You are on page 1of 59

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
*******

HỒ THỊ THI

CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO NGUYỄN DU


TRONG TRUYỆN KIỀU VÀ VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


NGÀNH CỬ NHÂN VĂN HỌC

Đà Nẵng, tháng 5/2015


2

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
*******

CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO NGUYỄN DU


TRONG TRUYỆN KIỀU VÀ VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


NGÀNH CỬ NHÂN VĂN HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn:


PGS. TS Nguyễn Phong Nam

Ngƣời thực hiện:


HỒ THỊ THI
(khóa 2011-2015)

Đà Nẵng, tháng 5/2015


3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi: Hồ Thị Thi xin cam đoan rằng:


Công trình này do tôi thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn của PGS.TS Nguyễn
Phong Nam
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực của nội dung trong công trình
này.
Đà Nẵng, ngày 03 tháng 05 năm 2015
Ngƣời thực hiện
Hồ Thị Thi
4

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian thực hiện đề tài khóa luận, tôi đã nhận đƣợc rất nhiều
sự quan tâm, giúp đỡ của quý Thầy Cô, gia đình và bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Khoa Ngữ văn trƣờng Đại học
Sƣ phạm - Đại học Đà Nẵng đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hƣớng dẫn chỉ bảo tận tình của PGS.TS
Nguyễn Phong Nam. Cảm ơn thầy đã giúp đỡ trong suốt quá trình nghiên cứu,
từ khâu tìm tài liệu đến việc chỉnh sửa từng con chữ, từng nét nghĩa, từ khâu
bố cục đến từng chi tiết nội dung cụ thể. Xin cảm ơn thời giờ, công sức và
những vất vả nhọc tâm của thầy. Nhờ đó mà tôi mới có thể hoàn thành đề tài
luận văn này.
Vì trình độ có hạn và thời gian không cho phép nên mặc dù có nhiều cố
gắng trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài, luận văn vẫn còn nhiều
thiếu sót. Tôi rất mong nhận đƣợc ý kiến đóng góp của quý thầy cô cũng nhƣ
các bạn để luận văn đƣợc hoàn thiện hơn
Xin chân thành cảm ơn!
Ngƣời thực hiện
Hồ Thị Thi
5

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
5. Bố cục đề tài
CHƢƠNG I: CHÂN DUNG NGUYỄN DU_DANH NHÂN VĂN HÓA
1.1. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Du
1.1.1. Cuộc đời
1.1.2. Sự nghiệp văn học
1.2. Vị trí Nguyễn Du trong dòng chảy lịch sử văn học dân tộc
1.2.1. Ngƣời khai mở một chủ nghĩa, một tƣ tƣởng mới
1.2.2. Tầm ảnh hƣởng, sự chi phối của tƣ tƣởng và nghệ thuật Nguyễn Du
1.3. Truyện Kiều_Kiệt tác của nền văn học cổ điển Việt Nam
1.3.1. Nguồn gốc, thời gian sáng tác
1.3.2. Giá trị văn hóa, văn học
1.4. Văn tế thập loại chúng sinh_ “Quyển kinh của tình thƣơng”
1.4.1. Nguồn gốc, thời gian sáng tác
1.4.2. Giá trị văn hóa, văn học
CHƢƠNG II: NÉT ĐẶC SẮC CỦA CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO NGUYỄN
DU TRONG TRUYỆN KIỀU VÀ VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH
2.1. Truyện Kiều và Văn tế thập loại chúng sinh_ bản cáo trạng đanh thép
đối với cái xấu xa, độc ác
2.1.1. Phê phán xã hội thối nát
2.1.2. Bên vực quyền sống của con ngƣời
6

2.2. Lòng yêu thƣơng, khát khao hạnh phúc, tự do cho con ngƣời
2.2.1. Truyện Kiều và những suy tƣ về số phận con ngƣời
2.2.2. Tinh thần “Từ- bi- hỉ- xả” qua Văn tế thập loại chúng sinh
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
7

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọ đề tài
Nguyễn Du_ đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, là niềm tự
hào của dân tộc ta. Ông đã để lại cho nhân loại một kho tàng văn chƣơng với
các tập thơ chữ Hán, chữ Nôm, văn tế, truyện thơ…Nguyễn Du đã đem cái
hồn, cái tinh của văn học dân tộc đến cùng bạn bè thế giới. Vƣợt lên sự bào
mòn của thời gian tên tuổi Nguyễn Du còn sống mãi với lịch sử nƣớc Việt.
Không phải ngẫu nhiên mà hơn hai thế kỷ qua, vƣợt qua sự khắc nghiệt của
thời gian và sự lãng quên của con ngƣời, những sáng tác của Nguyễn Du vẫn
sống trong lòng ngƣời đọc bao thế hệ. Để có sự vĩnh tồn vƣợt thời gian ấy, tác
phẩm của Nguyễn Du phải chứa đựng những giá trị cao cả mà con ngƣời
hƣớng tới, bất luận là thời đại nào. Những điều đó có đƣợc trƣớc hết bởi
Nguyễn Du là một nhà tƣ tƣởng với những suy tƣ vƣợt thời đại. Có thể nói
cuộc đời và tác phẩm của Nguyễn Du mang nhiều giá trị sâu sắc, phản ánh
nhiều vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn. Để hiểu hết những tƣ tƣởng của
Nguyễn Du là một điều không dễ dàng. Nghiên cứu Nguyễn Du dƣới góc độ
tƣ tƣởng luôn là đề tài đƣợc thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu và
giới phê bình văn học.
Ngày nay con ngƣời đang sống trong một xã hội với nhiều biến đổi to
lớn về kinh tế, chính trị, tƣ tƣởng, văn hóa. Cùng với sự phát triển của khoa
học kỹ thuật, với guồng quay của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa,
nhiều giá trị văn hóa của ngƣời Việt Nam có sự thay đổi. Bên cạnh những giá
trị tích cực của nền kinh tế thị trƣờng mang lại thì cũng kéo theo không ít
những hiện tƣợng tiêu cực. Kinh tế thị trƣờng lấy lợi nhuận làm mục đích
khiến con ngƣời chạy theo guồng quay của đồng tiền, dần đánh mất mình,
đánh mất những giá trị nhân văn tốt đẹp của dân tộc. Điều này đòi hỏi chúng
ta phải nhận thức lại việc giữ gìn và phát huy các truyền thống nhân văn dân
8

tộc, truyền thống yêu thƣơng con ngƣời là cấp thiết hơn bao giờ hết. Đó cũng
là lý do chúng tôi tìm hiểu chủ nghĩa nhân đạo Nguyễn Du, để thấy đƣợc
những điều tốt đẹp mà ông cha ta đã nhắc nhở hàng bao thế kỷ trƣớc.
Chủ nghĩa nhân đạo trong thơ ca Nguyễn Du đƣợc kết tinh trong hàng
ngàn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc ta, là hiện thân của tinh thần,
cốt cách của ngƣời Việt Nam. Chủ nghĩa nhân đạo ấy đƣợc Nguyễn Du thể
hiện sâu sắc qua Truyện Kiều và Văn tế thập loại chúng sinh. Nguyễn Du đã
khiến bạn đọc phải thƣơng, phải khóc khi sống cùng tác phẩm. Nguyễn Du
với “con mắt nhìn xuyên sáu cõi, có tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời” đã tạo ra
những áng thơ văn bất hủ, phi thƣờng. Tính chất phi thƣờng của tác phẩm
không chỉ thể hiện qua nội dung độc đáo, nghệ thuật tài hoa mà còn ở chỗ nó
mang một tƣ tƣởng thời đại, tƣ tƣởng nhân đạo chủ nghĩa.
Nghiên cứu đề tài “Chủ nghĩa nhân đạo Nguyễn Du trong Truyện Kiều
và Văn tế thập loại chúng sinh” chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu, khám phá tƣ
tƣởng tác giả, ý nghĩa tác phẩm hay cũng chính là hiểu một thời đại văn học
của dân tộc, góp phần gìn giữ và phát huy những giá trị nhân văn sâu sắc của
dân tộc ta. Đề tài này cũng giúp cho chúng tôi trong việc học tập và công tác
giảng dạy sau này.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nguyễn Du là con ngƣời nổi tiếng. Cuộc đời và sự nghiệp của ông có
sức hút mạnh mẽ giới nghiên cứu trong và ngoài nƣớc. Có rất nhiều công
trình nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp, những áng văn chƣơng bất hủ, tƣ duy
nghệ thuật tài hoa của Nguyễn Du đã đƣợc công bố.
Hoàng Khôi với cuốn Nguyễn Du_ trên đường gió bụi đã giúp bạn đọc
giải đáp một số thắc mắc trong cuộc đời Nguyễn Du nhƣ: Nguyễn Du trong
thời gian ở Thái Bình, Nguyễn Du với phong trào Tây Sơn, Nguyễn Du Với
Gia Long, Nguyễn Du với mối tình mang tên Hồ Xuân Hƣơng…Với công
9

trình này Hoàng Khôi đã cho bạn đọc một cái nhìn khái quát nhất về cuộc đời
Nguyễn Du.
Lê Xuân Lít với cuốn Hai trăm năm nghiên cưu bình luận Kiều, đã tập
hợp tất cả những công trình nghiên cứu về Nguyễn Du trải qua hai trăm năm
lịch sử nhƣ bối cảnh lịch sử văn hóa thời đại Nguyễn Du, dòng họ con ngƣời
Nguyễn Du cùng các tác phẩm của ông. Cuốn sách cung cấp lƣợng tri thức
khổng lồ về Nguyễn Du với những tài liệu chân thực, đáng tin cậy. Chúng tôi
đánh giá rất cao công trình này, nó giúp chúng tôi rất nhiều trong quá trình
thực hiện đề tài.
Đặc biệt xoay quanh hai tác phẩm Truyện Kiều và Văn tế thập loại chúng
sinh cũng có rất nhiều bài viết phê bình nghiên cứu, nhiều bài nghiên cứu có
tính chất phê bình, nghị luận đã đƣợc công bố. Ở trong các trƣờng đại học
cũng đã có hàng loạt các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ nghiên cứu về tác phẩm này.
Truyện Kiều và Văn tế thập loại chúng sinh đƣợc các nhà nghiên cứu đánh giá
là thành công trên nhiều mặt, nhiều bình diện khác nhau nhƣ đề tài, cách xây
dựng nhân vật, thi pháp nhân vật, ngôn từ nghệ thuật…
* Các công trình nghiên cứu về Truyện Kiều:
Dƣới góc độ văn hóa có công trình của Lê Nguyên Cẩn Tiếp cận truyện
Kiều từ góc nhìn văn hóa. Ông nhận định: “Tác phẩm không chỉ thể hiện quan
điểm độc đáo, nghệ thuật tài hoa mà con mang một tầm vóc văn hóa, mang
đậm bản sắc văn hóa dân tộc, mang tính lịch sử và truyền thống văn hóa thời
đại”.
Trần Đình Sử trong bài viết “cái nhìn nghệ thuật về con người” thì cho
rằng “cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Du về con ngƣời cho thấy ông đã đổi
mới hẳn quan niệm về con ngƣời và cách miêu tả con ngƣời, tạo thành chất
lƣợng mới trong tác phẩm. Cách cảm nhận chủ quan của nhà thơ là một thái
10

độ hàm chứa rất nhiều bình diện giá trị khác loại của đời sống, thể hiện đặc
điểm của nhà thơ lớn…” [16, tr.583]
Dƣới góc độ triết_luân lý, Bùi Giáng trong bài viết “Giá trị luân lý của
Đoạn trường tân thanh hay là giọng nói của Nguyễn Du” viết: “Nguồn đạo lý
toát ra từ cái nhân sinh quan sâu sắc ấy, từ cái nhìn rất gần gũi với cuộc đời,
mà hầu nhƣ đã hoàn toàn siêu thoát, ngƣời sẽ nói đến tài đến mệnh, đến luật
bỉ sắc tƣ phong…nhƣng nếu ta chậm rãi, thung dung nhận lại ta sẽ thấy không
biết bao nhiêu sâu xa của tƣ tƣởng, u uẩn của tâm tình, khuất mắc của tâm can
đƣợc giải bày…” [16, tr.801].
Phan Ngọc trong Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều thì
kết luận: chủ đề của Truyện Kiều là tài mệnh tƣơng đố, hồng nhan bạc mệnh.
Theo ông: “Tài mệnh tƣơng đố, hồng nhan bạc mệnh không phải là vấn đề
vay mƣợn, là một sáo ngữ… và nó là một vấn đề không có tính chất muôn
thuở mà nó nảy sinh trong một giai đoạn lịch sử nhất định,… là sự sáng tạo
độc đáo của Nguyễn Du” [21, tr.42]. Bằng những lý luận văn học hiện đại,
ông đã chỉ ra những đổi mới cách tân nghệ thuật của Nguyễn Du trong Truyện
Kiều. Bằng những ứng xử nghệ thuật riêng của Nguyễn Du, ông đã chứng
minh một cách khoa học rằng Truyện Kiều không phải là một bản dịch thơ từ
một tác phẩm Trung Quốc mà là một sáng tạo độc đáo của văn học Việt Nam,
và của cá nhân đại thi hào Nguyễn Du.
Đào Duy Anh lại cho rằng: “Tƣ tƣởng chủ yếu của Nguyễn Du trong
sách này là tài mệnh tƣơng đố.Tƣ tƣởng ấy gốc là ở thuyết thiên mệnh của
Nho giáo” [17, tr.1065].
Trần Trọng Kim có nhận định khác, ông cho rằng: “Truyện Kiều bày tỏ
một cách rõ ràng cái lí thuyết nhân quả của nhà Phật” [6, tr.278].
Cao Huy Đỉnh cũng cho rằng Truyện Kiều mang triết lí đạo Phật. “Vấn
đề là Truyện Kiều nhuốm màu đạo Phật, nhƣng đạo Phật không còn thuần tuý
11

và cũng không phải là chủ yếu trong Truyện Kiều… Ông viết Truyện Kiều
theo tiếng gọi của tình cảm, theo luận lí của hiện thực trƣớc khi theo giáo lý
nhà Phật” [6, tr.551].
Hoàng Ngọc Hiến có cái nhìn khác hơn. Theo ông, “Nguyễn Du giải
thích cuộc đời đứng ở phía con ngƣời để oán hờn số mệnh (trong Truyện Kiều
“trời xanh”, “trăng già”, “hoá công”, “hoá nhi”… chỉ là cái tên văn học của số
mệnh)” [6, tr.549].
*Các công trình nghiên cứu về Văn tế thập loại chúng sinh:
Hoài Thanh trong bài viết “văn chiêu hồn” (trích trong cuốn Nghiên cứu
văn- sử- địa do Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn) đã cho rằng: “Chủ nghĩa nhân
đạo ở đây không có sức chiến đấu nhƣ trong Truyện Kiều, nó đi vào chỗ hoàn
toàn bế tắc” và “bài văn tế rất dồi dào tính quần chúng, nó dựng lên những
hình ảnh rút ra từ trong trí tƣởng tƣợng và cuộc đời thực của quần
chúng…nhƣng về mặt tinh thần nó biểu hiện cái tiêu cực, phần mê tín dị đoan
nhiều hơn là cái phần hang hái tráng kiệt trong tinh thần quần chúng”.
Cũng viết về Văn chiêu hồn, Đình Hùng với bài viết “Người thơ thuần
túy Nguyễn Du trong văn tế thập loại chúng sinh”, đã đề cao văn chiêu hồn
nhƣ là “viên ngọc quý”. Tác giả đã đƣa ra một nhận định xác đáng “Cả
Truyện Kiều và Văn tế thập loại chúng sinh đều giúp cho ta tìm hiểu con
ngƣời nguyên vẹn của Nguyễn Du” [6, tr.140].
* Đối với đề tài chủ nghĩa nhân đạo Nguyễn Du thì có một số công trình cụ
thể nhƣ sau: Đặng Thai Mai với bài viết “Đặc sắc của văn học cổ điển Việt
Nam qua nôi dung Truyện Kiều”; Cao Huy Đỉnh với bài viết “Triết lý đạo
phật trong Truyện Kiều” (in trên tạp chí Văn học, số 12, 1966); Lƣu Trọng Lƣ
trong bài “Một quyển kinh về tình thương” in trong Nhật ký đọc Kiều, NXB
Hội Nhà văn.
12

Với dung lƣợng ngắn, hầu hết các công trình nghiên cứu nói trên mới chỉ
đề cập một cách sơ lƣợc chƣa giải quyết một cách đầy đủ các phƣơng diện
của chủ nghĩa nhân đạo Nguyễn Du. Với đề tài khóa luận “Chủ nghĩa nhân
đạo Nguyễn Du trong Truyện Kiều và Văn tế thập loại chúng sinh” tôi mong
muốn có thể góp một tiếng nói riêng việc nghiên cứu Nguyễn Du và làm rõ
nét độc đáo của chủ nghĩa nhân đạo Nguyễn Du ở hai tác phẩm này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng khoa học mà khóa luận nghiên cứu là chủ nghĩa nhân đạo
Nguyễn Du thể hiện qua tác phẩm Truyện Kiều và Văn tế thập loại chúng
sinh.
Phạm vi đề tài là hai tác phẩm Truyện Kiều, NXB Thanh niên, (2008); và
Văn tế thập loại chúng sinh, NXB Văn học, (1996).
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng kết hợp những phƣơng pháp
nghiên cứu văn học sau:
Phƣơng pháp nghiên cứu tác giả
Phƣơng pháp nghiên cứu tác phẩm
Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu
Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, để tài của chúng tôi
chia làm 2 chƣơng:
Chƣơng 1: Chân dung Nguyễn Du_Danh nhân văn hóa
Chƣơng 2: Nét đặc sắc của chủ nghĩa nhân đạo Nguyễn Du trong Truyện Kiều
và Văn tế thập loại chúng sinh
13

CHƢƠNG I
CHÂN DUNG NGUYỄN DU_DANH NHÂN VĂN HÓA
1.1. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Du
1.1.1. Cuộc đời
Nguyễn Du (sinh năm Ất Dậu 1765– mất năm Canh Thìn 1820), tên chữ
Tố Nhƣ, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ, là ngƣời Tiên Điền,
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Cha ông là Nguyễn Nghiễm (1708-1775), tự
Hy Di, biệt hiệu Hồng Ngự cƣ sĩ, vừa là một quan chức, sử gia vừa là một nhà
thơ. Mẹ là Trần Thị Tần (1740 - 1778), quê làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo,
huyện Tiên Du (Đông Ngàn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Nguyễn
Du đƣợc sinh ra trong một gia đình quý tộc có thế lực vào bậc nhất lúc bấy
giờ, tƣơng truyền:
“Bao giờ ngàn Hống hết cây
Sông Rum hết nƣớc họ này hết quan”
Vốn có tƣ chất thông minh, lại sống trong gia đình quyền quý nên ông có
điều kiện học sâu hiểu rộng, tinh tƣờng cả Nho, Phật, Lão, thấu cả văn
chƣơng kim cổ. Những biến cố của gia đình và thời đại đã nhanh chóng đẩy
ông ra giữa phong ba bão táp cuộc đời. Năm mƣời tuổi, Nguyễn Du mồ côi
cha, năm mƣời ba tuổi mồ côi mẹ và ông phải đến sống cùng ngƣời anh cùng
cha khác mẹ là Nguyễn Khản (1734-1786). Nguyễn Khản từng làm quan tới
chức Tham tụng, nổi tiếng phong lƣu một thời, thân với chúa Trịnh Sâm và là
ngƣời rất mê hát xƣớng. Trong thời gian này, Nguyễn Du có điều kiện dùi
mài kinh sử, có dịp hiểu biết về cuộc sống phong lƣu, xa hoa của giới quý tộc
phong kiến. Những điều đó để lại nhiều dấu ấn trong sáng tác của ông sau
này.
Năm Quý Mão (1783), mƣời chín tuổi Nguyễn Du dự khoa thi Hƣơng ở
trƣờng Sơn Nam đỗ tam trƣờng. Ông từng là con nuôi của một ngƣời làm
14

Chánh thủ hiệu quân Hùng hậu họ Hà. Sau khi ngƣời đó mất ông đƣợc tập
chức. Năm Kỷ Dậu (1789), vua Lê Chiêu Thống chạy sang phƣơng Bắc ông
theo hộ giá không kịp, bèn trở về quê vợ, nƣơng nhờ anh vợ là Đoàn Khắc
Tuấn ngƣời An Hải, Quỳnh Côi, Sơn Nam. Đoàn Khắc Tuấn là ngƣời tuổi trẻ,
tài cao, nổi tiếng văn chƣơng, làm quan đến Lại bộ Tả Thị lang thời Tây Sơn.
Mùa đông năm Bính Thìn (1796) Nguyễn Du định vào Gia Định theo Nguyễn
Ánh nhƣng việc bị tiết lộ, bị tƣớng trấn thủ là Thận Quận công bắt giữ. Mùa
hạ năm Nhâm Tuất (1802), khi Nguyễn Ánh đến Nghệ An, ông đáp lời triệu
ra yết kiến vua. Mùa thu tháng tám nhận chức Tri huyện huyện Phù Dung, sau
đó làm Tri phủ phủ Thƣờng Tín. Mùa đông năm Quý Hợi (1803) sứ giả nhà
Thanh đến sắc phong, ông phụng mệnh cùng đi. Mùa thu năm Giáp Tý (1804)
vì bị bệnh xin từ chức về quê, đƣợc nghỉ hơn một tháng lại có lệnh triệu lên
kinh. Mùa xuân năm Đinh Sửa (1805) đƣợc thăng Đông Các học sĩ, tƣớc Du
Đức hầu. Mùa thu năm Đinh Mão (1807), đƣợc lệnh làm giám khảo trƣờng
thi Hƣơng ở Hải Dƣơng. Năm Mậu Thìn (1808), xin vua đƣợc về quê. Tháng
tƣ năm Kỷ Tỵ (1809) đƣợc vua chuẩn ban Cai bạ doanh Quảng Bình. Nguyễn
Du làm quan đƣợc bốn năm. Mùa thu năm Nhâm Thân, ông xin phép về quê
hai tháng sau đó đƣợc triệu về kinh. Mùa xuân năm Quý Dậu (1813) ông
đƣợc thăng Cần Chánh điện học sĩ, rồi đƣợc ban chức Chánh sứ tuế cống bộ
đi sứ sang Trung Quốc. Thời gian này Nguyễn Du đƣợc tiếp xúc với nền văn
hóa mà từ nhỏ ông đã quen thuộc qua sử sách, thơ văn. Chuyến đi sứ đã góp
phần mở mang hiểu biết của Nguyễn Du về xã hội và thân phận con ngƣời
trong các sáng tác của ông. Năm Canh Thìn (1820) vua Minh lên ngôi, cử ông
làm chánh sứ cầu phong, nhƣng chƣa kịp đi thì lâm bệnh, mất tại kinh đô vào
ngày mƣời tháng tám năm Canh Thìn (16/9/1820).
15

Năm 1965, Nguyễn Du đƣợc Hội đồng hòa bình thế giới công nhận là
danh nhân văn hóa thế giới và ra quyết định kỷ niệm trọng thể nhân dịp hai
trăm năm ngày sinh của ông.
1.1.2. Sự nghiệp văn học
Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của
Trung Quốc, nhƣ: Ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ca, hành...
nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Nguyễn Du và những tác phẩm
văn chƣơng của Nguyễn Du đƣợc hình thành không chỉ từ học vấn Nho giáo
kết hợp hài hoà với các tri thức văn hoá dân gian, từ bối cảnh xã hội hết sức
phức tạp Nguyễn Du từng trải nghiệm trong cuộc đời mà dƣờng nhƣ còn đƣợc
hình thành từ những khoảnh khắc loé sáng kết tinh trầm tích văn hoá của bao
số phận con ngƣời, của dòng đời, của cả xã hội phong kiến Việt Nam thời đó.
Sáng tác của Nguyễn Du đƣợc lƣu hành ngay từ lúc ông còn sống. Từ đó đến
nay, các sáng tác của ông thu hút rất nhiều ngƣời tìm hiểu, học tập, nghiên
cứu. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du gồm các tác phẩm sáng tác bằng chữ
Hán và các tác phẩm sáng tác bằng chữ Nôm.
Những tác phẩm bằng chữ Hán của Nguyễn Du rất nhiều, nhƣng mãi đến
năm 1959 mới đƣợc ba nhà nho là: Bùi Kỷ, Phan Võ và Nguyễn Khắc Hanh
sƣu tầm, phiên dịch, chú thích và giới thiệu tập: Thơ chữ Hán Nguyễn Du
(Nhà xuất bản Văn hóa, 1959) chỉ gồm có một trăm lẻ hai bài. Đến năm 1965
Nhà xuất bản Văn học đã ra Thơ chữ Hán Nguyễn Du tập mới do Lê Thƣớc
và Trƣơng Chính sƣu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp, gồm hai trăm bốn
mƣơi chín bài. Các tập thơ gồm:
Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm bảy mƣơi tám bài,
viết chủ yếu trong những năm tháng sống ở Thái Bình cho đến những năm
đầu ra làm quan với nhà Nguyễn ở Bắc Hà. Tác phẩm là tâm tình của nhà thơ
trong những năm sống long đong vất vả ở Thái Bình, cũng nhƣ ở Tiên Điền.
16

Nhà thơ lúc nào cũng buồn, luôn than thở về thực tại nghèo túng, lúc nào
cũng “thân thế phó mặc cho cát bụi” có lúc lại “giả vụng để phòng thói tục”.
Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm bốn mƣơi
bài, viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phƣơng ở phía nam
Hà Tĩnh. Là một tập thơ có tính nhật ký, bút ký của tác giả trong những năm
tháng làm quan dƣới thời Nguyễn. Về đề tài Nam trung tạp ngâm chƣa có gì
mới so với Thanh Hiên thi tập. Những bài thơ trong Nam trung tạp ngâm vẫn
là tiếng thở dài của nhà thơ trƣớc một thực trạng mà ông không thấy có gì gắn
bó. Nguyễn Du lại nói về sự nghèo túng ốm đau của mình. Trong một số bài
thơ khác ông nói một cách mỉa mai bóng gió về việc bọn quan lại hay chèn
ép. Trong một số bài thơ khác nữa ông lại than thở làm quan nhƣ bị nhốt vào
củi không tìm thấy những ngày tháng tự do, phóng khoáng. Cũng giống nhƣ
Thanh Hiên thi tập, Nguyễn Du chƣa bao giờ nói rõ tâm sự thật của ông trong
Nam trung tạp ngâm.
Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phƣơng Bắc)
gồm một trăm ba mƣơi mốt bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc,
bao gồm những đề tài lịch sử và những điều tai nghe mắt thấy trên con đƣờng
đi sứ ở Trung Quốc. Mặc dù làm Chánh sứ công việc ngoại giao rất phiền
toái, thế mà số lƣợng sáng tác của ông trong hai năm đi sứ gần bằng toàn bộ
sáng tác thơ chữ Hán của ông trong suốt mƣời mấy năm trƣớc đó cộng lại.
Trong Bắc hành tạp lục Nguyễn Du không những viết nhiều mà còn viết rất
hay. Có thể nói những bài thơ chữ Hán hay nhất , thể hiện rõ nhất lòng ƣu ái
của nhà thơ trƣớc cuộc đời và trƣớc vận mệnh của con ngƣời chủ yếu tập
trung trong tập này. Chẳng hạn các bài Phản chiêu hồn, Thái Bình mại ca giả,
Sở kiến hành, Trở binh hành,…
Những tác phẩm bằng chữ Nôm của Nguyễn Du gồm có:
17

Đoạn trường tân thanh, đƣợc viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ
theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện
của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay
quanh quãng đời lƣu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật
chính trong truyện, một cô gái có tài sắc. Về thời điểm sáng tác, Từ điển văn
học (bộ mới) ghi: "Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi sứ
Trung Quốc (1814-1820), có thuyết nói ông viết trƣớc khi đi sứ, có thể vào
khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809)”.
Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh), hiện chƣa rõ thời điểm
sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của Trần
Thanh Mại, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp
làm hằng triệu ngƣời chết, khắp non sông đất nƣớc âm khí nặng nề, và ở khắp
các chùa, ngƣời ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn.
Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn chiêu hồn trƣớc cả
Truyện Kiều, khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812). Tác phẩm
đƣợc làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm. Trong tác
phẩm này Nguyễn Du muốn chia sẻ tình thƣơng của mình cho tất cả mọi
ngƣời từ em bé mồ côi không nơi nƣơng tựa, cô gái làm nghề mại dâm, đến
những ngƣời lao động tần tảo, những ngƣời đi lính…, tình thƣơng đó không
có ranh giới, giai cấp.
Thác lời trai phường nón, bốn mƣơi tám câu, đƣợc viết bằng thể lục bát.
Nội dung là thay lời anh con trai phƣờng nón làm thơ tỏ tình với cô gái
phƣờng vải. Bài thơ tình tứ, mang âm hƣởng của cao dao, vè, ngôn ngữ bình
dân, giản dị, dễ hiểu.
Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, chín mƣơi tám câu, viết theo lối văn tế,
để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cô gái phƣờng vải khác.
18

Ở chặng đƣờng tiếp nối hai thế kỷ, thơ Nguyễn Du là đỉnh cao của tiếng nói
nhân văn, đồng hành với những thăng trầm lịch sử và đời sống tinh thần dân
tộc. Sự nghiệp thi ca của Nguyễn Du trải dài suốt cuộc đời, có cả thơ chữ Hán
và thơ chữ Nôm, có cả Ðƣờng thi và lục bát dân tộc, cả thơ đoản thiên và
trƣờng thiên. Nghiệm sinh 55 năm trên cõi đời, Nguyễn Du đã để lại cả một di
sản thi ca đồ sộ. Thơ Nguyễn Du dù viết bằng chữ Nôm hay chữ Hán đều đạt
đến trình độ điêu luyện, mang hơi thở, linh hồn của văn chƣơng, con ngƣời
đất Việt.
1.2. Vị trí Nguyễn Du trong dòng chảy lịch sử văn học dân tộc
1.2.1. Người khai mở một chủ nghĩa, một tư tưởng mới
Xã hội Việt Nam trong giai đoạn từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVIII vô
cùng rối ren, phức tạp với những mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp phong kiến,
giữa nhân dân với giai cấp phong kiến thống trị, ngày càng trở nên gay gắt
dẫn đến các cuộc chiến tranh chia cắt và khởi nghĩa nông dân bùng nổ. Đời
sống nhân dân vô cùng khổ cực. Trái ngƣợc với tình hình xã hội, đây lại là
giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của văn học trung đại Việt Nam bao gồm cả
văn học chữ Hán, chữ Nôm, văn học bác học, văn học bình dân. Lực lƣợng
sáng tác đông đảo là các nhà trí thức nho sĩ không giữ các trọng trách trong
triều đình. Nền văn học rất đa dạng về thể loại nhƣ: truyện ký, thơ Đƣờng
luật, khúc ngâm, truyện thơ…
Ảnh hƣởng bối cảnh xã hội với nhiều biến động dữ dội, nhiều sự kiện
lịch sử trọng đại, cùng với sự phát triển của dòng chảy văn học nƣớc nhà đã
tác động mạnh mẽ sâu sắc đến nhận thức, tình cảm của Nguyễn Du. Bối cảnh
đó chính là cơ sở sâu xa làm xuất hiện quan niệm mới về nhân sinh, xã hội,
con ngƣời, trong đó có trào lƣu nhân đạo chủ nghĩa với tƣ tƣởng chống đối
các thế lực phong kiến chà đạp con ngƣời, đề cao con ngƣời, đòi giải phóng
tình cảm cho con ngƣời. Nguyễn Du chính là một đại diện xuất sắc nhất của
19

trào lƣu này. Với chủ nghĩa nhân đạo, nguyễn Du luôn chủ trƣơng và có ý
thức nhìn thẳng vào sự thật của xã hội, lên án tố cáo xã hội phong kiến đầy
bất công. Thơ văn của ông còn là tiếng nói cảm thƣơng với số phận con ngƣời
đặc biệt là số phận của ngƣời phụ nữ đồng thời là tiếng nói ngợi ca trân trọng
họ. Ông luôn bênh vực, đấu tranh đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con
ngƣời.
Vốn có tấm lòng trong trẻo, trái tim nhân hậu, năng khiếu văn chƣơng
xuất sắc, Nguyễn Du đã để lại cho đời những áng thơ văn đích thực, thấm
đẫm những nỗi niềm thƣơng cảm, những yêu ghét rạch ròi. Từ những sáng tác
chữ Hán, chữ Nôm mà đỉnh cao là Truyện Kiều, ta thấy đúng nhƣ Hoài Thanh
nhận xét về đại thi hào, đó là “một trái tim lớn, một nghệ sĩ lớn”. Ở Nguyễn
Du: Tâm cũng lớn mà tài cũng lớn. Đọc Nguyễn Du, nhất là Truyện Kiều,
ngƣời ta thấy “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” và cũng thấy rằng tất
cả lời ngọc ý vàng ấy đều đƣợc viết ra từ một tấm lòng đau đớn cho thân phận
con ngƣời, cho thời thế và cho nhân thế. Giá trị nghệ thuật Nguyễn Du đúng
là kết tinh từ vết thƣơng lòng của một trái tim từng quặn đau trong biển đời.
Cuộc đời Nguyễn Du có nhiều sóng gió, mƣời năm lƣu lạc trên đất Bắc là
khoảng thời gian điêu đứng, long đong. Nguyễn Du đã nếm trải đủ cay đắng,
ngọt bùi trên đời. Các sáng tác của ông là bức tranh sinh động về xã hội,
những cảnh đời trƣớc mắt. Chính vì vậy, các tác phẩm của ông đều toát lên
tinh thần nhân đạo sâu sắc.
Với chủ nghĩa nhân đạo Nguyễn Du, ông đã dành trái tim mình cho tất cả
những kiếp ngƣời đau khổ. Ông thƣơng ngƣời mẹ lang thang cầu bất cầu bơ
lê mình đi ăn xin cho ba đứa con trong Sở kiến hành. Ông thƣơng cả những cô
cầm vừa quen vừa lạ, hai mƣơi năm trƣớc tài sắc nổi tiếng đất Long Thành,
vƣơng hầu công tử xúm xít quanh mình. Thế mà nay đã thành một bà già tàn
tạ “tóc hoa râm, mặt võ, mình gầy” bị bỏ quên ngay bên tiệc rƣợu để rồi “Lệ
20

thƣơng tâm ƣớt vạt áo là” trong Long thành cầm giả ca. Không chỉ thƣơng
dân mình mà chủ nghĩa nhân đạo trong Nguyễn Du còn là tiếng thƣơng với
nhân loại, với dân tộc khác. Ông đau đớn nghẹn ngào cho Khuất Nguyên -
một nhà thơ lớn của Trung Quốc, sống cách ông hơn 2000 năm qua Phản
chiêu hồn. Nhà thơ thƣơng xót cả những ngƣời lính Trung Quốc bị đẩy vào
cuộc chiến tranh xâm lƣợc phi nghĩa, phải qua lại nơi cửa ải nguy hiểm Quỷ
Môn quan.
Trái tim của Nguyễn Du thật dễ xúc động, dễ tổn thƣơng, sự đồng cảm
của nó là không biên giới, không thời gian. Mọi nỗi buồn đau, thống khổ của
kiếp ngƣời vang động đến đều có thể làm cho trái tim ấy rỉ máu. Ngòi bút của
Nguyễn Du chấm vào thứ máu ấy mà viết lên những trang thơ. Trái tim mẫn
cảm của Nguyễn Du giành phần thống thiết nhất cho thân phận bi kịch của
những con ngƣời tài hoa, nhất là những ngƣời phụ nữ tài sắc. Ông xót thƣơng
cho Tiểu Thanh , cho nàng Kiều. Niềm cảm thông, thƣơng xót của Nguyễn
Du dành cho Thúy Kiều thật sâu sắc. Mƣời lăm năm lƣu lạc đời Kiều, Nguyễn
Du lận đận theo nàng trên từng trang sách. Ông bồi hồi trƣớc mối tình đầu của
nàng, ông đau đớn khi nàng ra đi dấn thân vào quãng đƣờng đời ô nhục, ông
nhìn thấu cuộc đời đau khổ, số phận bèo bọt của ngƣời con gái tài sắc ấy để
rồi thốt lên đầy thƣơng cảm:
“Thƣơng thay cũng một kiếp ngƣời
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi”
Nguyễn Du là ngƣời đầu tiên trong lịch sử văn học Việt nam đã phác hoạ
ra một bức tranh xã hội toàn diện, lấy những đau khổ của những con ngƣời
đƣơng thời để nêu lên thành những vấn đề chung, thành vấn đề của con ngƣời
trong xã hội có áp bức, bóc lột. Đó là một tinh thần nhân đạo bao quát của
Nguyễn Du. Cái thế giới làm cho ông cảm thƣơng, xót xa là cái thế giới của
tất cả những ngƣời bị giày xéo, đoạ đày về thể xác cũng nhƣ tinh thần. Lời tố
21

cáo của Nguyễn Du là lời tố cáo đánh vào những kẻ, những chế độ chà đạp
lên con ngƣời. Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Du đã vạch rõ ranh giới giữa
yêu và ghét.
1.2.2. Tầm ảnh hưởng, sự chi phối của tư tưởng và nghệ thuật Nguyễn Du
Nguyễn Du là danh nhân văn hóa có vị trí đặc biệt trong lịch sử văn hóa-
văn học Việt nam. Điều này thể hiện qua tầm ảnh hƣởng, sự chi phối của tƣ
tƣởng và nghệ thuật của ông đối với đời sống văn hóa- văn học của ngƣời
Việt suốt mấy thế kỷ qua.
Tam giáo đồng nguyên là nét đặc trƣng điển hình trong tƣ tƣởng Nguyễn
Du. Trong đó, Nho giáo có những ảnh hƣởng sâu sắc tới các tƣ tƣởng chính
trị, đạo đức và nhân sinh của ông. Nguyễn Du đƣợc nuôi dƣỡng thuần thục
trong môi trƣờng Nho giáo, ông có điều kiện thuận lợi để tiếp xúc đầy đủ mọi
loại sách vở, với giới Nho sĩ hàng ngày. Điều kiện sống của một gia đình
phong kiến quý tộc đã cung cấp cho ông không chỉ kiến thức mà cả những
bằng chứng sống động. Ông đƣợc giáo dục và mặc nhiên thừa nhận các giá
trị Nho giáo nhƣ là nhũng rƣờng cột tạo lập và vận hành xã hội. Với Nguyễn
Du, Nho giáo giống nhƣ một chiếc áo khoác quý giá bao trùm lên các hoạt
động của mọi thành viên trong xã hội, khiến cho tất cả đi theo cùng một lối,
trật tự và chuẩn mực. Lý tƣởng xã hội của ông không ra ngoài lý tƣởng xã hội
Nho giáo với vua sáng, tôi hiền, tôn ti trật tự rõ ràng, công hầu khanh tƣớng
rộn rịp, dân lành vui sống thảnh thơi, đất nƣớc thanh bình với cảnh thái hoà.
Những lý tƣởng đạo đức Nho giáo của Nguyễn Du nhƣ lòng trung, hiếu,
đức trinh đã đƣợc ông chiêm nghiệm và khảo sát qua thực tiễn thời đại ông,
đƣợc nhào trộn với các giá trị đạo đức Phật giáo và dân gian, và cuối cùng,
đƣợc điển hình hoá và khái quát hoá. Tƣ tƣởng nhân sinh của Nguyễn Du
chịu ảnh hƣởng của vũ trụ quan Nho giáo nhƣng có giá trị nhân văn cao cả.
Với ông, đời ngƣời và xã hội vận động theo luật phản phục, bĩ cực thái lai;
22

mỗi ngƣời có một số phận do mệnh trời quy định, nhƣng nếu nỗ lực hành
thiện thì số phân ấy có thể cải biến đƣợc. Với quan niệm này, ông đã cố gắng
thoát ly khỏi ảnh hƣởng Nho giáo để trở về với những giá trị nhân văn của
dân tộc. Nhƣ vậy, mặc dù chịu ảnh hƣởng sâu sắc của Nho giáo nhƣ mọi nhà
tƣ tƣởng Việt Nam điển hình thời phong kiến, nhƣng tƣ tƣởng của Nguyễn Du
vẫn có những nét đặc sắc riêng. Đó là sự thoát ly khỏi ràng buộc của các
chuẩn mực đạo đức và chính trị Nho giáo, là sự nhận thức và xây dựng một tƣ
tƣởng tổng thể về nhân sinh dựa trên vũ trụ quan của Nho giáo kết hợp với
Phật giáo. Chính những nét đặc sắc này đã góp phần tạo nên chiều sâu và tầm
rộng trong tƣ duy nhân văn của Nguyễn Du; đồng thời, góp phần làm cho tƣ
tƣởng của ông trở nên gần gũi hơn với mọi tầng lớp và thế hệ ngƣời dân Việt
Nam.
Bên cạnh Nho giáo, Phật giáo cũng là yếu tố quan trọng, có ảnh hƣởng
lớn đến tƣ tƣởng nhân đạo của Nguyễn Du. Có thể nói Nguyễn Du là một nhà
Thiền học, một tín đồ Phật giáo từ trong tâm khảm. Tinh thần Thiền học đã
thấm nhuần trong nhãn quan của ông đối với cuộc đời, cũng nhƣ thấm nhuần
trong nhiều sáng tác quan trọng của ông. Nó chính là một động lực để ông
sáng tác, một mục tiêu để ông gửi gắm, và một cứu cánh để ông nƣơng tựa.
Nó là một phần quan trọng trong tƣ tƣởng nghệ thuật của ông. Nhiều tƣ tƣởng
triết lý nhà Phật nhƣ thuyết nhân quả, xóa tội vong linh, hay các khái niệm
duyên, nghiệp, tu, nhân, tiền oan nghiệt chƣớng, họa phúc, số kiếp… đều
đƣợc nhà thơ sử dụng vào trong tác phẩm của mình. Ông sử dụng nó nhƣ một
phƣơng pháp tháo gỡ vấn đề, đƣa con ngƣời ra khỏi bế tắc.
Tƣ tƣởng Nho giáo, kết hợp với Phật giáo và dân gian đã tạo nên nét
đặc sắc riêng trong tƣ tƣởng nhân đạo Nguyễn Du, một tƣ tƣởng lớn xuyên
suốt cả một thời đại văn học dân tộc. Sự cộng hƣởng giữa nhiều yếu tố trong
tƣ tƣởng nhân đạo Nguyễn Du đƣợc thể hiện rõ trong hai kiệt tác để đời là
23

Truyện Kiều và Văn tế thập loại chúng sinh. Tƣ tƣởng này của Nguyễn Du đã
tác động mạnh mẽ đến nhiều nhà văn nhân đạo cùng thời với ông, nó trở
thành một trào lƣu, một chủ nghĩa trong nền văn học dân tộc.
“Không chỉ tƣ tƣởng, mà cả tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du cũng có
ảnh hƣởng lớn đến nền văn học. Với tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du đã
đạt đến sự hoàn thiện của truyện thơ nôm ở nhiều phƣơng diện đặc biệt là
phƣơng diện nghệ thuật: thi pháp nhân vật, thi pháp kết cấu, ngôn từ nghệ
thuật,…Văn phong Nguyễn Du trong Truyện Kiều đƣợc xem là thứ văn
chƣơng mẫu mực có giá trị khuôn thƣớc cho nhiều nhà văn hậu bối noi theo.
Đó là nguồn cảm hứng, nguồn văn liệu cho các nhà văn khai thác, tìm cảm
hứng, đề vịnh, xƣớng họa, mô phỏng sáng tác. Truyện Kiều đƣợc sử dụng
trong đời sống ngƣời Việt Nam nhƣ một thứ siêu ngôn ngữ, một phƣơng tiện
giao tiếp phổ biến và hiệu quả. Ngôn ngữ của Truyện Kiều có khả năng mê
hoặc mọi ngƣời vì vẻ đẹp lạ của nó. Ngôn ngữ trong tác phẩm đã đƣợc trau
chuốt đến độ siêu việt bởi ngƣời đọc không còn nhận ra sự gia công của nhà
thơ. Nhiều ngƣời cho rằng ngôn ngữ Truyện Kiều giản dị, quần chúng nhƣng
thực ra ngôn từ ở đây rất uyên bác, rất cách điệu, một sự cách điệu dựa trên
chuẩn mực của lời nói vì vậy nó tạo cho ta cảm giác thông tục, gần gũi. Ngôn
từ nghệ thuật của Nguyễn Du, cũng nhƣ các phƣơng diện nghệ thuật khác đều
đƣợc các nhà văn đời sau mô phỏng, học hỏi theo. Bên cạnh lĩnh vực văn học,
Truyện Kiều còn đƣợc xem là hiện tƣợng văn hóa. Truyện Kiều đƣợc xem
nhƣ một chuẩn mực trong giao tiếp, trong những tình huống rất riêng, khó xử,
đặc biệt là trong lĩnh vực tình cảm ngƣời ta đều tìm đến Truyện Kiều. Truyện
Kiều đối với ngƣời Việt còn là thứ thiêng liêng dùng để bói toán. Nó đƣợc coi
là công cụ hữu hiệu để giải mã những ẩn khuất trong đời sống riêng tƣ của
con ngƣời. Đây là một hiện tƣợng đặc biệt mà hiếm có tác phẩm văn chƣơng
thuần túy nào trên thế giới đạt đƣợc.” [20, tr.21-22].
24

Nhƣ vậy, tƣ tƣởng và nghệ thuật văn chƣơng của Nguyễn Du không chỉ
ảnh hƣởng lớn đến văn học dân tộc mà còn lấn sang địa hạt của văn hóa,
không chỉ ảnh hƣởng các nhà văn đƣơng thời mà cả các hậu bối theo sau,
không chỉ khai mở một trào lƣu văn học mà còn là động lực phát triển của cả
nền văn học nƣớc nhà.
1.3. Truyện Kiều_kiệt tác của nền văn học cổ điển Việt Nam
1.3.1. Nguồn gốc, thời gian sáng tác
Cũng nhƣ Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hƣơng, Nguyễn Du là một trong
những thiên tài sớm đƣợc hấp thụ tinh hoa từ văn học văn hóa dân gian kết
hợp với chất xúc tác của thời đại “lịch sử đầy biến động” đã làm thăng hoa,
hiện hữu một tác phẩm mang dấu ấn dân tộc sâu đậm Truyện Kiều.
Truyện Kiều hay Đoạn trường tân thanh đƣợc Nguyễn Du sáng tạo dựa
trên sự vay mƣợn tình tiết, cốt truyện, những biến cố, địa danh của tác phẩm
Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân_một văn nhân Trung Quốc.
Nếu nhƣ câu truyện chỉ là cuộc đời khổ nhục, đầy đọa của ngƣời con gái tên
Thúy Kiều nhƣ trong Kim Vân Kiều truyện thì chắc chắn Truyện Kiều không
thể có sức sống mãnh liệt hay có vị trí sâu sắc trong lòng quần chúng nhân
dân đến thế. Khi sao sánh Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện, ngƣời ta thấy
chúng giống nhau từ đại cƣơng đến chi tiết, nhƣng với Truyện Kiều, tác giả
Nguyễn Du đã làm cho nó Việt hóa hết cả các vai trong truyện và cải thiện
những chỗ khuyết điểm. Khi đọc Truyện Kiều, bạn đọc dễ dàng nhận ra chỗ
sáng tạo và đặc sắc của ngòi bút tác giả.
Nhƣ đã nói ở trên Truyện Kiều của Nguyễn Du vốn là sáng tác dựa trên
đề tài Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, vậy nên quan hệ kế
thừa là không phải bàn cãi. Đƣơng nhiên quan hệ kế thừa này đƣợc đƣa ra
trên cơ sở nguyên tắc sáng tác và tƣ tƣởng sáng tác tƣơng đồng. Nhƣ vậy điều
khiến chúng ta thấy đƣợc ở đây không chỉ là sự kế thừa về mặt chấp nhận
25

quan điểm sáng tác, hoặc một sự giống nhau nào đó. Đầu tiên, khung truyện
của hai tác phẩm này về mặt cơ bản là giống nhau, kết cấu truyện chặt chẽ.
Hai tác phẩm đều lấy vận mệnh Vƣơng Thúy Kiều làm trọng tâm để triển
khai, thuật lại những gian khổ đau thƣơng mà nàng phải chịu đựng, khiến cho
số phận long đong chìm nổi của nàng trở thành sợi dây xuyên suốt câu
chuyện. So sánh hai tác phẩm này, có thể thấy hai tác phẩm tƣơng đồng về
nội dung truyện, đặc biệt hoàn toàn trùng khớp về cả sự kiện, thời gian, địa
điểm.
Thứ hai, hình tƣợng nhân vật đƣợc xây dựng cũng rất giống nhau, tính
cách nhân vật điển hình nổi bật. Dù là Kim Vân Kiều truyện hay Truyện Kiều,
những nhân vật chủ chốt xuất hiện đều giống nhau, ngay cả thái độ đánh giá
của tác giả đối với nhân vật cũng không có gì khác biệt, nhƣ với những nhân
vật có liên quan đến sự thực lịch sử nhƣ Từ Hải, Vƣơng Thúy Kiều, Hồ Tôn
Hiến…; hay những nhân vật đƣợc ca ngợi nhƣ Kim Trọng, Chung Công, Giác
Duyên, v.v…; hay những nhân vật phản diện nhƣ Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở
Khanh, Bạc Hạnh, Bạch Bà. Để xây dựng nhân vật Thúy Kiều, hai tác giả đã
sử dụng kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật nhƣ miêu tả hình dáng, miêu tả
ngôn ngữ, miêu tả tâm lý. Cả hai tác phẩm đều phản ánh tinh thần phê phán
hiện thực chủ nghĩa xen lẫn với thuyết định mệnh trong chế độ phong kiến.
Dù là Truyện Kiều hay Kim Vân Kiều truyện thì tác phẩm đều đã cho thấy
thực trạng xã hội đen tối của chế độ phong kiến thời kỳ cuối, giúp độc giả
nhìn nguyên nhân số phận bi kịch của Thúy Kiều dƣới nhiều góc độ, với
nhiều tầng ý nghĩa khác nhau.
Truyện Kiều đƣợc hình thành trên cơ sở Kim Vân Kiều truyện, nhƣng
Truyện Kiều không phải là bản dịch của Kim Vân Kiều truyện. Nguyễn Du đã
dùng một đề tài của Trung Quốc kết hợp với hình thức văn học và ngôn ngữ
26

của dân tộc, tiến hành tái sáng tạo, để sáng tạo ra một kiệt tác, phù hợp hơn
với thói quen thƣởng thức và tiêu chuẩn thẩm mỹ của dân tộc.
Nguyễn Du giữ lại nội dung câu chuyện và tuyến nhân vật của Kim
Vân Kiều truyện, nhƣng Nguyễn Du đã không dừng lại ở việc mô phỏng
phong cách và nhịp điệu của Kim Vân Kiều truyện, mà căn cứ vào kinh
nghiệm sáng tác và ý thức thẩm mỹ của dân tộc để tiến hành tái sáng tạo và
đạt đƣợc thành công vô cùng to lớn, khiến Truyện Kiều trở thành danh tác
trong di sản văn học quý báu của Việt Nam cũng nhƣ thế giới.
1.3.2. Giá trị văn hóa, văn học
Hơn hai trăm năm qua, Truyện Kiều với vị trí là "tập đại thành của văn
học cổ điển nƣớc nhà" đã tồn tại xuyên suốt với chiều dài lịch sử văn hóa dân
tộc. Nó là một hiện tƣợng văn hóa đặc sắc của dân tộc. Tác phẩm này hội tụ
đƣợc những giá trị đặc biệt và hiếm có tác phẩm nghệ thuật ngôn từ nào có
thể đạt đến. Về kỹ thuật văn chƣơng, Truyện Kiều đƣợc coi là mẫu mực, có
giá trị khuôn thƣớc cho các thế hệ nhà văn học tập; đồng thời là nguồn cảm
hứng, nguồn văn liệu cho nhiều nhà văn khai thác, để vịnh, xƣớng họa, mô
phỏng. Truyện Kiều đƣợc sử dụng trong đời sống ngƣời Việt Nam nhƣ một
phƣơng tiện giao tiếp “vạn năng”, Truyện Kiều gắn bó với mỗi ngƣời dân Việt
ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời trong tiếng ru à ơi của bà, của mẹ…
Truyện Kiều cũng là tác phẩm không phân biệt ngƣời đọc, vừa mang tính bác
học, hàn lâm, vừa dân dã, gần gũi. Ngƣời ta “bói Kiều”, “lẩy Kiều”, “vịnh
Kiều”….Nó trở thành hiện tƣợng đặc biệt trong đời sống tinh thần của nhân
dân ta, là nét đẹp văn hóa của dân Việt từ bao đời nay.
Truyện Kiều là bức tranh xã hội rộng lớn dƣới thời phong kiến thối nát.
Qua tác phẩm Nguyễn Du đã nói lên đƣợc nỗi day dứt đến đau đớn khi nhìn
thấy quyền sống của con ngƣời trong cảnh bể dâu, trong những đổi thay trớ
trêu của cuộc đời, trong sự áp bức bạo tàn của chế độ phong kiến. Trong cơn
27

dâu bể, thân phận của con gƣời thật mỏng manh, bị quăng quật, bị vùi dập, bị
dày xéo đến xác xơ. Ở đó đâu chỉ có các thế lực hữu hình, đồng tiền, nhà chứa
mà còn có các thế lực vô hình, đủ mọi tầng lớp hùa vào nhau để hành hạ con
ngƣời, nhất là đối với ngƣời tài sắc. Có thể nói Truyện Kiều là tiếng nói nhân
đạo của văn học Việt Nam trung đại. Qua tác phẩm Nguyễn Du đã nói đƣợc
những vấn đề của xã hội, chạm đến những nổi đau cùng cực của con ngƣời.
Không chỉ vậy, Truyện Kiều còn là đỉnh cao của thể thơ và ngôn ngữ dân tộc.
1.4. Văn tế thập loại chúng sinh_ “Quyển kinh của tình thƣơng”
1.4.1. Nguồn gốc, thời gian sáng tác
Văn tế là hình thức khá quen thuộc trong văn học Việt Nam. Nó thể hiện
tâm trạng tiếc thƣơng của ngƣời sống đối với ngƣời đã chết. Đó là sự đau xót
trƣớc mất mát, tan vỡ của mỗi con ngƣời, là nhu cầu để thể hiện lòng mình và
cũng là nhu cầu để gieo vào lòng ngƣời khác một sự cảm hoài và sâu lắng.
Trong giai đoạn thế kỷ XVIII văn tế xuất hiện rất nhiều song Văn tế thập loại
chúng sinh của Nguyễn Du là tác phẩm có một không hai trong nền văn học
chúng ta.
Bàn về nguồn gốc của Văn tế thập loại chúng sinh cũng xuất hiện nhiều
ý kiến trái chiều. Trong bài viết “Nguyễn Du và văn tế thập loại chúng sinh”
của Thích Nguyên Hiền, tác giả đã đƣa ra một số cứ liệu và nhân định rằng:
“Có thể ở thời đại Nguyễn Du, các khoa nghi cúng thí bằng Hán văn quá xa lạ
với quần chúng, Nguyễn Du đã vì số đông ngƣời không hiểu chữ Hán nên
diễn Nôm lại nghi thức này cho mọi ngƣời đƣợc hiểu, nhƣ đã từng diễn Nôm
tiểu thuyết Đoạn Trường Tân Thanh của Thanh Tâm Tài Nhân thành Truyện
Kiều vậy”.
Nhƣng đến nay vẫn chƣa ai biết đích xác Nguyễn Du viết bài này trong
thời gian nào. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của
ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dƣơng tuần báo” năm 1939, rằng Nguyễn
28

Du trƣớc tác bài này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu ngƣời
chết, khắp non sông đất nƣớc âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, ngƣời ta
đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ông Hoàng Xuân
Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn tế thập loại chúng sinh trƣớc cả
Truyện Kiều, khi ông làm Cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812). Không có tài
liệu nào để chứng minh Nguyễn Du diễn Nôm Văn tế thập loại chúng sinh
này từ một tác phẩm của Phật giáo. Ngay cả xuất xứ của tác phẩm này, dù đã
đƣợc minh định là của Nguyễn Du nhờ phong cách, tình điệu và nhất là nhờ
hợp với chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du qua tác phẩm Truyện Kiều hay
thơ chữ Hán, song các phát hiện về bản văn này cũng chỉ nhờ hai bản Nôm,
một bản khắc ván năm 1895 và công bố năm 1924.
1.4.2. Giá trị văn học, văn hóa
Văn tế thập loại chúng sinh là một tác phẩm rất đặc. Nói nhƣ Chế Lan
Viên: “Nghĩ mà xem trƣớc Chiêu hồn chƣa hề có bài văn nào đem cái run rẩy
mới ấy vào văn học. Sau Chiêu hồn lại càng không. Truyện Kiều nâng cao
lịch sử thơ ca thì Chiên hồn đã mở rộng địa dƣ của nó qua một vùng xƣa nay
ít ai đụng tới: cõi chết”.
Với một trăm tám mƣơi tƣ câu thơ, Văn tế thập loại chúng sinh đã có
một sức sống mạnh mẽ trong nhân dân. Tác phẩm gồm ba phần chính. Mở
đầu là giới thiệu cảnh vật não nề thê thiết của “tiết tháng bảy mƣa dầm sùi
sụt”, hơi may lạnh buốt, lá thu rụng vàng … Một cảnh tƣợng dƣơng gian đầy
u ám đƣợc dựng nên để giới thiệu một cõi âm nhập nhòa hồn thiêng phách
lạc: “Cõi dƣơng còn thế huống là cõi âm …”. Phần hai cũng là phần chính của
tác phẩm, tác giả cung chiêu tất cả mƣời ba loại cô hồn từ anh hùng tƣớng
soái đến những kẻ tiểu nhi tấm bé, rồi kể hết những trƣờng hợp hoạnh tử oan
khiên của những ngƣời đã khuất bằng tất cả sự cảm thông sâu sắc. Phần cuối
của tác phẩm là những lời nhắn nhủ đối với ngƣời cõi âm, lấy Phật làm lòng,
29

hƣớng về nẻo thiện, nƣơng nhờ Phật lực để siêu sanh Tịnh độ. Một tác phẩm
có bố cục chặt chẽ. Nguyễn Du mƣợn cõi âm để nói chuyện cõi dƣơng, mƣợn
tâm sự để vẽ lên bức tranh đời sống hiện tại, đồng thời tố cáo những cƣờng
hào ác bá, lên tiêng bên vực yêu thƣơng cho số phận của con ngƣời.
Thử lùi xa hơn trong văn học Việt Nam từng có một Thập giới cô hồn
quốc ngữ văn của vua Lê Thánh Tông. Vị vua giàu đức nhân này nghĩ về
những kiếp ngƣời vì mệnh bạc phải ra cô hồn vất vƣởng. Tuy vậy với lối văn
biền ngẫu, bài kệ luật Đƣờng đó đã không len lỏi, lan rộng trong quảng đại
quần chúng. Trong khi đó Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du lại
tuôn chảy theo thể thơ song thất lục bát, thiết tha trầm bổng. Tác phẩm thật sự
là tiếng khóc cho những ngƣời, những phận đời bất hạnh. Nguyễn Du viết cho
ngƣời mà nhƣ viết cho mình, gan ruột nƣớc mắt đều bày ra cả, chính vì lẽ đó
mà tác phẩm của ông đã chiếm một vị trí quan trọng không chỉ trong lịch sử
văn học mà cả trong tâm thức văn hóa ngƣời Việt Nam. Vào các dịp lễ Vu
Lan, rằm tháng bảy, ngƣời dân Việt thƣờng tổ chức thờ cúng, cầu nguyện các
các vong hồn đƣợc siêu thoát, đƣợc xá tội…Nó đã trở thành tập tục văn hóa
của dân tộc ta.
30

CHƢƠNG II
NÉT ĐẶC SẮC CỦA CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO NGUYỄN DU
TRONG TRUYỆN KIỀU VÀ VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH

Văn học Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX khá đa dạng bởi sự
xuất hiện của nhiều xu hƣớng, tuy nhiên nổi trội hơn hết là xu hƣớng nhân
đạo chủ nghĩa. Đây là nguồn mạch văn chƣơng phát triển mạnh mẽ nhất, nó
đã tạo nên trào lƣu, một quá trình văn học xuyên suốt từ đầu đến thế kỷ XIX.
“Chủ nghĩa nhân đạo hay còn gọi là chủ nghĩa nhân văn, là toàn bộ
những tƣ tƣởng, quan điểm, tình cảm, quý trọng các giá trị ngƣời nhƣ trí tuệ,
tình cảm, phẩm giá, sức mạnh, vẻ đẹp. Chủ nghĩa nhân đạo không phải là một
khái niệm đạo đức đơn thuần, mà còn bao hàm cả cách nhìn nhận, đánh giá
con ngƣời về nhiều mặt nhƣ vị trí, vai trò, khả năng, bản chất…trong các mối
quan hệ với tự nhiên, xã hội và đồng loại. Con ngƣời luôn đấu tranh chống lại
mọi thế lực thù địch xuất hiện dƣới mọi hình thức, để khẳng định mình, đồng
thời thể hiện khát vọng làm ngƣời mãnh liệt và cao đẹp của mình” [12, tr.75].
Nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, những mầm mống đầu
tiên, cơ sở hình thành trào lƣu nhân đạo chủ nghĩa ở Việt Nam, bắt đầu nảy
nở. Đó là sự xuất hiện những đô thị, khởi sự một nền kinh tế hàng hóa. Từ đó,
manh nha hình thành tầng lớp thị dân. Tầng lớp này lớn lên nhờ điểm tựa ý
thức hệ tƣ sản. Con ngƣời thời này bắt đầu nhận thức về “cái tôi”, “đốn ngộ”
đƣợc tƣ cách cá nhân mình giữa xã hội, trong cuộc đời. Con ngƣời bắt đầu
biết quý, biết coi trọng quyền sống cá nhân của mình. Bên cạnh đó, những
cuộc khởi nghĩa nông dân lần lƣợt bùng nổ, thách thức và làm lung lay tƣờng
thành phong kiến. Chúng góp phần khơi thêm ngọn lửa đấu tranh đòi quyền
sống, quyền bình đẳng cho con ngƣời. Trào lƣu nhân đạo chủ nghĩa thời này
xoay quanh hai bình diện: phê phán những thế lực phong kiến chà đạp con
31

ngƣời; đề cao con ngƣời, đề cao cuộc sống trần tục của kiếp nhân sinh. Nó là
sự kế thừa và nâng cao tinh thần nhân văn trong văn học cổ Việt Nam thời
trƣớc.
Dƣới ánh sáng của chủ nghĩa nhân văn, văn học cổ Việt Nam quan tâm
sâu sắc đến những con ngƣời bình thƣờng, phải chịu nhiều nhọc nhằn, bất
hạnh, tai ƣơng. Văn học gần gũi, cận kề con ngƣời trong cơn hoạn nạn.
Không dừng lại suy nghĩ, triết lý về số phận, về đời ngƣời, văn học tìm
phƣơng cách cứu giúp con ngƣời bớt khổ. Văn học luôn đề cao lối ứng xử
tình nghĩa, thủy chung, phải đạo, trong quan hệ giữa ngƣời với ngƣời. Ở đó,
con ngƣời, theo tinh thần nhân văn, luôn chuộng lối sống khoan dung, chan
hòa. Xã hội không chấp nhận chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Ngƣợc lại, nó luôn
tìm cách hóa giải cách biệt giữa cá nhân và cộng đồng, tạo mối dây hài hòa
giữa lƣơng tâm và bổn phận. Con ngƣời, khi đó, thiên về đạo lý, đạo đức, chứ
không theo bình diện triết học.
2.1. Truyện Kiều và Văn tế thập loại chúng sinh- bản cáo trạng đanh thép
đối với cái xấu xa, độc ác
2.1.1. Phê phán xã hội thối nát
Nhƣ đã nói ở trên, Truyện Kiều đƣợc Nguyễn Du viết lại từ cuốn tiểu
thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Đây là một tác phẩm
đƣợc xem là “…bình thƣờng, nội dung ấy thì ở đâu cũng có và thời nào cũng
có. Văn thì bình thƣờng, nhiều chỗ tả thực nhƣng bất nhẫn.” Vậy tại sao đại
thi hào Nguyễn Du lại viết lại, và tại sao từ một câu chuyện bình thƣờng lại
trở thành một kiệt tác văn chƣơng và là đỉnh cao của chủ nghĩa nhân đạo
Nguyễn Du. Phải thấy đƣợc cái lý do và cái nguồn gốc viết Truyện Kiều thì
bạn đọc mới thấu đƣợc hết cái lớn lao trong tƣ tƣởng nhân đạo Nguyễn Du.
Nguyễn Du viết lại một câu chuyện thời nào cũng có bằng chính ngôn ngữ
dân tộc mình, để ngƣời Việt đọc và nhìn thấy chính thân phận của nhân dân
32

ta. Đó không hẳn là chuyện tình giữa tài tử và giai nhân, tuy có chuyện tình
lứa đôi nhƣng cái chính là chuyện đời, chuyện muôn ngƣời. Truyện Thanh
Tâm Tài Nhân chỉ là cái cốt, cái cớ để Nguyễn Du nói chuyện nƣớc mình,
ngƣời mình, nổi đau của nhân dân Việt, khác vọng của ngƣời Việt, ký thác
tâm sự thời đại của chính mình.
Sống trong một thời kỳ đầy biến động của lịch sử, Nguyễn Du dƣờng
nhƣ chứng kiến mọi thay đổi sơn hà, chứng kiến nhiều cuộc đời, nhiều số
phận con ngƣời. Tất cả đã tạo nên những nhức nhối, trăn trở trong lòng
Nguyễn Du. Truyện Kiều không chỉ là những tác phẩm văn học, không chỉ có
giá trị nghệ thuật văn chƣơng mà nó còn là tấm lòng dào dạt yêu thƣơng con
ngƣời, cảm thông, trân trọng cho số phận con ngƣời. Đó chính là dòng máu
nhân đạo trong con ngƣời, là chủ nghĩa nhân đạo trong cuộc đời sự nghiệp đại
thi hào dân tộc Nguyễn Du. Chủ nghĩa nhân đạo ấy thể hiện ở việc dám nói
thẳng nói thật hiện thực xã hội phong kiến, một xã hội đầy dẫy sự bất công,
một xã hội mà ở đó con ngƣời bị chà đạp, đầy đọa cả thể xác lẫn tâm hồn, một
xã hội đang đi vào sự tha hóa, bần cùng. Nguyễn Du đã chỉ ra cái ung nhọt
của xã hội phong kiến, mạnh tay mổ xẻ, phanh phui nó.
Truyện Kiều của Nguyễn Du cố nhiên không phải là bức chân dung chụp
lấy mọi nét đặc sắc kinh tế, chính trị của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ thứ XIX.
Nhà thi sĩ không phải là nhà khoa học xã hội. Nhƣng trong tác phẩm của
Nguyễn Du ta thấy tồn tại những mâu thuẫn, thối nát, mục rỗng của xã hội
phong kiến trên con đƣờng thoái hóa. Trƣớc hết là hệ thống quan lại thống trị
xấu xa, mục rỗng. Câu chuyện của Nguyễn Du xảy ra trong một thời kỳ mà
nhà sử phong kiến có thể nói là “thịnh trị”.
Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh
Bốn phƣơng phẳng lặng, hai kinh vững vàng
33

Giữa cảnh thái bình ấy, lẻ ra con ngƣời phải đƣợc sống an vui, hạnh phúc thì
ngƣợc lại, câu chuyện của Nguyễn Du lại vẽ ra cho bạn đọc một xã hội đầy
dẫy sự bất công, một xã hội quyền lực trong tay quan lại còn nhân dân là nạn
nhân của xã hội ấy. Nhà họ Vƣơng, một nhà “bậc trung”, với :
“Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân
…….
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi ngƣời một vẻ mƣời phân vẹn mƣời”
Những ngƣời con gái đó có thể gọi là chuẩn mực của đạo đức, chuẩn mực của
cái tài cái đẹp, lẽ ra họ phải đƣợc sống cuộc sống yên vui, hạnh phúc, phải
đƣợc trân trọng và yêu quý. Nhƣng sự đời nào ai có ngờ, gia đình Thúy Kiều
bị “thằng bán tơ” vu cáo. Quan lại tới tận nhà bắt:
“Già giang một lão một trai,
Một dây vô loại buộc hai thâm tình.
Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,
Rụng rời khung dệt, tan tành gói may.
Đồ tế nhuyễn, của riêng tây,
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”
Sau khi bị thằng bán tơ vu oan, gia đình Thúy Kiều lâm vào cảnh tan tác, đau
thƣơng. Của cải bị cƣớp đoạt, cha và em trai Kiều bị lũ sai nha đầu trâu mặt
ngựa bắt bớ, khảo tra. Cần ba trăm lạng tiền lót mới có thể chuộc cha, Kiều
đành gạt nƣớc mắt, gác mối tình đầu với Kim Trọng để bán mình chuộc cha
và em ra khỏi chốn lao tù. Chính quyền phong kiến là thủ phạm làm cho gia
đình Kiều tan nát, làm cho Kiều phải lênh đênh. Trong Truyện Kiều, từ quan
địa phƣơng, Tri phủ, Tri huyện cho đến viên “Tổng đốc trọng thần” đều là
những quan lại vô trách nhiệm, không tài năng, là một tập đoàn tham ô, dâm
34

dục, ác bá. Tƣợng trƣng cho giai cấp quan liêu địa chủ là nhà “họ Hoạn danh
gia”. Gia đình này nuôi một lũ côn quang, Ƣng Khuyển để tổ chức những
cuộc bắt cóc, đốt nhà giữa ban ngày, tại những địa điểm cách xa nhà chúng
“đƣờng bộ tháng chầy”. Công việc của chúng lại tiến hành dƣới ánh sáng
“trời quang mây tạnh”, giữa những giờ “bể lặng sóng trong”, ngay trƣớc cái
gọi là chính quyền phong kiến. Truyện Kiều quả là một bản cáo trạng bằng
thơ, bằng hình tƣợng nghệ thuật, bộc lộ tất cả cái thối tha của chế độ quan liêu
phong kiến đang sa đọa trên con đƣờng tan rã.
Sau hậu đài xã hội phong kiến, một chế độ mới cũng đã bắt đầu ló bộ
mặt hung hãn kiêu căng của nó. Đó là xã hội của đồng tiền. Đồng tiền có thể
“đổi trắng thay đen” là cái cớ hãm hại dân lành làm giàu cho quan nha.
Dƣờng nhƣ tất cả mọi hoạt động, mọi mối quan hệ trong xã hội bấy giờ đều bị
đồng tiền chi phối, từ những tên cò mồi cho chủ thanh lâu, hay những tên Sở
Khanh đi buôn thịt bán ngƣời cũng xuất phát từ lợi ích đồng tiền. Sở Khanh
lừa Kiều vì tiền của mụ Tú:
“Có ba mƣơi lạng trao tay
Không dƣng chi có chuyện này trò kia!”
“Thằng bán tơ” vu khống Vƣơng Ông với quan nha cũng vì tiền. Hay khi
Kiều đi tới chỗ vô tình giết Từ Hải cũng là vì “của nhiều nói ngọt nên lời dễ
xiêu…”. Còn bọn quan lại nha môn thì:
“Một ngày lạ thói sai nha,
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.”
Đồng tiền có một thế lực đáng kinh sợ trong xã hội lúc bấy giờ. Truyện Kiều
đã tố cáo sự tác oai tác quái của đồng tiền trong một xã hội mà kinh tế thƣơng
mại mới bắt đầu chớm nở. Chính trong xã hội đó, con ngƣời trở thành những
món hàng hóa, là món lợi để kiếm chát của những con buôn, cò mồi, là nạn
nhân của những “Tú Bà”, nhà chứa. Khi nhìn vào mƣời lăm năm lƣu lạc của
35

Kiều, từ một tiểu thƣ đài các, xã hội phong kiến đã biến Kiều thành một món
hàng trên thị trƣờng thƣơng mại, bị đầy đọa trong chốn thanh lâu, hy sinh cho
thú tính của một hạng ngƣời ích kỷ, cảnh ngƣời đàn bà lấy lẽ, đi làm nô tỳ
dƣới một chế độ bán nô lệ! Kiều chính là hiện thân của một giai nhân, một
thiên tài bị đầy đọa, qua những cảnh sống éo le, đau đớn. Xã hội đó sẵn sàng
chà đạp danh dự, nhân phẩm của con ngƣời mà không một chút thƣơng tiếc.
Nhƣng trong xã hội ấy Kiều chỉ là một trong muôn triệu ngƣời muốn yêu
không đƣợc yêu, muốn yên không đƣợc yên, vào lầu xanh không yên đƣợc, đi
tu cũng không yên đƣợc, bỏ cả cuộc sống vinh hoa để mong cuộc sống yên ổn
cũng không đƣợc, chỉ còn cách nhảy xuống sông mà chết. Con ngƣời càng
vùng vẫy thì càng bị siết chặt, mỗi lần ngoi lên là mỗi lần bị nhấn chìm sâu
hơn.
Có thể nói Truyện Kiều là bản án kết tội giai cấp phong kiến một cách
mãnh liệt nhất. Kế tục truyền thống phản phong của văn học dân gian, Truyện
Kiều đã dựng nên một bức tranh xã hội rộng lớn, sâu sắc, đầy rẫy những cạm
bẫy đe doạ con ngƣời mà thế lực ghê gớm nhất, bỉ ổi nhất là quan lại biến chất
và những kẻ “buôn thịt bán ngƣời”. Nguyễn Du đã vƣợt lên chính giai cấp của
mình để tố cáo, lên án cả một hệ thống quan liêu. Nguyễn Du đã không hề che
đậy tí nào, mà đâm sâu vào cái ung nhọt trên sƣờn lƣng của chế độ phong
kiến.
2.1.2. Bênh vực quyền sống của con người
Nếu Truyện Kiều đƣợc coi là bảng tổng kết nhận thức của nhà thơ về
cuộc đời, chủ yếu ở chiều sâu của nó, thì Văn tế thập loại chúng sinh cũng có
thể xem là bảng tổng kết nhận thức của nhà thơ về cuộc đời, chủ yếu ở chiều
rộng của nó. Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh xã hội với nhiều loại
ngƣời, nhiều cuộc đời, nhiều cảnh sống, và nhiều cách chết. Có thể nói chƣa
có một tác phẩm văn học nào, chƣa có một bức tranh xã hội nào lại ảm đạm
36

và thê lƣơng đến nhƣ vậy. Cái chết đến một cách bất ngờ không chỉ đối với
những ngƣời lao động với cuộc đời làm ăn gian lao vất vả, mà đến với cả
những ngƣời thuộc tầng lớp trên, đến với tất cả mọi ngƣời. Ngƣời con gái
“màn loan trƣớng huệ” vẫn có thể chết xƣơng phơi ngoài đồng. Ngƣời làm
quan cũng có thể chết trong cảnh cô đơn, ngƣời tƣớng lĩnh cũng có thể chết
nhƣ “một nắm xƣơng vô chủ”, và ngƣời đi buôn, ngƣời học trò có thể chết
“vội vàng liệm sấp chôn nghiêng”. Thông thƣờng mà nói, nhà văn thƣờng chú
ý đến cuộc sống nhiều hơn là cái chết. Chƣa cần đến một thời kỳ thịnh vƣợng,
chỉ cần một thời buổi bình thƣờng con ngƣời đã có thể sống cuộc sống yên
ổn, dẫu có chết cũng là một cái chết yên ổn. Phải là một thời loạn lạc, một
thời đại suy tàn thì con ngƣời mới có nhiều cái chết đến não nùng nhƣ thế.
Bức tranh chết chóc trong Văn tế thập loại chúng sinh không phải phản ánh
một cái gì khác mà phản ánh chính xã hội, thời đại của nhà thơ. Những hình
ảnh rùng rợn, ma quái về cõi âm trong Văn tế thập loại chúng sinh cũng chỉ là
sự khúc xạ qua lăng kính duy tâm, hay nói đúng hơn chỉ là cái bóng cái hình
lộn ngƣợc của cõi dƣơng, của cuộc đời này mà thôi.
Đó là cảnh dƣơng thế đầy ảm đạm, thê lƣơng. Đó là sự biến chuyển của đất
trời:
“Tiết tháng bảy mƣa dầm sùi sụt
Toát hơi may lạnh buốt xƣơng khô
……
Trời thăm thẳm mƣa gào gió thét
Khí âm huyền mờ mịt trƣớc sau”
Vũ trụ ấy, thử hỏi, làm sao là nơi sinh tụ một cuộc sống thịnh vƣợng, thái
bình? Thiên nhiên nhƣ cũng lở tan, thét gào cùng với giông bão đời ngƣời.
Trời đất nhƣ cũng hiu hắt, sùi sụt cùng những khổ đau, oan trái của muôn vạn
37

sinh linh. Lại còn đây nữa, khung cảnh trần ai đầy chuyện chiến tranh, chết
chóc:
“Khi thất thế tên rơi đạn lạc
Bãi sa trƣờng thịt nát máu rơi
……..
Buổi chiến trận mạng ngƣời nhƣ rác
Phận đã đành đạn lạc tên rơi”
Đâu đâu cũng thấy chực chờ những hiểm họa, tai ƣơng: “chìm sông lạc suối,
sẩy cối sa cây, nƣớc lũ, lửa thành, sơn tinh thủy quái, nanh sói ngà voi,…”.
Và đâu đâu cũng có những phận ngƣời chìm nổi, bi thƣơng: “lênh đênh quê
ngƣời, lìa cửa lìa nhà, tha phƣơng, vợ con nào nuôi nấng khem kiêng, nằm
cầu gối đất, sống nhờ hàng xứ, chết vùi đƣờng quan,…”. Cuộc đời con ngƣời
phải luôn bám víu vào sự rủi may, tạm bợ: “quán nọ cầu này, đầu chợ cuối
sông, quãng đồng không,…”. Khi chết, linh hồn họ cũng bơ vơ, phiêu bồng
nhƣ lúc sống:
“Dãi dầu trong mấy mƣơi năm,
Thở than dƣới đất, ăn nằm trên sƣơng”.
Những vần thơ viết về âm cảnh khác nào thƣớc phim âm bản, mà Nguyễn Du
đã ghi lại sống động từ “cõi ngƣời ta”. Những vần thơ ấy là một chuỗi âm
vang những lời tố khổ của nhà thơ đối với thời đại bấy giờ. Bởi luôn bám cội
rễ vào cuộc đời nên thi nhân không ngăn đƣợc lời suy tƣ ai oán: “Cõi dƣơng
còn thế nữa là cõi âm”. Rõ ràng, ông thật sự chán ngán và ghê sợ chốn dƣơng
trần. Với ông, “những điều trông thấy” khác nào một địa ngục trần gian.
Chúng sẵn sàng vùi chôn, hủy diệt tất cả sự sống, quyền sống, quyền hạnh
phúc của con ngƣời. Bởi lấy con ngƣời làm trọng, nhà thơ không giấu đƣợc
thái độ bất mãn với thời cuộc. Bởi nhân danh đạo lý, đạo đức của quần chúng,
ông phản ứng với cuộc đời đầy bi thảm, loạn ly.
38

Tuy tiếng nói chống lại chế độ xã hội chƣa rõ nét nhƣng giọng điệu phê phán
trong tác phẩm đã trỗi lên mạnh mẽ. Nhà thơ nghiêm khắc phê phán những
hạng ngƣời chạy đuổi theo tiền bạc, hƣ danh. Phê phán những kẻ dự phần gây
nên chiến tranh, ly loạn. Họ nhƣ con thiêu thân, lao vào “buổi tranh hùng”, cố
“đổi mình vào lấy ấn nguyên nhung”. Sự xả thân của họ, kỳ thực, chỉ là một
hành động u mê: “dãi thây trăm họ làm công một ngƣời”. Theo ông, lối sống,
hành động bạo tàn của họ là nguyên nhân không dứt của biết bao thảm cảnh,
gây ra bao cái chết tức tửi cho thƣờng dân vô tội. Phê phán chiến tranh phi
nghĩa, đó cũng là biểu hiện cụ thể của tinh thần bảo vệ quyền sống, sự sống
của mọi ngƣời trên đất nƣớc mình, trong “cõi ngƣời ta”.
2.2. Lòng yêu thƣơng, khát khao hạnh phúc, tự do cho con ngƣời
2.2.1. Truyện Kiều và những suy tư về số phận con người
Tinh thần nhân đạo trong văn học, trƣớc hết là tình yêu đối với con
ngƣời. Về phƣơng diện này, Nguyễn Du là thi sĩ có một tình yêu rộng rãi, sâu
sắc đối với nhân loại. Mộng Liên Đƣờng chủ nhân: “…Lời văn tả ra hình nhƣ
máu chảy ở đầu ngọn bút, nƣớc mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến
cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn đứt ruột…Tố Nhƣ Tử dụng tâm đã
khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết. Nếu không có con mắt
trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực
ấy”. Nếu là một tâm hồn không bị sóng gió vùi dập, một trái tim không thổn
thức trƣớc những nổi đắng cay của bức tranh thế sự, một lƣơng tâm không
phẫn nộ trƣớc những thói đời vô nhân bạc nghĩa, thì Nguyễn Du dẫu có tài ba
lỗi lạc đến đâu cũng không tìm ra đƣợc những âm điệu, những vần thơ khiến
cho ngƣời đọc trong cuộc nghe nhƣ khóc nhƣ than, nhƣ uất ức, nhƣ oán hờn.
Truyện Kiều không chỉ là vấn đề số phận con ngƣời bị áp bức trong xã
hội, mà còn là tiếng nói nhân đạo chủ nghĩa cất lên tha thiết từ xã hội đó. Đó
là tiếng nói của tầng lớp ngƣời đau khổ, đòi tự do yêu đƣơng, đòi công lý.
39

Nguyễn Du đã chảy nƣớc mắt với cảnh ngộ của nàng Kiều, một thiếu nữ tài
sắc bậc nhất mà lại bị chà đạp dƣới một chế độ xã hội vô nhân đạo. Kiều đã
trải qua hầu hết những kiếp đời oan khổ của ngƣời phụ nữ dƣới chế độ phong
kiến: tình duyên tan vỡ, làm gái lầu xanh, làm nô tì, làm vợ lẻ, bị làm nhục
khi chồng vừa chết…Màn trao duyên chính là bi kịch đầu tiên mở ra quãng
đời mƣời lăm năm “oan khổ lƣu ly” của Thúy Kiều. Cuộc sống “êm đềm
trƣớng rủ màn che” ngày xƣa giờ đã thay bằng cuộc sống
“Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đƣa Tống Ngọc tối tìm Tràng Khanh”.
Thúy Kiều không tìm thấy chút vui thú nào trong cuộc sống “bƣớm lả ong
lơi” ấy, mà tâm trạng thực của nàng là vui gƣợng, là sầu, buồn, cuối cùng
đọng lại ở nỗi đau, một nỗi đau luôn dày vò, không thể giải tỏa. Có nhà
nghiên cứu đã nhận xét rằng cái “giật mình mình lại thƣơng mình xót xa” của
cô Kiều mới đáng quý biết chừng nào. Nếu không có những phút “giật mình”
ấy thì nàng Kiều cũng tầm thƣờng nhƣ một cô gái làng chơi mất hết nhân
phẩm. Cái “giật mình” ấy chứng tỏ Thúy Kiều đã đau đớn biết bao nhiêu khi
nhân phẩm bị nhơ bẩn
“Mặt sao dày gió dạn sƣơng
Thân sao bƣớm chán ong chƣờng bấy thân”.
Nàng phẫn uất, đay nghiến thực trạng phũ phàng, cuộc sống bị cầm tù trong
một vòng tròn luẩn quẩn không lối thoát:
“Đã cho lấy chữ hồng nhan
Làm cho cho hại cho tàn cho cân
Đã đày vào kiếp phong trần
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi”
Ngƣời đọc dƣờng nhƣ không phân biệt đƣợc đâu là lời của nhân vật, đâu là
lời của nhà thơ vì Nguyễn Du đã nhập thân để hiểu tận cùng nỗi đau của Thúy
40

Kiều và bất bình thay cho nàng. Nguễn Du đã để Thúc Sinh xuất hiện trong
cuộc đời Kiều không phải chỉ nhƣ một khách làng chơi mà còn nhƣ một
ngƣời tình, một ngƣời chồng, một ân nhân. Chính Thúc Sinh đã chuộc nàng ra
khỏi xanh và cƣới nàng làm vợ lẽ. Nhƣng mối duyên này ngắn ngủi. Thúc
Sinh phải về quê báo tin “vƣờn cũ thêm hoa” với vợ cả là Hoạn Thƣ. Cảnh từ
biệt của hai ngƣời không chỉ có buồn, có lƣu luyến nhƣ các cuộc chia ly thông
thƣờng khác mà còn có dự cảm về một cuộc chia tay vĩnh viễn
“Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trƣờng”
Những nỗi đoạn trƣờng cứ bám lấy cuộc đời Thúy Kiều nhƣ một định mệnh,
không cho nàng đƣợc sống thanh thảnh, vui vẻ, dù là ngắn ngủi.
Vẫn biết rằng “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” nhƣng đó vẫn là “nỗi
hờn kim cổ” mà Nguyễn Du muốn chất vấn trời cao, hay chất vấn cuộc đời,
song rốt cuộc vẫn không có lời giải đáp. Chỉ biết rằng đó là “phong vận kì
oan” (nỗi oan lạ lùng) của những kẻ mang nết phong nhã. Hồng nhan đa
truân, tài tử đa cùng là cái án tiền định của những ngƣời nhƣ Thúy Kiều.
Nguyễn Du thƣơng Kiều, một lần nữa để một đáng anh hào xuất hiện trong
đời nàng, nhƣng cái kiếp đoạn trƣờng vẫn bám lấy Kiều nhƣ cái mệnh, cái số.
Để khi Từ Hải chết, lòng Kiều đã tắt hết mọi niềm ao ƣớc hạnh phúc trên cõi
đời
“còn chi nữa cánh hoa tàn
Tơ lòng đã đứt dây đàn Tiểu Lân
Rộng thƣơng còn mảnh hồng quần
Hơi tàn đƣợc thấy gốc phần là may”
Ngƣời ngoài cuộc nghe tiếng nói của Kiều cũng phải thổn thức cùng nổi niềm
tuyệt vọng ẩn chứa trong ƣớc mơ nhỏ bé ấy! cuộc đời nàng đƣợc nhà thơ vĩ
đại giàu lòng nhân đạo tổng kết bằng những lời thơ đau xót:
41

“Thƣơng thay cũng một kiếp ngƣời


Hại thay mang lấy sắc tài làm chi
Những là oan khổ lƣu li
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân”
Sau thân thế cô Kiều, ngƣời ta thấy lòng thƣơng của Nguyễn Du bao gồm cả
phái yếu:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh củng là lời chung”
Lời than vãn của Kiều củng là tiếng nức nở của tất cả những ngƣời đàn bà sa
đọa. Trong xã hội phong kiến đầy tội ác, giọt nƣớc mắt trƣớc đau khổ cho loài
ngƣời cũng là hạt mƣa móc cần thiết cho cảnh vật dƣới một gầm trời đang
hạn. Ở đâu đó trong tác phẩm Nguyễn Du vẫn tìm cách cứu vớt Thúy Kiều,
đó là trong đám nha dịch còn chút từ tâm trong một kẻ lại già, khi trong nhà
thanh lâu, hoặc dƣới hầm sƣ tử, Kiều gặp đƣợc một ả Mã Kiều, một mụ quản
gia, một vị sƣ Giác Duyên, Nguyễn Du đã vội vàng ghi lấy để lại cho nhân
loại một niềm an ủi, một lý do hy vọng.
Nguyễn Du không chỉ để Thúy Kiều xuất hiện với tƣ cách là một nạn
nhân đau khổ mà còn là hình tƣợng tiêu biểu cho giá trị phẩm chất, cho tinh
thần chiến đấu, tiêu biểu cho thái độ chống lễ giáo phong kiến, dám vƣơn lên
tìm hạnh phúc chính đáng. Chỉ phút đầu gặp gỡ chàng Kim, Kiều đã rung
động, ƣớc mơ thầm kín nhƣng tha thiết:
“Ngƣời đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không?”
Mặc dù Kiều cũng biết rằng: “Nên chăng cũng tại lòng mẹ cha” nhƣng khi
Kim Trọng tỏ tình, nàng mạnh dạn nhận lời gắn bó. Khi thuận lợi Kiều chủ
động vƣợt rào sang nhà ngƣời yêu tự tình:
42

“Xăm xăm bang lối vƣờn khuya một mình


…..
Vì hoa nên phải đánh đƣờng tìm hoa”
Mối tình vƣợt lễ giáo phong kiến ấy lại là mối tình rất trong sạch và thủy
chung. Kiều là một ngƣời phụ nữ trong trắng, đoan trang:
“Đã cho vào bậc bố kinh
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu
Ra tuồng trên bộc trong dâu
Thì con ngƣời ấy ai cầu làm chi”
Khi buộc phải cách xa, nàng đành chôn giấu khắc sâu hình bóng chàng Kim
trong lòng. Tất cả nói lên rằng tất cả thế lực hắc ám của chế độ phong kiến chỉ
có thể làm tan nát hạnh phúc của Kiều nhƣng không thể hủy diệt đi tình yêu
chung thủy ấy, đúng nhƣ lời Chu Mạnh Trinh đã viết: “Tấm lòng này nhƣ
tuyết, nhƣ bang, mối sầu nọ qua ngày, qua tháng…Ngọc kìa không vết, giá
liên thành khôn xiết so bì. Nƣớc đã trôi xuôi, hồn cựu mộng hãy còn vơ
vẩn…”. Có thể nói Nguyễn Du đã vẽ nên một thiên diễm tình tuyệt đẹp trong
văn học thời phong kiến.
Khi Kiều ở lầu Ngƣng Bích, bị Tú Bà “khóa xuân”, trong cái nỗi buồn
mênh mang vô tận, không ai chia sẻ, không có gì để vơi đi, nỗi buồn của một
con ngƣời cô đơn giữa cảnh vật cô quạnh, vắng lặng, Kiều nhớ về Kim, nhớ
cha mẹ. Một lần nữa trật tự đạo lý cƣơng thƣờng của phong kiến bị đảo ngƣợc
khi Nguyễn Du đảo tình lên trên hiếu, khi để Kiều nhớ ngƣời yêu trƣớc, nhớ
cha mẹ sau. Nếu trƣớc kia Nguyên Du ca ngợi mối diễm tình tuyệt vƣợt lễ
giáo phong kiến ấy bao nhiêu, thì giờ đây tác giả lại đau đớn thay khi mối tình
ấy “trâm gãy bình tan”, Nguyễn Du đã thâu hiểu cái nhân tình của con ngƣời,
khi yêu nhau mà buộc phải cách xa chia lìa nhau. Thúy Kiều buồn:
43

“Buồn trông cửa bể chiều hôm


Thuyền ai thấp thoáng cánh bồm xa xa?
……
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Dƣờng nhƣ ở đây không có hình bóng con ngƣời nhƣng chỉ có tâm trạng.
Tâm trạng của Kiều hay chính tâm trạng của Nguyễn Du. Lòng nhà thơ nhƣ
hòa cùng nhân vật, cùng đồng cảm, đồng thƣơng, đau xót với nhân vật.
Không chỉ nhìn thấy những đau thƣơng mất mát trong cuộc đời, mà Nguễn
Du còn nhìn thấy và trân trọng những vẻ đẹp cao quý từ nhân phẩm, đức hạnh
của nàng. Thúy Kiều hiện lên không chỉ tài năng trí tuệ hơn ngƣời:
“Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thƣơng lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trƣơng”
Mà Thúy Kiều còn nổi lên là một ngƣời hiếu đạo. Luôn đặt chữ hiếu lên hàng
đầu, ở điểm này ta thấy tƣ tƣởng nhân đạo Nguyễn Du chịu ảnh hƣởng bởi
Nho giáo rất rõ ràng, Kiều luôn tâm niệm rằng : “Làm con trƣớc phải đền ơn
sinh thành”. Đây là nguyên tắc bất di, bất dịch trong suốt cuộc đời Kiều, tạo
nên những nét đẹp không lẫn vào đâu đƣợc của nàng. Khi gia đình gặp nạn,
Kiều bán mình để cứu cha, mặc dầu phải phụ lại tình yêu của Kim Trọng, mặc
dầu không biết sẽ về đâu nhƣng Kiều vẫn quyết định hy sinh bản thân, hy sinh
tình yêu vừa chớm nở để giữ bình yên cho gia đình. Suốt trong chiều dài
mƣời lăm năm trầm luân, khổ ải, nàng luôn đâu đấu nghĩ tới quê nhà, luôn
luôn tâm niệm: “Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong!”. Kiều vẫn luôn luôn:
“Xót ngƣời tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”
44

Do đó dù có bị vùi dập vào bùn đen của xã hội, thì Kiều vẫn là một ngƣời con
gái đẹp, bởi nàng không chỉ đẹp hình thức mà cả tâm hồn lẫn nhân cách.
Nguyễn Du đã cho chúng ta thấy rằng xã hội có thể vùi dập thân phận con
ngƣời nhƣng ở họ vẫn tồn tại những điều đáng quý, đáng trân trọng, nhất là
những ngƣời phụ nữ tài sắc vẹn toàn.
Không chỉ dừng lại ở sự ca ngợi, đồng cảm với ngƣời trong cảnh bể dâu.
Nhà thơ còn dựng nên cả một bức tƣợng đồng Từ Hải, Từ Hải là biểu tƣợng
cho công bằng, công lý, dân chủ trong xã hội phong kiến xấu xa, mục nát. Đó
là một vị anh hùng cái thế với tính chất phi thƣờng về diện mạo, vóc dáng:
“Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tấc rộng thân mƣời thƣớc cao
Phi thƣờng cả về bản lĩnh, tài năng, phong độ, chí khí:
Đƣờng đƣờng một đấng anh hào
Côn quyền hơn sức lƣợc thao gồm tài
Đội trời đạp đất ở đời
Họ Từ tên Hải vốn ngƣời Việt Đông
Giang hồ quen thói vẫy vùng
Gƣơm đàn nửa gánh non sông một chèo”
Từ Hải là nhân vật phản ánh ƣớc mơ tự do và công lý. Từ Hải là vị anh hùng
cái thế, tài cao trí cả, dũng mãnh vô song, rất mực phóng túng ngang tàng,
sống với chí khí “đội trời đạp đất”, “Dọc ngang trời rộng vẫy vùng biển
khơi”, thiết tha với lý tƣởng:
“Chọc trời khuấy nƣớc mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”
Hình tƣợng Từ Hải có ý nghĩa phản phong khá mạnh mẽ, là minh chứng cho
sự sụp đỗ của thế lực phong kiến. Đặc biệt Từ Hải còn là ngƣời có tấm lòng
bao dung, nhân ái, hào hiệp, tình cảm nhân văn, tôn trọng giá trị của con
45

ngƣời, chính Từ là ngƣời cứu Kiều ra khỏi lầu xanh, cho Kiều cuộc sống hạnh
phúc
“Vinh hoa bõ lúc phong trần
Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày”
Từ Hải là ân nhân lớn nhất của Thúy Kiều, là ngƣời đã đem nàng từ thân phận
một cô gái lầu xanh lên địa vị phu nhân ngồi ở ghế tòa án để báo ân báo oán
“Trƣớng hùm mở giữa trung quân
Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi
Tiên nghiêm, trống chửa dứt hồi
Điểm danh trƣớc dẫn trực ngoài cửa viên
Từ rằng: “Ân oán hai bên
Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh”
Từ Hải đã thiết lập một tòa án, một pháp trƣờng để xét xử những kẻ gian
manh, độc ác đã từng dày xéo, đọa đầy Kiều. Phiên tòa ấy thể hiện khát vọng
lẽ công bằng, công lý sẽ chiến thắng. Nguyễn Du đã đƣa Từ Hải đến, nhƣ một
cứu cánh cho cuộc đời nàng Kiều, nhƣ một ngôi sao vụt sáng, là giấc mơ dẹp
tan mọi bất bình, xóa sạch những bất công ngang trái, sống tự do ngoài khuôn
khổ chật hẹp của xã hội phong kiến. Đó là giấc mơ Từ Hải. Nguyễn Du đã để
Từ Hải chết, phải chăng đây là sự bế tắc trong tƣ tƣởng nhân đạo Nguyễn Du.
Nếu Từ Hải không chết thì Từ sẽ làm gì và đi về đâu? Nếu Nguyễn Du để Từ
lật đỗ cả triều đình, lên làm vua, rồi lại thu hết quyền lực vào tay mình thì
tƣợng đài Từ Hải sẽ sụp đổ, bởi việc làm của vị anh hùng hóa ra giống với
bọn quan lại phong kiến sao. Nếu Nguyễn Du để Từ quy hàng triều đình, phải
sống khom lung, vâng dạ, sống nhƣ vậy có khác gì là chết. Có thể nói Từ Hải
là tâm sự, là nỗi lòng của chính tác giả. Sống trong một thời đại mà chí anh
hùng không có đất dụng võ và cái chết là điều tất yếu. Nhà thơ đã đau cho dân
tộc, đau cho thời đại, đã khóc cho thân phận con ngƣời và khóc cho chính bản
46

thân mình. Dẫu cho bế tắc nhƣng tƣ tƣởng nhân đạo của Nguyễn Du qua hình
tƣợng Từ Hải vẫn sáng ngời một khát vọng tự do,công bằng, chân lý.
Có thể nói Từ Hải và Thúy Kiều là những hình tƣợng nhân vật thể hiện rõ
nét nhân đạo trong tƣ tƣởng Nguyễn Du. Tƣ tƣởng ấy còn đƣợc thể hiện qua
những nhân vật tƣởng chừng chỉ là cái bóng trong tác phẩm, chỉ đƣợc nhắc
đến đôi ba lần, đó là Thúy Vân. Có ngƣời cho rằng nhà thơ đã làm nhạt đi,
đánh mất đi tinh thần nhân đạo của mình trong nhân vật Thúy Vân. Nguyễn
Du đã để cho Vân nối duyên chị Kiều, tiếp nhận mối tình Kim trọng, nhƣng ở
đây Nguyễn Du không nói cho mọi ngƣời biết, Thúy Vân bằng lòng nhƣng có
vui không, Thúy Vân hy sinh cả tuổi thanh xuân để gắn kết với ngƣời chỉ yêu
mình chị cô. Cuộc sống của nàng sẽ ra sao khi trong lòng Kim Trọng chƣa
bao giờ có nàng. Trong cuộc sống hiện đại mấy ai có thể chấp nhận đƣợc điều
này. Trong cảnh đoàn viên, Thúy Vân lại đề nghị kết duyên cho Kiều và Kim,
Nguyễn Du không nói trong lòng Thúy Vân nghĩ gì, nhƣng chắc hẳn sẽ rất
đau khổ, đúng nhƣ Hồ Xuân Hƣơng đã từng nói rằng:
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”
Phải chăng Nguyễn Du chƣa bao giờ nghĩ đến điều này, phải chăng tấm lòng
Nguyễn Du không dành cho những ngƣời “Mây thua nƣớc tóc, tuyết nhƣờng
màu da”, những con ngƣời có số phận êm đềm, bình an. Thật ra Nguyễn Du
đã nghĩ thay Thúy Vân nhiều hơn ta tƣởng, nhƣng nhà thơ đã dùng cách khác
để thể hiện lòng yêu thƣơng đối với cuộc đời Vân. Tác giả đã sử dụng thủ
pháp nghệ thuật đậm nhạt khác nhau, tô đậm cuộc đời bất hạnh của Kiều,
song chỉ phác tả cuộc đời của Vân. Và sự miêu tả song hành này đã có tác
dụng làm nổi bật cả hai cuộc đời bất hạnh. Thúy Vân hiện lên với vẻ dẹp đoan
trang, đoan chính, vẻ đẹp của nàng đến thiên nhiên, trời đất của muốn
“nhƣờng”, muốn “thua”, vậy mà trong xã hội đó nàng là ngƣời nhận mọi sự
47

thua thiệt về mình mà không mảy may tính toán. Gia đình gặp biến cố, nàng
chấp nhận thay chị Kiều nối duyên, không có nghĩa là nhận về mình phần
hơn, mà thực chất là một sự hy sinh to lớn, thầm lặng. Vân âm thầm chấp
nhận chia sẻ nổi lòng của chị, cũng chính là chia sẻ gánh nặng với gia đình,
bởi cuộc đời không chỉ biết nhận mà còn phải biết cho đi, đây là phẩm chất tốt
đẹp của ngƣời phụ nữ Việt Nam từ muôn đời nay. Trong cảnh đoàn viên ở
cuối tác phẩm Thúy Vân một lần nữa chọn cho mình phần đau, nhƣờng cho
chị phần hạnh phúc, cho dù lúc đó nàng có quyền đƣợc hƣởng thụ giàu sang
cùng chồng đỗ đạt, thăng quan tiến chức và “đầy sân quế hòe”. Nguyễn Du đã
không lột tả chi tiết cuộc đời tâm trạng Thúy Vân, nhƣng bạn đọc vẫn có thể
nhìn thấy nỗi đau của một con ngƣời dƣờng nhƣ là bình thƣờng trong xã hội
phong kiến. Dù có tài sắc vẹn toàn nhƣ Thúy Kiều hay “êm đềm trƣớng rủ”
nhƣ Thúy Vân thì sống trong xã hội ấy vẫn phải chịu đau thƣơng, vẫn bất
hạnh. Nỗi đau của Thúy Vân là nỗi đau không thành tiếng, không nên lời,
nhƣng nó có đó, hiện diện ngay trong xã hội đó.
Vừa đau xót, thông cảm; vừa ca ngợi đồng tình với những con ngƣời bị
chà đạp áp bức; Nguyễn Du đã biểu lộ trong Truyện Kiều một tinh thần nhân
đạo sâu xa của một nghệ sĩ thiên tài. Truyện Kiều bảo vệ, bênh vực cho những
lợi ích chính đáng của con ngƣời, ủng hộ khát vọng tự do, khát vọng tình yêu
của tuổi trẻ. Đặc biệt, hiếm có một thái độ trân trọng, tôn vinh con ngƣời đạt
đến mức độ nhƣ Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Con ngƣời đƣợc nhìn nhận
nhƣ một sự tổng hoà giữa thể xác và tinh thần. Tiếng nói khẳng định vẻ đẹp
của ngƣời phụ nữ đã có từ ca dao, thơ Hồ Xuân Hƣơng nhƣng chƣa ở đâu và
bao giờ lại đƣợc cất lên một cách hùng hồn nhƣ ở Truyện Kiều. Vẻ đẹp của
Thuý Kiều đã bị đày đoạ trong mƣời lăm năm gió bụi mà vẫn “Dung quang
chẳng khác chi ngày bƣớc ra” là một đòn đánh quyết liệt vào quan niệm coi
thƣờng, khinh rẻ ngƣời phụ nữ.
48

Nguyễn Du đã đi sâu vào thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp và kì
diệu của con ngƣời để mà đồng cảm và đồng vọng. Từ những rung động tinh
tế nhất cho đến những rung động mãnh liệt nhất đều đƣợc diễn tả với một
nghệ thuật bậc thầy. Thành công của tác phẩm không phải ở phƣơng diện kĩ
thuật, kĩ xảo mà là ở cái nhìn, tấm lòng của ngƣời nghệ sĩ. Phan Ngọc đánh
giá “Truyện Kiều là cuốn sách của một ngàn tâm trạng”. Và là cuốn sách của
một tấm lòng cuồn cuộn yêu thƣơng, của những day dứt trăn trở, của chủ
nghĩa nhân đạo Nguyễn Du.
2.2.2. Tinh thần “Từ- bi- hỉ- xả” qua Văn tế thập loại chúng sinh
Là một nhà nhân văn chủ nghĩa, Nguyễn Du luôn trải rộng lòng mình
để hứng lấy, chở che những kiếp ngƣời bất hạnh. Ông đặc biệt quan tâm đến
những con ngƣời bình thƣờng trong xã hội. Ngoài sáu hạng ngƣời sống trong
phú quý, tác phẩm dồn hết yêu thƣơng cho những kiếp ngƣời vô danh, sống
và chết trong lặng lẽ. Họ là những kẻ vào sông ra bể, đi về buôn bán, có ngƣời
phải buôn nguyệt bán hoa, lại có kẻ mắc vào khóa lính. Đâu đó vất vƣởng
kiếp hành khất ngƣợc xuôi… Cả một xã hội rộng lớn nhƣ đƣợc thu nhỏ, hiện
lên toàn những gƣơng mặt “cuồn cuộn đau thƣơng cháy dƣới trời” (thơ Huy
Cận). Thật hiếm ở đâu nhƣ bài văn tế này, nơi hội tụ toàn những cái chết bi
thƣơng. Viết Văn tế thập loại chúng sinh, nhà thơ không đứng từ đài cao quý
tộc để cúi xuống cất lời răn bảo. Ông đi từ sự đồng cảm, tri âm. Lòng trắc ẩn
khiến ông khóc thƣơng cho những oan hồn. Nói về họ, ông nhƣ đang đối
thoại với ngƣời đang sống, với những số phận nhọc nhằn, tủi nhục suốt một
kiếp phù sinh. Ngày nào, họ vẫn sống nhƣ bao cuộc đời bình thƣờng. Bỗng
đâu, tai nạn bất ngờ úp chụp. Họ đành chết một cách tức tửi, đớn đau. Tinh
thần nhân văn khiến nhà thơ ngậm ngùi, suy tƣởng về cõi dƣơng thế, nơi
những ngƣời xấu số đã trải qua. Ông viết về cõi âm của những oan hồn,
49

nhƣng lại lấy cõi ngƣời, con ngƣời làm trọng. Mỗi dòng thơ của ông là một
dòng nƣớc mắt, khóc cho nỗi nhọc nhằn, cơ cực của đời ngƣời.
Đây là nỗi khổ của ngƣời đi về mua bán:
“Đòn gánh tre chín dạn hai vai”
Chỉ một chiếc đòn gánh tre mà gợi ra bao nẻo đƣờng vạn dặm, bao chặng đời
tảo tần, gồng gánh của kẻ xuôi ngƣợc tìm manh áo miếng cơm. Nguyễn Du
nhƣ đang viết về phần gánh nặng đang hằn trên bờ vai gầy guộc của chính
mình. Nhà thơ mở lòng sẻ chia với những thân phận “dãi dầu nghìn dặm, lầm
than một đời”. Ông nghẹn ngào cho bao số kiếp “sống nhờ hàng xứ, chết vùi
đƣờng quan”, sớm hôm chịu cảnh “thở than dƣới đất, ăn nằm trên sƣơng”.
Lúc nào, bao giờ, ông cũng bị ám ảnh nặng nề bởi số kiếp con ngƣời:
- “Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp”
- “Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu?”
- “Thƣơng thay cũng một kiếp ngƣời”
- “Kiếp nào cởi đƣợc oan tình ấy đi”
- “Kiếp phù sinh nhƣ hình nhƣ ảnh
- “Có chữ rằng vạn cảnh giai không”
Tình yêu thƣơng mênh mông của Nguyễn Du không đứng trên lập trƣờng của
tầng lớp phong kiến thống trị. Không hề có sự ban ơn. Nó cũng không đơn
thuần là tiếng thở dài, mặc nhiên cam chịu của triết lý nhà Phật. Phật giáo giải
thích số kiếp mỗi ngƣời đều do chính mình đã gieo nhân nên gặt quả. Con
ngƣời không nên than vãn vô ích về số kiếp của mình, mà chỉ nên tìm cách
cởi dần oan trái, thoát khỏi luân hồi. Quan niệm của Nguyễn Du không đơn
thuần nhƣ thế. Nó còn bám rễ lên cây từ những biến động, quan hệ phức tạp
của cuộc đời. Ông nhận ra nhiều oan trái từ giữa lòng xã hội phong kiến hà
khắc, bất công. Qua những vần thơ ông, đã lộ diện một xã hội đói nghèo,
khốn quẫn. Nếu không thế, sao đến nỗi bao ngƣời phải liều thân “vào sông ra
50

bể”, tần tảo “đi về mua bán”, hay sa vào thảm cảnh “hành khất ngƣợc xuôi”?
Và đất nƣớc không chiến tranh, loạn lạc, thử hỏi sao có “kẻ mắc vào khóa
lính”, thêm biết bao “mạng ngƣời nhƣ rác”. Những lúc này, Nguyễn Du thật
sự đớn đau và nhức nhối trƣớc cõi phù sinh. Sau mỗi dòng thơ, ông hạ xuống
dấu chấm than, nhƣng neo lại cho đời chấm hỏi. Đó chính là câu hỏi lớn, đầy
bế tắc của thời đại bấy giờ.
Nghĩ về những con ngƣời bình thƣờng, bất hạnh, nhà thơ dành tấc lòng
ƣu ái nhất cho ngƣời phụ nữ, đặc biệt là những kẻ “liều tuổi xanh buôn nguyệt
bán hoa”. Định kiến xã hội xƣa luôn ném cái nhìn khinh miệt đối với chuyện
tà dâm, trút hết tội lỗi vào thân phận ngƣời phụ nữ lỡ làng. Trong Văn chiêu
hồn, tuy không khai thác đƣợc tận cùng bi kịch của họ nhƣ ở Truyện Kiều
nhƣng Nguyễn Du vẫn kịp viết những dòng thơ rung cảm nhất về kiếp ngƣời
này. Nhìn họ đang thời xuân sắc, nhà thơ giật mình nghĩ đến ngày mai, thời
gian nghiệt ngã sẽ cuốn xô họ vào những bãi bờ cô độc, hẩm hiu:
“Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con tá, biết là cậy ai”
Cảm thƣơng ngƣời kỹ nữ đến dƣờng ấy, trƣớc và cùng thời Nguyễn Du có
đƣợc bao ngƣời?
Thế rồi, từ những mảnh đời riêng lẻ, nhà thơ nhìn ra nỗi đau chung của phận
đàn bà:
“Đau đớn thay, phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu?”
Lời thơ trĩu nặng nhân tình nhƣ còn ám ảnh đến hôm nay, khi đâu đó vẫn còn
phân biệt đối xử với ngƣời phụ nữ. Chính tinh thần nhân văn đã đƣa tƣ tƣởng
Nguyễn Du băng qua nhiều thế kỷ. Lời thơ ông cất lên tiếng kêu khẩn thiết:
hãy thấu hiểu và quan tâm đến những thiệt thòi, bất hạnh của ngƣời phụ nữ.
51

Họ vẫn mãi là những ngƣời đáng thƣơng trong những kiếp ngƣời bình
thƣờng, bất hạnh.
Càng suy gẫm về những kiếp ngƣời cơ cực trong Văn tế thập loại chúng
sinh, ta càng sững sờ trƣớc tầm nhìn thấu “sáu cõi” của nhà thơ. Nguyễn Du
vẫn luôn là ngƣời đi trƣớc thời đại. Không dừng ở hồi chuông giải oan cho
ngƣời phụ nữ, ông còn gióng thêm hồi chuông cứu vớt linh hồn những hài nhi
xấu số:
“Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sinh, lìa mẹ lìa cha.
Lấy ai bồng bế vào ra,
U ơ tiếng khóc, thiết tha nỗi lòng”.
Quan tâm tới đối tƣợng này, Nguyễn Du càng khẳng định thêm tinh thần nhân
văn của mình. Trong tâm thức con ngƣời thời phong kiến, chƣa bao giờ hài
nhi đƣợc quan tâm nhƣ một số phận có quyền sống và nhu cầu đƣợc sống. Chỉ
có ngƣời cao tuổi mới đáng đƣợc đời quan tâm, trọng vọng. Văn học trung đại
nhiều thế kỷ, vì thế, chẳng có lấy một vần thơ về trẻ con. Vậy mà, lần đầu
tiên, Nguyễn Du lại dành nƣớc mắt xót thƣơng khóc chúng. Lần đầu tiên,
Nguyễn Du mạnh dạn đƣa tiếng khóc hài nhi vào văn học. Với nhà thơ, dẫu
mới chào đời nhƣng chúng vẫn có tƣ cách và quyền sống của một con ngƣời.
Nguyễn Du thƣơng chúng không đƣợc hƣởng những quyền tối thiểu của một
trẻ thơ: đƣợc bồng bế, nâng niu. Nhà thơ đứt ruột bởi tiếng khóc ngây thơ,
ngắn ngủi của chúng:
“U ơ tiếng khóc, thiết tha nỗi lòng”.
Có thể thấy, với Nguyễn Du, ngay khi cất tiếng chào đời, trẻ con đã là một
con ngƣời, có quyền bình đẳng với bao nhiêu ngƣời lớn. Nhà thơ trách tạo
hóa phũ phàng, để những hài nhi “lỗi giờ sinh” phải sớm từ biệt cõi đời. Từ
52

niềm trắc ẩn về những hài nhi, nhà thơ nhƣ muốn gởi cho đời thông điệp:
đƣợc sống, đó là quyền tối thiểu của mỗi con ngƣời.
Trong Văn tế thập loại chúng sinh, Nguyễn Du không chỉ quan tâm mà
còn tìm cách cứu vớt con ngƣời thoát cơn hoạn nạn, làm phƣơng giúp con
ngƣời bớt khổ. Theo tôi đây là nét đặc sắc nhất trong chủ nghĩa nhân đạo
Nguyễn Du. Bởi ông không chỉ nhìn thấy nổi khổ của vạn vật sinh linh,
không chỉ phơi bày ra rồi bỏ mặt nhƣng đại thi hào đã nhọc tâm tìm ra
phƣơng pháp “cứu khổ, cứu nạn”, “phổ độ chúng sinh”. Nhà thơ đã bộc lộ
nghĩa cử nhân ái đầu tiên, khi nhắc lại phần đời gian khổ của những ngƣời bất
hạnh. Xƣa nay, ngƣời xấu số thƣờng là kẻ bị đời quên lãng. Lúc sống, họ
không đƣợc ai cứu giúp, quan tâm. Ngay phút vật vã cuối cùng, họ cũng
chẳng đƣợc một ai cận kề, an ủi. Mƣợn văn chƣơng, nhà thơ nhắc lại phần
cuộc sống trên cõi dƣơng thế của họ. Tuy có muộn màng nhƣng đó cũng là
một chút an ủi, tƣởng nhớ những ai đã phải sống và chết trong sự ghẻ lạnh
của đời. Những oan hồn phiêu bạt kia, đƣợc một kẻ dƣơng trần nhớ thƣơng,
thấu hiểu, hẳn cũng ngậm cƣời nơi chín suối. Trong mắt Nguyễn Du, mấy ai
thoát đƣợc vòng bất hạnh, dù là những kẻ một thời nệm ấm chăn êm. Mấy ai
ngờ rằng, những “kẻ mũ cao áo rộng” vẫn có ngày chịu cảnh không ngƣời lo
“bát nƣớc nén nhang”? Đến với những số phận này, lời thơ Nguyễn Du thắp
lên một nén tâm hƣơng, ngõ giúp oan hồn bớt bơ vơ, lạnh lẽo.
Không giúp đƣợc oan hồn sống lại, nhƣng nhà thơ không muốn họ tiếp
tục vất vƣởng bụi bờ, nhà thơ lập đàn giải thoát chúng sinh. Không phải tín đồ
nhà Phật, nhƣng nhà thơ lụy đến bàn tay Phật pháp vô biên. Tinh thần nhân
văn đƣa nhà thơ tìm về tƣ tƣởng từ bi của Phật giáo. Lòng bác ái, hƣớng thiện
của nhà Phật có thể giúp con ngƣời thoát vòng lầm lạc, u mê. Những ngƣời
đang sống, nếu trao gởi niềm tin nơi Phật, thƣờng vơi đi bao sợ hãi, âu lo về
cái chết. Mƣợn lời Phật dạy, Nguyễn Du khẩn thiết kêu gọi mọi ngƣời hãy
53

cùng quan tâm, nhìn lại những số phận còn bị xích xiềng tội lỗi. Ông vẫy gọi
những oan hồn vất vƣởng:
“Ai đến đây dƣới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu.
Phép thiêng biến ít thành nhiều,
Trên nhờ Tôn giả chia đều chúng sinh”
Theo lẽ thƣờng, một khi gởi gắm niềm tin vào đấng siêu nhiên, con ngƣời dễ
đánh mất mình, mất cả niềm tin vào bản thân. Nhƣng qua những vần thơ
thống thiết, Nguyễn Du đâu hề thủ tiêu bản ngã. Con ngƣời yếu đuối nơi cõi
trần kia vẫn mãi tràn đầy khát khao và nghị lực, lúc nào cũng hừng hực nhiệt
thành cứu vớt muôn triệu chúng sinh. Nghĩa cử cao quý ấy, cho dù có lúc phải
nƣơng tựa vào tôn giáo, nhƣng vẫn là biểu hiện ngời sáng của một tinh thần
nhân văn: mong muốn đem lại hơi ấm, sự sống cho mọi con ngƣời.
Cũng với tinh thần nhân văn, khi nghĩ về những oan hồn, Nguyễn Du không
hề thoát ly mối quan hệ phức tạp giữa những ngƣời đang sống. Ông luôn đề
cao lối ứng xử tình nghĩa giữa ngƣời và ngƣời. Ông nƣơng theo lối sống biết
ngƣời biết ta, luôn xem nỗi khổ của ngƣời nhƣ nỗi khổ của mình. Trong tác
phẩm, nhà thơ đã bao lần hóa thân vào cảnh khổ của ngƣời, thƣơng xót cho
ngƣời:
- “Đau đớn thay, phận đàn bà”
- “Thƣơng thay cũng một kiếp ngƣời”
- “Thƣơng thay thập loại chúng sinh”
- “Thƣơng thay chân yếu tay mềm”
- “Tiếng oan văng vẳng, tối trời càng thƣơng”
- “Lòng nào lòng chẳng thiết tha
- “Cõi dƣơng còn thế nữa là cõi âm”
54

Có thể thấy, hơn ai hết, Nguyễn Du chính là mẫu mực sống cho lối ứng xử
tình nghĩa, phải đạo. Nhà thơ luôn đặt mình vào cảnh khổ ngƣời khác để suy
gẫm về nhân thế. Thƣơng ngƣời đang sống, nhà thơ thƣơng cả khi họ đã lìa
đời.
Tinh thần nhân văn của Nguyễn Du, trong tác phẩm, còn biểu hiện qua
thái độ chuộng khoan dung, khoan hòa. Ông không chấp nhận chủ nghĩa cá
nhân cực đoan. Ông đề cao sự hòa giải giữa cá nhân và cộng đồng, giữa lƣơng
tâm và bổn phận. Một điểm nổi bật trong Văn tế thập loại chúng sinh chính là
sự cổ xúy cho mối quan hệ bình đẳng giữa ngƣời và ngƣời. Sống giữa lòng xã
hội phong kiến, bản thân là trí thức bậc cao, nhƣng Nguyễn Du lại tạo ra một
thế giới nghệ thuật có sự hòa đồng giữa hèn - sang, tiểu nhân và quân
tử,…Nguyễn Du dƣờng nhƣ nghĩ nhiều về sự bình đẳng của mọi ngƣời trƣớc
cái chết. Con ngƣời có thể hơn thua nhau lúc sinh thời, kẻ bề trên có thể đọa
đày tầng lớp dƣới,… nhƣng khi nhận lãnh cái chết, mọi ranh giới, sự cách biệt
đều phải tiêu tan. Phải chăng, khi chọn đề tài về cái chết, về cõi âm, nhà thơ
muốn gởi vào đó một triết lý thâm trầm: nghĩ về cái chết, đó là cách con
ngƣời nhận thức sâu sắc nhất về cuộc sống, về “cõi ngƣời ta”. Thành ra,
những ai từng đọc Nguyễn Du, mỗi lần đối diện cái chết của con ngƣời, sẽ
càng thêm nâng niu sự sống. Về phƣơng diện này, tác phẩm của Nguyễn Du
giúp ngƣời đọc biết nhìn ra cái tôi ích kỷ, biết ăn năn và mong ƣớc hòa nhập,
bình đẳng với cộng đồng.
Phiêu du vào thế giới oan hồn, Nguyễn Du đâu chỉ nói chuyện với ngƣời
đã khuất. Nhà thơ còn gởi biết bao thông điệp cho ngƣời đang sống. Hơn
thua, tranh giành, sát hại nhau làm gì? Chạy đuổi tiền tài, địa vị hƣ ảo làm
chi? Hãy nhìn những cái chết của bao ngƣời tham vọng! Tuy không là nhà cải
cách xã hội, nhƣng qua việc tạo ra một âm giới không có sự phân biệt, oán
thù, Nguyễn Du đã góp phần cổ xúy cho một xã hội tốt đẹp. Trong xã hội ấy,
55

con ngƣời đồng cảm với nhau, biết xích lại gần nhau, biết xem nỗi bất hạnh
của ngƣời khác cũng là bất hạnh của chính thân mình.
Nói tóm lại, Văn tế thập loại chúng sinh, hay Văn chiêu hồn, là một tác
phẩm tràn đầy tinh thần nhân văn. Tác phẩm là biểu hiện sống động cho chủ
nghĩa nhân văn của Nguyễn Du. Nhà thơ khóc ngƣời đã khuất, nhƣng hóa ra,
nghẹn ngào tâm sự với ngƣời đang sống. Nhà thơ làm cuộc hành trình đến cõi
âm, nhƣng cuối cùng, làm cuộc khúc xạ, quay ngƣợc về “chốn trần ai”. Ông
nói về quá khứ, nhƣng kỳ thực, đang nhìn hiện tại và nghĩ tận ngày mai. Bài
văn tế còn mang ý nghĩa một lời dự báo: ngày nào còn cái xã hội đầy bão
giông biến động này, ngày ấy con ngƣời sẽ còn sa vào hố sâu bất hạnh. Rồi
đây, con ngƣời sẽ còn chịu cảnh trầm luân cùng “thập loại chúng sinh”, nếu
không kịp thời bừng tỉnh, thoát khỏi vòng mê đắm của phú quý vinh hoa,…
Vƣợt qua thời gian, bài văn tế cứ lặng lẽ tan thấm, hằn sâu vào trái tim ngƣời
đọc, ngƣời nghe. Nó tỏa ra một sức chấn động vô biên, có sức mạnh làm thay
đổi tƣ tƣởng, cách sống con ngƣời. Sau Đoạn trường tân thanh, tác phẩm
cũng là một tiếng khóc lớn, mang tầm thời đại. Nó cũng có tƣ cách một bài
thơ trữ tình dài hơi, tầm vóc in vào thế kỷ. Tạo đƣợc những hiệu quả và giá trị
lớn lao đó, bởi tác phẩm đã cháy lên từ lò lửa của chủ nghĩa nhân văn, vừa
phát khởi từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX. Tác phẩm còn đƣợc nuôi
dƣỡng bền lâu bởi ngọn lửa chủ nghĩa nhân văn của chính đại thi hào dân tộc
Nguyễn Du.
56

KẾT LUẬN

Truyện Kiều và Văn tế thập loại chúng sinh giống nhƣ những viên ngọc
đa diện mà nhìn ở mỗi giác độ khác nhau thì thấy những hoa văn khác nhau.
Nổi bật trên các đa diện ấy là chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc của đại hào dân tộc
nguyễn Du. Đó là tƣ tƣởng mới, chiếu sáng cả một giai đoạn văn học dân tộc.
Có ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc.
Có thể nói chủ nghĩa nhân đạo là yếu tố đẹp đẽ nhất trong thơ ca Nguyễn
Du. Truyện Kiều và Văn tế thập loại chúng sinh là những bông hoa rực rỡ trên
nền tƣ tƣởng nhân đạo ấy. Với Truyện Kiều Nguyễn Du đã chỉa mũi giáo vào
xã hội phong kiến mục rỗng thối nát đang từng giờ kìm kẹp, bũa vây cuộc
sống của con ngƣời. Trong xã hội ấy, con ngƣời bị ngặt thở, sống kiếp lầm
than, cơ cực, kêu trời không thấu, kêu đất không nghe. Nhà thơ đã đi sâu tận
đáy bể của cuộc đời để cứu vớt con ngƣời, giúp con ngƣời đòi quyền sống,
quyền tự do, quyền hạnh phúc. Truyện Kiều đồng thời thể hiện những suy tƣ,
chiêm nghiệm về cuộc đời, con ngƣời của Nguyễn Du, những tƣ tƣởng nhân
văn sâu sắc, có ý nghĩa lớn không chỉ với xã hội bấy giờ mà với cả thế hệ mai
sau của đất nƣớc. Có thể thấy trong Truyện Kiều, tính chiến đấu chƣa phải là
tích cực và đúng với lập trƣờng, mâu thuẩn chỉ giải quyết theo tinh thần thỏa
hiệp với chế độ, tinh thần khuất phục với mệnh trời. Nhƣng chủ nghĩa nhân
đạo của tác phẩm là điều không thể bàn cãi. Chúng ta phải nhận định ý nghĩa
nhân sinh quan của nhà thi sĩ dƣới ánh sáng của lịch sử. Nhận định chắc chắn
giá trị của Truyện Kiều về phƣơng diện tinh thần nhân đạo chũ nghĩa trong
một xã hội vô nhân đạo.
Trong Văn tế thập loại chúng sinh, chủ nghĩa nhân đạo là sự trông thấu
cõi âm mà đau xót cho cõi dƣơng. Nhà thơ đau không chỉ một ngƣời, một
nhân vật mà đau cho tất cả mọi ngƣời từ giàu sang phú quý đến nghèo hèn
57

bẩn thỉu, Nguyễn Du đã cho ta thấy những cảnh đời, kiếp ngƣời cơ cực,
những cái chết thƣơng tâm, khiến bạn đọc phải xót lòng xót dạ. Nguyễn Du
đã tái hiện lại cả một xã hội phong kiến loạn lạc, con ngƣời chết nhƣ rơm rạ,
không có quyền quyết định số phận phải nƣơng nhờ vào thế giới của tâm linh,
thế giới đạo Phật để có thể siêu thoát.
Từ Truyện Kiều đến Văn tế thập loại chúng sinh, Nguyễn Du đã có một
bƣớc chuyển mình lớn trong chủ nghĩa nhân đạo của mình. Truyện kiều là câu
chuyện một nàng Kiều, đến Văn tế thập loại chúng sinh Nguyễn Du đã kể
trăm câu chuyện của cuộc đời. Truyện Kiều là tiếng khóc cho thân phận ngƣời
phụ nữ , đến Văn tế thập loại chúng sinh Nguyễn Du đã khóc cho cả nhân
loại. Thật Nguyễn Du có “con mắt nhìn xuyên sáu cõi, có tấm lòng nghĩ suốt
ngàn đời”. Chủ nghĩa nhân đạo Nguyễn Du là nét đẹp văn hóa- văn học của
dân tộc. Là đỉnh cao cốt cách của nhân dân Việt Nam.
Chúng tôi hy vọng bài viết này sẽ đem lại nhiều thuận lợi cho các bạn
sinh viên chuyên ngành Ngữ văn tìm hiểu sâu sắc hơn khi học tập và nghiên
cứu Truyện Kiều và Văn tế thập loại chúng sinh đồng thời phục vụ đắc lực
cho công việc giảng dạy về tác gia Nguyễn Du ở chƣơng trình phổ thông, nhất
là về chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du.
58

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Bảo (2001), Nguyễn Du– Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường, NXB
Giáo Dục.
2. Phan Kế Bính (2006), Việt Nam phong tục, NXB Văn Học, Hà Nội.
3. Lê Nguyên Cẩn (2007), Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
4. Nguyễn Đăng Duy (1999) Phật giáo với văn hóa Việt Nam, NXB Hà Nội.
5. Hoàng Dân, Đƣờng Văn (2002), Nguyễn Du- Truyện Kiều một hướng cảm
luận và dạy học mới, NXB Trẻ.
6. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu sơn, Vũ Thanh (2002), Nguyễn Du về tác gia
và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội.
7. G.S Lê Đình Kỵ (1992), Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực, Hội Nhà văn
Thành phố Hồ Chí Minh.
8. Hoàng Khôi (2013), Nguyễn Du trên đường gió bụi, NXB Văn học.
9. Đinh Gia Khánh (2002), Văn học Việt Nam từ nửa đầu thế kỷ thứ X đến
nửa đầu thế kỷ XVIII, NXB Giáo Dục.
10. Dƣơng Quảng Hàm (2002), Việt Nam văn học sử yếu, NXB Hội Nhà văn.
11. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2010), Từ điển thuật ngữ
văn học, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
12. Vũ Hạnh (1998), Đọc lại Truyện Kiều, NXB Đà Nẵng.
13.Trần Đình Hƣợu (2001), Những bài giảng về tư tưởng Phương Đông,
NXB Văn hoá.
14. Trần Trọng Kim (2003), Phật giáo, NXB Tôn giáo.
15. Tạ Ký (1994),Việt Nam thi văn trích giảng, NXB Đồng Tháp.
16. Lê Xuân Lít (2007), Hai trăm năm_ nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
59

17. Mã Giang Lân (2000), Tổng tập văn học Việt Nam (Tập 22), NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
18. Đặng Thai Mai (2000), Đặc sắc của văn học cổ điển Việt Nam qua nội
dung Truyện Kiều, NXB Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội.
19. Nguyễn Phong Nam (1997, tái bản 2003), Giáo trình văn học Việt Nam
nửa cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, NXB Giáo dục.
20. Nguyễn Phong Nam (2010), Tác gia văn học trung đại Việt Nam, NXB
Đà Nẵng.
21. Nguyễn Phong Nam (2000), Dấu tích văn nhân, NXB Đà Nẵng.
22. Phan Ngọc (2001), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều,
NXB Thanh niên, Hà Nội.
23. Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt 2000, NXB Đà Nẵng.
24. Nguyễn Thế Quang (2012), Nguyễn Du tiểu thuyết lịch sử, NXB Hội nhà
văn.
25. Nguyễn Quốc Quýnh (2004), Thử tìm hiểu tâm sự của Nguyễn Du qua
Truyện Kiều, NXB KHXH.
26. Trần Đình Sử (2003), Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục, Hà Nội.
27. Tuấn Thành, Vũ Nguyễn (2007), Truyện Kiều tác phẩm và dư luận, NXB
Văn học.
28. Vũ Hữu Tiềm (2008), Truyện Kiều, NXB Thanh niên.
29. Đoàn Thị Thu Vân (2007), Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ
kì trung đại, NXB Giáo Dục.
30. L ê Thu Yến (2002), Nhà văn trong nhà trường, NXB Giáo Dục.

You might also like