You are on page 1of 69

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

Về
KHOA NGỮ VĂN

TRẦN THỊ HẰNG

BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT


TRONG THƠ TRỮ TÌNH PHONG CẢNH
CỦA S.A.ESENIN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Chuyên ngành: Văn học nước ngoài

HÀ NỘI, 5/2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

TRẦN THỊ HẰNG

BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT


TRONG THƠ TRỮ TÌNH PHONG CẢNH
CỦA S.A.ESENIN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Chuyên ngành: Văn học nước ngoài

Người hướng dẫn khoa học


TS. LÊ THỊ THU HIỀN

HÀ NỘI, 5/2019
LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ văn đặc biệt là các
thầy cô giáo chuyên ngành Văn học nước ngoài đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy
suốt thời gian tôi học tập, nghiên cứu và rèn luyện tại trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2.
Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo TS. Lê Thị Thu Hiền đã tận tâm, chu
đáo hướng dẫn tôi thực hiện khóa luận này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất,
song khóa luận vẫn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự
góp ý của quý thầy, cô giáo để khóa luận được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Tác giả khóa luận

Trần Thị Hằng


LỜI CAM ĐOAN

Tác giả khóa luận xin cam đoan:


- Công trình nghiên cứu này do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của cô
giáo TS. Lê Thị Thu Hiền.
- Các kết quả nghiên cứu chưa được công bố ở các nghiên cứu khác hay trên
bất kỳ phương tiện truyền thông nào.
Tôi xin chịu hoàn toàn mọi trách nhiệm về kết quả nghiên cứu trong khóa
luận tốt nghiệm của mình.

Hà Nội, tháng 5 năm 2019


Tác giả khóa luận

Trần Thị Hằng


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1

1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1


2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................6
6. Đóng góp của đề tài.................................................................................................6
7. Bố cục ......................................................................................................................6
NỘI DUNG ................................................................................................................7

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT


TRONG THƠ TRỮ TÌNH PHONG CẢNH CỦA S.A.ESENIN ..........................7
1.1. Những vấn đề chung về biểu tượng ......................................................................7
Khái niệm biểu tượng ........................................................................................7
Đặc điểm của biểu tượng nghệ thuật trong văn học..........................................8
1.2. Biểu tượng vẻ đẹp thiên nhiên, con người Nga ....................................................9
Biểu tượng cánh đồng .....................................................................................10
Biểu tượng cây bạch dương ............................................................................17
Một số biểu tượng khác ...................................................................................24
1.3. Biểu tượng đời sống văn hóa tinh thần Nga .......................................................29
1.4. Biểu tượng triết lý ...............................................................................................32
Biểu tượng nghĩa địa - Thánh giá và triết lý tồn tại ........................................32
Biểu tượng ánh trăng và triết lý về mối quan hệ giữa con người với thiên
nhiên ..........................................................................................................................34
CHƯƠNG 2: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƯỢNG
TRONG THƠ TRỮ TÌNH PHONG CẢNH CỦA S.A.ESENIN ........................38
2.1. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ.............................................................................38
2.1.1. Nghệ thuật sử dụng từ tượng hình...................................................................39
2.1.2. Nghệ thuật sử dụng từ tượng thanh .................................................................40
2.1.3. Nghệ thuật sử dụng từ loại ..............................................................................41
2.2. Nghệ thuật sử dụng màu sắc ...............................................................................44
2.3. Nghệ thuật đan xen các biểu tượng ....................................................................48
2.4. Nghệ thuật nhân cách hóa ...................................................................................50
2.5. Không gian - thời gian nghệ thuật ......................................................................52
KẾT LUẬN ..............................................................................................................57

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong kho tàng văn học nhân loại, nền văn học Nga chiếm một vị trí đặc biệt
quan trọng. Đó là cái nôi của nhiều trào lưu văn học có ảnh hưởng mạnh mẽ đến
văn chương thế giới. Nhân dân Nga đã vô cùng tự hào vì văn đàn của mình với
“ngần ấy chùm sao sáng rực tên tuổi vĩ đại”, bao gồm các nhà văn, nhà thơ nổi
tiếng như: A.X.Puskin, S.A.Esenin, M.Iu.Lecmôntôp, N.V.Gôgôn, V.G.Bêlinxki,
Ph.M.Đôxtôiepxki, L.Tônxtôi, A.P.Sêkhôp, A.M. Gorki, M.A.Sôlôkhôp,… Từ cuối
thế kỉ XIX đến đầu thế kỷ XX đất nước Nga ngập trong những cơn bão táp cách
mạng. Nhưng chính từ những cuộc bão táp cách mạng ấy, đất mẹ Nga hồn hậu,
thiên nhiên Nga thơ mộng, làng quê Nga đầy sức sống đã sản sinh ra những hồn thơ
vĩ đại, làm giàu thêm cho kho tàng văn học Nga vốn đã đầy tính lãng mạn và sâu
sắc nhân văn.
Nếu kể tên các nhà thơ tiêu biểu và xuất sắc của thế kỷ XX thì không thể
không nhắc đến Esenin. Bằng “tài năng thi ca độc đáo” của mình, Esenin đã viết
lên những vần thơ có sức ảnh hưởng và lan tỏa mạnh mẽ đối với nền văn học Nga
hiện đại. Thơ Esenin nảy nở một cách tự nhiên trên thềm lục địa văn hoá dân gian
Nga và từ đó vươn tới đỉnh cao của thi ca thế giới. Trong dòng chảy ồn ào của lịch
sử Nga thơ Esenin giống như một mạch nước ngầm, lúc nhẹ nhàng êm dịu, lúc dữ
dội cuộn trào. Tiếng thơ ấy vừa làm cho người ta say đắm, vừa làm cho người ta
day dứt, trăn trở với những áng thơ tuyệt đẹp về phong cảnh thiên nhiên Nga, xúc
động với những vần thơ chân thật về tình yêu, ám ảnh với những vần thơ tự thú…và
hơn hết là những bài thơ viết về nước Nga với những suy nghĩ, trăn trở rất thật cho
vận mệnh của Tổ quốc. Những bài thơ đó sẽ còn sống mãi trong trái tim mỗi người
dân Nga. Đúng như lời kêu gọi của viện Đuma quốc gia Nga nhân kỷ niệm 100 năm
ngày sinh Esenin: “Esenin chính là nước Nga, là tâm hồn Nga và trái tim Nga”.
Cùng với một số nhà thơ khác, Esenin đã sáng lập nên trường phái chủ nghĩa
hình tượng và “vị chủ soái” này luôn nhấn mạnh tính hình tượng trong thơ của
mình. Ông viết: “Trong thơ tôi, bạn đọc cần chú ý tính cảm xúc và tính hình tượng
mà nó đã từng chi phối các nhà thơ trẻ tuổi. Không phải tôi mới nghĩ ra hình tượng
này, nó đã từng và đang là cơ sở tinh thần và cái nhìn Nga, nhưng tôi là người đầu
tiên phát hiện và lấy làm nền tảng trong thơ mình, nó sống trong tôi một cách hữu
cơ, và niềm say mê nó là cảm xúc của tôi. Đây chính là đặc điểm của thơ tôi.”
[13-tr.9]. Chính điều ấy đã tạo nên trong thơ Esenin những biểu tượng mang tư
tưởng và thế giới quan của ông về cuộc sống. Đó là những biểu tượng như: cây

1
bạch dương, cánh đồng, dòng sông, ngôi nhà, ánh trăng, cánh rừng, ngọn lửa, con
đường... Đằng sau mỗi biểu tượng ấy đều ẩn chứa những giá trị ý nghĩa sâu sắc.
Tuy vậy, lâu nay khi nhắc đến thơ trữ tình Esenin, người ta chủ yếu lưu ý đến
các nội dung như tình yêu quê hương đất nước, tình yêu đôi lứa hay mảng thơ về loài
vật, nội dung triết lý trong thơ Esenin. Chính vì vậy, mà trong bài viết này chúng tôi
quyết định chọn đề tài“Biểu tượng nghệ thuật trong thơ trữ tình phong cảnh của S.A.
Esenin” với mong muốn có thể góp phần đem lại cái nhìn trọn vẹn hơn về thơ Esenin
- “Kinh thánh của tâm hồn Nga”. Qua mỗi biểu tượng mà Esenin khắc họa trong thơ,
chúng ta sẽ thấy được những quan niệm, tâm tư, tình cảm của nhà thơ cũng như
những lo lắng về sự thay đổi của đất nước Nga ở tương lai. Dường như tất cả những
sự vật, sự việc hiện lên trong trang thơ của Esenin luôn đầy đủ mọi gam màu của
cuộc sống.
2. Lịch sử vấn đề
Do hạn chế về ngoại ngữ và tài liệu tham khảo, trong phần lịch sử vấn đề
chúng tôi chỉ xin nêu những ý kiến có liên quan trực tiếp đến đề tài thông qua
nguồn tài liệu tiếng Việt. Gần một thế kỷ trôi qua, thơ Esenin trải qua sự sàng lọc
khắc nghiệt của thời gian và cho đến nay vẫn chiếm được trái tim bao thế hệ độc
giả. Ở Nga người ta càng ngày càng thấy rõ giá trị thơ ca của Esenin thông qua nhận
định, đánh giá của các giới, các ngành và các nhà nghiên cứu:
Nhà văn M. Gorki có viết về tài năng của Esenin: “một nhà thơ có tài năng
đặc sắc và hoàn toàn Nga” [8-tr.5].
Iu.N. Bêlinxki lại tinh tế khi nhận thấy đằng sau những nét vẻ bề ngoài của
Esenin ẩn chứa một “tiểu vũ trụ” phức tạp với những tâm sự dường như luôn được
giấu kín: “Những bức chân dung còn giữ được nói chung truyền đạt những nét đáng
yêu trên gương mặt anh, nụ cười anh, khi thì hồn hậu, khi thì ngổ ngáo” [9-tr.217].
Iu. Procusep một nhà nghiên cứu tâm huyết về Esenin trong lời tựa “Tuyển
thơ Esenin” cho rằng thiên nhiên trong thơ Esenin “nhiều vẻ, đa sắc, đó không phải
là phong cảnh chết cứng mà rất sống động, nó hiện hữu vui buồn theo số phận đất
nước và số phận nhà thơ” [8-tr.6].
Hầu hết những lời nhận định, đánh giá trên đã chỉ ra dấu ấn đậm nét trong
thơ Esenin là tình yêu quê hương đất nước, chất trữ tình đằm thắm và tài năng nghệ
thuật của thi sĩ. Tuy vậy, lại chưa có nhận định nào đi sâu vào thế giới biểu tượng
nghệ thuật trong thơ Esenin để thấy được vẻ đẹp thuần khiết của đất nước và con
người Nga được thể hiện trong đó.
Ở Việt Nam, thơ S.A.Esenin bắt đầu được tuyển dịch sang tiếng Việt từ
những năm 1960 và đến năm 1995 thì đã có gần 100 bài thơ được dịch và in trong

2
hai tuyển tập thơ Esenin. Người Việt Nam biết đến thơ Esenin và yêu mến thơ ông
qua bản dịch của Thuý Toàn, Đặng Bảy, Tế Hanh, Bằng Việt, Xuân Diệu, Nguyễn
Viết Thắng, Đoàn Minh Tuấn, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Mộng Sinh…Trong suốt
quá trình thơ Esenin được dịch và giới thiệu ở Việt Nam, trên báo chí cũng lần lượt
xuất hiện một số bài nghiên cứu, phê bình về thơ Esenin. Có thể điểm qua một số
bài viết quan trọng sau:
Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ S.A.Esenin, dịch giả Thúy Toàn
đã chủ biên tuyển tập các tác phẩm của S.A.Esenin và in trong tập “thơ Esenin”
được xuất bản bởi Nhà xuất bản Văn học Hà Nội, 1995. Trong tuyển tập này tác
giả Thúy Toàn có bài giới thiệu về tiểu sử và những sáng tác chính của Esenin.
Thúy toàn đã đặc biệt nhấn mạnh: “nhà thơ trữ tình tinh vi, nhà ảo thuật phong
cảnh Nga, nhạy cảm đền kỳ lạ đối với vẻ đẹp, âm thanh và mùi vị của đất, Esenin là
một nghệ sĩ lớn bậc thầy, mạnh bạo trong lĩnh vực hình thức câu thơ. Các hình
tượng cô đọng và tươi mát đến kinh ngạc - hầu như bao giờ cũng là một sự khám
phá nghệ thuật thực sự” [4-tr.15]. Bên cạnh đó, tác giả cũng tập hợp và giới thiệu
một số nhận xét của các nhà văn Nga về nhà thơ Esenin, trong đó nhà văn L.
Leônốp đã nhận xét: “Tài năng vang dội của Esenin cho thấy có một điện tích sáng
tạo lớn lao. Tôi tin rằng Sergei Esenin còn có thể làm được nhiều hơn nữa. Dòng
mật sáng tạo của anh chưa cạn, chỉ còn phải chờ đợi một ít nữa thôi, là nó lại phun
lên từ những bể chứa bí mật của Esenin, như thể vào mùa xuân nước mật ngọt
ngào trong lành ứa ra từ vết khía trên thân bạch dương” [4-tr.249].
Trong giáo trình “Văn học Nga” (ĐHSPHN 2002) và cuốn “Văn học Nga
trong nhà trường” [7]. Tác giả Hà Thị Hoà có một số bài viết về Esenin như “X.A.
Esenin - thi sĩ của bạch dương Nga”, “Esenin - thi sĩ của nước Nga Xô Viết” và đặc
biệt bài viết “Esenin - thi sĩ cuối cùng của làng quê Nga”. Những bài viết của tác
giả Hà Thị Hoà là tư liệu quý mang tính chất đặt nền móng và có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong việc hình thành và triển khai đề tài của chúng tôi.
Trong bài viết “Quê hương trong thơ Esenin” của tác giả Nguyễn Hải Hà
được in trong quyển “Văn học Nga sự thật và cái đẹp” [5]. có những nhận xét khái
quát về đề tài tình yêu quê hương trong thơ trữ tình Esenin. Ngoài ra, Nguyễn Hải
Hà còn trích dẫn một số bài thơ trữ tình phong cảnh của Esenin để minh họa cho
những nhận định, phân tích, đánh giá của mình, chứng minh cho tình yêu thiên
nhiên, tình yêu quê hương đất nước của Esenin.
Nhà thơ Esenin còn được đưa vào giới thiệu trong quyển: “Lịch sử văn học
Xô Viết” (quyển 1, tập 1). Ở đó, đề cập đến một số đề tài chủ yếu trong thơ của

3
Esenin cả giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Mười. Tuy đây chỉ là một bài viết
tương đối ngắn nhưng đã làm nổi bật vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên phong cảnh
Nga: “Trong thơ trước cách mạng ông đã sáng tạo những hình ảnh tuyệt diệu về
thiên nhiên Nga và cuộc sống nông thôn Nga. Thiên nhiên, nông thôn và đất nước
trong thơ ông đã hòa lẫn làm một trong những rung cảm đep.” [3-tr.111].
Gần đây, Esenin và thơ của ông đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều
khóa luận tốt nghiệp và luận văn tại các trường Đại học Sư phạm. Có thể điểm qua
một số đề tài sau:
Khóa luận tốt nghiệp của Lã Thị Thơ (Đại học sư phạm Hà Nội 2) nói về
“Esenin và Nguyễn Bính - nhìn từ góc độ so sánh loại hình”. Qua đó khẳng định và
lý giải nguồn gốc của sự tương đồng, gần gũi trong thơ ca của hai thi nhân. Ý kiến
này đã gợi mở những điều khá mới mẻ về thơ Nguyễn Bính, đồng thời giúp ta có
một cách nhìn nhận và đánh giá mới về thơ Esenin.
Luận văn thạc sĩ “Tình yêu trong thơ Esenin” của Phạm Thị Lịch (Đại học
sư phạm Hà Nội - 2009) với việc chỉ ra những tình cảm, cảm xúc của Esenin trước
thiên nhiên đất nước Nga, trước con người Nga và trước tất cả mọi loài vật nhỏ bé,
tác giả luận văn đã giúp cho người đọc thấu hiểu tâm hồn nhà thơ Nga vĩ đại và
nhận ra những nét đặc sắc trong nghệ thuật thơ tình của Esenin.
Qua quá trình xem xét và thống kê tư liệu đề cập đến đối tượng nghiên cứu,
chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
Esenin là nhà thơ lớn - tác giả tiêu biểu cho nền văn học Nga - Xô Viết được
các nhà nghiên cứu văn học Nga và thế giới quan tâm.
Nhìn chung, nội dung của tất cả các bài viết về Esenin đều mang tính chất
giới thiệu về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của thơ Esenin. Có những tác giả đã đi
vào khai thác một số vấn đề nổi bật trong thơ Esenin như tình yêu quê hương đất
nước, tình mẹ hay chất triết lí trong thơ, chứ chưa có công trình nghiên cứu chuyên
sâu nào đi tìm hiểu về những biểu tượng nghệ thuật được thể hiện trong thơ của
ông. Đây chính là khoảng trống để chúng tôi mạnh dạn tìm hiểu đề tài “Biểu tượng
nghệ thuật trong thơ trữ tình phong cảnh của S.A.Esenin” với mong muốn góp thêm
nguồn tài liệu để có thể đọc, thưởng thức các sáng tác của thiên tài thơ không chỉ
của nước Nga này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích của đề tài là đi sâu nghiên cứu những biểu tượng nghệ thuật đặc
sắc trong thơ của Esenin, từ đó chỉ ra đặc điểm và nghệ thuật khắc họa biểu tượng
trong thơ của ông.
- Để đạt được mục đích trên, chúng tôi đặt ra những nhiệm vụ sau:

4
+ Thứ nhất: Tìm hiểu lý thuyết về biểu tượng, đặc điểm và cơ chế hình thành
của biểu tượng để làm cơ sở cho đề tài.
+ Thứ hai: Nghiên cứu nội dung biểu tượng nghệ thuật trong thơ trữ tình
phong cảnh của Esenin: biểu tượng cánh đồng, cây bạch dương, ngôi nhà gỗ, dòng
sông, con đường, ánh trăng, mặt trời, dòng sông, nhà thờ.... Qua đó chỉ ra những giá
trị ý nghĩa biểu trưng mà Esenin gửi gắm sau mỗi biểu tượng như thiên nhiên và
con người Nga, đời sống tinh thần của người dân Nga và những biểu tượng mang
tính triết lí.
+ Thứ ba: Bên cạnh đó tìm hiểu thêm một số đặc điểm nghệ thuật xây dựng
biểu tượng trong thơ trữ tình phong cảnh của Esenin. Với việc tiếp cận với mục đích
nghiên cứu trên, chúng tôi tìm và làm rõ cái hay cái đẹp trong thơ ông, một nhà thơ
lớn của thời đại, một nhà thơ lớn của Nga và nhân loại.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Thơ Esenin đa dạng và phong phú đem đến cho người đọc, người nghiên cứu
nhiều vấn đề cần lưu tâm. Song, thật khó để có thể một cái nhìn toàn diện về tất cả
các biểu tượng nghệ thuật trong sáng tác của Esenin. Bởi sức sáng tạo của thi sĩ rất
dồi dào với khối lượng tác phẩm đồ sộ. Thêm vào đó là vấn đề dịch thuật, chuyển
thể tác phẩm. Do đó, với đề tài “Biểu tượng nghệ thuật trong thơ trữ tình phong
cảnh của Sergei Esenin” đối tượng nghiên cứu chúng tôi tập trung khám phá là
những biểu tượng nghệ thuật đặc sắc nhất được Esenin sử dụng trong mảng thơ trữ
tình phong cảnh.
Trong quá trình nghiên cứu, do không có đủ điều kiện tìm hiểu tất cả các tài
liệu một cách đầy đủ nhất về nhà thơ, nên khi thực hiện đề tài nghiên cứu này,
chúng tôi sẽ tìm hiểu những tư liệu về đặc điểm thơ trữ tình phong cảnh Esenin và
lý thuyết về biểu tượng nhằm mục đích phục vụ cho việc hiểu sâu hơn những nội
dung viết về biểu tượng nghệ thuật trong thơ trữ tình phong cảnh của ông. Tất cả
những ngữ liệu thơ sử dụng trong bài nghiên cứu được tham khảo từ tập “Thơ
Esenin” (Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Esenin) do Thúy Toàn chủ biên, Nhà
xuất bản Văn học Hà Nội - 1995. Với các dịch giả nổi tiếng như Thúy Toàn, Tế
Hanh, Đoàn Minh Tuấn, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Mộng Sinh, Nguyễn Văn
Quảng, Anh Ngọc, Hồng Thanh Quang,... Ngoài ra, chúng tôi có tham khảo thêm
các bản dịch khác của một vài dịch giả trên các trang web. Đó là những bài thơ
thành công nhất của Esenin.

5
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:
+ Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại
+ Phương pháp tiếp cận hệ thống
+ Phương pháp nghiên cứu lịch sử
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát
+ Phương pháp so sánh, đối chiếu
6. Đóng góp của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Ở Việt Nam, thơ Esenin đã và đang thu hút được sự quan
tâm của sinh viên, học viên và các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, mảng thơ viết về
biểu tượng và nghệ thuật xây dựng biểu tượng trong thơ trữ tình phong cảnh của
ông chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu. Vì vậy, khi chọn đề tài này chúng
tôi mong muốn góp phần bổ sung vào chỗ trống trong việc nghiên cứu về thơ
Esenin, đem lại cái nhìn trọn vẹn hơn về hồn thơ của “chàng trai Riadan”.
- Ý nghĩa thực tiễn: Bên cạnh đó, việc nghiên cứu giá trị nội dung của các biểu
tượng và những phương thức nghệ thuật thể hiện trong thơ trữ tình phong cảnh của
Esenin giúp trang bị thêm kiến thức cho việc tìm hiểu về tác giả, tác phẩm văn học
Nga. Đây là việc làm có ý nghĩa thiết thực với người làm công tác giảng dạy phổ
thông. Đặc biệt trong tình trạng hiện nay, việc nghiên cứu và học văn học nước
ngoài trong nhà trường còn gặp nhiều lúng túng, nhất là ở phương pháp tiếp cận.
Nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần trang bị phương pháp nghiên cứu cho giáo viên,
giúp ích cho việc giảng dạy văn học nước ngoài trong nhà trường.
7. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung đề tài
nghiên cứu của chúng tôi bao gồm 2 chương:
Chương 1: Một số biểu tượng nghệ thuật trong thơ trữ tình phong cảnh của
S.A.Esenin
Chương 2: Nghệ thuật xây dựng biểu tượng trong thơ trữ tình phong cảnh
của S.A.Esenin

6
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ TRỮ TÌNH PHONG CẢNH CỦA S.A.ESENIN

1.1. Những vấn đề chung về biểu tượng


Khái niệm biểu tượng
Thuật ngữ “Biểu tượng” có nguồn gốc từ thời cổ Hy Lạp gắn liền với tên
tuổi của Aristot. Trải qua các thời kì, khái niệm này ngày càng được hoàn thiện và
được nhìn nhận cách đa chiều.
Nhìn từ góc độ văn hóa, rõ ràng có thể thấy mỗi nền văn hóa được cấu thành
bởi nhiều yếu tố khác nhau và một trong những yếu tố đó chính là biểu tượng. Các
tác giả cuốn “Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới” cho rằng: “Mọi nền văn hóa đều
có thể xem như một tập hợp các hệ thống biểu tượng trong đó xếp hàng đầu là ngôn
ngữ, quy tắc hôn nhân, các quan hệ kinh tế, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo,…”
[2-tr.10]. Với cách hiểu như vậy, biểu tượng chính là một trong những cơ sở để xác định
đặc trưng của một nền văn hóa cũng như mối quan hệ của các nền văn hóa với nhau.
Xét từ góc độ ngôn ngữ, theo các nhà ngôn ngữ học: “Biểu tượng là một kí
hiệu tùy thuộc vào đối tượng mà nó biểu hiện do một luật lệ thông thường là một sự
liên tưởng chung” [12, Theo S.X.Pocxo]. Có thể nó, nhìn từ góc độ ngôn ngữ học,
biểu tượng là một sự vật có hình ảnh mang tính chất thông điệp được dùng để gợi ra
những ý nghĩa đa dạng ẩn sau nó.
Trở lại với góc độ văn học, nhìn từ đây có rất nhiều cách hiểu về biểu tượng.
Văn học là nghệ thuật ngôn từ với đặc trưng phản ánh hiện thực đời sống, thể hiện
tư tưởng, tình cảm của con người thông qua hình tượng nghệ thuật. Muốn làm được
như vậy, nhà văn phải mã hóa ngôn từ, tạo ra một thế giới nghệ thuật in đậm dấu ấn
của chủ thể sáng tạo với những hình tượng có giá trị. Những hình tượng nghệ thuật
này ra đời gắn với ý nghĩa biểu đạt của nó làm thành các biểu tượng nghệ thuật đa
nghĩa trong văn học. Các nhà nghiên cứu lý luận học cho rằng: Biểu tượng là
“phương tiện tạo hình và biểu đạt” có tính “đa nghĩa” trong tác phẩm văn học.
Trong lĩnh vực thơ ca, biểu tượng chính là một trong những phương tiện
diễn đạt hiệu quả. M.Bakhin coi biểu tượng là đặc trưng khu biệt quan trọng nhất
của tác phẩm trữ tình so với tiểu thuyết: “Chính sự vận động của biểu tượng thơ
ca sẽ giả định phải có một ngôn ngữ thống nhất, tương hợp trực tiếp với đối tượng
của mình” [1-tr.54].

7
Như vậy, dù được xem xét ở nhiều khía cạnh song hầu hết các nhà nghiên
cứu đều nhấn mạnh đến vai trò và giá trị của biểu tượng, đồng thời nêu bật tính đa
nghĩa của biểu tượng trong tác phẩm văn học.
Đặc điểm của biểu tượng nghệ thuật trong văn học
Văn học gắn liền với hiện thực nhưng không bao giờ là sự bê nguyện hiện
thực cuộc sống và trong tác phẩm bởi thế giới nghệ thuật trong tác phẩm là một thế
giới hư cấu, giống thật chứ không phải thật. Để tạo nên một thế giới như thế việc
xây dựng những biểu tượng nghệ thuật là điều không thể bỏ qua. Trong tác phẩm
văn học biểu tượng là những hình ảnh sự vật cụ thể, cảm tính bao hàm trong nó
nhiều ý nghĩa, gây ấn tượng sâu sắc đối với người đọc. Nó chính là sự mã hóa cảm
xúc, ý tưởng, là phương tiện diễn đạt cô đọng, hàm súc của nhà văn, có sức khai mở
rất lớn trong sự tiếp nhận của độc giả. Chúng ta có thể xác định biểu tượng nghệ
thuật trên một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, tính tất yếu giữa hai mặt của biểu tượng: Mối quan hệ giữa cái
biểu trưng và cái được biểu trưng của biểu tượng “mang tính có lý do, tính tất yếu”.
Chẳng hạn “dòng sông” thuộc hệ biểu tượng nước trong văn hóa nhân loại với
những đặc điểm bản thể mang tính vật chất như nguồn nước, dòng chảy liên tục,
thác nước,… từ ý nghĩa đó các nhà văn liên tưởng và đưa vào tác phẩm của mình
tạo nên dòng chảy cuộc đời, nguồn sống, nguồn sức mạnh, khả năng thanh tẩy,…
Qua đó, rõ ràng thấy được ở biểu tượng giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt luôn
tồn tại mối quan hệ về bản chất.
Thứ hai, biểu tượng luôn mang tính đa trị: Khác với các dấu hiệu, ký hiệu
thông thường luôn mang tính đơn trị thì biểu tượng lại mang tính đa trị. Nếu như các
dấu hiệu, ký hiệu thông thường tỉ lệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt là 1:1 (một
cái biểu đạt: một cái được biểu đạt) thì dung lượng giữa cái biểu trưng và cái biểu
trưng không được chia theo tỉ lệ này, chỉ một cái biểu đạt giúp ta nhận thức ra nhiều
cái được biểu đạt, hoặc đơn giản hơn… cái được biểu đạt dồi dào hơn cái biểu đạt.
Thứ ba, biểu tượng có tính sản sinh: Biểu tượng khác cơ bản với các dấu
hiệu, ký hiệu khác ở chỗ, ngoài chức năng thay thế, chức năng biểu hiện, chức năng
giao tiếp thì chức năng quan trọng nhất của biểu tượng là chức năng thẩm mĩ: sản
sinh ra các hình tượng nghệ thuật. Khi đi vào tác phẩm văn học, được gọi là một
biểu tượng khi một sự vật, hiện tượng nào đó tồn tại trong mình một ý nghĩa biểu
trưng nào đó, được cộng đồng, giai cấp, dân tộc thừa nhận, nó luôn hướng về một ý
nghĩa cố định nào đó, nhưng đồng thời lại tiềm ẩn khả năng mở ra những ý nghĩa
khác trong sự cảm nhận của con người. Hay nói khác đi, từ nghĩa gốc ban đầu, các

8
nhà văn sẽ xây dựng để tạo nên cho biểu tượng những biến thể loại hình. Chẳng
hạn, trong ca dao, con thuyền thường là biểu tượng cho người con trai, gắn với sự
chuyển động, tìm tòi - chí hướng ra đi tìm sự nghiệp:
“Thuyền về có nhớ bến chăng,
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.”
Thì cũng trong ca dao nó lại mở ra một lớp nghĩa mới gắn liền với người con
gái - đó là thân phận lênh đênh, trôi dạt:
“Thuyền em lựa bến cắm sào,
Em chờ phụ mẫu định nơi nào sẽ hay.”
Trong biểu tượng nghệ thuật thường đan xen giữa yếu tố truyền lớp (lớp
nghĩa cố định) và yếu tố cách tân (lớp nghĩa sản sinh). Chính sự đa dạng ấy khiến
cho việc xây dựng biểu tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học một mặt dễ thức
dậy những nỗi niềm từ ngàn đời trong tâm thức độc giả, mặt khác lại tạo nên cảm
hứng từ những điều mới lạ. Để giải mã một biểu tượng nghệ thuật, hoặc cảm thụ
một tác phẩm giàu tính biểu tượng sẽ phải đi từ những cái cụ thể như ngôn từ, các
thủ pháp nghệ thuật,… để tìm ra những cái hàm ẩn đằng sau những biểu tượng nghệ
thuật được xây dựng.
1.2. Biểu tượng vẻ đẹp thiên nhiên, con người Nga
Sergei Alexandrovich Esenin (1895-1925) là nhà thơ trữ tình nổi tiếng
của Nga, được mệnh danh là “thi sĩ của làng quê”. 30 năm tuổi đời của Esenin
trải qua bao thăng trầm, sóng gió. Song cuộc đời ngắn ngủi ấy không thể trói
buộc được nhà thơ vĩ đại luôn tha thiết với dân tộc và tổ quốc Nga. Đối với
Esenin nghệ thuật không phải là sự cầu kỳ của những nét văn hoa, mà cái quan
trọng nhất là ngôn ngữ. Bằng tài năng sử dụng ngôn ngữ kỳ diệu của mình,
Esenin - vị chủ soái của nhóm thơ hình tượng đã tạo nên trong thơ ca những
cách tân nghệ thuật độc đáo. Chính bản thân Esenin cũng đã từng khẳng định vị
trí quan trọng của hình tượng trong thơ của mình: “Trong thơ tôi, bạn đọc cần
chú ý tính cảm xúc và tính hình tượng mà nó đã từng chi phối các nhà thơ trẻ
tuổi. Không phải tôi mới nghĩ ra hình tượng này, nó đã từng và đang là cơ sở
tinh thần và cái nhìn Nga, nhưng tôi là người đầu tiên phát hiện và lấy làm nền
tảng trong thơ mình, nó sống trong tôi một cách hữu cơ, và niềm say mê nó là
cảm xúc của tôi. Đây chính là đặc điểm của thơ tôi” [13-tr.9].
Chính việc ý thức rõ vai trò quan trọng của hình tượng trong biểu đạt cảm
xúc trữ tình, Esenin đã mã hóa những hình tượng ấy để tạo nên những biểu tượng
nghệ thuật để độc giả thưởng ngoạn, buộc họ phải suy ngẫm, phải thức dậy cả

9
những suy tư và cảm nhận, lưu giữ trong lòng người những dư vị sống động. Chính
những biểu tượng ấy đã làm nên giá trị đặc sắc cho mỗi sáng tác của Esenin. Lật mở
những trang thơ trữ tình phong cảnh của Esenin có thể thấy các biểu tượng được
xuất hiện với tần số cao và vô cùng phong phú. Đó là biểu tượng cánh đồng, cây
bạch dương, ngôi nhà, ánh trăng, giọt sương, nhà thờ, mặt trời, ánh lửa,... Tất cả
những biểu tượng ấy được khơi gợi từ văn hóa dân gian, óc liên tưởng sáng tạo và
nghệ thuật trác việt của nhà thơ.
Các nhà thơ Nga ở mọi thời đại đều gắn bó chặt chẽ số phận cá nhân của
mình với vận mệnh nước Nga, với nhân dân Nga. Esenin từng khẳng định: “Thơ
trữ tình của tôi sống được bởi một tình yêu lớn - tình yêu đối với quê hương, đối
với Tổ quốc”:
Ôi nước Nga cánh đồng màu đỏ thắm
Và màu xanh ngã xuống giữa lòng sông
Tôi yêu đến vui sướng và đau khổ
Nỗi sầu thương hồ nước trải mênh mông.”
(THÚY TOÀN dịch)
Sinh ra cùng những “bài ca trên thảm cỏ”, thơ trữ tình của Esenin không
thể vắng bóng những biểu tượng nghệ thuật về phong cảnh thiên nhiên. Đó là vẻ
đẹp của một nước Nga giản dị, nguyên sơ nhưng cũng không kém phần huyền ảo
được sáng tạo bởi một thiên tài thơ có tình yêu sâu sắc với Tổ quốc, quê hương.
Trong tất cả những biểu tượng nghệ thuật xuất hiện trên trang thơ trữ tình phong
cảnh của Esenin thì biểu tượng cánh đồng, biểu tượng cây bạch dương, biểu tượng
ngôi nhà gỗ và một số biểu tượng khác như cánh rừng, con đường, dòng sông,…
là những biểu tượng tiêu biểu nhất cho thiên nhiên Nga tươi đẹp và bộc lộ cách
chân thực tâm hồn Nga, trái tim Nga nồng hậu, đượm tình.
Biểu tượng cánh đồng
Qua khảo sát trong trong tài liệu “Thơ Esenin” [4]. và 1 số tài liệu trên các
trang web thì tần xuất biểu tượng cánh đồng xuất hiện trong thơ Esenin là rất lớn.
Trong số hơn 130 bài thơ của ông mà chúng tôi tìm đọc được thì có tới trên 50 bài
thơ của ông có biểu tượng cánh đồng và tần số hình tượng này xuất hiện trong thơ
trữ tình phong cảnh của Esenin là 25/30 bài. Điều đó chứng tỏ rằng trong ý niệm
của nhà thơ, cánh đồng là một hình ảnh quen thuộc, gần gũi và rất giàu sức gợi cảm.

10
Để giải mã biểu tượng cánh đồng trong thơ Esenin, ta phải lý giải được ý
nghĩa biểu tượng của hình ảnh này trong hệ thống văn hóa nhân loại. Theo Wikipedia
“Cánh đồng là một khu vực đất đai rộng lớn ở vùng đồng quê hoặc ở khu vực ngoại
ô được sử dụng trong lĩnh vực một nông nghiệp để trồng trọt, chăn nuôi. Địa hình và
cấu tạo thổ nhưỡng của cánh đồng thường là đồng bằng xen lẫn với các con dốc
thoải, đất đai phong phú chất hữu cơ, thuận lợi cho trồng trọt” [18].
Theo “Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới”, cánh đồng mà mẫu gốc là
đồng bằng được coi là bình nguyên ánh sáng. “Đồng bằng là biểu tượng của
không gian, của mặt đất vô biên, nhưng với tất cả các ý nghĩa của chiều nằm
ngang, độc lập với chiều thẳng đứng. Khi dùng từ này để nói các bình nguyên trên
trời là để chỉ khoảng cách mênh mông vô tận, nơi các thần linh du ngự và các sứ
giả dẫn hồn cũng dẫn dắt những linh hồn chết lên đấy. Thần Mithra thường được
gọi bằng cái tên “chúa tể các đồng bằng”.... Theo quan niệm của các dân tộc
Celtes về thế giới: Đồng - là tên gọi riêng chỉ thế giới bình nguyên lạc thú. Tên
gọi này thường dùng để gọi xứ Ailen- mảnh đất này coi như thay thế cho địa đàng
“cánh đồng fal”. Đồng bằng được nhân cách hóa từ nữ thần Macha [2-tr.312].
Trong tiếng Hy Lạp cánh đồng được gọi là "agros" và tiếng Latin là "ager"
đều dùng để chỉ về một diện tích đất trồng có ranh giới rõ ràng (hành lang). Trong khi
đó ở Úc và New Zealand thì cánh đồng được gọi là "paddock" có nghĩa là nơi các gia
súc gặm cỏ và là không gian để các loại gia súc như bò, cừu chạy nhảy. Ở Việt Nam,
cánh đồng thường được biến đến với những cánh đồng lúa cò bay thẳng cánh được
hình thành từ những thửa ruộng [18]. Còn trong tiếng Nga cánh đồng được gọi là
“поле” [17]. Đây là lời bài hát “Cánh đồng Nga” được dịch ra Tiếng Việt:
“Tuyệt vời những cánh đồng lúa nước Nga
Đẹp sao giây phút trăng lên cao ánh tỏa vàng
Khi tuyết rơi lấp đầy niềm đau cũng dâng tràn
Và khi hạnh phúc, lúc sướng vui lòng tôi vẫn nhớ
Xiết bao đẹp tuyệt vời” [16].
Rõ ràng có thể thấy, biểu tượng cánh đồng không chỉ lưu dấu ấn mạnh mẽ
trong văn học Nga mà còn gắn bó sâu sắc với văn hóa đất nước này. Esenin xuất
thân từ một ngôi làng nhỏ thuộc tỉnh Riadan miền trung nước Nga. Đây là một
vùng quê thanh bình, tuyệt đẹp nằm bên bờ sông Ôka xanh biếc, đất đai phì nhiêu,
màu mỡ với những cánh đồng trải dài, dòng sông thơ mộng và khu rừng tuyệt đẹp.
Bởi vậy ông bị cuốn hút mãnh liệt bởi những vẻ đẹp đầy màu sắc của thiên nhiên
làng quê mà cánh đồng là một hình ảnh không thể bỏ qua.

11
❖ Cánh đồng - vẻ đẹp Nga
“Ôi, nước Nga thân thiết của tôi,
Nhà gỗ thông khoác áo choàng tượng Chúa...
Một màu xanh mắt ngắm nhìn thuê thỏa
Một màu xanh tít tắp tận chân mây.”
(THÚY TOÀN dịch)
Thiên nhiên trong thơ ông hoàn toàn không phải một nước Nga nông thôn cơ
khí hóa, điện khí hóa với máy cày, máy kéo mà là một nước Nga đồng ruộng cổ
xưa, phảng phất nét u hoài nhưng đẹp đến mê đắm. Những cánh đồng “xanh tít tắp
tận chân mây” cho “kẻ hành hương” được “ngắm nhìn thuê thỏa”.
Nhà thơ không chỉ ngắm nhìn, cảm nhận cánh đồng ở một trạng thái duy nhất
mà luôn đặt nó trong sự vận động và gắn với cuộc sống lao động của người dân:
“Cánh đồng đây đó hiện lên
Trần trụi nhiều mảng đen đen đất cày” [15].
Hay:
“Đồng ruộng gặt rồi, rừng trơ trụi
Mặt nước mờ hơi ấm, mù sương.”
(THÚY TOÀN dịch)
Trong những câu thơ trên, không phải là cánh đồng bát ngát “xanh tít tận
chân mây” nữa mà là cánh đồng “trần trụi” với những mảnh đen “đất cày”, là cánh
“đồng gặt” rồi trơ trụi. Nhưng dù ở trạng thái nào thì cánh đồng ấy vẫn thật đẹp.
Thay cho sự mênh mông, bát ngát, cánh đồng hẹp lại, chút xuống lá vàng cùng với
sương mù và khí ẩm từ mặt hồ dâng lên đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên tuyệt diệu.
Biểu tượng cánh đồng còn được Esenin khắc họa cách cụ thể, sống động qua
nhiều thời điểm trong ngày. Có cánh đồng lúc bình minh sáng sớm:
“Những lúa đồng vàng ánh giữa mù sương”
(THÚY TOÀN dịch)
Hay:
“Nơi bình minh nghiêng đổ nước hồng
Tưới đầm những luống dài bắp cải
Cây phong non ngửng đầu chới với
Bú dòng sữa mẹ, sữa màu xanh.”
(THÚY TOÀN dịch)
Trên cánh đồng, những “luống dài bắp cải” được bình minh rót lên giọt
“nước hồng” và những cây phong non đang “ngửng đầu chới với”. Cách sử dụng

12
màu xanh thật độc đáo: Màu xanh của những cây bắp cải, của cây phong non mới
mọc và của cả “dòng sữa mẹ” đã khiến cho không gian trên cánh đồng trở nên
tươi mát và thoáng đãng. Đặc biệt nghệ thuật nhân hóa “cây phong non ngửng đầu
chới với” để “bú dòng sữa mẹ” đã làm cho cảnh vật trở nên thật sống động và
đậm chất “người”.
Buổi chiều trên cánh đồng quê đẹp đến mê đắm khiến thi sĩ phải thốt lên:
“Tôi mê chiều nay lắm
Cánh đồng vàng yêu thương”
(TẾ HANH dịch)
Điểm nhìn được mở ra thật xa và rộng. Ánh ráng vàng của mây trời chiếu tỏa
xuống cánh đồng một màu vàng no ấm:
“Đã xế chiều. Hoàng hôn vẩy ánh vàng
Lên ruộng đồng sẫm tối”
(THÚY TOÀN dịch)
Và khi đêm về, vạn vật như tĩnh lại:
“Dòng sông lấp lánh bạc
Con suối lấp lánh bạc
Bạc lấp lánh cỏ hoa
Thảo nguyên thành bát ngát”
(TRẦN ĐĂNG KHOA dịch)
Dòng sông, con suối, cỏ cây trên cánh đồng như đắm mình trong sắc bạc của
ánh trăng. Trong cái tối tăm của đất trời, không gian mở rộng ra một cánh đồng bao
la, bát ngát.
Không chỉ dừng lại ở đó nét vẽ của Esenin còn đưa người đọc đến với một
bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc của cánh đồng qua các mùa trong năm. Sự xuất
hiện của cánh đồng trong thời khắc khởi đầu của một năm thật đẹp, thật ấn tượng:
“Khi xuân đập vỡ băng đầu
Sông hồi hộp chảy những ngày đầu tiên
Cánh đồng đây đó hiện lên
Trần trụi những mảng đen đen đất cày” [15].
Khi xuân đến, băng tan và dòng sông bắt đầu chảy cũng là lúc người dân
Nga cày đất khắp cánh đồng chuẩn bị cho một vụ gieo hạt mới đã làm nên một vẻ
đẹp thơ mộng rất riêng của cánh đồng Nga mỗi độ xuân đến:
“Cỏ non như lụa đầu nghiêng xuống.
Trời đất thơm lừng hương nhựa thông.
Ôi, đám cây rừng, ôi bãi ruộng -

13
Ngây ngất lòng ta say bước xuân.”
(THÚY TOÀN dịch)
Cả một cánh đồng sáng ngời, lung linh. Sự liên tưởng độc đáo khiến cỏ non
trở nên mềm mại như lụa biết nghiêng đầu đón xuân. Và trong cái không khí ấy
hương nhựa thông nồng nàn phả vào rừng cây, bãi ruộng. Tất cả tạo nên một cánh
đồng mùa xuân tuyệt diệu làm “ngây ngất” lòng người.
Khi hè tới, những cánh đồng “trần trụi” đất cày đã bước vào mùa thu hoạch:
“Đồng ruộng gặt rồi, rừng trơ trụi,
Mặt nước mờ hơi ấm, mù sương.”
(THÚY TOÀN dịch)
Sự thay đổi mùa trong thơ Esenin diễn ra thật tinh tế. Những cánh đồng vàng
trải dài tít tắp tạo nên bức tranh mùa thu vàng đặc trưng của nước Nga:
“Tôi mê chiều nay lắm
Cánh đồng vàng yêu thương
Gió trẻ cuốn vạt áo
Đến vai cây bạch dương”
(TẾ HANH dịch)
Trong thơ Esenin, mỗi mùa nước Nga lại thay một bức tranh thiên nhiên mới
và bức tranh nào cũng tuyệt đẹp. Mùa đông nước Nga được phủ tuyết trắng ngần và
cánh đồng cũng phủ phủ kín tuyết như ngàn con thiên nga trắng:
“Có thể không phải mùa đông ngoài nội
Mà thảo nguyên sà trắng cánh thiên nga.”
(THÚY TOÀN dịch)
Rất nhiều lần khi viết về cánh đồng mùa đông Esenin nhắc đến tuyết:
“Ôi cái sâu thăm thẳm đất cây rừng!
Ôi cái vui của ruộng đồng phủ tuyết!”
(THÚY TOÀN dịch)
Và:
“Bình nguyên tuyết, vầng trăng trắng toát
Mảnh đất quê vải liệm phủ trắng mình”
(THÚY TOÀN dịch)
Hình ảnh tuyết trên cánh đồng Nga rất phong phú, đa dạng bởi sự liên tưởng
độc đáo, sâu sắc của tác giả. Đọc những vần thơ ấy người đọc như lạnh toát nơi
sống lưng, buốt giá tới tận tâm can. Thiên nhiên trên cánh đồng màu đông đẹp
nhưng vô cùng khắc nghiệt với sự sống con người.

14
Và một nét rất đặc sắc trong thơ Esenin đó là việc sử dụng màu sắc cách hài hòa
và độc đáo. Trong bảng màu của Esenin lên tới con số 36 màu khác nhau thì hình
tượng cánh đồng xuất hiện với 6 màu. Trong thơ trữ tình phong cảnh của Esenin hình
tượng cánh đồng xuất hiện với 3 màu nổi bật là màu xanh, màu vàng và màu đỏ.
Dưới con mắt của Esenin - hoạ sĩ của đồng quê, cánh đồng mang một sắc
xanh trải dài ngút mắt:
“Theo lối mòn nát nhàu tôi tất tả
Ra bao la đồng ruộng trải ngát xanh.”
(THÚY TOÀN dịch)
Hay:
“Còn dưới màu xanh khắp thảo nguyên
Anh đào làn khói thở hơi mơ màng”
(THÚY TOÀN dịch)
Màu xanh là một gam màu lạnh, tượng trưng cho sự sống, sự bình yên và hy
vọng. Hơn nữa, cái màu của niềm tin ấy lại được trải rộng “tít tắp” khiến không
gian như mở rộng, gợi sự trầm tĩnh của làng quê dưới cái nhìn nhân hậu, dịu dàng
của nhà thơ. Cánh đồng màu xanh phải chăng chính là ước mơ về một nông thôn
thanh bình, yên ấm vẫn thường trực trong sâu thẳm nỗi buồn của Esenin?
Bên cạnh màu xanh, cánh đồng còn hiện lên với màu vàng tươi sáng:
“Tôi mê chiều nay lắm lắm
Cánh đồng vàng yêu thương”
(TẾ HANH dịch)
Khung cảnh cánh đồng trở nên thật mờ ảo, nên thơ:
“Những lúa đồng vàng ánh giữa mù sương”
(THÚY TOÀN dịch)
Màu vàng là màu của tin yêu, của hạnh phúc. Đặc biệt nó là gam màu ưa
thích trong bức tranh thiên nhiên của thi sĩ. Bởi đó cánh đồng vàng mà Esenin viết
chính là màu sắc huy hoàng, chói sáng của quê hương “Nước Nga vàng”
Nhưng dù vậy, màu vàng no ấm, và màu xanh hy vọng vẫn không thể che
lấp được nỗi buồn nhức nhối của cánh đồng mênh mông trong sầu thương:
“Ôi nước Nga cánh đồng màu thắm đỏ
Và màu xanh ngã xuống dưới lòng sông
Tôi yêu đến sướng vui và đau khổ
Nỗi sầu thương hồ nước trải mênh mông.”
(THÚY TOÀN dịch)

15
Hình ảnh cánh đồng đỏ thắm biểu trưng cho nước Nga nghèo, buồn nhưng rất
đẹp - một nước Nga cổ xưa chỉ còn tồn tại trong những ai hoài của một nhà thơ yêu tổ
quốc, yêu thiên nhiên say đắm. Sự kết hợp hài hòa màu sắc trong thơ mang lại một
bức tranh tuyệt đẹp khiến người đọc mãi nhớ nó và mãi còn run rẩy lên vì nó.
❖ Cánh đồng - tình yêu của nhà thơ
Trong các sáng tác của mình Esenin luôn đặt vào đó tâm hồn và tình cảm
của mình. Bởi vậy mà mỗi bài thơ của ông đều rất chân thực và sống động. Khi
viết về những bài thơ trữ tình phong cảnh, Esenin gửi gắm ở đó tình cảm say đắm
trước thiên nhiên Nga tươi đẹp và tấm lòng gắn bó sâu sắc với Tổ quốc Nga.
Là một người có tâm hồn rộng mở, ông dành một tình yêu mãnh liệt cho
cảnh sắc làng quê mình. Phải yêu, phải gắn bó lắm thì nhà thơ mới có thể chớp
được những khoảnh khắc tuyệt vời này của thiên nhiên trên cánh đồng:
“Nơi bình minh nghiêng đổ nước hồng
Tưới đầm những luống dài bắp cải
Cây phong non ngửng đầu chới với
Bú dòng sữa mẹ, sữa màu xanh.”
(THÚY TOÀN dịch)
Thiên nhiên trong thơ Esenin như có hồn và hòa quyện với con người. Con
người trong thiên nhiên, thiên nhiên trong tâm hồn của con người. Con người
trong thơ của Esenin đã hòa lẫn làm nên một cảm xúc đặc biệt, mạnh mẽ:
“Nhà gỗ thông khoác áo choàng tượng Chúa...
Một màu xanh mắt ngắm nhìn thuê thỏa
Một màu xanh tít tắp tận chân mây.
Như một kẻ hành hương từ xa đến,
Tôi ngắm nhìn mãi đồng ruộng của Người.
Bên lối rào le te quanh thôn xóm
Những cây phong gầy guộc lá reo vui.”
(THÚY TOÀN dịch)
Phần lớn những bài thơ được sáng tác trong những năm 1910- 1912 (Esenin
mới độ tuổi 15, 17) đều mang một vẻ đẹp trong sáng, tươi mới của một tâm hồn
nghệ sĩ nhạy cảm, nhìn cuộc sống với tinh thần lạc quan, tin tưởng nên ở bài thơ
nào cũng tràn ngập ánh sáng, niềm vui, sự thiết tha giao cảm với thiên nhiên.
Qua những bài thơ trữ tình phong cảnh của Esenin, người đọc sẽ thấy được
nhà thơ như giao cảm với thiên nhiên, cảm nhận thiên nhiên bằng tất cả các giác

16
quan của mình, bằng cả tâm hồn mình. Mỗi sự vật, sự việc tồn tại trong đời sống, từ
những hình tượng nhỏ bé trên cánh đồng...qua cảm nhận của nhà thơ đều trở nên
thân quen. Đúng như nhận định của Gorki: “Esenin không phải chỉ là một con
người mà còn là một đại phong cầm tạo hoá sinh ra hoàn toàn cho thơ ca, sinh ra
để diễn đạt nỗi buồn vô tận của đồng ruộng, để thể hiện tình yêu với tất cả những gì
có sự sống ở trên đời và khẳng định tình thương là điều xứng với con người hơn tất
cả mọi điều” [8-tr.5].
Tình yêu quê hương đất nước là nguồn mạch cảm hứng chi phối toàn bộ
sáng tác của Esenin. Xuôi theo trang viết của ông, ta bắt gặp những câu thơ buồn
đến não lòng về cái nghèo của quê hương. Đó là nỗi băn khoăn lo lắng cho vận
mệnh, tương lai của đất nước. Nga từ một nước nông nghiệp chuyển sang giai đoạn
sắt thép nhưng chính những bàn tay sắt đã thay đổi làng quê, phá bỏ những giá trị
tốt đẹp. Nhà thơ cảm thấy đau đớn, xót xa khi miền quê thân yêu nay đã bỏ đi
những sinh hoạt, lao động ngày mùa cũng không còn rộn ràng, háo hức:
“Miền quê ta hoang vắng
Miền quê ta trống trơ,
Đồng cỏ chưa ai cắt,
Rừng cây và nhà tu.”
(THÚY TOÀN dịch)
Như vậy, Esenin đã rất khéo léo khi xây dựng hình tượng trong thơ của
mình. Qua những biểu tượng nghệ thuật trong thơ trữ tình phong cảnh của ông, đặc
biệt là biểu tượng cánh đồng, người đọc được bắt gặp một tâm hồn Nga thật đẹp với
tình yêu say đắm trước thiên nhiên cảnh vật nơi làng quê Nga và tình yêu đất nước
Nga nồng thắm.
Biểu tượng cây bạch dương
Nói đến thiên nhiên của nước Nga là nói đến xứ sở của những hàng bạch
dương rì rào và tha thướt, luôn đắm mình bên dòng sông trong xanh thẫm, với
những lời hát, câu ca văng vẳng sau những chiếc lá bạch dương xanh hiền hòa.
Cây bạch dương là loài cây thân gỗ kích thước từ nhỏ tới trung bình hay các
cây bụi, chủ yếu sinh sống trong khu vực có khí hậu ôn đới phương Bắc. Các lá đơn
có thể khía răng cưa hay có thùy. Quả là loại quả cánh nhỏ, mặc dù các cánh có thể
không thấy rõ ở một số loài. Bạch dương được coi là quốc thụ của Nga, nó được
sùng bái như là một nữ thần trong tuần lễ xanh vào đầu tháng sáu. Người ta gọi
nước Nga là xứ sở của bạch dương là vì lý do như vậy.

17
“Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới” định nghĩa “Bạch dương là cây hạng
nhất, cây thiêng liêng của các dân tộc Xibia. Đối với họ, nó thâu tóm tất cả các chức
năng của trục thế giới cũng như trục cột vũ trụ”, “Bạch dương đôi khi gắn với mặt
trăng, thậm chí cả mặt trời lẫn mặt trăng, trong trường hợp ấy nó là hai, lá cây cha
và cây mẹ, cây đực và cây cái. Nó đóng vai trò phù hộ hoặc nhiều phần hơn là công
cụ để ảnh hưởng của trời đi xuống cõi trần… cây bạch dương tượng trưng cho con
đường liên thông để cho những sức mạnh của trời xuống tới hạ giới và những khát
vọng của con người lên tới thượng giới. Là cây thiêng liêng ở Đông Âu và Trung Á,
đặc biệt là ở Nga, nó tượng trưng cho mùa xuân và người con gái” [2-tr.45].
Trong thơ Esenin biểu tượng cây bạch dương xuất hiện rất nhiều với đủ loại
hình vẻ và trở thành “nữ hoàng của cánh đồng”. Iuriprocusep cho rằng “Thơ của
Esenin chính là vương quốc của bạch dương”. Thật đúng là “ít có nhà thơ nào lại
dành những vần thơ đắm đuối tình yêu và tràn đầy những rung cảm thẩm mỹ như
Esenin đối với bạch dương Nga” [7-tr.173]. Bạch dương được Esenin ví đẹp như
một thiếu nữ trẻ trung với tâm hồn trinh bạch. Ông cũng gọi Tổ quốc mình là “xứ sở
của bạch dương gấm lụa”.
❖ Bạch dương - vẻ đẹp Nga
Xuất hiện trong thơ trữ tình phong cảnh của Esenin biểu tượng cây bạch
dương hiện lên qua nhiều hình dáng và tư thế khác nhau:
“Giống như cây nến lớn
Bạch dương đứng dăng hàng.”
(THÚY TOÀN dịch)
“Cây bạch dương mảnh mai soi bóng bên hồ”
“Cây bạch dương màu trắng
Bên cửa sổ nhà tôi”
(ĐOÀN MINH TUẤN dịch)
“Tôi chỉ muốn ôm vào, ghì sát
Những ngực trần trắng mịn của bạch dương”
(NGUYỄN VIẾT THẮNG dịch)
Cây bạch dương xào xạc cành lá trong đêm trăng mùa xuân, cây bạch dương
ngực trần mịn trắng thơm ngát khiến thi nhân muốn ghì vào lòng, cũng có khi cây
bạch dương là cây nến trắng mền cao vút, là dòng sữa ngọt ngào, trong lành đang
phun trào giữa trời cao.
Khi vạn vật chào đón một ngày mới thì: “Cây bạch dương mơ màng ngái
ngủ khi bình minh lên”. Esenin thật tinh tế và sống động biết bao khi ví bạch dương
đang “mơ màng ngái ngủ”. Ta như bắt gặp hình ảnh hàng bạch dương trước cửa
nhà ẩn hiện trong làn sương buổi sớm.

18
Khi chiều xuống, bạch dương khoác lên mình tấm áo mới khiến cho tâm hồn
thi sĩ mê đắm:
“Tôi mê chiều nay lắm
Cánh đồng vàng yêu thương
Gió trẻ cuốn vạt áo
Đến vai cây bạch dương”
(TẾ HANH dịch)
Hình ảnh cây bạch dương càng đẹp hơn, lung linh hơn với những ngọn nến
to trong đêm xuống:
“Đêm dịu dàng ấm áp
Như mùa đông bên lò
Hàng bạch dương đứng sáng
Như những ngọn nến to”
(ĐOÀN MINH TUẤN dịch)
Hình ảnh cây bạch dương lại một lần nữa xuất hiện khá đặc biệt trong cảm
xúc và trí tưởng tượng của nhà thơ. Hình ảnh bạch dương không còn trơ trọi phủ
đầy tuyết trắng mà nó trở nên tươi sáng hơn với sắc màu của ngọn nến. Cây bạch
dương trở nên cứng cỏi gắn trắc. Nó mang vẻ đẹp tươi sáng của thiên nhiên “đứng
sáng”. Esenin rất linh hoạt trong việc vận dụng hình ảnh thiên nhiên bằng cảm xúc
của mình. Đó là sự vận dụng khéo léo, tài tình, tạo nên hình ảnh cây bạch dương
cứng trắc nhưng có chút gì hơi miềm yếu, bởi sự so sánh hàng“bạch dương đứng
sáng” như những “ngọn nến”. Đêm xuống hàng bạch dương càng trở nên xanh
thẫm, không chỉ là màu xanh của lá mà là của cả thiên nhiên đất trời. Thông qua
cảm xúc và trí tưởng tạo hình của nhà thơ, hàng bạch dương trở thành những cây
nến to đứng sáng tạo nên một hình ảnh yên bình, ấm áp. Esenin đang vẽ lên bức
tranh thiên nhiên mà hình ảnh trung tâm là cây bạch dương tuyệt đẹp, đồng thời
cũng dự báo hình ảnh đẹp đẽ này sẽ lụi tàn nhanh nếu bàn tay con người cứ vô tình
cày xới lên những giá trị đẹp của thiên nhiên. Con người phải che chở, bảo vệ thiên
nhiên như bảo vệ những cây nến lung linh yếu ớt ấy để thiên nhiên mãi luôn giữ
được giá trị sự sống.
Nếu như biểu tượng cánh đồng luôn song hành trong bức tranh bốn mùa của
nước Nga tươi đẹp thì biểu tượng cây bạch dương cũng hiện lên thật đẹp với thời
gian. Mùa xuân bạch dương xum xuê cành lá:
“Lào xào trong lá êm đềm bạch dương.”
(XUÂN DIỆU dịch)

19
Mùa hè bạch dương hòa mình trong gió:
“Gió trẻ cuốn vạt áo
Đến vai cây bạch dương”
(TẾ HANH dịch)
Khi thu về bạch dương hiện lên trong nỗi nhớ với những câu hát dân ca của
người dân ca, của người dân lao động và tiếng hát reo vui của thôn xóm ấm no:
“Dưới bóng cây bạch dương ai đứng hát xa vời
Giữa mùa thu âm thanh sao quen thế” [14].
Bức tranh mùa đông trên nước Nga luôn hiện lên thật đẹp với những cây
bạch dương trụi lá, phủ đầy tuyết với vẻ đẹp trắng sáng:
“Cây bạch dương trắng muốt
Bên cửa sổ nhà tôi
Tuyết ôm trùm cành vắng
Như bạc phủ sáng ngời”
(ĐOÀN MINH TUẤN dịch)
Hình ảnh cây bạch dương lại đi song hành cùng ngôi nhà. Chứng tỏ,
Esenin không thụ động ngắm nhìn cây bạch dương cận cảnh, mà nhà thơ nhìn
một cách bao quát, chi tiết. Từ đó, thông qua cây bạch dương nhà thơ có thể
nhận thấy ngay sự chuyển màu của tự nhiên. Mùa đông đến tuyết trắng như
những mái tóc bạc phơ phủ đầy trên những cành tơ trụi lá. Nhưng hình ảnh đó
không mất đi vẻ đẹp quyến rũ của thiên nhiên mà trở nên lung linh, “sáng ngời”,
êm đẹp.
Đặc biệt, trong thơ trữ tình phong cảnh của Esenin, bạch dương thường hiện
ra với màu trắng. Song đó không phải là màu trắng giản đơn mà là màu trắng lung
linh của “thân cây nến trắng mềm”. Màu trắng vừa nói lên vẻ đẹp trong trắng thanh
khiết của bạch dương. Có khi thi sĩ dùng màu trắng hai lần trong bốn dòng thơ để
nói lên vẻ đẹp của bạch dương:
“Cây bạch dương màu trắng
Bên cửa sổ nhà tôi
Tuyết ôm trùm cành vắng
Như bạc phủ sáng ngời”
(ĐOÀN MINH TUẤN dịch)
Điều đó đủ thấy rằng, trong thơ trữ tình phong cảnh, Esenin đã có dụng ý
nghệ thuật nhất định dùng màu trắng để miêu tả vẻ đẹp của bạch dương khiến bạch
dương hiện lên với vẻ đẹp ngời ngời, không lẫn tạp.

20
❖ Bạch dương - con người Nga
Là một nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, yêu quê hương, yêu con người lao
động của quê hương. Cho nên, khi đứng trước hàng bạch dương khỏa trần trong gió
cùng những chiếc lá của bạch dương cứ đu đưa cũng làm cho nhà thơ liên tưởng
đến những chàng trai, cô gái nơi làng quê:
“Ôi đẹp quá nước trong phẳng lặng
Máu nóng lên khi rét ngọt dịu dàng
Sao tôi muốn ôm ghì siết chặt
Những bạch dương thơm mát khỏa trần” [11-tr.49].
Dòng nước trong xanh phẳng lặng đã làm “ngọt dịu dàng” tấm lòng của thi
sĩ, một tấm lòng yêu thiên nhiên tha thiết. Tình yêu khát khao cháy bỏng của Esenin
như dòng “máu nóng lên” nhưng không dữ dội mà lại ngọt ngào quá đỗi. Đó là hình
ảnh “ngực bạch dương”, “khỏa trần”. Không chỉ hình ảnh cây bạch dương tạo nên
sự mạnh mẽ của sức sống thiên nhiên nơi làng quê mà còn những mùi hương của
bạch dương “thơm ngát” làm tô thắm thêm chất ngào ngạt của cuộc sống thanh bình
nơi làng quê êm ấm. Vì vậy cảm xúc của Esenin càng thêm mãnh liệt hơn khi đứng
trước thiên nhiên tươi đẹp, đứng trước những hàng bạch dương xanh ngút. Nhà thơ
không dấu được tấm lòng của mình, đã bày tỏ một cách chân thành cuồng nhiệt, dữ
dội. Bằng cái khao khát muốn được “ôm”, “ghì”, “siết”, “chặt” đã tạo nên một cảm
xúc dâng trào, của một trái tim chân thành muốn được giao cảm với thiên nhiên, với
đất trời của quê hương, đất nước.
Khi viết về Esenin ở cuốn “Văn học Nga trong nhà trường” Hà Thị Hòa
từng khẳng định: “Hình ảnh bạch dương trong thơ Esenin có một vẻ đẹp đầy sức
quyến rũ. Đó là sức quyến rũ của một cơ thể khỏe mạnh căng tràn sức sống được
Esenin cảm nhận qua từng bộ phận của cơ thể bạch dương, thân bạch dương, vai
bạch dương, ngực bạch dương, bàn chân xinh xắn của bạch dương, tiếng bạch
dương,... Trong sự liên tưởng của ông, bạch dương đẹp như người thiếu nữ trẻ
trung, trinh bạch” [7].
Quả vậy, trong thơ trữ tình phong cảnh, Esenin miêu tả bạch dương ở mọi
dáng vẻ, đường nét. Trước hết là dáng vẻ yểu điệu như vóc dáng mảnh mai của một
nàng thiếu nữ:
“Mái tóc xanh
Vòng ngực tròn thiếu nữ,
Ôi bạch dương, bạch dương mảnh dẻ
Cớ chi ngươi nhìn mãi xuống đầm?

21
Gió nói gì bên tai ngươi thì thầm?
Và cát nữa, cát nói điều gì vậy?
Hay ngươi muốn vầng trăng làm lược chải
Êm êm trái mái tóc - cây - cành?...”
(ANH NGỌC dịch)
Không gian bạch dương xuất hiện là không gian trữ tình, mênh mông và thơ
mộng. Ở đó, tạo vật được thổi hồn và mang những tâm tư tình cảm của con người.
Gió, cát như đang trò chuyện với bạch dương, vầng trăng cũng trở thành lược chải
trên mái tóc bạch dương. Còn bạch dương mảnh mai trong thân hình mảnh dẻ và
mái tóc xanh mềm mại cũng ẩn chứa nỗi niềm tâm sự, cũng nếm trải cái buồn, cái
bi như con người. Bạch dương được so sánh với người phụ nữ trẻ trung, duyên
dáng. Dưới con mắt thi sĩ, bạch dương đâu phải sinh thể vô hồn, mà cũng có rung
động thổn thức như trái tim người con gái khi yêu. Sức lôi cuốn ấy, bắt nguồn từ sự
rung động đích thực nơi con tim nhà thơ khi đứng trước thiên nhiên Nga đẹp huyền
thoại như tranh.
Thậm chí, đến những ngón tay bạch dương cũng đẹp như bàn tay của người
con gái. Nó thon thả, mềm mại và cũng thật điệu đà:
“Trên những cành tơ phấn
Tuyết men như đường diềm
Những ngón tay thon thả
Viền những đường đăng - ten.”
(ĐOÀN MINH TUẤN dịch)
Có thể thấy với tình yêu bạch dương tha thiết cùng tài năng nghệ thuật của
mình, Esenin đã xây dựng thành công biểu tượng cây bạch dương để khắc họa bức
chân dung của thiếu nữ nơi thôn quê Nga một cách thật đẹp, thật ấn tượng. Bạch
dương trở thành một biểu tượng mang tính thẩm mĩ rất đặc sắc trong thơ trữ tình
phong cảnh của Esenin.
❖ Bạch dương - tâm hồn Nga
Với thi sĩ Esenin, bạch dương không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn
mang linh hồn của tạo vật, của nước Nga. Trong thơ Esenin, bạch dương hiện ra
như một sinh thể có hồn, cũng mơ màng suy tư:
“Và cây bạch dương đứng
Trong giấc mơ âm thầm”
(ĐOÀN MINH TUẤN dịch)

22
Nhà thơ không chỉ yêu mà còn say đắm bạch dương như say đắm người tình.
Ông thú nhận rằng mình “phải lòng” bạch dương:
“Tôi chống việc đến dự ngày lễ thánh
Hồn phải lòng những chiếc lá bạch dương”
(ĐOÀN MINH TUẤN dịch)
Cảnh sắc thiên nhiên giữa trời đất bao la muôn màu muôn vẻ, đã làm say
đắm tâm hồn người thi sĩ yêu thiên nhiên mãnh liệt. Nhà thơ đã dành một khoảng
tâm hồn lớn cho thiên nhiên cho cây bạch dương. Nhìn những chiếc lá bạch dương
nhỏ nhắn xinh tươi, với màu xanh thẫm ngút ngàn đã làm cho Esenin “phải lòng”
say đắm. Đó là màu xanh đã làm cho nhà thơ rất đỗi tự hào, và gửi gắm niềm tin
yêu nơi cuộc sống của nước Nga yêu dấu ở tương lai.
Và Esenin càng yêu hơn con đường bạch dương Nga hiền hòa, đôn hậu:
“Ôi bạch dương Nga
Con đường bằng lối đi chật hẹp...” [11-tr.147].
Những hàng bạch dương đã phủ đầy những con đường và lối đi chật hẹp.
Hình ảnh cây bạch dương biểu trưng cho nước Nga ngày càng tràng đầy sức sống.
Phủ đầy màu xanh bạch dương thân yêu và bạc ngàn cánh đồng bạch dương Nga.
Dưới bóng hàng bạch dương là những câu hát xa vời và những câu ca dao
êm dịu. Nơi đất mẹ làng quê là những kỷ niệm xa xưa là những âm thanh quen
thuộc. Cũng chính dưới hàng bạch dương xanh tươi tốt, nó đã cất giữ bao kỉ niệm
của tuổi thơ, của những tình cảm chan hòa tình làng nghĩa xóm. Đã làm cho Esenin
không thể nào quên được dù bây giờ nhà thơ trở thành kẻ tha phương:
“Dưới bóng cây bạch dương ai đứng hát xa vời
Giữa mùa thu âm thanh sao quen thế
Lại những giọt lệ buồn... ôi bao nhiêu giọt lệ
Như nỗi lòng của kẻ tha hương” [11-tr.13].
Cây bạch dương là nơi ẩn chứa bao kỉ niệm nơi làng quê. Đó là những câu
hát dân ca của người dân lao động và tiếng hát reo vui của thôn xóm ấm no... Tất cả
những âm thanh ấy đã đi vào trong tâm thức tuổi thơ của nhà thơ và sẽ mãi là những
kỉ niệm không thể nào quên.
Thông qua biểu tượng cây bạch dương, chúng ta thấy được sự hòa huyện,
gắn bó giữa con người và thiên nhiên. Thiên nhiên là nơi để con người gửi gắm tình
thương nỗi nhớ. Mỗi hoạt động của thiên nhiên điều gắn với niềm vui, nỗi buồn và
những kí ức của con người. Esenin - một nhà thơ đa tài, đa cảm dù đi đến nơi đâu
nhưng trong lòng vẫn không thể nào quên những hình ảnh bạch dương êm đềm nơi
làng quê. Cây bạch dương trở thành nỗi nhớ trong lòng của kẻ tha phương.

23
Một số biểu tượng khác
Esenin là nhà thơ sinh ra cùng những bài ca trên thảm cỏ, bởi vậy ông dành
một tình cảm chân thành nhất cho mọi cảnh vật thiên nhiên tồn tại trên đời dù chúng
rất đỗi bình thường và giản dị. Bên cạnh những biểu tượng nghệ thuật nổi bật cho vẻ
đẹp Nga như cánh đồng, cây bạch dương vẫn còn rất nhiều những biểu tượng khác đã
đi vào thơ trữ tình phong cảnh của Esenin một cách sinh động và đầy sức sống.
Ngôi nhà gỗ là một biểu tượng như vậy. Theo “Từ điển biểu tượng văn hóa
thế giới” ngôi nhà “là biểu tượng mang tính nữ, mang ý nghĩa là nơi ẩn thân, là
người mẹ, là sự bảo vệ, là lòng mẹ” [2-tr.678]. Theo Bachelard, “ngôi nhà là con
người nội tâm, các tầng gác, tầng hầm và tầng áp mái tượng trưng cho các trạng
thái đa dạng của tâm hồn. Tầng hầm tương ứng với cõi vô thức, tầng áp mái tương
ứng với cõi cao thượng của tinh thần.” [2-tr.678].
Trong thơ Esenin, hình tượng ngôi nhà gỗ xuất hiện là trung tâm của bức họa
đồng quê, nổi bật giữa màu xanh của vườn tược, của cánh đồng, dòng sông, màu
xanh cây lá,... Theo kết quả khảo sát trên tài liệu “thơ Esenin” chúng tôi thấy biểu
tượng ngôi nhà gỗ xuất hiện tới 33 lần. Và có 15 bài trên tổng số 30 bài thơ trữ tình
phong cảnh của Esenin xuất hiện hình tượng ngôi nhà. Đây như một tín hiệu nghệ
thuật đặc sắc được nhà thơ xây dựng. Ngôi nhà gỗ trở thành biểu tượng về vẻ đẹp
vĩnh hằng của thôn quê mà mãi mãi nhà thơ ngưỡng mộ, yêu thương và gắn bó mật
thiết với cuộc sống của con người nơi làng quê Nga:
“Ôi nước Nga thân thiết của tôi ơi
Nhà gỗ thông khoác áo choàng tượng Chúa”
(THÚY TOÀN dịch)
Trong bức tranh bốn mùa của thiên nhiên thì có lẽ mùa đông trên nước Nga
là mê đắm nhất. Chính bởi lẽ đó mà hình tượng ngôi nhà gỗ được Esenin khắc họa
rất nhiều ở mùa đông:
“Ôi bão tuyết, đồ quỷ tha ma bắt
Đóng lớp đinh màu trắng xuống mái nhà”
(ĐOÀN MINH TUẤN dịch)
Hay:
“Trên mái nhà tuyết như cát long lanh

24
Ánh trăng thế chẳng còn gì để trách”
(ĐOÀN MINH TUẤN dịch)
Ánh trăng và ngôi nhà gỗ xuất hiện song hành với nhau trong ngòi bút miêu tả
thiên nhiên của Esenin. Điều này cho người đọc thấy được cảnh vật nơi làng quê rất
thanh bình và tĩnh lặng. Ngôi nhà và ánh trăng là hai hình ảnh đối xứng và tương phản
với nhau. Là hai hình ảnh tạo nên nét đẹp thơ mộng, huyền ảo. Mái nhà gỗ là nơi ấm áp
thân thương của thôn xóm, ánh trăng đem lại nét đẹp thanh bình của làng thôn. Ánh
trăng góp phần làm tăng thêm vẻ đẹp thơ mộng của ngôi nhà, nó soi rọi xóm thôn, cảnh
vật. Những hình ảnh ấy đã khắc sâu vào trong tâm hồn của của Esenin.
Nhà gỗ thông chính là quê hương, là tình yêu, là niềm thương, là nỗi hoài
nhớ khôn nguôi trong tâm hồn thi sĩ:
“Và tôi yêu căn nhà gỗ biết bao
Đau âm ỉ vết nhăn trên thân gỗ
Những đêm mưa bập bùng bên bếp lửa
Bài hát của chúng tôi bao hoang dại lạ kỳ”
(ĐOÀN MINH TUẤN dịch)
Nhà gỗ cũng chính là gia đình, là những người ruột mà thi sĩ yêu thương gắn
bó mà khi nghĩ về nó trong ký ức nhà thơ lại tràn ngập những kỉ niệm ngọt ngào suốt
thời gian sống bên cạnh ông bà, cha mẹ, các cậu và em gái. Thơ Esenin trở đi trở lại
các cụm từ “nhà nhỏ thân yêu”, “nhà gỗ hồn quê”, “ngôi nhà cha mẹ”… Là Tổ quốc,
là đất mẹ, là mái ấm gia đình, ngôi nhà gỗ đã đi vào cả ý thức lẫn vô thức của thi
nhân như một cõi bình yên nhất, nơi trú ẩn của trái tim đau khổ. Xây dựng biểu
tượng ngôi nhà gỗ với nhiều ý nghĩa Esenin một mặt đã thể hiện được một tình yêu
tha thiết với mảnh đất Nga, một mặt cho thấy ý thức của con người cá nhân.
-“Dù sao tôi vẫn là thi sĩ
Của ngôi nhà gỗ nhỏ vàng ươm”.
-“Ở đâu nhà của bố tôi
Tấm lưng còm sém nắng trời tháng, năm
Cát vàng chưa một dấu chân
Trước sân như thể tấm khăn của người
Ở đâu nhà của bố tôi?”
(NGUYỄN VIẾT THẮNG dịch)

25
Đặc biệt là hai câu thơ:
“Ánh sáng diệu kỳ vào buổi hoàng hôn
Xin cứ tỏa trên mái nhà của mẹ”
Tất cả hình ảnh, màu sắc, trạng thái của ngôi nhà gỗ đã góp phần dệt nên
một bức tranh phong cảnh đơn sơ mà đẹp đẽ: Ngôi nhà gỗ kiểu Nga quen thuộc rực
sáng dưới ánh hoàng hôn, một thế giới giản dị, thanh bình đẹp như trong truyện cổ
mà tuổi thơ của “chàng trai Riadan” từng trôi qua ở đó.
Song hành với ngôi nhà gỗ, xuất hiện đến 18 lần trong tổng số 30 bài thơ trữ
tình phong cảnh của Esenin, biểu tượng cánh rừng luôn gợi nhớ đến không gian
quen thuộc của thiên nhiên nơi làng quê Nga:
“Rừng mênh mông và nước mênh mang
Đôi cánh vẫy trong không gian vô tận
Những thế kỉ của người cùng năm tháng
Phủ sương mù không ánh sáng rọi soi”
Trong cuốn “Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới” các tác giả lí giải: “ Trong
chừng mực là biểu tượng của cuộc sống, cây rừng có thể coi như một sợi dây liên
hệ, một thứ trung gian giữa đất , nơi có thể cắm rễ, với vòm trời nơi ngọn cây nối
liền hoặc chạm tới.”[2-tr.786]. Và cũng nhấn mạnh: “Nhiều nhà thơ nhạy cảm về
tính hai mặt huyền bí của rừng, nơi sản sinh ra vừa sự lo lắng, vừa sự bình tâm, sự
ức hiếp và lòng thiện cảm, cũng như tất cả những biểu hiện mạnh mẽ của sự sống.”
[2-tr.786].
Như vậy, cánh rừng chính là biểu tượng cho thiên nhiên tươi đẹp, cho sức
sống mạnh mẽ của con người. Bởi đó, trong thơ trữ tình phong cảnh của Esenin
biểu tượng cánh rừng luôn bao la rộng lớn đem đến không gian vô tận cho cuộc
sống con người. Một bầu không khí thoáng đạt và trong lành biết bao. Thiên nhiên
đã gắn bó với con người bao đời, bao thế kỷ. Thiên nhiên là nơi bí ẩn, là sức lôi
cuốn diệu kỳ đối với con người nơi làng quê. Trước khung cảnh tươi đẹp của thiên
nhiên hữu tình, của những cánh rừng đầy màn sương rậm đã làm cho nhà thơ xao
xuyến, xúc động:
“Ôi cái sâu thăm thẳm đất cây rừng
Ôi cái vui của ruộng đồng phủ tuyết
Chỉ muốn đưa vòng tay ra ôm chặt
Những cái thân thuỳ liễu nặng yêu thương!”
(THÚY TOÀN dịch)

26
Cánh rừng là nơi hội tụ biết bao hình ảnh đẹp của thiên nhiên:
“Ở lại rừng gây mật
Những bầy ong không đi
Từ trên dãy núi xanh rầm rì
Ngọn thác tuôn vàng tươi khúc nhạc”[10, 30].
Đằng sau khu rừng là hoạt động của bầy ong gây mật, và những “dãy núi
xanh rầm rì” bởi những “ngọn thác tuôn vàng” thơ mộng như khúc nhạc ngày
xuân. Esenin đã đưa đến trước mắt người đọc cả một khung cảnh sống động về
trạng thái hoạt động của sự vật, sự việc tồn tại trong thiên nhiên vừa tươi vui vừa
gần gũi.
Cùng với hoạt động của vạn vật là cuộc sống sinh hoạt của con người. Ta
thấy hình ảnh ông lác gác tuần buổi đêm:
“Bên kia sông xa nữa
Chừng như sau bìa rừng,
Lão gác đêm ngái ngủ
Mõ tuần thảng thốt buông.”
(THÚY TOÀN dịch)
Bức tranh thiên nhiên có sự hòa hợp tuyệt vời giữa con người và vạn vật tạo
nên sự thanh bình, gắn bó thân thương khiến cho Esenin yêu tha thiết, yêu say đắm:
“Cỏ non như lụa đầu nghiêng xuống
Trời đất thơm lừng hương nhựa thông
Ôi đám cây rừng, ôi bãi ruộng
Ngây ngất lòng ta say bước xuân”
(THÚY TOÀN dịch)
Nhưng ẩn chứa sâu thẳm trong tình yêu của nhà thơ trước thiên nhiên cảnh
vật chính là nỗi buồn, nỗi lo về vùng quê nghèo khổ mà thân thương:
“Rừng không rầu rĩ, không reo hát,
Bóng đen như một mảnh khăn treo,
Một nỗi sầu đau tim xé nát...
Ôi, đất quê nhà, đau buốt sao!”
(THÚY TOÀN dịch)
Cảnh sắc thiên nhiên đều mang một nỗi buồn man mác. Cách mạng tháng
Mười thành công, trước sự thay đổi của quê hương Esenin thổn thức, thương nhớ về
nước Nga cổ xưa. Bởi vậy mà cảnh vật cũng như mang tâm trạng của con người.
Cánh rừng ‘không rầu rĩ, không reo hát” gợi một nỗi buồn vô định, rợn ngợp.

27
Giọng thơ cũng mang một nỗi buồn da diết. Tất cả đều thể hiện một tình yêu vô hạn
với nước Nga, đúng như lời nhận xét của nhà phê bình văn học Nga X.N.Txenxki:
Thơ Esenin là “nỗi buồn vô tận của đồng ruộng Nga và thiên nhiên Nga”.
Cùng với ngôi nhà gỗ, cánh rừng thì biểu tượng dòng sông trong thơ trữ
tình phong cảnh của Esenin cũng song hành, góp thêm nét vẽ tươi đẹp cho bức
tranh thiên nhiên. “Biểu tượng sông hay dòng nước chảy đồng thời là biểu tượng
cho khả năng của vạn vật, của tính lưu chuyển của mọi dạng thể (F. Schoun) của sự
phong nhiêu, của cái chết và sự đổi mới” [2-tr.829]. Bởi vậy dòng sông mang biểu
tượng cho thiên nhiên tươi đẹp:
“Gà gáy sau dòng sông
Nơi mục đồng canh giữ
Sáng lên từ đáy nước
Ba ngôi sao xa xôi
Sau dòng sông gà gáy” [11-tr.51].
Tiếng gà là sự báo hiệu ngày mới bắt đầu, cuộc sống của con người cũng bắt
đầu từ đó. Dòng sông chính là nơi bồi đắp phù sa cho ruộng đồng, bờ bãi, cho cuộc
sống ngày mùa thêm sinh sôi, no đủ. Và càng đẹp hơn nữa khi xuất hiện trên bức
tranh thiên nhiên ấy là hình ảnh “mục đồng” - những con người lao động nhỏ bé,
qua đó bộc lộ cuộc sống khó khăn, vất vả của người dân quê.
“Trên nước hồ hồng thắm
Lá vàng bay lộn nhào
Như một đàn bướm lượn
Bay đến tận trời cao”
(TẾ HANH dịch)
Mỗi dòng thơ như những nét vẽ sống động trong bức tranh thiên nhiên thu
vàng. Không còn là màu nước xanh biếc hay xanh trong mà dòng sông đã khoác lên
mình tấm áo mới qua sự liên tưởng đầy thú vị của Esenin: “nước hồ hồng thắm”.
Cái sắc màu tươi sáng ấy mang lại cảm giác yên bình, dịu nhẹ quá đỗi trong lòng
người. Và giống như một họa sĩ thiên tài, Esenin đã thêm cho bức tranh của mình
những nét vẽ rất động: Từng chiếc lá vàng nhẹ nhàng rơi xuống, chao liệng trên mặt
nước mà Esenin ví như đàn bướm đang bay lượn trong bồng trời. Hẳn phải yêu
thiên nhiên say đắm, phải ngắm nhìn thiên nhiên bằng cả trái tim, Esenin mới có thể
bắt chụp được khoảnh khắc tuyệt vời ấy.
Lý giải về ý nghĩa biểu tượng của dòng sông các tác giả cuốn “Từ điển biểu
tượng văn hóa thế giới” còn cho rằng: “Sự chảy xuôi dòng về đại dương là sự tụ

28
hợp nước, là sự trở về trạng thái bất phân… Sự ngược dòng hiển nhiên là sự trở về
Cội Nguồn thần thánh, với bản thể” [2-tr.829]. Chính vì thế dòng sông cũng mang
biểu tượng cho sự về nguồn của con người:
“Năm tháng đã chìm sâu vào dĩ vãng
Và bạn bè cũng theo bước khuất xa!
Chỉ còn dòng nước vẫn như xưa bận rộn
Sau cối xay cánh gió chảy rầm rì.”
(THÚY TOÀN dịch)
Đó chính là nỗi nhớ, là hoài niệm của nhà thơ về những điều xưa cũ. Năm
tháng đã qua đi, thời gian không lấy lại được, bạn bè - những người thân thương
cũng theo đó “khuất xa”. Và thi nhân ví mình như “dòng nước” vẫn giữ trọn mối
tình, ôm ấp bao kỉ niệm đã qua “vẫn như xưa bận rộn”. Vậy là Esenin không chỉ
ngắm nhìn thiên nhiên mà ông còn cảm nhận nó bằng tất cả mối chân tình của mình.
Thật đúng với tài năng của ông: “thi sĩ cuối cùng của làng quê”.
Có thể thấy, những biểu tượng nghệ thuật trong thơ trữ tình phong cảnh của
Esenin như: biểu tượng cánh đồng, biểu tượng cây bạch dương và một số biểu
tượng khác như ngôi nhà gỗ, cánh rừng, dòng sông,... đã góp phần tái hiện nên bức
tranh thiên nhiên tươi đẹp, hiền hòa nơi làng quê Nga. Thông qua lăng kính quan sát
thực tế của nhà thơ, tất cả những biểu tượng phong cảnh ấy hiện lên thật đẹp, thật
sống động và chân thực gắn với tình cảm chân thành của Esenin. Đó chính là tình
yêu tha thiết của thi sĩ với nhiên nhiên và đất nước Nga. Đó cũng chính là ước mơ
về một làng quê thanh bình, hạnh phúc luôn khắc khoải trong cõi lòng nhà thơ.
1.3. Biểu tượng đời sống văn hóa tinh thần Nga
Nga là một quốc gia của những tín đồ Chính thống giáo. Esenin được lớn
lên, được giáo dục trong bầu không khí của truyền thống gia đình Nga cổ truyền:
tuổi thơ ông sống ở gia đình nhà ngoại, cả ông ngoại và bà ngoại đều rất thích theo
đạo nên mỗi khi đi lễ ở nhà thờ đều mang cậu bé đi theo. Bởi vậy Esenin rất sùng
đạo, có niềm tin tôn giáo, rất tin vào Chúa và luôn yêu thương tất cả mọi vật trên
trái đất. Ông thích đọc sách về Chúa Giêsu, Mẹ Maria và sự tích các Thánh. Đặc
biệt, Esenin còn có khoảng thời gian học ở trường dòng tại Trường Sư phạm Nhà
Thờ. Chính thời gian học ở đây, ông đã được tiếp thu những tư tưởng, giáo lý của
đạo Chính thống giáo. Trong bản “Tự thuật” (tháng 10/1925) Esenin đã tóm lược
điều đó trong tiểu sử của mình : “Lên tám tuổi bà ngoại tôi mang tôi đi theo đến các

29
nhà tu, vì bà mà ở nhà tôi thường xuyên có những người hành hương trú ngụ.
Những bài thơ tôn giáo đủ loại được hát suốt” [4-tr.240].
Bởi vậy mà trong thơ của Esenin, đặc biệt là thơ trữ tình phong cảnh chúng
ta thường bắt gặp những hình ảnh tượng trưng, những môtip tôn giáo như Đức Chúa
Giêsu, Đức mẹ Maria, nhà thờ, thánh đường, gác chuông, hàng cây thánh giá,
những linh hồn chết,… Tuy không đề cập đến những giáo lý tôn giáo trong thơ,
nhưng qua những biểu tượng nghệ thuật, người đọc cũng cảm nhận được tình cảm
tôn giáo, đời sống tinh thần thánh thiện thuần khiết mà ông khao khát được sống.
Trong tất cả những biểu tượng đó, thì nhà thờ là biểu tượng xuất hiện với tần số cao
và tiêu biểu nhất cho tình cảm tôn giáo của Esenin.
Nhà thờ hay “đền thờ, thánh thất là chỗ ở của Chúa Trời trên thế gian, nơi
mà thần linh hiện diện trong thực tại. Cho nên mọi ngôi đền đều đặt ở thế thẳng
đứng với Thiên tòa tức là ở trung tâm thế giới. Các ngôi đền ở Jerusalem, Delphes,
Angkor,… là những trung tâm thế giới” [2-tr.299]. Trong quan niệm của tín đồ
Chính Thống giáo nói riêng “đền thờ cũng là hình ảnh của vũ trụ vĩ mô: đó vừa là
thế giới, vừa là con người. “Thân thể chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần”;
và ngược lại nhà thờ là thân thể của Thần Nhân: Thánh thể của Chúa Giêsu được
đặt nằm trên mặt phẳng hình Thánh giá của nhà thờ, mà bàn thờ là biểu thị trái tim.
“Khi nói về đền thờ Chúa có ý nói về thân xác người” [2-tr.299].
Trên những trang thơ của Esenin, ta thấy nhà thờ xuất hiện với mật độ dày
đặc trên khắp đất nước Nga:
“Bóng hoàng hôn là là sà xuống thấp
Trên mái tròn tầng tầng lớp nhà thờ”
(NGUYỄN VIẾT THẮNG dịch)
Sau những quả đồi, trên những triền dốc đều có bóng dáng nhà thờ:
“ Sau ngọn đồi, trong nhà thờ màu xanh”
“Tôi đã yêu bằng nỗi đau chim sếu
Tu viện uy nghi trên triền núi cheo leo”
(TẠ PHƯƠNG dịch)
Từ buổi sáng sớm khi bình minh vừa lên, những ngôi nhà thờ đã thu hút
được cái nhìn của Esenin:
“Nơi đó từ tinh mơ trên chóp các nhà thờ

30
Cát trời dần trở màu xanh ngắt”
(NGUYỄN VIẾT THẮNG dịch)
Đặc biệt, nếu xét theo những cảm nhận thông thường, hình ảnh nhà thờ - là
một biểu tượng gắn liền với sự uy nghi, xa lạ mà người ta phải đứng xa chiêm
ngưỡng. Nhưng qua con mắt của Esenin, hình tượng nhà thờ thật gần gũi:
“Vàng ươm những đống cỏ
Trông giống như nhà thờ”
(NGUYỄN VIẾT THẮNG dịch)
So sánh táo bạo đầy bất ngờ của Esenin đã gây một ấn tượng mạnh mẽ trước
mắt người đọc về những ngôi nhà thờ trên đất nước Nga. Sự trong trẻo, tươi mát
trong những vần thơ của “chàng trai Riadan” luôn thấp thoáng bóng nhà thờ:
“Ngày lễ thánh nhà thờ trên mỗi nẻo
Hương mật ong, táo chín tỏa ngất ngây”
(THÚY TOÀN dịch)
Hiện lên trong tâm thức Esenin, nhà thờ chính là biểu tượng của nước Nga
cổ xưa, nước Nga bằng gỗ:
“Ôi nước Nga thân thiết của tôi ơi
Nhà gỗ thông khoác áo choàng tượng Chúa”
(THÚY TOÀN dịch)
“Nước Nga là đất nước mang vác tượng Chúa” vì thế tôn giáo đi vào đời
sống tự nhiên và hết sức thân thuộc. Nước Nga Cơ đốc giáo không chỉ xét trên bình
diện con người mà cả các hình tượng thiên nhiên trong thơ trữ tình phong cảnh của
Esenin như cỏ cây, hoa lá, một lẽ tự nhiên cũng có “niềm tin tôn giáo”:
“Và không trao cho ai điều trói buộc
Không giã từ với giấc mộng dài lâu
Khi vang lên trên thảo nguyên thân thuộc
Lời nguyện cầu của cây vũ mâu”
(NGUYỄN VIẾT THẮNG dịch)
Và đến không gian cũng bao trùm một bầu không khí tôn giáo:
“Những đám mây được đem làm dấu Thánh
Rừng thông thở ra làn khói ngọt ngào”
(NGUYỄN VIẾT THẮNG dịch)

31
Khi bóng chiều đổ xuống, âm thanh của tiếng chuông nhà thờ nghe như thực
như mơ đưa ta về không gian làng quê thanh bình:
“Sau cổng vườn êm ả
Hồi chuông xa lịm dần”
(TẾ HANH dịch)
Nhà thờ là không gian tâm linh, nơi mà những con chiên đến cầu nguyện sự
an lành cho mình và cho người thân. Nơi những tâm hồn tội lỗi đến để sám hối và
mong được tẩy rửa những lỗi lầm mà mình gây ra. Cầu nguyện dường như là vô
thức trong mỗi con người khi vang lên tiếng chuông quen thuộc:
“Tiếng chuông vang trên làn bụi trắng
Để bàn tay làm dấu thánh tình cờ”
(NGUYỄN VIẾT THẮNG dịch)
Đối với người dân Nga, cầu nguyện không phải do bị áp bức bởi một thế lực
nào mà nó xuất phát từ lòng mộ đạo, từ niềm tin thiêng liêng về:
“Lễ phục sinh thiêng liên
Lễ giáng sinh thần thánh”
(NGUYỄN VIẾT THẮNG dịch)
Như vậy, trong cảm nhận của Esenin về tôn giáo nhà thờ chính là linh hồn
của nước Nga bằng gỗ, là nỗi hoài niệm về một nước Nga cổ xưa luôn thường trực
trong cõi lòng nhà thơ. Với Esenin tôn giáo không chỉ là sợi dây kết nối con người
với con người mà nó còn tạo ra sự liên hệ vô hình giữa con người với thiên nhiên.
Điều đó cho thấy tình yêu không giới hạn của Esenin.
1.4. Biểu tượng triết lý
Biểu tượng nghĩa địa - Thánh giá và triết lý tồn tại
Mang nặng trong tâm hồn mình cả bi kịch cuộc đời cá nhân lẫn bi kịch thời
đại lịch sử, Esenin thường tìm đến những hình ảnh bi đát đau thương để triết lý về
cuộc đời ngắn ngủi. Nghĩa địa với những cây Thánh giá là biểu tượng mang cảm
quan mệt mỏi và buồn thương về kiếp sống con người. Trong thơ trữ tình phong
cảnh của Esenin biểu tượng này không xuất hiện nhiều, nhưng giữa những vần thơ
cảnh sắc thiên nhiên nó cứ len lỏi vào như muốn gửi gắm một điều gì đó tha thiết,
khắc khoải. Bởi vậy, đây có thể coi là tín hiệu nghệ thuật có ý nghĩa hết sức đặc biệt
trong thơ Esenin.
Với quan niệm sống phải nhiệt thành và chân thành, dù yêu hay ghét cũng
phải sống hết mình nên cuộc của Esenin không mấy bình yên. Gần ba mươi tuổi nhà

32
thơ đã đi qua hết những đắng cay, điều tiếng, chính cuộc sống ấy là bi kịch khiến
nhà thơ luôn nghĩ đến cái chết:
“Đồng nội một mặt trăng màu trắng
Như vải liệm phủ lên bốn phía cuộc đời
Cây khoác áo tang tóc trong sương lạnh
Ai đã chết ở đây? Ai chết? Hay lại chính là tôi”
(NGUYỄN VIẾT THẮNG dịch)
Cái chết luôn hiện về khi nhà thơ mặc cảm về con người cá nhân mình với
chặng đường đời lầm lỗi cuộc sống vô tích sự. Sau Cách Mạng Tháng Mười Trong
liên tiếp những sự kiện xảy đến trong cuộc sống, khiến thi sĩ nhìn cảnh vật không
còn lãng mạn như trước. Ông bắt đầu nghĩ đến một “thiên đường” không phải trên
mặt đất. Lúc ấy những chữ thập ở nghĩa địa bỗng hoá thành những ngón tay chỉ lối
“thoát ly”. Câu thơ như một tiếng thở dài. Bài “Cỗ xe ngựa rão mòn lên tiếng
hát…” viết năm 1919 đã mở đầu bằng hình ảnh tương đối ảm đạm:
“Bên đường cái lại miếu thờ nối tiếp
Và những cây thánh giá đừng âu sầu”
(NGUYỄN VIẾT THẮNG dịch)
Hay ở một bài thơ khác ông viết:
“Không khí nghĩa địa ngột ngạt quá
Với những chữ thập đỏ trên đường”
(TẾ HANH dịch)
Nghĩa địa là nơi trú ẩn của linh hồn, nơi an nghỉ cuối cùng của mỗi con
người khi đã rũ bỏ bụi trần. Nhưng ở đó con người vẫn không được yên giấc ngàn
thu, cuộc chiến vẫn diễn ra :
“Đây là bãi tha ma!
Những cây thánh giá lắc lư
Tựa như người chết trong trận đánh giáp la cà
Những cánh tay cứng đờ giang rộng còn vật vã”
(NGUYỄN VIỆT THẮNG dịch)

33
Một cách nhìn cuộc đời thê thảm bi thương đúng như tâm trạng của nhà thơ
trong những năm tháng chiến tranh liên tiếp xảy ra.Từ cuộc cách mạng Tháng Mười
đến cuộc nội chiến đẫm máu. Những cây Thánh giá trên những nấm mồ gây cảm
giác ghê sợ đến nghẹt thở bởi sự tàn bạo khinh người:
“Có vẻ như muốn bóp cổ ai đó
Bằng bàn tay của thập ác nghĩa trang!”
(NGUYỄN VIỆT THẮNG dịch)
Cũng có lúc cây Thánh giá trông giống như đang cầu nguyện an ủi những
linh hồn bất hạnh:
“Lại nhìn thấy bên đường ngôi nhà nguyện
Và những cây Thánh giá nguyện hồn ai”
(NGUYỄN VIỆT THẮNG dịch)
Quang cảnh, không khí đã làm nhà thơ thêm thấm thía nỗi buồn đau. Bởi
một tình yêu đến xót xa về đất nước thân thương nghèo khổ đang tàn lụi dần trong
chiến tranh. Bất giác “tay bỗng tự nhiên đưa lên làm dấu”. Tác giả cầu nguyện cho
ai? Cho bản thân mình hay cho nước Nga trong thời giông bão? Khi mà nhìn lên
tháp nhà thờ không còn cây Thánh giá?
“Nơi cái chòi gỗ bạch dương của nhà thờ
Vút lên tháp chuông không còn cây Thánh giá.”
(NGUYỄN VIỆT THẮNG dịch)
Mang nặng trong tâm hồn cả bi kịch cuộc đời cá nhân lẫn bi kịch của thời
đại lịch sử, cái tôi tự thú Esenin thường tìm về những hình ảnh đau thương để triết
lý về cuộc đời, lẽ diệt sinh, về thân phận trần gian ngắn ngủi và về những bất trắc
của số phận. Biểu tượng nghĩa địa và cây Thánh giá chính là một hình ảnh như vậy,
mang đậm cảm quan mệt mỏi, buồn thương về kiếp sống, một dự cảm về lời tuyệt
mệnh bi thương trong tương lai.
Biểu tượng ánh trăng và triết lý về mối quan hệ giữa con người với
thiên nhiên
Trăng là hình ảnh đẹp của thiên nhiên và cũng là nguồn cảm hứng bất tận
của thi nhân. Trong 30 bài thơ trữ tình phong cảnh của Esenin, biểu tượng ánh trăng
xuất hiện trong 17 bài và mỗi lần xuất hiện trăng đều gắn với sự liên tưởng thú vị,
bất ngờ tạo ra những vẻ đẹp độc đáo, mang ý nghĩa biểu tượng cao.

34
Theo từ điển biểu tượng văn hóa thế giới “Trăng là một biểu tượng của các
nhịp điệu sinh học: là thiên thể lớn lên, nhỏ đi, rồi biến mất, có cuộc sống tuân thủ
quy luật của sự tiến triển, sự sinh thành và sự chết...trăng mang một số phận thống
thiết cũng như số phận con người... nhưng cái chết của nó không bao giờ là chết
hẳn....Việc mãi mãi quay lại hình dạng ban đầu đó, tính tuần hoàn bất tận đó khiến
trăng là thiên thể cầm nhịp tốt nhất cho sự sống. Nó kiểm soát tất cả các bình diện
vũ trụ chịu sự chi phối của quy luật tiến triển theo chu kỳ: nước, mưa, cây cối, sự
phì nhiêu...” “Trăng cũng là biểu tượng của thời gian trôi đi, thời gian sống động,
mà bằng các pha kỳ liên tiếp và đều đặn của nó, nó là thước đo. Trăng là thước đo
của vũ trụ...” [2-tr.936].
Trong thơ Việt Nam có rất nhiều liên tưởng hay về trăng: “Trăng tròn như
cái đĩa/ Lơ lửng mà không rơi”, “Trăng tròn như quả bóng”… Rồi có vầng trăng
nhỏ lệ thậm chí rớm máu trong thơ Hàn Mặc Tử và vô số vầng trăng tràn ngập trong
thơ của các thi nhân cũng như trong ca dao xưa. Đến với thơ trữ tình của Esenin,
vầng trăng cũng hiện ra với sự liên tưởng thú vị, bất ngờ, giàu tính biểu tượng triết
lý. Nổi bật nhất chính là triết lý về mối quan hệ hài hòa, gắn bó giữa con người với
thiên nhiên.
Trong mối quan hệ ấy, có lúc nhà thơ liên tưởng vầng trăng bị đóng vào xe
trượt như một chú ngựa con:
“Ôi, giữa cánh đồng rừng lảnh lót
Hôm qua chính tôi thấy trong sương
Trăng vàng bị đóng vào xe trượt
Ngoan ngoãn như là chú ngựa con”
(THÚY TOÀN dịch)
Vầng trăng như con thú nhỏ nhai cỏ thong thả đó là những đống rơm, rạ có
rất nhiều trên cánh đồng sau vụ mùa. Từ điểm nhìn độc đáo đó khiến tác giả chớp
được một cảnh tượng vô cùng kỳ thú:
“Mỉm cười trên đụn rạ
Nhai cỏ với mồm trăng”
(TẾ HANH dịch)

35
Thật không thể ngờ rằng sự liên tưởng của nhà thơ lại bay bổng và chính xác
đến vậy. Esenin chưa bao giờ chấp nhận sự dễ dãi trong cách dùng hình ảnh. Sự phóng
túng trong sáng tạo của ông không hề mâu thuẫn với chất lượng hình ảnh bởi chúng
luôn logic và hợp lý. Vầng trăng được liên tưởng giống con ngựa bị đóng vào xe trượt
tuyết, con bò nhai cỏ chính bởi góc nhìn kỳ thú của Esenin dành cho thiên nhiên.
Không thể kể hết sự liên tưởng của tác giả về hình ảnh trăng. Vầng trăng
được sơn bởi màu chanh trong sương tuyết:
“Màn sương xanh, tuyết trắng trải mênh mông
Ánh trăng sáng màu chanh thanh mảnh”
(ĐOÀN MINH TUẤN dịch)
Ánh trăng hiện lên với màu vàng: “Trăng vàng được đóng vào xe trượt” và
cả màu trắng khi nước Nga vào đông:
“Bình nguyên tuyết vầng trăng trắng toát
Mảnh đất quê vải liệm phủ trắng mình.”
(THÚY TOÀN dịch)
Nhưng điều đặc sắc ở hình tượng ánh trăng chính bởi vai trò nhân chứng cho
cuộc sống con người . Vầng trăng đang làm công việc của người lao động:
“Trên mái nhà vầng trăng đang kì cọ
Đôi sừng cong bằng một sắc biếc xanh”
(THÚY TOÀN dịch)
Độc đáo nào bằng hình ảnh trăng cọ vào mái rạ cố gắng lột ra cái vỏ bọc
màu xanh của mình. Vẻ đẹp tuyệt vời của phong cảnh làng quê Nga vừa bình dị vừa
hết sức bất ngờ, độc đáo. Qua đó ta cảm nhận được sự trong sáng, hồn nhiên trong
cái nhìn của Esenin cũng như trong tâm hồn của nhà thơ trước thế giới tự nhiên đầy
thơ mộng.
Thiên nhiên trong thơ ông mang vẻ đẹp hiền hòa, êm ả, thơ mộng của làng
thôn. Nơi đó có ánh trăng thanh tươi sáng soi chiếu khắp vùng quê, thôn xóm:
“Trăng mênh mông huyền diệu
Chiếu thẳng xuống mái nhà
Vẳng từ xa đâu đó

36
Họa mi cất tiếng ca.”
(ĐOÀN MINH TUẤN dịch)
Cảnh vật ban đêm trở nên trong sáng hơn với ánh sáng huyền diệu của ánh
trăng tỏa ra khắp mái nhà, xóm thôn. Cùng với ánh trăng lung linh tỏa khắp ruộng
đồng bờ bãi thì xa xa tiếng họa mi cất tiếng hót làm cho cảnh vật trở nên đặc sắc và
hữu tình hơn. Cảnh làng thôn vốn êm ả và nó càng êm ả hơn khi đêm về, chính sự
êm ả ấy đã tạo nên một vẻ đẹp nên thơ mà ở đó con người và thiên nhiên hòa hợp,
đượm tình.
Như vậy, biểu tượng trong văn học mở ra thế giới nghệ thuật của tác phẩm,
là yếu tố làm thức dậy những ý nghĩa ẩn sâu và cảm hứng mới lạ trong tác phẩm.
Những lý thuyết về biểu tượng là căn cứ để chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu, giải mã ý
nghĩa và chỉ ra những biểu tượng nghệ thuật đặc sắc trong thơ trữ tình phong cảnh
Esenin. Hệ thống biểu tượng trong thơ ông được xây dựng từ những hình ảnh chân
thực, bình dị như cánh đồng, cây bạch dương, dòng sông, ánh trăng, ngôi nhà,…
Nhưng lại có vai trò quan trọng trong sáng tác của Esenin, thể hiện tài năng thi ca
độc đáo của ông.

37
CHƯƠNG 2: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƯỢNG
TRONG THƠ TRỮ TÌNH PHONG CẢNH CỦA S.A.ESENIN

Nhà phê bình văn học Nga Bêlinxki từng viết: “Trong tác phẩm nghệ thuật,
tư tưởng và hình thức phải hòa hợp với nhau một cách hữu cơ như là tâm hồn và
thể xác, nếu hủy diệt hình thức cũng có nghĩa là hủy diệt tư tưởng và ngược lại
cũng vậy”. Ông còn viết: “Khi hình thức là biểu hiện của nội dung thì nó gắn chặt
với nội dung tới mức là nếu tách nó khỏi nội dung thì có nghĩa là hủy diệt bản thân
nội dung, và ngược lại, tách nội dung khỏi hình thức, có nghĩa là tiêu diệt hình
thức” [10-tr.256].
Hêghen cũng đã nói: “Nội dung chẳng phải là cái gì khác, mà chính là chuyển
hóa của hình thức vào nội dung và hình thức cũng chẳng gì khác hơn là sự chuyển
hóa của nội dung vào hình thức” [10-tr.257]. Như vậy, một tác phẩm văn học có giá
trị, phải là tác phẩm có nội dung và hình thức thống nhất với nhau thành một chỉnh
thể. Muốn nắm bắt giá trị của tác phẩm ấy, người ta phải xem xét toàn bộ giá trị nội
dung và hình thức nghệ thuật. Đồng thời phải tìm hiểu sự liên kết, tác động và chuyển
hóa lẫn nhau giữa chúng. Như vậy, hình thức giữ một vai trò quan trọng.
Đặc biệt, trong thơ hình thức càng có ý nghĩa.“Thơ đúng với danh nghĩa của nó
là sự thâm nhập biện chứng giữa tư tưởng và nghệ thuật, giữa nội dung và hình thức
trên bình diện thẩm mỹ. Trong thơ, tư tưởng và nghệ thuật, chất liệu của cuộc sống và
hình thức thơ tùy thuộc vào nhau trên một thể bình đẳng, trong một tổng thể làm cho
bài thơ trở thành một hữu thể sinh động”. [Dẫn theo Hoàng Trinh [14-tr.37]. Rõ ràng,
có thể thấy rằng, trong thơ nói riêng và trong tác phẩm văn học nói chung, những
khám phá về nội dung bao giờ cũng đi liền với khám phá về mặt hình thức, với
những phương thức nghệ thuật đặc sắc.
Việc sử dụng hình thức nghệ thuật vào thể hiện đối tượng trong văn học
chính là việc người nghệ sĩ trong quá trình sáng tạo đã sử dụng linh hoạt các biện
pháp và thủ pháp nghệ thuật. Đối với Esenin, khi xây dựng biểu tượng nghệ thuật
trong thơ trữ tình phong cảnh, ông đã sử dụng rất nhiều những biện pháp nghệ thuật
phong phú và đặc sắc. Trong phạm vi đề tài, chúng tôi sẽ đi vào làm rõ nghệ thuật
xây dựng biểu tượng trong thơ trữ tình phong cảnh của Esenin.
2.1. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ
Là một nghệ sĩ tài hoa, Esenin có cách cảm thụ và thể hiện rất sáng tạo các
hình ảnh, biểu tượng, làm cho thế giới nghệ thuật trở nên vô cùng sinh động. Thông
qua việc sử dụng và kết hợp ngôn ngữ cách tài tình, khéo léo mỗi biểu tượng nghệ

38
thuật trong thơ trữ tình phong cảnh được Esenin khắc họa rất có hồn, và chân thực
đôi khi pha chút ý tưởng mới lạ làm cho cảnh vật càng trở nên đẹp lạ thường, hấp dẫn
người đọc. Tất cả những từ ngữ phân tích dưới đây đều là những từ ngữ được trích
theo bản dịch thơ tiếng Việt được các dịch giả khéo léo sử dụng nhưng hẳn phải xuất
phát từ nguyên tác của Esenin đã lan truyền cảm xúc đến độc giả, kích thích trí tưởng
tượng của họ mới có thể tạo nên những bản dịch thơ hay và đặc sắc đến vậy.
2.1.1. Nghệ thuật sử dụng từ tượng hình
Ngòi bút điêu luyện của Esenin đã vận dụng khéo léo, tài tình hệ thống ngôn
ngữ giàu hình ảnh. Qua đó, bộc lộ tấm lòng yêu quê hương tha thiết, yêu thiên nhiên
say đắm. Đồng thời nói lên nỗi niềm và tâm sự của chính mình:
“Trên nước hồ hồng thắm
Lá vàng bay lộn nhào”
(TẾ HANH dịch)
Chỉ với hai dòng thơ ngắn gọn nhưng cảnh sắc thiên nhiên trên dòng sông,
cánh rừng hiện lên sống động, đầy màu sắc. Ở đó có màu hồng của nước hồ, có màu
vàng của lá cây. Từ “lộn nhào” là từ tượng hình hết sức độc đáo, mới lạ làm cho
cảnh vật không tĩnh mà rất động, rất có hồn. Quả thật, Esenin đã rất tinh tế khi chớp
lấy sự biến chuyển, vận động của sự vật, sự việc: Chiếc lá vàng lìa cành rơi lơ đãng
trên không trung rồi “lộn nhào” tiếp xuống mặt nước hồ hồng thắm.
“Dặm đường khấp khểnh chìm trong mộng
Bữa nay đồng bỗng thấy mơ mơ”
(THÚY TOÀN dịch)
Từ tượng hình “khấp khểnh” đã khắc họa rõ nét trạng thái của con đường, từ
“mơ mơ” gợi lên khung cảnh mờ ảo của cánh đồng. Kết hợp hai từ tượng hình ấy ta
sẽ thấy được sự bộc lộ mâu thuẫn trong lòng nhà thơ ví như sự “khấp khểnh” của
con đường. Con đường ấy “chìm trong mộng” cũng bởi lẽ nhà thơ chưa tìm ra cho
mình được hướng đi đúng đắn. Nhà thơ ví mình là cánh đồng “mơ mơ” ngày hôm
nay đã tìm thấy ánh sáng mới, thấy con đường mới.
Hay qua một bài thơ khác, con đường hiện lên trong mắt của nhà thơ với ánh
sáng diệu kỳ đẹp “lung linh”:
“Tôi mơ thấy tuyết đầu mùa rơi xuống
Hàng linh lan thắp lửa cháy trong tim
Buổi chiều xanh nến sao trời muôn ngọn
Soi đường tôi những đốm sáng lung linh” [11-tr.49].

39
Bức tranh thiên nhiên hiện lên với rất nhiều hình ảnh đẹp với đủ màu sắc
trạng thái của sự vật, sự việc “tuyết đầu mùa rơi xuống”, “linh lan thắp lửa cháy”,
“Buổi chiều xanh nến sao trời muôn ngọn” đặc biệt là hình tượng con đường được
chiếu sáng bởi “những đốm sáng lung linh”. Từ “lung linh” gợi lên cho người đọc
hình ảnh một con đường thật đẹp, thật rạng ngời tràn đầy ánh sáng. Đặc biệt, ánh
sáng đó không bất động mà cứ lấp lánh, lúc ẩn lúc hiện tạo nên vẻ đẹp quyến rũ của
con đường. Đồng thời thể hiện sự ngợi ca vẻ đẹp quê hương của nhà thơ.
Ngay cả khi miêu tả hình tượng cánh đồng đã gặt thiên nhiên cũng đầy ắp
những trạng thái, màu sắc của vạn vật đất trời và Esenin đã thật tinh tế chớp lấy vẻ
đẹp ấy:
“Đồng ruộng gặt rồi, rừng trơ trụi
Mặt nước mờ hơi ấm, mù sương
Khuất dần sau màu lam vạt núi
Vầng dương lặng lẽ bánh xe lăn.”
(THÚY TOÀN dịch)
Bốn dòng thơ bảy chữ nhưng đầy ắp những hình tượng: Có cánh đồng, cánh
rừng, có sương mù, khí ẩm, có dòng sông, đồi núi và có cả mặt trời. Người đọc bắt
gặp sự thay đổi của hình tượng: Không còn những “cánh đồng lúa xanh thắm da
trời” mà thay vào đó là cánh đồng đã gặt, cánh rừng cũng thay đổi trút xuống lá
vàng, mặt hồ thì sương mù và khí ẩm phủ lên tạo nên từng lớp “dâng dâng”, sau
núi là một màu xanh thẳm, mặt trời thì cứ âm thầm trôi đi, tất cả đều gợi lên hình
ảnh đẹp của thiên nhiên trên cánh đồng. Từ “dâng dâng” là từ tượng hình gợi lên
hình ảnh mới lạ của mặt hồ, đó sự chuyển động một cách nhẹ nhàng, hình khối. Chỉ
một từ láy “dâng dâng” mà phong cảnh mặt hồ vào buổi chiều đã hiện lên trong thơ
Esenin rất đẹp, rất phong cảnh thiên nhiên Nga.
2.1.2. Nghệ thuật sử dụng từ tượng thanh
Nghệ thuật tượng thanh cũng được Esenin sử dụng rất thành công khi xây
dựng những biểu tượng trong thơ trữ tình phong cảnh. Hãy đọc những câu thơ sau
của ông:
“Ôi, giữa cánh đồng rừng lảnh lót”
(THÚY TOÀN dịch)
“Khi thảo nguyên yêu thân ngân réo rắt
Tiếng nguyện cầu của rừng cỏ đuôi chồn”
(THÚY TOÀN dịch)

40
Dường như nhà thơ đang giãi bày tâm tư, tình cảm của mình đối với mọi sự
vật, sự việc nơi làng quê. Âm thanh “réo rắt” của thảo nguyên thân yêu, tiếng
“lảnh lót” của cánh đồng rừng khiến người đọc có thể cảm nhận ngay được nỗi
buồn của thiên nhiên và của cõi lòng nhà thơ. Mượn hình ảnh, âm thanh của thiên
nhiên để nói lên tâm trạng của con người - tâm trạng buồn cho làng quê nghèo khó.
Hay những khúc hát của thùy dương trên cánh rừng:
“Rừng giá lạnh không buồn không âm điệu
Khăn bóng chiều rũ xuống đỉnh rừng thông
Khúc hát thùy dương rỉ rắc cõi lòng
“Ôi quê hương tôi nỗi buồn lưu cữu” [11-tr.50].
Cả một cánh rừng giá lạnh lúc chiều xuống xâm lấn cõi lòng nhà thơ. Trong
tâm trạng buồn nhớ quê hương của nhà thơ thì khúc hát của cây bạch dương tạo nên
một âm thanh đau nhói trong lòng “rỉ rắc”. Từ tượng thanh “rỉ rắc” gợi lên tâm
trạng buồn của thiên nhiên và của chính cõi lòng nhà thơ - “nỗi buồn lưu cữu” luôn
day dứt trước cái nghèo, cái khổ của quê hương.
Ngay cả một âm thanh đơn giản cũng làm cho nhà thơ thương mến:
“Tôi yêu tiếng rì rào dòng nước xiết
Và ánh sao trên ngọn sống chói chang
Một nỗi đau ngọt ngào như hạnh phúc
Một nhân dân lòng nhân hậu dịu dàng.
Tôi yêu tiếng rì rào dòng nước xiết.”
(THÚY TOÀN dịch)
Mượn hình ảnh, âm thanh của thiên nhiên để nói lên tâm trạng buồn vui của
mình, đó là tâm trạng buồn cho làng quê nghèo khó. Esenin yêu chân thành một dân
tộc hiền hòa. Vì vậy âm thanh của tiếng nước chảy “rì rào” là âm thanh của quê
hương, là tiếng lòng của quê hương. Đồng thời cũng là âm thanh, là tiếng nói của
nhà thơ, là tấm lòng yêu quê hương chân thành. Esenin là nhà thơ dân tộc bởi
“Tiếng hát của ông là tiếng lòng của dân tộc Nga”.
2.1.3. Nghệ thuật sử dụng từ loại
Bên cạnh việc sử dụng những hình ảnh mới lạ qua nghệ thuật tượng hình,
tượng thanh, khi xây dựng biểu tượng nghệ thuật trong thơ trữ tình phong cảnh,
Esenin còn đặc biệt sử dụng nghệ thuật từ loại. Qua khảo sát 3 trong số rất nhiều bài
thơ trữ tình phong cảnh của Esenin ta sẽ thấy sự xuất hiện rất cao của từ loại trong
thơ gắn liền với sự thể hiện niềm vui, nỗi buồn của ông trước thiên nhiên và quê
hương yêu dấu:

41
“Cây bạch dương trắng muốt
Bên cửa sổ nhà tôi
Tuyết ôm trùm cành vắng
Như bạc phủ sáng ngời
Trên những cành tơ phấn
Tuyết men những đường diềm
Những ngón tay thon mở
Viền những đường đăng ten
Và cây bạch dương đứng
Trong giấc mơ âm thầm
Những tinh thể cháy sáng
Trong lửa vàng mênh mông
Ánh mặt trời mùa đông
Bò quanh cây chầm chậm
Lại rắc thêm lớp bạc
Mới tinh khôi trên cành”
(ĐOÀN MINH TUẤN dịch)
Bài thơ có 7 động từ: “ôm trùm”, “phủ”, “mở”, “đứng”, “cháy”, “bò”,
“rắc”; có 17 danh từ: “Cây bạch dương”, “cửa sổ nhà tôi”, “Tuyết”, “cành”,
“cành tơ”, “tuyết”, “đường diềm”, “ngón tay”, “đường đăng - ten”, “cây bạch
dương”, “giấc mơ”, “tinh thể”, “lửa”, “mặt trời”, “mùa đông”, “cây”, “cành” và
có 10 tính từ: “mầu trắng”, “vắng”, “sáng ngời”, “phấn”, “thon”, “âm thầm”,
“sáng”, “vàng”, “chầm chậm”, “mới tinh khôi”. Bài thơ khắc họa hình tượng cây
bạch dương có tổng 80 chữ thì Esenin sử dụng đến 57 chữ là các từ loại danh từ,
động từ, tính từ. Rõ ràng có thể thấy Esenin đã sử dụng triệt để tác dụng nghệ thuật
của từ loại vào xây dựng biểu tượng nghệ thuật trong thơ. Qua những từ loại ấy,
Esenin đã diễn tả rõ nét tất cả trạng thái, tính chất và màu sắc của cây bạch dương,
đồng thời thể hiện tình yêu chân thành của nhà thơ dành cho thiên nhiên cho quê
hương, đất nước.
Trong một bài thơ khác của Esenin, khi khắc họa biểu tượng cánh đồng nghệ
thuật sử dụng từ loại cũng thể được thể hiện rõ nét:
“Đồng ruộng gặt rồi, rừng trơ trụi
Mặt nước mờ hơi ấm, mù sương
Khuất dần sau màu lam vạt núi
Vầng dương lặng lẽ bánh xe lăn.

42
Dặm đường khấp khểnh chìm trong mộng.
Bữa nay đồng bỗng thấy mơ mơ:
Chẳng còn phải đợi chờ mấy nữa
Mùa đông tóc bạc lại sắp về.
Ôi, giữa cánh đồng rừng lảnh lót
Hôm qua chính tôi thấy trong sương:
Trăng vàng được đóng vào xe trượt
Ngoan ngoãn như là chú ngựa con.”
(THÚY TOÀN dịch)
Bài thơ trên xuất hiện 11 động từ như: “gặt”, “khuất”, “lăn”, “chìm”,
“thấy mơ mơ”, “đợi chờ”, “về”, “lảnh lót”, “thấy”, “đóng” 16 danh từ: “đồng
ruộng”, “rừng”, “mặt nước”, “sương”, “núi”, “vầng dương”, “bánh xe”,
“đường”, “đồng”, “mùa đông”, “cánh đồng rừng”, “tôi”, “sương”, ‘trăng”, “xe
trượt”, “chú ngựa con” Và 10 tính từ: “trơ trụi”, “mờ hơi ấm”, “mù”, “màu lam“,
“lặng lẽ”, “khấp khểnh”, “bạc”,”vàng”, “ngoan ngoãn” .
Đây là bài thơ miêu tả một cách đặc sắc hình ảnh những cánh đồng đã gặt.
Bằng cách sử dụng nhiều danh từ, động từ, tính từ cho ta thấy Esenin đã dùng tên
của sự vật, sự việc và trạng thái màu sắc của thiên nhiên để nói lên cái động của
cánh đồng đã gặt. Dùng cái tĩnh để diễn tả cái động thể hiện được cá tính sáng tạo
với nhiều ý tưởng mới lạ của Esenin khi xây dựng biểu tượng nghệ thuật. Hay trong
một bài thơ khác:
“Bình nguyên tuyết, vầng trăng trắng toát
Mặt đất quê vải liệm phủ trắng mình.
Và bạch dương choàng áo tang đứng khóc.
Ai qua đời? Ai chết! Chính tôi chăng?”
(THÚY TOÀN dịch)
Chỉ với 4 dòng thơ, Esenin đã sử dụng 6 động từ như: “phủ”, “choàng”,
“đứng”, “khóc”, “qua đời”, “chết”; 9 danh từ: “bình nguyên tuyết”, “vầng
trăng”, “mặt đất”, “vải”, “mình”, “bạch dương”, “áo tang”, “ai”, “tôi” Và 2
tính từ “trắng toát”, “trắng”.
Đây là một bài thơ khắc họa rõ nét nỗi buồn của nhà thơ. Cánh đồng mùa
đông bao bọc bởi tuyết khiến mặt đất chỉ còn một màu trắng như tấm vải liệm đầy
tang thương.
Như vậy, qua việc khảo sát 3 bài thơ trên ta thấy có đến 24 động từ, 22 tính
từ và 42 danh từ được sử dụng. Việc sử dụng nhiều danh từ trong thơ như vậy,

43
Esenin nhằm thể hiện tình cảm của mình với quê hương đất nước, ngay cả những
hình ảnh cây cỏ hoa lá nhỏ nhoi cũng được nhà thơ yêu mến. Với 22 tính từ trong
ba bài thơ, ta thấy Esenin đã sử dụng tất cả các giác quan tinh tế để khắc họa biểu
tượng nghệ thuật, miêu tả cảnh sắc thiên nhiên. Và 24 động từ giúp nhà thơ cảm
nhận từng âm thanh, tiếng động, từng trạng thái của sự vật, hiện tượng. Với việc sử
dụng thành công nghệ thuật từ loại vào thể hiện những biểu tượng trong thơ trữ tình
phong cảnh, Esenin đã mang đến cho người đọc một bức tranh sống động và toàn
vẹn về thiên nhiên, cảnh sắc trên cánh đồng nơi làng quê Nga. Thật đúng với tài
năng của ông - thi sĩ cuối cùng của làng quê Nga.
2.2. Nghệ thuật sử dụng màu sắc
Với vai trò là một phương tiện để tái hiện hiện thực và bộc lộ cảm xúc, tâm
trạng, tư tưởng, tình cảm của tác giả, màu sắc có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
nghệ thuật nói riêng và ở văn học nói chung. Màu sắc là một yếu tố của hiện thực,
thuộc về bản chất của sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn như trời xanh, tuyết trắng, máu
đỏ, nắng vàng, nước cất không màu… Màu sắc là một trong các nhân tố làm nên sự
vật, nó không làm nên thế giới nhưng thế giới phải tồn tại dưới nhiều hình thức
trong đó có màu sắc.
Trong thơ Esenin, màu sắc được ông sử dụng tràn ngập, nhất là trong thơ trữ
tình phong cảnh. Có thể nói đó là những bài ca màu sắc. Nhận xét về nghệ thuật sử
dụng màu sắc của Esenin, Mikhailop từng khẳng định: “Màu sắc không chỉ mang
ấn tượng mà chúng chính là hình tượng thẩm mĩ của đất nước, của thế giới giàu có
trong đời sống tinh thần của nhà thơ và là hình vẻ của số phận nhà thơ” [8-tr.74].
Theo thống kê của Lê Hồng Vũ, bảng màu thơ của Esenin có tời 36 màu.
Điều đó cho thấy nghệ thuật sử dụng màu sắc của Esenin rất đa dạng, độc đáo và có
tính sáng tạo riêng biệt. Trong phạm vi đề tài, chúng tôi tiến hành nghiên cứu và
trình bày những màu sắc tiêu biểu, được Esenin sử dụng nhiều nhất khi khắc họa
các biểu tượng nghệ thuật trong thơ trữ tình phong cảnh như màu vàng, màu xanh,
màu trắng, màu đỏ. Qua khảo sát những bài thơ tiêu biểu nhất của Esenin được in
trong tập Thơ Esenin do Thúy Toàn chủ biên chúng tôi thấy màu vàng xuất hiện
nhiều nhất với 41 lần, màu xanh xuất hiện 37 lần, màu trắng 28 lần và màu đỏ 12
lần. Còn trong tổng số 30 bài thơ trữ tình phong cảnh của Esenin mà chúng tôi tiến
hành khảo sát thì màu vàng xuất hiện 19 lần, màu xanh 18 lần, màu trắng 11 lần,
màu đỏ 5 lần, màu bạc 5 lần và màu hồng 4 lần. Rõ ràng, có thể thấy màu vàng là
gam màu chủ đạo trong thơ Esenin.

44
Gắn với biểu tượng cánh đồng là màu vàng báo hiệu một vụ mùa bội thu:
“Những lúa đồng vàng ánh giữa mù sương”
(THÚY TOÀN dịch)
Hình ảnh những cánh đồng lúa chín vàng ẩn mình trong làn sương sớm
chính là biểu tượng của sự no ấm, tràn đầy. Nhưng cũng có khi, đó lại là màu của sự
tàn úa trên cánh đồng, khu rừng:
“Rừng phong thu lặng lẽ nhuộm sắc vàng
Hoa táo trắng đã úa vàng phai nhạt”
(NGUYỄN VIẾT THẮNG dịch)
Màu vàng điểm tô cho những biểu tượng thiên nhiên, choáng ngợp không
gian với nhiều biến hóa. Có khi đó là màu của ánh lửa:
“Những tinh thể cháy sáng
Trong lửa vàng mênh mông”
(ĐOÀN MINH TUẤN dịch)
Có khi lại là màu của vầng trăng được tỏa sáng trong đêm:
“Mảnh trăng non bối rối
Đánh rớt sợi cương vàng”
(THÚY TOÀN dịch)
Esenin không chỉ tô màu vàng cho những vật thể nhỏ bé mà màu vàng còn
được Esenin phủ lên những cánh rừng mùa xuân:
“Cánh rừng tùng xao động
Vàng dát đầy lá cành.”
(THÚY TOÀN dịch)
Đặc biệt hơn nữa, màu vàng còn được Esenin sử dụng trong những so sánh
đầy thú vị:
“Rơm vàng chất từng đống
Như nhà thờ khắp quê”
(THÚY TOÀN dịch)

45
Nếu vàng là một loại kim lọai có giá trị vĩnh hằng thì màu vàng trong thơ
Esenin cũng mang ý nghĩa vĩnh hằng như vậy. Trong niềm tin của đạo Chính thống
giáo ở Nga, màu vàng được sử dụng như một màu linh thiêng: màu vàng kim của
cây Thánh giá trên áo lễ vị linh mục, màu vàng kim của chén Thánh, màu vàng của
đức tin, của đời sống vĩnh cửu nơi thiên đàng. Và như vậy, hình ảnh nhà thờ Nga
vàng gợi lên nỗi nhớ về một nước Nga tôn giáo, nước Nga cổ xưa vẫn luôn thường
trực trong trái tim nhà thơ. Thêm vào đó, theo quan niệm thông thường, Thánh
đường hay nhà thờ là nơi hết sức linh thiêng, con người ta phải tôn kính, phải chiêm
ngắm từ xa nhưng Esenin đã có sự so sánh rất mới, rất lạ. Những ngôi nhà thờ được
ví như rơm rạ được chất thành từng đống khắp trên quê hương. Đây là một hình ảnh
quá đỗi quen thuộc trên làng quê Nga, khi so sánh như vậy, Esenin đã tạo nên sợi
dây gắn bó mật thiết, gần gũi giữa con người với niềm tin tôn giáo.
Khác với màu vàng, màu xanh trong thơ Esenin được dùng để chỉ sự trong
trẻo, tươi mát, màu của sự sống và tuổi trẻ đầy hy vọng. Esenin dùng màu xanh
điểm tô cho thảo nguyên, đồng cỏ:
“Một màu xanh mắt ngắm nhìn thuê thỏa
Một màu xanh mắt tít tắp tận chân mây.”
(THÚY TOÀN dịch)
Tất cả những màu xanh ấy làm bừng sáng bức tranh thiên nhiên Nga, mang
lại nguồn sức sống, bình yên và hy vọng.
Đó còn là màu xanh được tô cho bầu trời và dòng sông:
“Và mặt trời như lưỡi cày màu xanh
Cắt vào dòng sông thu trong vắt”
(NGUYỄN VIẾT THẮNG dịch)
Và cả trận mưa xanh trên khu vườn quê:
“Thấy trận mưa xanh như mát rượi khu vườn.”
(NGUYỄN VIẾT THẮNG dịch)
Với tài nghệ của mình Esenin đã tô vào những hình tượng nghệ thuật màu sắc
biến đổi tài tình, linh hoạt khiến cho những hình tượng trở nên sống động, có hồn:
Màu xanh của nước:
“Nước cũng dần lắng xanh”
(ĐOÀN MINH TUẤN dịch)

46
Xanh của lá:
“Trong vườn xanh hoạ mi đâu có hót”
(ĐOÀN MINH TUẤN dịch)
Màu xanh chỉ màn sương, ánh sáng:
“Màu sương xanh, tuyết trắng trải mênh mông
Ánh trăng sáng màu chanh thanh mảnh”
(ĐOÀN MINH TUẤN dịch)
Lạ lùng hơn cả, là màu xanh dùng để chỉ bóng đêm:
“Đêm xanh lam, đêm ngời trăng sáng”
(THÚY TOÀN dịch)
Rõ ràng, màu xanh trong thơ Esenin biến hóa rất mạnh mẽ. Chính sự biến
hóa này đem đến cảm giác tươi mới cho người đọc khi tiếp cận với các biểu tượng
nghệ thuật trong thơ, góp phần làm trẻ hóa thiên nhiên và đất nước Nga.
Màu trắng trong thơ Esenin là gam màu được sử dụng rất nhiều để khắc họa
hình ảnh tuyết gắn liền với những biểu tượng nghệ thuật, làm nên đặc trưng mùa
đông trên nước Nga.
Đó là những cánh đồng tuyết phủ trắng xóa:
“Có thể không phải mùa đông ngoài nội
Mà thảo nguyên sà trắng cánh thiên nga”
(THÚY TOÀN dịch)
Những hàng bạch dương khi đông đến tuyết ph ủ khắp thân mình:
“Cây bạch dương màu trắng
Bên cửa sổ nhà tôi
Tuyết ôm trùm cành vắng
Như bạc phủ sáng ngời.”
(ĐOÀN MINH TUẤN dịch)
Ngay cả những biểu tượng lớn lao của tạo vật, đất trời cũng được Esenin phủ
lên màu trắng tuyết. Những vầng trăng màu trắng toát của sự tan thương, đau buồn:

47
“Bình nguyên tuyết, vầng trăng trắng toát
Mảnh đất quê vải liệm phủ trắng mình”
(THÚY TOÀN dịch)
Ngoài ra màu đỏ cũng là màu sắc được Esenin sử dụng khá nhiều, phổ biến
nhất là sự phối hợp giữa màu đỏ với màu xanh. Và điều đặc biệt nằm ở chỗ sự phối
hợp ấy không gây cảm giác chói mắt mà mang lại cho biểu tượng một sự khác lạ,
độc đáo. Tiêu biểu là biểu tượng cánh đồng:
“Ôi nước Nga cánh đồng màu đỏ thắm
Và màu xanh ngã xuống giữa lòng sông”
(THÚY TOÀN dịch)
Màu đỏ cũng được Esenin kết hợp với màu trắng tạo cho thiên nhiên một vẻ
đẹp bất ngờ:
“Thanh lương trà nhà mình còn cháy đỏ
Và trên cây khói trắng vẫn phủ mờ?”
“Trên đồng trắng hiện lên màu thắm đỏ”
(NGUYỄN VIẾT THẮNG dịch)
Đó quả thực là những liên tưởng hết sức táo bạo, gây một ấn tượng mạnh mẽ
trong trái tim bạn đọc. Bức tranh thiên nhiên trên đất nước, làng quê Nga hiện ra
một cách chân thực mà rất sống động, tràn đầy màu sắc. Có thể nói màu sắc trong
thơ trữ tình phong cảnh của Esenin là một phương tiện nghệ thuật độc đáo.Thông
qua màu sắc ta có thể cảm nhận được hết vẻ đẹp phong phú của làng quê Nga, cảm
nhận được tâm tư tình cảm của nhà thơ, đồng thời cách sử dụng màu sắc cũng cho
thấy tài năng nghệ thuật độc đáo của Esenin.
2.3. Nghệ thuật đan xen các biểu tượng
Trong thơ trữ tình phong cảnh của mình, Esenin không bao giờ thể hiện một
hình tượng duy nhất mà luôn có sự đan xen độc đáo, đầy dụng ý.
Biểu tượng cánh đồng thường xuất hiện cùng với biểu tượng dòng sông, ngôi
nhà gỗ…
“Một thế giới cho em là cánh đồng ngả rạ
Một thế giới cho em ngôi nhà gỗ trong hồn” [11-tr.115].

48
Việc phối hợp những biểu tượng nghệ thuật tạo nên sự hài hoà của các
đường nét miêu tả cảnh sắc, qua đó bộc lộ tình cảm, thái độ của nhà thơ về cuộc
sống. Cánh đồng là một biểu tượng gợi đến sự ấm no, nhà gỗ gợi lên sự yên bình.
Kết hợp ý nghĩa của hai biểu tượng ấy, ta nhận ra quan niệm, ước mơ của thi sĩ về
một thế giới mới là thế giới ấm no, hạnh phúc và thanh bình.
“Ôi nước Nga, cánh đồng màu thắm đỏ
Và màu xanh ngã xuống giữa lòng sông
Tôi yêu đến vui sướng và đau khổ
Nỗi sầu thương hồ nước trải mênh mông”
(THÚY TOÀN dịch)
Cánh đồng và dòng sông là hai hình ảnh đặc trưng của nước Nga tươi đẹp.
Cánh đồng không hiện lên với vẻ đẹp đượm nét và màu sắc “xanh trong” như dòng
sông mà hiện lên với hương thơm bát ngát. Bằng ngòi bút của mình, Esenin đã vẽ
nên bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, êm ấm.
“Đồng ruộng gặt rồi, rừng trơ trụi
Mặt nước mờ hơi ấm, mù sương
Khuất dần sau màu lam vạt núi
Vầng dương lặng lẽ bánh xe lăn”
(THÚY TOÀN dịch)
Cánh đồng và dòng sông lại một lần nữa song hành với nhau trong những
câu thơ tả cảnh thiên nhiên Nga. Trong những câu thơ này không phải là những
cánh đồng bát ngát hương thơm với màu xanh ngút ngàn nữa mà là cánh “đồng
gặt”. Qua đó có thể thấy nhà thơ không chỉ ngắm nhìn quan sát, cảm nhận cánh
đồng ở một thời điểm, một trạng thái duy nhất mà luôn gắn nó trong sự vận động,
gắn liền với cuộc sống của người dân. Cánh đồng đã đi sâu trong tâm thức của nhà
thơ, man mác nỗi nhớ quê hương, thắm thiết tình người, tình đất nước.
Biểu tượng con đường luôn gắn liền với hình ảnh những rặng liễu xanh
nghiêng mình che bóng mát gợi một nét đẹp hoang dã, nhưng cũng rất thực của
xóm thôn, của làng quê Nga:
“Cảnh nước Nga trong giấc ngủ mơ màng
Bóng dương liễu réo dọc đường mát rượi”
(NGUYỄN VIẾT THẮNG dịch)
Cũng vậy, biểu tượng cây bạch dương không xuất hiện độc lập, đơn lẻ, duy
nhất mà luôn gắn với ngôi nhà gỗ, con đường làng, chiếc cầu gỗ, và những thung
lũng ngập đầy hương sắc...

49
“Cây bạch dương màu trắng
Bên cửa sổ nhà tôi”
(ĐOÀN MINH TUẤN dịch)
Hình ảnh cây bạch dương gợi lên một niềm vui ấm áp, ngôi nhà gỗ gợi lên
sự ấm cúng, có gì đó cổ kính thân thương. Tất cả đều thể hiện phần nào những cảm
nhận, suy ngẫm của nhà thơ về cuộc sống, đồng thời bộc lộ ước mơ của nhà thơ.
Sự kết hợp giữa biểu tượng ánh trăng với ngôi nhà gỗ cũng là những sự đan
xen tuyệt vời:
“Trăng mênh mông huyền diệu
Chiếu thẳng xuống mái nhà “
(ĐOÀN MINH TUẤN dịch)
Cảnh vật ban đêm trở nên trong sáng hơn với ánh sáng huyền diệu của ánh
trăng tỏa ra khắp mái nhà, xóm thôn. Cảnh làng thôn vốn êm ả và nó càng êm ả hơn
khi đêm về, chính sự êm ả ấy đã tạo nên một vẻ đẹp nên thơ và rất Nga. Ánh trăng
và mái nhà một lần nữa xuất hiện song hành với nhau trong ngòi bút miêu tả thiên
nhiên của Esenin. Điều này cho người đọc thấy được cảnh vật nơi làng quê rất
thanh bình và tĩnh lặng. Mái nhà gỗ là nơi ấm áp thân thương của thôn xóm, ánh
trăng đem lại nét đẹp thanh bình của làng thôn. Hai biểu tượng này kết hợp khéo
léo, bổ sung ý nghĩa cho nhau. Ánh trăng góp phần làm tăng thêm vẻ đẹp thơ mộng
của ngôi nhà, nó soi rọi khắp xóm thôn, cảnh vật.
Như vậy, các biểu tượng nghệ thuật trong thơ trữ tình phong cảnh của Esenin
không xuất hiện độc lập, đơn lẻ, duy nhất mà luôn có sự gắn kết, đan xen giữa các
biểu tượng tạo nên sự hài hòa trong bức tranh thiên nhiên cảnh sắc. Đồng thời bộc lộ
cách chân thực, ấn tượng tình cảm và thái độ của nhà thơ đối với cuộc sống. Tất cả
đều gợi lên một ước mơ về cuộc sống thanh bình, hạnh phúc cho quê hương đất nước.
2.4. Nghệ thuật nhân cách hóa
Với thời gian sống chỉ bằng 1/3 kiếp người nhưng Esenin là một người từng
trải và rất nhạy cảm. Mỗi biểu tượng nghệ thuật trong thơ trữ tình phong cảnh của
Esenin không chỉ hiện ra với những màu sắc, âm thanh, trạng thái đa dạng, phong
phú mà ngòi bút của thi sĩ còn vận dụng thành công biện pháp nhân cách hóa trong
khắc họa biểu tượng. Biện pháp này đem lại cho những biểu tượng nghệ thuật trong
thơ trữ tình phong cảnh của Esenin vẻ đẹp tâm hồn và tràn đầy sức sống như mang
tâm sự của con người: “mảnh trăng non bối rối”, “bão tuyết khóc”, “cây thánh giá
đứng âu sầu”, hay hình ảnh cây bạch dương: “Cây bạch dương đứng đấy, Trong

50
giấc ngủ mơ màng”, hình ảnh cánh rừng: “Buông tấm màn xanh thẫm, Rừng che
cảnh bần hàn”, hay hình ảnh “Những đám mây được đem làm dấu Thánh, Rừng
thông thở ra làn khói ngọt ngào.”,…
Trước khung cảnh của ánh nắng chan hòa khi bình minh lên, Esenin cảm
nhận như nó đang tưới đầm ánh sáng xuống những “luống dài bắp cải”. Nhờ cách
nói nhân hóa đó mà biểu tượng cánh đồng hiện lên rất lạ, rất mới:
“Nơi bình minh nghiêng đổ nước hồng
Tưới đầm những luống dài bắp cải
Cây phong non ngửng đầu chới với
Bú dòng sữa mẹ, sữa màu xanh”
(THÚY TOÀN dịch)
Màu xanh là màu của sự sống, của cuộc sống. Từ một hiện tượng thiên nhiên
rất bình thường: cây hướng về phái ánh nắng để hấp thu khí để quang hợp và lớn
lên, liên tưởng đầy sáng tạo của nhà thơ đã nhìn thấy cây phong non như một đứa
trẻ đang bú dòng sữa mẹ, đang tận hưởng hơi thở từ dòng “sữa màu xanh” của cuộc
để lớn lên, trưởng thành.
Thiên nhiên và con người luôn có mối liên hệ mật thiết, gắn bó với nhau. Bởi
vậy mà lúc vui, lúc buồn nhà thơ luôn thấy mỗi biểu tượng đều sống động, mang
tâm trạng của con người. Khi viết về cảnh bần hàn nghèo khó của quê hương, nhà
thơ cảm thấy cánh rừng cũng có sự đồng cảm với con người như hình ảnh:
“Buông tấm màn xanh thẫm
Rừng che cảnh bần hàn
Tôi thầm lén cầu nguyện
Cho số kiếp quê hương”
(THÚY TOÀN dịch)
Hay hình ảnh con đường gồ ghề, khấp khểnh đắm chìm trong giấc mộng và
biểu tượng cánh đồng nằm mê ngủ, cảm thấy “mơ mơ” rằng thời khắc giao mùa từ
thu sang đông sắp đến. Con đường ấy, cánh đồng ấy cũng có những trạng thái như
con người, biết mơ mộng và cũng cảm thấy được sự chuyển đổi của thời gian:
“Dặm đường khấp khểnh chìm trong mộng.
Bữa nay đồng bỗng thấy mơ mơ:
Chả còn phải đợi chờ mấy nữa
Mùa đông tóc bạc lại sắp về.”
(THÚY TOÀN dịch)

51
Nhìn qua gỗ thông dường như đang khoác áo choàng, cây phong non biết reo
vui cùng với gió, cảnh vật xung quanh:
“Nhà gỗ thông khoác áo choàng tượng Chúa
Cây phong non gầy guộc lá reo vui”
(THÚY TOÀN dịch)
Trong một bài thơ mà có 3 biểu tượng thiên nhiên được nhân hóa: cánh rừng
cũng xao động, xốn xang, những cây thông mơ màng, những chú chim huýt sáo,
rặng thùy liễu nghiêng tai nghe ngóng, tất cả đều hòa giọng, đều lắng nghe và đau
xót cùng với con người về cái nghèo, cái khổ của quê hương:
“Cánh rừng tùng xao động
Vàng dát đầy lá cành”
“Thâm u thông mơ màng”
“ Tiếng sáo huýt trên cành
Thùy liễu nghiêng tai hóng,…
Miền quê bị lãng quên
Miền quê ơi mến thương”.
(THÚY TOÀN dịch)
Qua việc sử dụng thành công biện pháp nhân cách hóa kết hợp với việc miêu
tả thiên nhiên nhiều màu sắc, ngôn ngữ giản dị nhưng đầy sáng tạo với những kết
hợp tài tình, các biểu tượng nghệ thuật trong thơ trữ tình phong cảnh của Esenin trở
nên rất sinh động và có hồn, mang tâm trạng và đồng cảm với con người. Chính bởi
tài năng tuyệt vời đó mà Esenin được đánh giá là nhà ảo thuật của phong cảnh Nga.
2.5. Không gian - thời gian nghệ thuật
Trong văn học nói chung và trong thơ ca nói riêng, yếu tố không gian và thời
gian nghệ thuật là hai yếu tố rất mực quan trọng để khắc họa biểu tượng và làm nổi
bật tư tưởng, tình cảm của tác giả. Trong bức tranh phong cảnh trữ tình của Esenin,
hai yếu tố không gian và thời gian nghệ thuật được ví như màu nền tươi sáng làm
nổi bật những biểu tượng thơ.
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”, không gian nghệ thuật là “hình thức bên
trong của hình tượng nghệ thuật, thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần
thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong
trường nhìn nhất định, qua đó thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ toàn bộ
quảng tính của nó: cái này bên cạnh cái kia, liên tục, cách quãng, tiếp nối, cao,
thấp, xa, gần, rộng, dài, tạo thành viễn cảnh nghệ thuật. Không gian nghệ thuật gắn

52
với cảm thụ về không gian, nên mang tính chủ quan. Ngoài không gian vật thể, có
không gian tâm tưởng.” Do đó không gian nghệ thuật trong văn học “có tính độc
lập tương đối, không quy được vào không gian địa lý”. Khi một nhà văn, nhà thơ sử
dụng thành công các yếu tố không gian nghệ thuật sẽ có tác dụng có tác dụng “mô
hình hoá các mối liên hệ của bức tranh thế giới như thời gian, xã hội, đạo đức, tôn
ti trật tự” [6-tr.160].
“Các cặp phạm trù cao - thấp, xa - gần, rộng - hẹp, cong - thẳng, bên này -
bên kia, vững chắc - bập bênh, ngay - lệch,… đều được dùng để biểu hiện các phạm
vi giá trị phẩm chất của đời sống xã hội. Không gian nghệ thuật chẳng những cho
thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng, mà còn cho
thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay của một giai đoạn
văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên
cứu loại hình của các hình tượng nghệ thuật.” [6-tr.161].
Trong thơ trữ tình phong cảnh của Esenin không gian nghệ thuật luôn có sự
vận động, thay đổi rất tài tình. Đó là hình ảnh của những cánh rừng bạt ngàn và
nước mênh mông trong không gian vô tận của thiên nhiên:
“Rừng mênh mông và nước mênh mang
Đôi cánh vẫy trong không gian vô tận”
(THÚY TOÀN dịch)
Rồi có khi là không gian của làng quê Nga với dòng sông, cánh rừng và cả sự
xuất hiện của con người:
“Bên kia sông xa nữa
Chừng như sau bìa rừng
Lão gác đêm ngái ngủ
Mõ tuần thảng thốt buông”
(THÚY TOÀN dịch)
Có khi không gian thu hẹp lại trên cánh đồng với sự vận động của thiên
nhiên làm say đắm lòng người:
“Cỏ non như lụa đầu nghiêng xuống
Trời đất thơm lừng hương nhựa thông
Ôi đám cây rừng, ôi bãi ruộng
Ngây ngất lòng ta say bước xuân.”
(THÚY TOÀN dịch)
Rõ ràng, không gian nghệ thuật trong thơ Esenin luôn vận động, mỗi biểu
tượng lại xuất hiện trong những không gian nghệ thuật khác nhau. Có khi một biểu

53
tượng cũng xuất hiện với rất nhiều không gian nghệ thuật. Chính nhờ sự vận động
ấy của không gian nghệ thuật mà những biểu tượng trong thơ trữ tình phong cảnh
của Esenin dù rất gần gũi, đời thường nhưng luôn hiện ra rất tươi mới và ấn tượng
trước mắt người đọc.
Thêm một yếu tố khác nữa để thể hiện tài năng của Esenin là thời gian nghệ
thuật. Thời gian nghệ thuật là “hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật, thể hiện
tính chỉnh thể của nó. Cũng như không gian nghệ thuật, sự miêu tả, trần thuật trong
văn học nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời
gian. Và cái được trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua
thời gian nhất định. Sự phối hợp của hai yếu tố thời gian này tạo thành thời gian
nghệ thuật một hiện tượng ước lệ chỉ có trong thế giới nghệ thuật.” [6-tr.322].
Một điểm khác của thời gian nghệ thuật so với thời gian được đo bằng đồng
hồ và lịch là “thời gian nghệ thuật có thể đảo ngược, quay về quá khứ, có thể bay
vượt tới tương lai xa xôi, có thể dồn nén một khoảng thời gian dài trong chốc lát,
lại có thể kéo dài cái chốc lát thành vô tận” [6-tr.322]. Theo đó, tác dụng của thời
gian nghệ thuật là “phản ánh sự cảm thụ thời gian của con người trong từng thời kỳ
lịch sử, từng giai đoạn phát triển. Nó cũng thể hiện sự cảm thụ độc đáo của tác giả
về phương thức tồn tại của con người trong thế giới. Trong thế giới nghệ thuật, thời
gian nghệ thuật xuất hiện như một hệ quy chiếu có tính tiêu đề được giấu kín để
miêu tả đời sống trong tác phẩm, cho thấy đặc điểm tư duy của tác giả.” “Phạm trù
thời gian nghệ thuật cung cấp một cơ sở để phân tích cấu trúc bên trong của hình
tượng văn học, cũng như nghiên cứu loại hình các hiện tượng nghệ thuật trong lịch
sử.” [6-tr.323].
Trong thơ trữ tình phong cảnh của Esenin thời gian nghệ thuật cũng có sự vận
động, song hành cùng không gian nghệ thuật, mở đường cho những biểu tượng
nghệ thuật đi vào trang thơ. Đất trời vạn vật chu chuyển qua bốn mùa: Xuân, hạ,
thu, đông. Thì những biểu tượng nghệ thuật trong thơ trữ tình phong cảnh của
Esenin cũng được khắc họa qua bốn mùa như vậy.
Mùa xuân đến cây cối vạn vật đâm chồi nảy lộc, muôn hoa khoe sắc thơm hương.
Vẻ đẹp sáng ngời lung linh của cánh rừng, đồng ruộng cùng với hương sắc ngào ngạt
tạo nên một bản giao hưởng thiên nhiên tuyệt diệu khiến lòng người say đắm:
“Cỏ non như lụa đầu nghiêng xuống
Trời đất thơm lừng hương nhựa thông
Ôi đám cây rừng, ôi bãi ruộng
Ngây ngất lòng ta say bước xuân.”
(THÚY TOÀN dịch)

54
Khi hè đến, những cánh đồng lúa chín vàng, hàng bạch dương xanh thắm, thả
hồn trong gió đẹp đến mê đắm khiến thi sĩ phải thốt lên:
“Tôi mê chiều nay lắm
Cánh đồng vàng yêu thương
Gió trẻ cuốn vạt áo
Đến vai cây bạch dương”
(TẾ HANH dịch)
Sự thay đổi mùa trong thơ trữ tình phong cảnh của Esenin diễn ra rất tinh tế.
Mùa thu đến cũng là lúc thiên nhiên có sự thay đổi: Dòng sông không còn trong vắt
mà chuyển sang màu “hồng thắm” điểm thêm vào đó là những chiếc lá vàng bay
lượn trên bầu trời, những cánh đồng vàng trải dài tít tắp, tạo nên bức tranh mùa thu
vàng - đặc trưng của nước Nga:
“Trên nước hồ hồng thắm
Lá vàng bay lộn nhào
Như từng đàn bướm lượn
Bay đến tận trời cao”
(THÚY TOÀN dịch)
Trong thơ thơ trữ tình phong cảnh của Esenin mỗi mùa nước Nga lại thay một
bức tranh thiên nhiên mới và bức tranh mùa đông và mùa nào cũng đẹp. Mùa đông
tuyết phủ kín khắp cả cánh đồng như ngàn con thiên Nga trắng:
“Có thể không phải mùa đông ngoài nội
Mà thảo nguyên xà trắng cánh thiên nga”
(THÚY TOÀN dịch)
Không chỉ thành công khi miêu tả sự luân chuyển của các biểu tượng nghệ
thuật qua các mùa trong năm mà trong thơ thơ trữ tình phong cảnh Esenin còn tạo
nên những nét vẽ sống động của những biểu tượng thiên nhiên qua các thời điểm
trong ngày.
Đó là bình minh trên cánh đồng quê tràn ngập ánh nắng:
“Nơi bình minh nghiêng đổ nước hồng
Tưới đầm những luống dài bắp cải
Cây phong non ngửng đầu chới với
Bú dòng sữa mẹ, sữa màu xanh.”
(THÚY TOÀN dịch)
Khi chiều đến, những biểu tượng nghệ thuật như được Esenin khoác lên một
tấm áo mới:

55
“Tôi mê chiều nay lắm
Cánh đồng vàng yêu thương
Gió trẻ cuốn vạt áo
Đến vai cây bạch dương”
(TẾ HANH dịch)
Đối trọng lại với bình minh là buổi chiều “hoàng hôn đỏ thắm” :
“Bóng hoàng hôn là là sà xuống thấp
Trên mái trong tầng tầng lớp nhà thờ.”
(THÚY TOÀN dịch)
Và khi đêm đến, vạn vật như tĩnh lại: dòng sông thiu thiu ngủ, rừng thông
vắng tiếng rì rào, chim chóc, muông thú cũng im lặng,... Tất cả như đắm mình trong
ánh trăng lung linh, huyền ảo:
“Đêm. Bốn bề tĩnh lặng
Vạn vật ngủ ngon lành
Chỉ còn trăng lấp lánh
Rắc bạc đều xung quanh...”
(TRẦN ĐĂNG KHOA dịch)
Tự nhận mình là thi sĩ cuối cùng của làng quê Nga, Esenin đã thể hiện một
cách tuyệt vời những biểu tượng nghệ thuật trong thơ trữ tình phong cảnh. Việc sử
dụng không gian nghệ, thời gian nghệ thuật kết hợp với việc miêu tả thiên nhiên đầy
màu sắc, đã giúp cho nhà thơ thể hiện được vẻ đẹp nơi làng quê Nga với những biểu
tượng nghệ thuật hết sức giản dị nhưng cũng không kém phần độc đáo, mới lạ. Qua
đó nhà thơ thể hiện tình cảm của mình về nỗi buồn cho sự tiếc nuối thời gian và
không gian trôi qua nhanh. Buổi sáng biểu tượng thiên nhiên tươi đẹp, cảnh vật lung
linh, đầy màu sắc và hạnh phúc, buổi chiều thì buồn bã, tiếc nuối thời gian. Theo
chiều dài của thời gian và chiều rộng của không gian làng quê Nga Esenin đã bộc lộ
cách chân thực tình yêu chân thành của nhà thơ với thiên nhiên, làng quê, đất nước
Nga. Bên cạnh đó, cách sử dụng biện pháp nghệ thuật này giúp cho đọc giả nhận ra
đặc điểm và tài năng nghệ thuật xuất sắc của Esenin.
Như vậy, qua những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, Esenin đã xây dựng thành
công những biểu tượng nghệ thuật đặc sắc trong thơ trữ tình phong cảnh. Thơ
Esenin ảnh hưởng phong cách, giọng điệu dân gian Nga nên thanh thoát và trong
trẻo. Âm điệu thơ Esenin uyển chuyển, mượt mà, ngôn ngữ thơ của ông rất đẹp, tinh
tế, những hình ảnh thơ giàu ý nghĩa biểu tượng, gợi cảm xúc sâu xa. Với những
đóng góp đó, ông đã trở thành niềm tự hào về thơ ca của người Nga, cùng với
những tên tuổi như Puskin, Gorki, Leptonxtoi,…

56
KẾT LUẬN

Với 30 năm tuổi đời cùng với hơn 10 năm hoạt động văn học tích cực Esenin
đã để lại 1 di sản đồ sộ với những áng thơ tuyệt đẹp và phương thức nghệ thuật độc
đáo. Nghiên cứu về thơ Esenin, khám phá những giá trị nội dung và nghệ thuật trên
mảng thơ trữ tình phong cảnh, chúng tôi đi đến kết luận sau đây:
1. Qua các biểu tượng nghệ thuật trong thơ trữ tình phong cảnh của Esenin, ta
có thể cảm nhận được phần nào những cảm nhận, suy ngẫm của nhà thơ về cuộc
sống, con người, nhận ra những nét đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng biểu tượng
phong cảnh của nhà thơ.
2. Biểu tượng nghệ thuật trong thơ trữ tình phong cảnh của Esenin rất đa dạng
và phong phú. Có những biểu tượng biểu trưng cho vẻ đẹp Nga, tâm hồn Nga, bộc
lộ một cách chân thực tình yêu của nhà thơ như biểu tượng cánh đồng, biểu tượng
cây bạch dương, biểu tượng ánh trăng và một số biểu tượng khác như ngôi nhà gỗ,
dòng sông, cánh rừng. Những biểu tượng như nhà thờ, tháp chuông, thánh giá,... là
những biểu tượng mang ý nghĩa gợi nhớ về đời sống văn hóa, tinh thần - linh hồn
của đồng quê Nga. Rõ ràng có thể thấy qua những biểu tượng nghệ thuật trong thơ
trữ tình phong cảnh của Esenin người đọc sẽ thấy được một bức tranh toàn vẹn về
thiên nhiên, cuộc sống con người, đời sống văn hóa, tâm linh của nhân dân Nga và
thấu hiểu được những suy nghĩ, cảm nhận của nhà thơ trước cuộc đời và con người.
3. Về mặt nghệ thuật, thơ trữ tình phong cảnh của Esenin đã bộc lộ tài năng
sáng tạo độc đáo của nhà thơ trong xây dựng biểu tượng. Nghệ thuật sử dụng ngôn
ngữ tài tình, các hình ảnh có tính biểu tượng cao, đa dạng màu sắc, nghệ thuật đan
xen biểu tượng, biện pháp nhân cách hóa biểu tượng và nghệ thuật sử dụng không
gian, thời gian nghệ thuật để khắc họa các biểu tượng nghệ thuật là những sáng tạo
độc đáo nhất. Đó là những phương thức nghệ thuật góp phần khắc họa các biểu
tượng đồng thời cũng là những yếu tố thể hiện rõ nhất sự tinh tế trong tâm hồn thi sĩ
Esenin. “Esenin đối với cuộc đời mình, như đối với một câu chuyện thần thoại. Thơ
mình ông cũng viết bằng những cách thức thần thoại, khi thì như rút từ cỗ bài ra,
rải quân để bói bài tây bằng ngôn từ, khi lại ghi lại chúng bằng máu của trái tim.”
(B.L. Paxternak) [4-tr.253].
Thơ Esenin đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học Nga nói
riêng và thơ ca nhân loại nói chung. Chính vì thế mà bất kể cuộc đời ngắn ngủi
cũng như chặng đường sáng tác không quá dài, tên tuổi của nhà thơ Esenin cùng
những vần thơ tuyệt vời của ông vẫn chiếm trọn trái tim bạn đọc bao thế hệ. Cũng

57
bởi tài năng của ông mà hơn một lần nhà vô sản vĩ đại M. Gorki đã phát biểu:
“Không thể đem giấu Sergei Esenin đi, không thể xóa bỏ anh khỏi hiện thực của
chúng ta”. Điều M. Gorki nói cách đây hơn nửa thế kỷ đã trở thành hiện thực. Vị trí
của Esenin trong trái tim độc giả ngày càng được khẳng định. Nhân kỷ niệm 100
năm ngày sinh Esenin viện Đuma quốc gia Nga kêu gọi: “Esenin chính là nước
Nga, là tâm hồn Nga, là trái tim Nga”. Nhà thơ được coi là danh nhân văn hóa, đại
biểu lỗi lạc của nền văn học Nga vĩ đại.
Nghiên cứu thơ của một nhà thơ nước ngoài là một công việc không dễ dàng
với một sinh viên không có sự am hiểu sâu về tiếng nói dân tộc của nhà thơ ấy. Đề tài
nghiên cứu của chúng tôi chắc chắn còn nhiều thiếu sót, song hy vọng sự mạnh dạn
và những kết quả còn khiêm tốn này sẽ bù đắp cho những sơ xuất của chúng tôi.

58
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Bakhtin.M.M (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư (tuyển
chọn, dịch và giới thiệu), Nxb Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
[2]. Cheavaillier.J, Gheerbrant.A (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Phạm
Vĩnh Cư (Chủ biên), Nxb Đà Nẵng trường viết văn Nguyễn Du, Đà Nẵng.
[3]. Nguyễn Kim Đính, Hoàng Ngọc Hiến, Huy Liên (1983), Lịch sử văn học Xô
Viết (Quyển 1, tập 1), Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
[4]. Esenin.S.A (1995), Thơ Esenin, Thúy Toàn (chủ biên), Nxb Văn học, Hà Nội.
[5]. Nguyễn Hải Hà (chủ biên), (2002), Văn học Nga sự thật và cái đẹp, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
[6]. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2009), Từ điển
thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[7]. Hà Thị Hòa (2007), Văn học Nga trong nhà trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[8]. Đào Thị Anh Lê (2003), Thơ trữ tình phong cảnh Esenin, Luận văn Thạc sĩ, Đại
học sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
[9]. Phạm Thị Lịch (2009), Tình yêu trong thơ Esenin, Luận văn Thạc sĩ, Đại học sư
phạm Hà Nội, Hà Nội.
[10]. Phương Lựu (chủ biên), (2006), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[11]. Vũ Tiến Quỳnh (1995), Bình luận văn học: Macxim Gorki, Essenin, TS.
Aitmatov, Ostrovski, Nxb Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
[12]. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[13]. Đoàn Minh Tuấn (1995) Tiểu sử tự thuật của Esenin, Nxb Văn học, Hà Nội.
[14]. Hoàng Trinh (1938), “Thơ và hình thức thơ”, Tạp chí văn học, số 3.
[15]. http://nguoixunghekiev.vn/serviceView_323_361_31978.html
[16]. http://nhac.vui.vn/canh-dong-nga-nhieu-ca-sy-m22372c55p122.html
[17]. https://vi.glosbe.com/vi/ru/c%C3%A1nh%20%C4%91%E1%BB%93ng
[18]. shttps://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1nh_%C4%91%E1%BB%93ng
PHỤ LỤC
Khảo sát trên tập “thơ Esenin” - Thúy Toàn chủ biên (1995) - Nhà xuất bản
Văn học Hà Nội
Bảng 1: Thống kê tần số biểu tượng nghệ thuật xuất hiện trong thơ trữ
tình phong cảnh của Esenin:

Tần số xuất hiện


STT Hình tượng nghệ thuật
(số bài/30 bài)

1. Cánh đồng 25
2. Ánh trăng 19
3. Cánh rừng 18
4. Ngôi nhà gỗ 15
5. Bạch dương 14
6. Sương mù 12
7. Cỏ cây 12
8. Dòng sông 12
9. Con đường 10
10. Mặt trời 9
11. Ánh lửa 7
12. Nhà thờ 7
13. Anh đào 6
14. Vì sao 5
15. Cây thông 4
16. Thiên đường 3
17. Mây 2
18. Cây thánh giá 2
19. Áo choàng 1
20. Thiên thần 1
BẢNG 2: THỐNG KÊ NHỮNG BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT ĐƯỢC
SỬ DỤNG TRONG THƠ TRỮ TÌNH PHONG CẢNH CỦA ESENIN

Tên bài thơ Bản dịch Những hình tượng nghệ thuật
được sử dụng

“Chiều tối rồi. Lấp Thúy Toàn dịch Sương, đường, ánh trăng, ngôi nhà,
lánh...” ngọn lửa, cây bạch dương, cánh
rừng, dòng sông

“Nơi bình minh nghiêng Thúy Toàn dịch Nước, cây phong,
đổ nước hồng”
“Anh đào hãy rụng rơi Thúy Toàn dịch Anh đào, cỏ, cây thông, cánh rừng,
như tuyết” cánh đồng

“Lũ xuân như làn khói” Thúy Toàn dịch Ánh trăng, nhà thờ, cánh rừng

“Cây bạch dương màu Đoàn Minh Cây bạch dương, ngôi nhà, ánh lửa,
trắng” Tuấn dịch mặt trời

“Ôi nước Nga thân thiết Thúy Toàn dịch Nước Nga, nhà gỗ, tượng Chúa,
của tôi ơi” cánh đồng, cây phong, nhà thờ, cỏ
thảo, thiên đường

“Miền quê ta hoang Thúy Toàn dịch Đồng cỏ, rừng cây, nhà tu, ngôi nhà,
vắng” anh đào, gió

“Đầm lầy xen bãi trũng” Thúy Toàn dịch Trời, cánh rừng, cây thông, cây cỏ,
cỗ xe, thảo nguyên

“Mây rua đăng ten trong Thúy Toàn dịch Cánh rừng, con đường, nhà ngục
rừng cây”

“Sau mái tóc đen đám Thúy Toàn dịch Cánh rừng, ánh trăng, cỏ lan, hồ
rừng non” nước, thảo nguyên, anh đào, núi, ánh
lửa, đám mây

“Tôi lại về. Trong gia Thúy Toàn dịch Ngôi nhà, núi, sương, nhà thờ, dòng
đình thân thuộc” sông

“Cỗ xe ngựa rão mòn lên Thúy Toàn dịch Cỗ xe, bình nguyên, bờ bãi, miếu
tiếng hát” thờ, cây thánh giá, gác chuông, cánh
đồng, dòng sông, sương, cỏ
“Đồng ruộng gặt rồi, Thúy Toàn dịch Cánh đồng, cánh rừng, sương, núi,
rừng trơ trụi” sông, mặt trời, trăng
“Trên mặt tuyết đầu mùa Thúy Toàn dịch Con đường, vì sao, rừng cây, gió,
tôi thơ thẩn” thảo nguyên, cây phong
“Ôi, tôi tin, tôi tin, đời, Thúy Toàn dịch Mặt trời, gió, dòng nước, vì sao
hạnh phúc!”
“Những bài hát của tôi Tế Hanh dịch Bầu trời, vì sao, cỏ, ánh trăng, con
ơi” đường
“Mái tóc xanh” Anh Ngọc dịch Cây bạch dương, vầng trăng, vì sao
“Trên nước hồ hồng Tế Hanh dịch Hồ nước, bầu trời, cánh đồng, cây
thắm” bạch dương, sương
“Suốt mùa thu cú rúc Đoàn Minh Con đường, thảo nguyên, cánh rừng
suốt mùa thu” Tuấn dịch
“Màn sương xanh, tuyết Đoàn Minh Sương, ánh trăng, ngôi nhà, núi,
trắng trải mênh mông” Tuấn dịch nghĩa trang
“Bình nguyên tuyết, Thúy Toàn dịch Bình nguyên, vầng trăng, bạch
vầng trăng trắng toát” dương
Đêm Đăng Bẩy dịch Dòng sông, rặng thông, vầng trăng,
đồng cỏ.
Mặt trời mọc Đăng Bẩy dịch Mặt trời, bầu trời
Mùa đông Đăng Bẩy dịch Mây
BẢNG 3: THỐNG KÊ MÀU SẮC CỦA MỘT SỐ BIỂU TƯỢNG TRONG
THƠ TRỮ TÌNH PHONG CẢNH CỦA ESENIN

Màu sắc Số lần xuất Biểu tượng nghệ thuật


hiện
Màu vàng 19 Cánh đồng, ánh trăng, cánh rừng, ánh lửa,
nhà thờ, bầu trời, cây phong
Màu xanh 18 Cánh đồng, mặt trời, Anh đào, cây phong,
cánh rừng, bầu trời, mây, cây bạch dương,
sương, trăng
Màu trắng 11 Cây bạch dương, ngôi nhà, sương, nhà thờ,
cánh đồng, nghĩa trang
Màu đỏ 5 Cánh đồng, ánh lửa
Màu bạc 5 Ánh trăng, dòng sông, cánh đồng
Màu hồng 4 Ánh lửa, nước hồ, mặt trời

You might also like