội nƣơng nhẹ cho khuyết điểm của
những ngƣời đàn ông, trong đó có cả những thói xấu trong xã hội nhƣ đa thê, cờ
bạc, rƣợu chè, đánh vợ, nhƣng lại ngặt nghèo với những khuyết điểm của ngƣời
phụ nữ. Rõ ràng, ca dao cho thấy trong tâm thức dân gian, ý thức phụ quyền đã
có sự chi phối nhất định đến cách nhìn nhận, đánh giá của dân gian về cách thức
ứng xử trong quan hệ vợ chồng.
Cuộc hôn nhân có đƣợc sự ấm êm, hạnh phúc thì cả hai phải cùng nhau
xây đắp. Thế nhƣng có những người vợ lại có thói đành hanh, lấn lướt, bắt nạt
chồng. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho mối quan hệ
chồng vợ chẳng đƣợc thuận hòa, ấm êm:
- “Làm gì những thói đưa đong
Gái bắt nạt chồng, em chẳng có ngoan”.
- “Nước sông đổ lẫn nước ngòi
Con gái Linh Xá cầm roi đánh chồng
Nước sông đổ lẫ nước đồng
Con gái Linh Xá dạy chồng bằng dao”.
- “Nước sông pha lẫn nước đồng
Con gái Phú Thọ đánh chồng cả đêm”.
3.1.3. Ứng xử của người chồng
Phản ánh sự gắn bó trong quan hệ vợ chồng, ca dao đã cho thấy thái độ
của ngƣời chồng: không tham giàu mà chuộng tính nết vợ, đón đƣa vợ, bỏ qua

92
khuyết tật của vợ, không vong vợ, thƣơng yêu bố mẹ vợ, cùng hƣởng vinh hoa
phú quý, chăm sóc vợ. Một số câu ca tiêu biểu nhƣ:
- “Đôi bên bác mẹ tư tề
Anh đi làm rể em về làm dâu
Chẳng tham nhà gỗ xoan đâu
Tham vì một nỗi em mau miệng cười
Trăm quan mua một miệng cười
Trăm quan không tiếc, tiếc người hồng nhan”.
- “Làm trai giữ trọn ba giềng
Thảo thân, ngay chúa, vợ hiền chớ vong”.
- “Mẹ nàng khác thể mẹ ta
Phận dù đói rách, thiệt thà anh thương”.
- “Trời hè lắm trận mưa rào
Gặt sớm phơi sớm liệu sao cho vừa
Khuyên em chớ ngại nắng mưa
Của chồng công vợ, bao giờ quên nhau”.
Ngƣời chồng hiện lên thật bình dị, không oai phong, sang giàu mà rất gần gũi,
đồng cảnh với ngƣời vợ. Và điều đặc biệt đáng quý ở ngƣời chồng chính là sự
siêng năng, cần mẫn, yêu thƣơng vợ con, biết chia sẻ và cảm thông với vợ.
Cách thức ứng xử khác của ngƣời chồng là trong điều kiện xa cách vợ
chồng, theo thống kê chúng tôi thấy có tất cả 19 câu ca. Điều này cho thấy ca
dao ít đứng từ góc độ ngƣời chồng, nhƣng cũng thấy đƣợc trách nhiệm và sự
khao khát sum họp của ngƣời đàn ông. Tình cảm của ngƣời chồng đƣợc phản
ảnh trong hoàn cảnh xa vợ là: thƣơng vợ, nhớ vợ, cứng rắn vƣợt qua hoàn cảnh,
tin tƣởng giao việc nhà cho vợ, xót xa, an ủi vợ, lo lắng trƣớc hoàn cảnh, đợi

93
chờ, tin tƣởng sẽ đạt đƣợc mục đích. Cũng có trƣờng hợp, ngƣời chồng cảm thấy
sung sƣớng vì đƣợc giải phóng (1 trƣờng hợp), hoặc có khi bội bạc cƣới vợ hai
(1 trƣờng hợp). Tuy vây, thái độ chung của ngƣời chồng là tình cảm thắm thiết
với vợ con: “Dù lên nguồn xuống bể anh cũng trở về với em”.
3.1.4. Ứng xử của người tình của chồng
Trong bất cứ một thời đại nào, ngƣời thứ ba chen vào mối quan hệ vợ
chồng cũng nhận đƣợc cái nhìn thiếu thiện cảm, thậm chí là chê trách, dè bỉu đến
cay nghiệt của xã hội. Họ bị coi là những kể phá hoại hạnh phúc, là kẻ cƣớp
chồng tranh vợ. Dân gian có câu:
“Chẳng thà giục mã về không
Còn hơn tranh vợ cướp chồng người ta”
để phần nào bày tỏ quan điểm và thái độ của ngƣời lao động trƣớc những mối
quan hệ bất chính ngoài vợ, ngoài chồng. Ngƣời thứ ba đƣợc nhắc tới ở đây có
thể là ngƣời tình của chồng, có khi là ngƣời tình của vợ, nhƣng trong ca dao
Việt, vấn đề ngƣời thứ ba này chủ yếu đề cập tới ngƣời nhân tình của chồng.
Trong tổng số 17 câu ca dao về ứng xử của đối tƣợng này, chúng tôi nhận thấy
những cô gái khi rơi vào tình huống trở thành ngƣời thứ ba ấy đều chẳng sung
sƣớng gì. Họ chấp nhận thân phận làm ngƣời thứ ba – ngƣời tình của kẻ đã có vợ
cũng bởi nhiều lí do. Đó có thể vì nghèo, vì tham của cải vật chất, có thể vì quá
lứa lỡ thì, nhƣng cũng có khi vì tình yêu thực sự dành cho ngƣời đàn ông đã yên
bề gia thất. Họ cũng băn khoăn, trăn trở trƣớc tình cảm trái ngang:
“Anh đã có vợ con riêng
Như bông hoa riềng nửa đắng nửa cay
Anh đã có vợ cầm tay
Anh còn tơ tưởng chốn này làm chi”

94
Lý trí của họ vẫn thầm nhắc nhở, khuyên can ngƣời đàn ông đang có tƣ tƣởng
ngoại tình:
“Anh đã có vợ sau lưng
Có con trước mặt, anh đừng chơi hoa
Chơi hoa tan cửa nát nhà
Lìa con, bỏ vợ, chơi hoa làm gì!”
Và có lúc, lý trí không thắng nổi tình cảm, ngƣời phụ nữ vẫn chấp nhận làm kẻ
thứ ba, nhƣng chấp nhận trong trạng thái dằn vặt, đau khổ. Những ngƣời phụ nữ
ấy dù biết rằng mình sai, nhƣng cũng chỉ biết trách ông Trời đã cho gặp tình yêu
không đúng thời điểm, chỉ biết trách than phận mình là kẻ đến sau:
“Trách thân mà lại giận Trời
Ba bảy năm trước chẳng gặp con người ấy cho”.
Có những câu ca tƣởng nhƣ bỡn cợt, bông đùa, nhƣng ẩn chứa trong đó lại là
tâm sự kín đáo của những ngƣời phụ nữ trót mang tiếng thƣơng nhớ chồng
ngƣời:
- “Áo người mặc đoạn, cởi ra
Chồng người ấp mượn, canh ba lại hoàn!”.
- “Của chua ai thấy chẳng thèm
Em cho chị mượn chồng em vài ngày”.
Cho dù là câu ƣớm hỏi nửa đùa, nửa thật, ngƣời thứ ba đã nhận đƣợc thái độ rõ
ràng, quyết liệt của ngƣời vợ chính thất:
“Chồng em có phải trâu cày
Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm”.
Có lẽ vì quá si mê trong mối tình oan trái, đôi khi ngƣời thứ ba kia có những lời
lẽ nhằm lôi kéo, quyết tranh đoạt ngƣời đàn ông cho riêng mình:

95
“Anh về rẫy vợ anh ra
Con anh thơ dại thì đà có tôi”
Thậm chí, ngƣời thứ ba còn bất chấp lời can ngăn khuyên nhủ:
“Chồng người ai mượn em thương
Em ghé vai vô gánh hương án, vỡ bát hương ai đền
- Lư hương một bát tám tiền
Hai chiếc quan sáu em đền cho anh”.
Cho dù họ vẫn ý thức đƣợc rằng:
“Chồng người chẳng mượn được lâu
Mượn được hôm trước hôm sau người đòi”
và lắm khi còn phải chịu cảnh ê chề tủi nhục:
“Người đòi người chả đòi không
Chém cha con đĩ vác chồng trả tao!”.
Có khi, ngƣời tình với thân phận ngƣời thứ ba ấy tỏ ý ngờ vực tình yêu mà
ngƣời đàn ông dành cho mình. Họ đã bày tỏ sự hoài nghi, đánh giá ấy với thái độ
mạnh mẽ và dứt khoát. Theo khảo sát thống kê, chúng tôi nhận thấy có 5 câu ca
bày tỏ thái độ, quan điểm này của ngƣời phụ nữ là nhân tình của chồng:
- “Vợ anh như bát cơm xôi
Anh còn chẳng chuộng nữa tôi cơm hàng
Vợ anh tay bạc tay vàng
Anh còn chẳng chuộng nữa nàng tay không
Vợ anh như trúc như thông
Như hoa mới nở như rồng mới thêu
Anh còn uốn éo trăm chiều
Gan ai là sắt mà gieo mình vào”

96
- “Vợ anh như ngọc như ngà
Anh còn phụ rẫy nữa là thân tôi”.
- “Vợ anh như ngọc như ngà
Anh còn tình phụ nữa là thân tôi
Vợ anh như thể đĩa xôi
Anh còn phụ bạc nữa tôi cơm đùm”.
- “Vợ ba con anh còn để đó
Huống chi nàng ngọn cỏ phất phơ”.
- “Vợ con anh, anh còn để đó
Huống chi em chỉ là ngọn cỏ phất phơ
Anh ơi, trăm ngại ngàn ngờ!”.
Tuy nhiên, dù là ngƣời bị lên án, bị phê phán, nhƣng ca dao cũng có cái
nhìn khá bao dung dành cho những ngƣời phụ nữ trót trở thành “ngƣời thứ ba”.
Và dù lí do là gì, họ vẫn đáng thƣơng nhiều hơn.
3.2. Ứng xử trong mối quan hệ khác
3.2.1. Ứng xử trong quan hệ nàng dâu với mẹ chồng
Xét về mối quan hệ giữa nàng dâu với gia đình nhà chồng thì chủ yếu ca
dao đề cập tới mối quan hệ giữa mẹ chồng và nàng dâu. Trong tổng số 56 câu ca
về mối quan hệ này thì có tới 42 câu mang biểu hiện tiêu cực, có 8 câu mang
biểu hiện tích cực, 6 câu còn lại mang ý khuyên nhủ về những thái độ nên có
hoặc những nhận định của dân gian về quan hệ mẹ chồng – nàng dâu.
Những biểu hiện tiêu cực trong mối quan hệ mẹ chồng – nàng dâu dẫn
đến thái độ ứng xử không đƣợc gắn kết, đẩy lên thành mâu thuẫn của hai đối
tƣợng này, bởi từ trong truyền thống, đây là mối quan hệ mang nhiều nhức nhối
của gia đình ngƣời Việt:

97
“Thật thà như thể lái trâu
Thương nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng”.
Ca dao cho thấy tác nhân chính gây ra mâu thuẫn giữa mẹ chồng với nàng dâu là
do mẹ chồng. Hay nói cách khác, mẹ chồng là người chủ yếu tạo nên mâu thuẫn
với nàng dâu. Có thể dẫn ra nguyên nhân của mâu thuẫn này nhƣ: Nàng dâu
làm việc vất vả mà vẫn bị chê, khôn khéo vẫn bị chê, bị chửi, bị đay nghiến, bị
hành hạ ngƣợc đãi, bị coi rẻ, bị chê nghèo hèn, gặp phải mẹ chồng ác nghiệt.
Đứng trƣớc những tình huống đó, cách ứng xử của ngƣời con dâu cũng có nhiều
cấp độ khác nhau. Khi gặp phải mẹ chồng ác nghiệt, phải làm dâu nhà giàu, bị
khinh rẻ phân biệt đối xử, nàng dâu chỉ biết thở than “lấy chồng là có, khổ ba
bảy đường”, rồi“lấy chồng giàu khổ lắm chị ơi”, hay:
“Mẹ anh nghiệt lắm anh ơi
Biết rằng có được ở đời với nhau
Hay là vào trước ra sau
Cho cực lòng thiếp cho đau lòng chàng”
Có lúc đó là những giọt nƣớc mắt nghẹn ngào hờn tủi:
- “Chàng nhìn thiếp rưng rưng hột lụy
Thiếp nhìn chàng lã chã hột châu
Mẹ cha hành hạ thân dâu
Anh đau lòng phải chịu biết làm sao bây giờ?”
- “Con mèo mà trèo cây táo
Bà già lơ láo, mắng chưởi nàng dâu
Dâu nằm dâu khóc tỉ ti
Thà phu Gia Định, cu li Sài Gòn”.

98
Cũng có khi nàng dâu vì yêu chồng nên dù trong lòng ấm ức, nhƣng vẫn có thái
độ nhịn mẹ chồng:
- “Làm trâu tế sống mẹ chồng
Cái công mẹ đã ẵm bồng chồng con”.
- “Thương chồng phải lụy mụ gia
Chớ tui với mụ có bà con chi”.
Đặc biệt, cũng bởi bị đối xử tệ bạc, bị đánh mắng, hành hạ, nàng dâu có sự phản
ứng mạnh mẽ hơn, tùy vào mức độ của sự ngƣợc đãi, có lúc mâu thuẫn đƣợc đẩy
lên thành sự đối kháng. Một số thái độ phản ứng tiêu biểu của con dâu với mẹ
chồng nhƣ: muốn bỏ về nhà mẹ đẻ, muốn bỏ đi, thấy mẹ chồng thì ăn không
ngon, mong mẹ chồng chết, rủa mẹ chồng, mong mẹ chồng ốm để cho thuốc
độc. Một số câu tiêu biểu cho hiện tƣợng này nhƣ:
- “Bà kia bận áo xanh xanh
Ngồi trong đám hẹ nói hành con dâu
Bà ơi! Tôi không sợ bà đâu
Tôi xe sợi chỉ, tôi khâu miệng bà
Chừng nào bà chết ra ma
Trong chay ngoài hội, hết ba chục đồng
Không khóc thì sợ lòng chồng
Có khóc cũng chẳng mặn nồng chi đâu”.
- “Cô kia đội áo đi đâu?
Tôi là phận gái làm dâu mới về
Mẹ chồng ác nghiệt đã ghê
Tôi ở chẳng được tôi về nhà tôi”.

99
- “Cái cuốc là cái cuốc đen
Đôi vợ chồng trẻ đốt đèn ăn cơm.
Ăn hết, xới xới đơm đơm,
Ăn cho sạch sẽ lấy rơm mà chùi.
Chồng giận chồng đánh ba dùi,
Mẹ chồng chẳng chữa, lại xui đánh què:
Đánh cho què quặt chân tay,
Hễ nó có khóc, thời mày bỏ tro
Bao giờ mẹ chồng ốm ho
Nàng dâu lấy thuốc đem cho mẹ chồng
Lấy những lông cú lông cáo, lông công,
Lấy cà độc dược, cùng lông con mèo”.
- “Đói thì ăn khế ăn sung
Trông thấy mẹ chồng thì nuốt chẳng trôi”.
Dễ thấy các tình huống đƣa ra ở trên phản ánh mâu thuẫn gay gắt giữa mẹ
chồng và nàng dâu. Khi làm dâu, ngƣời con gái phải chịu đủ mọi nỗi khổ, cả về
vật chất lẫn tinh thần. Qua ca dao, chúng tôi nhận thấy ở một bộ phận xã hội, làm
dâu đồng nghĩa với phải cam chịu cuộc sống tôi đòi, đặc biệt làm dâu nhà giàu
chỉ có khổ cực. Sự phản ứng quyết liệt, những lời nói nặng nề, hành vi không
khoan nhƣợng giữa mẹ chồng – nàng dâu trong gia đình dƣới chế độ phong kiến
ở Việt Nam cho thấy mặc dù đề cao phụ quyền nhƣng dƣờng nhƣ vai trò của
ngƣời cha chƣa đủ mạnh để tạo dựng nên quan hệ tốt đẹp, cũng chƣa đủ uy để
dẹp bỏ những hành động gây bất hòa.
Theo khảo sát, chúng tôi nhận thấy biểu hiện tích cực trong mối quan hệ
nàng dâu với mẹ chồng là do nàng dâu tạo nên hoặc gia đình nhà chồng tạo nên,

100
chƣa có trƣờng hợp nào là do mẹ chồng tạo nên. Với biểu hiện tích cực trong
quan hệ nàng dâu – mẹ chồng do gia đình nhà chồng tạo nên thể hiện tính dân
chủ, bình đẳng nhƣng chỉ bộc lộ qua nhận thức chứ không phải ứng xử cụ thể:
nếu dâu hiền thì đƣợc coi nhƣ con, con dâu con rẻ cũng ngang hàng nhƣ con trai
con gái. Với biểu hiện tích cực trong quan hệ nàng dâu – mẹ chồng do nàng dâu
tạo nên, chủ yếu thể hiện qua các cách ứng xử của nàng dâu: thƣơng cha mẹ
chồng, chăm sóc hiếu kính với cha mẹ chồng, nuôi mẹ thay chồng. Từ đó, nàng
dâu cũng nhận đƣợc thái độ của cha mẹ chồng là coi nhƣ con đẻ. Một số câu ca
tiêu biểu nhƣ:
- “Năm trai năm gái là mười
Năm dâu năm rể là đôi mươi tròn”.
- “Xin anh đi học cho ngoan
Để em dệt cửi kiếm quan tiền dài
Quan tiền dài em ngắt làm đôi
Nửa mua giấy bút nửa nuôi mẹ già
Mẹ già là mẹ già anh
Một ngày hai bữa cơm canh mẹ già
Bát cơm em nấu như hoa
Bát canh em nấu như là mật ong
Nước mắm em lọc cho trong
Mâm cơm em dọn tựa dòng cơm quan”.
Nhƣ vậy, ở mối quan hệ hôn nhân trong gia đình ngƣời Việt còn thể hiện ở
quan hệ mẹ chồng – nàng dâu. Quan hệ ấy thể hiện trên hai thái cực là tích cực
và tiêu cực. Quan hệ tiêu cực đƣợc đẩy lên thành mâu thuẫn và mâu thuẫn ấy thể

101
hiện trên nhiều bình diện của cuộc sống, từ vật chất tới tinh thần, ở các mức độ
khác nhau mà cao nhất có thể dẫn đến hành động loại trừ nhau.
3.2.2. Ứng xử trong quan hệ bố mẹ vợ - con rể
Mối quan hệ giữa bố mẹ vợ với con rể tuy không bị đẩy cao thành mâu
thuẫn nhƣ quan hệ giữa mẹ chồng và nàng dâu, nhƣng cũng có một số điểm đáng
lƣu ý. Trong tổng số 22 câu ca dao về mối quan hệ này, có 7 câu biểu hiện thái
độ tích cực, 15 câu biểu hiện ứng xử tiêu cực.
Cũng nhƣ những nàng dâu trong các gia đình phong kiến khi xƣa thƣờng
trở thành nguồn lao động mới, bị gia đình nhà chồng tận dụng và khai thác triệt
để, những chàng rể khi đem thân ở nhà ngƣời khác ( bố mẹ vợ) thì cũng bị khai
thác sức lao động, chịu cảnh sống tôi đòi. Do đó, ở rể luôn là cực hình của bao
chàng trai. Ca dao đã diễn tả nỗi khổ của các chàng trai đem thân gửi rể:
“Công anh làm rể Chương Đài
Ăn hết mười một, mười hai vại cà
Giếng đâu thì dắt anh ra
Kẻo thì anh chết với cà đêm nay”.
Vất vả, khổ cực là thế, vậy mà có khi vợ lại không đƣợc cƣới, chàng rể “hờ”
đành ngậm ngùi cay đắng:
“Công anh làm rể ba năm
Chiếu không được nằm, đất lại cắm chông
Con bà, bà lại gả chồng
Để tôi vất vả tốn công nhiều bề".
Mặt khác, về tâm lý, tình cảm và về quan niệm “dâu con, rể khách”, chàng rể
cũng chỉ là ngƣời dƣng. Mối quan hệ này tuy ít căng thẳng nhƣ quan hệ giữa mẹ
chồng với nàng dâu, nhƣng cũng chẳng mặn mà, đôi lúc lại quá khách sáo:

102
“ Than rằng mít chín quạ kêu
Mụ gia thương rể mỗi điều mỗi thương”
Tuy vậy, cuộc sống vô cùng sinh động, nhiều bề. Bên cạnh đó, vẫn có
những câu ca dao cho thấy biểu hiện tốt đẹp trong mối quan hệ bố mẹ vợ - con
rể. Có những chàng rể thƣơng mẹ vợ thật lòng:
“ Mẹ nàng cũng thể mẹ ta
Phận dù đói rách thật thà anh thương”.
Lại có những ngƣời mẹ vợ yêu thƣơng con rể hơn cả con trai của chính mình:
“ Đêm nằm nước mắt láng lai
Mẹ thương con rể hơn con trai trong nhà”
3.2.3. Ứng xử trong quan hệ mẹ ghẻ - con chồng, cha dượng - con của vợ
Xã hội có giai cấp tồn tại nhiều mối quan hệ phức tạp. Ca dao phản ánh
quan hệ dì ghẻ - con chồng, cha dƣợng – con của vợ qua lời nhận xét, đúc kết rất
gần với tục ngữ:
- “Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng”.
- “Đói thì ăn ngô ăn khoai
Đừng ở với dượng điếc tai láng giềng”.
Ca dao đã phần nào gợi lên cảnh sống thƣơng tâm của những ngƣời con thiếu
thốn tình thƣơng và sự nâng niu chăm sóc. Chính những mối quan hệ này đã để
lại cho những đứa trẻ nhiều vết thƣơng lòng. Ca dao đã bày tỏ tiếng lòng ấy của
những ngƣời con đang phải chịu cảnh mẹ ghẻ ( 6 câu) , cha dƣợng ( 2 câu). Đó là
thái độ vì thƣơng yêu cha mà phải nín nhịn dì ghẻ:
“Gió đưa bụi trúc ngã quỳ
Vì cha nên phải lụy dì, dì ơi”.

103
Cho đến nay, dù xã hội đã đổi thay, cuộc sống có nhiều thay đổi theo
chiều hƣớng tích cực hơn, song mối quan hệ này ở một số gia đình vẫn là vấn đề
nhức nhối, không phải lúc nào cũng dễ dung hòa, cải thiện.
3.2.4. Ứng xử giữa anh chị em dâu rể
Trong các gia đình bình dân, quan hệ giữa anh chị em ruột thƣờng gắn bó,
đằm thắm hơn quan hệ giữa anh chị em dâu, rể. Ca dao đề cao, coi trọng quan hệ
anh chị em ruột, coi anh em rể, chị em dâu chỉ là “ngƣời dƣng”, “khác máu tanh
lòng”. Ngƣời Việt thƣờng coi trọng quan hệ huyết thống nên có sự phân biệt đối
xử nhƣ vậy. Chính sự phân biệt đối xử này cùng với sự phân chia tài sản trong
các gia đình đã tạo nên mâu thuẫn khó dung hòa giữa chị em dâu, anh em rể.
Quan niệm này làm tổn thƣơng tình cảm chị em dâu trong gia đình. Ca dao đã
phản ánh quan hệ nặng nề của em chồng, chị dâu trong gia đình ngƣời lao động
khi xƣa:
“Em chồng ở với chị dâu
Coi chừng kẻo nó giết nhau có ngày.”
Theo chúng tôi, ca dao đƣa ra sự thật này để mọi ngƣời chiêm nghiệm về lẽ phải
trái mà sống cho tốt hơn, bởi trên thực tế vẫn có những mối quan hệ tốt đẹp nảy
sinh giữa chị em dâu.
Tiểu kết chương 3
Có thể thấy rõ những phân tích trên đây cho thấy mặc dù đã từng là tƣ
tƣởng của ngƣời Việt trong nhiều thế kỷ, song Nho giáo dƣờng nhƣ không bắt rễ
sâu vào tầng lớp bình dân, ít nhất cũng trong quan hệ hôn nhân. Mối quan hệ
bình đẳng dựa trên cơ sở tình cảm gắn bó, quan tâm lẫn nhau nhƣ ta thấy ở trên
thật khác xa với gia đình gia trƣởng của Nho giáo, trong đó vai trò của ngƣời vợ

104
hoàn toàn là phụ thuộc và thụ động. Hiện tƣợng này có thể lý giải đƣợc nếu nhƣ
xem xét hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam.
Thứ nhất, Nho giáo thâm nhập vào Việt Nam trong điều kiện xã hội Việt
Nam có nhiều nét khác biệt với xã hội Trung Quốc.
Thứ hai, với nền sản xuất tiểu nông: “Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”,
vai trò của ngƣời vợ bình đẳng với ngƣời chồng là hoàn toàn dễ hiểu. Mặt khác,
ngƣời vợ còn là ngƣời quản lý gia đình, chăm sóc con cái, trong khi ngƣời chồng
làm các công việc đồng áng khác. Đây là cách phân công lao động phù hợp và
hiệu quả đối với nền sản xuất tiểu nông, là cơ sở để phát sinh truyền thống trọng
phụ nữ của ngƣời Việt. Do đó, Nho giáo có thể thâm nhập vào bề nổi của cuộc
sống thông qua các cấp quản lý hành chính, chứ không bắt rễ sâu vào tâm thức
dân gian.
Tóm lại, xem xét một cách hệ thống, kho tàng ca dao có liên quan đến ứng
xử trong hôn nhân của ngƣời Việt, ta thấy rất rõ những nét bản sắc trong văn
hóa. Đó là cách lựa chọn đối tƣợng hôn nhân tƣơng hợp dựa trên nhân cách và
tình cảm, là mối quan hệ gia đình bình đẳng, gắn bó giữa chồng và vợ, là vai trò
của ngƣời phụ nữ đƣợc tôn trọng với những cách ứng xử nhằm bảo đảm sự hòa
thuận êm ấm trong gia đình... Đó chính là tinh hoa trong đạo lý sống của ngƣời
Việt đƣợc ca dao bảo lƣu qua nhiều thế hệ nhƣ những giá trị trƣờng tồn và mang
đậm bản sắc của dân tộc Việt.

105
KẾT LUẬN
1. Ca dao là tiếng hát trữ tình của ngƣời bình dân, phản ánh thế giới tinh thần
của những ngƣời bình dân, thể hiện truyền thống của ngƣời Việt là tình yêu
thƣơng và sự chung thủy.
Ca dao là tiếng lòng của ngƣời bình dân, là nơi mà họ gửi gắm bao tâm sự,
khát khao, mong ƣớc. Đi tìm tiếng nói của dân gian, tiếng nói của cõi lòng, tiếng
nói của trái tim làm rung động lòng ngƣời, ta hãy tìm đến ca dao, đến văn học
dân gian. Văn học dân gian nói chung và ca dao nói riêng sẽ cho ta thấy đƣợc
suy nghĩ của cha ông mình vào tuổi thanh xuân - đó là tiếng nói chân thật, tình
cảm nhất. Trong khi văn học bác học chỉ phản ánh đƣợc cuộc sống của tầng lớp
trên thì văn học dân gian lại đi vào nhân dân, quan tâm đến nhân dân, phản ánh
hiện thức khách quan, sinh động nhất vì nó thuộc về nhân dân.
2. Tình yêu và hôn nhân, cũng nhƣ mọi chuyện trên thế gian, đều có những bề
mặt trái không tốt đẹp. Và dù trong hoàn cảnh nào thì ngƣời Việt cũng đƣa ra
những cách thức ứng xử thể hiện nét văn hóa đặc trƣng của mình.
Chủ đề tình yêu có số lời ca dao chiếm tỉ lệ cao trong“Kho tàng ca dao
người Việt” và các bài ca dao ấy phản ánh tình yêu nam nữ ở nhiều khía cạnh: tỏ
tình, thề thốt, tƣơng tƣ, ƣớc mong trong tình yêu. Quan niệm về tình yêu là đề
cao vẻ đẹp tâm hồn, ca ngợi đức hạnh, trân trọng học vấn, ƣớc mong đƣợc tự do
yêu đƣơng, có đƣợc hạnh phúc thủy chung trọn vẹn... Các bài ca dao về tình yêu
đôi lứa còn là những lời ca đẹp nhất và tiêu biểu cho tâm hồn yêu thƣơng của gái
trai Việt Nam.
Tình yêu của ngƣời Việt chúng ta nặng về mặt tình cảm và coi nhẹ về mặt
vật chất. Tình yêu của chúng ta lãng mạn hơn và trữ tình. Nhục dục không phải
là vấn đề trên trƣớc. Tuy không phải mối tình nào cũng kết thúc có hậu, nhƣng

106
không phải vì thế mà con ngƣời mất niềm tin vào cuộc sống. Chính tình yêu và
bao mộng ƣớc thật đẹp nơi tƣơng lai là động lực, là nguồn sống để con ngƣời
vƣợt qua và hƣớng đến cái đẹp ấy. Và con đƣờng đi nếu toàn là thảm đỏ thì
ngƣời đi sẽ không ý thức đƣợc bƣớc chân của mình nhƣ thế nào, con đƣờng đi ấy
phải có nhiều chông gai để từ đó phát huy đƣợc sự nỗ lực, tinh thần cầu tiến của
mỗi con ngƣời. Cho nên, dù có trắc trở, hờn trách nhau thế nào thì tình yêu vẫn
là một tiếng nói khát vọng hạnh phúc của con ngƣời từ xƣa cho đến ngàn sau, mà
điều ấy đã đƣợc ông cha ta thể hiện một cách rõ nhất qua những câu ca dao thật
đẹp chan chứa tình ngƣời.
Về mặt hôn nhân, những đức tính nhƣờng nhịn, dĩ hòa vi quý và thủy
chung vẫn còn ảnh hƣởng sâu đậm trong lề lối suy nghĩ và cƣ xử. Ứng xử trong
hôn nhân gia đình thì cách ứng xử của ngƣời phụ nữ là đặc biệt quan trọng. Quan
trọng không chỉ bởi với ngƣời phụ nữ, tổ ấm là không thể thiếu mà còn ở chỗ
qua ứng xử trong gia đình, với từng thành viên thân thuộc, họ sẽ thể hiện cách
ứng xử xã hội trong môi trƣờng hẹp, chi phối ứng xử của các thành viên khác
trong gia đình. Với ngƣời phụ nữ truyền thống gia đình là một xã hội thu nhỏ, và
ngƣời con gái từ khi giã từ giai đoạn hò hẹn yêu đƣơng, khi đã bƣớc đi lấy chồng
thì phần lớn đều coi gia đình là toàn bộ đời sống của họ. Trong “Kho tàng ca
dao người Việt”, ứng xử về hôn nhân, gia đình của con ngƣời và nhất là của
ngƣời phụ nữ thể hiện qua những mối quan hệ gần gũi gắn bó nhƣ quan hệ vợ -
chồng, mẹ chồng – nàng dâu, bố mẹ vợ - con rể, mẹ ghẻ - con chồng, anh chị em
dâu – rể... Tất cả đều thể hiện cách nhận xét, đánh giá và diễn tả tâm sự, tình cảm
và thái độ của ngƣời bình dân trƣớc những vấn đề của cuộc sống. Đây là những
tình cảm, những mối quan hệ mà ngƣời Việt bao giờ cũng nâng niu, trân trọng,
lấy đó là nguồn cội , làm xuất phát điểm của những phẩm chất cao đẹp của con

107
ngƣời. Qua đó, ngƣời bình dân khẳng định những phẩm chất cao đẹp vốn có của
dân tộc, đặc biệt là ở ngƣời phụ nữ: cần cù, chất phác, chung thủy, nhẫn nhịn,
chịu thƣơng chịu khó, giàu đức hi sinh...
Bên cạnh đó, xem xét kho tàng ca dao có liên quan đến ứng xử trong hôn
nhân của ngƣời Việt, ta thấy rất rõ những nét bản sắc trong văn hóa. Đó là cách
lựa chọn đối tƣợng hôn nhân tƣơng hợp dựa trên nhân cách và tình cảm, là mối
quan hệ gia đình bình đẳng, gắn bó giữa chồng và vợ, là vai trò của ngƣời phụ
nữ đƣợc tôn trọng với những cách ứng xử nhằm bảo đảm sự hòa thuận êm ấm
trong gia đình... Đó chính là tinh hoa trong đạo lý sống của ngƣời Việt đƣợc ca
dao bảo lƣu qua nhiều thế hệ nhƣ những giá trị trƣờng tồn và mang đậm bản sắc
của dân tộc Việt.
3. Ngày nay, cuộc sống hiện đại với những áp lực về kinh tế đang chà đạp lên
những giá trị đạo đức. Làm thế nào để những giá trị truyền thống đó không bị
mất đi? Làm thế nào để giới trẻ nhận thức đúng đắn về ý nghĩa của tình yêu và
cuộc sống, về cách ứng xử trong tình yêu cũng nhƣ trong cuộc sống hôn nhân gia
đình? Luận văn tuy có ý nghĩa sử dụng làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu
văn học dân gian, nhƣng ở một góc độ nào đó về xã hội, văn hóa, chúng tôi
mong đóng góp tích cực cụ thể để giữ gìn, phát huy và nâng cao vẻ đẹp truyền
thống của dân tộc.
Văn học dân gian phản chiếu tâm hồn của ngƣời dân lao động, ca dao là
dòng suối mát nuôi dƣỡng tâm hồn con ngƣời. Mỗi chúng ta đều tiếp xúc với văn
học dân gian từ khi còn rất nhỏ qua lời hát ru của mẹ, qua câu chuyện cổ tích của
bà, qua những bài đồng dao thƣở thơ bé… Những lời ca dao không phải là
những bài giảng đạo đức khô khan mà chính là những liều thuốc tinh thần quý
giá cho thế hệ trẻ ngày nay, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trƣờng có thể cảm

108
nhận, phát hiện ra những giá trị truyền thống của cha ông để trân trọng, tin tƣởng
vào tình yêu và cuộc sống.

109
PHỤ LỤC
Ứng xử trong hôn nhân: 526 câu
A/ Ứng xử trong quan hệ vợ chồng 439 câu
1. Đạo nghĩa chung trong quan hệ vợ chồng 70
A 8, 326 2
C 153, 255, 369, 572, 967, 5
Ch 531, 782, 787, 792 4
Đ 24, 35, 125, 126, 127, 181, 240, 522, 523, 888, 10
E 145 1
G 12 1
L 22, 256, 257, 258, 264 5
M 578, 579 2
N 17 1
Ơ 33, 44, 65 3
Ph 34, 62, 76, 83, 84, 85, 100 7
R 183, 238 2
S 80, 165, 230, 3
T 158, 190, 377 3
Th 52, 290, 390, 466 4
Tr 127, 293, 404, 578, 681 5
Ƣ 19 1
V 276, 277, 278, 279, 280, 281, 282, 283, 286 9
X 62 1
Y 42 1

110
2. Ứng xử của người vợ 329
2.1. Ứng xử tích cực 194
2.1.1. Hi sinh vì chồng 144
2.1.1.1. Nuôi chồng ăn học, chăm sóc chồng, yêu 83
chồng
A 23, 34, 35, 36, 687 5
C 56, 65, 67, 88, 89, 117, 161, 365, 380, 382, 385, 418, 16
419, 420, 421, 950
Ch 41, 61, 72, 157, 245, 291, 411, 645 8
Đ 128, 246, 394, 522, 523, 727, 916 7
E 116, 137, 231, 236 4
Kh 253, 258 2
L 256, 257, 258 3
M 111, 161, 202, 245, 390, 397, 492, 500, 534, 535 10
N 239 1
Ng 23, 35, 134, 359 4
Q 12 1
T 143, 149, 123, 158, 377 5
Th 70, 499, 505 3
Tr 627, 628 2
V 10, 149, 150, 151, 152, 153, 154, 180 8
X 72, 73, 74, 103 4
2.1.1.2. Khi chồng đi xa 61
Đi lính 21

111
A 290, 291, 292, 293, 294, 437, 448, 449, 452, 460, 10
Ch 77, 241 2
K 21 1
Ph 11 1
T 188, 189 2
Tr 3, 592, 654, 655 4
V 284 1
Đi học 2
A 23, 687 2
Đi làm ăn 3
A 286, 287 2
D 4 1
Không rõ lí do 35
A 6, 38, 40, 153, 268, 269, 274, 275, 278, 280, 282, 305, 13
691
B 580 1
C 402, 761 2
Ch 85, 480, 522, 647 4
Đ 529, 566, 567, 568, 894 5
G 146 1
Gi 30, 113 2
R 270 1
T 148 1
Th 565, 631, 632, 633 4

112
Tr 14, 500 2
V 234 1
2.1.2. Sự hòa hợp vợ chồng 50
2.1.2.1. Cùng lao động 23
A 273, 583 2
C 901, 965, 967, 986 4
Ch 603 1
Đ 240, 653 2
Gi 53 1
K 12 1
L 233, 235 2
M 84, 92, 93 3
S 32, 53, 54, 230 4
Th 58 1
Tr 293 1
V 286 1
2.1.2.2. Chung thủy với chồng 15
B 4 1
Ch 645 1
Đ 559 1
Gi 115 1
Kh 205 1
Ơ 33 1
R 183, 238 2

113
S 14, 80, 165 3
Th 350 1
Tr 101, 159 2
X 54 1
2.1.2.3. Nhường nhịn chồng 12
Ch 80, 623, 624, 625, 626, 634, 646 7
D 15 1
Đ 93 1
L 159 1
R 309 1
Tr 127 1
2.2. Ứng xử tiêu cực 135
2.2.1. Ứng xử trước nạn tảo hôn, lấy chồng già, hôn 22
nhân sắp đặt
B 474, 555 2
C 54 1
Ch 632, 633 2
D 186 1
E 223 1
G 8, 31 2
L 240 1
Ơ 38 1
T 417 1
Th 131, 132 2

114
Tr 128, 650 2
V 249, 250, 252, 254 4
2.2.2. Ứng xử khi có người chồng bất tài, tệ nạn, phụ 41
tình, ngoại tình, lấy chồng nhà giàu
A 337, 490 2
B 143, 542, 543 3
C 30, 74, 153, 477, 562 5
Ch 159, 607, 608, 609, 610, 612, 613, 614, 637, 639, 640, 12
641
Đ 399 1
H 238, 239 2
Kh 114, 166 2
L 221, 230 2
N 350 1
Nh 195, 235 2
R 293 1
Th 99, 190 2
Tr 34, 39, 394, 671 4
V 285 1
X 129 1
2.2.2. Hành vi ngoại tình, chồng vừa chết đã theo 33
trai, muốn tái giá, muốn bỏ chồng, bắt nạt chồng
A 104, 105, 106 3
B 37, 492 2

115
C 170, 379, 404, 405, 416, 417, 616, 617 8
Ch 599, 791 2
E 90 1
Gi 68 1
H 55, 56 2
K 4 1
L 53 1
M 558 1
N 28, 370, 372, 375 4
Ng 304 1
T 418, 550 2
Th 337 1
X 93, 116, 127 3
2.2.4. Ứng xử trước nạn đa thê 39
Lời khuyên chung 21
Ch 636, 638, 681, 659, 660 5
Đ 35, 357 2
Gi 222 1
Kh 143, 229 2
M 421, 434 2
Nh 43 1
Ph 98 1
Th 17, 290 2
Tr 433, 446, 427, 527 3

116
Ƣ 228 1
V 289 1
Thái độ của người vợ cả 8
D 151 1
Đ 1014 1
Gi 110, 118, 174 3
Kh 56 1
N 79 1
V 273 1
Thái độ của người vợ lẽ 10
Ch 590 1
Đ 659 1
L 251 1
M 107, 421, 434 3
Th 125, 128, 129, 130 4
3. Ứng xử của người chồng 23
A 689 1
C 152 1
D 51, 101, 103 3
Đ 605 1
E 65, 145 2
M 282, 638 2
N 52 1
Nh 81, 230 2

117
R 290, 300 2
S 68 1
T 41, 42, 79, 401, 505 5
Tr 113, 620 2
4. Ứng xử của người nhân tình của chồng 17
A 251, 252, 613 3
Ch 635, 636, 638 1
N 81, 82 2
Tr 71 1
V 264, 265, 267, 268, 269, 270, 271, 272, 274, 275 10
B/ Quan hệ mẹ chồng – nàng dâu 56 câu
1. Nhận định của dân gian 6
A 189 1
K 55 1
L 375, 416 2
M 174 1
Th 201 1
2. Ứng xử tích cực 8
C 643, 670 2
M 202 1
N 87 1
Ph 83, 84 2
T 422, 467 2
3. Ứng xử tiêu cực 42

118
3.1. Ứng xử của mẹ chồng gặp dâu hư 3
C 1004 1
M 555 1
T 232 1
3.2. Ứng xử của nàng dâu gặp phải mẹ chồng ác 39
nghiệt, bị đánh mắng, phân biệt đối xử, bị ngược đãi
A 122 1
B 67, 71, 189 3
C 101, 321, 561, 680, 821 5
Ch 66, 604, 605 3
Đ 405, 671 2
E 87, 278 2
Kh 119, 126 2
L 50 1
M 157, 172, 173, 402, 626, 733 6
Ng 76, 164, 165 3
Nh 8, 39 2
T 486, 505 2
Th 132, 267, 634 3
Tr 31, 619, 637, 681 4
C/ Ứng xử giữa bố mẹ vợ - con rể 22 câu
1. Tích cực 7
C 670, 313 2
Ch 2 1

119
Đ 395 1
M 222 1
N 87 1
Ph 76 1
2. Tiêu cực 15
C 874, 875, 876, 877, 878, 879, 925 7
Ch 87 1
Ph 78 1
R 211 1
T 69, 70 2
Th 49 1
Tr 595 1
X 125 1
D/ Ứng xử giữa anh, chị em dâu rể 1 câu
E 32 1
E/ Ứng xử giữa mẹ ghẻ - con chồng 6 câu
Gi 116 1
V 14 1
M 116, 119, 196 3
V 14 1
G/ Ứng xử giữa cha dƣợng – con riêng của vợ 2 câu
Đ 673, 1056 2

120
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị An (1990), “Về một phương diện nghệ thuật của ca dao tình yêu”,
Tạp chí văn học (6), tr. 54 – 59.
2. Trần Thúy Anh (2011), Ứng xử cổ truyền với tự nhiên và xã hội người Việt
châu thổ Bắc Bộ qua ca dao, tục ngữ, NXB Lao động. Hà Nội.
3. Đỗ Thị Bảy (2011), Sự phản ánh quan hệ gia đình, xã hội trong tục ngữ, ca
dao người Việt, NXB Lao động, Hà Nội.
4. Phan Kế Bính ( 2003), Việt Nam phong tục, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
5. Trần Đức Các (1978), “Tục ngữ với câu thơ lục bát trong ca dao dân ca”,
Tạp chí văn học (1), tr.91 – 102.
6. Nguyễn Phƣơng Châm (2011), So sánh ca dao người Việt ở xứ Nghệ và xứ
Bắc, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
7. Đoàn Văn Chúc ( 1997), Xã hội học Văn hóa, Viện Văn hóa và NXB Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
8. Mai Ngọc Chừ (1989), “Vần, nhịp, thanh điệu và sức mạnh biểu hiện ý nghĩa
của lục bát biến thể”, Tạp chí Văn hóa dân gian (2), Hà Nội.
9. Nguyễn Nghĩa Dân (2011), Tục ngữ ca dao về giáo dục đạo đức. NXB Giáo
dục, Hà Nội.
10.Trần Phỏng Diều (2005), “Phương ngữ Nam Bộ trong ca dao về tình yêu”,
Tạp chí Văn hóa dân gian (3), tr.60 – 61.
11.Nguyễn Quốc Dũng (2004), “Từ số từ đến cách đọc hiểu cấu trúc một câu ca
dao “Một thương tóc bỏ đuôi gà”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống (8), tr. 27 – 28.
12.Hà Đan (2006), “Từ chữ “nghĩa” trong ca dao, tìm về một nét ứng xử trong
truyền thống văn hóa của người Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (12), tr.58.

121
13. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
14. Cao Huy Đỉnh (1966), “Lối đối đáp trong ca dao trữ tình”, Tạp chí Văn học
(9), tr. 10 – 14, Hà Nội.
15. Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2011), “Thế giới biểu tượng sóng đôi trong ca dao
người Việt”, Tạp chí Văn hóa dân gian (3), Hà Nội, tr. 53 – 58.
16. Nguyễn Xuân Đức (2004), “Nghệ thuật biểu hiện trong bài ca dao “Trèo lên
cây bưởi hái hoa”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (2), tr.107 – 117.
17. Vũ Tố Hảo (1986), “Điểm lại quá trình sưu tầm nghiên cứu ca dao dân ca từ
xưa đến trước Cách mạng tháng tám”, Văn hóa dân gian (3), tr.45-52.
18. Đỗ Thị Hòa, Đặc điểm nghệ thuật so sánh trực tiếp trong ca dao tình yêu
người Việt, Luận văn Thạc sĩ VHDG, ĐHSP Hà Nội.
19. Kiều Thu Hoạch (2012), Văn học dân gian người Việt góc nhìn thể loại,
NXB Lao động, Hà Nội.
20. Nguyễn Thị Thu Huyền, Khảo sát chữ “duyên” trong Kho tàng ca dao
người Việt, Luận văn Thạc sĩ VHDG, ĐHSP Hà Nội.
21. Trần Thị Ngân Giang, (2004), “Nghĩa của từ “nhịn” trong tiếng Việt và chữ
nhịn trong văn hóa ứng xử của người Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (6), tr.71 – 74
22. Đinh Gia Khánh chủ biên (2000), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
23. Đinh Gia Khánh chủ biên (1995), Ca dao Việt Nam, NXB Tổng hợp, Đồng
Tháp.
24. Đinh Gia Khánh (1989), Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.

122
25. Nguyễn Xuân Kính (2006), Thi pháp ca dao, NXB Đại học Quốc gia, Hà
Nội.
26. Nguyễn Xuân Kính (2001), “Một thế kỉ sưu tầm, nghiên cứu ca dao người
Việt”, Tạp chí văn học (1), tr. 32 – 45.
27. Nguyễn Xuân Kính ( 1988), Văn học dân gian thể hiện bản sắc văn hóa dân
gian, Tạp chí văn hóa dân gian (2), tr. 62 – 71.
28. Nguyễn Xuân Kính (1983), “Qua tục ngữ, ca dao Hà Nội tìm hiểu công cuộc
xây dựng đất nước, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc”, Văn hóa dân gian (3+4),
tr.57 – 67.
29. Nguyễn Xuân Kính, (1987), “Ý nghĩa của hai từ trúc, mai trong văn chương
bác học và trong ca dao dân ca”, Văn hóa dân gian (4), tr. 22- 29
30. Nguyễn Xuân Kính (1992), “Thể thơ trong ca dao”, Văn hóa dân gian (4),
tr. 35 – 43
31. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên (1995), Kho tàng ca dao
người Việt (tập 1), NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
32. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên (1995), Kho tàng ca dao
người Việt (tập 2), NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
33. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên (1995), Kho tàng ca dao
người Việt (tập 3), NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
34. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên (1995), Kho tàng ca dao
người Việt (tập 4), NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
35. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên (2002), Tổng tập VHDG
người Việt (tập 15), NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
36. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên (2002), Tổng tập VHDG
người Việt (tập 16, quyển thượng), NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội

123
37. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên (2002), Tổng tập VHDG
người Việt (tập 16, quyển hạ), NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
38. Nguyễn Xuân Lạc (2005), “Con số “mười…” trong ca dao và những bài ca
dao có mô típ “một… đến mười…”, Nghiên cứu văn học (4), tr. 48 – 57.
39. Nguyễn Xuân Lạc (1998), “Văn học dân gian với việc bồi đắp tâm hồn dân
tộc cho thế hệ trẻ”, Văn hóa dân gian (3), tr. 73 – 82.
40.Trần Thị Kim Liên (2004), “Tính thống nhất và sắc thái riêng của thể thơ lục
bát trong ca dao 3 miền Bắc, Trung, Nam”, Tạp chí Văn hóa dân gian (1), tr. 63
– 67.
41. Trần Kim Liên (2002), “Góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong
việc dạy – học văn học dân gian ở trường phổ thông”, Văn hóa dân gian (1), tr.
64 – 75.
42. Trần Kim Liên (2003), “Cách sử dụng từ xưng hô trong ca dao tình yêu”,
Văn hóa dân gian (2), tr. 54 – 64.
43. Đỗ Thị Kim Liên (2006), “So sánh đại từ “ai” trong ca dao tục ngữ, Tạp chí
Ngôn ngữ và đời sống (1 + 2), tr. 2 – 8.
44. Đỗ Thị Kim Liên (2004), “Bài ca dao “Tát nước đầu đình” từ góc nhìn ngữ
dụng học”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống (7), tr. 11 – 15.
45. Phạm Việt Long (2000), Tục ngữ, ca dao phản ảnh phong tục tập quán
người Việt, NXB Đại học KHXH và NV, Hà Nội.
46. Nguyễn Luân (1994), “Qua một bài ca dao, hiểu thêm về phẩm chất người
phụ nữ xưa”, Văn hóa dân gian (4), tr. 36 – 45.
47. Phạm Danh Môn (st, chỉnh lý, 2011), Tình yêu đôi lứa trong ca dao Việt
Nam, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội.

124
48. Quan Vi Miên (2006), “Ca dao, dân ca Thái về tình yêu và sự chia ly”, Tạp
chí Ngôn ngữ và đời sống (11), tr. 21.
49. Hoàng Kim Ngọc (2011), So sánh ẩn dụ trong ca dao trữ tình người Việt
(dưới góc nhìn ngôn ngữ - văn hóa học), NXB Lao động, Hà Nội.
50. Nguyễn Ánh Nguyệt (2011), Nghiên cứu đặc điểm thi pháp cấu trúc ca dao
trữ tình người Việt, Luận văn thạc sĩ, ĐH SP Thái Nguyên.
51. Bùi Mạnh Nhị (1997), “Công thức truyền thống và đặc trưng cấu trúc của
ca dao – dân ca trữ tình”, Tạp chí văn học (1), tr. 21 – 26.
52. Bùi Mạnh Nhị (2012), Văn học dân gian những công trình nghiên cứu,NXB
Giáo dục, Hà Nội.
53. Vũ Ngọc Phan (1998), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam , NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
54. Hoàng Phê (2011), Trung tâm từ điển học Vietlex: Từ điển Tiếng Việt, NXB
Đà Nẵng.
55. Nguyễn Hằng Phƣơng (2001), “Cảm hứng chủ đạo trong ca dao người
Việt”, Văn hóa dân gian (3), tr. 45 – 53.
56. Lê Chí Quế, Nguyễn Hùng Vỹ, Võ Quang Nhơn (1990), Văn học dân gian
Việt Nam, NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
57. Vũ Tiến Quỳnh (2000), Ca dao tình yêu, NXB Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
58. Vũ Phƣơng Thảo, Quan hệ gia đình trong cái nhìn so sánh giữa ca dao Nam
Bộ và ca dao Bắc Bộ, Luận văn thạc sĩ VHDG, Đại học KHXH và NV, Hà Nội.
59. Lê Thị Thắm (2009), “Ý niệm về đôi – cặp trong ca dao người Việt về hôn
nhân và gia đình”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống (1 + 2), tr. 64 – 67.
60. Trần Ngọc Thêm (2003), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Tổng hợp,
TP Hồ Chí Minh.

125
61. Nguyễn Văn Thông (2000), “Tìm hiểu văn hóa ứng xử của người Việt qua
tục ngữ”, Văn hóa dân gian (2), tr. 34 – 40.
62. Đỗ Thị Thu Thủy (2003), Chủ đề gia đình trong ca dao cổ truyền người Việt,
Luận văn thạc sĩ, ĐHSP Thái Nguyên.
63. Đặng Diệu Trang ( 2006), “Thiên nhiên với thế giới ẩn dụ và biểu tượng
trong ca dao dân ca”, Văn hóa dân gian (1), tr. 15 – 23.
64. Đỗ Bình Trị (2000), Nghiên cứu tiến trình lịch sử Văn học dân gian Việt
Nam, NXB Khoa học, Hà Nội.
65. Vũ Anh Tuấn, Nguyễn Xuân Lạc ( 1993), Giảng văn Văn học dân gian Việt
Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
66. Vũ Anh Tuấn, Phạm Thu Yến, Nguyễn Việt Hùng, Phạm Đặng Xuân Hƣơng
(2012), Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục.
67. Hoàng Tiến Tựu (1999), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục.
68. Tạ Đăng Tuyên (1998), “Tuc ngữ ca dao và lời ru với việc giáo dục giá trị
đạo đức, nhân văn”, Văn hóa dân gian (1), tr. 23 – 28.
69. Bùi Thị Lê Vân, Dân ca Xoan Ghẹo trong vùng văn hóa dân gian Phú Thọ,
Luận văn thạc sĩ VHDG, ĐH SP Hà Nội.
70. Vũ Thị Thùy Vân, Đặc điểm bài ca sinh hoạt gia đình trong kho tàng ca dao
người Việt, Luận văn thạc sĩ VHDG, ĐH SP Hà Nội.
71. Trần Quốc Vƣợng (2012), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
72. Phạm Thu Yến (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao, NXB Giáo dục,
Hà Nội.

126

You might also like